phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Phoenix thiết nghĩ nên dạm ngõ, làm đám hỏi vào năm nay nếu thật cần thiết. Còn đăng ký kết hôn và tổ chức hôn lễ vào năm sau. Trong mọi trường hợp cấp thiết, chỉ cần gia đình thông cảm với nhau là được. Không nên quá vội để không thuận lợi sau này. Kính chúc hạnh phúc!
  2. Cúng Rằm tháng bảy như thế nào? Ngày rằm tháng bảy, nhà nhà mua đồ vàng mã, quần áo, mua bỏng, mua khoai, mua kẹo, sắp gạo muối cúng chúng sinh. Chùa tổ chức đọc kinh, cúng cháo. Nhưng cũng lạ, nhiều người lại chen chân đổ xô nhau đến Phủ để thắp nhang cầu khấn cúng chúng sinh. Xem ra, bà con ta trọng tín ngưỡng nhưng lại chẳng có thói quen tìm hiểu xem nội dung, mục đích của nó là gì. Càng ngày, vài tro duy trì văn hóa truyền thống của gia đình càng bị mai một. Thế hệ con cháu không được truyền dạy các ý nghĩa của nghi thức, tập tục khi chính những người lớn tuổi hơn chẳng để tâm coi trọng nhiều. Nhiều người chỉ biết cúng là cúng, chẳng hiểu cúng để làm gì. Như vậy, có lễ mà chẳng có thực lòng cũng phí phạm. Cúng chúng sinh thế nào cho đúng?? Dưới đây là một hướng dẫn. Mong ACE am hiểu góp ý thêm: Thời gian: có thể cúng từ ngày mùng 1 đến 15 tháng 7 âm lịch Giờ cúng: nên cúng vào giờ Dậu Chuẩn bị đồ lễ: 1. Quần áo cho chúng sinh (vàng mã) 2. Đồ ăn: gạo, muối, nước, bỏng, khoai - sắn - ngô - lạc luộc, kẹo bánh, hoa quả .... 3. Tiền vàng mã 4. Cháo nấu bằng gạo tẻ hoặc nếp, cho thêm chút muối, múc ra bát nhỏ 5. Hương để thắp 6. Phóng sinh: chọn con vật muốn phóng sinh (chim, cá, rùa, cua, ốc....) Tất cả đồ lễ là tùy tâm, nhất là về số lượng. Không nên cúng đồ mặn vì quan niệm vong hồn chúng sinh còn đang trong tình trạng chưa thưởng thức được những thứ đồ ăn đó Bày biện: Có thể bày theo bốn phương, tám hướng hoặc chỉ đặt một bàn chung hướng ra phía ngoài đường (ngoài cửa) Nên bày trên bàn thấp, rộng Một số nơi vẫn còn giữ tục trẻ em đi cướp đồ cúng. Chúng đóng giả các vai "cô hồn" đi đến các gia đình để cướp đồ cúng. Gia đình nào được cướp nhiều đồ thì thường vui mừng vì lễ được chứng. Còn trẻ em thì thích thú vì có đồ ăn. Cúng Vu lan: Có thể thực hiện tại chùa hoặc ở nhà. Thời gian: từ 1-15/07 AL Đồ lễ: Có thể chuẩn bị cả các đồ chay, mặn như lễ cúng thông thường Có đèn để thả xuống các dòng chảy lưu thông (sông, suối..) LỄ TRỌNG KHÔNG BẰNG TÂM KÍNH.
  3. Nguyễn Du Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô Não ngườI thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng... Đường bạch dương bóng chiều man mác, Dịp đường lê lác đác mưa sa Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, Có khôn thiêng phảng phất u minh... Thương thay thập loại chúng sing Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người Hương lửa đã không nơi nương tựa Hồn mồ côi lần lữa bấy niên... Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói ai hèn ai ngu! Tiết đầu thu lập đàn giải thoát Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi Muôn nhờ đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về tây phương. Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh Chí những lăm cất gámh non sông Nói chi những buổi tranh hùng Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau! Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở Khôn đem mình làm đứa thất phu Giàu sang càng nặng oán thù Máu tươi lai láng xương khô rụng rời Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa Cho hay thành bại là cơ Mà cô hồn biết bao giờ cho tan. Cũng có kẻ màn lan trướng huệ Những cậy mình cung quế Hằng Nga, Một phen thay đổi sơn hà, Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy Phận đã đành trâm gãy bìng rơi Khi sao đông đúc vui cười Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương. Đau đớn nhẽ không hương không khói Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. Thương thay chân yếu tay mềm Càngnăm càng héo một đêm một dài. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, Ngọn bút son thác sống ở tay Kinh luân găm một túi đầy Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm, Trăm loài ma mồ nấm chung quanh Ngàn vàn khôn đổi được mình Lầu ca viện hát tan tành còn đâu? Kẻ thân thích vắng sau vắng trước Biết lấy ai bát nước nén nhang? Cô hồn thất thểu dọc ngang Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh? Kìa những kẻ bài binh bố trận Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung Gió mưa sấm sét đùng đùng Phơi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc Bãi sa trường thịt nát máu rơi Mênh mông góc bể chân trời Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào? Trời thăm thẳm mưa gào gió thét Khí âm huyền mờ mịt trước sau Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường? Cũng có kẻ tính đường trí phú Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn Ruột rà khôngkẻ chí thân Dẫu làm nên để dành phần cho ai? Khi nằm xuống không người nhắn nhủ Của phù vân dẫu có như không Sống thời tiền chảy bạc ròng Thác không đem được một đồng nào đi. Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu? Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy Dẫn mình vào thành thị lân la Mấy thu lìa cửa lìa nhà Văn chương đã chắc đâu mà trí thân. Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng Anh em thiên hạ láng giềng người dưng Bóng phần tử xa chừng hương khúc Bãi tha ma kẻ dọc người ngang Cô hồn nhờ gửi tha phương Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng. Cũng có kẻ vào sông ra bể, Cánh buồm mây chạy xế gió đông Gặp cơn giông tố giữa dòng Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê. Cũng có kẻ đi về buôn bán Đòn gánh tre chín dạn hai vai Gặp cơn mưa nắng giữa trời Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao? Cũng có kẻ mắc vào khóa lính Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan Nước khe cơm vắt gian nan Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời Buổi chiến trận mạng người như rác Phận đã đành đạn lạc tên rơi Lập lòe ngọn lửa ma trơi Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương! Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa Ngẩn ngơ khi trở về già Ai chồng con tá biết là cậy ai? Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? Cũng có kẻ nằm cầu gối đất Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi Thương thay cũng một kiếp người Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan. Cũng có kẻ mắc oan tù rạc Gửi mình vào chiếu rách một manh Nắm xương chôn rấp góc thành Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi? Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha Lấy ai bồng bế xót xa U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. Kìa những kẻ chìm sông lạc suối Cũng có người sẩy cối sa cây Có người leo giếng đứt dây Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. Người thì mắc sơn tinh thủy quái Người thì sa nanh sói ngà voi Có người hay đẻ không nuôi Có người sa sẩy có người khốn thương. Gặp phải lúc đi đường lỡ bước Cầu Nại Hà kẻ trước người sau Mỗi người một nghiệp khác nhau Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ? Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi Hoặc là nương ngọn suối chân mây Hoặc là điếm cỏ bóng cây Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ Hoặc là nương thần từ Phật tự Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông Hoặc là trong quãng đồng không Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre Sống đã chịu một bề thảm thiết Ruột héo khô dạ rét căm căm Dãi dầu trong mấy mươi năm Thở than dưới đất ăn nằm trên sương Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra Lôi thôi bồng trẻ dắt già Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ Phóng hào quang cứu khổ độ u Rắp hòa tứ hải quần chu Não phiền trút sạch oán thù rửa không. Nhờ đức Phật thần thông quảng đại Chuyển pháp luân tam giới thập phương Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao Mười loài là những loài nào? Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. Kiếp phù sinh như hình như ảnh Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không" Ai ơi lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo Của có khi bát cháo nén nhang Gọi là manh áo thoi vàng Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ Phép thiên biến ít thành nhiều Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh. Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không. Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài -------------------------------------------------------- (Nguyễn Châu biên soạn) Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết. Tuy "mỗi người một nghiệp khác nhau" nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là "kẻ trước người sau mà thôi! Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà. Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn: Thương thay thập loại chúng sinh Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người! Hương lửa đã không nơi nương tựa Hồn mồ côi lần lữa bấy niên Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói kẻ hiền người ngủ Cụ Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh "trường dạ tối tăm" bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ Nói là "thập lọai" nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ "mười" ở đây không phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, tòan vẹn như trong cách nói "mười phân vẹn mười", "nhân vô thập toàn"... Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là: 1. Những kẻ "tính đường kiêu hãnh" tham danh vọng mà quên mạng sống. 2. Những kẻ giàu sang sống trong "màn loan trướng huệ" tự kiêu, tự mãn về nhan sắc... 3. Những kẻ làm quan to "mũ cao áo rộng" cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ.. 4. Những tướng sĩ "bài binh bố trận" "đemmình vào cướp ấn nguyên nhung" phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình... 5. Những kẻ tính đường tr6i phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang... 6. Những kẻ "rắp cầu chữ quý" 7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ.. 8. Những kẻ thương buôn đường xa 9. Những kẻ phải đi lính 10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào "buôn nguyệt bán hoa" 11. Những người hành khất "sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan" 12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên 13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng 14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha 15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú... 16. Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc Nêu ra cảnh khổ của cõi âm Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và hung hãn... Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ rằng: Sống thời tiền chảy bạc ròng Thác không đem được một đồng nào đi Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ ph6ep Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thóat trong luân hồi. Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa Ngục để báo hiếu. Nguồn: annonymous.online.fr
