phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Trả Lại Thăng Long Cho Dân Việt Nguyễn Cường Nhân đọc bài viết của một nhà văn khá nổi tiếng, ca tụng về những nét đẹp vừa lãng mạn nên thơ, vừa hào hùng của Hà Nội, mảnh đất biểu tượng cho ngàn năm văn hóa của dân tộc Việt, làm người viết không khỏi nhớ lại một ý tưởng tình cờ đến, trong tiềm thức sau một giấc mơ kỳ lạ, cách đây không lâu. Thật vậy, cái âm hưởng của từ "Hà Nội" dám chắc đã in sâu đậm vào tâm khảm ký ức mọi người, trải qua ít nhất cũng khoảng chừng gần mươi thế hệ, nên đối với đa số không còn phải thắc mắc hay tìm hiểu gì thêm về nguồn gốc hay ý nghĩa của nó. Hà nội là Hà nội, là cái tên như Sài`gòn hay Huế, là tiếng gọi đầu đời của biết bao trẻ thơ, là nơi chốn hẹn hò gặp gỡ của những văn nhân nghệ sĩ, và cũng giống như hơi thở của nhịp sống luân lưu trong hàng triệu triệu con dân Việt, thì sao lại còn phải dài dòng giải thích hay thắc mắc làm gì!? Ðó thường là cảm tưởng chung của những người miền Bắc mỗi khi có dịp hỏi về ý nghĩa của Hà nội. Cũng có một số vị có sự kiên nhẫn độ lượng và thông cảm hơn, đã đưa ra lời giải thích theo sát nghĩa, đơn sơ và dễ hiểu là: Thành phố có con sông (Hồng), hay chính xác hơn, thành phố nằm ở ven sông. Nếu chỉ giản dị như trên, thì chẳng có gì đáng nói, và dĩ nhiên, cũng chẳng có bài viết này. Nhớ lại câu châm ngôn thường nghe nói: không có lửa, sao có khói? Thắc mắc được nêu ra đây là: Tại sao cái tên nguyên thủy "Thăng long" được vua Lý Thái Tổ sáng lập khai sinh ra, kéo dài trong suốt hơn tám thế ky,ủ qua biết bao triều đại, kể cả khi nhà Trần đã cướp ngôi và thảm sát cả nhà dòng họ Lý, bị đổi tên khác là Ðông Ðô, Ðông Quan, rồi Ðông Kinh cả hơn trăm năm, rồi cuối cùng cũng được trả lại cho tên cũ, thì tại sao triều đình nhà Nguyễn lại quyết định bỏ đi, rồi sau cùng thay thế luôn bằng cái tên HàNội? Câu trả lời cho thắc mắc trên sẽ được lần lượt trình bày trong bài viết này, theo chiều hướng suy luận chủ quan của người làm công việc khảo cứu, không nhất thiết phải là hoàn toàn đúng, và chắc sẽ có được tiếng nói phê bình từ nhiều giới độc giả hay các nhà chuyên môn nghiên cứu về văn hóa sử. Thông thường, tên của một địa phương hay thành phố, đa số xuất phát từ một trong hai trường hợp sau: Tên khởi thủy do nhóm người đầu tiên đến khai phá hay lập nghiệp, thường gọi hay đặt cho. Giống như trường hợp tên người do cha mẹ đặt cho từ khi mới sinh ra, thường được giữ luôn đến suốt đời và ít khi bị thay đổi, không ngoài lý do tôn trọng ý kiến của nhửng bậc tiền nhân có công gây dựng. Ngoài ra, giữ được cái tên nguyên thủy còn nói lên tinh thần muốn duy trì truyền thống bảo tồn văn hóa của địa phương, chưa nói đến nhử~ng rắc rối về giấy tờ hay công việc hành chánh khi phải thay tên đổi họ. Do vậy, hiếm khi thấy tên của một thành phố hay thị trấn lớn trên thế giới bị thay đổi, trừ một thiểu số vì lý do chính trị. Ðây thuộc về trường hợp thứ hai với các lý do có thể tạm coi là chính đáng, như một thuộc địa vừa được thâu hồi lại chủ quyền, và tên đường hay tên của thành phố là do ngoại bang đặt cho khi còn đang ở thế mạnh, hoặc đang chiếm đóng lãnh thổ. Dù ở trong trường hợp nào, thì cái tên của một thành phố đều hàm chứa một ý nghĩa nào đó, mà những người thẩm quyền khi đặt tên, phải mất nhiều thời gian suy nghĩ đến, và ít ra cũng có sự đồng thuận của môt số người. Tuyệt đối không thể cho là kết quả của một sự ngẫu nhiên hay tình cờ theo cảm hứng cá nhân được. Hơn nữa, riêng trong trường hợp tiếng Việt thuộc dạng đơn âm, nên dù chỉ có một chữ hay một âm thôi, cũng thường cho ra nghĩa rồi, nói gì đến hai âm ghép vào. Dựa trên những suy tư đó, người viết đã thử truy tìm nguồn gốc ý nghĩa của Hà Nội. Hà có nghĩa là con sông thì đã quá rõ, ai cũng biết cả rồi, không phải nói tới nữa. Riêng chữ "Nội" mới là vấn đề, vì từ "Nội" ở đây đóng vai của một trạng từ hay tĩnh từ. Theo nghĩa đen "Nội" là ở trong như đã giải thích, ngược lại với "Ngoại" là bên ngoài. Nghĩa đen bóng bẩy hơn một chút thì Nội là chính, còn Ngoại là phụ, như ta vẫn thường nói họ nội, hay họ ngoại. Thành phố có con sông chính, hay thành phố có con sông chảy ngang qua là ý nghĩa thuần nhất của Hànội. Có người thì cho rằng vì có Hà Bắc, Hà Nam, Hà Ðông và Hà Tây, nên có cái tên Hà Nội ở giữa, cho hợp lẽ. Giải thích như vậy thì tạm được, nhưng chưa thông và còn thiếu sót. Trước khi có tên Hà Nội thì chỉ có các địa danh như Kinh Bắc và Sơn Tây. Mãi sau này, khi đã có từ Hànội rồi, thì các "Hà" khác mới được khai sinh ra sau cho có vẽ hợp lý. Ðúng ra, tên Hà Nội đầu tiên đã được đặt cho một làng nhỏ nằm trong huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Sự thật có thể không chỉ đơn giản như vừa nói! Hãy lý luận thêm một chút: Một thành phố có con sông chảy qua là chuyện rất bình thường ở khắp nơi trên thế giới, ngay cả như ở miền Nam chẳng hạn, không là điều hiếm có, thì việc gì phải cần nhấn mạnh Hà "Nội với Ngoại" (hay chính với phụ!?) Vậy, tạm thời quên cái ý nghĩa đen bên ngoài có vẻ như vô tội vạ và ngay thẳng nhất. Còn lại, chỉ có thể là "người ta" thâm nho, muốn chơi "chữ với nghĩa", muốn ám chỉ một ý khác như "Con sông hướng về bên trong" chẳng hạn! Xin nhắc lại, trong tiếng Việt thì giới tự đứng sau danh từ và làm bổ từ, nên theo đúng văn phạm phải là "sông (ở) trong". Nếu đúng, thì quả là một điều cần xét lại. Bỡi vì, một con sông lớn mạnh và bề thế như sông Hồng, phải chảy ra "ngoài" biển cả về với đại dương, mới xứng đáng là rồng mây gặp hội, và nhất là không thể nào lại chịu bị gò bó kềm hãm "trong" đất liền, chật chội nhỏ hẹp như những con kinh, hay cái mương, cái rạch được. Ðây là chưa dám nghĩ tới cái ý quanh co, khi muốn ám chỉ đến cái loại dòng nước cho ra từ "bên trong thân thể của các sinh vật"! Dù sao, trên là chỉ mới nói sơ đến cái nghĩa đen và bóng đơn thuần bề ngoài, nhưng chưa nói đến ẩn nghĩa thâm sâu nhất, mà "người ta" muốn ngầm hiểu, áp đặt vào cái vùng đất địa linh nhân kiệt, tiêu biểu cho cả mấy ngàn năm văn hóa BáchViệt. Rồng hay Long, tuy là giống vật linh thiêng tưởng tượng chỉ có trong truyền thuyết, nhưng nguồn gốc về hình dạng vẫn thuộc vào loài bò sát, có thân mình dài như rắn. Cho nên theo khoa hình tượng học, thì sông được ví như rồng, như sông Cửu long được ví như chín (9) con rồng chảy cong vòng lượn mình uốn khúc qua lại. Rắn hay Rồng, trong tư thế mạnh mẻ và đáng sợ nhất là khi chụp mồi hay để tự vệ, thường ngẩng cao đầu lên, phóng ra "ngoài" hướng về phía trước, để đối diện với nguy hiểm khó khăn hay kẻ địch. Ngược lại, trong thế sơ hở hay yếu nhất thì cuộn tròn lại, quay đầu vào bên "trong" nghỉ ngơi, lúc no mồi phè phởn, hay khi ngủ. Câu trả lời đã bắt đầu xuất hiện một cách khá rõ ràng, giống như ta đem hai bức tranh thật và giả treo sát bên cạnh nhau để so sánh sự tương phản khác biệt. Nếu đem viết hai chữ Hà Nội ngay liền phía dưới Thăng Long thì có thể thấy ngay có sự đối xứng nhịp nhàng. Cùng một ý là sông, thay vì dùng "Long" hay rồng tượng cho sự thông minh cao quý, thì lại biến cho thành "Hà", tầm thường và nhỏ mọn như loài giun rắn. Thay vì "Thăng" tiến, dũng cảm tự tin để hướng thượng đi lên, thì bị làm cho u mê nhu nhược chui rúc vào "Nội" thành hang hóc để cầu an. Rõ là nghĩa đối nghĩa, lời thay lời, theo cách đối đáp thời nho học còn thịnh không thể nhầm lẫn được. Và chỉ cần thế thôi, họ chẳng muốn phải làm mạnh tay hay hảm hại gì cả. Chỉ cần phù phép làm cho con rồng Việt đang tính bay lên, đành chịu quay lại rúc đầu vô bụng ngủ yên cho quên hết mọi việc, cho họ khỏi phải bận tâm lo lắng. Tính đúng ra, thì con rồng Việt đã bị làm cho ngủ say sưa mê mệt đến cả hơn một thế kỷ rưỡi! Nhớ lại, chẳng phải chỉ có người viết mới có ý nghĩ như vậy thôi. Các nhà làm văn hóa, các nhạc sĩ theo trực giác tự nhiên hay cảm tính bén nhạy, cũng đã thấy được điều muốn nói. Phải gọi cho được bản nhạc hùng ca là "Thăng long hành khúc", mà không là "Hà nội hành khúc"! Phải tựa như rồng đang bay lên lượn xuống, uy nghi mãnh liệt, cuồn cuộn như sóng dồn, như hào khí của đắng Quân vương, anh hùng hào kiệt. Phải được vậy thì mới xứng danh là đất của ngàn năm văn vật, niềm hảnh diện của các sĩ phu Bắc Hà! Nếu không, thì chỉ là giống Lươn, giống Trạch chuyên chui rúc ở bờ ao đầm lầy, có gì mà ca tụng, tự hào hãnh diện. Nghĩ cho cùng, không phải là chuyện mê tín dị đoan mà là dữ kiện khoa học, cũng chẳng phải là Sấm truyền mà là Duy Lý Sử Quan, Thống Kê Xác Xuất. Kể từ khi cái vùng đất được vị vua anh minh họ Lý cho mang tên là "Thăng long" đó, thì ít ra cũng đã sản sinh cho đất nước những bộ óc tuyệt vời, những "Phá Tống, Bình Chiêm", "Hội nghị Diên Hồng", hay "Bình Ngô Ðại Cáo". Nếu đã không làm cho đất nước trở thành cường quốc lẫy lừng trong thiên hạ, thì cũng không làm gì hổ thẹn đến vong linh tiền nhân. Nhưng, kể từ khi mang cái tên Hà nội vào, thì may lắm cũng chỉ cho ra đời nhửng nhân tài đại khái như "Truyện Kiều còn, nước ta còn!"; "Thống chế ơi, có tôi đây"; hay là tội nghiệp đáng thương hại hơn "Anh thành công, thì em sẽ thành công; còn anh thất bại, thì em xin chịu thất bại theo anh!" Ôi! còn đâu là cái hào khí của giòng giống Lạc Hồng muôn thuở! Nguyên do nào thúc đẩy vua Minh Mạng ra Sắc lệnh (hay Chiếu Chỉ) đổi Thăng Long ra Hà Nội vào năm 1831, sau khi đã đăng quang nhiếp chính cầm quyền gần một con giáp? Xin trở lại từ đầu, lý do chính ai cũng có thể hiểu là dưới ảnh hưởng chế độ phong kiến thời xưa, cái gì thuộc về Vua đều được ví như rồng, hay ngược lại. Thăng long không còn là kinh đô triều đình thuộc nơi chốn vua ở nữa, nên không được quyền mang tên Long. Tuy nhiên, thắc mắc ở đây là vì sao, trong cả trăm ngàn tên đẹp đẽ có ý nghĩa thiếu gì trong kho tàng văn chương Hán Việt hay Nho học không chọn, mà lại lựa ngay cái tên có vẽ tầm thường như Hà nội vừa nói ở trên, mới là điều cần nêu lên nghi vấn. Phải chăng vì sợ rằng miền đất đó sẽ cho ra những anh hùng cái thế có thể làm nổi chuyện thay ngôi đổi chủ, hay vì sợ hồn ma của vua Lê chúa Trịnh muốn quay về, nên họ đã tìm ra đủ mọi phương cách để phòng ngừa hay chế ngự, bằng ngay cả các biện pháp thuộc lảnh vực huyền học siêu nhiên? Hẳn các vị quan lại đại thần thời đó, phải biết là hơn ngàn năm trước, có một thái thú Cao Biền rất tinh thông về khoa Phong thủy, đã không mấy thành công và cũng gần như bỏ mạng, vì muốn ém cái đầu rồng của nước Việt. Hậu sinh thật đáng kính nể, dùng biện pháp mạnh như ông thầy họ Cao, tính cắt phăng luôn cái đầu rồng thì thất bại, nhưng dùng cách nhẹ nhàng hơn để dụ rồng quay đằu vô bụng ngủ, thì lại thành công hoàn toàn, bằng khoa siêu hình hay tâm linh, phá được cái thế quý địa "Nhả ngọc phun châu", mà các thầy Ðịa lý ví như con rồng đang bay rồi hạ giáng xuống vịnh Bắc Việt để phun nước (?). Trăm dâu không thể đổ đầu tằm! Chắc chắn rằng vua Minh Mạng không chủ động xướng xuất việc này, vì nếu có thành kiến hay nghi ngờ, thì ông đã làm từ khi mới lên ngôi vua. Ngoài ra, ông cũng không giỏi gì lắm về văn chương chữ nghĩa, lại ham mê luyện tập võ nghệ săn bắn, và có nhiều phi tần mỹ nữ nhất trong các ông vua, thì không thể nào lại có những ý tưởng "cao siêu" đến thế. Vậy thì còn lại giả thuyết là do một ông quan nào đó đã "mớm" ý cho vua. Giả thuyết trên tuy có vẽ hợp lý, nhưng vẫn còn thiếu sót. Hãy thử suy luận xa thêm một chút, nếu thật sự đó là sản phẩm trí tuệ của ông quan nào đó nghĩ ra, thì hẳn phải là người thuộc dòng khoa bảng thông minh xuất chúng. Mà đã làmột bậc sĩ phu chân chính được xã hội trọng vọng như vậy, thì danh dự, lương tâm của kẻ sĩ để đâu, để có thể cho phép chính mình xúi dục vua làm cái chuyện ám hãm cho đất nước như vậy. Câu trả lời ở đây chỉ có thể là do kết quả của những ông quan mà trí óc không cao quá cái ghế ngồi của mình, chỉ biết nhìn thấy cái lợi ngắn hạn trứơc mắt, để rồi bị gạ gẫm xúi dục, mua chuộng bỡi những hồn ma bóng quế nào đó! Tất nhiên, chắc sẽ có nhiều người thắc mắc cho rằng, dù giả thuyết trên nếu có đúng đi chăng nữa, thì cũng chỉ là một cái tên gọi, một sự liên tưởng mơ hồ thiếu cơ sở khoa học nào đó, giữa con rồng chỉ có trong huyền thoại với con sông Hồng. Làm sao có thể dám kết luận đó là nguyên nhân cho những sút kém thua thiệt mà cả dân tộc Việt phải gánh chịu về sau này!? Câu trả lời ở đây sẽ là: Tất cả những suy luận trên đều dựa hoàn toàn vào bằng chứng sử liệu, trên cơ sở kiến thức khoa học ngày nay, và không phải là chuyện giả tưởng do trí tưởng tượng sắp đặt, hay từ một sự linh thiêng huyền bí nào cả. Ngôn từ về "Siêu hình" hay "Huyền học" có nói đến ở trên, chính là hiện thân của khoa tâm lý học hay phân tâm học, và kết quả của những cái gọi là huyền bí đo,ù chính là những phương pháp "Tẩy Não" hay nhẹ hơn là "Tự Kỷ Ám Thị" được áp dụng cho ngày nay. Dù sự thật có như thế nào đi nữa, quan trọng hơn hết, vẫn là cái tâm cái ý của những người có quyền lực thời bây giờ khi muốn đổi ra tên Hànội, rồi biến thành hành động thể hiện qua chánh sách xử dụng nhân tài v.v. Thí dụ, trong bộ "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện" do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn, xuất bản vào khoảng năm 1909, viết về chuyện các Hoàng Thân Quốc Thích, cùng các Quan từ thời vua Gia Long cho đến Ðồng Khánh, gần một trăm năm. Nếu bỏ ra các nhân vật thuộc Hoàng Gia Tôn Thất, thì trong tổng số hơn sáu trăm (600) tên của các quan lại, có không quá năm (5) vị là có nguyên quán gốc ở Hànội nói riêng, và không quá 60 vị có nguyên quán từ Nghệ An hay sông Cả trở ra, nói chung cho Bắc Hà. Con số quá khiêm nhường cho một miền đất mà tỷ số nho sinh sĩ tử dám chắc không dưới 30 % của cả nước, vào thời bấy giờ. Rồng là con vật tưởng tượng ai cũng biết, nhưng sở dĩ vân hóa Phương Ðông thường nhắc đến coi như có thật, bỡi vì ngoài vấn đề uy quyền linh thiêng dành cho vua chúa, nó còn là biểu tượng của sự sang giàu, cho trí tuệ hay sự thông minh của con người. Chẳng cần đợi đến khi thực dân Pháp qua hay mãi về sau này, ngay từ thời đất nước còn độc lập và xuyên qua cả ngàn năm lịch sử, ai cũng phải khách quan nhìn nhận là miền Bắc, được coi như cái đầu của con rồng Việt, siêu hình hay thực tế, biểu tượng cho trí tuệ hàng đầu của cả nước. Từ đó, cũng chẳng có gì lạ khi miền đất gọi là Thăng Long, não bộ của đầu rồng, đã là mục tiêu chính để triệt hạ theo đúng sách vở, đánh rắn phải đánh ở cái đầu! Nhìn lại một vài hiện tượng văn hóa đã xảy ra và chỉ khởi sắc từ miền Bắc, như hát Ả Ðào hay Ca Chầu dành cho mấy Ông, hoặc lên "Ðồng Cốt"dành cho mấy Bà. Hát Ả Ðào bình thường đúng là môn văn nghệ giải trí có nguồn gốc từ cung đình cho vua quan thưởng thức. Thế nhưng sau này đã được truyền ra trong dân gian, rồi bị biến dạng thành "nhà chứa" và kèm theo luôn nhà hút á phiện. Những món ăn chơi vừa nói, thật sự đã có từ thời vua Minh Mạng. Lúc đầu chỉ nhắm vào các giới quan lại cựu thần vua Lê miền Bắc, được khuyến khích mượn thú ca kỹ, đi mây về gió tại tư gia để giải sằu, quên đi chuyện cũ mà thôi. Nhưng đến thời vua Tự Ðức thì trở thành thương mại, lan xuống tận giới trung lưu hay thành phần nho học trí thức, và khi người Pháp qua cai trị thì họ lại càng mạnh tay khai thác để biến thành một phong trào "Bảo tồn văn hóa"! Thời đó, giới sĩ phu Hà Thành mà không biết thưởng thức cái món "Hát Ả Ðào", thì không xứng đáng được coi là người lịch lãm. Hiện tượng trên đúng là phù hợp với cái ẩn nghĩa "Hà Nội" hay "Rồng ngủ ". Vả lại, Rồng đang ngủ thì không thể làm gì khác trừ chuyện mơ mộng viễn vông, nên nhân tài Bắc Hà trong thế kỷ qua chỉ có quy tụ vào trong các bộ môn Thơ, Nhạc và Họa hay nói chung là về nghệ thuật, nghĩa là cần có nhiều đức tính mơ mộng và trí tưởng tượng dồi dào, và phải rời xa cái đất gốc thì mới có danh tiếng khá được! Ðó là chưa nhắc đến hiện tượng đa số các văn nghệ sĩ có tiếng ở miền Bắc thời bấy giờ, không ít thì nhiều, đều mang thêm vào cái nghiệp "Ði mây về gió". Trên chỉ mới là những biện pháp dành cho tầng lớp từ trung lưu trở lên, nhưng vẫn chưa đủ, vì miền Bắc nước Việt thời đó phải có ít nhất 90% nông dân. Chính số đông này dù có cha mẹ thuộc thành phần bần nông ít học, nhưng nhờ tính hiếu học và trọng khoa bảng, nên một số không ít cũng cố gắng cho con đi học để có thể vươn lên. Ðối với đám đông quá nhiều này, thì họ lại dùng phương pháp "tự kỷ ám thị". Lợi dụng lòng mê tín và thương con của các bậc cha mẹ, qua lời khuyên bảo của mấy ông Ðồng bà Cốt hay các thầy Pháp Sư đã được huấn luyện và mua chuộng, tìm những cái tên xấu xí, thô tục đặt cho trẻ con. Thế là cái đất ngàn năm văn hiến đó đã một lúc cho ra đời hàng ngàn hàng vạn những "Thằng Cu" và "Cái Hĩm", đã là nơi phát xuất ra một hủ tục phi nhân bản, phản dân tộc, tệ hại nhất trong lịch sử văn hóa của....loài người! Vì, ngay cả những bộ lạc kém văn minh ở miền núi hay bên Phi Châu, cũng không hề gọi tên con mình xấu như vậy. Rõ ràng là người ta muốn cho những mầm non tương lai của nước Việt, phải bị nhập tâm ngay từ khi còn nhỏ: "Luôn luôn phải nhớ là giá trị của chúng mày chỉ xứng đáng với cái tên được gọi"!!! Nhân viết tới đây, không thể không nói đến một trường hợp tương tự thứ hai xảy ra sau cái tên Hà nội, chính là tên của phi trường quốc tế "Nội Bài". Thú thật, người viết không thể hiểu được tâm trạng của cái ông tác giả nào đã đưa ra cái tên kỳ lạ như vậy! Tại sao người ta lại hay thích dùng chữ "Nội"? Có thể nào là kết quả của những nổi lo sợ ám ảnh bởi chữ "Ngoại", vì liên hệ đến ngoại bang hay xài đồ ngoại hóa, nghĩa là không yêu nước? Còn nếu cho là dùng chữ "Nội" vì do từ Hà Nội mà ra, thì sao lại ghép liền với chữ "Bài", mới thật là hết ý kiến vì khó hiểu và vô lý quá! Trước hết, xét về nghĩa lý thì chữ "Nội" là ỡ trong, đã nói rồi và không cần lập lại. Riêng chữ "Bài" thì chỉ có hai nghĩa mà thôi. Nghĩa thứ nhất làm động từ là bài bác hay gạt bỏ đi. Ðiều này hoàn toàn vô lý, vì nếu có ý đó thì "Bài Ngoại" chớ sao lại "Bài Nội"? Nghĩa thứ hai còn lại là khuôn khổ có giới hạn, hay đóng khuôn trong kích thước, như bài học, bài vẽ, bài ngà (thẻ bài), hay bài vị trên bàn thờ. Tạm bỏ qua những nghĩa không ổn, chẳng hạn như phi trường của thủ đô là phải thuộc hạng quốc tế, chỗ máy bay đi khắp bốn bể năm châu, làm sao lại bị hạn chế trong nội địa được! Vậy thì chỉ còn một nghĩa tạm thời có lý là "cái thẻ ở trong (người)". Có thể, theo nhận xét của người khai sinh ra cái tên Nội bài, thì phi trường là chỗ mà ai tới đó phải có cái thẻ bài hộ chiếu thông hành, thẻ xanh, thẻ đỏ, hay gì gì đó.....thì mới được đi(!?) Còn như dân thường không có thẻ, thì chắc suốt đời làm gì được bén mảng đến phi trường, nói chi đến chuyện đi xuất ngoại!. Nghĩa này tuy đơn sơ, nhưng có thể hiểu được. Và nếu chỉ có vậy thì tội nghiệp và buồn cho cái phi trường này quá. Nhưng chưa hết, một giả thuyết khác có thể là trường hợp "chơi chữ' của cụ nào vốn dòng thâm nho mà thôi. Giống như câu chuyện "Quần Thần" hay "Bầy tôi" là ám chỉ "Bồi Tây", biết đâu mấy cụ lại bắt chước ông nghè họ Nguyễn, muốn nói "Nội Bài" đọc lái là "Lại Bồi" (theo cách phát âm sai "N" thành "L") nghĩa là mấy người ra phi trường thời đó để đi xuất ngoại hay công tác nước ngoài chỉ là đi làm "Bồi" cho thiên hạ! Nghĩa này thì có vẽ suy diễn hơi tếu lâm, khó có thể xảy ra. Dám chắc không cụ nào cả gan xâm mình để đùa kiểu như vậy. Tuy nhiên, điểm thắc mắc chính ở đây là người Việt mình, nhất là sĩ phu Bắc Hà rất nhạy cảm về những chữ nói lái, mà cớ vì sao lại không hề có ai thấy từ lúc cái tên đề nghị còn nằm trên giấy tờ? Cuối cùng, nếu tất cả giả thuyết trên đều sai, thì chỉ còn duy nhất một trường hợp, rất là khó chịu khi phải nói ra đây. Số là người viết thích ăn một món mà chỉ có mấy tiệm người Hoa làm mới ngon. Ðó là cái món "Dồi trường", nguồn gốc theo nguyên thủy là do từ "Nội trường" mà ra. Thành thử khi nghe đến cái tên Nội Bài thì tự nhiên người viết lại có ấn tượng mạnh khi nhớ cách nói vắn tắt, bỏ bớt chữ thường hay dùng, thí dụ như "Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội" thì gọi tắt là "Việt Minh". Vậy thì có thể nào "Nội Bài" là do từ 4 chữ "Nội Trường Bài Tiết"?. Nếu đúng vậy, thì quả là chuyện "kinh thiên động địa", quá sức tưởng tượng của mọi người! Ai cũng biết rằng phi trường hay hải cảng đối với một thành phố, có thể được ví như là cái miệng để nuôi sống con người về vật chất, nơi để xuất ra hay nhập vào hàng hóa, cung cấp thực phẩm tiêu thụ cho dân chúng. Riêng về phương dịên tinh thần, và với thời đại không gian này, thì phi trường quốc tế còn là nơi trao đổi tiếp xúc với trí tuệ của thế giới. Những du học sinh về nước, các nhà kinh doanh hay các nhân vật quan trọng (VIP) khi đến phi trường, thì cũng có thể coi như là mang sự thịnh vượng về vật chất hay chất xám về tinh thần cho đất nước, hiểu chung theo nghĩa bóng. Do đó, không thể coi thường, vì vô tình hay bị gạ gẫm (?), khi đặt cho cái tên tếu lâm như vậy. Những người có thẩm quyền, nếu cần, phải truy tìm tông tích nguyên nhân nào, và ai đã chịu trách nhiệm xướng ra cái tên "Nội Bài". Nghĩ "quẩn" thêm một chút, chẳng lẽ bỡi vì có vị danh nhân nào đó, hình như là Mao Trạch Ðông, đã phán "Trí thức không bằng cục phân", nên mới có lý do để "lòi ra" cái tên "Nội Trường Bài Tiết"? Và, một sự liên tưởng khác, biết đâu ẩn nghĩa của Hà Nội chính là "Hà Khứ Quy Nội"? Ðể kết thúc bài viết này, xin có một vài đề nghị chân thành, mong rằng những vị nào có thẩm quyền và cơ hội để làm được chuyện thay đổi tốt đẹp cho đất nước trong tương lai, thì cũng nên cứu xét giùm cho: 1. Trả lại tên cũ là Thăng Long cho thủ đô của nước Việt. Ðây không những là việc làm hợp tình hợp lý, mà còn có ý nghĩa vô cùng, vì trong thiên niên kỷ mới này, người Việt nào cũng mong ước cho đất nước mình sẽ trở thành con rồng đang cất cánh bay lên của châu Á. 2. Bỏ hẳn cái tên "Nội Bài" và thay thế bằng tên nào thanh tao và có ý nghĩa hơn. Thí dụ, tại sao không gọi là phi trường "Hạ Long"? Chữ Hạ Long mà dùng cho phi trường quốc tế ở thủ đô Thăng Long của nước Việt, thì thật là tuyệt vời. Trước hết, nghĩa đen Hạ long là rồng giáng hạ hay rồng đến nhà, vừa nói sự may mắn sẽ đến với mình, mà còn chứng tỏ cho du khách, cái tinh thần quý trọng và hiếu khách của chủ nhà. Mặt khác, theo nghĩa bóng và quan trọng hơn hết, là ám chỉ sự thịnh vượng và nhân tài của thế giới, hay trí tuệ của khắp bốn phương, sẽ cùng nhau theo cánh chim sắt đáp xuống, hội tụ vào càng nhiều càng tốt. Có được như vậy, thì lo gì cái thủ đô Thăng Long hay con rồng nước Việt không thức giấc để chuẩn bị cất cánh bay lên!. Không còn chừng gần mười năm nữa là kỷ niệm đúng 1000 năm ngày khai sinh ra "Thăng Long", kinh đô đầu tiên của nước Việt độc lập và tự chủ, biểu tượng cho tài năng và trí tuệ của giòng giống Lạc Hồng. Vậy thì nhân dịp này và còn chờ gì nữa mà không "LẤY LẠI THĂNG LONG CHO ÐẤT VIỆT"? Nguyễn Cường Sacto 8/2000 phucuong@pacbell.net
