phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Trong một chương trình trên Đài truyền hình gần đây, Phoenix được xem giới thiệu về một ngôi mộ cổ ở Trung Quốc khi khai quật còn tìm kiếm được các loại đồ dùng cách đây khoảng 2000 năm. Trong đó ngoài đồ gốm, sơn mài thì vải vóc và quần áo cũng còn khá nguyên vẹn. Gồm nhiều thứ: bao tay, tất, giầy, đặc biệt có những tấm áo khoác bằng tơ, tuy đơn giản nhưng chất liệu thì cực kỳ tuyệt vời. Phải nói các giai nhân giàu có hiện nay mà nghe thông tin bán đấu giá cũng phải cố mua cho bằng được. Hơn 2000 năm ở Trung Quốc đã có những đồ dùng sinh hoạt tuyệt vời như vậy thì không thể nói hai ngàn năm trước dân Việt nam "cởi trần đóng khố" với đời sống thô sơ hoang dại. Chưa nói là lịch sử Việt Nam có thể được chứng minh lâu đời hơn cả 5000 năm.
  2. Một người dân TP HCM bắt được con rắn 2 chân Thứ sáu, 11/7/2008, 10:06 GMT+7 Ngày 9/7, anh Nguyễn Văn Kỳ, 38 tuổi, quê quán Bắc Ninh, ngụ đường Nguyễn Văn Quá, phường Tân Hưng Thuận, quận 12, TP Hồ Chí Minh đã bắt được một con rắn có 2 chân. Sự việc gây xôn xao dư luận. Theo anh Kỳ, con rắn trên là rắn hổ mang, thuộc dòng hổ Vểnh, chiều dài đo được khoảng 2 mét, nặng 1,3 kg. Anh Nguyễn Văn Kỳ bên con rắn hai chân Quan sát của chúng tôi, vị trí hai chân của con rắn nằm cách đuôi khoảng 40 cm, ước tính diện tích mỗi bàn chân khoảng 1 cm². Ở mỗi bàn chân khoảng hơn chục ngón chân và có móng sắc bén. Ngay sau khi bắt được con rắn trên, do không biết con rắn có chân, anh Kỳ đã rạch bụng con rắn, đến khi gần đến đôi bàn chân mới phát hiện mình đang giữ con rắn quý. Cụ ông Nguyễn Văn Trụ, 80 tuổi, thân sinh của anh Kỳ, khẳng định: “Theo kiến thức về nghề rắn thì đây là con rắn cực độc do những đắc tính của cơ thể con rắn khác thường”. Anh Nguyễn Văn Kỳ là đời thứ 3 trong gia đình theo nghề bắt rắn. Anh cho biết thêm: “Tôi bắt đầu đi giăng lưới bắt rắn từ năm 16 tuổi, đến nay đã hơn 20 năm. Tuy nhiên với những con rắn dị dạng như trên thì chưa lần nào gặp”. Anh Kỳ mong muốn, với tổ chức nghiên cứu về động vật bò sát này có nhu cầu anh sẽ sẵn sàng hợp tác. Có nhiều người ngỏ ý anh bán con rắn trên để phục vụ cho nhu cầu “ẩm thực” nhưng anh không bán.
  3. Nguồn:http://tintuconline.com.vn/ Sự thực về con rắn hai chân? Vừa qua, người dân TP kháo nhau về sự xuất hiện của con rắn hai chân tại nhà anh Nguyễn Văn Kỳ, ngụ phường Tân Hưng Thuận, quận 12, TP Hồ Chí Minh. Để tìm hiểu về con rắn “kỳ lạ” này, chúng tôi đã tìm gặp nhóm chuyên nghiên cứu về sinh vật rừng Việt Nam... Sự xuất hiện của con rắn kỳ lạ Theo anh Nguyễn Văn Kỳ thì vừa qua anh đã bắt được một con rắn có hai cái chân. Quan sát của chúng tôi, đúng là có hai vật tựa như chi sau của con rắn. Ước chừng khoảng 1 cm2 và có hình khối với nhiều sợi tua tủa như thể những móng chân của con rắn. Anh Kỳ cho biết thêm là với trên 20 năm trong nghề bắt rắn của mình thì chưa khi nào anh gặp con rắn có những hình thù kỳ dị trên. Sau khi bắt được con rắn này, anh đã gọi điện thoại về cho thân sinh của mình là ông Nguyễn Văn Trụ tại Bắc Ninh để hỏi chuyện và cũng được biết là chưa khi nào gặp loài rắn như trên. Theo chúng tôi quan sát, con rắn lạ này có chiều dài khoảng 2 mét, nặng khoảng 1,3 kg. Khoảng cách từ đuôi con rắn đến “hai chi” (cách gọi của anh Kỳ) ước chừng 40 cm. Thân con rắn có màu xánh đen phía trên lưng và màu trắng hoàn toàn bình thường như những con rắn khác. Cận cảnh “hai chân” con rắn Vật thể được gọi là hai chân có màu nâu nhạt, có nhiều tua nhỏ và dài. Có thể được ví như những ngón chân khiến mọi người khi quan sát có vẻ thuyết phục đây đích thực là hai chi của con rắn. Sau khi bắt được con rắn, do không để ý vì nghĩ như mọi con rắn khác, anh Kỳ đã mổ bụng con rắn. Đến khi mổ đến cách đuôi 0,5 mét thì phát hiện ra con rắn có hai chân. Anh cho biết rất lấy làm tiếc khi phải mổ bụng con rắn trên vì cho rằng mình đã bắt được loài giống quý hiếm. Cũng từ đây, việc bắt được con rắn quý hiếm này đã lan truyền trong xóm và nhiều người đã tìm đến anh Kỳ để xem con rắn. Hai chân sau chỉ là… “bộ phận sinh dục” Qua những mô tả và dựa vào những hình ảnh do chúng tôi cung cấp, các nhà khoa học đã cho biết sự thật về “chân” của loài bò sát này như người dân và chúng tôi nghĩ ban đầu. Theo ông Phùng Mỹ Trung, nhà nghiên cứu khoa học độc lập và là admin của website Sinh vật rừng Việt Nam www.vncreatures.net thì: “Đây chính là bộ phận sinh dục của con rắn chứ không phải là chân”. Lý giải về cấu tạo cái gọi là “hai chi” của con rắn là do bộ phận này nằm ngay huyệt. Những lúc rắn động dục, bộ phận sinh dục của loài rắn thường hay nhú ra. Để minh chứng, ông Trung đã đưa ra tấm hình về bộ phận sinh dục của rắn Sãi Mép trắng Amphiesma leucomystax. Từ những công trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu khoa học độc lập thuộc Sinh vật rừng Việt Nam đã chỉ ra đặc điểm của những loài rắn. Bộ phận sinh dục của rắn sẽ nhú ra lúc giao phối và nó sẽ thụt lại vào khoảng thời gian từ 10 đến 20 phút. Giả thuyết được đặt ra, rất có thể ông Kỳ đã bắt được con rắn trên lúc nó đang “hành sự”. Tuy nhiên, vì sao bộ phận sinh dục của con rắn không thụt vào sau khi mổ bụng?. Theo các nhà khoa học, lý giải rõ ràng nhất, khi ngâm rắn vào rượu có nồng độ cao, vốn dĩ trong rượu chứa cồn nên bộ phận sinh dục không thể thụt vào trong như mọi con rắn khác. Việc ngâm rắn trong rượu khiến làm cứng các mô tế bào. Do đó, bộ phận sinh dục chuyển sang màu vàng hơi sậm và làm mọi người quan sát như chân của con rắn. Theo cấu tạo về chi của loài bò sát thì hai chi xuất hiện thường khá lớn so với cơ thể để nâng đỡ và chạy nhảy. Vị trí và cấu tạo của hai chi sau của những loại bò sát mọc ra ở đốt sống gần huyệt. Có thể hình dung dễ dàng nhất ở chi một số loài như Rùa, Ba ba, Thằn lằn… Như vậy, con rắn mà anh Nguyễn Văn Kỳ bắt được là một loài rắn ráo thông thường. Tuy nhiên, do sự trùng hợp nào đó mà con rắn trên bị bắt khi đang giao phối. Sau đó, chính việc mổ bụng con rắn rồi ngâm vào rượu đã khiến ông Kỳ cùng nhiều người ngộ nhận đó là 2 chi sau. Theo Đỗ Hưng
  4. Bà cụ bị con trai kiện: “Tôi từng bị con nhổ vào mặt" Nghe được thông tin "xưa nay hiếm", con trai kiện mẹ ra tòa để đòi tiền công nuôi mẹ lên tới gần 150 triệu đồng và đòi chia một nửa ngôi nhà tình nghĩa của chính quyền địa phương tặng cho mẹ liệt sỹ, nhóm PV chúng tôi đã có mặt ở thôn Suối Đùm, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm hiểu rõ sự việc "kỳ lạ" trên. Video clip: Con kiện mẹ đòi tiền công nuôi Nguồn: http://clip.vn Con trai đòi tiền công nuôi mẹ 150 triệu đồng Nguồn: vietbao.vn showarticletop("http://vietbao.vn","70128889") Thấy thiệt thòi trước việc mẹ đẻ được xã cấp nhà tình nghĩa, ông Ngô Xuân Thành (Vĩnh Phúc) đã kiện mẹ ra tòa để đòi tiền công nuôi dưỡng bà suốt 8 năm với tổng số tiền lên tới gần 150 triệu đồng. Ông Ngô Xuân Thành là con trai cả của hai cụ Nguyễn Thị Trước và Ngô Văn Thái ở xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1997, hai cụ làm di chúc giao cho ông Thành quản lý toàn bộ tài sản của các cụ khi các cụ qua đời. Tuy nhiên, năm 1998, cụ ông mất, ông Thành và cụ bà mâu thuẫn nên cụ bà đã xin hủy bỏ bản di chúc, không cho ông Thành hưởng số tài sản như đã ghi. Việc làm của cụ Trước là đúng luật và Tòa án cũng đã phán quyết như vậy. Cụ Trước là mẹ liệt sĩ nên năm 2005, địa phương quyết định xây tặng cụ ngôi nhà tình nghĩa. Ông Thành không cho xây dựng nhà trên đất của hai cụ mà ông cho rằng đang thuộc quyền sử dụng của ông, bất chấp việc Tòa án đã phán quyết hủy bản di chúc. Địa phương lại cấp cho cụ Trước 100 m2 đất ở chỗ khác và xây tặng cụ ngôi nhà tình nghĩa trị giá khi đó 17 triệu đồng. Tự thấy thiệt thòi, bức xúc, ông Thành liền kiện, đòi cụ Trước phải chi trả công ông nuôi dưỡng cụ từ 7/7/1997 đến ngày 8/7/2005 (ngày cụ chuyển sang nhà tình nghĩa ở). Ông Thành tính mỗi ngày 50.000 đồng, tổng cộng là 146 triệu đồng tiền nuôi cụ. Ông cũng đòi cụ Trước muốn ở ngôi nhà tình nghĩa thì phải trả cho ông 8,5 triệu đồng bằng một nửa giá trị ngôi nhà, vì theo ông đây là nhà chung của cả bố ông nên đòi được hưởng một nửa. Tòa dân sự TAND tỉnh Vĩnh Phúc vừa xử phiên phúc thẩm bác bỏ đơn kiện của ông Thành đòi cụ Trước bồi thường công ông nuôi dưỡng. Tòa cũng bác bỏ yêu cầu của ông Thành đòi mẹ mình phải chi trả cho ông giá trị nửa ngôi nhà tình nghĩa mà địa phương xây tặng cụ. Ông Thành đang dự kiến đòi lại "công bằng" ở cấp cao hơn. Theo TTXVN
  5. “Ô sin còn được trả công, huống hồ… con nuôi mẹ” Sau khi gặp cụ Trước, người bị con kiện đòi tiền công nuôi dưỡng, chúng tôi đã có cuộc tiếp xúc với ông con trai cả của cụ là Ngô Xuân Thành để tìm hiểu kỹ hơn thực hư vụ việc. Không những không hối hận vì hành vi trái đạo lý của mình, ông Thành còn lập luận: "Mẹ tôi không nhận tôi thì tôi phải đòi tiền công nuôi dưỡng. Đến ôsin trông người già còn có lương nữa là tôi". >> “Tôi từng bị con nhổ vào mặt" >> Con đẻ kiện mẹ ra tòa đòi tiền công nuôi dưỡng Sỉ nhục mẹ đẻ! Rời nhà bà cụ Trước, chúng tôi rẽ vào nhà chị Nguyễn Thị Thư, người cùng thôn Suối Đùm với cụ Trước - cũng là người đã chứng kiến những hành vi bất hiếu, mất hết tình người của ông Thành với mẹ đẻ. Ông Ngô Xuân Thành một mực khẳng định bản di chúc là thật. (Ảnh Nguyễn Chiến) Nhớ lại câu chuyện cũ, chị Thư vẫn không giấu được vẻ bất bình: "Đến giờ tôi vẫn không thể tin được ông Thành là người đi nhiều nơi, có tầm nhìn xa rộng mà lại có thể ứng xử với mẹ đẻ mình như thế. Năm 2005, tôi có mua lúa vụ chiêm ở ruộng của bà cụ Trước rồi đưa tiền cho cụ. Còn vụ mùa thì nhà ông Thành không trả lúa cho bà cụ. Hôm đấy trước mặt tôi, chú Viễn trưởng thôn và rất nhiều người, ông Thành không trả lúa mà cứ chửi bà cụ. Ông ấy chửi: Con già ăn lắm thì ăn cái b…ấy! Bà cụ cứ run cầm cập không nói được gì mà chỉ ngồi khóc. Sau đấy, ông Thành còn nhổ nước dãi vào mặt vào người bà cụ. Chỉ đến khi ông Quảng - Bí thư chi bộ thôn - can thiệp ông ấy mới thôi. Không chỉ ông Thành mà cả vợ ông ấy cũng chửi bà cụ thậm tệ. Bà cụ vác cuốc ra đồng để làm thì bị bà con dâu giằng cuốc vưt đi. Cụ tìm mãi không được nên đành phải quay về. Ông Thành sống ở làng xóm suốt ngày chỉ ăn rồi vác đơn đi kiện. Việc nhỏ chẳng có gì ông ấy cũng làm đơn kiện. Trong khi ở nhà thì hai vợ chồng suốt ngày chửi nhau. Cả họ Ngô họ bỏ, không quan hệ với ông Thành nữa". "Ô sin nuôi người già còn có tiền công, nữa là tôi" Khi chúng tôi tìm gặp ông Ngô Xuân Thành tại nhà riêng thì vợ con ông đều đi vắng, chỉ còn ông đang phơi rơm ở đầu ngõ. Khác hoàn toàn với dự đoán của chúng tôi, ông Thành không những không tỏ ra e ngại, thậm chí còn hân hoan khi thấy có nhà báo về tìm hiểu sự việc. Vừa lục tìm cả đống tài liệu để tiếp tục theo kiện, ông Thành vừa kể: "Năm 2005, chính quyền địa phương quyết định tặng cho bà cụ nhà tôi căn nhà tình nghĩa. Tôi lên nói thẳng với xã là từ trước đến nay tôi vẫn nuôi bố mẹ tôi. Hoàn cảnh gia đình tôi thì tạm đủ nên tôi xin nhường căn nhà tình nghĩa đó cho người khác. Nhưng xã bảo quyết định là ở bà cụ. Đơn xin cấp nhà tình nghĩa là do bố mẹ tôi đứng tên. Lúc đầu chính quyền dự định xây nhà tình nghĩa cho cụ ở mảnh đất có ngôi nhà 5 gian nhưng sau đo, chẳng hiểu ông Khánh em tôi lên nói với xã thế nào mà lại xây trên mảnh đất khác gần kề nhà ông ấy. Nếu nhà nước đã cố tình xây nhà tình nghĩa cho mẹ tôi thì quay phim, chụp ảnh ở đâu phải xây dựng đúng ở đấy chứ không xây ở nơi khác như thế này được". Khi chúng tôi hỏi về việc đòi tiền công nuôi me, ông Thành khẳng định: Việc này là có thật. Tuy nhiên, ông Thành lại lật ngược vấn đề khi cho rằng, "tôi không kiện mẹ tôi mà mẹ tôi nghe lời xúi bẩy của các con đứng đơn kiện tôi, đòi lại nốt nửa mảnh đất nằm trong di chúc của bố tôi để lại. Tôi chỉ là người theo kiện chứ không phải người đi kiện. Tôi