  4. Giới thiệu vài bài thơ: Cách nhau là đất NGUYỄN QUANG HƯNG A! Rình trông lại em rồi! Đom đóm thở đêm bồi hồi Ngũ sắc choàng lưng thon kéo lại Đốt hình nhân về thay Dìu chốn lối đồng thấp thỏm cườm ta Xa gần nước mây não nuột cuồng quay Chợ Âm Dương mua chịu giấy áo hồng, gối thêu cùng may Tháng Bẩy, âm binh chặn cướp Bùng bùng bát âm buổi em đi xưa Voi mây ngựa xám nườm nượp Mưa lên trắng mấy cho vừa Chòi canh rộng những thiếu thừa Kìa chăn gối chẳng kịp lừa hai vai Dưới miền thăm thẳm đất dài Rồi đây chỉ nở một loài hoa đêm 18/1/2002 Nguồn: e-văn.com.vn
  5. Lời Giới Thiệu: Có một số người thắc mắc ngày lễ Vu Lan là dịp để con cái cúng dường trai tăng hầu nhờ đó mà cha mẹ quá vãng được siêu thăng. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, Hoa Sen xin giới thiệu một vài quan điểm về Vu Lan Bồn: “Vu Lan, Mùa Báo Hiếu” hay là “Tháng Bẩy Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân” của tác giả Tâm Viên Ý Mã. Hằng năm, cứ đến rằm tháng bẩy, là nhiều gia đình Việt Nam và Trung Hoa lại bận rộn thiết lễ, nào là Vu Lan, nào là cúng cô hồn lang thang vô thừa nhận. Chùa chiền thì nấu cháo đổ vào lá đa bầy la liệt ngoài cổng với vài xấp áo giấy, vài tờ giấy vàng và lập lòe một bó nhang để những cô hồn vô thừa nhận nương theo làn khói mà về hưởng chút cháo thí! Những nhà làm ăn buôn bán thì lễ vật linh đình hơn, nào là gà, vịt, heo quay, hay ít lắm thì cũng cái đầu heo, cho nó “nặng lễ dễ kêu”, mấy chú cô hồn lỡ hưởng của lễ rồi thì mai mốt hẳn là phải cong cổ ra mà phù hộ gia chủ cho nó đáng đồng tiền bát gạo chứ! Thậm chí ngay đến tài xế lái xe công xa, mà cũng nhiều ông mè nheo được nhà nước trích quỹ đặc biệt chi tiền cho các ông thiết lễ vì bị các ông dọa “không cúng cô hồn, rủi xe lật ai chịu trách nhiệm”. Thế là cấp trên hết vía, thì “trước lễ sau ăn”, chi cho ông tài thiết lễ, mình cũng được nhậụ ké, được tiếng rộng rãi, lại khỏi chịu trách nhiệm. Riêng đối với Phật tử, ngày rằm tháng bảy lễ Vu Lan Bồn, điển tích thì hầu hết Phật tử đều thuộc lòng vì năm nào cũng nghe nhắc đi nhắc lại trên đủ loại chương trình phát thanh, phát hình và báo chí, cho nên kẻ viết bài này chỉ xin tóm tắt rằng có một đệ tử của Đức Phật tên là Mục Kiền Liên, tu hành đắc đạo đã chứng A La Hán, có thần thông. Mẹ chết, ngài dùng thần thông xuống địa ngục tìm thấy mẹ đang chịu hình phạt đói khát, ngài dâng lên chén cơm. Nhưng bà mẹ vừa nuốt vào cổ thì miếng cơm đã hóa thành than hồng đốt cháy cổ bà. Quá thương xót mẹ, Ngài về cầu cứu với Phật. Đức Phật dạy rằng tới ngày rằm tháng bảy, hãy thiết lễ trai tăng, thỉnh cầu chư tăng đến để thọ trai, nhờ sức tâm thanh tịnh sau ba tháng tịnh tu mùa hạ, bà sẽ được giải cứu. Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật, và quả nhiên, mẹ ngài thoát khỏi địa ngục. Đức Phật đã giác ngộ được bản thể, thoát khỏi vòng luân hồi trong sáu nẻo, ngài biết lý do chính đã nhận chìm con người trong sinh tử là vì cái tật gom góp, tích lũy từ vật chất tới tình cảm, chỉ muốn mọi thứ là của riêng mình, của thân nhân mình, của bè đảng mình, của đất nước mình, vân vân, một cái tật đã có từ niệm vô minh đầu tiên, từ thời vô thủy, mà thuốc chữa thì chỉ có một bài thôi, là bài xả bỏ, còn gọi là bố thí. Cho nên đệ tử của Phật đi trên con đường của Ngài đã xả bỏ hết, từ tình cảm tinh thần cho đến của cải vật chất, vì chỉ có xả bỏ thì tâm mới không bị ràng buộc, hạn hẹp vào thói quen thu thập, cất giữ làm cho mọi người nghi kỵ, xa lánh nhau. Chỉ có xả bỏ thì tâm hồn mới tự giải thoát khỏi sự kìm kẹp của sở hữu, tham sân si, bước được bước đầu trên con đường giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử. Cho nên, nhân đây, ngài mở cửa phương tiện để trải phước điền cho đời sau, mọi người vì lòng hiếu thảo với cha mẹ, thân nhân, mà dâng lễ cúng dường trai tăng, tạo một duyên lành với nhà Phật mở lòng ra thực hiện hạnh xả bỏ, tức là hạnh bố thí, đứng đầu trong lục độ vạn hạnh. Mặt khác nhờ người Phật tử cư sĩ cúng dường những nhu cầu cần thiết mà chư tăng ni có thể an tâm tu hành cho tới đạt được bản thể, tự do, tự tại, giữ cho con đường giải thoát được ánh sáng của đèn tuệ thường chiếu. Người Phật tử cúng dường cũng là bước vào đường tu, với hạnh xả bỏ, có đà rồi, sẽ tiếp tục đi thêm những bước trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, vân vân và vân vân. Có người hỏi rằng: - Nếu nhờ lễ Vu lan cúng dường trai tăng mà thân nhân thoát khỏi địa ngục, thì đó có phải là một hình thức hối lộ không? Nghe hỏi như thế, có người đã trợn mắt lên dọa dẫm: - Chết, hỏi bậy, coi chừng bị đẩy xuống địa ngục! Xin đừng sợ những lời dọa dẫm vô căn cứ của những vị bảo hoàng hơn vua chỉ muốn trùm vào đạo Phật một tấm màn thần bí, huyền hoặc, tưởng rằng thế là tôn trọng đạo Phật mà hóa ra đang làm ngược lại. Đức Phật dậy rằng: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta vậy”. Cho nên, nếu còn thắc mắc thì cứ hỏi. Xin trả lời: - Đạo Phật quan niệm rằng tất cả pháp giới đều chỉ do tâm tạo. Thế thì địa ngục cũng do tâm tạo. Tâm tham lam, bủn xỉn, độc ác thì tạo thành địa ngục. Tâm chuyển thì địa ngục tan rã. Cho nên, chính trong lúc chư tăng ni thọ thực mà theo đúng giới luật thì không được “tán tâm tạp thoại” (nghĩ vẩn vơ, nói chuyện lăng nhăng) bởi vì nếu phạm giới này thì “tín thí nan tiêu”, nghĩa là phẩm vật dâng cúng mà mình thụ hưởng sẽ khó mà tiêu hóa được (còn có nghĩa là nếu nhận phẩm vật dâng cúng mà không tích cực tu hành thì trong tương lai sẽ phải trả nợ thí chủ). Cho nên, chính là lúc thụ trai đó, chư vị tăng ni lặng lẽ không nghĩ thiện, ác, một hình thức thiền định, đó là lúc tâm lực mạnh nhất. Tất cả chư vị đều lặng lẽ tâm không suy nghĩ (cuồng tâm ngưng nghỉ tức là bồ đề), thì chính thời gian đó, sức tâm của chư vị tỏa ra, ảnh hưởng vào pháp giới, chuyển hóa được những tâm tham lam, keo kiệt, bủn xỉn đang trong địa ngục kia. Ngay khi tâm chuyển thì chính sát na đó, địa ngục tự tan rã, chứ không phải là do chư tăng ni “ăn hối lộ rồi xin xỏ” cho gia chủ được ra khỏi địa ngục. Xin xỏ là tâm niệm ô nhiễm, làm sao mà sánh được với tâm niệm thanh tịnh, không chút vướng mắc của vọng tâm sinh diệt tranh đua, tham lam danh lợi. Tâm thanh tịnh không vướng mắc suy nghĩ có sức mênh mông ngang tầm pháp giới. Cho nên mới có câu: “Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu”. Vậy thì, là Phật tử, nhân lễ Vu Lan, rất nên cúng dường trai tăng để giúp chư vị khỏi lo lắng về phần vật chất, an tâm tu hành đến giải thoát. Phẩm vật cúng dường ít nhiều không khác gì nhau. Chỉ có cái niệm tâm lúc cúng dường, kính trọng người tu hành, mong cho chư vị đạt đạo để Phật pháp trường tồn là quan trọng. Nếu không có tiền để cúng dường mà chỉ có lòng vui mừng khi thấy có người cúng dường thì phước đức cũng bằng nhau, đó là lời Phật dậy. Câu này rất có ý nghĩa, vì người dẹp được tâm ganh tị thì đã là phước quá rồi! Ngoài sự cúng dường trai tăng hoặc tùy hỷ với người cúng dường, xin đừng giết súc sinh để cúng cô hồn. Niệm tâm thanh tịnh của chư tăng ni tỏa trong không gian đó không chỉ hạn hẹp chuyển hóa thân nhân mình, mà chuyển hóa tất cả pháp giới. Nếu mình lại giết súc sinh để cúng, thì mình lại làm cho pháp giới ô nhiễm vì tăng thêm sự đau khổ, lòng thù hận. Nếu tin lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều là cha mẹ đời quá khứ, và sẽ là Phật trong tương lai”, mà mình còn giết súc vật thì hóa ra mình giết cha mẹ đời quá khứ để cúng cô hồn đời này. Cho nên, có nhiều người đã sáng suốt nhận định ra việc này, họ ăn chay tháng bảy để từ từ tăng thêm đến ăn chay trường, đó là hình thức báo hiếu rộng lớn nhất, không chỉ đối với cha mẹ đời này, mà với cả cha mẹ đời quá khứ nữa. Tâm Viên Ý Mã (Courtesy of Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen http://www.jps.net/hoasen.) TÂM VIÊN Ý MÃ Nguồn: Vietbao.com
  6. Mời cách ACE nghe bài hát Bông hồng cài áo: Bài hát Bông hồng cài áo Vietsciences-Thích Nhất Hạnh 03/05/05 Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến : Năm xưa tôi còn nhỏ Mẹ tôi đã qua đời ! Lần đầu tiên tôi hiểu Thân phận trẻ mồ côi. Quanh tôi ai cũng khóc Im lặng tôi sầu thôi Để dòng nước mắt chảy Là bớt khổ đi rồi... Hoàng hôn phủ trên mộ Chuông chùa nhẹ rơi rơi Tôi thấy tôi mất mẹ Mất cả một bầu trời. Cầu nguyện cho con Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức: Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp một, như đường mía lau. Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay ? hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương. Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!" ... Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng. ... Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. .... Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi. * Lược trích tản văn của thiền sư Thích Nhất Hạnh Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/
  7. Sự tích ngày rằm tháng Bảy[/size] Tháng 7 âm lịch, người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất – một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Rằm tháng 7 Âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh. Tháng 7 còn là tháng mưa Ngâu – gắn với sự tích ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là tích Ngưu Lang - Chức Nữ. Chúng ta cùng tìm hiểu về những sự tích, tập tục đầy tính nhân văn này nhé! Xuất xứ lễ Vu Lan Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước. Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ. Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó". Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời. Sự tích ngày xá tội vong nhân: Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân". Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng. Sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ Thuở xưa, có vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng thượng đế giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu(thông thường vào tháng Bảy âm lịch) và gọi họ là ông Ngâu bà Ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Bị hoá làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông. Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra. Nguồn: Vietnamnet.vn