  2. Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn (phiên bản tháng 11.2004) Trương Thái Du Bài viết này gợi mở một khả năng, vẽ nên đôi nét sơ sài nhất về thời bán sử Việt Nam trước công nguyên. Tôi mong người Việt Nam đọc giả thuyết, nghiền ngẫm nó và sẽ phản bác, bổ sung hoặc cải sửa tùy thích, bằng bất cứ lý lẽ khả dĩ nào. Cái được mà tác giả hoài bão ở đây là hậu duệ của vua Hùng, của An Dương Vương sẽ thêm một lần nữa tìm đến với tiền nhân oanh liệt thời khai sử, cùng nhau thảo luận những thông điệp nhân văn ẩn mình trong các truyền thuyết đẹp như tranh thủy mặc. [1] Vài điểm tóm tắt nội dung của giả thuyết: a. Nhà nước Văn Lang sơ khai được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống vùng Phong Châu thuộc đồng bằng sông Hồng khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. Như vậy lịch sử dân tộc Việt Nam có 3200 năm và lịch sử đất nước là 2700 năm. b. Không tồn tại nước Âu Lạc mà chỉ có nước Tây Âu Lạc do hậu duệ của Thục Hầu (Tứ Xuyên) lưu vong dựng lên, ở khoảng giữa tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc hôm nay. Âu Lạc nghĩa là Đất Nước. c. Văn minh Thục có niên đại 5000 năm, là một nền văn minh đô thị phát triển rất rực rỡ. Bị nhà Tần chiếm trong thời Chiến Quốc, nhiều nhóm Thục đã di cư. Họ có thể là hạt nhân của văn minh Khơ Me và Chiêm Thành. Người Thục bị Triệu Đà truy đuổi tại Tây Âu Lạc đã chạy xuống đồng bằng sông Hồng, xây dựng đô thị Cổ Loa sơ khai và sau đó bị đồng hóa vào cư dân Văn Lang Phong Châu bản địa. d. Triệu Đà người gốc nước Triệu thời Chiến Quốc, ông ta chưa từng đem quân xuống chiếm đóng đồng bằng sông Hồng. e. Trên trống đồng có ít nhất hai ký tự, đều mang nghĩa Trời, Mặt Trời. f. Giao Chỉ là một địa danh cố định từ năm 111 TCN trở về sau. Trước đó cái tên Giao Chỉ không phải là tên mà người Trung Quốc dùng để gọi vùng đất đồng bằng sông Hồng. 1. Lý thuyết địa đàng Phi châu và những cuộc di dân Lý thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại châu Phi. Những cuộc di cư sau này đã đưa con người đến khắp nơi trên mặt đất. Tôi xin dùng công trình nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền tảng cho bài viết này. [2] Mặc dù còn rất nhiều ý kiến của các nhà nhân chủng học thế giới không đồng tình với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc mắc ở thời điểm di cư. Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lý với văn hóa, khảo cổ và lịch sử để cọ sát với lý thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra một giả thuyết tham khảo. Với kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến Đông Nam Á họ chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất đến châu Úc. Nhánh thứ hai rẽ lên phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào Ấn Độ và vùng tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử dụng trong bài viết này) diễn ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung Á và sau đó tràn qua châu Âu. Tại sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những chữ viết đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ "mặt trời": một vòng tròn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập là Ra, tại Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin mình là con trời hoặc con của thần mặt trời. [3] Hình ảnh mặt trời trên trống đồng Đông Sơn thì thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt trời là nguồn sống của trái đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía đông, di cư về phương đông chính là đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật không có hình ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài người đã đi theo ánh sáng mặt trời để phủ kín trái đất. Tại sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên dòng Trường Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá rộng lớn, đã phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn, Trường Giang dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi lắng. Cư dân nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu dài. [4] Họ chỉ tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân mãn, hoặc dưới các nguyên cớ khác. Phân nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có mối liên hệ rõ ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ: Đại Địa Loan (hơn 8000 năm) nằm ở mạn phải dòng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc; Bán Pha (khoảng 6 ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn 8000 năm) tại Hà Nam. Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài ra trên bờ bắc Hoàng Hà tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa đào được 1 tường thành dài 130m, 4500 tuổi. [5] Nó cho thấy hướng phát triển ban đầu của văn minh Hoa Hạ. Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng gì đến con người của bờ nam Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh trong sản xuất nông nghiệp và quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc điểm riêng biệt của văn minh Hoa Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ hình thành quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200 TCN phần nào đã sáng tỏ. Các nhà khảo cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối cùng là cho con trai trưởng của dân tộc Trung Hoa ẩn chứa quá trình biến chuyển kia. [6] 2. Sự hình thành và phân rã văn minh Thần Nông Thời điểm dừng lại bên dòng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đã tạo nên một không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam là đồng bằng sông Cả, sông Mã (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên Tây Tạng, phía đông giáp biển Thái Bình Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh Thần Nông. Thổ nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của nền văn minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước, thuần hóa trâu bò làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa màng, làm thủy lợi; dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành thạo ghe thuyền, đánh cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, cắt tóc ngắn, cài nút áo bên trái... Văn minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu hai khuyết điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ ký tự phổ thông, tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên ruộng lúa nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu hệ. Hệ quả là nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc, chậm vươn đến hình thức nhà nước sơ khai. Sau một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần Nông đủ sức vượt dòng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn minh Hoa Hạ cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp này bao gồm cả những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại Trung Quốc kể chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói lên điều đó. Văn minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, đã góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu có hiến sử là văn minh Trung Nguyên - Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ sẵn có phần bổ khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả tinh túy của văn minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép chính thân sinh Thần Nông của mình. Song nó cũng thu nhận hình ảnh Thần Nông vào hệ thống huyền thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của mình. [7] Cái tên Trung Quốc bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa quốc gia ở giữa thiên hạ vì kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn minh, hai chủng tộc lớn là Thần Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn minh Thần Nông hòa nhập với văn minh Hoa Hạ. Phần lớn còn lại vì trải trên địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường Giang, vẫn tách biệt, đây chính là vùng Bách Việt, như cách gọi của người Trung Hoa sau này. Thành công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở nhà nước Sở đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu đe dọa vương triều Thần Chu (chỉ còn là hình thức sau khi nước Sở ra đời). Sở cũng là nước kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất nhiều binh lực và xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13 năm sau khi mất nước, một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở là Hạng Vũ, đã đứng lên lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất cho thiên hạ và tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của nước Sở tồn tại hơn 500 năm đã vĩnh viễn khép lại. Lịch sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của nhà Chu cho Mị Dục Hùng, [8] ở vùng biên viễn phía nam vương quốc Chu. Dục Hùng vốn từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng (khoảng đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719 đến 697 TCN), nước Sở đã tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành trướng đến vùng Trường Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông vẫn tự xưng là Sở Vũ Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng Thông mất, con là Hùng Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước Sở xa dần về hướng đông nam, vượt qua dòng Trường Giang hùng vĩ. 3. Nhà nước sơ khai Văn Lang Những biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất Việt Nam tương đối rõ ràng từ thời Mê Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết còn lưu truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên có một truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đình Hồ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc chia ly êm dịu diễn ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long Quân dẫn số còn lại xuống biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả theo Lạc Long Quân dựng lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối bằng phẳng thuộc đồng bằng sông Hồng. Rõ ràng đã có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên. Khoảng cách giữa Động Đình Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim bay. Sâu hơn nữa, tham khảo Bình Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết 100 trứng kia nói về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh lớn: Tây Âu và Lạc Việt. Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít nhiều thay đổi tập quán sinh sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông. Người Lạc Việt tản về phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ. Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa. Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng khớp với tên Bách Việt mà người Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam trung và hạ lưu Trường Giang. Đây rõ ràng là dấu vết giao lưu văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ, bởi Kinh Thi có câu "Tắc bách tư nam" (chúc có hàng trăm con trai), vậy một trăm hay bách nghĩa là nhiều. Nếu đồng ý với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân ở Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đình Hồ) thì sẽ giải mã được "giặc Ân" trong một truyện cổ tích khác là "Thánh Gióng". Thật vậy, Ân - Thương mất nước bởi dân Chu năm 1066 TCN, việc họ nam tiến trước hoặc lưu vong sau thời điểm 1066 TCN và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở. Khảo cổ học đã xác định tương đối chính xác kinh đô Ân - Thương nằm giữa tỉnh Hà Nam hiện đại, cách Động Đình Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim bay. Rất có thể liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và Lạc Việt, hình thành ở khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang mà trung tâm là Động Đình Hồ, sau khi nhà nước Ân - Thương ra đời (khoảng năm 1700 TCN). [9] Tôi tạm tính một đời vua Hùng trung bình 25 năm, chuyện Thánh Gióng xảy ra năm 1066 TCN, suy ra Hùng vương thứ 18 lên ngôi năm 741 TCN. Con số 741 TCN rất thuyết phục, vì nó xê dịch không nhiều với năm tháng nước Sở hình thành và bành trướng về phía nam. Đại Việt sử ký toàn thư ghi năm thứ nhất họ Hồng Bàng là năm NHÂM TUẤT 2879 TCN. Theo chuỗi luận của tôi đưa ra thì kỷ nguyên Văn Lang bắt đầu cũng từ năm Nhâm Tuất nhưng là NHÂM TUẤT 1199 TCN. Văn minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không chịu đánh mất bản sắc và lề thói để hòa nhập với văn minh Trung Hoa đã ra đi. Kẻ ở lại cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng ruộng lúa nước, sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư hình thành hai cách lên đường chính là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ túa về ba phương Tây - Đông - Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển. Mục đích đầu tiên của họ là tìm kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập nghiệp. Những con người giỏi giang nhất luôn đi xa nhất, tìm được mảnh đất ưng ý nhất, và cuối cùng họ đã đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế kỷ 21 chứng minh điều đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt Nam, quốc gia duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai và con người vào nền văn minh Trung Hoa. Đất mới lúc ấy cũng có thể đã có người sinh sống, nhưng chắc chắn dân cư rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa thì ngập lụt tràn lan. Vì lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền trung du Phong Châu cao ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con người bất khuất, yêu chuộng hòa bình và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang, lãnh tụ của họ xưng là Vua Hùng, danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của nước Văn Lang ở Động Đình Hồ. Hành trình tìm kiếm Phong Châu còn ít nhiều đọng lại trong truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18. Các di chỉ khảo cổ đã khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di cư này: Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại trên 3000 năm, Gò Mun vào cỡ thế kỷ 8 TCN, Đông Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu đồi cao ráo, càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đã nói. Niên đại xa nhất của trống đồng tìm được ở Việt Nam và Trung Quốc cũng rất gần nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. [10] Địa bàn chính đào được trống đồng rất rộng lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam), Vạn Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Trang (Quảng Tây). Đáng ngạc nhiên là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả thuyết của tôi lý giải được điều này: trên đỉnh cao của mình, nhà nước Văn Lang sơ khai ở Động Đình Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không vượt lên chế độ phụ hệ được, đã phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây nền văn minh khu biệt của từng đoàn người lưu vong lần hồi thoái trào, trống đồng ngày càng thô hơn. Văn Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động Đình Hồ. Con người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng Hà. Ràng buộc giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú dàn trải, lũ lụt chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở thành biểu trưng tinh thần đơn thuần. Hình ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc sống tự động biến mất, nhưng nó mãi mãi lưu truyền giữa tâm thức con người Văn Lang để hoài nhớ về một thời hoàng kim bất diệt. 4. Giải cấu truyền thuyết An Dương Vương Gần đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi [11] cách Thành Đô 40km (Tứ Xuyên, Trung Quốc) đã hé mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục phát triển rực rỡ, đã hình thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao triều đại Thương - Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng gạch chưa nung để xây nhà cửa, thành quách. Phải chăng họ là nhánh "lên ngàn" của văn minh Thần Nông hoặc một nhánh của đoàn di dân Tiền Đông Nam Á? Sử ký, phần "Truyện Trương Nghi" kể rằng Tần Huệ Vương đã nghe lời Tư Mã Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả năng Thục Hầu và nhân dân Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đã lên đường lưu vong. Đoàn người đi về phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo dòng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và góp phần xây dựng nên nền văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng đông dừng chân ở vùng giáp ranh tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, lập nên nước Tây Âu Lạc. Chương "Nam Việt Úy Đà liệt truyện" của Sử Ký chép về nước Tây Âu Lạc này rất rõ, nhiều sử gia không liên hệ được sử liệu đã mạnh dạn nghĩ Tư Mã Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây Âu Lạc! Sau khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt chiếm lấy vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Nước Văn Lang Phong Châu phía nam Tượng Quận, hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia. Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã vào rừng kháng chiến và kết quả là đã giết được Đồ Thư. Sách sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, TQ). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, còn sử Trung Quốc tuân thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng Tử, với nguyên ủy "Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch") nên xóa hẳn các tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo của triết học Tiên Tần, đã chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo thịt. Tần Thủy Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của ông, được Sử Ký ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lã Bất Vi trốn về Tần, mẹ con Tần Thủy Hoàng phải ẩn mình trong dân chúng Triệu và chịu nhiều cảnh cơ cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại phải họa đi xây Trường Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần Thủy Hoàng là con hoang của Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Dân gian còn đem cả nàng Mạnh Khương gần hai trăm năm trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để trù úm đại công nghiệp của Tần Đại Đế. [12] Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một người con gái nước Triệu (Sử Ký viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù hậu, do làm nội ứng cho nhà Hán chiếm Nam Việt, nên đã bị thừa tướng Lữ Gia giết. Những người Triệu bị đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đã quần cư và tạo thành nhóm dân tộc nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc hôm nay. Năm 208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ bình định xong Trung Nguyên không còn sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải hòa hợp với Bách Việt. Khi Cao hậu tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt hòng làm Nam Việt suy yếu để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa, cắt đứt đường thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu sai Lâm Hi Hầu hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm rồi nhà Hán bãi binh vì đám tang Cao Hậu. Rảnh tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quý tộc Tây Âu Lạc và Mân Việt để hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu chắc chắn ghi nhận thỏa hiệp dễ dãi của những người lãnh đạo Tây Âu Lạc trước âm mưu của Triệu Đà. Trận chiến đánh vào lòng người toàn thắng, năm 179 TCN Triệu Đà tấn công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam Việt rất rộng lớn, Triệu Đà đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho nên không thể tồn tại khả năng ông ta đã tấn công An Dương Vương tại đồng bằng sông Hồng. Mãi đến đầu công nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc Việt mới hình thành bởi người Hán lưu vong tránh họa Vương Mãng, tuy vậy chắc chắn đường rất khó đi nên đoàn quân của Mã Viện mới phải dùng thuyền. Một bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ Thư, đã đem tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé vào bờ biển trung bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Những liên hệ Thục - Khơ Me - Chàm trong bài viết này chỉ thuần lý thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và hình ảnh, nhưng tôi tin đô thị sơ khai Cổ Loa, cách dùng gạch chưa nung của người Khơ Me và người Chàm chắc chắn có dấu ấn văn minh Thục cổ đại. Người Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu thực ra rất gần gũi về chủng tộc (các nhóm di dân Tiền Đông Nam Á) và có thể cả ngôn ngữ nữa. Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng hòa hợp cùng nhân dân bản xứ trên mảnh đất bắc Việt, cải tên nước là Âu Lạc. Họ nối các gò đất, đồi nhỏ thành hai vòng đê ngăn thủy triều và nước lụt tại Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong ấy. Hai vòng đê cũng có thể trở thành chiến lũy, tường thành chống ngoại xâm khi cần. Đến năm 43, Mã Viện củng cố hai vòng ngoài và xây thêm vòng thành nhỏ thứ ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao của dấu vết tường thành Cổ Loa xưa xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả thiết Cổ Loa vừa là đê vừa là thành lũy. Rút kinh nghiệm xương máu ở Tây Âu Lạc, người Âu Lạc tạo dựng quan hệ ngoại giao mềm dẻo với Nam Việt để yên ổn sinh sống và làm ăn. Năm 111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người sang thuyết phục Âu Lạc theo mình, với chính sách rất thâm độc là để quí tộc Âu Lạc tiếp tục quản lý những vùng đất của họ. Lãnh tụ Âu Lạc phản đối, tùy tướng của ông ta là Hoàng Đồng đã lật đổ vua, quyết định thuần phục nhà Hán trên danh nghĩa để tránh chiến tranh. [13] Năm 110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng, Thạch Đái được cử sang làm Thứ sử quận Giao Chỉ, phủ trị ở Long Uyên. Với sự giúp sức của Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu, Lạc Tướng bằng ấn đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái là âm thầm chia rẽ các liên minh của quí tộc Âu Lạc, không cho Lạc Hầu, Lạc Tướng có cơ hội đoàn kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng. Từ Thạch Đái trở đi, phủ trị Long Uyên vẫn tồn tại nhưng chức Thứ sử, Thái thú đôi khi khiếm khuyết và quan trấn nhậm cũng chẳng thường xuyên có mặt. Thực ra Hán triều thừa biết ở thời điểm đó cai trị trực tiếp Âu Lạc là không tưởng, vì quân ít, thủy thổ khắc nghiệt và chắc chắn người Âu Lạc sẽ chống đối đến cùng. Lịch sử Trung Quốc cũng ghi nhận sự mệt mỏi của nhà Hán sau những năm dài xâm lược phương nam, nhiều thân vương, đại thần dâng tấu chương đề nghị vua Hán tạm chấm dứt nam tiến. Thậm chí có thời gian dài họ bỏ hẳn, chẳng ngó ngàng gì đến đảo Hải Nam đã chiếm được hoàn toàn năm 111 TCN. Tuy vậy trong hệ thống hành chính Hán, nước Âu Lạc vẫn được chia làm 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân thuộc Giao Chỉ Bộ. Trung tâm hành chính của Giao Chỉ Bộ là Nam Hải tức Phiên Ngung, kinh đô cũ của Nam Việt. Xin lưu ý Bộ Giao Chỉ và Quận Giao Chỉ là hai tên gọi khác nhau. Sử gia Việt Nam đã nhiều lần nhầm lẫn, họ suy luận tên Quận đặt cho tên Bộ thì hiển nhiên Quận Giao Chỉ phải là trung tâm của Bộ Giao Chỉ. Giao Chỉ mang nghĩa là nơi liên giao giữa Trung Hoa và những khu vực phía nam mà họ chưa có ý niệm rõ ràng. Bộ Giao Chỉ là mảnh đất liên giao của nhà Hán với Viễn Nam, Quận Giao Chỉ lại là mảnh đất liên giao của Bộ Giao Chỉ với các miền xa khác. Theo tôi chuỗi luận để đặt tên Quận Giao Chỉ và Bộ Giao Chỉ là như vậy. Cũng cần hiểu rằng năm 111 TCN kiến thức địa lý của nhà Hán về Quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và vùng phụ cận rất mơ hồ. Thời Chu còn có từ "Đông Giao" để chỉ vùng đất phía đông xa xôi. Do đó Giao Chỉ thời Chu chưa chắc là Giao Chỉ thời Hán. Nhiều bộ cổ sử Việt Nam dẫn sách Thượng Thư và Sử Ký ghi nhận năm Tân Mão đời Thành Vương (1063 đến 1026 TCN) có Việt Thường Thị phía nam Giao Chỉ đem bạch trĩ cống vua Chu. Xét lãnh thổ nhà Chu lúc ấy, có khả năng Giao Chỉ chính là vùng trung lưu Trường Giang. Vậy Việt Thường Thị chắc hẳn thuộc liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang Động Đình Hồ. An Nam Chí Lược của Lê Tắc viết: "Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận". Hiểu theo nghĩa Giao Chỉ đã nói thì vùng đất Quảng Tây Trung Quốc thời Tần chính là Giao Chỉ. Khi nhà Tần bành trướng xong Tượng Quận, hiểu biết ngọn ngành về Tượng Quận thì Giao Chỉ dịch chuyển xuống đồng bằng sông Hồng, phía nam Tượng Quận. Nước Âu Lạc vĩnh viễn đi vào quá khứ. Văn minh đô thị mới nhen nhóm ở Cổ Loa đã lụi tàn vì người gốc Thục chia rẽ và mau chóng tự đồng hóa mình với cư dân bản xứ. Đặt giả định Âu Lạc là một nhà nước hoàn thiện, con người Âu Lạc có ý thức sâu sắc về quốc gia và từng bị Triệu Đà thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sách vở chính thống Việt Nam lâu nay), ta sẽ thấy diễn biến lịch sử ôn hòa từ năm 111 TCN đến năm 34 là không bình thường. Sau cả thế kỷ ổn định và phát triển trong nước, xã hội Hán cuối cùng cũng có những thay đổi về chất và lượng, bắt đầu manh nha công cuộc cải cách lớn của Vương Mãng. Đầu công nguyên, lòng tham của vua Hán sống dậy, lập tức Nhâm Diên và Tích Quang được cử sang quận Giao Chỉ và Cửu Chân tiến hành những chính sách mị dân, nhằm thăm dò tiềm lực thuộc địa cũng như khả năng phản kháng của nhân dân nếu áp đặt cai trị trực tiếp. Công việc bọn này chưa xong thì Vương Mãng tiếm ngôi, Trung Nguyên hỗn loạn. Thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân không thuần phục Vương Mãng, cắt đứt liên lạc với trung ương, chào đón dân Hán di cư để tạo vây cánh. Ít lâu sau Lưu Tú diệt được Vương Mãng, thành lập nhà Đông Hán. Năm 29 Đặng Nhượng (người thay Nhâm Diên làm thái thú Giao Chỉ) về triều cống Lạc Dương, có lẽ âm mưu cũ đã được Quang Vũ đế cân nhắc. Năm 34 Tô Định nhậm chức Thái thú Giao Chỉ và bắt đầu áp dụng chế độ kềm kẹp hầu mong biến mảnh đất Âu Lạc hôm nào thành miếng bánh ngon trên bàn tiệc thực dân. Dưới sức ép mới, nhân dân Giao Chỉ đã nổi dậy. Mê Linh liệt nữ thất bại trước Mã Viện chính thức biến Giao Chỉ và Cửu Chân thành quận huyện trực trị của nhà Hán, mở đầu kỷ nguyên 800 năm nô lệ cay đắng. Ngoài trọng trách thực dân, Mã Viện phải gánh vác nhiệm vụ dựng cột đồng "chuẩn" ở Giao Chỉ và Nhật Nam để đo bóng mặt trời vào những ngày giờ nhất định trong năm. Từ số liệu ấy, người Tàu sẽ định được vị trí chính xác của Giao Chỉ và Nhật Nam, bổ xung vào địa đồ nhà Hán. Có thể Mã Viện đã bỡn "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", song không ngoài mục đích giấu giếm bí quyết khoa học thiên văn địa văn của dân tộc mình dưới màn sương hư ảo. Trường hợp Cao Biền sau này dễ hiểu hơn, ông ta sử dụng thuốc nổ phá gềnh thác hiểm trở cho tàu bè qua lại, nhưng bịa đặt đã dùng phép thuật sai thiên lôi hành sự. Nhà Hán mất 154 năm từ lúc dụ Âu Lạc phụ thuộc đến khi vẽ xong địa đồ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp dụng chế độ trực trị đến huyện sở. Cách tính 800 năm thực sự bắc thuộc của tôi là có căn cứ (đã bớt ra vài đoạn gián cách người Việt giành được độc lập như thời Lý Nam Đế và Khúc Thừa Dụ). 5. Thông điệp nhân văn Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thuyết Kinh Dương Vương và An Dương Vương còn mang những thông điệp nhân văn luôn cần được con người Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào giải mã. Đất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương "Khổng Tử thế gia" thuật lời Khổng Tử: "Khâu này nghe nói... Quái vật do nước sinh ra là con rồng". Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của "nước". Ngôi nhà của "nước" tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là "nước". Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho "đất". Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã - Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. [14] Nền văn minh lúa nước được xây dựng từ "Đất" và "Nước" là điều không ai có thể phủ nhận. Người Việt Nam còn gọi tổ quốc mình là "Đất nước" có nguyên căn sâu xa như vậy. Chuỗi luận này có thể dẫn đến việc giải nghĩa từ Âu Lạc là "Đất nước". [15] Bài học đoàn kết: Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đã chia rẽ, làm suy yếu nền văn minh Thần Nông. Hai nhánh Lạc Việt và Tây Âu, dù người xuống biển, kẻ lên rừng nhưng đều mất địa bàn sinh sống, phải bước vào hành trình ra đi, trôi giạt. Cả ngàn năm sau họ mới tìm lại được nhau trong nhà nước Âu (Cơ) - Lạc (Long Quân) sơ khai, non trẻ và yếu ớt. Bài học chiến tranh: Mỵ Châu đại diện cho nhân dân Tây Âu Lạc, Trọng Thủy đại diện cho người Nam Việt. Họ chính là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của chiến tranh. Nỗi đau của dân tộc này biến thành ngọc trai, rửa ở cái giếng ai oán thăm thẳm của dân tộc kia, sẽ lấp lánh vẻ đẹp vĩnh hằng của hòa bình và hòa hợp. Bài học cảnh giác: Cảnh giác, trước tiên là cảnh giác với chính mình, cảnh giác với kẻ thù ở hàng thứ hai. Nhà cầm quyền Tây Âu Lạc đã bị vàng bạc và hôn nhân chính trị lung lạc. Ỷ thành cao, vũ khí lợi hại, An Dương Vương buông thả, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, khiến nước mất nhà tan. Biển cả và tự do: Lạc Long Quân là con rồng của biển cả. Ông dặn con cháu nếu nguy cấp hãy quay về phía biển gọi "Cha ơi!". Bại trận, An Dương Vương ra bờ biển, lạnh lùng xử tử Mỵ Châu rồi lấy sừng tê rẽ nước mà đi. Thông điệp "ra với biển" đã trở thành tiềm thức trong khối óc mỗi con người Việt Nam từ đó trở đi. Sau này dân Việt Nam đã hơn một lần ra với biển đi tìm tự do: những tùy tướng của Mê Linh Liệt Nữ chạy vào Cư Phong rồi lên thuyền thẳng tiến đến Malacca, họ là người Minangkabau ở Maylaysia và Indonesia hôm nay; hậu duệ nhà Lý thì giong buồm đến Cao Ly; Hồ Quý Ly đáng lẽ không bị bắt làm tù binh nếu không tắp vào bờ biển bắc trung bộ... Thông điệp "ra với biển" ở thế kỷ 21 chắc chắn là mở vòng tay Việt Nam với bè bạn năm châu, từ bỏ suy nghĩ thủ cựu, chấm dứt các hình thức bế quan tỏa cảng. 6. Từ Kinh Dịch đến chữ viết của tổ tiên người Việt Nam Trong quá khứ, không ít sử gia như Kim Định đã nghiệm rằng Kinh Dịch chứa rất nhiều yếu tố vay mượn từ văn minh Thần Nông. Gần đây một bài báo ở Việt Nam tự hào tuyên bố Kinh Dịch chính là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt. Tôi quan sát rất kỹ các tranh luận xưa nay và tự hỏi: "Ngôn ngữ điện toán hiện đại chỉ cần hai tín hiệu CÓ và KHÔNG, khi thể hiện trên giấy nó tương đương số 1 và số 0. Não điện toán dễ dàng đọc mọi văn bản chỉ toàn 0 và 1 đan xen, nối nhau thành chuỗi, vì tốc độ xử lý thông tin của nó rất cao. Nguyên lý khởi đầu của Dịch là Âm Dương sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Sau Bát Quái còn có thêm 64 Quẻ. Ký hiệu Dương là một vạch liền, Âm là một vạch đứt. Hoàn toàn tồn tại khả năng văn minh Trung Hoa đã mượn thứ ký hiệu này của văn minh Thần Nông và phát triển thành Kinh Dịch. Như vậy tại sao không thể đặt giả định hệ thống ký hiệu xây dựng từ hai đơn tố Âm và Dương là những chữ cái của một thứ ngôn ngữ bí hiểm nào đó trong văn minh Thần Nông". Đến đây thì tôi thấy cần xét lại một "khuyết điểm lưu cữu lớn" của văn minh Thần Nông là không có chữ viết, đã đề cặp ở mục số 2. Hai đơn tố Âm và Dương rõ ràng đã đan xen, tạo thành chuỗi. Việc nó có thể dùng làm số đếm (hệ nhị phân), chữ cái hoặc chữ viết hay không, không còn phụ thuộc vào khả năng biểu đạt của hai đơn tố ấy, mà phụ thuộc vào khả năng xử lý tín hiệu của con người thời đó. Tôi đã loại bỏ được chất hoang tưởng trong giả định của mình. Tôi đã đến viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh xem 1 chiếc trống đồng Đông Sơn. Trống đồng là linh vật của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều nhà khoa học đã đồng ý trống đồng lưu giữ dấu ấn thờ mặt trời của con người buổi bình minh lịch sử. Ở giữa mặt trống có mặt trời tỏa tia. Nửa ngoài mặt trống có 2 cặp vòng tròn đồng tâm chứa rất nhiều vạch liền xếp cạnh nhau. Theo ngôn ngữ Dịch, một vạch là Dương (trong lưỡng nghi), hai vạch là Thái Dương (trong tứ tượng), ba vạch là Càn (trong bát quái), sáu vạch là Càn Vi Thiên (trong 64 quẻ). Tất cả đều chỉ mặt trời hoặc ông trời. Nếu nói những nét liền kia nằm cạnh nhau là những chữ CÀN - CÀN - CÀNXXX...XXX liên tục tức TRỜI - TRỜI - TRỜI... liên tục thì khả dĩ chăng? Hay Thái Dương - Thái Dương - Thái Dương...? Đây chỉ là sự tình cờ thì thật lạ. Nhiều vạch quá, nhìn qua tủ kiếng tôi không thể đếm được bao nhiêu vạch. Nếu tổng số các vạch đó luôn chia hết cho 6, ở bất cứ chiếc trống đồng nào thì giả thuyết của tôi hữu lý nhất. Ngoài ra còn có một vòng tròn đồng tâm khác chạy những đường hoa văn hình "dấu ngã", liên kết các "dấu ngã" này là những vòng tròn nhỏ, có chấm chính giữa. Đây cũng có thể là chữ "mặt trời" giống như chữ "mặt trời" ở nhiều nền văn minh sơ khai khác. Giả thuyết tôi đưa ra nếu đúng sẽ dẫn đến sự xét lại: Ngôn ngữ Dịch là của văn minh Thần Nông. Dùng cơ sở "Phục Hy đặt ra bát quái" [16], Khổng Tử đắp tượng Văn Vương và Chu Công cho học thuyết của ông, bằng cách khẳng định hai người này đã viết "Thoán từ" và "Hào từ". Khả năng "Thoán từ", "Hào từ" và "Dịch truyện" đã được chính Khổng Tử biên soạn, là rất lớn. Cho đến lúc này, theo tôi, chỉ nên đặt câu hỏi Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam chăng? Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục, chưa so sánh được ngôn ngữ Dịch khởi thủy với Kinh Dịch. Lịch sử Trung Hoa vẫn tồn nghi nguồn gốc Kinh Dịch hai ngàn năm nay. Người Việt Nam hiện đại đang có niềm tin xác đáng hơn bao giờ hết để bước vào cuộc truy tìm bản quyền Kinh Dịch. "Mỏ vàng nhân văn" này hứa hẹn trữ lượng nguồn sống tinh thần vô biên cho con cháu Tiên - Rồng. Tóm lại, tôi tạm dừng công việc của mình ở đây. Nếu có những người ủng hộ trí tưởng tượng của tôi, xin hãy tìm đến các di vật khảo cổ. Câu trả lời thật thuyết phục còn ở rất xa và có thể chẳng bao giờ ta thấy được. Tuy nhiên trò truyện với các vật tạo tác linh thiêng của tổ tiên mình không bao giờ nhàm chán và vô nghĩa. Dù rằng sẽ không ai chứng minh được tôi đúng song chứng minh tôi sai lại càng khó hơn. Cuối cùng cách giải mã ngôn ngữ trên trống đồng của tôi vẫn nên tham khảo, vì không lời khen tặng nào là quá đáng đối với trống đồng và những con người cổ xưa đã đúc nên chúng. 7. Kết luận Bất cứ một giả thuyết nào cũng tự chứa trong nó phản giả thuyết, tức là những yếu tố, những mâu thuẫn có thể triển khai và phá vỡ giả thuyết ấy. Cao Hành Kiện nói rất chính xác: "Những qui luật lớn lao của lịch sử khi không thể giãi bày loài người được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính mình. Loài người không phải chỉ có lịch sử, mà còn lưu lại văn học". [17] Với tư cách một cá nhân đi tìm nguồn cội chính mình, tôi muốn khai thác thật sâu áng văn học dân gian truyền miệng nói về thủy tổ Kinh Dương Vương và An Dương Vương, có tham khảo lịch sử, văn hóa và khảo cổ, để viết nên một thứ tạp văn lịch sử nhiều cảm tính. Hợp nhất - phân rã, lên cao - xuống thấp, chói lọi - lu mờ, thành công - thất bại, quần cư - tản mát, đến và đi... những cặp phạm trù này xoắn lấy nhau, vì nhiều nguyên nhân, liên tục đổi chỗ suốt quá trình hướng tới tương lai của bất cứ một nền văn minh nào trên thế giới. Văn minh Văn Lang và Âu Lạc chẳng thể là ngoại lệ, song sức sống không thể phủ nhận của Văn Lang và Âu Lạc ở chỗ nó đã không bị tiêu diệt hoặc đồng hóa bởi Trung Hoa, một nền văn minh tầm cỡ của nhân loại. Đà Lạt tháng 11.2004 Trương Thái Du Thư tịch và chú thích Nam Việt Quốc Sử, Trương Vinh Phương, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, 1995. Sử Ký Tư Mã Thiên, NXB VH, 1988. Chiến quốc sách, NXB Trẻ, 1989. Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 1999. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc, Bách Lộc xuất bản, 1971. Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB GD, 2003. Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Khâm định Việt sử, Quốc sử quán triều Nguyễn. Và một số trang web. [ 1.] - Chuỗi tạp văn lịch sử của tôi gồm nhiều chủ đề có liên quan đến thời bán sử Việt Nam, xin tham khảo thêm bài "Từ Hai Bà Trưng đến những khắc khoải lịch sử - Phiên bản tháng 6.2004" và "Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Triệu Văn Vương tại Quảng Châu - Phiên bản tháng 3.2004". [ 2.] - http://news.nationalgeographic.com/news/20...urneyofman.html [ 3.] - Ông trời là mặt trời đã được người Trung Hoa nhân cách hóa, đây là dấu vết rõ ràng của việc hình thành tín ngưỡng tế tự trời đất của văn minh Trung Hoa. [ 4.] - Bạn đọc thử xem xét các thành phố lớn ở Việt Nam: trên con đường nam tiến của những con người sinh ra từ nền văn minh lúa nước, nơi đặt đô thị dần dần chuyển vị trí từ bờ bồi (phù sa màu mỡ) sang bờ lở (thuận tiện cho thủy vận giao thương). Hà Nội và Hải Phòng gốc đều bên mạn nam sông Hồng và sông Cấm. Huế trải suốt hai bờ Hương giang. Đến Đà Nẵng và Sài Gòn thì chỉ phát triển ở bên lở của sông Hàn và sông Sài Gòn. Văn minh đô thị Việt Nam thành hình, yếu tố cần cho thương gia đã thắng yếu tố thiết yếu với nhà nông. Hai trung tâm buôn bán cổ là Phố Hiến và Hội An tọa lạc tại bờ lở, càng nhấn mạnh lập luận của tôi. [ 5.] - Bạn đọc có thể kiểm chứng thông tin khảo cổ Trung Quốc tôi đã đề cặp tại rất nhiều trang web tiếng Anh. Phiên âm La Mã của các địa danh này như sau: Dadiwan, Gansu ( Đại Địa Loan, Cam Túc); Banpo, Shaanxi (Bán Pha, Thiểm Tây), Jiahu, Henan (Giả Hồ, Hà Nam); Taosi, Shanxi (Đào Tự, Sơn Tây). [ 6.] - Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ chắc chắn phải là nữ giới. [ 7.] - Người Việt Nam hiện đại hay lầm lẫn ở đây, họ cho rằng Thần Nông là người Tàu, họ đôi lúc phản đối việc xem thủy tổ Kinh Dương Vương của mình là cháu Thần Nông. Có người góp ý với tôi: nếu Thần Nông gốc Tàu thì họ đã gọi là Nông Thần. [ 8.] - Tiên tổ vua Sở là Mị Dục Hùng, con cháu ông ta lấy tên tiền nhân làm họ, có vẻ rất giống một vài nhóm dân tiền Đông Nam Á như Khơ Me. Con gái Vua Hùng tục gọi Mị Nương. Nước Sở còn có tên gọi khác là nước Kinh! Những cái tên chồng chéo này chắc chắn phải có mối tương giao văn hóa nào đó. [ 9.] - Nếu khảo cổ Việt Nam tìm ra bất cứ di chỉ đồ đồng nào, niên đại trước 1700 TCN, có liên hệ rõ ràng với các di chỉ đồ đồng đã công bố như Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn; giả thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ. [ 10.] - Xiaorong Han, Who invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino - Vietnamese Archaeological Debate of 1970s and 1980s. Asian Perspectives, Vol.43, Spring 2004. [ 11.] - http://www.china.org.cn/e-sanxingdui/index.htm [ 12.] - Sách Mạnh Tử có nói "Vợ Hoa Chu và Kỷ Lương khóc chồng mình mà biến cải được phong tục trong nước". Câu này vốn lấy từ chuyện nàng Mạnh Khương nước Tề khóc tế chồng chết trận làm thành lũy sụp mấy thước. Đây cũng là thông điệp thù oán chiến tranh, yêu chuộng hòa bình của nhân dân Trung Hoa thời chiến quốc. [ 13.] - Kịch bản này không hề vô tưởng, nó đã từng xảy ra với Mân Việt năm 135 TCN. [ 14.] - Xin các bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm. [ 15.] - Nếu bạn đọc thay các chữ "Âu" bằng "Đất", "Lạc" bằng "Nước" vào toàn bộ bài viết này, tôi tin nội dung tôi muốn chuyển tải sẽ sáng tỏ hơn nhiều. Biết đâu cuộc chia ly của cha rồng mẹ tiên trong truyền thuyết lại chính là dấu ấn của một đợt hạn hán khủng khiếp nơi đồng bằng phía nam trung lưu Trường Giang. [ 16.] - Phục Hy là một nhân vật cổ tích rất phức tạp. Các yếu tố của văn minh Thần Nông và Hoa Hạ đan xen, chồng chéo và hòa lẫn vào nhau tạo nên Phục Hy. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết cụ thể này, giải mã hình tượng Phục Hy sẽ khiến mạch văn đứt gãy. Xin hẹn bạn đọc cơ hội khác. [ 17.] - Diễn từ nhận giải Nobel của CHK, theo tanvien.net.