đòi vì mẹ tôi không chấp nhận tôi là con nữa. Chính vì thế, tôi mới đòi bà cụ 176 triệu là số tiền công tôi nuôi dưỡng bà cụ từ 7/7/1997 đến ngày 8/7/2005, mỗi ngày là 50.000 đồng (ngày cụ được tặng nhà tình nghĩa), công bảo quản khối tài sản là 600.000 đồng/ tháng kể từ ngày 7/7/1997 đến ngày xét xử sơ thẩm, số cây bà cụ đã chặt trị giá 10 triệu đồng, 1 bộ đỉnh đồng trị giá 4 triệu đồng và giá trị ½ căn nhà tình nghĩa xây cho cụ là 8,5 triệu đồng. Bố mẹ người ta, người ta không nuôi được còn phải mất tiền đi thuê người ở. Vì thế tôi nuôi bà cụ mà không được nhận là con thì tôi cũng phải được tính công chứ. Dù ngày xưa cả 2 cụ cùng nuôi tôi nhưng giờ bà cụ không chấp nhận tôi làm con thì coi như chỉ có bố tôi nuôi tôi". Tiếp tục kiện đòi chia nhà tình nghĩa... Khi đặt vấn đề bản di chúc là giả hay thật? Ông Thành lập tức lấy cho chúng tôi xem bản di chúc photo có công chứng nhà nước và khẳng định: "Không bao giờ có chuyện đó (không có chuyện di chúc giả- pv). Bản di chúc này lập năm 1997 có dấu điểm chỉ của cả 2 bố mẹ tôi, có cả dấu và chữ ký của chính quyền địa phương. Nếu bản này là giả thì công an người ta đã vào điều tra từ lâu rồi". Đơn khiếu nại gửi lên Toà án NDTC của ông Thành. (Ảnh Nguyễn Chiến) Hỏi tấm di chúc này do ai viết thì lúc đầu, ông Thành quả quyết do cụ Thái (bố ông ấy) viết. Sau một lúc loanh quanh, ông Thành lại thú nhận là do mình viết, đồng thời, vẫn khẳng định: "Việc tòa hủy bản di chúc là sai với pháp luật. Hôm trước tôi vừa xem tivi thấy Giám đốc thẩm nói rằng di chúc cứ sau 10 năm tính từ ngày lập là có hiệu lực vĩnh viễn, không thể hủy dù người lập còn sống. Còn việc tôi đòi một nửa căn nhà tình nghĩa thì tôi đã hỏi bạn tôi là thẩm phán, anh ấy bảo đòi được. Căn nhà đó nhất định phải chia đôi". Khi chúng tôi đề cập đến những hành vi ứng xử bất hiếu với mẹ như phản ánh của hàng xóm, ông Thành chối quanh: "Tôi không chửi cũng như không nhổ nước dãi vào bà cụ, tôi chỉ nói thôi. Tôi chỉ bảo tại sao trong ngần đấy người con bà lại không nhận tôi. Thế thôi! Tôi không có lấy của bà cụ một mùa lúa nào. Ruộng của bà cụ tôi chỉ làm hộ thôi. Nhà tôi không thiếu thốn gì mà phải lấy lúa của bố mẹ. Ngay cả tiền tuất của chú Bình tôi cũng không cầm. Bà cụ cầm và chia cho ai tôi cũng không biết. Cô Thanh con gái bà cụ lĩnh chứ không phải là tôi. Tôi có lương rồi còn cầm tiền đấy của cụ làm gì". Trước khi kết thúc cuộc nói chuyện với chúng tôi, ông Thành khẳng định: "Tôi vẫn sẽ tiếp tục khiếu nại lên Trung ương. Tôi đã ra Hà Nội 2 lần để nộp đơn rồi. Tôi sẽ khiếu nại kết luận của tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc hủy bản di chúc của bố mẹ tôi cho tôi. Còn việc có tiếp tục đòi bà cụ tiền công nuôi dưỡng không thì tôi còn đang cân nhắc. Vì bà cụ là mẹ liệt sỹ nên sẽ được tòa bênh, tôi khó mà đòi khoản tiền này được (!) Theo Nguyễn Chiến - Kim Chi Nguồn: http://tintuconline.com.vn
  6. Xin phép post bài của một bạn trên mạng khi tham gia bày tỏ ý kiến về cùng chủ đề: Nguồn:http://lawsoft.thuvienphapluat.com/?ct=TVQD&id=1445 Nước mắt không bao giờ chảy ngược Nước suối nguồn sao chảy được lên non?! Đó là câu ca dao mà nói về những việc ở thế gian không thể làm ngược lại được. Chuyện con nuôi cha mẹ kể công không phải là hiếm. Tôi biết được một việc này, post lên đây để các bạn tham khảo, xem .....có nên ......có con không Tôi vô tình đọc được bài này khi tìm thông tin trên google, được đăng trong trang điện tử có tên nguồn là Eco-blue.net Buổi chiều, tại Trung tâm Bảo trợ người già và tàn tật Thạnh Lộc (quận 12, TP.HCM), cụ Sen run run chống gậy quanh sân, gặp ai cụ cũng khoe: “Hôm nay con tui ở Thanh Hóa vô!”. Nói rồi cụ nắm tay người bạn già: “Mừng quá dì ạ, nó còn nhớ tui, nó khóc xin rước tui về”. Nói đoạn cụ lại đưa tay quệt những giọt nước đang chực trào từ khóe mắt đầy dấu chân chim. “Từ ngày vô đây, lần đầu tiên thấy cụ vui như vậy. Cụ khóc rồi cụ cười. Mà khóc cười gì cũng ra nước mắt, đều là những giọt nước mắt hạnh phúc”. Chị Lan, nhân viên trung tâm, còn cho biết: “Hôm trước cụ ăn không được, ngủ không được, vậy mà nay như vừa được uống thuốc hồi sinh”. Nhìn cảnh cụ già 88 tuổi ấy còng lưng chống gậy đi khoe niềm vui của mình khắp nơi dường như ai cũng vui lây. Thế nhưng, niềm vui hồn nhiên ấy không khỏi làm chạnh lòng những người mẹ khác. Ở một ghế đá trên sân, một cụ bà đang nắm chặt quyển kinh trong lòng bàn tay, miệng cứ lẩm nhẩm. “Cầu cho mình cũng được về nhà như người ta. Ngày nào cũng vậy, sáng đọc, chiều đọc sám hối, cầu an, mỗi lần đọc 120 câu”. Ở ghế đá bên cạnh, hai bà mẹ đang chuyện trò: “Nhiều khi tui mơ có khi nào nó vô kiếm mình, một lần thôi cũng được, lúc đó chắc tui sướng lắm bà ơi”. Bà mẹ kia đáp lại: “Tui cũng vậy. Nhưng thôi, số mình vô phước bạc phần thì ráng chịu. Nhiều đêm nằm suy nghĩ tui khóc hoài, hơn một năm rồi mà tui cứ tưởng hôm qua, không ngờ nó bỏ tui. Dù nó chẳng hứa hẹn gì nhưng tui vẫn chờ ngày được rước về. Chứ như ông Mừng, bảy đứa con ổng đều hứa hẹn khi nào làm ăn dư dả sẽ đón ổng về phụng dưỡng. Bao nhiêu năm rồi thấy ổng cầu trời khấn phật hoài mà có ai đón về đâu! Tội nghiệp ông cụ gần đất xa trời rồi mà vẫn chờ ngày con cái làm ăn “dư dả!”- “Thôi, muối bỏ lòng ai nấy xót, còn sống là còn chờ con, bà ạ!”. Và các cụ đã chờ, đã hi vọng. Hi vọng vào những dòng tin nhắn tìm người thân trên tivi. Dù niềm hi vọng ấy mong manh, yếu ớt như chính tuổi già của các cụ. Tuổi của sự hoài niệm, cô đơn. Tuổi mà sự sống đang dần xa như ngọn đèn sắp tắt. ...và đêm... Căn phòng hôm ấy trống một giường. “Ông cụ vừa đi đêm qua vì kiệt sức”. Cụ Thiểu thở dài: “Có ra đi vĩnh viễn mới hết thắc thỏm đợi chờ”. Một người ra đi cũng có nghĩa là căn phòng trống một chỗ ngồi xem tivi mỗi đêm. Hơn chục người già trong căn phòng ấy đêm đêm cứ mỏi mắt chờ xem tin “Tìm người thân” và họ khắc khoải chờ đợi một phép màu: “Biết đâu con mình nhắn tìm mình thì sao!” - cụ Mai ngậm ngùi - dù nó bỏ tui bốn năm rồi chưa một lần thăm viếng, nhưng tui vẫn cứ mong nó nghĩ lại”. Khuôn mặt nhăn nheo ấy lại đau đáu vào chiếc tivi. Niềm hi vọng đến theo định kỳ ấy thường vội vụt tắt. Hết mục nhắn tin, các cụ lại lặng lẽ trở về giường. Những tiếng thở dài quen thuộc dù cố nén nhưng vẫn hắt ra xót xa. Ở tuổi gần đất xa trời, cụ Ba chỉ mong gặp lại con một lần Đêm chùng lại! Có cụ nằm còng queo trên giường, im lặng nhìn vào mảng tường trắng. Có cụ taygác hờ lên trán. Có cụ cứ chống gậy đi lòng vòng quanh phòng rồi lẩm nhẩm đọc những cái tên: con Bẩm, thằng Tâm… Có đêm cụ còn xách giỏ đòi về nhà. Giường bên cạnh, cụ Hương không ngủ mà ngồi nhai trầu và ôm cái túi nilông. Trong túi nilông chỉ có chiếc quần đen mà bà vẫn mặc đi ăn xin. Bà rơm rớm nước mắt: “Bà chỉ muốn khóc, muốn về thôi!”. Cụ Hương là nhân vật người mẹ trong bài “Con gái bắt mẹ già 84 tuổi đi xin ăn” đăng cách đây vài tuần. Cụ không biết chữ nên chỉ nghe người ta nói lại bà lên báo “thế này, thế này”. Cụ không muốn “người ta viết như vậy vì con mình còn mặt mũi đâu nhìn mọi người”. Cụ cũng không nói lại chuyện con gái bắt bà đi xin ăn đến gần 12 giờ khuya để lấy tiền xây nhà; không nhắc chuyện thằng Trọng - cháu ngoại cụ - thường văng tục, có lúc đánh cụ đến ngất xỉu; cũng không kể về những bước chân run rẩy, liêu xiêu nhiều lúc ngã quị ở khu hồ Con Rùa. Gần một tháng vào trung tâm, cụ buồn mất ăn mất ngủ. Cụ ray rứt: “Tại mình già không làm được gì nên con dâu mới nói mình là người ăn bám. Không ở được với con trai nên về ở với con gái. Thế nhưng…” - cụ không nói nữa, rút khăn lau những giọt nước mắt lăn dài… Cụ Đỗ Văn Ba, 87 tuổi, mới vào trung tâm được vài tháng. Vừa ôm ngực ho khù khụ, ông vừa kể: ông có bốn người con, nhưng ba người đã bỏ ông “ra đi vĩnh viễn về thế giới bên kia”, chỉ còn một người sống với ông, năm nay đã 51 tuổi. Khi căn nhà ở đường Dương Bá Trạc (Q.8) của ông bị qui hoạch, ông cùng con trai và con dâu đi ở nhà trọ. Đêm đến, đợi cha ngủ say, hai vợ chồng cùng đứa con ôm hơn trăm triệu đồng tiền đền bù căn nhà của cha trốn mất. Nghe đồn con ở Rạch Giá, ông bước thấp bước cao đón xe đi tìm. Không gặp. Đói. Luẩn quẩn không chỗ ngủ, ông vô trung tâm dưỡng lão ở Rạch Giá ở nhờ. Sau đó, ông lại được người ta đưa về đây. Cụ nghẹn ngào: “Thôi… thôi… thằng cờ bạc ấy nó bỏ tui rồi, thôi... thôi...”. Chị Kim Chi, nhân viên trung tâm, cho biết có cụ già trên 70 tuổi còn bị con lừa bán nhà rồi chở đến công viên bỏ như cụ Nguyễn Liễu. Nhiều cụ bị con mình bỏ trước cổng trung tâm. Thấy cụ chờ mãi đói lả, các anh chị dìu vào cho ăn uống. Mỗi cụ một hoàn cảnh: “Con tui biểu tui ngồi đây đợi đi”. “Tui giận hắn, hắn chỉ ưa của chứ hắn không ưa người”. “Trời ơi, nó gạt tui, nó dụ tui đi mổ mắt, ai dè tui ra bến xe rồi nó bỏ tui ở đó”. Nhắc đến hoàn cảnh ông Nguyễn Đình Chớ - giám đốc trung tâm Lê Công Hùng - rút cho tôi xem một xấp biên bản về các buổi làm việc giữa UBND phường 26, Q.Bình Thạnh với năm người con của ông kéo dài từ tháng 8-2001 đến 5-2003. Ông Chớ thuộc diện có công với cách mạng, được hưởng trợ cấp hằng tháng 160.000 đồng. Ông còn năm người con, trong đó có hai người là cán bộ nhà nước. Sau khi ông bán căn nhà và chia thừa kế, các con của ông cứ đùn đẩy nhau trách nhiệm nuôi cha. Cuối cùng, ông cụ trên 80 tuổi ấy phải đi xin ăn và ngủ ngoài đường hẻm số 4 Xô Viết Nghệ Tĩnh. UBND P.26 đã nhiều lần họp các con ông và chi tiền thuê xe chở ông về ở với con trai ở Q.9 rồi về với cô con gái ở Củ Chi. Không nơi nào ở quá hai tháng vì “con dâu quá khó khăn”, “con cái nặng nhẹ”, ông lại ngủ vỉa hè và đi ăn xin. UBND P.26 lại tiếp tục mời các con ông họp và yêu cầu phải có trách nhiệm nuôi cha, nếu không họ phải góp tiền đưa ông vào viện dưỡng lão. Chiều, các cụ ngồi lặng lẽ hàng giờ trên ghế đá Các con ông giao trách nhiệm nuôi cha cho người vắng mặt trong buổi họp ấy là ông Khải. Biên bản lưu lại có ghi: “Anh em chúng tôi đã họp ngày 11-5-2003, vắng ông Nguyễn Đình Khải nhà ở Q.9. Anh em chúng tôi thống nhất như sau: sẽ đưa cha chúng tôi là ông Chớ về Q.9 ở với ông Khải do trước đây cha tôi bán nhà có đưa tiền (khoảng 19 lượng vàng) và sau đó cha tôi có gửi thêm 5 lượng vàng cho ông Khải để cất nhà sau này cha tôi về ở”. Sau đó, ông Khải lại cho rằng cha ông không cho ông nhiều tiền như vậy mà là “trả cho tôi 6,8 lượng vàng chứ tôi không nhận tiền thừa kế của cha tôi”... Năm lần bảy lượt xách gói đi từ nhà đứa con này đến đứa con khác, người cha ấy lại trôi dạt ra vỉa hè. Cũng không người con nào góp tiền đưa ông vào viện dưỡng lão. UBND P.26 đành gửi ông vào Trung tâm Nuôi dưỡng bảo trợ người già và người tàn tật Thạnh Lộc. Khi UBND P.26 sắp đưa ra họp dân xử lý hành động ngược đãi cha mẹ của các con ông thì ông đột ngột qua đời. Ban giám đốc trung tâm đã báo và đề nghị nên gọi xe mai táng đưa xác người cha quá cố về. Thế nhưng, sau một trận cãi vả, ai cũng giành mang xác về làm đám tang thì một người con ông đã gọi taxi và một mực gập xác người cha đã chết cứng, bó lại như “một đòn bánh tét” và nhét vào thùng xe… lethigam_ms
  7. Cơn lốc của kinh tế - đồng tiền chạy tỉ lệ thuận với trình độ nhận thức và hệ tư tưởng gây ra hệ lụy đáng lo ngại. Việt Nam cố mặc một chiếc áo đẹp và sang trọng trong khi tầm vóc còn nhỏ yếu và chưa kịp tìm hiểu đặc tính của chiếc áo. Bây giờ trên báo, trên mạng internet đầy rẫy thông tin chém giết, hiếp dâm, bạo lực, mẹ ép con uống thuốc độc vì ghen chồng; rủ vợ bạn đi "tâm sự" chơi thuốc lắc; thanh niên thì "đi hoang", trung niên thì lừa gạt, bố tạt axit vào con vì con nghiện ngập đòi giết bố .... lại thêm mẹ con phải kiện nhau. Nhà nhà khấm khá hơn, học được nhiều thứ hơn, biết dùng nhiều thứ hơn mà người nghèo cũng nghèo hơn, khổ thêm nhiều loại khổ hơn, còn cái tâm và tình của con người biến dần đi mất. Hình như bây giờ phải nhẫn tâm mới tồn tại được.