  8. Chị Lacvietdt phổ biến phương pháp thật hay. May có topic này ACE mới có dịp được chia sẻ. Cảm ơn chị!
  9. Gia đình nên tìm kiếm người nào có khả năng chữa trị theo kiểu phương pháp ngoại cảm. Gặp đúng thầy hay không tùy vào duyên nghiệp của người bệnh. Có thể tìm ở vùng Hóc Môn hoặc dò hỏi tìm người giới thiệu. Ai trên diễn đàn có biết thông tin về những người chữa bệnh bằng cảm xạ thì giới thiệu giúp người bệnh.
  10. Cảm ơn bạn Hoàng Anh!
  11. :lol: Trí tưởng tượng của anh Lạc Tướng thật là phong phú. Nhưng có thể là "SỰ THẬT" đau lòng. Trong xu hướng thế giới mở (cộng đồng bất phân ranh giới) người ta hay công bố công khai mọi thứ rồi cả thế giới cùng phát triển. Điều này được chứng minh qua Google, Youtube, Linux, .... Tuy nhiên, với các nghiên cứu chứng minh "quyền sở hữu" thì thật là vất vả. Nếu nhiều người trên thế giới biết rằng có một ông "Thiên Sứ" đang ra sức chứng minh và bảo vệ luận điểm của mình (mà truyền thông qua internet là rộng và lan truyền nhanh nhất) thì ít ra cũng đỡ phải chứng minh là có một ông "Thiên sứ" đã làm điều đó với mấy tỉ công dân toàn cầu lắc đầu bảo "tôi chưa từng thấy chuyện này".
  12. Lời nguyền của "Cậu bé khóc" Thảm kịch và bất hạnh vẫn tiếp tục bao quanh một bức chân dung kỳ lạ xuất hiện trên khắp nước Anh và trên thế giới trong hơn 20 năm qua. Bức tranh do họa sĩ Tây Ban Nha Bruno Amadio vẽ được sản xuất hàng loạt và biết đến với cái tên Cậu bé khóc. Nó trở lên rất phổ biến và được nhiều người mua ở Anh trong những năm 80. Với người xem tranh, đây là một bức tranh khá bình thường, dù có gì đó phảng phất buồn và u ám. Tuy nhiên những người sở hữu bản copy của nó cho biết khi nhìn vào khuôn mặt của cậu bé khóc trong bức tranh, họ luôn có cảm giác sợ hãi và đau ốm. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1985 khi các tờ báo ở Anh đưa tin về hàng loạt các vụ cháy nhà bí ẩn. Điều mà những người lính cứu hỏa thấy lạ lùng và không thể giải thích nổi là trong tất cả các vụ cháy, mọi thứ trong nhà đều cháy rụi, chỉ có duy nhất bức tranh Cậu bé khóc vẫn không hề bị sứt mẻ tẹo nào. Cậu bé khóc (Ảnh:Ourstrangeworld), người ta vẫn đặt câu hỏi về nguồn gốc sâu xa của bức tranh. Rất nhiều người đã gọi cho các tờ báo để khẳng định rằng hỏa hoạn xảy ra sau khi họ mua Cậu bé khóc về. Sự thật về nguồn gốc của bức tranh vẫn còn là điều bí ẩn. Một số nguồn tin cho hay người họa sĩ đã ngược đãi cậu bé trong bức tranh - một em bé mồ côi. Một số người khác lại nói rằng cha mẹ cậu bé chết trong một trận hỏa hoạn. Cậu bé trở thành kẻ mồ côi và giờ muốn gây ra các vụ hỏa hoạn để trả thù những người khác đã khiến cậu trở thành trẻ mồ côi. Một số nhà tâm linh học lại lý giải rằng linh hồn của cậu bé bị mắc kẹt bên trong bức tranh, chính vì thế mà nó phải phóng hỏa để được tự do. Nhiều người lại nói rằng họa sĩ đã ký “hợp đồng tội lỗi” với Quỷ Xa tăng nhằm giúp bán các bức tranh của ông. Các tờ báo vẫn tiếp tục đưa tin về câu chuyện ma quái này khiến cho dư luận tỏ ra vô cùng sợ hãi. Tháng 10/1985, người ta thông báo tổ chức đốt tất cả các bức tranh Cậu bé khóc. Đến cuối tháng 10, đã có hàng nghìn bức tranh bị tiêu hủy dưới sự giám sát của Cục cứu hỏa. Tuy nhiên, sự việc không chỉ dừng lại ở đây. Rất nhiều người vẫn sở hữu Cậu bé khóc và đôi khi người ta vẫn thấy xuất hiện tin tức về các vụ cháy. Các phương tiện truyền thông cố gắng trấn tĩnh người dân và giải thích rằng thỉnh thoảng bức tranh mới thoát khỏi hỏa hoạn. Một người phụ nữ cho biết cô đã cố đốt bức tranh của mình nhưng mọi nỗ lực đều thất bại. Có một số quan điểm lại cho rằng bức tranh chẳng hề đem điềm ghở tẹo nào. Nó đem lại may mắn cho người xứng đáng. Một người đàn ông kể rằng ông bất ngờ thắng bạc sau khi phục chế được bức tranh đang xuống cấp. Thậm chí kể cả khi bức tranh được xem là vật đem lại may mắn cho một số người. Hầu hết chủ nhân của Cậu bé khóc đều đổ cho bức tranh gây ra ốm đau và rủi ro. Nhiều bản copy của Cậu bé khóc đã xuất hiện bên ngoài nước Anh và người ta không rõ có bao nhiêu người vẫn đang sở hữu bức tranh và những tai họa mà nó gây ra. Theo Đàm Loan Nguồn: http://tintuconline.com.vn
  13. Phoenix biết có rất nhiều trường hợp như thế này. Ở Viện tim Bạch Mai, các bệnh nhân nếu bị nghẽn mạch máu cần thông van tim mà không có tiền cũng phải ngồi cầu mong vận may thôi. Có những gia đình phải chạy về bán hết cả nhà cửa. Nhưng bán xong thì có khi người bệnh cũng không chờ được đến lúc có tiền nộp cho bệnh viện nữa. Có lẽ đó là số mệnh. Trường hợp này Phoenix thấy có rất ít khả năng và không phải là không có nguyên cớ. Tuy nhiên, đỡ đần được chút nào cũng là phần an ủi để động viên họ. Cũng để tự răn thêm mình.
  14. :lol: Cũng tại sự THIỆN TÂM của Thiên Sứ mà.