  3. Topic: Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi by Chuthai Nguồn: http://vny2k.com/ZiendanTiengViet/viewtopi...d=41&id=457 "Trương Thái Du Xin được trao đổi với học giả An Chi – Huệ Thiên Võ Thiện Hoa Xem chi tiết tại đây Trong mục Chuyện Đông Chuyện Tây, Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số Tân Niên 523 ngày 20.02.2005, học giả An Chi có luận bàn xung quanh cách giải cấu hai từ Âu và Lạc tại bài khảo cứu “Thử viết lại cổ sử Việt Nam” của tôi. Bài này là kết quả tổng hợp và chỉnh lý từ 4 bài viết về lịch sử đã từng đến với bạn đọc qua talawas và hiện được nhiều trang web sử dụng, sau khi kho sách vnthuquan.net lưu trữ phiên bản đầu tiên tại: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?ti...q83a3q3m3237nvn Tôi rất vui vì được một chuyên gia Hán – Nôm quảng học để tâm tới tiền đề ngữ nghĩa thứ hai trong bài khảo cứu ấy. Tuy vậy, xin được trình bày thêm về phương pháp tiếp cận của tôi, hầu mong thảo luận lại một vài nhận định có vẻ đầy truyền thống của ông An Chi. Đầu tiên xin được định nghĩa "giải cấu là gì?" qua hai trích đoạn: 1.http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php...mp;von=20"%5dTrich%20đoạn%201%5b/url%5d:%20"Deconstruction"%20được%20hình%20thành%20từ%20khái%20niệm%20"social%20construct"%20(Kiến%20tạo%20xã%20hội),%20một%20khái%20niệm%20thực%20ra%20đã%20thấy%20có%20ở%20Marx%20trong%20câu%20nói%20nổi%20tiếng%20"Con%20người%20là%20tổng%20hòa%20các%20quan%20hệ%20xã%20hội".%20Các%20nhà%20triết%20học%20thế%20kỷ%20XX%20như%20Lacan,%20Foucault%20và%20chính%20Derrida%20đã%20phát%20triển%20một%20cách%20sâu%20sắc%20khái%20niệm%20này%20và%20cho%20rằng%20toàn%20bộ%20đời%20sống%20xã%20hội,%20bao%20gồm%20không%20chỉ%20triết%20học,%20luật%20pháp,%20khoa%20học...%20mà%20cả%20chủng%20tộc,%20giới%20tính%20và%20thậm%20chí%20ham%20muốn%20của%20con%20người,%20cũng%20chỉ%20là%20sản%20phẩm%20do%20xã%20hội%20kiến%20tạo%20ra%20(social%20construct).%20Nói%20ngắn%20gọn,%20toàn%20bộ%20xã%20hội%20loài%20người%20chỉ%20là%20tập%20hợp%20các%20kiến%20tạo%20xã%20hội%20(social%20constructs)%20hoặc%20đôi%20khi%20cũng%20được%20gọi%20là%20kiến%20tạo%20văn%20hoá%20(cultural%20constructs).%20Vì%20thế,%20theo%20Derrida,%20để%20nghiên%20cứu%20thực%20tại%20(như%20văn%20bản%20chẳng%20hạn)%20cần%20phải%20thoát%20khỏi,%20hay%20phá%20bỏ%20các%20kiến%20tạo%20xã%20hội%20(de-construct%20-%20giải%20kiến%20tạo).%20Derrida%20đề%20xuất%20cách%20đọc%20giải%20kiến%20tạo%20(deconstructive%20readings),%20theo%20đó%20văn%20bản%20không%20thể%20được%20là%20sản%20phẩm%20của%20một%20tác%20giả%20duy%20nhất%20với%20thông%20điệp%20duy%20nhất,%20mà%20chỉ%20là%20nơi%20gặp%20gỡ,%20tranh%20chấp%20của%20vô%20số%20các%20mối%20quan%20hệ%20xã%20hội.%20(Ngô%20Tự%20Lập). 2.%20%5burl="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3037&rb=07&von=20" target="_blank">Trích đoạn 2: “Vậy đọc/tư duy/viết triết lý là tuần tự thực hành, can thiệp vào đối tượng nghiên cứu theo bốn bước: Bước đầu: nhận ra sự xây dựng đối tượng khu vực nghiên cứu (văn học, triết học, tôn giáo, xã hội, chính trị,) đã sử dụng, đặt cơ sở trên những cặp đối nghịch nào. Bước thứ hai: nêu rõ cái trật tự, hệ thống lớp lang trên dưới các cặp đối nghịch được gắn vào nhau. Một cách tổng quát, khi ta deconstruct, nghĩa là ta can thiệp vào cái công trình xây dựng nào đó, ta sẽ nhận thấy sự xếp đặt theo một lớp lang, trật tự nào đó không dưa trên những bản chất đích thực của từng cặp nhưng ngược lại nó phản ánh một sự chọn lựa chiến thuật, dựa trên một ý thức hệ chủ trì nào đó. Bước thứ ba: Ðảo nghịch/lộn cái trật tự đã được thiết định của hệ thống bằng cách chỉ/trình bày cho thấy rằng khái niệm ở vế dưới (thể xác, vật chất, cá biệt, ác, nữ...) có thể có lý do chính đáng để được xếp lên trên, vào chỗ những khái niệm từ lâu vẫn nằm trên, đè nén áp đảo. Và bước cuối cùng: lập ra một vế/khái niệm thứ ba cho mỗi cặp đối nghịch, vế mới này biến đổi hẳn cấu trúc nguyên ủy của cặp trước, và đồng thời cũng tái tạo chúng, khiến cho cặp đối nghịch nguyên thủy không còn thể nhận diện được nữa. (Đào Trung Đạo). Như vậy "giải cấu" nôm na là tạm gỡ cấu trúc truyền thống để tìm cái gốc của vấn đề. Truyền thống bao giờ cũng thấp thoáng bóng dáng bảo thủ. Do đó luận điểm kinh viện của ông An Chi không khó hiểu, thậm chí với nhiều bạn đọc, nó rất có lý. Tôi xin ví dụ trong đời sống: theo nghiên cứu lâu nay ai cũng biết, đa số người đời thường có xu hướng chọn người yêu giông giống cha hoặc mẹ mình. Dễ hiểu thôi, đứa bé ra đời trong vòng tay ôm ấp thương yêu của cha mẹ. Cử chỉ, nét mặt của cha mẹ nó là biểu trưng đầu tiên của tình thương và sự an toàn. Khi trẻ trưởng thành, gặp ai đó “giông giống”, lập tức "kinh nghiệm" thơ bé được sử dụng để sinh ra mến mộ, thương yêu, tương tư... Theo tôi chữ Âu mà Trần Thánh Tông dùng cũng vậy. Nó là cái tâm thức Việt sâu thẳm mà ít có khả năng tác giả ý thức được. Cho nên cứ tưởng Kim Âu là Hán văn, nhưng tôi tin sự việc phức tạp hơn nhiều. Để cho bài viết bớt lê thê, tôi đã cắt bớt đoạn trích trong Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Có rất nhiều điều có thể “giải cấu” trong đoạn này, chẳng hạn “Âm là Lạc Long Quân hay Âu Cơ?”. Nó có chứa đựng nội dung mẫu hệ hay không? Thủy - hỏa tương khắc, nhưng hỏa - thổ lại là tương sinh! Mẹ đất, cha nước? Người Việt Nam hay nói “Đất mẹ” và “Quê cha” vậy thì “Quê cha” ở đâu? Ngoài biển ư? Có ai nói “Đất cha” – “Quê mẹ” không? Quyển Văn Minh Lạc Việt (có ghi trong phần thư tịch bài viết của tôi), trang 81, Nguyễn Duy Hinh nhận định: “Trong thuyết văn có chữ Âu. “Âu tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh Ân Lâu phản”. Nghĩa là: Âu là chiếc chậu nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu, đọc Ân Lâu phản (tức Âu). Chú ý chữ mà ngày nay đọc Khu lại đồng âm với Âu, điều đó chứng tỏ ngữ âm đã thay đổi. Chữ Âu viết bộ Ngõa chỉ đồ gốm, không hề chỉ ý người”. Thiết nghĩ gốm cũng không xa đất là mấy, hay nói cách khác đất nung thì thành gốm. Ông Trương Củng, một thành viên Hán học của kho sách vnthuquan.net đã bổ luận hộ tôi: “Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu”. Vậy việc tôi đoán định Âu là Hán tự ký âm Việt ngữ với nghĩa Đất không tùy tiện chút nào. Riêng chữ Âu của Hồ Quý Ly thì ông An Chi sẽ không có căn cứ nào mà bảo đó là từ Kim Âu trong Hán văn. Thật vậy, một bạn đọc thân thiết của tôi (yêu cầu được giấu tên) đã hướng tôi đến liên tưởng mơ hồ sau: U = nhô lên = đồi, núi ~ Vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) Vú em = Dưỡng mẫu U = mẹ ~ bu (mẹ già). Khu (đất) ~ U = mẹ. Cho nên có thể Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi. Vậy mẹ Âu Cơ là tiên ở trên đất, trên núi là đúng rồi. Kim Âu của Hồ Quý Ly phải là Núi Vàng, chứ không thể là cái chậu bằng vàng được! Phải chăng lời ru “Ầu ơ” của bên nôi của tất cả chúng ta cũng liên quan đến chữ Âu, đến mẹ đất, đến Âu Cơ người mẹ đầu tiên của cả dân tộc Việt Nam. Với chữ Lạc thì lại khác. Ông An Chi so sánh cách lý giải chữ Lạc là nước của nhiều người đi trước với cách của tôi rồi đưa ra một tam đoạn luận khá ngộ nghĩnh. Nếu ông mở lòng, du di cho rằng tôi đã công nhận Lạc là Nước (qua tham khảo sách vở trong quá trình mày mò viết đoạn ấy) thì ông có thể đồng ý với tôi mọi con đường khác đều đi đến kết quả Lạc là Nước. Ngay cả ông Tây viết sử Việt là Keith Taylor cũng tin Lạc là Nước trong quyển “Sự ra đời của Việt Nam” khoảng 25 năm trước. Do đó tôi đánh bạo dùng một câu nói của Khổng Tử để luận mà không cần trích dẫn dài dòng, rắc rối. Điều này sẽ dẫn đến nghi vấn: tôi đã đóng góp thêm vào việc chứng minh Lạc là Nước, hay đơn giản như ông nói đó là sự dễ dãi?. Phương pháp tìm nghĩa của tôi là tìm nghĩa trong ngữ cảnh vì tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học. Vì thế tôi không tài nào hiểu nổi chữ Nước trong Đất Nước làm sao lại có thể bắt nguồn từ chữ Lược như ông An Chi tin tưởng. Công đoạn cuối với chữ Âu và Lạc tôi đã dùng một thuật toán tiểu học: Nếu Âu đúng là Đất, Lạc là Nước thì nó sẽ đúng trong mọi trường hợp. Sau đó tôi thay Âu bằng Đất và Lạc bằng Nước vào tất cả khái niệm, tên gọi của nền văn minh Thần Nông (tức vùng đất phía nam Dương Tử) có từ tố Âu và Lạc, và thấy không hề có một từ nào trở thành vô nghĩa. Nếu An Chi nói công thức này sai (như tôi đã lường trước trong chú thích của bài khảo cứu), thì ông nên dẫn chứng sẽ thuyết phục được nhiều người. Sau hết, học giả An Chi hình như hơi thiếu kiên trì khi không thử xét kết quả to lớn mà luận đề Lạc là Nước và Âu là Đất đem đến. Phần lớn kết quả này đều có trong bài viết của tôi, ông An Chi vô tình không nhận ra thì tôi thấy rất lạ. Khi áp luận đề kia vào Sử Ký (Nam Việt Úy Đà Liệt Truyện, Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu) và Hán Thư (Tây nam di lưỡng Việt Triều Tiên truyện) thì mọi tồn nghi, khó hiểu xưa nay trong ấy cũng sáng tỏ. Thậm chí, nó còn xóa sạch các nghi vấn về dị biệt rắc rối giữa Sử Ký và Hán Thư. Đơn cử 3 chi tiết sau: 1. Người ta từng thắc mắc tại sao Thái Sử Công nói về chiến tranh giữa Nam Việt và Mân Việt thì lại dùng “Âu Lạc tương công (Âu Lạc đánh nhau với Mân Việt)”. Đơn giản là vì người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà làm vua Nam Việt cũng gọi nơi họ sống là Âu Lạc, và Âu Lạc hoàn toàn có thể là tên Việt ký âm bởi Hán tự của nước Nam Việt. 2. Sử ký: “Cố Âu Lạc tả tướng Hoàng Đồng trảm Tây Vu Vương” – Có thể đây là ông tả tướng của triều đình Nam Việt đã đầu hàng quân Hán. 3. Sử Ký viết: Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương (phía tây Âu Lạc là nước trần truồng cũng xưng vương). Hán Thư trong cùng sự kiện lại viết: Tây hữu Tây Âu kỳ chúng bán nuy nam diện xưng vương (phía tây có vùng đất dân chúng mặc khố mà cũng quay mặt về phương nam xưng vương). Hàng trăm học giả người thì bảo Tư Mã Thiên thừa chữ Lạc, người bảo Ban Cố thiếu chữ Lạc, không thể thống nhất. Với luận đề của tôi thì chẳng ai thiếu ai thừa cả, họ đều đúng và còn bổ xung cho nhau nữa. Âu và Lạc đều có thể đứng riêng thành tên gọi vùng đất người Lạc Việt sinh sống. Lạc Việt = Nước Việt, nên Tây Âu = Đất Tây = Tây Âu Lạc (Âu Lạc ở đây là Phiên Ngung). Các phương cách mới tìm hiểu ngữ nghĩa những tên gọi đã đi xuyên qua hơn 2000 năm lịch sử không thể được mọi người quan tâm ngay và sớm đi đến đồng thuận. Cứ như chữ Bia (vừa qua mấy chục năm) ông dùng ví von, vài người Tây học tôi tham khảo đã mâu thuẫn kịch liệt với nhau. Đa số không nghĩ như ông, họ bảo Bia là âm Anh - Mỹ, âm Pháp bị biến thành La Ve kia! Tóm lại, tôi rất cảm ơn ông An Chi đã thông qua một bạn đọc mà đến với nghiên cứu của tôi. Hy vọng sau ông “xông đất”, còn nhiều người nữa sẽ tham khảo cách tôi đã tìm ra ngữ nghĩa các từ “Giao Chỉ, Tượng quận, Cửu Chân và Nhật Nam bằng thiên văn; Lạc Việt, Việt Thường, Âu Lạc bằng giải cấu, so sánh và một phép toán ấu học. Thung Lũng Đa Thiện, Đà Lạt 04.3.2005 Chú thích: Mục Chuyện đông chuyện tây, tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, số tân niên (523) ra ngày 20.2.2005 Câu hỏi: Trong thiên nghiên cứu "Thử viết lại cổ sử Việt Nam" (http://vnthuquan.net), tác giả Trương Thái Du có khẳng định rằng quốc hiệu Âu Lạc có nghĩa là "đất nước" (âu = đất; lạc = nước). Do đó Lạc Việt chính là nước Việt". Tác giả biện luận: “Đất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. Thành ngữ “Tấc đất tấc vàng” khá gần gũi với “kim âu”. Ngựa đá đứng trên đất vàng, thử hỏi làm sao mà non nước Việt Nam chẳng vững chãi Vạn Xuân.” Tác giả còn diễn giải thêm ở chú thích số 15: “Xin các bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm.” Trên đây là cách "giải cấu" của tác giả Trương Thái Du về hai tiếng "Âu", "Lạc" trong bài đại luận "Thử viết lại cổ sử Việt Nam". Xin hỏi: Ông An Chi có nhận xét gì về sự giải cấu đó? (Ông Phùng Hữu Đảm, Q.3, TP.HCM) Trả lời: Trước nhất, xin nói về tiếng "Lạc". Thực ra thì trước tác giả Trương Thái Du đến gần 34 năm, tại Hội nghị nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương lần thứ 4, tháng 4 năm 1971, trong bài tham luận "Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc", hai đồng tác giả Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc cũng đã giải thích rằng Lạc có nghĩa là "nước". (Xin xem toàn bài trong tập kỷ yếu Hùng Vương dựng nước, t.IV, Nxb KHXH, Hà Nội, 1974, tr.134-41). Trong bài tham luận, hai đồng tác giả cũng đã nhắc đến vấn đề "Lạc Long Quân là giống rồng", "Long Quân hay Long Vương đều có nghĩa là vị vua thống trị miền nước." Khác nhau chỉ là ở chỗ hai đồng tác giả này biện luận kỹ càng hơn còn Trương Thái Du thì lại quá dễ dãi. Ta hãy cùng nhau đọc lại lập luận ngắn ngủi của ông Trương: “Đất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Thực ra, từ lập luận dễ dãi và lỏng lẻo trên đây, ta chỉ có thể thiết lập tam đoạn luận dưới đây mà thôi: Quái vật do nước sinh ra là con rồng. Lạc Long Quân là "vua rồng". Vậy Lạc Long Quân là ông vua do nước sinh ra. Thế thôi! Chứ ta tuyệt đối không có bất kỳ căn cứ nào để suy ra rằng Lạc có nghĩa là "nước" cả. Nếu ta theo cách lập luận của Trương Thái Du và nếu chẳng may tên đấng phu quân của mẹ Âu Cơ không phải là Lạc Long Quân mà là "Bạch Long Quân" hay "Hắc Long Quân" chẳng hạn, thì Bạch hay Hắc tất nhiên phải có nghĩa là "nước". Rõ ràng là phi lý! Huống chi, nếu cách chứng minh của Trương Thái Du có hoàn toàn đúng đi nữa thì Lạc cũng chỉ có thể có nghĩa là "nước" trong nước tương, nước mắm v.v.. (tạm gọi là nước1), chứ đâu phải là "nước" trong nước Nga, nước Nhật, v.v.. (tạm gọi là nước2). Vì hai thứ "nước" này khác hẳn nhau. Một số tác giả có gợi ý rằng nước2 phải sinh từ nước1 nhưng họ chưa chứng minh được vấn đề một cách đủ sức thuyết phục. Còn Trương Thái Du thì hoàn toàn không chứng minh nên dĩ nhiên là lập luận của ông không có giá trị. Riêng cá nhân chúng tôi lại thấy rằng nước2 tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến nước1 cả. Nước2, theo chúng tôi, là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 略, mà âm Hán Việt hiện đại là lược, có nghĩa gốc là "ranh giới" (Từ nguyên, nghĩa 9; Từ hải, nghĩa 2; Hán ngữ đại tự điển, nghĩa 3; v.v..), rồi nghĩa phát sinh bằng hoán dụ là "vùng đất nằm trong ranh giới đó", và cuối cùng mới có nghĩa hiện hành là "xứ sở". Về nghĩa thì như thế còn về âm thì ta cũng có nhiều thí dụ để minh họa cho mối quan hệ "n ~ 1": ___ nện ~ liện 敕 (cùng nghĩa); ___ nòi ~ lọai 类 , âm xưa là loài (= loài, giống); ___ non (trong núi non) ~ loan 峦(núi nhọn; sống núi, đỉnh núi, v.v..); ___ nỗng (trong gò nỗng) ~ lũng 垄 (gò đất cao); v.v.. Đặc biệt hơn hết là chính chữ lược 略 với nghĩa "mưu chước", lại là nguyên từ của chữ nước trong nước cờ, đường di nước bước, v.v.. Và ta có: ___ lược (= ranh giới) ~ nước (trong nhà nước); và ___ lược (= mưu lược) ~ nước (trong nước cờ); Hai trường hợp đồng dạng từ nguyên học trên đây cho phép ta có thể tin vào lời khẳng định mà chúng tôi đã đưa ra. Bây giờ xin nói về chữ Âu. Vẫn biết Trương Thái Du "muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm" nhưng có "giải cấu" thế nào đi nữa thì cũng phải phân biệt rành mạch Hán ra Hán, Việt ra Việt. Đằng này, tác giả lại đem râu ông nọ cắm cằm bà kia. Làm sao mà chữ Âu trong thơ của Trần Thánh Tông lại có thể có nghĩa là "đất" khi mà nó là tiếng Hán rặt ròng, tiếng Hán 100%. Chữ "Âu" của Trương Thái Du có nghĩa là "đất" hay không là một chuyện chứ chữ Âu 瓯 của Thánh Tông nhà Trần thì dứt khoát phải là "tiểu bồn dã" (chậu nhỏ vậy), "vu dã" (chậu vậy) như đã cho trong Từ hải (nghĩa 1 & 2) và tất cả các quyển từ điển tiếng Hán khác. Và hai chữ Kim Âu của nhà vua là một danh ngữ tiếng Hán chánh tông dùng để ví với sự vững chắc, sự thịnh trị, như trong câu thơ của Tống Khuýnh: Quốc gia toàn thịnh tự kim âu. (Nước nhà toàn thịnh tựa âu vàng) chứ có liên quan gì đến đất cát? Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như: bia bọt __ bia Tiger __ bia hơi __ v.v. Chứ nếu, với hai câu Trăm năm bia đá thì mòn Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ, mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười. Trường hợp chữ "âu" ở trên cũng thế mà thôi! Xem ra, việc viết lại cổ sử Việt Nam chẳng đơn giản chút nào! Nguồn: http://vny2k.com/ZiendanTiengViet/viewtopi...d=41&id=457
  4. Nếu là số mệnh trong tử vi thì đâu phải vì lấy người này hay người kia. Chỉ là gia giảm mức độ thôi. Tuổi vợ chồng xấu thì lấy tuổi của con cái, của những người trong gia đình để làm tương quan hóa giải (khắc chế, sinh trợ). (Theo thuyết của lý số Lạc việt_NVTA) Chú Thiên Sứ lớn tuổi rồi, bạn nên đổi cách xưng hô cho phù hợp.
  5. Vô cùng cảm ơn Thiên Đồng đã giúp đỡ. Với kinh nghiệm về quẻ Khai Tốc Hỷ, thật buồn bã khi khai quẻ đã là quẻ này. Đúng là người tính không bằng trời tính. Ra đi một mong chờ lớn. Dù lửa bốc thế nào nhưng gặp con nước lớn, đổ ào ạt cũng phải lụi. Phải chi mà lửa cháy được bùng lên cho át hết nước đi. May mà chủ yếu là tổn thất, ảnh hưởng đến tinh thần, không đến nỗi quá buồn thảm (Tốc Hỷ). Nếu nỗ lực hơn nữa thì cũng được nhưng tất sẽ phải chịu ảnh hưởng do sự nỗ lực này. Chờ đợi mà không có tiếng nói quyết định. Việc bị ngưng trệ, bế tắc, Nội bộ tranh chấp. Có lẽ nhanh là đến 6/9, chậm thì 6 tháng nữa hoặc tháng 9 năm sau. Bất ngờ xuất hiện một số giấy tờ có lợi cho mình, có người nữ giúp đưa thông tin lại. Nhưng chưa đủ sức thuyết phục. Chắc phải chờ sang năm sau quá. Không làm gì cả. Có làm cũng chẳng được. Chỉ thêm vô vọng. Trông chờ vậy thôi. Mà nghĩ mãi chưa ra vì sao Thiên Đồng luận được có người giúp đỡ Phoenix lại cỡ xấp tuổi Phoenix nhỉ??? :wacko: Cần cẩn trọng cho người nữ có quyền và vị thế. Cẩn trọng về tài lợi (đỗ hỏa sinh đại an thổ). Cẩn thận nếu tự bằng lòng, chậm chạp không thức thời, lanh lẹ tranh thủ cơ hội (sự an bình ru ngủ). Một lần nữa cảm ơn Thiên Đồng đã giúp Phoenix. Hy vọng nhanh chóng chiêm nghiệm quẻ.
  6. Ngoài các vấn đề về lý số. phong thủy và tâm linh thì về mặt tâm lý học, rất nhiều cặp vợ chồng sau khi kết hôn gặp những khủng hoảng nhất định. Thể hiện bằng hiện thực thông qua việc bất hòa giữa đôi bên, các căng thẳng về tâm lý, các trục trặc về công việc, mối quan.... Đa phần, vì lý do trước hôn nhân chưa chuẩn bị kỹ và hình dung hết cuộc sau kết hôn. Trong lúc chờ giải quyết phong thủy thì 2 bạn dành 01 tuần bình tĩnh xem xét lại hết các vấn đề xem có thực sự đáng "rối tung" vậy không? Chỉ cần sắp xếp được công việc, không quá cầu toàn và vội vã, có sự điềm tĩnh thì mọi việc sẽ dễ thở. Cuộc sống còn dài, càng vội vàng sốt ruột làm cho được việc này việc nọ càng dễ bị áp lực. Cái gì chín cũng phải đến độ. ép xanh phải chín thì khó được trái ngon. Trước hết, nên biến hóa thành cách tận hưởng tình yêu và cuộc sống hàng ngày thay vì cứ nghĩ rằng mình đang "chiến đấu" với nó. Chúc hạnh phúc!
  7. Phoenix lại phải nhờ đến các ACE với môn LVĐT :wacko: Phoenix đang chờ đợi một việc kinh doanh quan trọng mà tình hình diễn ra rất là xấu. Hiện trạng rất trì trệ không biết là sẽ đi tới đâu để giải quyết tiếp. Để khách quan về kết quả, nhờ các ACE giúp hộ xem: 1. Phoenix có thực hiện được việc kinh doanh này không? 2. Thời gian có kết quả là bao lâu? 3. Sự việc có biến chuyển bất ngờ theo hướng thuận lợi không? 4. Phoenix cần phải làm gì để xúc tiến được việc này? 5. Nếu thực hiện được thì vấn đề gì cần phải cẩn trọng? Rất cảm ơn các ACE nhiệt tình giúp đỡ! Trân trọng!
  8. Phoenix không cho rằng Phở có nguồn gốc từ Nam Định. Cũng chưa thấy thuyết phục ở nguồn gốc "xáo trâu" của Phở. Tuy nhiên chưa cảm thấy đủ dữ liệu thuyết phục để chứng minh. Tạm thời, nhất trí: Phở là của người Việt :D
  9. Ở chợ Mơ - Hà nội, cũng có hàng Bún đậu Mai Khanh nổi tiếng. Nổi tiếng không chỉ vì ngon mà còn vì có đặc trưng là chị Mai Khanh từ lúc dọn hàng đã cất tiếng chửi. Chửi và nói. Nói và chửi. Liên hồi kỳ trận cho đến lúc bán hết hàng dọn về. Thật tài ba là chị Mai Khanh nói luôn miệng nhưng không thấy ... mỏi miệng. Giọng sang sảng, chửi và nói liên tu bất tận. Nhưng người ăn thì không vơi mà cứ đông hơn. Không có chỗ để đứng hay ngồi. Quen dần, người ta ăn bún đậu mà không nghe chị chửi thì thấy trống vắng, thiếu thiếu cái gì. Nên hễ bưng bát bún, gắp miếng đậu lên là lại dỏng tai để nghe chị Mai Khanh sa sả cái miệng. Ai muốn thử cảm giác thì ra chợ Mợ tìm chị Mai Khanh nhé! :D
  10. Bác Trần Phương nhắc đến Phở, lại thêm mấy bát Phở quá hấp dẫn làm cho Phoenix định tắt máy lại phải nán lại thêm vài phút. Lâu rồi không được ăn một bát phở "nhìn đã thấy ngon" như thế. Các bạn ở miền Trung và Nam thứ lỗi cho Phoenix chứ Phở của hai vùng này không thể nào có được cái dư vị đặc biệt của Phở miền Bắc. Dù thịt gà, thịt bò có ngon đến mấy cũng giống như chặt hay thái mấy miếng thịt đặt vào "bát mỳ sợi to" (bánh phở). Lúc trước ở Hà Nội không thấy mấy ai nói đến phở Nam Định. Hơn chục năm nay tự dưng ở ngoài miền Bắc đi đâu cũng thấy đề biển phở bò Nam Định. Đặc trưng là phở mặn và có nước mắt. Cá nhân Phoenix thấy đấy không thể là món phở đặc trưng tinh khiết của Phở Miền Bắc được. Phoenix có biết sơ mấy anh em người bán phở thống lĩnh các cửa hàng phở Nam Định nổi tiếng ở Hà Nội (Vân Hồ, Quốc Tử Giám, ...). Bảy anh em đều theo nghề làm phở gia truyền, đến nay nhiều người Hà Nội đã thành nghiện phở của họ. Họ nấu cũng có tài nhưng nhưng cái lẽ "cho chim ăn muối" cũng khó tránh khỏi. Phở Nam Định kiểu gì cũng mặn (kiểu Phở Bát Đàn) hơn các loại phở khác vốn bán lâu đời ở HN. Nhân tiện, pót bài tư liệu để bác Trần Phương xem chơi: Nguồn gốc phở</b>[/size] from [Nguyễn Dư] Hôm nay tôi xin được tập tễnh múa rìu qua mắt bá quan văn võ của viện hàn lâm ẩm thực, lạm bàn về phở. Thật ra thì những điều cần nói về phở đã được các chuyên gia mổ xẻ, phân tích, ca tụng từ năm xửa năm xưa hết rồi. Chỉ cần lật mấy bài viết về phở của Thạch Lam (Hà Nội ba mươi sáu phố phường, 1943), Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội, khoảng 1952), Nguyễn Tuân (Phở, 1957) ra đọc là ai cũng có thể cảm nhận được hết cái ngon, cái thú, cái quyến rũ của một món quà cổ truyền của ta. Nếu vậy thì còn gì để phải nói nữa ? Ấy đấy, nếu chỉ ngừng ở chỗ ngon, ở cái thú thì chuyện đã xong từ lâu rồi. Khốn nỗi sau những giây phút no ấm ngất ngây, tinh thần sảng khoái, các chuyên gia ẩm thực lại bắt đầu... thắc mắc. Thế là chả ai bảo ai, tất cả cùng vung tay gạt bát đũa sang một bên, rủ nhau ngồi bàn luận hăng say, có người quên cả xỉa răng. Câu hỏi quan trọng đầu tiên được các vị đặt ra là phở từ đâu ra ? Nguyên Thanh (Phở, Đoàn Kết số tháng 10, Paris, 1987) , Nguyên Thắng và Xưng Xa Hột Lựu (Mũ phở khăn rằn, Đoàn Kết số tháng 7-8, Paris, 1988) đã luận bàn tỉ mỉ, chí lý về nguồn gốc của phở. Theo một số học giả thì phở vốn gốc Tàu, được Việt hóa. Tên phở đến từ chữ phấn của ngưu nhục phấn. Tuy nhiên thuyết này vẫn còn bị nhiều người phản đối khá gay gắt. Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam ! Tại sao cứ phải mang mặc cảm, chối bỏ nguồn gốc như vậy? Ta bị mặc cảm, nhưng tự ti hay tự tôn? Đang còn phân vân thì bỗng nghe tin Pháp đòi bản quyền tác giả của phở. Các ông ấy được tư vấn, cố vấn ra sao mà cứ nhất định rằng phở bắt nguồn từ... pot-au-feu. Thoạt nghe thấy cũng có lý. Rõ ràng là tiếng phở của ta nghe rất giống tiếng feu của Pháp. Phở phải ăn nóng... như lửa mới ngon! Eo ơi ! Thế là một số bà con Việt Nam ta thắc mắc, hoài nghi, cuối cùng ngả theo thuyết cho rằng phở là của Pháp chứ chẳng phải ta hay Tàu gì cả. Nể tình mà nói thì thực dân Pháp đến cai trị nước ta trong khoảng gần 100 năm đã để lại dấu vết của sâm banh, bít tết, ba tê, ba gai, xà lách, xà lim, cà rốt, cà nông v.v. và v.v., như vậy thì món pot-au-feu cũng có thể là cha đẻ của phở lắm chứ ? Xét về lý thì pot-au-feu được Larousse định nghĩa là món ăn làm bằng thịt bò hầm với cà rốt, tỏi tây, củ cải v.v. hoặc là tên của miếng thịt dùng để nấu món pot-au-feu. Hai định nghĩa của Larousse cho thấy rằng phở chỉ giống pot-au-feu nhiều lắm là tảng thịt bò hầm, còn lại mớ cà rốt, tỏi tây, củ cải và đồ gia vị thì xin gác qua một bên. Thịt bò hầm kiểu này cũng có mùi vị đặc biệt không giống thịt phở chín. Hơn nữa, người Pháp ăn pot-au-feu với bánh mì, khoai tây... chứ chưa thấy ai ăn với bánh phở bao giờ ! Xem vậy thì pot-au-feu khá xa lạ với phở. Các hàng phở ở Hà Nội trước đây cũng đã thử nghiệm phở sốt vang (hai tiếng sốt vang hoàn toàn đến từ tiếng Pháp) để làm vừa lòng mấy ông tây bà đầm. Tôi chưa được ăn phở sốt vang, nghe nói khá đắt vì được xào xáo với rượu vang. Thuở bé xin mẹ được một đồng bạc, đánh chén một bát phở không, không thịt, là đủ sướng mê tơi rồi. Làm sao mà biết được phở sốt vang trong tiệm của người lớn. Sau này có tiền muốn ăn cũng không được vì món này chết yểu rất sớm. Đông và tây khó mà gặp được nhau trong bát phở. Cái lý nó khuyên ta không nên lẫn lộn hai món ăn cổ truyền của hai quốc gia văn hiến. Nhưng nói như vậy chỉ là nói suông! Đành rằng ta vừa có tình vừa có lý, nhưng rốt cuộc ta mới phê bình pot-au-feu chứ ta vẫn chưa có bằng cớ gì về gốc gác của phở để bác pot-au-feu. Xin lỗi các bạn, vì bực pot-au-feu nên tôi hơi dông dài. Bây giờ xin bàn có bằng cớ. Hy vọng rằng 2 tấm tranh dân gian Oger (1909) tôi đem ra trình làng sau đây sẽ góp phần làm sáng tỏ được vấn đề nguồn gốc và tên gọi của phở. Tấm tranh thứ nhất vẽ một hàng quà. Những ai đã từng sống ở Hà Nội năm xưa, trước 1954, chắc đều nhận ra dễ dàng đây là một hàng phở gánh. Tấm tranh vẽ một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên kia xếp tất cả những đồ cần thiết. Chúng ta nhận ra con dao thái thịt to bản, lọ nước mắm hình dáng đặc biệt, cái xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh đủ cho chúng ta biết rằng đây là một gánh phở, có thể nói rõ hơn là phở chín. Sực tắc không dùng hai dụng cụ này. Sực tắc nhúng, trần những lọn mì bằng cái vỉ hình tròn, đan bằng giây thép. Còn hủ tiếu ? Cho tới năm 1954, đường phố Hà Nội chưa biết hủ tiếu. Vả lại những xe hủ tiếu (xe đẩy chứ không phải gánh) của Sài Gòn cũng không thái thịt heo bằng con dao to bản của hàng phở chín. Tấm tranh này xác nhận rằng vào những năm đầu thế kỷ 20, ở ngoài Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, phở gánh còn do người Tàu (và có thể cả người Việt Nam ?) bán. Tấm tranh thứ nhì có tên là hàng nhục phấn, vẽ thùng nước dùng. Hai thùng nước dùng của hai tranh khá giống nhau. Tranh thứ nhì cho biết rằng chữ ngưu của món ngưu nhục phấn sang đầu thế kỷ 20 bắt đầu bị rơi rụng. Tên món ăn trở thành nhục phấn. Nhưng dựa vào đâu để nói rằng chữ phở đến từ chữ phấn ? Trong bài Đánh bạc của Tản Đà được viết vào khoảng 1915-1917 có đoạn : (...) Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được. (...) Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ ? Tản Đà gọi nhục phấn là nhục phơ. Chữ phấn chuyển qua phơ trước khi thành phở. Phơ của nhục phơ (chứ không phải feu của pot-au-feu) mới là tiền thân của phở,. Tóm lại, ngưu nhục phấn đã được nói gọn thành nhục phấn từ đầu thế kỷ 20 (tranh dân gian). Nhục phấn được chuyển thành nhục phơ (Tản Đà). Ít năm sau nhục phơ được dân chúng đổi thành phở (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1933). Năm 1943 Thạch Lam đưa phở vào văn học. Kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng, tên phở được tất cả mọi người dùng. Mới bàn đến tên phở thôi mà đã ồn ào như thế, huống hồ bàn đến những vấn đề to lớn khác ! Tôi không đủ khả năng đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết lý, thẩm mỹ. Có cho húp cạn dăm ba thùng nước phở tôi cũng chịu không biết rõ mặt mũi một bát phở đúng điệu phải ra sao, một bát phở ngon phải như thế nào ? Trước khi ngừng, xin kể vài mẩu kỷ niệm của những lần được tay nâng môi kề một bát phở. Ai ơi bưng bát phở đầy... Khó quên được "phở" của bọn sinh viên chúng tôi vào những năm 65-70. Cái thời ở Pháp không kiếm đâu ra được bánh phở, nước mắm. Chúng tôi hầm thịt với muscat, đinh hương, viandox. Ăn với mì sợi, hành tây. Nghĩ lại mới thấy "phở" thời đó sao mà giống pot-au-feu thế. Thế mà đứa nào cũng khen ngon. Ôi, cái thời tuổi trẻ còn dễ tính. Mấy năm đầu của thời kỳ Việt Nam đổi mới và mở cửa... Hà Nội như một người mới ốm dậy đòi ăn giả bữa, xối xả lao mình vào... ăn trứng. Vừa bổ, vừa sang! Các cửa hàng rộn vang tiếng đòi đập thêm trứng. Bánh cuốn cũng trứng. Phở cũng trứng! Một trứng chưa đủ, vẫn còn thèm. Cho hai trứng nhé ông hàng ơi ! Nhiều con mắt liếc trộm khách hào hoa! Gọi một bát phở thường lúc này là chuyện hơi không bình thường. Xế cửa nhà tôi ở trọ có một hàng phở bình dân. Không phải phở tiệm, cũng không phải phở gánh. Hàng phở kiểu này chưa có tên trong văn học. Tạm gọi là phở hè lè tè. Bàn ăn cũng như ghế ngồi của khách, của chủ chỉ cao cách mặt vỉa hè độ 20 phân. Ai thích nước phở trong và ngọt thì nên đến ăn ở đây. Trong vắt, không một váng mỡ ! Dường như xoong nước dùng chỉ có nước, muối và bột ngọt. Mỗi bát phở được cô hàng tặng thêm lưng thìa cà phê bột ngọt. Khách muốn đậm đà hơn ? Dạ có (muối trộn bột ngọt) đây ạ. Được cái phở cũng có ớt, chanh, hành hoa thái nhỏ. Tại Huế, khu Gia Hội có một tiệm nho nhỏ nhưng chuyên làm cả một bảng các món đặc biệt. Hai ba kiểu mì xíu mại, hoành thánh, dầu chao quẩy. Ba bốn kiểu phở tái, chín, nạm, gầu. Có cả hủ tiếu Nam Vang, mì Quảng... Điểm độc đáo của tiệm là tất cả các món đặc biệt này chỉ cần một thùng nước dùng. Một hôm tôi lang thang dưới Xóm Bóng (Nha Trang). Mải la cà chụp ảnh, quá ngọ mới đi ăn trưa. May quá còn tiệm phở mở cửa. Ông chủ vồn vã mời ăn phở đặc biệt (lại đặc biệt). Khoái quá, tôi gật đầu lia lịa. Làm xong bát phở, ông chủ đi nghỉ trưa. Cả tiệm chỉ còn tôi với bát phở đặc biệt ! Ăn hết mấy sợi bánh tôi vẫn chưa hết dè dặt với cái khối gì là lạ nổi trong bát. Một lát tôi ngoắc thằng bé từ nhà trong đi ra, hỏi nó xem tôi đang ăn phở gì ? Thằng bé chăm chú dòm bát phở. Con không biết, để con hỏi mẹ. Dạ mẹ không biết, chờ lát nữa hỏi ba. Dạ ba nói là phở giò. Phở giò của Vũ Bằng đây à ? Ấy đấy, chữ nghĩa mà không rõ ràng thì thật là phiền. Nhân dịp lên kinh đô ánh sáng, tôi được bạn rủ đi ăn phở. Mời ông ăn phở ngon nhất Paris, được sách hướng dẫn du lịch khen đàng hoàng. Cho 2 tô đặc biệt ! Không đặc biệt hóa ra thua thiên hạ à ? Ông bạn trịnh trọng múc tương tàu, tương ớt ra đĩa. Ủa, sao ông nói là ăn phở ? Phở đặc biệt chính hiệu con nai vàng đây. Vừa chín, vừa tái, lại thêm bò viên, cổ hũ, lá sách. Nhiều thứ vui lắm. Ăn phở mà lại vui nữa thì nhất rồi ! Giá mà thêm tí bê thui chấm tương gừng nữa thì vui hết xẩy ! Đến Mỹ mà không đi thăm khu Tiểu Sài Gòn thì...kể như chưa đến Mỹ. Nghe bên phải bên trái người ta nói như thế. Mới chân ướt chân ráo tới Cali tôi đã vội yêu cầu được tới thăm thủ đô thứ hai của Việt Nam. Chúng tôi đi chợ, ăn phở. Hên quá, gặp lúc tiệm đang quảng cáo khuyến mại, mua một tặng một. Mua một bát phở người lớn, tặng một bát phở trẻ con. Theo thói quen, tôi bắt đầu bằng thưởng thức miếng thịt chín. Thôi nguy rồi ! Không có tăm ! Có chớ, để ở quầy trả tiền ngoài kia kìa. Mắc răng kiểu này thì chỉ còn nước ngồi ngắm mấy miếng thịt gân to bằng nửa quân bài tây, chờ mọi người ăn xong. Kỹ thuật thái thịt bây giờ tiến lắm. Đem đông lạnh, thái bằng máy, muốn to mấy cũng được. Một lần khác, trong một tiệm phở khác, tôi bị bối rối. Tàu bay, tàu thủy, tàu hỏa, hàng không mẫu hạm... Cả một thời quá khứ, chọn gì đây ? Bát thường thôi ông ạ. Mấy cái tàu to như...cái chậu, sức tụi mình không kham hết đâu ! Việt kiều Cali rất hãnh diện là nơi đây thức ăn vừa rẻ, vừa đầy nồi ! Chúng ta có thể nói không ngoa là phở đã sống thăng trầm với người Việt Nam. Nơi thôn ổ hay chốn thị thành, tại quê nhà hay khắp năm châu, lúc khó khăn thiếu thốn cũng như buổi ấm no thanh bình, phở luôn ở bên cạnh mọi người. Xa xưa, phở là phở bò, phở chín. Ngày nay, phở thay da đổi thịt, muôn màu muôn vẻ. Cách nấu, cách ăn thay đổi không ngừng. Đã đến lúc phải phân loại, đặt tên cho bát phở để tránh ngộ nhận. Đại khái chúng ta có thể phân biệt : Bát phở bò của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân thì gọi là...phở. Tàu bay, tàu bò, thịt to bánh nhiều cốt làm vui lòng giới ẩm thực vũ bão thì nên gọi là...phởn. Ngầu pín, viagra, cổ hũ, lá sách, trứng, giò heo, thịt chó (có người định thử) thì phải gọi là...phịa! Còn cái thứ chết tiệt của mấy ông sinh viên ? Xin tự phê gọi nó là...phản. Tiếng Việt vốn giàu âm thanh, ngữ nghĩa, còn nhiều chữ khác có thể dùng cho phở được. Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng yêu cầu các nhà văn học định nghĩa rõ ràng các chữ dùng kẻo lại gây ra những bàn cãi dài dòng cho mai sau. Trong quá khứ đã từng có một giáo sư thuyết trình tại hội Việt Mỹ (Sài Gòn) rằng Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương Chuông chùa Thiên Mụ ngân nga thánh thót, chicken soup của Thọ Xương thì tuyệt, không đâu ngon bằng ! Mới đây, trong một cuốn hướng dẫn du lịch Việt Nam rất đẹp, soạn công phu, có chậu hoa màu đỏ được chú là... fleur de théier. Trà với chè tuy hai mà một, Trà với trà tuy một mà hai. Trà (camélia) và trà (théier), đằng nào chả là trà. Cứ động đến ăn uống là các ông chỉ hay lý sự lôi thôi ! Nguyễn Dư (Lyon, 2/ 2001)
  11. Nếu kết hợp làm ăn với người Kỷ Sửu, trong mọi trường hợp chú Vân Từ nên cố gắng điềm tĩnh, xử trí mọi việc có tình trước khi có lý. Người Kỷ Sửu này hơi bị khó chiều mặc dù trách nhiệm và mẫn cán. Nhưng thể hiện như ý chú Vân Từ muốn thì không được. Lại có tính dễ tự ái. Nhưng nói "phải" thì "củ cải" sẽ nghe :) . Chịu khó mất công chút vậy. Chúc chú Thành công!
  12. Bói toán qua mạng: Mất tiền, rước lo![/size] 17-08-2008 05:58:17 GMT +7 Song song với việc các thầy bói ngoài đời, các “thầy bói mạng” cũng khiến nhiều người mê muội bị lôi kéo vào web, tin nhắn. Thế nhưng không chân thật trong chuyện tiền nong, nhiều thầy trên web thông qua hệ thống tin nhắn còn “xù quẻ” và đa phần chỉ biết nói suông Thời gian gần đây, trên mạng Internet rộ lên phong trào xem tử vi với nhiều hình thức khác nhau nhằm chèo kéo giới trẻ. Đáng lo ngại nhất là nhiều trang web xem bói được quảng cáo ngày càng rầm rộ, công khai. Ngoài gieo quẻ, tra theo Kinh Dịch, xem mật mã..., các thầy bói @ còn bói bằng số điện thoại, số xe... của bất cứ ai có nhu cầu. Chỉ cần soạn một số ký tự về xem bói tra cứu trên mạng, hàng chục trang web xem bói xuất hiện mời chào. Trong đó, nhiều trang web được đầu tư với quy mô lớn với lời rao và quảng cáo dữ dội trên các trang thông tin như: Chúng tôi có sự cộng tác đắc lực của các chuyên gia nổi tiếng và nhiều kinh nghiệm về bộ môn Chu Dịch Dự Đoán, sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của bạn trong vòng 48 giờ, chúng tôi có đội ngũ chuyên gia Kinh Dịch nổi tiếng, xem theo phương pháp tử vi hiện đại chính xác 100%...”. Những lời quảng cáo chắc mẩm được xem như là “chiêu” quen thuộc và dường như điều này làm xiêu lòng những cô bé, cậu bé mê xem bói. Dù có mức phí rất cao, từ 3.000 đồng – 15.000 đồng/tin, người làm chương trình vẫn móc túi được nhiều khách hàng. Tốn nhiều tiền cước, thế nhưng không phải ai cũng may mắn được “thầy” ban cho mấy quẻ, không ít các trường hợp “thầy bói” xù tiền quẻ vì nhiều lý do khác nhau như kẹt mạng, lỗi cú pháp. HoangK, nick name của một cô bé tuổi teen, cho biết: “Mấy lần bị nghẽn mạch hay lỗi mạng, em nhắn hàng chục tin mà không thấy kết quả bói mà chỉ bị trừ tiền”. Theo kết quả chung chung mà chúng tôi nhận được từ các tin nhắn bói toán, hầu hết cơ sở dữ liệu đều lấy từ nguồn thông tin thuộc lĩnh vực chiêm tinh học do các báo dịch lại hoặc các website tử vi bói toán nhan nhản trên mạng. Người làm web xây dựng phần mềm tự động trả lời trên máy vi tính, theo những quy tắc nhất định. Vậy là ung dung ngồi hốt bạc. Lợi nhuận quá cao đã khiến những văn bản chấn chỉnh từ các cơ quan quản lý... thành như không có. Tin nhắn bói toán vẫn xuất hiện nhan nhản trên các website và quảng cáo ngày càng rầm rộ, gây lo ngại cho các bậc phụ huynh có con em nhẹ dạ, tin vào những trò bói toán. Như Vũ Nguồn: http://www.nld.com.vn
  13. Thế chú Thiên Sứ mới có topic "Nghiệp chướng". Nhân - Quả nhãn tiền. Đến nhanh không kịp chạy. :P
  14. Cứ đến rằm tháng 7, người Việt lại không quên lễ cúng "Xá tội vong nhân" (cúng cô hồn) và soạn lễ Vu lan. Rất nhiều người nhầm lẫn hai việc này thành một việc. Lễ "Vu lan bồn" xuất hiện trong điển tích Phật giáo với chuyện Mục Kiều Liên khổ hạnh để báo hiếu mẹ. Còn "xá tội vong nhân" là quan niệm dân gian đến ngày rằm tháng 7, những vong hồn còn lang bạt nơi trần gian chưa về được với cõi âm sẽ được bắc cầu cho siêu độ. Có quan điểm cho rằng đó là ngày cõi âm mở cửa địa ngục để cho các linh hồn được siêu thoát, về cõi trời để được tái sinh. Để cho các vong hồn này không quấy nhiễu đời sống và có thể siêu thoát thì người ta cúng đồ gạo muối, bỏng, khoai, ..... (những thứ dân dã, và thường cho trẻ con). Lễ này cũng được đưa vào giáo lý Phật giáo (tích ông A Nan Ðà (A Nan), với một con quỷ) và thường được Phật giáo tổ chức đọc kinh cầu siêu độ cho các vong linh cô hồn. Năm ngoái, tại 3 miền ở Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cùng nhiều phật tử trong và ngoài nước làm lễ "Đại trai đàn chẩn tế" lớn nhằm mục đích này. Nếu như khu vực ngoài Bắc chủ yếu nhằm vào mục đích cúng cầu siêu "cúng chúng sinh" thì khu vực miền trong (từ Huế trở vào) thường chú trọng vào ý nghĩa "Vu lan báo hiếu". Ở vùng Vĩnh Phú, Phú Thọ gần Đền Hùng, rất phổ biến tục cúng cháo. Cháo se được nấu, chia ra các bát nhỏ, bày ra phía đường để mời các vong hồn. Ngoài ra, trong sách sử người ta còn thấy ghi nhận những lễ cúng cho tiết Trung Nguyên - rằm tháng bảy (cùng với tiết Thượng nguyên - rằm tháng giêng; tiết Hạ nguyên - rằm tháng mười). " Mười lăm tháng bảy là tiết Trung Nguyên, cũng là quỷ tiết. - Ngày trung nguyêng tháng bảy, địa quan xuống trần, phán xét thiện ác nhân gian, do đó đạo sĩ thì tụng kinh, quỷ đói tù đồ cũng được giải thoát. Trong “Tu Hành Ký” giải thích rõ về ngày đó như vậy. " (Trích: truyện Cổ Long) Người Nhật Bản cũng có lễ rằm tháng 7 (AL) với quan niệm đó là ngày cửa địa ngục mở. Để đón thân nhân là các vong linh được giải thoát, họ sắm sửa đò cúng, làm đèn lồng để dẫn đương cho tổ tiên và thả đồ ăn xuống sông, biển để họ nhận được. Nó tương tự như ý nghĩa báo hiếu trong lễ Vu lan của người Việt. Cũng trong tháng bảy, người ta còn thấy tích Mưa ngâu vào ngày 7/7 (AL). Trung Quốc có câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ với cầu Ô thước. Nhật Bản có lễ Tanabana với tích tương tự (lấy của Trung Quốc). Ở Việt Nam cũng lấy tích này để làm điển cố cho ngày 7/7 (AL). Đặc biệt, ngày 7/7(AL) thường là có mưa. Năm nay, ở VN mưa khá lớn. Nhất là ở Sài Gòn, mưa lớn kèm lốc xoáy khiến nhiều cây cối bị đổ và nhà bị tốc mái. Rõ ràng, hiện tượng này phải có liên quan đến chu kỳ thiên văn và lịch số.
  15. Ngày Vu lan, vừa ý cho mẹ vui cũng là báo hiếu nhỉ B)
  16. Câu này có thể hiểu là tương quan trên thế giới hoặc tương quan của vấn đề nào đó có sự xáo trộn và chỉ một thế lực (hệ tư tưởng, quan điểm, ý niệm, chỉnh thể, hình thái...) duy nhất được công nhận là thống lĩnh, quyết định không nhỉ??