  8. Đòi tiền công nuôi – con kiện mẹ Con chết thì mang lại cho mẹ danh hiệu ‘Bà mẹ anh hùng’, tiền tuất và nhà tình nghĩa. Con sống mang mẹ ra tòa. Kiện. Đòi tiền nuôi dưỡng. Đòi chia đôi giá trị nhà tình nghĩa. Vụ việc càng trở nên um sùm khi được thông tin tới đại chúng kèm theo tuyên bố của nguyên đơn “Osin nuôi người già còn có lương nữa là tôi”. Đại biểu quốc hội, nhà khoa học, nhà sử học, bộ trưởng, cho chí dân thường đều phẫn nộ lên tiếng. Cao điểm của sự kết án ngoài tòa là lời đề nghị bổ sung vào bộ luật hiện hành tội bất hiếu. Kể thế thì con đúng là không ra con, đau cho bà mẹ quá thật. Nhưng nguyên đơn kiện có lí do: bị mẹ từ và cắt quyền thừa kế. So với bao nhiêu vụ án dân sự xoay quanh quan hệ gia đình ở Việt Nam hiện nay thì vụ con kiện mẹ này có vẻ chưa là gì. Cứ mở mục pháp luật ở mọi tờ báo in hay báo mạng tại Việt Nam ra thì hết hồn. Nào là con đánh mẹ gãy gần hết xương sườn. Nào là con bóp cổ bố chết lè lưỡi. Mà con đó toàn trong ngoài tuổi nhi bất hoặc (40 tuổi), nghĩa là được coi như đã rành rẽ sự đời, lẽ người. Hay như vụ mẹ Việt kiều kiện con trong nước vì tội chiếm đoạt tiền bạc đất đai, đến nỗi mẹ già chỉ còn có độc niềm vui rỉ rả với mấy nấm mồ người thân thích vừa quy tập lại không làm sao thăm mộ được, nghĩ cho cùng cũng có kém phần đau đớn đâu. Tuy nhiên, kiểu quan hệ gia đình bị chi phối bởi tiền bạc này chẳng phải mới được sáng tạo bởi ông con bà mẹ anh hùng. Trước cách mạng, Vũ Trọng Phụng trong “Số đỏ” đã cho nhân vật Văn Minh kết án ông nội: ”Già rồi không chịu chết là vô đạo đức”. Sau cách mạng những gần nửa thế kỉ, Nguyễn Huy Thiệp lại cho nhân vật Đoài làm chủ tịch hội nghị gia đình đề nghị anh em biểu quyết: “Ai đồng ý bố chết giơ tay?” (Không có vua). Nếu biết rằng không có sự sáng tạo nào lớn hơn được sự thật cuộc đời thì sẽ thấy hiện trạng xã hội qua những bi hài kịch gia đình này thật kinh khủng. Một hình dung khác Bảo cái ông mang mẹ đi kiện đòi công nuôi dưỡng là bất hiếu hết mức thì cũng chưa thật đúng, vì đã dùng đến khái niệm này, dùng đến hai cái chữ Tàu này thì phải biết thêm rằng kẻ bị coi như bất hiếu nhất là kẻ (tội nghiệp) không có con, mà phải là con giai, theo như quan niệm đời xưa: “bất hiếu hữu tam, vô hậu vĩ đại” (bất hiếu có 3 loại, không có con nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất) Điều đáng ngạc nhiên đầu tiên là ông can đảm hơn người, vì ông không ngại phơi bày bi kịch gia đình trước công luận. Điều đáng ngạc nhiên thứ hai là cách thức đưa tin của báo chí trong nước, bao giờ cũng kết án trước khi có án quyết cuối cùng của tòa. Điều đáng ngạc nhiên cuối cùng, to nhất, là những ý kiến phê phán người con (ngay cả của những người nổi tiếng hoặc được mặc định là lý trí hơn đời) cũng đầy chất cảm tính, đỉnh điểm của chất cảm tính là đề nghị bổ sung vào bộ luật hiện hành tội bất hiếu như đã nói ở trên. Chúng ta thử hình dung, nếu ông Thành không kiện mẹ ra tòa mà chỉ tuân theo câu “mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”, đóng cửa hành nhau, ngược đãi mẹ trong phạm vi gia đình. Hay là bà mẹ ông, cụ Trước, không phải là ‘Mẹ Việt Nam anh hùng’, hay là thay vì con kiện mẹ giờ mẹ kiện con như thường thấy, chắc chắn cách đánh giá của dư luận xã hội sẽ khác, và chắc chắn vụ việc sẽ không ầm ĩ đến mức này, dù nỗi não nuột của bà mẹ già thì vẫn thế. ......... Xin xem thêm Nguồn: http://www.radioaustralia.net.au/
  9. Mẹ bị con trai kiện đòi tiền công nuôi dưỡng showarticletop("http://vietbao.vn","70129788") Vài câu chào hỏi, nói rõ mục đích cuộc viếng thăm bất ngờ, cụ Trước xúc động, mắt rưng rưng trên khuôn mặt gầy gò, khắc khổ bộc bạch tâm sự về cuộc đời cơ cực nuôi con để đến bây giờ con kiện mẹ đòi tiền công nuôi dưỡng . Cụ Nguyễn Thị Trước với thân hình gầy gò và lưng đã còng Chúng tôi theo con đường mòn nhỏ quanh co với lời chỉ dẫn của bà con thôn Suối Đùm (Đại Đình, Tam Đảo,Vĩnh Phúc) tìm về nhà cụ Nguyễn Thị Trước. Ngay từ đầu thôn mọi người đã xôn xao bàn tán chuyện con trai cụ Trước là ông Ngô Xuân Thành kiện cụ ra tòa đòi tiền công nuôi dưỡng. Con đường làng của thôn Suối Đùm những ngày tháng 6 này dường như khó đi hơn bởi người dân trong thôn đang trong vụ thu hoạch lúa. Rơm được rải khắp các con đường dẫn vào thôn. Vượt qua một con dốc cao, chúng tôi mới có mặt tại nhà bà cụ Nguyễn Thị Trước. Lúc chúng tôi đến thì cụ đang quét nhà, thấy khách tới chơi, cụ niềm nở mời chúng tôi vào. Vài câu chào hỏi, nói rõ mục đích cuộc viếng thăm bất ngờ, cụ Trước xúc động, mắt rưng rưng trên khuôn mặt gầy gò đầy khắc khổ bộc bạch tâm sự về cuộc đời cơ cực nuôi con để đến bây giờ con kiện mẹ đòi tiền công nuôi dưỡng. Nuôi con trong gian khổ Cụ Nguyễn Thị Trước quê gốc ở Tam Dương (Vĩnh Phúc), là con một gia đình nhà nông đông con. Cụ kết hôn với cụ ông Ngô Văn Thái năm 20 tuổi và rồi lần lượt sinh được 5 người con: 3 trai, 2 gái. Khi mang thai người con trai trưởng là ông Ngô Xuân Thành cụ ốm liên miên, xanh xao vàng vọt. Rồi khi sinh hạ thì cụ suýt chết vì đẻ khó. Đứa con lành lặn ra đời nhưng cụ ốm liệt giường mất mấy tháng. Vì gia đình nghèo khó không có gì bồi bổ nên cụ không có sữa cho con. Thương con thơ dại, cụ đã phải đi tìm từng sản phụ trong thôn để xin sữa cho con. “Thời bấy giờ làm gì có sữa ngoài mà nuôi, mà có thì nhà tôi cũng không có tiền mà mua”- cụ Trước kể lại. Cụ còn nhớ những đêm Thành khóc đòi sữa mà cụ chỉ biết khóc cùng con. Đêm hôm khuya khoắt, hai vợ chồng không dám sang nhà hàng xóm xin, đứa trẻ đói khóc vang cả nhà, không ai trong nhà ngủ được. Đến khi Thành 5 tuổi thì bị một cơn sốt nặng khiến cả 2 cụ lại một lần nữa lao đao. Cụ Trước đã bỏ cả ruộng vườn cho chồng chăm sóc để cụ trông con. Cụ thương Thành vì ngay từ lúc sinh đã không có sữa đến tuổi biết nói, biết đi thì lại bị ốm đau thường xuyên. Nhiều đêm cụ không dám chợp mắt bởi phải quạt cho con ngủ, lau mồ hôi lăn trên trán của con, dỗ con khi con trở mình… Chạy vạy khắp nơi để lo tiền thuốc men cho con khiến gia đình bà kiệt quệ, cụ và chồng đã phải nhịn ăn để mua đồ bồi bổ cho con. Thấm thoát rồi Thành cũng đã lớn khôn… Rồi những đứa con tiếp theo cứ thế ra đời. Gia đình đông con nên cuộc sống của hai cụ ngày một vất vả. Cụ Trước cho hay: “Khổ nhất là thời kỳ trong chiến tranh bom đạn. Cơm không có mà ăn nên gia đình chúng tôi toàn phải ăn khoai sắn trừ bữa, thậm chí cả hai vợ chồng đều phải nhịn mà nhường khoai sắn cho 5 đứa con”. Con trai út của cụ là ông Ngô Quốc Bình đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Campuchia năm 1979, hiện an táng ở Tây Ninh. Những người con còn lại đều có gia đình riêng và cuộc sống đã ổn định. Riêng ông Thành đã 4 lần lấy vợ và đều tự tay cụ Trước mang lễ vật đến hỏi vợ cho con. Bản di chúc Năm 1997, cụ Ngô Văn Thái nằm liệt giường, hầu như không có khả năng qua khỏi. Cụ Trước kể: “Lúc đó, tôi nào có biết gì. Thấy nó bảo là giấy tờ chứng nhận gì đấy. Ông điểm chỉ rồi, bây giờ đến lượt bà – Nó nói với tôi vậy”. Cụ Trước kể, sau khi ông Thái qua đời năm 1998, thấy cụ Trước sống cô đơn một mình nên ông Thành có ý muốn nuôi cụ. Tiếng là ông Thành nuôi mẹ nhưng cụ Trước vẫn ở nhà mình, chỉ có ăn uống là ông Thành mang cơm và thức ăn sang cho cụ. Và cũng không phải ông Thành nuôi không mẹ vì cụ Trước có tiền trợ cấp cho mẹ liệt sỹ và hai sào ruộng (mà ông Thành canh tác). “Mình già rồi có ăn được gì nhiều đâu, đôi khi chỉ cần lưng cơm với bát canh là xong bữa. Thế mà nó cứ rêu rao nuôi tôi tốn kém”, người mẹ già nói trong đau khổ. Năm 2004, khi Nhà nước quyết định hỗ trợ 17 triệu đồng cho cụ Trước để làm nhà tình nghĩa thì ông Thành đưa bản di chúc ra và đòi những quyền lợi của mình được hưởng. Trước những đòi hỏi vô lý và thái độ ngang ngược của ông Thành đối với người mẹ của người anh cả, ông Ngô Quốc Khánh là con thứ của cụ vô cùng bức xúc, đã thay mặt những người con còn lại của cụ đứng ra giải quyết vụ việc. Ngôi nhà tình nghĩa mà ông Thành đòi một nửa tiền xây dựng “Tôi cảm thấy rất đau lòng khi trong cùng một gia đình lại xảy ra việc tranh chấp đó. Cùng một bọc đẻ ra mà lại có người con đối xử với mẹ đi ngược lại đạo lý làm người” - Ông Khánh chua xót tâm sự với chúng tôi. Cả gia đình ai cũng ủng hộ người mẹ và thấy bất bình trước thái độ và hành động của ông Thành. Bà con thôn trên, xóm dưới nhiều người chê bai, có người nhận xét: “Tôi chưa từng thấy có người con ruột nào lại đối xử với bà mẹ đã 90 tuổi tệ bạc đến vậy. Chăm sóc mẹ bằng tiền của mẹ lại còn tính công nuôi dưỡng. Thật là đại nghịch bất đạo”. Còn cụ Trước thì nước mắt đã cạn khô, cả cuộc đời cụ chăm sóc và nuôi dạy cho các con trưởng thành chẳng mong các con đền đáp. Những ai chứng kiến phiên tòa phúc thẩm diễn ra ngày 28/4/2008 vừa rồi đều xót thương cho cụ Trước khi ông Thành tuyên bố thẳng thừng trước Tòa: “Mẹ tôi chết rồi”. Nước mắt của cụ lã chã trên mặt cùng những tiếng nấc nghẹn ngào trước lời nói của người con trai mà người mẹ già đã mang nặng đẻ đau. Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa Nguyễn Xuân Đường Tại phiên tòa, mọi người đều bàng hoàng trước những đề nghị của ông Thành. Ông Thành yêu cầu cụ Trước phải thanh toán cho ông tiền công nuôi dưỡng cụ mỗi ngày 50.000 đồng kể từ ngày 07/7/1997 đến ngày 08/7/2005 là 146.050.000 đồng; công bảo quản duy trì khối tài sản là 600.000 đồng/1 tháng kể từ ngày 07/7/1997 đến ngày xét xử sơ thẩm; trả tiền chặt cây gồm 3 cây trám, 3 cây sui, 3 bụi tre trị giá 10.000.000 đồng; 1 bộ đỉnh đồng trị giá 4.000.000 đồng và một nửa số tiền mà Nhà nước cho cụ làm nhà là 8.500.000 đồng. Tất cả những yêu cầu của ông Thành đều dựa trên bản di chúc của cụ Thái và cụ Trước mà theo lời cụ Trước thì ông đã đưa cho họ điểm chỉ. Trước tòa, ông Thành không một lần gọi cụ Trước bằng mẹ. Khi chủ tọa phiên tòa hỏi: “Thế ai nuôi anh từ lúc anh lọt lòng cho đến khi anh tự mình kiếm sống” thì ông Thành dõng dạc trả lời: “Trách nhiệm bà ấy đẻ tôi ra thì phải nuôi tôi”. Khi được hỏi về cảm nhận khi xét xử vụ án này thì ông Nguyễn Xuân Đường, thẩm phán, chủ toạ phiên toà cho hay: “Đây là một vụ án hy hữu xảy ra từ trước đến giờ của tỉnh Vĩnh Phúc. Tôi đã ngồi cả mấy tiếng đồng hồ trong phòng làm việc riêng của tôi để khuyên giải ông Thành, nhưng ông ấy không chịu nghe. Cách đối xử của ông Thành với cụ Trước không khác gì kiểu thời đại phong kiến ngày xưa: Cha chết thì mẹ phải theo con trai. Toà án đã bác bỏ những yêu cầu vô lý đó thì ông ta kêu sẽ kiện lên cấp cao hơn. Tôi tin rằng dù có kiện đến cấp nào đi chăng nữa thì cũng không có luật nào quy định con nuôi mẹ mà mẹ phải trả tiền”. Nắm lấy bàn tay run run của cụ, tôi khẽ hỏi: “Nếu ông Thành ăn năn hối lỗi thì cụ có tha thứ cho ông Thành không?”. Cụ lặng im, không nói, quay đầu ra cửa. Tôi cố nhìn theo ánh mắt ấy. Hai khóe mắt trên gương mặt nhăn nheo đang rơi lệ. Rồi như để kìm cơn xúc động, cụ bỗng bấu chặt bàn tay tôi: “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh người quay lại”. Ngọc Mai Việt Báo // (Theo_Tien_Phong) Nguồn: vietbao.vn