  15. Bí mật trong việc xây dựng quảng trường Thiên An Môn Có rất nhiều những địa điểm nổi tiếng của Bắc Kinh sẽ diễn ra các cuộc thi đấu hoặc các lễ hội của Olympic. Trong số các địa điểm đó thì quảng trường Thiên An Môn sẽ là một trong những địa điểm hấp dẫn nhất. Bởi vì nơi đây không những sẽ diễn ra những lễ hội được dự đoán là rất hoành tráng, mà còn bởi quảng trường xưa nay vẫn luôn được coi là vùng đất “địa linh” chứng kiến vô vàn những biến động lịch sử của dân tộc Trung Hoa. Quảng trường Thiên An Môn là quảng trường lớn nhất, trung tâm nhất của thủ đô Bắc Kinh. Hình thành từ triều Minh (1368-1644), ban đầu quảng trường được xây dựng theo hình chữ “đinh” (?), mà nét ngang trên đầu chính là đường Trường An, còn cổng phải và cổng trái của đường Trường An chính là hai đầu của nét ngang đó. Đến đời Thanh ở bên ngoài mỗi cổng xây thêm hai cổng nữa theo hướng đông tây tạo thành “Tam tọa Môn” ở mỗi đầu đường Trường An. Nét “dọc” của chữ “đinh” chính là Thiên bộ lang (hành lang ngàn bước) theo hướng nam - bắc, còn phần cuối của nét “hất” là Trung Hoa Môn ở phía bắc của Chính Dương Môn. thienanmon.jpg Quảng trường Thiên An Môn Có thể nói do cấu trúc “kín cổng cao tường” lại được cảnh giới hết sức nghiêm ngặt, nên dưới hai triều Minh - Thanh, Thiên An Môn được gọi một cách hình tượng là “Thiên nhai” (đường lên trời). Cho đến trước khi triều đình Mãn Thanh sụp đổ thì quảng trường Thiên An Môn luôn là một quảng trường bị “phong bế” (đóng kín), chỉ dành để tổ chức những lễ hội hoặc những sự kiện trọng đại riêng cho triều đình. Với những người dân bình thường thì việc được đi vào quảng trường này “khó như lên trời”. Họ chỉ có duy nhất một cơ hội trong một năm: đó là vào đúng ngày trước tiết sương giáng (23/11) khi những tử tội được dẫn qua cửa phía trái đường Tràng An vào quảng trường để chờ hành quyết, thì họ mới được theo vào mà thôi Sau cách mạng Tân Hợi (1911), Chu Khải Kiềm, Tổng trưởng Nội vụ trong Chính phủ Bắc Dương đã cho phá bỏ Thiên bộ lang, nhờ đó Thiên An Môn trở nên thông thoáng với bên ngoài. Những thứ phá ra từ Thiên bộ lang được dùng vào việc xây dựng “Bắc Kinh đệ nhất công viên”, hay còn gọi là Công viên Trung ương, tức Công viên Trung Sơn hiện nay. Sự chỉnh sửa cũng giúp cho phía đông và phía tây của đường Tràng An chính thức được nối liền với nhau. Quảng trường Thiên An Môn từ chỗ là “phong bế quảng trường” đã trở thành “khai phóng quảng trường”. Mọi người dân đều có thể qua lại mà không bị ngăn trở. Ngày 1/10/1949 tại quảng trường Thiên An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh trọng tuyên bố nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Sự kiện trọng đại này khiến quảng trường Thiên An Môn trở thành mảnh đất thiêng của nước Trung Hoa mới, và do đó nó càng trở nên nổi tiếng. Vì thế ngay sau đó các cấp chính quyền cũng bắt đầu tiến hành các “chỉnh sửa” để quảng trường trở thành biểu trưng của một thời đại lịch sử mới. Tam tọa Môn ở hai đầu đông tây và tả, hữu Môn ở hai đầu đường Tràng An bị dỡ bỏ. Đến năm 1955, bức tường màu đỏ ở hai đầu đông và tây được san phẳng khiến cho diện tích của quảng trường ngay lập tức được tăng lên gần 1 vạn mét vuông. Những cuộc chỉnh sửa này khiến quảng trường không mang dáng chữ “đinh” nữa. Cuối năm 1955, chính quyền TP Bắc Kinh lập ra Ủy ban Quy hoạch đô thị, lấy việc cải tạo và xây dựng quảng trường Thiên An Môn làm nhiệm vụ trọng tâm. Để thực hiện công việc khó khăn này, các nhà chức trách Trung Quốc (TQ) đã mời các chuyên gia Liên Xô sang giúp đỡ. Nhờ đó chỉ một thời gian sau, Ủy ban đã đưa ra 11 phương án quy hoạch khác nhau đối với quảng trường Thiên An Môn. Tuy nhiên tất cả các phương án trên đều không được thực thi. Để chuẩn bị cho đại lễ Quốc khánh TQ lần thứ 10 năm 1959, tháng 8/1958, Hội nghị toàn thể BCH TW ĐCS TQ họp tại Bắc Đới Hà đã ra nghị quyết tiến hành tu sửa và chỉnh trang toàn diện quảng trường. Theo đó cùng với quảng trường Thiên An Môn sẽ có 10 công trình kiến trúc hoành tráng (gọi tắt là Thập đại kiến trúc) được xây dựng mới hoặc nâng cấp, với yêu cầu “mang tính thời đại và vĩnh cửu”. Nghị quyết cũng chỉ rõ 10 công trình đó bao gồm 1 công trình sẵn có là Triển lãm Công nghiệp và 9 công trình phải xây dựng mới là Vạn nhân đại hội đường (sau đó được Mao Trạch Đông đổi tên thành Nhân dân đại hội đường, gọi tắt là Đại hội đường hoặc Đại lễ đường), Bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng lịch sử, Quốc gia đại kịch viện, Nhà bảo tàng Quân đội, Triển lãm khoa học kỹ thuật, Triển lãm nghệ thuật, Cung Văn hóa dân tộc, Triển lãm Nông nghiệp. Trong đó Đại lễ đường là công trình chủ đạo với phòng họp đủ chỗ cho một vạn đại biểu cùng tham dự. Khi bản Nghị quyết ra đời thì chỉ còn cách ngày lễ Quốc khánh lần thứ 10 chưa tới 400 ngày. Nên biết rằng để xây dựng trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York phải mất 7 năm, Trung tâm Hội nghị quốc tế tại Gèneve mất 8 năm, còn Nhà hát Sydney mất 14 năm, thì trong 400 ngày phải xác định vị trí, lập đồ án thiết kế và thi công xong một tổ hợp 10 công trình có tính vĩnh cửu, biểu trưng cho cả một quốc gia, xứng tầm quốc tế, tại trung tâm thủ đô, là điều xưa nay chưa từng có trên thế giới! Hồi ký của Đào Tông Chấn, một trong những kiến trúc sư chịu trách nhiệm chính khâu thiết kế, cho biết: công trình “Thập đại kiến trúc” đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chu Ân Lai cùng với một tổ chuyên Môn bao gồm hơn 30 các kiến trúc sư, công trình sư và các nhà phong thủy học nổi tiếng nhất TQ khi đó. Thủ tướng Chu Ân Lai đã nêu rõ ý tưởng thiết kế chung là “Chắt lọc và kết hợp một cách hài hòa những tinh hoa kiến trúc giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong nước và quốc tế nhằm để lại sự hoàn hảo cho con cháu muôn đời”. thienanmon1.jpg Quảng trường Thiên An Môn là nơi chứng kiến vô vàn những biến động lịch sử của dân tộc Trung Hoa Theo như bản thiết kế lúc đầu, thì quảng trường có chiều rộng là 500 mét, chiều dài là 800 mét (theo đúng tỉ lệ vàng 5/8 của thuật phong thủy). Thật chính xác ra thì chiều dài của quảng trường là 880, tức là gồm hai con số 8. Như vậy diện tích của quảng trường Thiên An Môn lớn gấp 5 lần quảng trường Trung tâm Paris, lớn gấp 4,5 lần quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva. Một hôm khi ủy ban đang họp để quyết định đồ án thiết kế thì Tân Nghị, một cán bộ cao cấp của quân đội, người được giới thiệu là sẽ phụ trách việc duyệt binh ngày lễ Quốc khánh, tới thăm và đưa ra 3 yêu cầu. Một là không được tạo ra bất kỳ ranh giới nào giữa quảng trường và đường Tràng An, hai là bề mặt quảng trường phải chịu được trọng lượng của hai xe tăng, mỗi xe 60 tấn, song hành. Ba là không gian giữa đường và quảng trường phải “liền thành một khối” để không gây cản trở tới việc diễu hành của quần chúng nhân dân cũng như của các phương tiện khác. Điều này có nghĩa là phải phá bỏ toàn bộ tòa đôi Cổ tháp ở giữa cửa Tây Đơn và cửa Lục Bộ cũng như hệ thống dây dẫn dùng cho xe điện bánh hơi chạy qua quảng trường. Như vậy thì việc xây dựng một đường ngầm phía dưới quảng trường cho xe điện chạy qua là điều hiển nhiên. Phải nhiều năm sau người ta mới biết được ý đồ thực sự của yêu cầu này. Đó là nhằm chuẩn bị nếu có sự bất trắc xảy ra, thì quảng trường có thể lập tức trở thành một sân bay dã chiến, còn đường hầm phía dưới sẽ biến thành hầm trú ẩn. Vì “Thập đại kiến trúc” sẽ hiện diện trong phạm vi quảng trường, cho nên phương án thiết kế phải đặc biệt lưu ý tới bố cục toàn thể và ảnh hưởng giữa các khối kiến trúc với nhau. Cũng theo Đào Tông Chấn, sau khi bàn bạc, các kỹ sư thiết kế nhận thấy độ cao của các công trình kiến trúc xung quanh chắc chắn sẽ thấp hơn các công trình kiến trúc dọc theo đường trung tâm quảng trường. Nếu cứ nghiêm ngặt tuân theo yêu cầu “liền một khối”, thì quảng trường sẽ là một quần thể kiến trúc khô khan, cứng nhắc và trống trải. Không những thế phần bề mặt của quảng trường được gia cố bằng các vật liệu cứng sẽ chịu “hiệu ứng bức xạ nhiệt” khiến nhiệt độ của vùng quảng trường tăng lên vào mùa hè, và sẽ giảm vào mùa đông. Vì vậy các kỹ sư thiết kế đã cố gắng dùng mọi biện pháp để có thể thu nhỏ diện tích của phần mặt bằng. Họ đã lấy hai đại lộ chạy theo hướng bắc - nam của của phía