  17. Đàn ông 22 đến 72 tuổi có yêu sách gì về phụ nữ? 19-03-2008 15:47:27 GMT +7 Cuộc sống lứa đôi luôn chứa đựng những điều bất ngờ… Đó là những yêu sách cố thể khiến phụ nữ đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác 1. “Yêu sách” của đàn ông 22 tuổi đối với phụ nữ là: Một là xinh đẹp; hai là gợi cảm; ba là có nghề nghiệp ổn định; bốn là biết nhẫn nại, hiểu lòng người; năm là lúc cần thông minh thì phải thông minh; sáu là khi giả vờ làm con chim nhỏ thì phải biết làm cho giống; bảy là mặc thế nào cũng đẹp; tám là biết nũng nịu một cách vừa đủ; chín là biết giả vờ vui vẻ một cách thật tự nhiên; mười là đã lên giường thì phải vô điều kiện. 2. Yêu cầu của đàn ông 32 tuổi với phụ nữ là: Một là biết nấu nướng, quét dọn nhà cửa; hai là không đòi hỏi phục dịch; ba là không để ý chuyện lãng mạn hay không; bốn là nghe nhiều hơn nói; năm là đừng có cười một cách ngu ngốc; sáu là biết sống độc lập, bảy là không được phê phán cách ăn mặc của đàn ông; tám là biết xem xét khả năng nấu nướng của mình; chín là hiểu được kỷ niệm ngày sinh và ngày kỷ niệm khác chỉ là hình thức của tuổi trẻ. 3. Yêu cầu của đàn ông 42 tuổi với phụ nữ là: Một là, cho dù không thể để đàn ông có ảo tưởng ôm một cô bé thì cũng đừng để đàn ông phải đối diện với hiện thực tàn nhẫn (béo cũng không sao); hai là cần phải duy trì suy nghĩ và hành động một cách rành rọt; ba là không được so sánh thu nhập của chồng mình với anh chàng hàng xóm; bốn là không được lợi dụng con trẻ để đá thúng đụng nia; năm là cần phải hiểu cười hối lỗi cũng là một nghĩa vụ; sáu là phải biết nhận ra chân tướng sự thực, đừng có đóng giả phụ nữ yếu mềm; bảy là phải biết tiết kiệm; tám là không được ăn bớt tiền đi chợ; chín là không được bày đặt để chứng minh mình trong sạch; mười là phải hiểu được ham muốn chăn gối của đàn ông ít nhất xuất phát từ thị giác. 4. Yêu cầu của đàn ông 52 tuổi với phụ nữ là: Một là khi cần có thể là được rồi; hai là trước mặt mọi người đừng có lên tiếng phê phán; ba là mọi thứ đều như nhau cả, chẳng có gì đáng ngạc nhiên; bốn là khi tôi nói thì không được ngủ; năm là không được luôn mồm đay nghiến sai lầm quá khứ của đàn ông; sáu là đừng có mặt lạnh như tiền khi nói chuyện; bảy là không được bày tỏ thái độ tiêu cực để đòi bằng được thứ mình muốn, không được nuốt lời; tám là nấu những món ăn ngon miệng hơn; chín là khi cần thiết phải quên đi tên người yêu đầu đời của tôi; mười là có thể vào một số ngày cuối tuần cũng phải có trách nhiệm nghĩ ra điều gì đó. 5. Yêu cầu của đàn ông 62 tuổi với phụ nữ là: Một là tắt đèn có thể sờ được là được rồi; hai là đừng có luôn mồm nhắc nhở nhà vệ sinh ở đâu; ba là không chi tiêu không đắt đỏ; bốn là không được làm mất mặt chồng trước mặt con cái; năm là không được hỏi: “Anh đi đâu? Mấy giờ về?”; sáu là không được tỏ rõ sức mạnh, không được chết cũng đòi phải sĩ diện; bảy là cần hiểu rằng mặc đẹp thế nào cũng đâu cứu vãn được gì; tám là không được ép người ta ăn món ăn mình nấu; chín là, hãy cố gắng hỏi ít đi, cố gắng giảm ít những lời than vãn; mười là, sống đến tuổi đó rồi thì ít ra cũng bắt đầu hiểu được tâm lý chuyện ấy của đàn ông. 6. Yêu cầu của đàn ông 72 tuổi với phụ nữ là: Một là còn thở; hai là hiểu được đàn ông tại sao không còn ngắm chuẩn nữa. Chỉ có ngần ấy là đủ lắm rồi! Theo Duyên Hải (Gia Đình) Nguồn: http://www.nld.com.vn
  18. Cô hồn thời... lạm phát [/size] 17-08-2008 00:39:20 GMT +7 Tiết tháng 7 mưa ngâu sùi sụt, hai cô hồn trí thức lang thang, tư lự. Không phải hai cô hồn này đi kiếm ăn như những cô hồn các đảng hạ cấp khác, mà họ đang đi thực tế trần gian, xem cái thời lạm phát người ta cúng cô hồn những sản vật gì. Hai ông sợ dân gian gọi họ là “đồ cô hồn” lắm Nhìn phố Hàng Mã la liệt nhà lầu, ô tô, có cả ô tô đời mới lắc - xụt (Lexus), rôn (Roll Roys), mẹc (Mercedes); xe gắn máy thì PS, SH, Nouvou LX cáu cạnh... nhưng ít người mua. Tàng hình vào một hàng mã đầy rẫy hàng hóa, hai cô hồn trí thức nghe một người phụ nữ mua hàng nói: “Thôi thời đại lạm phát, xăng dầu tăng, mua xe hơi gửi cho các cụ ở dưới đấy, các cụ tốn xăng “nuôi” nó cũng mệt lắm, thôi chị bán cho em cái xe đạp cuộc...”. Ôi, cái mà dân gian nói là lạm phát đâu có lan xuống âm phủ mà cô này nói thế nhỉ. Đúng là dương gian ám ảnh cái nạn lạm phát mất rồi. Nhưng một lúc sau cũng có nhiều người mua, họ muốn đô thị hóa âm phủ. Cô hồn trí thức 1 nói: “Tôi thương ông thi hào Nguyễn Du. Tụi mình đâu cần sơn hào hải vị, xe hơi nhà lầu, chỉ cần sự cảm thông như trong Văn tế thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du là được...”. Cô hồn trí thức 2: “Dương gian hỏng rồi ông ạ. Hôm qua tôi đến chùa, thấy nhiều vị tai to mặt bự, chắc giàu có lắm, đem cúng những vật phẩm mà tôi không định danh được, chắc nó được nhập cảng. Hình như họ cúng cho chính họ - những cô hồn các đảng đang tồn tại giữa trần gian gian trá...”. Hai cô hồn trí thức trầm ngâm dạo phố. Hương ngọc lan hồi hôm còn thoang thoảng đâu đây. Trên nhiều góc phố, quá nhiều cô hồn các đảng hạ cấp đang loay hoay kiếm ăn. Trông họ đúng là đồ cô hồn, khuôn mặt tái mét, đôi môi hấp háy như muốn nuốt tuồn tuột mọi thứ. Khuôn mặt họ giống như những vị hồi hôm đem đồ cúng sang trọng ở chùa, nhưng cái khác nhau cơ bản là giàu và nghèo. Cuộc sống vốn đơn giản, người này giàu lên thì người khác nghèo đi - hai cô hồn trí thức triết lý với nhau như vậy. Hãy nhìn kìa, những hộ dân nghèo chỉ cúng cô hồn một ít bỏng, đậu phộng, mía, cóc, ổi... mà lại ít hơn mọi năm nữa chứ. Đúng là cái thời lạm phát, cô hồn các đảng cũng đói theo. Nhìn các cô hồn các đảng hạ cấp giành giựt nhau từng hạt bỏng, hạt đậu phộng, hai cô hồn trí thức buồn bã thăng! Nhưng thăng đâu có được, các cô hồn các đảng khác tưởng hai cô hồn trí thức “ẵm” được nhiều đồ ăn lắm nên thăng sớm, liền bay theo chặn lại định trấn lột. Sau khi lục lọi khắp người hai vị cô hồn trí thức, một cuộc đối thoại thú vị diễn ra: - Ta chẳng có chi ngoài Văn tế thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du- hai cô hồn trí thức nói. - Thế cái đó có ăn được không - bọn cô hồn các đảng hỏi. - Ăn được, dành cho phần hồn. - Không, chúng tôi cần cái gì bỏ vào miệng chứ không cần tâm hồn. - Thế thì các người đến những khu nhà hàng 5 sao, những khu biệt thự, những lâu đài bóng lộn không bao giờ bị cúp điện dưới kia... Ở đó có đủ thứ các ngươi cần. Ở đó cũng có những người cùng hội cùng thuyền với các ngươi, chỉ khác nhau là cõi âm và cõi dương mà thôi. Bọn cô hồn hạ đẳng sáng rực mắt, nhìn về phía rực rỡ ánh đèn, định bay thẳng đến đó kiếm chác. Bỗng giọng một vị cô hồn trí thức cất lên: - Hãy đến đó ăn với người ta, rồi cũng có ngày “bóc lịch” cùng với họ... Nghe vậy, bọn cô hồn các đảng hạ cấp xanh mắt cô hồn, đồng loạt thăng... TRẦN AI Nguồn: http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/235913.asp
  19. Nghĩ thiện và làm thiện, ấy là "không lễ mà lễ"... 17-08-2008 11:49:17 GMT +7 "Mỗi nén hương thờ Phật, thờ Tổ, chỉ là một hình thức nhắc nhở do tâm của mình mà ra". Ảnh: Trà My - "Thấy thương cho những người đi nghe giảng pháp đua đòi, hay những kẻ chửi rủa, cầu điều ác cho người khác khi đến cửa chùa khấn bái. Điều đó vừa mất sức khỏe, mất thì giờ, mất tiền, lại không lợi lộc gì. Ấy là có lễ mà không lễ...". Rằm tháng bảy âm lịch là ngày lễ Vu Lan, cũng là ngày Xá tội vong nhân. Vào ngày này, con cái báo hiếu với cha mẹ, người con Phật cầu siêu độ cho tiền nhân quá cố. Nhân mùa Vu Lan năm nay, VietNamNet xin ghi lại vài dòng suy nghĩ của một số nhà tu hành và phật tử về ý nghĩa của ngày này. Không có hiếu không phải phật tử Thầy Thích Nữ Như Hiền (trụ trì chùa Linh Sơn, Thanh Nhàn, Hà Nội): “Tích Vu Lan bắt nguồn từ tấm lòng hiếu thảo cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên. Tấm gương chí hiếu lớn lao ấy muôn đời sau vẫn phải soi vào. Tích này được chép trong kinh Vu Lan bồn, dịch nghĩa là Giải đảo huyền (giải cái tội bị treo ngược). Câu chuyện ý nói rằng, những người nào tạo tội ác thì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ma quỉ, súc sinh, chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như người bị treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến, phật tử thường đem tâm chí thành, chí hiếu cúng đường Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng cực. Ngày Vu Lan là ngày của phật tử đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến chùa cầu thỉnh chư tăng, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnh đọa đày tăm tối của địa ngục, đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác cũng thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như Mục Kiền Liên đã làm khi cứu mẹ. "Báo hiếu xuất phát từ tấm lòng. Cứ đi lễ ào ào chưa chắc đã tưởng nhớ đến cha mẹ". Ảnh: Lan Thương Tuy nhiên, không có nghĩa là cứ đốt thật nhiều vàng mã, khấn bái xì xụp là trọn. “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên” (Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách đều lấy hiếu làm đầu), nếu như suốt ngày lễ Phật mà không có hiếu với cha mẹ cũng không phải đệ tử của Phật. Bà Nguyễn Thị Trọng (vãi chùa Hà, Hà Nội): “Việc nhớ ơn bố mẹ, ông bà, những người đã sinh ra mình, tiếp sức cho mình phải thể hiện cả cuộc đời và qua việc làm, chứ nếu chỉ ngày này mới nghĩ đến là giả dối. Không có tâm đến chùa Phật không chứng, có tâm không đến chùa Phật cũng độ cho”. Hiếu lễ biểu hiện ở cái tâm mình. Thấy thương cho những người đi nghe giảng pháp đua đòi, hay những kẻ chửi rủa, cầu điều ác cho người khác khi đến cửa chùa khấn bái. Điều đó vừa mất sức khỏe, mất thì giờ, mất tiền, lại không lợi lộc gì. Chỉ có con người phạt nhau, Phật không hại ai bao giờ. Ấy không phải là lễ... Mình thấy chúng sinh khổ mình khổ hơn chúng sinh, mình thấy chúng sinh đói mình đói hơn chúng sinh đó mới là báo ơn Phật. Tốn hàng triệu đồng tiền vàng mã, đi cúng bắc loa cho người đời nghe chẳng những người chết không được hưởng mà người sống cũng không có lộc. Mỗi nén hương thờ Phật, thờ Tổ, chỉ là một hình thức nhắc nhở do tâm của mình mà ra. Thành tâm phải ninh minh, phải hiểu biết, sáng suốt thì mọi điều mới tốt đẹp hơn. "Lễ mà không lễ"... Thầy Thích Đàm Lan (Trụ trì chùa Bồ Đề, Hà Nội). Ảnh: Trà My Thầy Thích Đàm Lan (Trụ trì chùa Bồ Đề, Hà Nội): “Trong mùa lễ Vu Lan, người con của Phật nghĩ đến cha mẹ, ông bà tổ tiên mà sắm hương hoa oản quả tỏ lòng thương nhớ, có người đến chùa tụng kinh, có người lễ tại gia, cầu cho các vị được siêu thoát. Theo quan niệm của nhà Phật, việc báo ân, báo hiếu không chỉ thực hiện mỗi năm một lần vào lễ Vu Lan mà phải thực hiện trong suốt cuộc đời. Và trong lúc báo hiếu phải có quan niệm đúng đắn sáng suốt mới đủ. Làm việc thiện, làm phúc giúp người nghèo, người khó khăn cũng là một cách nhớ đến ông bà, tổ tiên. Nhiều người mải mê với công việc, đến ngày này vội vã đến khấn lễ theo phong trào, đó là tín tâm nhưng chưa hiểu biết. Phật dạy phải biết “nhẫn”, Phật chỉ chứng cho những người có tâm thật sự, biểu hiện bằng những việc thiện hàng ngày. Chí tiết, chí thành theo lời Phật dạy không cần lễ lộc cũng có phúc. “Không lễ mà lễ, lễ mà không lễ”, “không làm mà làm, làm mà không làm” là vậy. Báo hiếu xuất phát từ tấm lòng. Cứ đi lễ ào ào chưa chắc đã tưởng nhớ đến cha mẹ. Không phải khi cha mẹ ông bà mất rồi mới phô trương ma chay theo kiểu “sống thì chẳng cho ăn, chết mới làm ma tế ruồi” mà săn sóc quan tâm đến cha mẹ khi cần, vâng lời cha mẹ nhưng không chiều theo ý sai trái của cha mẹ. Hoàng Xuân Huy (21 tuổi, Thái Nguyên): “Theo tôi, vào mùa Vu Lan, ông bà, cha mẹ nên kể lại tích truyện cho con cháu như là một cách nhắc nhở, giáo dục về hiếu nghĩa. Hiện nay, nhiều bậc phụ huynh mải mê, bận bịu với công việc, nhiều bạn trẻ không biết rằng đây là ngày lễ báo ân báo hiếu, ngày xá tội vong nhân”. Luôn luôn làm việc thiện, có ý nghĩa cho đời để tưởng nhớ đến người quá cố như lời Phật “phục vụ chúng sinh cúng dường chư Phật”, “Tùy thuận chúng sinh nhi vi lợi ích”. Tích Vu Lan báo hiếu nói lên lòng chí hiếu, chí thành của người con có sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn người đau khổ làm họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Sự tích Vu Lan báo hiếu khởi đầu bằng hình ảnh Mục Kiền Liên cứu mẹ trở thành hình ảnh mang tính giáo dục nhân văn. Phật không chứng người hiềm khích Hòa thượng Thích Thanh Tứ (Viện chủ Tùng Lâm Quán Sứ): “Vào ngày Xá tội vong nhân, ngày lễ báo ân báo hiếu, theo tập quán các gia đình sửa soạn lễ nghi khấn cúng, lễ Phật cầu nguyện cho các vong linh được siêu thoát. Hòa thượng Thích Thanh Tứ (Viện chủ Tùng Lâm Quán Sứ). Ảnh: Trà My Tuy nhiên, lâu nay từ tập quán tốt đẹp này, một số bà con ta không hiểu rõ ý nghĩa của ngày Vu Lan báo hiếu, sắm vàng mã đốt thật nhiều gây tốn kém, không cần thiết. Điều chính là con cái hiếu thảo với cha mẹ, đi lễ hướng thiện, thành tâm, nếu không hiểu ý nghĩa thì chính tín dễ thành mê tín. Lễ Phật cầu phúc là điều tốt, nhưng lễ Phật cầu những điều không tốt cho người khác là không lành mạnh. Nếu trong tâm đầy hiềm khích, độc ác, có đi lễ Phật cũng chẳng ích lợi gì bởi Phật nào có chứng. Phật khuyên mọi người bỏ việc ác, làm việc lành, bỏ đường tà, theo đường chính, nếu tâm nguyện thì chẳng lễ Phật cũng được phúc”. Ông Nguyễn Quang Hoán (Trưởng Tiểu ban Quản lý chùa Hà, Hà Nội): “Ngày rằm tháng bảy, nhà chùa không tổ chức lễ Vu Lan. Vào ngày này, nhiều gia đình làm lễ cúng gia tiên tại gia, nhà chùa vẫn mở cửa để phục vụ nhu cầu tự do tín ngưỡng của mọi người. Theo quan điểm của chúng tôi, việc hiếu nghĩa, biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên được biểu hiện qua việc làm hàng ngày, chứ không phải khi người thân mất rồi mới có mâm cao cỗ đầy. Nhà chùa không khuyến khích đốt vàng mã gây lãng phí. Với lòng thành mỗi người chỉ cần kính cẩn thắp một nén hương. Tâm xuất thì Phật sẽ biết, tu thân mình cho chính, ăn ở làm việc thiện cũng là báo ân báo hiếu”. Theo VNN Nguồn: http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/235968.asp
  20. Cảnh báo sớm lũ quét: Chưa thành công và có vấn đề Trận lũ quét vừa qua đã không được cảnh báo nên gây hậu quả nặng nề, trên 160 người chết và mất tích. Trong ảnh: phần lớn thôn Tùng Chỉn I, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai bị san phẳng sau trận lũ quét TT - Mặc dù đã công bố thành công nhưng các trạm cảnh báo lũ quét đặt tại các tỉnh vừa bị lũ tàn phá hoàn toàn không phát huy tác dụng. Trả lời câu hỏi tại sao lại có tình trạng này, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - môi trường Nguyễn Công Thành nói: "Việc triển khai lắp đặt một số trạm cảnh báo sớm lũ quét như thông tin trên báo chí gần đây mục đích chỉ để xem khả năng thực tế của thiết bị thế nào vì thiết bị công nghệ đã có đổi mới, trước đây truyền tin khó, giờ có khả năng tự động. Tất cả vẫn trong giai đoạn thử nghiệm ở Viện Khí tượng thủy văn. Khi có kết luận cụ thể chúng tôi sẽ phải chuyển sang Trung tâm Khí tượng thủy văn là cơ quan nghiệp vụ. Lúc đó mới có thể nói là làm nghiệp vụ dự báo thật". * Thưa ông, đề án về cảnh báo sớm lũ quét đã có từ bao giờ, được tiến hành ra sao mà đến nay lũ xong dân mới biết? - Đề án đã có cách đây hai năm. Nhưng thật ra chuyện cảnh báo lũ quét đã được nói đến từ cả chục năm nay. Đã có nhiều đề xuất nhưng để thực hiện được rất khó khăn. * Hệ thống cảnh báo sớm lũ quét truyền tin qua hệ thống di động từ năm 2006 đã được công bố thử nghiệm thành công. Thưa ông, tại sao Bộ Tài nguyên - môi trường lại để thử nghiệm lâu như vậy? Sao không triển khai tiếp? - Hệ thống đó chưa thể nói là thành công được. Thực tế lần này đã khẳng định điều đó. Các nhà khoa học, chủ nhiệm đề tài có thể nói với nhau là thành công như một kiểu tự hào trong nghiên cứu, chứ thực tế chưa nghiệm thu. Bộ Tài nguyên - môi trường chưa công nhận đề tài đó thành công. Mới đặt các trạm đo mưa, chưa được kiểm nghiệm mà đã công bố thử nghiệm thành công hệ thống cảnh báo sớm lũ quét là hơi vội vàng. Các nhà khoa học rất muốn làm thành công, đó là thiện ý nhưng nhà quản lý thì phải đánh giá nhiều chiều mới tiến hành làm từng bước một. Qua trận lũ này có thể khẳng định hệ thống đó có vấn đề. Đây là bài học về sự khắt khe của thực tế đối với các đề tài khoa học. Tôi vừa ký văn bản đề nghị chủ nhiệm đề tài báo cáo cụ thể để xem hệ thống đã làm việc thế nào, có hiệu quả không, từ đó quyết định có tiếp tục làm hay dừng, nếu làm phải định hướng lại thế nào. Báo cáo sẽ có trong tháng tám này. * Theo ông, các nhà khoa học thử nghiệm thành công nhưng cuối cùng hệ thống không hoạt động là vì đâu? - Cảnh báo lũ quét rất khó. Hệ thống cảnh báo của Viện Khí tượng thủy văn chỉ là một trong các nghiên cứu về vấn đề này. Việc không cảnh báo được có thể do nhiều nguyên nhân, vì hệ thống trục trặc, sóng di động không phủ đến hoặc nơi đặt trạm không mưa, chỗ mưa thì không có trạm. * Sắp tới Bộ Tài nguyên - môi trường sẽ có chỉ đạo làm thế nào để có thể cảnh báo lũ quét sớm, chính xác, giảm thiệt hại cho dân? - Chúng tôi đã chỉ đạo làm rồi, có hai hướng. Thứ nhất là phòng từ xa, tức nghiên cứu cơ bản phân vùng lũ quét, xác định cho được vùng có nguy cơ cao để phối hợp với chính quyền địa phương bố trí lại dân cư. Đây là biện pháp căn cơ và hiệu quả nhất. Đồng thời, chúng tôi sẽ đẩy nhanh thử nghiệm một số mô hình dự báo, các trang thiết bị dự báo để xem cái nào phù hợp. Vấn đề này không thể có một loại thiết bị chung áp đặt cho tất cả vì địa hình mỗi nơi một khác. Một số chuyện có thể khẳng định là làm được nhưng không phải cứ thế là làm ngay, vì càng khảo sát tỉ mỉ, cụ thể thì hiệu quả càng cao. Cùng tiến bộ kỹ thuật, chúng tôi sẽ hoàn thiện các thiết bị phục vụ cảnh báo sớm. * Hai hướng trên đã làm đến đâu và bao giờ có thể cảnh báo lũ quét sớm cho dân, thưa ông? - Hiện nay, một số bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét cao đã làm xong rồi. Chúng tôi đang tiến hành đánh giá lại xem chất lượng của các bản đồ trên thế nào để cuối năm nay hoặc chậm nhất đầu năm 2009 sẽ công bố chính thức. Việc lắp đặt thiết bị kỹ thuật để cảnh báo lũ đang được tiến hành tích cực. Tuy nhiên phải nói rõ không chỉ ở VN mà trên thế giới, cảnh báo sớm lũ quét không đơn giản. Khẳng định bao giờ cảnh báo sớm được lũ quét cũng sẽ giống việc cảnh báo sớm động đất. Có nghĩa cảnh báo lũ quét có lưu vực làm được, có nơi sẽ không thể nào làm được. Giao thông các tỉnh bị lũ lụt vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn Hà Nội - Thống kê của Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão T.Ư đến ngày hôm qua, đợt mưa lũ vừa qua tại miền Bắc đã làm 129 người chết, 32 người mất tích, 89 người bị thương. Trong đó Lào Cai là tỉnh có số người bị nạn nhiều nhất với 49 người chết, 30 người mất tích. Tỉnh Yên Bái đứng thứ hai với 41 người chết. Sau một tuần mưa lũ xảy ra, các tỉnh bị lũ lụt gây thiệt hại nặng vẫn đang tích cực triển khai công tác khắc phục hậu quả. Lực lượng quân đội, công an được triển khai giúp dân làm nhà cửa, vệ sinh môi trường, phân phát thuốc men, hàng cứu trợ. Tuy nhiên tại các tỉnh như Lào Cai, Yên Bái, hệ thống đường giao thông tuyến xã vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn, đường từ trung tâm các huyện Sa Pa, Bát Xát, Bảo Yên đến khoảng 30 xã vẫn chưa đi lại được. Sở GTVT Lào Cai dự tính phải nhiều năm nữa mới khắc phục hoàn toàn hệ thống giao thông do số lượng cầu cống, đường sá bị hư hại quá nhiều, chỉ riêng tỉnh Lào Cai đã có 189 cầu cống bị sập, cuốn trôi. Tương tự tại tỉnh Yên Bái, dù đã thông tạm thời các tuyến quốc lộ và đường giao thông tuyến huyện, xã nhưng về lâu dài vẫn cần phải đầu tư sửa chữa toàn bộ. T.PHÙNG CẦM VĂN KÌNH thực hiện Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn Vấn đề "rất khó" trên đây, có thể được chia sẻ nếu ACE trên lyhocdongphuong.org.vn nhiệt tình tham gia dự đoán và nỗ lực gửi thông tin kiểm chứng đến các đơn vị hữu quan. Nếu thành công thì rất nhiều sinh mạng và đời sống của người dân được bảo vệ. Rất xứng đáng để quyết tâm theo đuổi. Không biết ACE trên diễn đàn có ý kiến gì không??