  10. Vụ việc hy hữu "con kiện mẹ đẻ ra toà đòi tiền công nuôi dưỡng" xảy ra tại tuyện Tam Đảo gây phẫn nộ trong dư luận thời gian qua. GS Nguyễn Lân Dũng, một trong nhiều người con của dòng họ Nguyễn Lân nổi tiếng về hiếu đễ, bất bình: "Chữ Hiếu của ông Thành để đâu rồi?". GS Nguyễn Lân Dũng: "Hãy để lại cho con cháu không phải là đất đai, tiền của mà là một nền học vấn, một lý tưởng cao đẹp và một ý chí tiến thủ". - Thưa GS, ông có cảm nhận và suy nghĩ trước hiện tượng băng hoại đạo đức như vụ việc con kiện mẹ đẻ ra tòa đòi tiền công nuôi dưỡng xảy ra tại Vĩnh Phúc? - Tôi nghĩ rằng có lẽ trên đời này hy hữu lắm mới có những người con như vậy. Đáng tiếc đấy lại là một gia đình liệt sĩ, một gia đình có người con quên cả thân mình để hiến dâng cho Tổ quốc. Công sinh thành của Cha Mẹ ví như trời biển. Từ xa xưa người Việt Nam mình ai cũng thuộc câu "Công cha như núi Thái Sơn, Công mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con". Chữ Hiếu của ông Thành để đâu rồi? Ông kiện tiền nuôi dưỡng Mẹ đẻ của mình thế thì ai nuôi ông nên người hôm nay? Ông không biết suy tính xem con cái ông sẽ nghĩ gì về ông, chưa kể đến hàng xóm, láng giềng, họ hàng, bè bạn. Nhẽ nào ông sống một mình trên đời này? Bao nhiêu người đau khổ vì cha mẹ mất sớm trong khi mình chưa kịp có thời gian bao nhiêu để phụng dưỡng, báo hiếu cho cha mẹ mình. - Câu chuyện trên tuy là hy hữu, nhưng lại không phải là dẫn chứng duy nhất về sự bất hiếu của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện nay. Vậy cần phải làm gì để ngăn chặn, lên án, tẩy chay hiện tượng trên, thưa GS? - Tôi nghĩ nên coi đây là bài học để giáo dục những người con bất hiếu, những người vô lương tâm, nhất là những kẻ vì nghiện hút mà bòn rút hết của cải của cha mẹ để thỏa mãn tệ nạn xấu xa của mình. Ngày nay người ta coi những người bị nghiện như bệnh nhân, như nạn nhân chứ không phải là phạm nhân. Nhưng những đứa con hiếu thảo biết nghĩ đến công sinh thành, nuôi dưỡng của bố mẹ thì không bao giờ sa chân vào con đường nghiện ngập hoặc ăn chơi trác táng. Thật bất hạnh thay cho những gia đình có những đứa con, niềm hy vọng lớn nhất của những người làm cha, làm mẹ, mà phải trông thấy con mình sa ngã, hư hỏng. Nên dùng câu chuyện này để giáo dục thanh thiếu niên. Sống phải có lý tưởng, phải mong muốn đóng góp cho xã hội và đó là sự đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, công ơn dạy dỗ của thầy cô và sự chăm sóc của xã hội. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình thì đâu còn có cái gọi là nhân cách? Tôi tin rằng ngay địa phương ông Thành sinh sống, bà con láng giềng cũng sẽ tỏ thái độ giúp ông Thành nhận ra sự thất đức của mình và cần cúi đầu xin lỗi người mẹ già đã cả đời hy sinh nuôi dưỡng mình nên người. Dù giữa mẹ con có điều gì hiềm khích với nhau thì phận làm con đương nhiên phải bỏ qua cho mẹ của mình và nếu có sự va chạm về quyền lợi thì có khó khăn gì mà không biết nhường cho mẹ. Tôi rất tiếc là chúng ta ít in lại những cuốn sách Quốc văn giáo khoa thư mà bao thế hệ trước đã từng thuộc lòng từng câu, từng chữ. Truyện Nhị thập tứ hiếu cũng cần in lại và khuyến khích thanh thiếu niên đọc để noi theo. - Theo GS thì việc giáo dục đạo đức nói chung, lòng hiếu đễ nói riêng cho mỗi con người cần phải bắt đầu từ đâu? - Ngoài gia đình thì nhà trường cũng phải góp phần giáo dục ngay từ khi trẻ đến lớp Mầm non. Cây phải được uốn từ khi còn non mới có thể vươn thẳng lên được. Tất nhiên làm bố, làm mẹ thì phải gương mẫu và hết mực thương yêu con cái. Những đứa trẻ hư hỏng thường rơi vào trường hợp các gia đình bất hòa, cha mẹ ly dị nhau hoặc sống với nhau vì ngjhĩa vụ chứ không vì tình nghĩa. Không ít gia đình mải lo kiếm tiền mà sao nhãng việc giáo dục con cái. Hãy để lại cho con cháu không phải là đất đai, tiền của mà là một nền học vấn, một lý tưởng cao đẹp và một ý chí tiến thủ. Chúng tất sẽ giỏi giang hơn mình và cũng sẽ không thiếu thốn gì về vật chất khi thực sự có tài năng và chí tiến thủ. Cha mẹ sống không liêm khiết, gian dối, lừa lọc người khác, nịnh hót người trên, bắt nạt người dưới … thì làm sao mong con cái mình nên người, dù cho có để lại cho chúng hàng núi của cũng vậy mà thôi. Xin cảm ơn Giáo sư! Theo VTC Nguồn: http://svdanang.com
  11. Ông Dương Trung Quốc nói gì về vụ con kiện mẹ?</h2> "Gieo gió thì ắt gặp bão. Trường hợp ông Thành đòi người mẹ bồi thường và tính toán chi li như vậy là mất đạo đức, là bất hiếu. Nếu tính sòng phẳng, chi li ra thì tại sao không tính số tiền bố mẹ nuôi ông ta từ lúc lọt lòng?" Con đẻ kiện mẹ ra tòa đòi tiền công nuôi dưỡng Bà cụ bị con trai kiện: “Tôi từng bị con nhổ nước dãi vào mặt" “Ô sin còn được trả công, huống hồ… con nuôi mẹ” Video: Cụ già 90 tuổi bị con trai kiện đòi tiền nuôi dưỡng "Ông con" tiếp tục "ôm" đơn kiện mẹ GS Nguyễn Lân Dũng: Chữ Hiếu của ông Thành để đâu? Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Xưa & Nay bày tỏ quan điểm bất bình của mình trước vụ việc con kiện mẹ đòi tiền công nuôi dưỡng. Theo ông Quốc, hiện tượng này tuy là cá biệt khi đưa lên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng những dạng con cái bất hiếu với bố mẹ trên thực tế hiện nay không ít... Nhà sử học Dương Trung Quốc: "Trường hợp ông Thành đòi người mẹ bồi thường và tính toán chi li như vậy là mất đạo đức, là bất hiếu". ẢnhH.Nguyên - Ông đã từng nghe hoặc chứng kiến việc con kiện mẹ ra toà đòi tiền công nuôi dưỡng lần nào trong "lịch sử" chưa?- Vụ con kiện mẹ ra toà để đòi tiền công nuôi dưỡng ở xã hội hiện nay quả là chuyện “hy hữu”. Tôi nghĩ cơ quan pháp luật đã xem xét nhiều khía cạnh khác nhau và có một phán quyết hợp tình hợp lý. Đây là một hiện tượng gây bức xúc trong xã hội bởi vì nó nằm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Nói chính xác hơn, đó là sự suy đồi đạo đức xã hội trước sự phát triển của đời sống và là mặt trái của kinh tế thị trường. Rất đáng lo lắng. - Theo quan sát của ông thì liệu đây có phải là hiện tượng cá biệt trong mối quan hệ truyền thống gia đình Việt Nam xưa nay, hay đó là đại diệncủa tình trạng con cái bất hiếu với cha mẹ, anh em bất nghĩa với nhau... đang có chiều hướng gia tăngtrong xã hội hiện nay? - Thời phong kiến ngày xưa, tội nặng nhất là tội bất hiếu, sau đó là bất trung với triều đình, với nhà vua. Và chữ Hiếu chính là thứ để phân biệt giữa con người với con vật. Tội bất Hiếu là tội rất nặng. Trường hợp ông Thành đòi người mẹ bồi thường và tính toán chi li như vậy là mất đạo đức, là bất hiếu, thêm nữa người mẹ lại không còn khả năng lao động để gánh vác kinh tế gia đình. Bây giờ đặt câu hỏi ngược lại là ai trả cho người mẹ công ơn nuôi dưỡng người con trai trưởng thành? Nếu mà tính sòng phẳng, chi li ra thì tại sao không tính số tiền bố mẹ nuôi ông ta từ lúc lọt lòng, thậm chí các cụ ngày xưa còn tính từ lúc nằm trong bào thai… đến lúc trưởng thành. Riêng chuyện đó đã thấy bất Hiếu, bất Nghĩa rồi, chưa nói đến phi đạo đức. Vụ việc này cũng là một sự cảnh tỉnh cho toàn xã hội. Ngoài dư luận xã hội, cần tiếng nói của pháp luật, phải đặt lên “bàn” pháp luật. Tôi tin rằng, không có một pháp luật nào bảo vệ cho hành vi đó. Tôi cho rằng, hiện tượng này tuy là cá biệt khi đưa lên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng những dạng con cái bất hiếu với bố mẹ trên thực tế không ít, cả những cuộc tranh giành tài sản trong gia đình, gia đình có cả cha mẹ, anh chị em ruột… ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Và chính hệ thống pháp luật phải càng quan tâm đến những hiện tượng trên mà điều chỉnh cho phù hợp, đồng thời, tạo ra được dư luận xã hội nhằm lên án những hành vi đó. Chúng ta đã có một số chính sách đối với người cao tuổi trong đó có những người già không có được sự chăm sóc của con cái. Tôi nghĩ rằng ở đây cũng phải đề cập đến giá trị đạo đức, cho dù xã hội phát triển đến mấy nhưng người ta vẫn phải nhắc đến việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Có như vậy mới tạo được ra xã hội phát triển tiến bộ nhưng vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống. -Vậy theo ông, cần phải làm gì để ngăn chặn từ gốc những hành vi tương tự mà điển hình là vụ việc con kiện mẹ đòi tiền nuôi dưỡng ở Vĩnh Phúc vừa qua? - Phải tạo ra một diễn đàn để mọi người bày tỏ, tâm sự… để từ đó tìm ra sự đồng thuận. Chúng ta đang sống trong một xã hội trong quá trình chuyển đổi lớn, đương nhiên những giá trị đạo đức có thể thay đổi, vì vậy, trong từng vụ việc như vậy, chúng ta nên tìm ra một sự đồng thuận để có thể giữ gìn và phát huy được giá trị đạo đức xã hội. Tôi tin rằng giá trị đạo đức không bao giờ bị lạc hậu cả. -Cũng có ý kiến cho rằng, việc giáo dục đạo đức, lòng hiếu đễ cho con người phải bắt nguồn từ mỗi gia đình trước tiên? Ông nghĩ sao? - Có một câu nói dân gian của người xưa, nhưng rất sát thực là “Cái nợ đồng lần”, tức là các mối quan hệ luôn luôn được kế thừa. Chúng ta đối xử với cha mẹ mình như vậy, rồi thì con cái mình sẽ đối xử với mình ra sao? Chính cái mối quan hệ đó đặt ra cơ sở đạo lý giá trị lâu dài, tức là mối quan hệ nhân quả trong đời sống xã hội. "Gieo gió thì ắt gặp bão", có nhiều tác động dẫn đến đạo đức xã hội đang bị “xói mòn”, nhưng tôi cho rằng hiện nay cha mẹ không thường quan tâm nhiều đến con cái, mà họ thường quan tâm đến tạo điều kiện cho con cái phát triển. Và như vậy, những cái tích lũy tài sản thường thường được xã hội hoá nhiều hơn, đưa vào xã hội nhiều hơn. Đây cũng là một mặt tiến bộ. Vụ việc chúng ta đang bàn trên liên quan đến pháp luật thì toà án phải xét xử, mà Luật chưa hoàn chỉnh thì chúng ta phải hoàn thiện dần. Ngoài ra, chúng ta phải tạo ra toà án dư luận thì theo tôi mới có giá trị. Nguyên Bộ trưởng TN & MT Mai Ái Trực: Pháp luật không thể tiếp tay cho hành động bất hiếu Vụ việc con kiện mẹ đòi tiền nuôi dưỡng là biểu hiện xuống cấp về đạo đức trong xã hội. Từ câu chuyện này đặt ra yêu cầu cấp thiết là các gia đình phải quan tâm, giáo dục con cái ngay từ trong gia đình, từ thuở ấu thơ. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng từng con người, trong đó gương ông bà, bố mẹ là rất quan trọng. Con cái sẽ noi theo tấm gương đó để sống và nếu nhìn thấy bố mẹ đối xử với ông bà thế nào, thì con cái sẽ đối xử lại với bố mẹ như thế. Vụ việc nói trên, theo tôi, không phải là hiện tượng cá biệt về sự đối xử bất hiếu của con cái với cha mẹ đâu, mà đó chỉ là sự kiện điển hình, đặt ra cho xã hội phải suy nghĩ. Có hai việc cần làm rất quan trọng để giải quyết vấn đề trên, đó là gia đình phải quan tâm, giáo dục con cái từ cái lúc còn bé và thứ hai nữa là phải làm gương cho con, thiếu một trong hai vế đều hỏng, vì nếu chỉ làm gương không chưa đủ mà còn phải giáo dục, vì xã hội có sự tác động rất mạnh mẽ đến suy nghĩ, nhân cách của mỗi con người. Và tất nhiên, trong vụ việc này, pháp luật không thể tiếp tay cho hành động bất hiếu, trái đạo lý của ông Thành được. H.Nguyên(thực hiện) Nguồn: http://news.gate.vn
  12. Chiếc yếm cổ truyền Yếm là trang phục cổ truyền, làm tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam và đi vào thơ ca, tục ngữ dân tộc một cách tự nhiên. Người Việt sống gắn với nền văn minh lúa nước, luôn mong muốn con đàn cháu đống để tăng sức lao động và điều đó đã chi phối quan niệm về vẻ đẹp. Người con gái được coi là đẹp phải có dáng lưng ong và biết tôn vinh cái lưng ong ấy bằng trang phục yếm - váy cổ truyền. Văn hóa mặc yếm cũng có từ đó. Yếm đi vào ca dao, dân ca... Vẻ đẹp của nó vẫn phát huy qua sự biến tấu của những mẫu áo người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Các cô thôn nữ của làng quê truyền thống vùng châu thổ Bắc Bộ, không những khéo léo tinh tế trong nết ăn, nết ở, mà còn rất khéo léo tinh tế trong cách phục sức cho phần thân thể phía trên của mình là lưng và ngực. Cái đẹp chứa đầy nữ tính nhất, thuộc về thân người phía trên của phụ nữ Việt cổ, không hẳn là khuôn mặt tròn trịa trăng rằm, hay trái xoan, đôi mắt lá răm hay dao cau, cái miệng có đôi môi ăn trầu đỏ thắm, hay cổ ba ngấn kiêu sa, hoặc đôi vai xuôi tròn, mà chính là lưng được thắt đáy nhỏ nhắn, kiểu lưng ong. Và một người phụ nữ đã có lưng ong, ắt hẳn dáng người phải đẹp một cách ăn ý, đẹp trong toàn thể con người, dáng điệu và phẩm hạnh. "Những người thắt đáy lưng ong. Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con", ca dao từng khẳng định. Việc coi nét đẹp nhất là lưng ong này cũng dựa trên văn hóa của một dân tộc mà trong vài nghìn năm đã sống, tồn tại và phát triển với văn minh lúa nước cổ truyền. Do là "dân ruộng thứ thiệt", nên chú trọng nhất đến sự sinh sản thịnh vượng của mùa màng, lúa gạo, hoa trái và nhân lực làm ruộng, tự nhiên mà theo tín ngưỡng phồn thực. Chẳng gì hơn đối với dân ruộng là thóc lúa đầy bồ, rau cỏ hoa trái trĩu xanh tươi, "con đàn cháu đống", bốn mùa "mưa thuận gió hòa", cho trời yên biển lặng, "chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa". Từ đó, lẽ dĩ nhiên, người Việt cổ trọng thị một thứ kiểu dáng của thân hình người phụ nữ với mâm cao cỗ đầy, lưng ong thắt đáy, với quan niệm "những người có kiểu dáng như thế, sẽ làm vợ đảm, mẹ hiền, chồng con được nhờ phúc ấm". Ảnh: hinhtran Phụ nữ Việt xưa thường tự tay cắt may yếm bằng chất liệu tơ tằm, vốn là kết quả của nghề tằm tang truyền thống, ra đời rất sớm với nghề trồng lúa nước. Sau khi phát minh ra yếm, thật thuận tiện, không bị bó chặt như cái áo lót cầu kỳ ren rua kiểu cách của thời nay, họ nghĩ cách mặc thế nào cho đẹp và phù hợp với từng hoàn cảnh xã hội. Khi ở nhà, không phải chợ búa, cấy hái, họ thường mặc yếm trắng - váy đen buông chùng, hoàn toàn để hở lưng, hai cánh tay, đôi vai... Khi ra đường, đi "công chuyện", họ mặc thêm áo cánh, phủ ngoài là áo dài vừa phải, có thắt lưng tôn vinh lưng ong. Đi chơi hội, du xuân, thăm nom nhau, ngày vui, ngày Tết, họ mặc cầu kỳ hơn, với yếm nhiều màu sắc. Trong đó, các sắc độ của màu đỏ được sử dụng nhiều nhất: đỏ điều, hoa đào, râm bụt, xác pháo, đỏ tươi, đỏ cam... Áo cánh khoác ngoài thường được chọn màu chói chang đến nhức mắt, như vàng chanh, cam chín, vàng hườm, cùng với thắt lưng xanh bỏ giọt đung đưa theo bước đi tinh tế, uyển chuyển của thân người. Để có một bộ cánh hoàn hảo, người phụ nữ thường dùng thêm đồ trang sức vàng bạc đeo cổ, cổ tay, tai và đội nón quai thao, hoặc đội khăn mỏ quạ, bên trong là tóc vấn... Dân gian ca tụng yếm trắng: Yếm trắng mà vã hước hồ. Vã đi vã lại anh đồ yêu thương. Đàn bà dễ được chú ý khi mặc yếm thắm, biết phô ra: hở lườn mới xinh. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Nhược Pháp viết bài thơ Chùa Hương, để nhấn mạnh vào cái đẹp thiếu nữ xuân thì của người con gái lên chùa: Em đeo dải yếm đào - Quần lĩnh áo the mới - Tay cầm nón quai thao... Nhà thơ chân quê Nguyễn Bính thì tỏ ý không bằng lòng khi em gái thôn nữ ra tỉnh may đồ mới, bỏ lại cái chân quê của yếm áo cổ truyền. Ông đã vặn vẹo đau khổ: Nào đâu chiếc yếm lụa đào. Chiếc khăn lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?... Còn nhà thơ Hoàng Cầm viết riêng cho yếm một huyền sử, mang tên "Hội yếm bay" trong tập "99 tình khúc Hoàng Cầm" (Nhà xuất bản Văn học 1996): Ngất núi ô kìa anh vỗ nhịp Bay cờ triệu yếm ríu ran ca Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi... Yếm để lại một văn hóa trang phục giàu nữ tính và thấp thoáng trong biến tấu đa dạng của các mẫu mã áo lót, áo dài, áo đầm của những người đẹp Việt Nam hiện đại. Lược theo Thể Thao và Văn Hóa Nguồn: http://www.baodatviet.vn