nam Công viên Trung Sơn và Cung Văn hóa Nhân dân làm ranh giới để cho phía trong của con đường hòa với mặt bằng của quảng trường, còn phía bên ngoài của đường thì được làm thành đường đi và hàng rào cây xanh. Mặt bằng của quảng trường còn được rộng thêm với việc mở rộng đường Tràng An lên tới 180 mét và do đó diện tích phần trung tâm của cả quảng trường đạt cỡ 14 ha.Trong bản thiết kế ban đầu thì Đại lễ đường, Bảo tàng Cách mạng ở về một bên quảng trường, đối diện ở phía bên kia sẽ là Quốc gia đại kịch viện và Bảo tàng lịch sử. Cả bốn “đại kiến trúc” này sẽ chiếm diện tích hoàn toàn giống nhau là 150 m x 220m. Nếu so sánh về tỉ lệ thì chúng sẽ dài theo hướng đông - tây hướng ra đường Tràng An, hẹp theo hướng bắc - nam hướng vào quảng trường. Cách bố trí này sẽ khiến cho không gian phía nam của quảng trường trở nên thoáng đãng. Tuy vậy, trong bản thiết kế sau đó các kiến trúc sư đã đưa Quốc gia đại kịch viện ra bên ngoài quảng trường. Phía tây của quảng trường sẽ là Đại lễ đường, phía đông là Bảo tàng lịch sử và Bảo tàng cách mạng. Cuối cùng, vị trí và kích cỡ của công trình then chốt nhất là Đại lễ đường vẫn không có được sự thống nhất giữa Bộ Ngoại giao và chính quyền thành phố Bắc Kinh cùng một số các bộ, ngành khác. Thí dụ lúc đầu Đại lễ đường chỉ có phòng họp chứa 1 vạn người, sau đó Bộ Ngoại giao yêu cầu phải có thêm một phòng tiếp tân để có thể tổ chức các bữa tiệc ngoại giao cho 5 nghìn người. Quốc hội (tức Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc) cũng yêu cầu phải có Văn phòng của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thấy rõ được khó khăn này, Thủ tướng Chu Ân Lai gợi ý: Vị trí của Đại lễ đường nên nằm ở phía tây quảng truờng (nhìn từ lầu Thiên An Môn). Đối diện với Đại lễ đường ở phía tây sẽ là Bảo tàng lịch sử và Bảo tàng cách mạng, hai bảo tàng này nên tạo thành một khối. Ý tưởng này sau đó đã biến thành hiện thực mà mọi người được thấy như ngày nay. Nó được giới chuyên Môn đánh giá rất cao vì sự hài hòa trong kiến trúc, còn về mặt phong thủy thì đó chính là nguyên tắc “tả tổ hữu xã” (phía trái là tổ tông, phía phải là con cháu) theo đúng tôn ti trật tự của truyền thống văn hóa phương Đông. Còn riêng phòng họp của Đại lễ đường, có thể xây dựng theo hình móng ngựa hoặc hình êlíp vì đây là cấu trúc đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Nhưng khi tiến hành phân tích một cách kỹ lưỡng, Đào Tông Chấn phát hiện ra rằng với một phòng họp có 1 vạn người cùng tham dự có hình êlip hoặc hình móng ngựa, thì người ở vị trí xa nhất sẽ cách đoàn chủ tịch cỡ 100 mét. Hơn nữa để chứa được 1 vạn đại biểu thì tất nhiên phải làm nhiều tầng lửng, sẽ dẫn tới người nọ che khuất tầm nhìn của người kia. Không những thế vấn đề âm thanh trong phòng cũng rất khó giải quyết. Sau nhiều lần trăn trở tìm các phương án nhằm thỏa mãn tối đa các yêu cầu, Đào Tông Chấn và cộng sự quyết định lập thiết kế cho Đại lễ đường có kích thước 270m x 210 m, tức là diện tích so với thiết kế ban đầu tăng gấp 2,5 lần. Sau đó kích thước này được điều chỉnh lần cuối cùng là 336m x 206m. Còn phòng họp vạn người được thiết kế có hình cái quạt giấy. Theo thiết kế này thì người ngồi nơi xa nhất cũng chỉ cách chủ tịch đoàn tối đa là 60 mét, và chỉ cần làm hai tầng lửng là đủ. Các mặt kỹ thuật khác cũng đạt tiêu chuẩn tối đa. Phương án thiết kế này sau đó đã được duyệt. Theo Đào Tông Chấn và các cộng sự thì điều này chứng tỏ các vị lãnh đạo đã rất tôn trọng ý kiến của các kiến trúc sư. Khó khăn cơ bản được giải quyết, và cuối cùng sau gần hai tháng các bản thiết kế của “Thập đại kiến trúc” đã được phê duyệt. Cuối tháng 10/1958 bắt đầu thi công Đại lễ đường và các công trình khác. Đến đầu tháng 9/1959 thì tất cả các công trình đều hoàn thành. Đây đúng là một kỳ tích trong ngành xây dựng, không những của TQ mà cũng là của thế giới. Quảng trường Thiên An Môn mà chúng ta thấy ngày nay, về cơ bản là có được từ sau lần chỉnh sửa này. Ngày 1/10/1959 đại lễ mừng 10 năm ngày thành lập nước CHND Trung Hoa đã diễn ra vô cùng tưng bừng. Kể từ đó đến nay quảng trường Thiên An Môn luôn là nơi diễn ra các sự kiện trọng đại nhất, hoành tráng nhất của TQ. Theo Nguyễn Tiến Cử anninhthegioi.gif NGUỒN: http://tintuconline.com.vn
  16. Thứ Năm, 07/08/2008 - 11:20 AM Quần thể nghệ thuật trên đá "siêu lạ" ở Anh (Dân trí) - Hơn 100 bức khắc họa tinh vi đầy bí ẩn trên những vỉa đá có niên đại hàng ngàn năm vừa được một nhóm tình nguyện viên phát hiện ra tại miền Bắc nước Anh. Những kiệt tác này là sự kết hợp tuyệt vời của tạo hóa và con người. Nghệ thuật khắc họa trên những phiến đá này được xác nhận là thuộc thời kỳ đồ đá mới. Hầu hết hoa văn là những hình tròn móc nối vào nhau hay những chiếc chén lõm huyền bí. 100 phiến đá được chạm khắc vừa được phát hiện nằm trong 2.500 mẫu nghệ thuật trên đá hiện tồn tại ở Anh. Chúng có niên đại rất cổ xưa và phần lớn đều nguyên vẹn bất chấp sự xói mòn và tác động của thiên nhiên. Khoảng 100 tình nguyện viên được tổ chức Di sản Anh quốc huấn luyện, đã dày công nghiên cứu về nghệ thuật trên đá trong suốt 4 năm qua. Trong số những vỉa đá mà họ phát hiện thì có một tảng sa thạch trên ngọn Barningham Moor là đặc biệt nhất. Nó có những họa tiết trừu tượng: những đường rãnh khía móc nối vào nhau, những chiếc chén lõm sâu xuống dưới với những vòng tròn xung quanh. Kate Wilson, thẩm định viên của bảo tàng cổ đại tại English Heritage, nói: “Có rất nhiều giả thuyết về ý nghĩa của những hình chạm khắc này. Những họa tiết đó có thể là biểu tượng của lửa, lễ hội, lễ hiến tế hoặc đơn giản chỉ là những dấu hiệu, đánh dấu lãnh thổ, nhưng cũng có thể mang 1 ý nghĩa tâm linh nào đó. Tất cả đều chưa được giải mã”. Richard Stroud, một trong những tình nguyện viên, chia sẻ: “Ban đầu, chúng tôi chỉ mong tìm thấy 1 hoặc 2 phiến đá có chạm khắc đơn giản thôi. Thật không ngờ, chúng tôi lại may mắn đến thế khi khám phá ra cả một quần thể nghệ thuật trên đá phức tạp ở County Durham”. Edward Impey, giám đốc trung tâm nghiên cứu và tiêu chuẩn tại English Heritage, cho biết: “Phát hiện mới này của chúng tôi đã được công bố trên mạng internet nhằm phát động một cuộc nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc. Qua đó, chúng tôi hy vọng sẽ hiểu được rõ hơn ý nghĩa của những bức khắc họa”. Khát vọng tìm kiếm những tác phẩm nghệ thuật thời kỳ đồ đá được nhiều người nung nấu trong suốt vài thập kỷ qua. Stan Beckensall, Hiệu trưởng trường Hexham, Northumberkand là một trong số những người như thế. Ông đã dành 50 năm cuộc đời để nghiên cứu và đi tìm những mẫu đá cổ đại. Đến nay, khi có trong tay 1.500 mẫu vật, ông lại hiến tặng toàn bộ thành tựu đó cho Đại học Newcastle. Một nhóm tình nguyện viên đã khám phá ra hơn 100 mẫu nghệ thuật trên đá tại Northumberland Một tảng đá được chạm khắc công phu Những vòng tròn đồng tâm bí ẩn được phát hiện tại Chatton, Northumberland, Anh quốc Mẫu đá được tìm thấy ở Old Bewick, Northumberkand là một trong những khám phá mới của dự án Di sản Anh quốc Anh Nguyễn Theo Dailymail Nguồn: http://dantri.com.vn
  17. Năm nay lo toan nhiều, lo lắng quanh quẩn không thấy hướng đi sáng sủa. Nhiều khi lo quá mức cần thiết. Năm nay nên nhẫn nại, có lo lắng cũng không giải quyết được gì nhiều. Tình hình ảm đạm không khắc phục được theo ý mình. Khả năng sẽ có chuyển biến lớn vào năm sau. Hoàn cảnh tự nhiên thuận lợi, có cơ hội về công việc và tài lộc. Nên âm thầm chờ đợi và chuẩn bị để không bỏ lỡ cơ hội.
  18. Phương pháp thứ 5 có vẻ hơi khó nhỉ :lol:
  19. Đoán mò cho bạn Nai chút nhé: Bạn Nai là cô gái còn trẻ (không dưới 18 tuổi), vóc dáng khá thanh mảnh, tóc dài lưng lửng và mảnh (không dầy), thích đẹp kiểu yểu điệu. Gương mặt bình thường, không bầu bĩnh, không tròn, mặt không đầy đặn. Mắt khá biểu cảm, không sáng rõ. Tính cách hướng nội. Suy nghĩ thận trọng, hay suy tư khi cân nhắc. Nhiều khi suy nghĩ quanh quẩn. Bạn Nai không cao lắm, cỡ chừng 1,58 - 1,59 (không đi guốc hay giầy cao). Trang phục thường là màu sáng, ít dùng màu sặc sỡ dù thích sự rực rỡ của một số màu mạnh (đỏ, đen, cam). Nếu nói về vòng đo thì Nai cần phải tập luyện thêm thể thao hoặc thể dục thẩm mỹ (nhưng e là Nai không thích việc tập luyện này). Nếu đúng thì đoán tiếp, sai thì dừng ở đây Nai nhé, :lol:
  20. Thanh Trang có topic hay ghê. Rất thú vị!
  21. Nguồn: http://tintuconline.com.vn Mưa sao băng trên bầu trời Việt Nam Những người thích ngắm hiện tượng mưa sao băng vào rạng sáng mai (29/7), nên quan sát ở vùng ngoại thành hoặc nông thôn trong khoảng nửa đêm về sáng. Thạc sỹ Phan Văn Đồng, Phó Chủ tịch Hội Thiên văn – Vũ trụ VN, khuyên. Nhà thiên văn Phan Văn Đồng chụp ảnh nhật thực toàn phần tại Phan Thiết. (Tiasang.com) Ông Phan Văn Đồng cho biết, thời điểm sao băng xuất hiện nhiều nhất (khoảng 20 vệt sao trong một giờ) được xác định vào khoảng thời gian từ 1giờ - 4 giờ sáng mai (giờ VN). Để quan sát được hiện tượng mưa sao băng, người dân có thể dùng mắt thường hướng về bầu trời phía nam. - Xin ông cho độc giả lời khuyên để có thể chiêm ngưỡng tốt nhất hiện tượng thiên nhiên kì thú này? - Để quan sát được mưa sao băng, chúng ta phải ra khỏi thành phố, đến nơi có bầu trời tối nhất mà không hề bị ánh sáng điện ảnh hưởng làm lóa thì đó là chỗ tốt nhất. Tốt nhất là về được vùng nông thôn. Hiện tượng này sẽ diễn ra từ khoảng nửa đêm về sáng, càng về sáng thì lại càng dễ quan sát. Vì căn cứ vào tọa độ, khi mặt trời lặn thì chòm sao này mọc. Mưa sao băng sẽ diễn ra gần như suốt đêm. Hiện tượng này sẽ diễn ra về hướng Nam của bầu trời. Mỗi sao băng sẽ như 1 vệt sáng qua bầu trời rồi tắt. Có nhiều vệt sáng như vậy. Chúng xuất phát từ cùng 1 tâm là sao Delta của chòm Bảo Bình (còn gọi là Aquarius) và chuyển động tạo thành hình cầu với tâm là sao Delta. Khi nhìn trên bầu trời, nó có dạng hình tròn. Ở đâu cũng có thể quan sát được - Có phải ở đâu khả năng quan sát được cũng như nhau, thưa ông? - Các vùng ở VN đều có khả năng nhìn thấy được cả. Mưa sao băng là hiện tượng đã xảy ra rất nhiều. Mưa sao băng Alpha-Monocerotid năm 1995 (Nguồn: Wikipedia) - Bao lâu xảy ra hiện tượng kì thú này 1 lần, thưa ông? - Hầu như tháng nào cũng có hiện tượng mưa sao băng. Mỗi tháng nó xẩy ra ở quanh 1 chòm sao. Riêng hiện tượng mưa sao băng tháng 7 này, dù năm nào cũng xuất hiện nhưng có năm nhiều, năm ít. Trung bình hàng năm, mỗi giờ có 40 sao đổi ngôi. Nhưng năm nay thì thấp hơn, dự báo là khoảng 20 vệt sao mỗi giờ. Theo thông báo, hàng năm, mưa sao băng từ sao Delta của chòm Aquarius diễn ra khoảng từ 26 – 30/7. Năm 2008, dự đoán được là sẽ rơi vào rạng sáng ngày 29/7. Tới đây, đợt mưa sao băng tháng 8, khoảng từ tháng 14 – 16/8, sẽ còn đẹp hơn nhiều. Nó xảy ra ở chòm sao Anh Tiên (Perseus) nằm ở bầu trời Bắc. - Xin cảm ơn ông! Theo Anh Lê
  22. Tấm ảnh biển chiều tím đẹp quá!
  23. Lợn mẹ sinh hạ 'khỉ con' Chú lợn con quả thực xấu xí. Ảnh: ifeng.comMới đây, một con lợn mẹ tại nhà ông Phùng Trường Lâm, ở Hà Nam, Trung Quốc đã sinh hạ một chú lợn con xấu xí, giống như một con khỉ, đến mức chủ nó cũng cảm thấy bất an. Chú heo con quả thật có hình thù rất khác thường: mũi hơi dài, luôn bị lật hướng về đỉnh đầu, giữa mũi còn có 2 cái lỗ nhỏ, và còn có thể tự cử động được; mõm của nó thì rộng toang hoác, hàm dưới mọc dài cuộn lên trên, chiếc lưỡi thòi cả ra ngoài; cặp mắt lồi, giống mắt cá vàng, phía trên còn bị che bởi 1 lớp mi mỏng. Bốn chân cũng rất kỳ quặc, chân sau mọc dài hơn chân trước một khúc. Lợn con ra đời hôm 19/7, nhưng chủ nhà quá kinh hãi nên đã vứt ra cánh đồng ngô ngoài thôn. Không ngờ sau nửa ngày, chú ỉn con lại chạy được lên đường lộ, và sau đó được con ông Phùng đem về, vì đứa trẻ cảm thấy con vật rất thú vị, nhất định không cho bố mẹ vứt chú đi, và thậm chí còn pha sữa cho nó uống. "Chăm sóc kỹ cho nó, xem nó có thể trưởng thành ra sao”, trong lúc phỏng vấn, có rất nhiều người vừa cười vừa khuyên vợ chồng ông Lâm như thế. Tịnh Như (theo ifeng.com) (nguồn: http://vnexpress.net) Tin đưa trên đây thực sự không liên quan gì tới lý số. Nhưng là một thông điệp rất đáng để các ACE sinh hoạt tại diễn đàn để tâm. Hiện tượng trên chỉ là một trong cả nghìn trường hợp về đột biến gen, thay đổi gen dẫn đến dị dạng, quái thai trên cả người và động vật diễn ra cực kỳ phổ biến ở Trung Quốc và bắt đầu lác đác xuất hiện ở Việt Nam (động và thực vật). Nếu ai để ý thì có thể thấy trên các mục chuyện lạ của các báo rất nhiều loại bài đưa tin về các trường hợp này. Sự thực đáng sợ từ việc sử dụng tùy tiện các loại hóa chất trong nông nghiệp - công nghiệp đã dẫn đến hệ lụy nhãn tiền và đáng lo ngại về biến đối gen nghiêm trọng của hệ động thực vật trong môi trường sống của chúng ta. Để phát triển, chúng ta đang tự hủy hoại dần tương lai của chính mình. Có thể sẽ nhiều nước mắt đau đớn hơn khi không chỉ có động vật "quái thai" phổ biến mà nhiều em bé sinh ra cũng phải chịu cảnh dị dạng trớ trêu. Lúc đó chỉ có đau đớn và muộn phiền. "Chuyện lạ" mà các báo đài vẫn đưa sẽ không là lạ nếu chúng ta có đủ sự quan tâm để nhìn xem chúng ta đang sống thế nào. Rất mong có vài ACE cô bác ở đây, dành thêm chút thời gian kiểm soát lại nguồn thực phẩm chúng ta đang ăn, nguồn nước chúng ta dùng, các hóa chất - phụ gia chúng ta sử dụng.... Ngõ hầu ít nhiều cũng giúp con cái và bản thân gia đình chúng ta có chút ý thức về hiểm họa này. Một đất nước mà con người không có thể trạng sinh lực bình thường, khỏe mạnh. Gia đình sẽ chẳng hạnh phúc và vui vẻ nếu có người không may bị khiếm khuyết thể trạng. Lúc đó dẫu phong thủy hay lý số có giúp cho thật giàu cũng chẳng thể nở nụ cười tươi. Mong cho muôn nhà an lạc!
  24. Nông thôn - một “thùng rác đẹp” (?) Chuyên đề Nông thôn Việt Nam: Hiện thực và Sự chọn lựa (Bài 3) Chẳng khó khăn lắm chúng ta cũng có thể ngăn chặn được những thứ “rác đẹp” đang ngày này tháng nọ cuồn cuộn đổ về nông thôn. Tôi đã từng ứa nước mắt khi thấy những đứa trẻ thôn quê- những công dân tương lai của chúng ta ngửa cổ uống ừng ực những chai nước ngọt đủ màu xanh đỏ của hoá phẩm và khi thấy chú bác, cô dì mình đặt trang trọng những bánh, những kẹo, những mứt , những rượu… rởm lên ban thờ tổ tiên. >> Bài 1: Bản thông cáo về những người nông dân >> Bài 2: Hiện đại hóa nhưng không thành thị hóa Đó là một sự thật tê tái. Nếu tôi là nhà quản lý, tôi sẽ không để cho tư thương hay sự bất lương, sự đói nghèo biến nông thôn thành cái thị trường cấp thấp, thành cái “thùng rác” của hàng tồn, hàng lừa đảo, hàng kém chất lượng như thế. Không thể vin cái cớ người ta nghèo, không có điều kiện mua hàng đắt đỏ, để ta tuồn thứ hàng không có lợi cho sức khỏe con người về nông thôn được. Đám con buôn bất lương chưa hẳn là đối tượng phải gánh hết những cái tội của tình trạng này. Cái tội buộc vào bất cứ ai, nếu bạn nghĩ bạn là người tử tế, đặc biệt là nhà quản lý. Những thức quà rẻ đến không hiểu nổi Tôi đi về nông thôn, ở những cái chợ quê, thấy người ta bán những chai nước ngọt kỳ lạ. Uống vào thì nó không chết người hay bị kiết lỵ, bị thổ tả gì ngay. Nhưng, nó được bán với giá 1.000VNĐ/chai trong cái thời buổi tiền mất giá thê thảm này. Cái chai bằng thủy tinh của nó đã đáng giá hơn 1 nghìn đồng, tôi nghĩ thế. Một cú đánh giày ở thị trấn, thị xã đã giá 4 nghìn đồng. Sao người ta bán rẻ thế, trong cái thời mà cái gì cũng đòi trợ cước trợ giá này, cách Hà Nội đến 500km, thứ “nước ngọt” ấy vẫn bán quá rẻ. Trong ấy là cái gì? Người nông thôn cứ mở nắp và uống. Nước ấy nó cũng sủi tăm, cũng có ga giếc đàng hoàng. Cũng ngọt lịm và thơm nức. Vị cam vị chanh sực nức cả một góc chợ. Nó là cái gì? Nếu đóng nước suối vào nó cũng chỉ có thể rẻ đến thế, tính cả tiền chai và tiền điều chế thứ nước thơm ngọt lịm kia vào thì ai cũng thấy… nghi ngờ. Ai uống cũng kêu ngon và rẻ. Tôi uống thử theo cái lối của con chuột đang ngửi… bả. Cái mùi nó sực lên đến nghẹt thở, cái vị ngọt của nó kỳ lạ. Ngọt hoang mang. Chỉ dám hy vọng nó được làm bằng đường hóa học, như thế tuy không