  13. Lang thang trong miền yếm đẹp Bắt đầu vẽ về đề tài người con gái Việt trong trang phục cổ truyền từ năm 1999, sau một thời gian dài lặng lẽ sáng tác và bán tranh ra… nước ngoài, một ngày kia, Phạm Mai Châu bỗng nhận ra rằng, hàng nhái tranh của anh đang bị bày bán đầy ở các Gallery… Yếm xinh Tác phẩm Yếm đào bên sen trắng của Phạm Mai Châu. Thời xưa, yếm thường được gọi là áo giao lãnh, vốn là thường phục của người đàn bà đất Việt. Yếm đã đi vào những câu ca dao, tục ngữ, những câu thơ lãng mạn, những câu chuyện tình vương vấn với những mảnh yếm thắm lụa đào của một nàng gái đẹp… “Một thương tóc bỏ đuôi gà/ Hai thương ăn nói mặn mà có duyên/Ba thương má lúm đồng tiền/Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua/ Năm thương cổ yếm đeo bùa…” Người đẹp nằm nghiêng Những người đẹp nằm nghiêng, nửa thực nửa ảo, gợi nhớ đến một thiếu nữ ngủ ngày của thi sĩ Hồ Xuân Hương làm cho quân tử dùng dằng đi chẳng dứt. Những chiếc lưng trần, chỉ có một sợi dây yếm hững hờ như không có. Những bờ vai thon, nuột nà, những ngón tay đẹp như bước ra từ nhạc của Trịnh Công Sơn:“Từng ngón xuân nồng, bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm…” Hoa và thanh âm không lời Tác phẩm Hoa chuối Người và hoa, khó có thể nói vẻ đẹp nào hấp dẫn hơn. Dường như cả hai cần phải có nhau, để tăng thêm sức gợi cảm và qua tên những loài hoa gợi tâm trạng của những nàng trong tranh. Sen tàn, sen nở, sen búp, sen trễ nải như chính người đang suy ngẫm, sen rơi từng cánh vương vất hiện hữu bên người. Cầm đàn, mà không đánh đàn, nhưng dường như, ta vẫn thấy đâu đây thanh âm của từng phím đàn. Đàn tính, đàn tỳ bà, đàn đáy, đàn nguyệt… được những ngón tay thon nâng niu. Hai vẻ đẹp, một của sự hiện hữu, một của vô hình, nhưng tất cả, đang tràn đầy cảm xúc trong tranh của Phạm Mai Châu. Những vạt áo dài tinh khôi, sống động, căng đầy sức xuân đời tươi trẻ. Vẻ đẹp của người con gái xưa, nhưng nét đẹp lại rất hiện đại. Một mình giữa Đẹp Nụ thanh xuân e ấp đằng sau mỗi chiếc yếm dường như mong manh mà ẩn chứa cả vũ trụ bí ẩn, thúc giục sự sống cần được cảm nhận và khám phá trong cõi tạm này. Áo giao lãnh, yếm thắm, váy mùa non thô nhuộm bùn, chiếc áo choàng cũng nâu non, tạo nên một cõi sang trọng, hiện đại, đẹp đến ngẩn ngơ. Với phong cách siêu thực gợi người xem cảm nhận cái đẹp giữa ranh giới hư ảo, Phạm Mai Châu, họa sĩ lãng tử tâm sự: “Tôi muốn miêu tả vẻ đẹp xưa của người con gái Việt trong trang phục cổ truyền, âm thanh của kiến trúc xưa, hoa lá cỏ cây, ánh sáng và không gian mây trời. Cũng giống như tâm trạng con người, cũng thay đổi, biểu hiện vui buồn. Sự hài hòa giữa ánh sáng, âm thanh của thiên nhiên và vẻ đẹp của con người là đề tài của nhiều tác giả và mỗi người thể hiện nó với cảm nhận và sự tưởng tượng riêng của mình”. Lan Anh HOẠ SĨ PHẠM MAI CHÂU Sinh ngày 24-12-1953 1971: tốt nghiệp hệ bảy năm trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam 1989: tốt nghiệp Ontario College of Art, Toronto, Ontario, Canada, Chuyên ngành Mỹ thuật, Thiết kế nội thất, Công nghiệp và Đồ họa. Hiện đang công tác tại Khoa tạo dáng công nghiệp Viện Đại học Mở Hà Nội . Đã có triển lãm cá nhân và nhóm tại nhiều nơi: Hà Nội, TP.HCM, HongKong, Mỹ, Canada. Giải Nhì về tranh năm 1975 Giải Nhất về tượng năm 1977 ( Nguồn vtc.vn/ http://cuasotinhoc.vn)
  14. Ảnh sưu tầm từ internet.
  15. Yếm thắm mỏng manh Bộ văn hoá thông tin Cô thôn nữ tóc vấn khăn, yếm cổ xây hoặc cổ viền với quần sồi, quần lĩnh mộc mạc là hình ảnh tiêu biểu cho lối ăn mặc xưa. Chiếc áo yếm của người phụ nữ Việt Nam xưa trông thật đơn giản nhưng thực ra có rất nhiều loại. Chiếc áo yếm đã có mặt trong đời sống từ thuở vua Hùng dựng nước xa xưa với chiếc cổ xây được khoét tròn và viền một cách tỉ mỉ. Chiếc cổ áo tưởng chừng như quá đơn giản này lại tôn thêm vẻ đẹp của chiếc cổ thiếu nữ ba ngấn. Ngoài ra còn yếm cổ xẻ, mới hơn là yếm cổ kiềng. Những dải yếm với màu sắc khác nhau từ hai mép yếm buộc choàng sau lưng, dải thừa buông xuống váy. Các cô gái thị thành thích mặc yếm trắng, yếm hồng, còn ở nông thôn mặc yếm nâu, hoa hiên, khi lễ hội là yếm đào, yếm đỏ... Thông thường, yếm mặc trong áo buông vạt, nên một phần yếm trước phô thấp thóang sau hai tà áo. Hình ảnh người phụ nữ thôn quê giữa ngày hè nóng bức mặc yếm không, để cả phần lưng và lườn hở từng đươc coi là đẹp: Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh. Nhưng áo yếm không chỉ đơn giản là một thứ trang phục mà còn có những ý nghĩa và giá trị về tinh thần cũng như nghệ thuật. Lãng mạn trong các câu ca dao, chiếc yếm ấm áp tình người đã trở thành một hình ảnh đẹp, trong sáng của tình yêu: Trời mưa trời gió kìn kìn. Đắp đôi dải yếm nghìn chăn bông. Tình yêu có biết bao điều kỳ diệu. Chính vì vậy, người ta không thể mang những thực tế logic thường ngày để đánh giá nó. Chỉ một đôi "dải yếm" thôi cũng có thể sưởi ấm lòng người vượt qua sự giá lạnh đáng sợ của mùa đông: Thuyền anh mắc cạn lên đây. Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền. Tính phi thực tế của cách nói ngoa dụ trong ca dao mới tài tình, mới tuyệt diệu làm sao khi chàng trai mượn đôi dải yếm để kéo đò mắc cạn còn nàng thôn nữ lấy đôi dải yếm để bắc chiếc cầu qua con sông tình cảm cho người mình yêu: Ước gì sông rộng chừng gang. Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. Sự ngăn sông cách núi trong cách nói và trong thơ ca cổ xưa chính là sự xa cách của những tâm hồn, những nỗi lòng mong nhớ. Nỗi niềm trong câu ca dao cũng giống như một ước nguyện khó có thể và nói đúng hơn là không thể nào thực hiện được. Dòng sông sao có thể "chừng gang" và "dải yếm" sao có thể trở thành cây cầu. Đó là lối nói thậm xưng quen thuộc trong dân gian. Dòng sông này cũng có thể là tồn tại trên thực tế nhưng có thể chính là dòng sông ngăn trở trong lòng của mỗi người. Câu ca dao này đã vượt qua khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Chiếc cầu dải yếm là một sự tượng hình ý nhị đầy ẩn ý. Nó cũng như là lời bày tỏ tình cảm của một cô gái ẩn chứa sự thẹn thùng trong mỏng manh của "cầu dải yếm". Nó vừa rất gần mà cũng rất xa. Bước qua cây cầu "dải yếm" là ngưỡng cửa của những tâm hồn, của những thể xác đang rạo rực, đang yêu. Ý nhị và trữ tình hơn khi cô gái muốn mượn dải yếm nơi mình, ấp ủ tình cảm trong sáng muốn gửi gắm tới chàng trai: Trầu em têm tối hôm qua. Buộc trong dải yếm mở ra mời chàng. Không chỉ gợi cho người ra một vẻ đẹp cao quý, trong sáng mà hình ảnh "áo yếm" còn là một cái gì đó hết sức thực tế và trần tục. Yếm dùng để che ngực bởi vậy xung quanh chiếc yếm này là những câu chuyện trữ tình. Theo quan niệm xưa những màu chói như màu đào, màu thắm chỉ các cô gái bạo dạn mới dám mặc, và khi đã mặc thì đến nhà tu hành cũng không thể nào tránh khỏi những đam mê trần tục: Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư Sư về sư ốm tương tư Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu. Ý nghĩa biểu cảm của chiếc áo yếm cũng giống như cái duyên đằm thắm, mặn mà của người con gái. Với một mảnh vải vát nhọn ở phía dưới được vòng quanh cổ và ngang ngực bằng những dây buộc mảnh, kín đáo mà hết sức tự nhiên chân thực nó đã góp phần tạo ra một cái đẹp hoàn hảo, làm say lòng bao nhiêu quân tử. Hơn thế, chiếc áo yếm còn hàm chứa trong nó bao nhiêu tình, bao nhiêu ý: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím Em có chồng rồi trả yếm cho anh Hoa cúc vàng nở ra hoa xúc xanh Yếm em em mặc, yếm chi anh đòi Lời đối đáp của những người có tình, rất thật, rất nhẹ nhàng, mà lại bông đùa. Hoa tình yêu giờ đã đổi màu, không vàng, không tím cũng giống như tình yêu đã không cập được đến bến bờ hạnh phúc. Vẫn là người con gái ấy, vẫn áo yếm duyên dáng chỉ khác rằng hoa cúc đã màu xanh và chiếc áo yếm như lời ước hẹn nay đã thành lỗi hẹn. Sự trách móc mang chút dỗi hờn chưa dứt giữa hai người. Dải yếm mỏng manh không thể níu người ở lại nhưng cũng đủ làm vương vấn một chút tình. Con người mang theo cuộc sống trong mình luôn luôn chuyển động nhưng sự độc đáo và đặc sắc của áo yếm dường như là một vẻ đẹp vĩnh hằng. Yếm có mặt từ thuở trong nôi tới khi có sự gặp gỡ Đông Tây, để từ đó người phụ nữ lựa chọn, nhập thân chiếc yếm cổ truyền vào chiếc nịt ngực hiện đại. Ngày nay, trong cuộc sống hàng ngày, người ta không còn mặc yếm nữa. Nhưng không phải vì thế mà giá trị nghệ thuật của nó bị mất đi. Ta có thể thấy những cô áo yếm với áo tứ thân, nón quai thao tại những ngày hội hoặc nghe hát chầu văn. Vẫn là nó, vẫn đơn giản mà cuốn hút kỳ lạ không gì thay thế được. Và cũng chính vì vậy mà nó vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng sáng tác không chỉ cho thơ ca hiện đại mà còn cho các nhà tạo mẫu. Những bộ trang phục cách tân dựa trên hồn của chiếc áo yếm luôn luôn đầy sự khám phá và sáng tạo. Ở một nơi nào đó rất xa, có lẽ chiếc áo yếm vẫn còn tồn tại ngay cả trong cuộc sống thường ngày. Nguồn: http://tieulun.hopto.org
  16. Chiếc yếm và cuộc hành trình cùng thời gian Trong trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, chiếc yếm là cái được tôn vinh nhiều nhất trong ca dao và thơ. Chiếc yếm là báu vật của tình yêu, là “của làm tin”, là thứ gói ghém bao lời thề nguyền, hẹn ước. Trong ca dao, chiếc yếm còn được thăng hoa trở thành biểu tượng của giấc mơ hạnh phúc, của khát vọng tình yêu ngọt ngào, quyến rũ, đắm say. "Khăn nhỏ đuôi gà cao Em đeo dải yếm đào Quần lĩnh áo the mới Tay cầm nón quai thao" Khổ thơ miêu tả cô gái đương thì với trang phục "ngày xưa" của Nguyễn Nhược Pháp trong bài thơ Chùa Hương đã in sâu vào tâm trí bao thế hệ người Việt. Yếm đào, quần lĩnh, áo the, nón quai thao... bây giờ còn đâu? Và chúng ta hãy đến với chiếc yếm đào. Vào những ngày vui, những dịp hội hè, đình đám, những ngày tết đến, xuân về, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thuở xưa chiếc yếm đào cùng với cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, chiếc nón quai thao, chiếc dây lưng đũi lại tỏa sáng với sức cuốn hút kỳ lạ. Và nó đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp mộc mạc dịu dàng, e ấp và trong sáng, hồn hậu nhưng đầy sức hấp dẫn của người phụ nữ Việt Nam xưa. Hàng trăm năm đã trôi qua! Ngày nay, những dây lưng đũi, những áo tứ thân, những váy Kinh Bắc, những áo dài mớ ba, mớ bảy... đã gần như được cất vào bảo tàng dân tộc. Thỉnh thoảng, người ta mới được nhìn thấy nó trong những vở chèo, hay những bài ca, điệu múa dân gian. Thế nhưng, một điều thật kỳ lạ là, có một tấm áo mỏng manh, nhỏ bé, khiêm nhường, vẫn làm say lòng người. Đó chính là chiếc yếm. Vậy điều gì đã tạo cho chiếc yếm mong manh sức sống dị thường đến thế? Xin bắt đầu câu chuyện về chiếc yếm đào từ nơi nó được sinh ra. Tương truyền, chiếc yếm xuất hiện đầu tiên ở vùng Kinh Bắc, thuộc đất Bắc Ninh ngày nay. Mục đích ban đầu của nó là một tấm áo sinh ra để mặc lót, che cái phần gợi cảm nhất trên cơ thể người phụ nữ. Và như vậy, chiếc yếm có vai trò như chiếc “áo con” mà các cô gái vẫn mặc ngày nay. Chiếc yếm xưa có cấu trúc không cầu kỳ. Đó là một mảnh vải vuông, phía dưới được vát nhọn, vòng qua cổ và ngang ngực bằng hai sợi dây buộc mảnh. Trong những ngày vui hoặc các dịp hội hè, đình đám, những cô gái trẻ thường mặc yếm đào, yếm hồng, hoặc yếm thắm... khoác bên ngoài là chiếc áo tứ thân, hoặc áo dài mớ ba, mớ bảy. Còn trong các ngày lao động, họ thường mặc yếm trắng, yếm xám... khoác bên ngoài là chiếc áo nâu giản dị. Nhưng nhìn chiếc yếm đẹp nhất là khi nó được mặc mà không cần sự "hỗ trợ" trang phục khác. Một tấm lưng trần che hờ bằng một mảnh vải mỏng manh, vẻ đẹp vừa dịu dàng, vừa thuần khiết trong sáng, vừa trần tục và gợi cảm, đủ khiến bất cứ chàng trai nào nhìn thấy cũng phải xiêu lòng. Dấu vết lịch sử của chiếc yếm mà ngày nay người ta còn tìm lại được là ở ngôi nhà cổ số 38 phố Hàng Đào. Ngôi nhà này là trụ sở Ban Quản lý phố cổ Hà Nội, nhiều nét kiến trúc của nó đã bị sửa sang theo hướng hiện đại hóa nhưng may mắn vẫn còn giữ lại được một tấm bia đá ghi lại đây vốn là đình thờ cụ tổ của những người bán yếm lụa. Ngay từ cửa ra vào, người ta có thể bắt gặp dòng chữ đen nổi bật trên nền vôi vàng. “Đồng Lạc quyến yếm thị” nghĩa là: “Ngôi đình của chợ bán yếm lụa” (giáo sư Trần Quốc Vượng dịch). Qua những dấu tích để lại, chúng ta có thể biết rằng phố Hàng Đào xưa là chợ bán yếm lụa to nhất, nhộn nhịp và đông đảo nhất kinh thành Thăng Long. Và có lẽ cái tên Hàng Đào cũng ra đời và tồn tại từ thuở đó. Các cô gái ngày xưa từng có một ước mơ thật táo bạo: "Ước gì sông hẹp một gang. Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”. Vì sao cô gái không thích bắc cầu bằng một thứ khác? Dải lụa? Hay chiếc khăn buộc đầu? Mà cứ khư khư bắc cầu bằng dải yếm? Có lẽ... vì cả chàng trai và cô gái đều ngầm hiểu một sự thật bí mật, tế nhị mà vô cùng táo bạo rằng, dải yếm chính là thứ mà chàng trai khát khao được chiêm ngưỡng nhất trong trang phục, trên cơ thể người thiếu nữ. Theo thời gian, chiếc yếm càng đi vào thơ, vào nhạc, và đặc biệt tỏa sáng trong nghệ thuật nhiếp ảnh. Đỗ Lan Hương với bộ sưu tập ảnh yếm của mình đã vượt qua tất cả các tác giả khác để trở thành đại biểu Việt Nam duy nhất đi tham dự Hội nghị nhiếp ảnh Á - Âu, tổ chức tại Singapore tháng 6/2002. Và tại đây, bộ sưu tập của chị đã gây sửng sốt với bạn bè quốc tế. Bên cạnh những bức ảnh lộng lẫy, cầu kỳ, với nghệ thuật tượng trưng, siêu thực... bộ sưu tập ảnh của Lan Hương càng tỏ ra giản dị và thuần khiết. Bởi nó phù hợp với những bức tranh người phụ nữ Việt Nam xưa với dải yếm, trên nền của những mảng tường vôi bạc màu mưa nắng, những viên gạch, viên ngói phủ màu rêu xanh, những vườn cây, giếng nước, sân đình bàng bạc hắt lên một không gian xưa. Họ là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống đầy nhân văn, ẩn chứa cả một nền văn hóa nguyên sơ, phong phú, hồn hậu và chân tình. Một cái đẹp chỉ có ở Việt Nam và chỉ bắt gặp ở những người phụ nữ Việt Nam. Đỗ Lan Hương kể lại, chị đã mất hàng tháng trời làm việc cật lực tại chùa Bổ ở Bắc Ninh, ngôi chùa mà theo chị còn giữ lại nhiều nhất những nét kiến trúc xưa cũ. Dễ hiểu vì sao, những tấm ảnh của Đỗ Lan Hương lại được chọn để trưng bày vĩnh viễn tại Ngôi nhà nhiếp ảnh Á - Âu. Sàn diễn thời trang cũng là nơi người ta được khám phá những vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại về chiếc yếm. Rất nhiều nhà tạo mẫu thời trang có tên tuổi hiện nay như La Hằng, Tiến Lợi, Thu Hằng... đã lấy đề tài chiếc yếm làm nguồn cảm hứng sáng tạo cho các trang phục của mình. Tiến Lợi được nhắc đến nhiều với bộ sưu tập thành công của anh mang tên: “Sắc màu quê ngoại”. Ở đó, người ta bắt gặp rất nhiều màu tím biếc, tím hồng... màu truyền thống của chiếc yếm cổ đang lung linh tỏa sáng. Anh tâm sự rằng, “Sắc màu quê ngoại”, với anh, nghĩa là màu của bà và của mẹ, màu của quê hương, của tuổi thơ với những gì trong sáng nhất. Thông điệp mà anh muốn gửi gắm sau một thời gian dài mày mò, sáng tạo và tham gia những khóa học thời trang ở một số nước trên thế giới, là: “Tại sao các nhà thiết kế Nhật Bản tìm được chỗ đứng trên thời trang quốc tế bằng chiếc Kimono mà các nhà thiết kế thời trang Việt Nam lại không tự khẳng định vị trí của mình từ chiếc yếm cổ truyền”. Bây giờ, trong làng diễn thời trang, thỉnh thoảng người ta vẫn còn nhắc lại câu chuyện của người mẫu Trần Bảo Ngọc. Đoạt giải Hoa hậu qua ảnh báo Thế giới phụ nữ năm 2000, Trần Bảo Ngọc đã nhận được một phần thưởng là một chuyến du lịch sang Italia. Trước khi đi, chị đã băn khoăn rất nhiều về việc lựa chọn trang phục để mặc tại nước bạn. Sau nhiều trăn trở, cuối cùng, chị đã xếp trong vali của mình những bộ trang phục cách tân từ chiếc yếm đào và váy vùng Kinh Bắc. Chị đã hồi hộp và lo lắng suốt chuyến đi vì sợ trang phục của mình rất có thể trở nên lạc lõng. Nhưng thật không ngờ, trong những buổi dạ tiệc, dạ hội, trang phục của Bảo Ngọc đã gây sự thích thú và ngưỡng mộ với bạn bè Italia. Họ đã hỏi chị rằng: “Vì sao chị chưa một lần đến Italia mà có thể chọn một trang phục đẹp và phù hợp đến thế?”. Bảo Ngọc trả lời: “Tôi không hề biết đến điều đó. Trang phục tôi mặc hoàn toàn là yếm, áo váy truyền thống của Việt Nam đã được cách tân”. Và ngày hôm sau, dạo bước trên những con đường của thủ đô Roma, Bảo Ngọc ngỡ ngàng nhận thấy ngợp trời là những màu tím biếc, tím hồng và những kiểu dáng rất giống chiếc yếm cổ truyền của Việt Nam. Trang phục truyền thống mà chị lựa chọn lại hoàn toàn phù hợp với trang phục châu Âu những năm 2000. Thì ra, chiếc yếm cổ xưa lại mang trong nó một vẻ đẹp hiện đại và sức hấp dẫn không chỉ vượt thời gian mà còn vượt không gian nước ta, ra nước ngoài. Cuộc hành trình vượt thời gian của chiếc yếm, chính là cuộc hành trình của cái đẹp giản dị luôn luôn tỏa sáng Đỗ Thanh Hương Nguồn: http://antgct.cand.com.vn
  17. 38 Hàng Đào - đình chợ yếm lụa Hà Nội xưa. Mặc dù nhà sử học Dương Trung Quốc, người đang ở trong một ngôi nhà khá cổ ở phố Hàng Đường, đã từng nghi vấn liệu có hay không phố cổ Hà Nội, song thủ đô vẫn cứ phải tiến hành công tác phục chế những ngôi nhà lâu đời của mình. Năm 1995, Ban Quản lý các dự án thí điểm phố cổ, phố cũ, trực thuộc Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội đã được thành lập. Năm 1998, ban được đổi tên thành Ban Quản lý phố cổ, do Phó Chủ tịch Thành phố làm trưởng ban, chủ yếu giải quyết những vấn đề phố cổ ở quận Hoàn Kiếm. Năm 1995, Ban đã đưa ra con số 1000 ngôi nhà cổ. Năm 2000, sau nhiều ‘vật đổi sao dời’, con số này đã sụt xuống đáng kể, có lẽ chỉ còn số trăm… Tuy nhiên, đến tháng 10 năm 1999, bà Tô Thị Toàn, kiến trúc sư, Phó Ban quản lý phố cổ Hà Nội cho biết: Mới chỉ có ‘độc trọi’ một ngôi nhà cổ số 87 phố Mã Mây, một con phố nằm theo chiều lượn của sông Hồng, là đã được cải tạo, tôn tạo, với kinh phí 330 triệu đồng. Năm 2000, tháng 4, một ngôi nhà cổ, ngôi đình thì đúng hơn, số 38 Hàng Đào đã được tôn tạo với chi phí lên tới 600 triệu đồng Việt Nam. Hai ngôi nhà tôn tạo với con số tiền tỷ này là do hảo tâm của thành phố Toulouse tài trợ, còn sức người, sức của giải toả hai ngôi nhà này là do Hà Nội tự chịu trách nhiệm. Thế là giữa một dãy phố buôn bán sầm uất nhất Hà Nội, bắt đầu từ Hàng Đào, Hàng Ngang, kéo dài đến Hàng Đường và mặt tiền chợ Đồng Xuân mới, đã xuất hiện ngay từ quãng đầu phố Hàng Đào một ngôi đình được phục chế với hệ thống cổng, sân, nhà hai tầng bên trong, các câu đối, các vách ngăn… cho đến sân sau trồng hoa cỏ hẹp và thắt lại theo địa hình đúng như ở các ngôi nhà hình ống vốn san sát bên nhau ở phố Hàng Đào. Bên trên cổng giữa, dưới mái cổng là một hàng chữ Hán đen nổi bật trên nền vôi vàng. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết năm chữ này là ‘Đồng lạc quyến yếm thị’. Thì ra đây là ngôi đình của chợ bán yếm lụa ngày xưa của Hà Nội. ‘Đồng lạc quyến yếm thị' (từ phải sang trái) - Đình làng Đồng Lạc, ngôi nhà số 38 Hàng Ngang Hà Nội (Minh Thái) Đình Đồng Lạc - một di tích còn sót lại. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, ngày xưa Thăng Long là một thành phố sông, hồ. Nơi chúng tôi đang đứng đây, số 38 Hàng Đào, xưa có lẽ là một chợ bán yếm của một phường nghề chuyên nghề dệt nhuộm truyền thống. Dãy nhà số chẵn được xây dựng theo thuật phong thủy bao giờ cũng thấp hơn dãy nhà số lẻ. Ngày xưa, bên kia phố Hàng Đào có hồ Thái Cực thông với Hồ Gươm bằng một con lạch nhỏ, sau bị lấp lại thành phố Cầu Gỗ. Ngày xưa ấy hai phường Đồng Lạc và Thái Cực cùng chung một phố bán hàng, vậy nên Hà Nội ba mươi sáu phố phường đã có tình trạng ‘một phường hai phố’ và ‘một phố hai phường’. Các nhà tôn tạo ngôi đình Đồng Lạc số 38 Hàng Đào này đã hết sức chú ý đến cổng đình. Các cánh cửa của cổng ra vào vẫn được phân bổ theo nguyên tắc truyền thống: cửa giữa to cao, cửa hai bên thấp. Tất cả những chữ Hán ở cổng đình và ở một số câu đối treo ở gian trong, cách cổng đình một cái sân giời và ở trên gác hai của ngôi đình, đều được cán bộ Viện Hán Nôm đến dập chữ, rồi thuê thợ phục hồi như cũ. Vật thể quan trọng nhất còn lại của đình Đồng Lạc chính là một tấm văn bia gắn trên tường bên phải gần điện thờ trên tầng hai. Trăm năm bia đá cũng mòn, tấm văn bia dầu dãi nắng mưa rất khó đọc, tuy thế giáo sư Trần Quốc Vượng vẫn đọc được bốn chữ ‘Quyến yếm thị đình’, diễn Nôm là đình của chợ bán yếm lụa. Người soạn văn bia là ông Phạm Đình Hoãn, cử nhân, quê ở phủ Khoái Châu Hưng Yên. Đình này được lập ra từ thời Hậu Lê. Cũng theo giáo sư Trần Quốc Vượng, văn bia đã cho hay: đình Đồng Lạc được sáng lập từ thời Hậu Lê do ông Nguyễn Công Trung và bà Nguyễn Thị Từ dựng lên đầu tiên và đã từng bị hoả hoạn trước năm 1856. Thăng Long xưa từng rất phát triển nghề dệt lụa. Có thể hình dung ra một nửa phần đầu của phố Hàng Đào xưa là một chợ bán yếm lụa to nhất, nhộn nhịp, đông đúc người bán mua nhất ở Thăng Long. Thứ yếm dệt từ chất liệu tơ tằm được ưa chuộng bởi khi mặc người ta cảm thấy vừa dễ chịu thoải mái, lại vừa kín đáo. Tất nhiên, trước khi có văn hoá mặc yếm thì phải có nghề dệt vải cổ truyền trước đã. Theo truyền thuyết, nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ lụa có ở nước ta từ thời Hùng Vương và công chúa Thiều Hoa con vua Hùng thứ 6 đã phát minh ra nghề dệt lụa. Chung quanh Thăng Long xưa nghề dệt vải lụa đã xuất hiện như một nghề với những làng dệt cổ truyền: làng Nghi Tàm, làng Dâu, làng Thúy Ái… Từ con tằm nhỏ đã cho ra các sản phẩm phong phú: tơ, lụa, lượt là, gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, dũi, địa, nái, sồi, thao, vân… Thế kỷ 18, người Việt còn dệt được các loại lụa đẹp từ các vân tinh xảo: vân tứ quý, vân hồng điệp, vân trúc điều, vân phương thọ, vân chữ hỉ, chữ triệu… Trong cuốn ‘Vương quốc Đàng ngoài’, tác giả Baron đã mô tả: “Kỹ nghệ dệt tơ lụa ở đây rất phát triển đến nỗi kẻ giầu, người nghèo đều mặc quần áo bằng tơ lụa”. Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, giáo sĩ Bissachèse đến Thăng Long và các tỉnh Bắc Kỳ đã nhận xét: kỹ thuật của nghề dệt ở Thăng Long và Bắc Kỳ đã đạt tới mức độ cực thịnh. Ý nghĩa văn hoá của nhà 38 Hàng Đào. Trong tổng thể bộ trang phục phụ nữ xưa, cái yếm là đồ lót mặc trong cùng, ôm lấy khuôn ngực, che chắn và trang điểm bên trong, làm đẹp bên trong. Yếm cổ là một miếng vải đặt chéo lên ngực người phụ nữ, góc trên cổ khoét tròn. Yếm cổ xẻ khoét xuống thấp hơn, hình chữ V. Nếu sâu hơn nữa gọi là yếm cánh nhạn. Nhưng yếm được tạo dáng rất ý tứ, không bao giờ lộ vùng ngực thái quá như các loại yếm hiện đại bây giờ. Trong nếp nhà truyền thống, phụ nữ thường tự mua lấy tơ tằm mà may yếm cho mình. Thế thì tại sao Thăng Long Kẻ chợ lại còn xuất hiện cả một cái chợ dành cho phường bán yếm? Tôi dự đoán trong cái ngày huy hoàng yếm lụa xa xưa ấy, từ các chốn làng quê, những sản phẩm tuyệt hảo của tơ tằm đã đổ về đây để đàn bà con gái Thăng Long những ngày sắp lễ hội, rủ nhau đến chọn tơ tằm may yếm lụa, và không chỉ thế, họ còn sắm sửa lụa là gấm vóc để may quần áo tứ thân, năm thân, áo cánh, thắt lưng, khăn vấn… và kể cả đồ trang sức vàng bạc nữa. Ngôi nhà 38 Hàng Đào đáng được tôn tạo vì ý nghĩa văn hoá của nó. Nguồn: http://www.radioaustralia.net.au