ngon gì, nhưng sẽ bớt độc hại hơn là một thứ gì ác hiểm mà những người tính trục lợi bằng mọi giá có thể nghĩ ra. Hàng hóa được bày bán ở một chợ quê miền núi - Ai đứng ra kiểm soát thị trường này? Nhìn sang bên cạnh đó, chú em píp-po bán kem que đang hí hửng chào mời khách. Chợ đông những người là người, trời nắng, không một bóng cây xanh, trông thấy que kem ai chả thèm. Nhưng giời ạ, kem được bán với giá 500VNĐ/que. Cái đồng màu đỏ 500VNĐ kia, quê tôi, bà con cứ phải gọi rõ, cái “năm trăm mua hành ấy nhé” (dù bà bán hành giờ cũng từ chối bán hàng cho bất cứ ai mua năm trăm tiền hành!). Khéo lại nhầm với năm trăm nghìn và năm trăm đô-la Mỹ. Phải nói cả cụm từ dài ngoằng và trúc trắc thế thì người ta mới hiểu ra năm trăm đồng là năm trăm đồng tiền Việt Nam theo đúng nghĩa đen, cái đồng tiền mà người thành phố giờ có lẽ cũng ít dám cho ăn mày, hoặc chẳng buồn nhận lại khi người ta “thối” (trả lại khi mua hàng)! Que kem to như một cái… míc lông xù phỏng vấn nguyên thủ của các nhà báo quốc tế mà chúng ta vẫn thấy trên tivi. Que kem sù lên, đá dừa lăn phắn, sữa phấn lên như cái chùy màu trắng. Mở thùng kem ra đã thấy các loại mùi thơm tho, đậm đà ngậy ra như tiêu diệt nắng nóng. Sao nó rẻ thế nhỉ? Một trí thức nông thôn, một nhà sản xuất kem mút và nước ngọt bắt mắt, quyến rũ khứu vị giác của người nghèo đã tiết lộ: những thứ “đặc sản” kia được làm bằng nước lã và đường hóa học. Rẻ nhất trên đời là thứ hóa chất có mùi. Mùi gì cũng có. Một vài giọt “chất mùi” là cả ao làng sặc cái vị thơm thảo của cam, chanh, mãng cầu, sầu riêng hay nho táo, vân vân và vân vân. Những cái thứ đó ăn có chết người ngay không? Xin thưa là không chết ngay. Nhưng quả là nó rất độc hại. Không có ai đứng ra kiểm soát cái thị trường tội nghiệp ấy ư? Chúng ta đừng bao giờ kêu gọi lương tâm của đám con buôn. Tiếng gọi của đồng tiền là tiếng gọi bất nhẫn nhất. Chỉ có một vị Bao Công ra đời, với chế tài xử phạt, xử bỏ tù hay một cái gì nghiêm khắc kiểu như thế mới đủ sức cứu người nông thôn khỏi đại họa của hàng rởm, hàng độc, hàng cũ ế, hàng kém chất lượng mà cái kem, chai nước ngọt kia chỉ là thí dụ nhỏ. Những gì người nông thôn bán là thật. Bởi thế mà người đô thị gọi những thứ mua được từ nông thôn là đặc sản. Nhưng những gì người nông dân mua được thì quá nhiều đồ rởm và độc hại. Những người nông dân con ôm gà, ôm lợn và xách mớ cá sông, thậm chí cả thú rừng xuống chợ. Đám con buôn xông vào mua. Bà con bán rẻ “đặc sản” của mình, trong khi họ chỉ thích mua lại những món màu mè, bằng nhựa bằng ni-lông gì đó thật bắt mắt. Mùi cũng thật bắt… mũi. Thật ra thì họ cần một cái thứ mà ở xóm làng heo hút của họ không có. Và những cái con buôn đem lên toàn thứ rởm. Cái kiểu chó cắn áo rách ấy cũng là bằng lòng rồi, nếu hàng hóa không độc hại. Đằng này… Tôi đi trong những cái chợ quê, ở đó tràn ngập tóp mỡ, và tự dưng tôi thấy cái mác người thành phố ít nhiều sang trọng của mình thật có tội. Bà con mua hai nghìn đồng/ bát tóp mỡ. Người ta bày những tóp mỡ xám ngoét, xốp như xỉ than, lầy nhầy tí mỡ bám, ken xung quanh mỡ là muối hạt trắng xóa, đen xạm như cà phê trộn sữa. Thứ tóp mỡ thơm một tẹo, khét rất nhiều. Có tí mùi mật mỡ, tanh tao, còn lại là muối. Chỉ hai nghìn đồng, một bát loa tóp mỡ, thứ ấy trưng ra mâm cơm của người nghèo, họ phải ăn dè được vài bữa. Tóp mỡ là thứ vĩnh viễn ở đô thị không bao giờ chúng ta còn nhìn thấy. Thậm chí thịt mỡ cũng không còn ai bày bán ở phản thịt phố xá nữa. Nhưng tóp mỡ chảy về nông thôn mà tôi thấy kia là một thứ hàng hắc xì, ôi thiu đến thê lương. Nó ra đời như thế nào, họ mang từ đâu đến, nó độc hại hay bổ béo? – đó còn là một bí ẩn. Tương tự, nếu bạn từng thấy cái cảnh người ta đổ nước lã vào thùng phi, pha vào đó vài lít nước mắm mà người thành phố vẫn ăn, rồi tống muối vào bán cho người nông thôn, thì bạn sẽ thực sự thấy đau lòng. Người ta đến những cửa hàng pha chế nước mắm ấy, mua cả can hai mươi lít về bán lẻ, mỗi “thùng phi 20 lít” trị giá có 30 nghìn VNĐ. Giá rẻ như… cho, mà đám làm hàng đểu nó vẫn cứ lãi. Như báo chí từng viết, rượu pha cồn, rượu “ngoại quốc” được làm bằng cách thả một viên thuốc vào cái bồn 40 lít nước, “thuốc” sủi 10 phút, con buôn có đủ 40 lít rượu giống hệt rượu. Rượu ấy tràn ngập nhân gian. Và nông thôn là mục tiêu tấn công số 1 của những kẻ bán buôn vô nhân đạo.. Những "thùng rác đẹp" thu được trong một "trận chiến" chống hàng giả, hàng kém chất lượng Chúng ta đã bòn rút rồi đầu độc nông thôn? Cuối cùng thì đâu là lời giải cho bài toán này? Phải là sự ra tay của cơ quan chức năng. Chúng ta liên tục phê phán, vạch trần sự vô trách nhiệm của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng, cơ quan vệ sinh an toàn thực phẩm, rằng phải quan tâm đến chất lượng các sản phẩm, thực phẩm trong cả nước hơn nữa. Nhưng, thử hỏi, đã bao giờ các vị mũ mão cân đai kia về đến chợ huyện, chợ làng để xem hàng hóa của phố thị nó tràn về và đầu độc người nông dân thế nào chưa? Xin thưa, chưa bao giờ. Cái việc tóp mỡ, kem, nước mắm, nước ngọt, áo quần và thực phẩm chức năng phế phẩm nó tràn về quê nghèo của chúng tôi, đơn giản là nó đi theo con đường của cơ chế kim tiền. Nhiều thứ, không bịt mắt được người thành phố, thì về bịt mắt người nông thôn. Nhiều thứ, người giàu họ tự biết lo cho tính mạng và sức khỏe của họ (như chúng ta thường bảo, ta phải “có thân thì phải biết lo”, phải tự biến mình thành người tiêu dùng thông thái), họ không chấp nhận, thì nó tràn về với người nghèo ở nông thôn. Quy luật cung cầu chi phối thị trường, nhưng lương tâm con người không thể chấp nhận được cái việc coi thường tính mạng và sức khỏe bà con “thật thà như sắn khoai” của mình như thế. Họ lợi dụng sự thiếu thốn và nghèo túng của nông thôn để làm ra những sản phẩm tồi tệ và mang bán cho họ. Không phải tất cả những người nông thôn không biết đâu là hàng tốt đâu là hàng xấu và đâu là hàng có nguy cơ đến sức khoẻ của mình. Nhưng vì nghèo quá mà họ nhắm mắt đưa chân với ma quỷ. Hội chợ thương mại cấp huyện cấp xã vẫn được các thương gia láu cá ở khắp các tỉnh, thành đồng loạt tổ chức là một ví dụ tiêu biểu cho tình trạng này. Hàng sắp hết hạn sử dụng, cả hàng mập mờ quá “đát”, cả những thứ hàng không lừa được ai ở thành phố nữa, nó tràn về quê. Nó mang một cái tên rất kêu: hội chợ thương mại tỉnh (thành). Ra quân rầm rộ, cán bộ địa phương được chăm bẵm để khai trương rồi phát biểu. Họ mang loa đài, ánh sáng, khung sắt vải bạt đến, trong một buổi chiều, cái sân bóng biến thành một nơi xôm trò, tâm điểm chú ý của cả huyện. Họ hò hét kiểu “Sơn Đông mãi võ” như thế suốt cả tuần, rồi về tỉnh họp báo với thông cáo “hội chợ đã thành công tốt đẹp”, ý là bán được rất rất nhiều hàng. Trong cái đói nghèo của hội hè đình đám nơi đồng chua cỏ chát, nghe rôm rả, ai chả muốn ngó xem. Thu vé. Hàng vạn người mua vé, hàng vạn người gửi xe máy xe đạp, ban tổ chức đã vớ bẫm một mẻ rồi. Tiếp nữa, đài tỉnh, đài huyện ra rả quảng bá cho hàng ế, hàng thải, hàng lỗi mốt, hàng lừa đảo. Bà con nghe “đài” nói, cán bộ xã cán bộ huyện nói và nhìn cái việc cả huyện người cùng mua hàng, thế là a-lê-hấp, ta tin nhà ngươi rồi, ta cùng mua thôi. Những vật dụng ngộ ngộ mà rẻ tiền được nhập lậu, những cái máy tập đa năng, những cái thứ thực phẩm chức năng mà người thành phố đã ớn đến tận cổ được bà con nông thôn đổ xô vào mua. Mua xong mới biết mình bị lừa. Thuốc nào cũng chống ung thư, chống huyết áp, chống mỡ máu; máy nào cũng có em mặc hở hang uốn éo vài cái mà mỡ đã tiêu tan, chữa được đủ thứ nan y, lại thêm cơ thể đẹp như người mẫu khoe đủ thứ trên tivi. Tivi cấp tỉnh cũng náo nức quảng cáo các sản phẩm kiểu ấy, mỗi ca quảng cáo một sản phẩm, nó có