  18. Nguồn: http://www.quehuong.org.vn/ Áo yếm - di sản trang phục Việt Nam Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài duyên dáng từ lâu đã trở thành biểu tượng của Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình phát triển lịch sử trang phục dân tộc, Việt Nam không chỉ có áo dài mà còn có áo yếm - thứ trang phục không thể thiếu của người con gái xưa. Xưa kia áo yếm thường chỉ được gọi với cái tên nôm na là cái yếm, đó là thứ trang phục đã có từ bao đời nay và vẫn còn giữ được cho đến ngày hôm nay. Không chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ công nương, cái yếm còn ra ruộng đồng "dầm mưa dãi nắng" với người nông dân và cùng với chiếc áo tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp phần tạo nên bộ "quốc phục" của quý bà thời xưa. Cái yếm xuất hiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam từ lâu nhưng mãi tới đời nhà Lý cái yếm mới "định hình" về cơ bản. Theo dòng lịch sử, cái yếm không ngừng biến đổi, nâng cao tính thẩm mỹ qua những lần cải tiến. Tuy nhiên, "cuộc cách mạng" của cái yếm chỉ xảy ra vào đầu thế kỷ trước khi cái quần kiểu Tây và cái váy đầm xoè xâm nhập vào Việt Nam. Ơ' thế kỷ 17, cái yếm vẫn chưa có sự thay đổi lớn lao về hình thức. Thế kỷ 19, cái yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét lỗ làm cổ, hai đầu của lỗ, đính hai mẩu dây để cột ra sau gáy. Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xẻ, đít chữ V mà xẻ sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn. Bước sang thế kỷ 20, áo yếm càng được sử dụng phổ biến với nhiều kiểu dáng và mẫu mã phong phú. Dành cho người lao động có yếm màu nâu dệt bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Con gái nhà gia giáo mặc yếm nhiều màu, trang nhã và kín đáo. Loại yếm "ỡm ờ", màu sặc sỡ, cổ cắm sâu trễ quá bờ ngực, "thách thức" chỉ dân "trời ơi" dạng Thị Mầu mới mặc. Thời kỳ "cách tân" này, cổ yếm thường được "dằn" thêm ba đường chỉ để "bảo hiểm" hoặc may viền lằn vải, thêu hoa cặp theo đường biên cổ. Một loại yếm hay được các cô gái sử dụng nữa là "yếm đeo bùa". Gọi là yếm đeo bùa bởi người mặc chúng thường để xạ hương vào trong túi vải nhỏ đeo cạnh yếm, đó chính là thứ vũ khí vô cùng lợi hại của các cô gái thời xưa... Không chỉ vậy, chiếc yếm còn làm nên những câu chuyện tình yêu vô cùng độc đáo. Xưa, các cô gái khi hẹn hò người mình yêu thường "ém" một miếng trầu trong chiếc yếm của mình, dân gian gọi đó là "khẩu trầu dải yếm". Có lẽ không có thứ trầu nào "linh thiêng" hơn loại trầu dải yếm này. Để trở thành "quốc phục" của quý bà quý cô trước khi chiếc áo dài ra đời, đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh khoác ngoài không cài cúc. Khi ra ngoài bên ngoài chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài, chiếc váy lưỡi trai bằng lĩnh, dải lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái xà tích bạc lủng lẳng, bộ "độ nghề" ǎn trầu bên phía cạnh sườn, chân mang dép. Chưa hết, phục trang ra đường còn phải kể đến là hai chiếc khǎn đội đầu: khǎn nhiễu (quấn bên trong) và khǎn mỏ quạ (trùm bên ngoài). Nếu đúng dịp hội hè đình đám các cô gái thường trang bị thêm cho mình chiếc nón quai thao, tóc vấn cao cài lược. Suốt chiều dài lịch sử, cái yếm đã đi vào "giấc mơ" của biết bao thế hệ mày râu. "Trời mưa lấy yếm mà che - Có anh đứng gác còn e nỗi gì?". Đáp lại, các nàng cũng chẳng vừa: "Ước gì sông hẹp tày gang - Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi". Cái yếm là thứ trang phục vừa kín đáo, vừa... “ỡm ờ” một cách nghệ thuật và độc đáo. Chả thế mà Thị Mầu nói với chàng nô:" Gió xuân tốc dải yếm đào - Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương!". Thu Hương
  19. Thời Nguyễn, duy trì loại phấn nụ dùng cho cung đình ở Huế. Loại phấn này được chế từ nước mưa để trong, bột nhũ thạch cao loại hảo hạng (nhập từ Trung Quốc) trộn với 10 vị thuốc bắc, phải qua ngâm ủ, phơi nắng, phơi sương, chế biến theo công thức đặc biệt và lưu truyền bí mật. Phấn chỉ có 2 màu trắng và hồng. Phoenix đã thử nghiệm loại phấn này, phấn không giữ được lâu nhưng độ mịn và trơn của da thì rất rõ, lại thêm không bị mụn. Tuy nhiên, về lâu dài chắc chắn da sẽ bị sạm do chất cao lanh. Tục Ăn trầu của người Việt là để thay thuốc hơn là làm đẹp. Môi đỏ chỉ là hệ quả may mắn cho phái nữ. Khi ăn trầu, chất vôi, chất polyphenol trong lá trầu, chất tannin và alkaloid trong cau giúp làm thơm miệng, sạch răng và giúp tiêu khí, chống ợ chua, sôi bụng, trị giun sán .... Nước trầu chữa được sài đẹn. Trên thực tế, ăn trầu nhiều làm lở môi (nứt khe), thâm môi chứ không làm đỏ môi. Thời cụ Nguyễn Du đã ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khá nhiều, trong khi đó mỹ phẩm của các triều đại Trung Quốc xa xưa đã rất phát triển. Mặc nhiên mỹ phẩm của Việt Nam thời đó cũng sẽ ăn theo ít nhiều. Trở lại thời hồng hoang, người Việt cổ được mô tả là tộc người hay vẽ lên cơ thể các hình với mục đích tạo uy lực và gây nhầm lẫn cho kẻ thù (thú). Các loại bột đá + các chất keo trong cây cối tự nhiên hoàn toàn có thể được khai thác để làm màu vẽ. Ở các tộc người chậm phát triển còn tồn tại hiện nay, đặc trưng này còn tồn tại rất rõ (các nước thuộc nam Phi, châu Úc...). Riêng vụ ăn chơi thì thời nào cũng vậy. Xã hội chứa nhiều giai tầng và ở đâu có hưởng thụ hoan lạc ở đó sẽ có "tệ nạn". Không chừng, đời xưa còn "ăn chơi" mạnh bạo hơn bây giờ vì điều kiện quyền lực và vật chất có thể đạt tối đỉnh. Trong sử sách cái xấu thường ít được lưu truyền.
  20. Anh (chú) Tầm nhìn mới quả là có vốn ngôn ngữ thật phong phú. Kính phục <_<
  21. Nguồn: dothi.net Trụ sở chính HSBC ở Hong Kong Tòa nhà của ngân hàng lớn nhất Hong Kong này nằm ở số 1 Queen's Road, ngay khu trung tâm. Tòa nhà do KTS nổi tiếng người Anh, Norman Foster, thiết kế và do Tập đoàn Xây dựng Wimpey Construction thi công. >> Tòa nhà Ngân hàng Trung Hoa Mặt tiền tòa nhà. Ảnh: Wikipedia Công trình nổi bật giữa Hong Kong vào buổi tối. Ảnh: Greatbuildings. Kể từ khi ý tưởng hình thành cho tới khi hoàn tất, công trình đã mất tới 6 năm (từ 1979 đến 1985). Tòa nhà cao 180 m với 47 tầng và 4 tầng hầm. Công trình đã sử dụng khoảng 30.000 tấn thép và 4.500 tấn aluminium, được thiết kế theo dạng module. Có rất nhiều phần đã được gia công tại Anh, sau đó chuyển qua đường tàu biển tới Hong Kong. Điều đặc biệt của tòa nhà là không có những cột, dầm bê tông hoành tráng phía bên trong như hầu hết các công trình nhà cao tầng khác. Người ta đồn với nhau rằng thiết kế đặc biệt đó cho phép công trình có thể tháo dỡ và chuyển đi nơi khác. Ở đây, có thể nhìn thấy những tấm gương khổng lồ ở khắp mọi nơi. Ánh sáng tự nhiên "được phép" tràn ngập mọi không gian. Những thang cuốn và các tấm gương khổng lồ trong tòa nhà. Ảnh: Greatbuildings Hệ thống cột được coi là có thể di động bên trong tòa nhà. Ảnh: Greatbuildings Tòa nhà là một trong số ít những cao ốc không có thang máy nâng từ tầng dưới lên đến tầng trên cùng. Thay vào đó, thang máy chỉ dừng ở một số ít tầng và các tầng được nối với nhau bằng những thang cuốn. Một phần hành lang và ban công mới của khu nhà do KTS Greg Pearce của One Space thiết kế. Pearce cũng là KTS chính của hệ thống ga tàu tốc hành RMT Hong Kong. Ý tưởng chính của tác giả là sử dụng hệ thống kính với phong cách tối giản, phần hành lang mới được thiết kế để tạo sự tương đồng cho thiết kế hiện có của Foster. Phía khu sau của tòa nhà là hai tượng sư tử khá lớn. Mặt chính của tòa nhà nhìn thẳng ra cảng Vitoria, không bị bất cứ một chướng ngại nào phía trước nên nơi đây được coi là có phong thủy rất tốt, điều mà cả người Trung Quốc (sở hữu) và người Anh (thiết kế) đều rất quan tâm. Ngoài ra, phía sau của tòa nhà còn có hai tượng sư tử rất lớn. Bức tượng này được đúc ở Thượng Hải năm 1935 sau đó được chuyển tới Hong Kong. Cả hai từng bị người Nhật nung chảy trong Thế chiến thứ hai nhưng đã được khôi phục sau đó. Xét về góc độ phong thủy, việc hai chú sư tử án ngữ ở cửa sau của tòa nhà có ý nghĩa giúp cho doanh thu của ngân hàng luôn ổn định. Tâm Anh tổng hợp
  22. Nguồn: dothi.net Tòa nhà Ngân hàng Trung Hoa Tòa nhà Ngân hàng Trung Hoa (Bank of China Tower - BOC) là một trong những tòa nhà được coi là biểu tượng của đặc khu hành chính Hong Kong. BOC nổi bật giữa khu trung tâm với kiến trúc khá bắt mắt và hiện vẫn là trụ sở chính của Ngân hàng Trung Hoa. Bank of China Tower tại trung tâm Hong Kong. Ảnh: Wikipedia BOC do KTS I. M. Pei thiết kế. Ông KTS người Mỹ gốc Trung Quốc từng đoạt giải thưởng danh giá Pritzker này là chủ nhân của rất nhiều công trình nổi tiếng thế giới như Kim tự tháp bằng kính tại bảo tàng Louvre Pháp, bảo tàng Lịch sử Đức, khu trưng bày nghệ thuật quốc gia Mỹ... Ông được coi là một trong những KTS thành công nhất thế giới trong thế kỷ 20. BOC tọa lạc ở số 1 Garden Road, gần nhà ga trung tâm MTR, khởi công năm 1985 và khánh thành ngày 17/5/1990. BOC có chiều cao 369 m (tính cả phần anten phía trên), với 70 tầng, sử dụng vật liệu chính là khung thép và kính, theo phong cách hoàn toàn hiện đại. Tổng diện tích sàn sử dụng là 100.000 m2. Đây là tòa nhà cao nhất Hong Kong và châu Á cho tới năm 1992. Đây cũng là tòa nhà đầu tiên ngoài biên giới nước Mỹ vượt qua độ cao 305 m. Hiện nay, BOC là tòa nhà cao thứ ba ở Hong Kong, sau Trung tâm tài chính quốc tế và Central Plaza. Thiết kế của tòa nhà là một hình ảnh biểu trưng, có hình dáng của một cây tre nhỏ đang vươn lên. Nó còn là biểu tượng của sức sống và sự thịnh vượng. Toàn bộ kết cấu được chống bởi 5 cột thép chính tại 5 góc của tòa nhà, với các khung hình tam giác biến đổi theo nhiều hướng khác nhau. Khối nhà phía dưới 47 tầng mở cửa rộng rãi cho công chúng. Phần trên, việc ra vào được kiểm soát rất nghiêm ngặt. BOC nổi bật so với những tòa nhà xung quanh, về cả chiều cao, thiết kế và chất liệu. Ảnh: About I. M. Pei đã bị phê phán rất nhiều khi chọn thiết kế cho BOC, nhất là khi xét đến lĩnh vực phong thủy. Kết cấu với các góc nhọn là điều rất kiêng kỵ trong phong thủy, vì theo nguyên tắc, nó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sự thịnh vượng của người cự ngụ. Những hình chữ X ở mặt ngoài tòa nhà cũng được coi là không tốt. Ông Pei đã phải sửa lại thiết kế rất nhiều lần, nhưng cuối cùng vẫn giữ nguyên những đặc điểm chính. Nhìn tổng thể, tòa nhà cũng có hình dáng như một lưỡi dao khổng lồ, cũng là điều không thể chấp nhận được trong phong thủy. Nếu quan sát từ trụ sở chính của HSBC Hong Kong, có thể dễ dàng nhận ra điều này. BOC được xây dựng trên mảnh đất có diện tích 6.700 m2 nơi trước đây là Murray House, một ngôi nhà có từ giữa thế kỷ 19 theo phong cách Victoria. Khu đất sau đó được thu hồi và Chính quyền Hong Kong bán lại với giá 1 tỷ đôla Hong Kong vào tháng 9/1982, thời điểm mà người ta vẫn bàn tán liệu trong tương lai Hong Kong có trở về Trung Quốc hay không. Mọi người nói rằng 1 tỷ đôla là cái giá quá hời vì trước đó, một mảnh đất có diện tích 6.250 m2 của cơ quan Hải quân, được bán với giá 1,82 tỷ đôla Hong Kong tiền mặt. Khu đất BOC phải trả lần đầu 60 triệu USD, phần còn lại trả góp trong 13 năm sau đó với lãi suất 6%. Thế nhưng, vụ mua bán này thực chất cũng không rẻ như người ta tưởng bởi chỉ số Hang Seng Index của thị trường chứng khoán Hong Kong đã giảm 80 điểm và đôla Hong Kong mất khoảng 1,5% giá trị chỉ một ngày sau vụ mua bán. Linh Hương tổng hợp
  23. Giới thiệu 01 bài thơ của tác giả Đông Hồ - người Việt Nam tử vì "thơ" Mua Áo Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi, Em đâu còn áo mặc đi chơi. Bán thơ nhân dịp anh ra chợ, Đành gởi anh mua chiếc mới thôi! -- Hàng bông mai biếc màu em thích, Màu với hàng, em đã dặn rồi. Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo: Kích tùng bao rộng, vạt bao dài ? -- Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ! Thước tấc anh còn lựa hỏi ai Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó, Ngắn dài, người mới tựa bên vai! (Sưu tầm)
  24. Một chút thư giãn cho đỡ "ngán". Ngọc Hoàng cũng chửi thề. Một nhà sư và một cao bồi chơi golf với nhau, mỗi lần đánh trượt, tay cao bồi lại chửi thề. Ông sư tức lắm, mấy lần nhắc nhở mà hắn vẫn quen miệng, cuối cùng ông quở hắn: - Anh mà còn chửi thề nữa là Ngọc hoàng sẽ giáng sét vào anh đấy! Ở gậy sau, tay cao bồi chưa dứt tiếng chửi thì một tiếng sét vang lên... Ông sư lăn ra chết. Trên trời vọng xuống tiếng lẩm bẩm: - Mẹ kiếp, lại đánh trượt rồi! (sưu tầm).
  25. Nguồn: http://www.vantuyen.net Chửi Tác giả: Trần Văn Giang MDC K68 1. Chửi Lời mở đầu: Bài này bàn về sự chửi và chửi thề. Mặc dù tác giả đã hết sức cố gắng tránh dùng những chữ nghĩa đen mà chỉ dùng ẩn ý, nghĩa bóng, hoặc nói trại đi, hoặc dùng chữ có thể hiểu ngầm được cho các ngôn từ chửi. Nhưng rất tiếc, và ngoài ý muốn, nhiều lúc vẫn không thể hoàn toàn tránh được các trường hợp phát âm hoặc chữ viết với ý nghĩa thô tục. Xin nhấn mạnh là nếu đề tài này không thích hợp với quí vị độc giả thì xin phép quị vị dừng ở đây và xin miễn đọc những dòng kế tiếp. Ngôn từ để chửi đã có từ thời tiền sử lúc con người mới biết cách nói chuyện với nhau; và tiếng chửi thề cũng đã tiến triển theo văn minh con người qua vài ngàn năm. Mọi người đều tự nhiên biết chửi thề chứ môn chửi thề không có dạy ở trường nào cả. Chửi thề được dùng như một trong những phương tiện để diễn đạt tư tưởng của con người từ hình thức thấp nhất thấy ở cuộc sống của giới bình dân ít học, 'dân ngu khu đen,' cho đến hình thức cao nhất trong các mẩu đối thoại của giới thượng lưu, quí tộc và ngay cả trong thơ, văn đã được phổ biến rộng rãi. Người ta nói âm nhạc là một ngôn ngữ quốc tế. Mọi người đều có thể nhận ra được ngay một bài nhạc ngoại quốc hay hoặc dở mặc dù chúng ta không hiểu lời của bản nhạc ngoại quốc đó như thế nào. Vấn đề chửi thề cũng y hệt như vậy. Sống ở đất Mỹ đã lâu, chúng ta thấy nhiều tiếng chửi thề trong Anh Ngữ nếu đem dịch ra tiếng Việt thì thấy nó cũng chẳng xa lạ gì cả. Như vậy, mặc dù địa thế cách xa nhau cả ngàn dặm, chữ dùng để chửi của tiếng Việt cũng tương tự như tiếng Mỹ. Thật lạ. Sự chửi thề có thể làm cho người nghe rất bực mình hoặc nổi giận nếu được dùng không đúng chỗ và không đúng lúc. Đôi khi tiếng chửi thề, nếu dùng đúng lúc và với một giọng đặc biệt, có thể làm người nghe buồn cười. Trong sự gặp gỡ đối thoại giữa các bạn bè thân thiết, tiếng chửi thề có thể xem như chấp nhận được. Nhưng tiếng chửi thề, mặc dù là nhẹ nhàng nhất, không thể chấp nhận được nếu phát rất tự miệng của một trẻ em! Ta thấy cũng cùng một tiếng chửi thề, nếu được nói ra từ một người làm quan lớn, hoàng gia Anh chẳng hạn, thì thấy có vẻ khôi hài; nhưng ngược lại nếu nó nói ra từ một anh chàng tài xế xe đò thì chỉ thấy cái ý nghĩa tục. Ngoài ra, cùng một chữ chửi thề nhẹ được xem như vô thưởng vô phạt hôm nay có thể trở thành không thể chấp nhận được trong tương lai. Giáo lý của các tôn giáo lớn đều đồng ý một điểm là: không nên chửi thề. Có tôn giáo còn cho việc chửi thề là một trọng tội, tuyệt đối không nên làm. Phật Giáo có về ôn hòa hơn, khuyến cáo đạo hữu là chửi thề sẽ làm nghiệp chướng của con người nặng nề thêm. Phật giáo cho rằng chúng ta chửi thề vì cái tâm của chúng ta không yên. Cứ mỗi lần chửi thề, chẳng khác nào như mình tự bỏ thêm một cục đá vô dụng vào cái túi hành trang của mình trên đường đi đến niết bàn. Nho Giáo khắt khe hơn một chút dùng chữ tượng hình để chỉ trích việc chửi thề. 'Hàm huyết phún nhân,' chửi thề cũng như mình ngậm máu phun vào người khác. Chưa biết người khác có bị ảnh hưởng gì không nhưng chính miệng mình đã dơ bẩn truớc rồi ['Tiên ố ngã khẩu'] Thiên Chúa Giáo có vẻ tích cực và rõ ràng nhất trong việc nhắn nhủ giáo dân đừng chửi thề. Thiên Chúa Giáo cho rằng chửi thề là lời của ma quỉ không phải lời Chúa. Các lời răn thấy rất nhiều trong thánh kinh. Trong 10 điều răn tối cao nhất của Thiên Chúa Giáo [Ten Commandments] , điều thứ 3 nói là : 'đừng gọi tên chúa một cách vô ích.' Nói nôm na là 'đừng chửi thề.' Ephesian 4:29 khuyên: 'Chỉ dùng miệng mình để nói ra những lời tốt đẹp, hữu ích cho người nghẹ' Đại để cũng nhắc nhở là 'đừng chửi thề.' Peter 3:10 tuyên bố là : 'Người muốn có đời sống tốt đẹp thì tránh dùng những chữ thô tục của quỉ.' Rõ ràng và xúc tích nhất là James 3:9-12 : 'Tại sao chúng ta lại dùng chính cái miệng đã đọc kinh cầu nguyện, vinh danh Chúa để chửi những lời thô tục? Nước mặn và nước ngọt đâu có thể nào chẩy ra từ cùng một con suối được?' Lại một lần nữa phúc âm dậy 'đừng chửi thề.' Trong thực tế, đời sống phức tạp làm cho chúng ta khó sống một cách thánh thiện ' có nghĩa là sống mà không chửi thề. Tao sao chúng ta phải chửi thề? Bởi vì chúng ta là con người với đầy đủ 'hỉ, nộ, ai', ố.' Thấy những điều trái tai gai mắt không thể bỏ qua được, không nhịn được. Mọi chuyện đều có nguyên dọ Nếu chúng ta tin tưởng là chúng ta có lý do chính đáng, thì chửi thề đuợc. Tôi có lần chứng kiến tận mắt một tai nạn đụng xe trên phố Bolsa. Một tài xế người Việt định vượt qua đèn vàng để đi cho mau. Nhưng chỉ trong một vài giây, anh chợt nhớ là tại ngã tư có đặt máy chụp ảnh để chụp những xe vượt đèn vàng. Vì sợ bị phạt nặng, anh đổi ý, thắng xe lại khi xe của anh đã lấn qua lằn dành cho bộ hành băng qua đường. Anh vội vàng gài số 'dé cho xe lùi lại một chút. Mọi chuyện dường như tốt đẹp nhưng có một điều tại hại là anh quên không đổi từ số 'dé về số 'đi tới.' Đến khi xanh bật lên lại, anh tống ga một cái thì xe của anh chạy giật lùi và đụng vào đầu xe của một anh chàng Mỹ trắng đang đậu cùng hàng ngay phía sau xe của anh. Anh chàng Mỹ bước ra khỏi xe nổi giận và gọi anh chàng VN là 'con của một con chó cái' [son of the *censored*]. Anh chàng VN nghe chửi thì cũng nổi nóng vì cả mẹ của anh lẫn anh đã bị anh chàng Mỹ nầy hạ thấp xuống ngang hàng với chó mẹ và chó con. Anh liền trả lễ lại bằng cách gọi anh Mỹ trắng là 'một tên vô lại loạn luân' ['Mother F+++++'] May mà người đi đường kịp thời nhảy vào ngăn cản sự ẩu đả và gọi cảnh sát đến can thiệp nếu không đã có chuyện 'phúc bất trùng lai họa vô đơn chí' xảy ra cho anh. Và rất có thể chiều tối hôm đó anh phải nằm trong nhà thương, hoặc trong nhà tù của County, suy gẫm lại sự đời! Có trường hợp ngoại lệ là các anh chàng du đãng băng đảng dùng chữ chửi thề như để phô trương cái nhãn hiệu của mình. Các tay anh chị dùng chữ chửi thề như là dấu chấm câu trong các cuộc đối thoại bình thường của họ mỗi ngày, không phải là lúc nóng giận - Mở đầu một câu bằng tiếng chửi thề, và kết thúc câu bằng tiếng chửi thề khác. Nhiều cuốn phim của Mỹ rất hay. Nhưng đạo diễn lại cố tình cho các tài tử dùng tiếng chửi thề rất tục để được xếp vào loại phim 'NC-17' hoặc 'PG' với mục đích cho phim được ăn khách hơn. Ngay cả các chương trình trên TV hàng ngày, các diễn viên cũng chửi thề rất tục một cách không cần thiết. Nhiều khi chúng ta không biết phải giải thích như thế nào cho con cái lúc cả gia đình cũng quay quần ngồi xem TV với nhau! Một trong những lời nói được trích ra từ những cuốn phim hay của Mỹ và được công dân Mỹ xử dụng, lập lại nhiều nhất - là một câu chửi thề nhẹ 'Frankly, my dear, I don't give a damn. ...' trong cuộc đời thoại của hai nhân vật chính, là nàng Scarlett và anh chàng Rhett Butler, của phim Cuốn Theo Chiều Gió' [Gone With The Wind] như sau: Scarlett : 'Rhett, Rhett... Rhett, if you go, where shall I gỏ What shall I dỏ' Rhett Butler : 'Frankly, my dear, I don't give a damn. ...' Người Mỹ còn dùng câu nói này và thay chữ 'damn' bằng những chữ có 4-mẫu tự [4-letter word] khác tục hơn. Cách chửi thề có thể phản ảnh trình độ hiểu biết, sự trí thức, của cá nhân nói ra chữ đó. Khi đối thoại, tiếng chửi thề nhiều khi được dùng để khỏa lấp sự dốt nát ' Có nghĩa là không thể tìm ra chữ nào thích đáng để diễn tả tư tưởng của mình. Ngoại trừ việc thuật lại cuộc đối thoại của các tay du đãng, văn viết mà có đệm chữ chửi thề thì mới thật đáng trách. Không như lúc nói chuyện, người viết có nhiều thời giờ suy nghĩ để tìm chữ cho đúng. Người đọc có thể bỏ qua lỗi chính tả, lỗi văn phạm, câu chuyện dở nhưng ít khi chấp nhận văn viết có chữ chửi thề. Trong văn học sử VN, có nhiều thi-sĩ chửi rất tài tình. Đứng đầu danh sách này có lẽ là Cao Bá Quát. Cao Bá Quát làm hai câu thơ trước khi bị xử tử chém đầu vì tội làm quân sư cho một đám loạn quân: "Ba hồi trống dục mồ cha kiếp Một lưỡi gươm đưa bỏ mẹ đời." Có nhiều văn bản ghi lại là 'đù chá thay vì 'mồ chạ' Theo tôi, vì luật đối chữ của hai câu thơ trên, chữ 'đù chá chỉnh hơn là 'mồ chạ' Sự sửa chữa ở đây có lẽ vì làm cho câu thơ bớt tục đi. Người chửi nhiều nhất qua thơ phải kể đến thi sĩ Trần Tế Xương. Trần Tế Xương còn gọi là Tú Xương, chỉ thi đậu được bậc tú tài. Vào cái thời của ông, đậu tú tài không đủ để ra làm quan. Ông chỉ là nho sĩ trói gà không chặt, không tìm được việc làm để nuôi vợ con mà phải sống rất nghèo khổ, sống bám vào người vợ đảm đang buôn thúng bán mẹt quanh bờ sông. Ông hận đời và lên tiếng chửi bởi tứ tung. Ông chửi Huyện Đ làm chủ khảo trong một cuộc thi của ông là gian dối và dốt như sau: "Thánh cắt ông vào chủ việc thi Đêm ngày coi sóc chốn trường qui Chẳng hay gian dối vì đâu vậy Bá ngọ + thằng ông biết chữ gì" (Chê Ông Huyện Đ) + Bá ngọ là tiếng chửi của nhà sư! Ông chửi một cậu Ấm tên là Kỉ con một ông nhà giàu như sau: "Ấm Kỉ, này đây tớ bảo này: Cha con mày phải cái này cay! Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa Thằng Tiểu Phù Long nó chửi mày" (Chửi Cậu Ấm) Hết chửi người, ông quay ra chửi đất, nơi ông cụ ngụ: "Có đất nào như đất ấy không? Phố Phường tiếp giáp với bờ sông Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng Keo cú người đầu như cứt sắt Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng Bác Nam hỏi khắp người bao tỉnh Có đất nào như đất ấy không?" (Đất Vị Hoàng) Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ của Pháp đưa Nguyễn Văn Tâm ra làm Thủ Tướng bù nhìn, dưới sự lãnh đạo của vua bù nhìn Bảo Đại. Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm chỉ biết nhắm mắt nghe theo Tây chỉ đâu đánh đó chẳng làm được việc gì ích lợi cho dân cho nước cả. Khi về hưu, có một nho sĩ tặng ông một tấm liễn với 4 chữ như sau: 'Đại Điểm Quần Thần.' Câu liễn đọc qua có ý nghĩa ca ngợi tài đức của Thủ Tướng trong quá trình phục vụ vua và dân Việt! Thủ Tướng treo tấm liễn nầy giữa đại sảnh một cách hoan hỉ. Đột nhiên một buổi đẹp trời, Thủ Tướng vội vàng cho người xé bỏ tấm liễn đị Lý do là có một cụ đồ nho khác giải thích cho Thủ Tướng Tâm về bốn chữ trên cái liễn đó như sau: Đại là to. Điểm là chấm. Đại Điểm là chấm to. 'Chấm tó đọc ngược lại là 'chó Tâm.' Cái màn chửi xéo này thật ngoạn mục. Có nhiều chữ mang nghiã tục từ vùng này nhưng ở vùng khác lại không có nghĩa như vậy, Chẳng hạn như người Bắc đúng chữ 'Đồ' để chỉ bộ phận kín của phái nữ. Nhưng trong Nam chữ 'Đồ' lại được dùng một cách rộng rãi mà không có gì là tục cả. Gia đình tôi là Bắc Kỳ di cư vào Nam năm 1954, bà cụ tôi phải mất một thời gian thật dài mới quen được cách dùng chữ 'Đồ' của người miền Nam : ăn đồ, mua đồ, bán đồ, giặt đồ, cầm đồ..v..v Bây giờ chúng ta thử phân tích hai chữ 'Đồ Ăn.' Đồ-Ăn chỉ có nghĩa đơn giản là thực phẩm, một vật cần thiết cho sự sinh sống của mọi người và hẳn nhiên là không có gì tục cả. Tuy nhiên, nếu tách riêng chữ 'Đồ' ra khỏi chữ 'Ăn' và ráp chữ 'Đồ' với các chữ khác [hoặc ráp chữ 'Ăn' với các chữ khác], cứ như vậy, tự chúng ta có thể lập thành một tự điển chửi thề: đồ điên, đồ khùng, đồ khốn nạn, đồ ngu, đồ mất dậy ' nếu tên một súc vật hoặc tên một nghề nghiệp đê tiện, bất hợp pháp được thêm vào sau chữ đó thì sự sĩ nhục có thể gia tăng gấp bội: đồ chó đẻ, đồ ngu như bò, đồ voi dầy, đồ khỉ ' đồ ăn cướp, đồ ăn trộm, đồ đ+ ngựa ' Câu chửi thề bắt đầu bằng chữ 'Ăn' mới đưa sự sĩ nhục đi đến mức cao nhất. Chẳng hạn các chất cặn bã do cơ thể bài tiết ra mà đem ghép với chữ 'Ăn' hoặc là các bộ phận kín của nam nữ nằm ở các vị trí mà ánh sáng mặt trời không bao giờ chiếu vào, được đem ghép với chữ 'Ăn.' [Xin tự hiểu ngầm!] Nếu chúng ta chẳng may bị nghe chửi bằng những chữ 'Ăn' này, có thể là sắp đến lúc phải đánh nhau rồi. Tóm lại, đề tài chửi thề có thể viết thành nhiều cuốn sách. Tuy nhiên chữ chửi thề nếu được dùng một cách thích đáng hoặc có một mục đích rõ ràng nó có thể làm cho ngôn ngữ của chúng ta có thêm chiều sâu, thêm màu sắc và bớt khô khan. Ngoài ra, nếu chúng ta không thể tìm được chữ thích đáng để nói. Tốt nhất là đừng nói gì cả. Im lặng là vàng.