thể nói điếc tai bạn trong 30 phút liền. Nghe đài, tin đài, người ta mua. Tôi từng lan man đọc cái hạn dùng của bánh kẹo, nước giải khát, và đủ thứ nhu yếu phẩm khác ở các hội chợ kiểu này, thì phát hiện ra: chỉ vài ngày nữa là hàng đó phải tiêu hủy. Họ tràn về xã, huyện, họ bán như thế thì không sai luật. Nhưng nội trong cái việc bán tống bán tháo cho người nông thôn, người nghèo với giá “trên trời”, kẻo vài ngày nữa phải vứt bỏ như thế thật kinh hoàng. Không phải những người quản lý nào đấy không biết thực chất của những thứ hàng hoá kia là gì. Nhưng họ đâu có lên tiếng. Bởi lên tiếng họ cũng chẳng được lợi ích gì. Nếu họ lên tiếng, nếu họ kiên trì đề xuất biện pháp kiểm tra, ngăn ngừa và có một lụât nghiêm khắc được thi hành nghiêm khắc thì sẽ bớt đi rất nhiều những mối nguy hiểm tới sức khoẻ của những người nông dân. Thỉnh thoảng, tôi đưa hai thằng cu của mình về quê. Đi mua thuốc ở quê, thuốc nào cũng chỉ còn hạn sử dụng là… vài ngày. Nhiều thuốc hết hạn dùng, vẫn bán. Lái buôn nó gọi rõ đó là “thuốc nhà quê”. Những thứ thuốc ở thành phố, bạn sẽ không bao giờ mua được ở nơi quê kiểng (và ngược lại) mà bạn phải mua thứ thuốc giá bèo, có tác dụng theo hướng đó ở dạng sắp hết hạn dùng, với lối kê đơn và bán thuốc “trần gian có một” của bác sỹ và các “bà chủ nhà thuốc” trình độ dưới mức i-tờ. Cũng như bánh kẹo, nước ngọt, nước suối, bạn phải mua những loại như Lavi “e”, Lavi “i” thay vì cái hãng Lavi gì đó mà người thành phố quen dùng. Các hãng bánh kẹo như Kinh Đô, Hải Hà hầu như không tồn tại ở nhiều vùng quê, thay vào đó là những gói bánh gia công to đùng, sặc sỡ, những nhãn hiệu lạ hoắc, thậm chí không nhãn mác, không ghi ngày sản xuất và hạn sử dụng... Các hãng bánh kẹo như Kinh Đô, Hải Hà hầu như không tồn tại ở nhiều vùng quê, thay vào đó là những gói bánh gia công to đùng, sặc sỡ, những nhãn hiệu lạ hoắc, thậm chí không nhãn mác, không ghi ngày sản xuất và hạn sử dụng. Đó là sự thực mà người nông thôn không để ý đến, đơn giản là họ mua những thứ họ cần, và những thứ ấy ăn vào thì bánh kẹo vẫn ngọt, rượu vẫn cay và nước mắm vẫn có mùi mắm, thế là hài lòng rồi. Còn người buôn họ chỉ cần tiền, họ bất chấp. Lúc ấy, người quản lý ở đâu, lương tri người với người nằm ở đâu? Nông thôn, là nơi mà hầu hết người Việt Nam chúng ta đã ra đi từ đó, hoặc hàng tuần chúng ta vẫn từ thành phố trở về đó. Nông thôn, có cha mẹ ông bà của quá nhiều người trẻ đang vênh vang ở thành phố hôm nay. Sự chắt chiu rút ruột cả về vật chất lẫn tinh thần kia đã làm nông thôn càng kiệt quệ đi, khi mà người trẻ lớn lên, có trình độ và tay nghề, họ ở lại cống hiến cho thành phố hoặc đi phi cơ ra làm thuê ở nước ngoài. Nông thôn không có đất diễn cho những con rồng, hoặc những con rồng chỉ muốn thoát khỏi nông thôn – thì cũng thế. Cái nghèo khoai sắn, cái nghèo của sự hy sinh “mẫu tử” cuối cùng trở thành rắn độc rước hàng tồn, hàng kém chất lượng và hàng lừa đảo độc hại về giết chết chốn nông thôn một cách dần dà ư? Chẳng khó khăn lắm cũng có thể ngăn chặn được những thứ “rác đẹp” đang ngày này tháng nọ cuồn cuộn đổ về nông thôn. Tôi đã từng ứa nước mắt khi thấy những đứa trẻ thôn quê- những công dân tương lai của chúng ta ngửa cổ uống ừng ực những chai nước ngọt đủ màu xanh đỏ của hoá phẩm và khi thấy chú bác, cô dì mình đặt trang trọng những bánh, những kẹo, những mứt , những rượu… rởm lên ban thờ tổ tiên. Ôi thôn quê, thôn quê! Nhìn những cảnh người ta hành xử như thế đối với Người hỏi làm sao lòng không nổi giận? Theo Lãng Quân Nguồn: http://tintuconline.com.vn
  25. Ngôi sao mà ai cũng bỏ lỡ Một đài thiên văn tia X đã phát hiện một vì sao nổ tung trong giải Ngân Hà, tuy nhiên những người quan sát sao lại không hề nhận thấy sự kiện này. Tính toán chỉ ra rằng luồng sáng đột ngột của vì sao hoàn toàn có thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng không ai báo cáo điều gì cho đến khi kính viễn vọng XMM-Newton thuộc Cơ quan vũ trụ châu Âu phát hiện sự bùng lên đột ngột của tia X vũ trụ. Ngày 9, tháng 10, 2007 khi đổi hướng mục tiêu, XMM-Newton đi qua một nguồn tia X sáng chói mà không ai ngờ tới. Nguồn sáng này không được liệt kê trong bất cứ danh sách tia X nào trước đây, tuy nhiên vật thể bí ẩn đã chiếu sáng tầm nhìn vũ trụ của XMM-Newton. Sao mới hiện V598 Puppis, được phát hiện một cách ngẫu nhiên bởi XMM-Newton. Đường viền của tia X, chỉ rõ vị trí của sao mới xuất hiện, được tráng trên tập hợp ảnh (hồng ngoại, đỏ và xanh) từ Cơ quan điều tra bầu trời SuperCOSMOS (SSS), Đài thiên văn Royal,Edinburg. (Ảnh:Credit) Nhóm XMM-Newton đã tìm kiếm 3 ứng cử viên có khả năng tại vị trí này, bao gồm một vì sao mờ chỉ được biết đến với số hiệu USNO-A2.0 0450-03360039. Andy Read thuộc đại học Leicester và Richard Saxton thuộc Trung tâm thiên văn học vũ trụ châu Âu của ESA (ESAC), Tây Ban Nha, đã nhanh chóng gửi thư điện tử đến các nhà thiên văn học khác về nguồn tia X mới được phát hiện. Điều tra thêm Các nhà thiên văn học đã sử dụng kính viễn vọng Magellan-Clay 6.5 mét tại đài thiên văn Las Campanas, Chilê, và nhận thấy rằng USNO-A2.0 0450-03360039 sáng gấp 600 lần bình thường. Việc phân tích ánh sáng từ nguồn giúp họ phân loại vật thể nói trên vào loại sao mới xuất hiện. Sao mới thường xuất hiện khi một sao nhỏ và đặc, gọi là sao trắng, hấp thu khí từ một sao gần đấy. Khí tích tụ trên sao trắng cho đến khi một phản ứng hạt nhân xuất hiện giải phóng một lượng năng lượng lớn, khiến cho sao trắng nổ tung và phát sáng dữ dội. Góc nhìn nghệ thuật của XMM-Newton. (Ảnh: C. Carreau - ESA) Điều đó dẫn tới một vấn đề khó hiểu. Vụ nổ theo dạng này không giải phóng tia X ngay lập tức, vì các đám mây được tạo ra bởi các mảnh vụn từ vụ nổ tạm thời che khuất tia X. Vì vậy, mặc dù không ai báo cáo nhưng vụ nổ phải xảy ra nhiều ngày trước khi XMM-Newton phát hiện ra tia X, Các nhà thiên văn học nghiệp dư và chuyên nghiệp tìm ngôi sao mới phát hiện bằng cách thường xuyên quan sát bầu trời buổi đêm để tìm kiếm các vì sao hoặc các vật thể phát sáng đột ngột – tuy nhiên không chỉ có con người mới quan sát bầu trời. Saxton đã liên lạc với dự án All Sky Automated Survey và yêu cầu các nhà thiên văn học kiểm tra dữ liệu của họ. Họ nhận thấy rằng quá trình hình thành sao mới xảy ra vào ngày 5, tháng 6, 2007, và nó đủ sáng để có thể quan sát bằng mắt thường. Saxton cho biết: “Bất cứ ai đi ra ngoài buổi tối hôm đó và nhìn về phía chòm sao Puppis đều có thể nhìn thấy hiện tượng này”. Vẫn theo dõi Sao mới hiện bây giờ có tên chính thức là V598 Puppis và trở thành một trong những ngôi sao sáng nhất trong gần một thập kỷ, mặc dù không hề được phát hiện trong thời kỳ rực rỡ nhất. Khi thông tin về sự tồn tại của nó được truyền đi, nỗ lực toàn cầu để dò tìm ánh sáng đang mất dần đi của nó trở nên hết sức mạnh mẽ. Bản đồ thiên hà cho thấy tất cả các vật thể do XMM-Newton quan sát được, một trong số đó là sao mới xuất hiện V598 Puppis. Bản đồ này được mã hóa màu, những nguồn năng lượng thấp có màu đỏ và những nguồn năng lượng lớn hơn có màu xanh. Đồng thời, nguồn sáng hơn được biểu thị lớn hơn trên bản đồ. Biểu đồ này nằm trong tọa độ vũ trụ (trung tâm của biểu đồ trùng với trung tâm của giải Ngân Hà). (Ảnh: ESAl) Read cho biết: “Đột nhiên hàng loạt dữ liệu về sao được thu thập. Với công việc như thế này, đóng góp của cộng đồng nghiệp dư cũng quan trọng không kém giới chuyên nghiệp”. Câu chuyện có một kết cục tốt đẹp nhờ XMM-Newton, kính viễn vọng che phủ 30% bầu trời và đã ghi chép 7.700 nguồn tia X. Tuy nhiên, sự kiện trên đã khiến các nhà thiên văn học băn khoăn liệu có các khám phá khác không hề được chú ý đến hay không. Theo Trà Mi Nguồn: http://tintuconline.com.vn