  21. Biến đổi khí hậu: Việt Nam chịu ảnh hưởng - 23/11/2007 8h:14 Theo báo cáo của Chương trình Phát triển - Liên hiệp quốc (UNDP), đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất bởi biến đổi khí hậu. Báo cáo trên đã được đưa ra tại "Hội thảo Quốc gia về biến đổi khí hậu và phòng chống, giảm nhẹ thiên tai tại Việt Nam" do Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung Ương tổ chức vào ngày 22/11 tại Hà Nội. Hội thảo đã tập trung vào việc đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với thiên tai tại Việt Nam. Trong những năm gần đây bão, lũ lụt ở nước ta có chiều hướng gia tăng và biến động rất thất thường. Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng này đã được các nhà khoa học chỉ ra là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Quang cảnh hội thảo. (Ảnh: Ngọc Huyền) Các báo cáo cũng đã tập trung đưa ra những nghiên cứu về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các điều kiện tự nhiên, môi trường, kinh tế, sức khoẻ, phát triển nông nghiệp... ở nước ta. Đặc biệt là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thiên tai bão lụt ở nước ta trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc UNDP, biến đổi khí hậu sẽ làm cho 22 triệu người không có nhà ở, lũ lụt và hạn hán sẽ diễn ra nhiều hơn ở một số vùng Đông Nam Á. Việt Nam có hai vùng bị ảnh hưởng nặng nhất đó là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các nhà khoa học đã thảo luận về việc đảm bảo gắn kết và thông suốt thông tin từ Trung Ương đến địa phương để gắn kết, thích ứng và đối phó với tình trạng thiên tai. Tại Hội thảo, các nhà quản lý cũng đã giới thiệu Chiến lược quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 trong bối cảnh biến đổi khí hậu vừa được Chính phủ phề duyệt. Hội thảo đã thu hút hàng trăm chuyên gia, cán bộ quản lý, các nhà khoa học cùng đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đại diện UNDP tại Việt Nam, Đại sứ quán Đan Mạch, Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam... tham dự. Ngọc Huyền Nguồn: http://www.khoahoc.com.vn Mời các ACE trên diễn đàn tham luận quẻ để so sánh với nhận định của Liên hiệp quốc UNDP trong Hội thảo trên: Theo báo cáo của Liên hiệp quốc UNDP, biến đổi khí hậu sẽ làm cho 22 triệu người không có nhà ở, lũ lụt và hạn hán sẽ diễn ra nhiều hơn ở một số vùng Đông Nam Á. Việt Nam có hai vùng bị ảnh hưởng nặng nhất đó là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
  22. So với 10 năm trước đây thì mức độ bão, lũ nhiều hơn cả về cường độ lẫn số lượng. Thiên tai là do biến đổi khí hậu, phá rừng hay do công nghệ dự báo kém? Dù thế nào, vẫn cần tăng cường thông tin... Bão số 7: 5 tỉnh chờ lệnh sơ tán 179.000 dân Ông Nguyễn Sĩ Nuôi - Phó chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung Ương. Ảnh: Ngọc Huyền. PV: Dự báo có bão đôi đổ bộ vào Việt Nam có phải hiện tượng lạ không, phải chăng do tác động của biến đổi thời tiết ? Ông Nguyễn Sĩ Nuôi: Đây không phải hiện tượng lạ bởi vì trong lịch sử đã từng có hiện tượng này cách đây 30, 40 năm nhưng bất thường về thời gian và cấp độ rất nguy hiểm. Trong những năm gần đây có một số hiện tượng thời tiết bất thường dẫn đến thiên tai bất thường ví dụ như đợt lũ liên tiếp trong hơn một tháng qua ở miền Trung, lượng nước mưa trong một đợt mưa lên tới 3.000 ml ở Huế trước đây chưa từng có. Đối với bão trước đây thường xảy ra theo quy luật, khoảng tháng 5, 6, 7 xảy ra ở vùng các tỉnh ven biển Bắc bộ; tháng 8, 9 bão xảy ra ở ven biển Trung bộ; tháng 10, 11, 12 xảy ra ở Nam bộ. Thế nhưng bây giờ quy luật đó không còn nữa mà nó đã trở nên bất thường. Theo thống kê của các nhà khoa học trong mấy năm gần đây số cơn bão và tần xuất bão có tăng lên nhiều, xin ông cho biết hiện tượng bất thường này nói lên điều gì? Nội dung "Chiến lược Quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020" Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai; đảm bảo quy hoạch phát triển, quy chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với tiêu chuẩn phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; đảm bảo 100% cán bộ làm công tác giảm nhẹ thiên tai được tập huấn nâng cao năng lực; 70% số dân các xã, phường vùng thường xuyên bị thiên tai được phổ biến kiến thức về phòng chống thiên tai; hoàn thành việc di dời, sắp xếp và ổn định đời sống nhân dân vùng thường xuyên xảy ra thiên tai theo quy hoạch được duyệt; phối hợp chặt chẽ với lực lượng tìm kiếm cứu nạn để chủ động đối phó; đảm bảo an toàn hệ thống đê điều từ Hà Tĩnh trở ra; nâng cao khả năng, mức chống lũ của đê miền trung, Tây Nguyên và Nam Bộ, củng cố nâng cấp đê biển; đảm bảo an toàn các hồ chứa; hoàn thành 100% việc xây dựng khu neo đậu tàu thuyền; Hoàn tàhnh hệ thống thông tin liên lạc. Về công tác chỉ đạo: Nguyên tắc chỉ đạo phòng chống và giảm nhẹ thiên tai phải được thực hiện đồng bộ, theo giai đoạn và có trọng điểm. Quán triệt phương châm "4 tại chỗ", chủ động phòng tránh, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả. Đầu tư cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai là yếu tố quan trọng để phát triển bền vững..." Về mức độ bão và lũ so với 10 năm trước đây thì phải nói là mức độ bão, lũ nhiều hơn cả về cường độ lẫn số lượng. Còn có phải do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu hay không hiện nay các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu và là bước khởi đầu nên vẫn còn có những thông số khác nhau và có nhiều tranh cãi. Còn trên thế giới các nhà khoa học đã nghiên cứu từ rất lâu. Nguyên nhân của bão lũ, thiên thiên tai là do rủi ro thiên tai và con người làm tăng rủi ro của thiên tai. Đối với thiên tai do nhiều yếu tố cộng lại trong đó có sự đóng góp của biến đổi khí hậu toàn cầu. Đối với con người trong những năm gần đây nạn chặt phá rừng, làm tăng hiệu ứng nhà khí, tàn phá khu chắn sóng, sống ở vùng nguy hiểm của bão, lũ. Ngoài ra, do vị trí địa lý của nước ta nằm trong vùng điển hình của bão, lũ hoạt động. Theo ông Hoàng Minh Hiền - Trung tâm Quản lý Phòng chống, Giảm nhẹ thiên tai thì có hiện tượng các nhà khoa học đưa ra các con số dự báo rất sai lệch, ngay cả các trạm đo nước biển dâng cũng khác nhau, công nghệ và các máy đo ở các trạm đã quá cũ, dự báo báo trong vòng 48 tiếng đã có sự thay đổi không kịp thông báo. Đó có phải là một trong những nguyên nhân gây thiệt hại nặng nề trong các đợt lũ vừa qua? Đó chỉ là ý kiến cá nhân... Việc xác định ảnh hưởng của biến đổi khí hậu làm cho mực nước biến dâng, cụ thể là dâng bao nhiêu thì ngay cả các nhà khoa học trên thế giới cũng đưa ra nhiều thông số khác nhau. Ở nước ta có những vùng ven biển dài, có những vùng rất thấp, nếu mực nước biển chỉ dâng ít thôi cũng đã làm ngập rồi, chưa nói dâng lên tới 1 - 2m như báo cáo của một số nhà khoa học đã đưa ra. Hiện Việt Nam đang đầu tư vào lĩnh vực dự báo và cảnh báo, bản thân cơ quan dự báo và cảnh báo cũng đang từng bước được nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo của mình. Theo quy luật, dự báo trước một ngày chính xác hơn dự báo hai ngày, dự báo trước hai ngày chính xác hơn dự báo trước ba ngày... Tuy nhiên, nếu dự báo được dài ngày hơn thì sự chuẩn bị sẽ tốt hơn. Nhưng sẽ có những sai lệch rất lớn mà chúng ta phải cân nhắc. Theo tôi, việc dự báo thời tiết, đặc biệt là dự báo bão, dự báo mưa rất khó... ngay cả trên thế giới, chứ không riêng gì ở nước ta. Cơ sở hạ tầng và vật chất ở nước ta phục vụ cho việc dự báo còn nghèo. Do vậy, cơ sở tính toán đưa ra số liệu dự báo chính xác còn hạn chế mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc ngành nông nghiệp và những người nghèo sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của biến đổi khí hậu. Hiện giờ Việt Nam đã có kế hoạch gì để ứng phó vấn đề này nhất là về chính sách và cơ chế phối hợp chặt chẽ với các ngành? Trong thiên tai nói chung và biến đổi khí hậu toàn cầu, biến đổi khí hậu ở Việt Nam nói riêng có ảnh hưởng nhiều đến ngành nông nghiệp và những người nghèo bởi hai lẽ: một là dân số làm nông nghiệp của nước ta chiếm 75 - 80%, hai là ngành nông nghiệp chịu rủi ro của thiên tai lớn. Do vậy biến đổi khí hậu tác động đến cả hai ngành nông nghiệp và các nhà sản xuất nông nghiệp. Còn đối với người nghèo thì đúng rồi bởi vì các cơ sở vật chất của họ yếu kém nên bị ảnh hưởng khi bão, lũ thiên tai xảy ra. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chính sách. Một trong những chính sách đó là ưu tiên cho những người nghèo thiệt hại do thiên tai gây ra đảm bảo ổn định từng bước cuộc sống của người dân, nâng cấp nhà cửa, đầu tư xây dựng những cụm tuyến dân cư của Đồng bằng sông Cửu Long, xây dựng các công trình giảm nhẹ thiên tai, tổ chức trồng rừng đầu nguồn, xây dựng những khu trú ẩn... Những chương trình này đều nằm trong chương trình chính sách lớn của nhà nước làm giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra đối với người dân. v dsv Bão đôi rất nguy hiểm về thời gian và cấp độ. Phải chăng Việt Nam chưa thực sự chú trọng đầu tư cho lĩnh vực này? Trong những năm gần đây Chính phủ kiên quyết tập chung đầu tư nâng cấp năng lực dự báo và cảnh báo thiên tai nhưng do tính khoa học của nó rất phức tạp, năng lực của chúng ta còn hạn chế. Do đó, chúng ta phải cải thiện từng bước nếu nâng cao chất lượng ngay thì còn rất nhiều khó khăn. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc, nạn phá rừng đang ở mức báo động không thể kiểm soát được và gây nên bão lũ rất nhiều. Việt Nam sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào? Chương trình trồng rừng là một trong những chương trình được ưu tiên trong "Chiến lược Quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020" vừa được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 172/2007/ QĐ - TTg ngày 16/11/2007. Trong những năm vừa qua, hậu quả phá rừng ở một số nơi đã rất rõ, ví dụ như cùng một lượng mưa nhưng nếu phá rừng lũ quét sẽ về gây thiệt hại và ảnh hưởng đến cuộc sống nhiều hơn. Nhưng mấy năm gần gây thông qua chương trình 5 triệu ha rừng nhiều nơi đã nâng cao được rừng che phủ và phòng hộ rất tốt. Một trường hợp thấy rõ là Thừa Thiên - Huế trong đợt lũ vừa qua, lượng mưa tới 3.000 ml nhưng không bị lũ quét tàn phá. Trong báo cáo của một số nhà khoa học có cho rằng nhận thức của người dân về bão lũ còn kém, vì thế, khi thiên tai xảy ra thường góp phần làm cho thiệt hại trầm trọng hơn... Đây có phải là một vấn đề đối với việc phòng chống thiên tai? Nói nhận thức thiên tai của người dân còn kém là không đúng. Nước ta đã có một một hoàn cảnh lịch sử thường bị tác động bởi thiên tai, đặc biệt là lũ và bão. Tuy nhiên, ở nơi này, nơi khác vẫn có một số người dân còn chủ quan. Vì thế, chúng tôi cho rằng cần đẩy mạnh thông tin ảnh hưởng của thiên tai đối với cuộc sống để người dân nâng cao cảnh giác. Chẳng hạn, khái niệm biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến người dân vẫn còn hạn chế thì phải nâng cao tuyên truyền, nâng cao tập huấn cho người dân nhận biết có sự biến đổi khí hậu và biến đổi khí hậu rấ nguy hiểm. Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung Ương đã tham mưu cho Chính phủ để xây dựng "Chiến lược Quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020" vừa được Chính phủ thông qua. "Ban chỉ đạo..." được giao nhiệm vụ thường trực, phối hợp với các ngành để các địa phương xây dựng những chương trình hành động phòng chống và giảm nhẹ thiên tai trong những năm gần đây. Xin cảm ơn ông! * Ngọc Huyền thực hiện Nguồn: http://vietbao.vn
  23. Note: Phần chữ đậm là Phoenix thêm vào Tăng cường công tác dự báo, góp phần hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra Theo nhận định của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn (KTTV) Trung ương, mùa mưa bão năm nay sẽ diễn biến khá phức tạp. Trước tình hình đó, công tác chủ động phòng chống lũ bão rất quan trọng đối với các cấp, các ngành, đặc biệt cần có sự nỗ lực lớn và sự phối hợp đồng bộ trong công tác dự báo. NĐBND thứ Bảy đã có cuộc trao đổi với PHÓ GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM KTTV QUỐC GIA TRẦN VĂN SÁP. - Thưa ông! Ông có thể cho biết đôi nét về công tác dự báo KTTV và chất lượng của công tác này ở nước ta hiện nay? - Bản tin dự báo KTTV được phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng là sản phẩm tổng hợp của hàng loạt các hoạt động khí tượng thủy văn trên phạm vi cả nước. Hiện nay, Trung tâm KTTV Quốc gia đưa ra các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày, dự báo hạn vừa từ 1- 3 ngày và dự báo hạn dài 3 - 5 ngày và nhận định xu thế thời tiết mùa. Đối với thời tiết hàng ngày (dự báo 24 giờ trên phạm vi cả nước), mức chính xác đạt xấp xỉ 80%; bản tin dự báo hạn vừa từ 1- 3 ngày độ chính xác đạt khoảng 80 %; từ 3 - 5 ngày độ chính xác khoảng 65%; dự báo tháng, dự báo mùa chỉ có thể dự báo được xu thế, các yếu tố và hiện tượng thời tiết theo 3 cấp: Thấp hơn, xấp xỉ hoặc cao hơn mức trung bình nhiều năm và mức chính xác chỉ khoảng 55 đến 60 %. Đối với hiện tượng thời tiết nguy hiểm chúng tôi dự báo: Bão và áp thấp nhiệt đới từ 24 - 48 giờ; gió mùa Đông Bắc trước 48 giờ đối với các đợt mạnh; dự báo lũ được thực hiện trên 24 tuyến sông chính trong cả nước; còn các tuyến sông nhỏ được Trung tâm Dự báo các tỉnh theo dõi và phối hợp với Trung ương để dự báo. Chất lượng dự báo đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai. Các hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác như: tố, lốc, vòi rồng, lũ quét chỉ cảnh báo trước từ 30 phút đến 1 giờ hoặc 2 giờ. Đây còn đang là hạn chế của khoa học công nghệ dự báo khí tượng nói chung trên thế giới vì các hiện tượng này thường chỉ xảy ra trên quy mô rất nhỏ. - Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dự báo KTTV cần phải có đội ngũ nhân lực và trang thiết bị kỹ thật hiện đại. Ý kiến đánh giá của ông về nhân lực và trang thiết bị kỹ thuật của Ngành KTTV nước ta hiện nay? - Đội ngũ cán bộ làm công tác KTTV hiện nay đang là một vấn đề hết sức nóng bỏng của ngành. Những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm và thạo việc hiện đã và đang đến tuổi về hưu, đội ngũ cán bộ trẻ kế cận thì đang rất thiếu, trong khi đó thu nhập của cán bộ vào ngành còn thấp nên chưa thu hút được người tài, người có năng lực. Về trang thiết bị kỹ thuật, vài năm trở lại đây, nhờ triển khai nhiều chương trình dự án nên hệ thống máy móc và thiết bị kỹ thuật của ngành KTTV đã vận hành và hoạt động tốt, phục vụ tích cực cho việc khai thác nghiên cứu ứng dụng vào thực tế công tác dự báo KTTV. Đặc biệt mùa mưa bão năm nay Trung tâm KTTV Quốc gia đã trang bị cho 100% Trạm Khí tượng hải văn ven biển và các Trạm đảo và một số Trạm Thủy văn máy đo gió YOUNG. Với loại máy đo gió mới này các Trạm khí tượng hải văn sẽ có được đầy đủ số liệu về tốc độ gió trong bão, kể cả các siêu bão. Bên cạnh đó, còn có nhiều hạng mục công trình khác đã được đầu tư vững chắc và hiện đại, sẵn sàng cho công tác quan trắc, điều tra cơ bản và dự báo KTTV phục vụ kịp thời cho công tác chỉ đạo phòng chống thiên tai ở các cấp, các ngành. - Để phòng chống thiên tai có hiệu quả cao rất cần sự phối hợp giữa các bộ, ngành chức năng. Vậy, Trung tâm KTTV Quốc gia đã triển khai hoạt động này như thế nào? - Phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Trung tâm KTTV Quốc gia là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ TN-MT và là một thành viên của Ban Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, có chức năng thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản và dự báo KTTV, quan trắc môi trường không khí và nước phục vụ phòng chống thiên tai, phát triển KT-XH và đảm bản AN-QP trong phạm vi cả nước. Nhiệm vụ đó sẽ khó hoàn thành nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung tâm với các ban, ngành chức năng và các địa phương. Có thể nói, đây là một hoạt động được Trung tâm đặc biệt chú trọng và triển khai thực hiện tốt. - Vậy, còn về hợp tác quốc tế? Thưa ông! - Với nghề dự báo khí tượng không ai làm một mình, bởi vì một bản tin dự báo là sản phẩm phân tích số liệu đo đạc của hàng vạn trạm khí tượng trên thế giới, là sự kết hợp sản phẩm dự báo của từng trung tâm dự báo với nhiều trung tâm dự báo trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó trình độ dự báo của Việt Nam còn có khoảng cách so với các nước có trình độ khoa học tiên tiến trên thế giới, do đó việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này là rất cần thiết, nó tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu và khai thác tốt các công nghệ hiện đại để nâng cao hơn nữa chất lượng dự báo. - Từ thực tế hoạt động của Ngành KTTV, ông có kiến nghị gì với Nhà nước? - Có thể nói, nhu cầu của xã hội đối với lĩnh vực công tác KTTV đang ngày một tăng cao. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực lớn của ngành KTTV trong nhiều vấn đề và không chỉ giải quyết trong ngành mà phải có sự quan tâm của Nhà nước. Trước hết, để có số liệu đầy đủ chi tiết chúng ta cần phải có một hệ thống quan trắc dầy hơn so với hiện nay. Do vậy rất cần thiết phải đầu tư xây dựng thêm các trạm quan trắc. Bên cạnh đó, để lưu trữ và xử lý số liệu phải đầu tư, nâng cấp hệ thống máy tính đủ lớn để chạy mô hình và xử lý sau mô hình. Thứ hai, công tác KTTV đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ, kỹ năng để nghiên cứu khai thác có hiệu quả các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Để có được đội ngũ cán bộ như vậy cần đẩy mạnh công tác đào tạo và phải tiến hành thường xuyên. Cùng với đó, cần có cơ chế để thu hút người tài gắn bó và ở lại với nghề dự báo. Thứ ba, qua thực tế vài năm gần đây cho thấy, nhận thức của cộng đồng không chỉ người dân mà ngay cả các cấp, các ngành quản lý chưa có sự đánh giá và hiểu đúng về công tác dự báo KTTV. Để nâng cao nhận thức cho cộng đồng, Ngành KTTV rất cần sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cho công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức dưới nhiều hình thức để người quản lý, người dân hiểu đúng về công tác KTTV, cũng như cách nhận biết đúng về các bản tin dự báo KTTV nhằm tăng cường ý thức chủ động phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây nên. Xin cám ơn Ông! Nguồn: http://www.nguoidaibieu.com.vn
  24. Nâng cao chất lượng dự báo khí tượng - thủy văn khu vực Bắc Trung Bộ Cập nhật: 07/07/2008 Ðài KTTV khu vực Bắc Trung Bộ hoạt động trong ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Với mạng lưới trạm KTTV bao gồm: 20 trạm khí tượng bề mặt, 33 trạm thủy văn, hai trạm hải văn, một trạm radar thời tiết, hai trung tâm dự báo tỉnh, 27 điểm đo mưa nhân dân. Ðài được đầu tư trang bị nhiều loại máy móc thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của Ðài không ngừng phấn đấu, vươn lên nắm bắt những kiến thức khoa học hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác dự báo KTTV phục vụ sản xuất, phòng, chống thiên tai. Ðài đã có hệ thống thu ảnh vệ tinh phân giải cao, radar thời tiết, các trạm quan trắc tự động, hệ thống thu tin, truyền tin chuyên ngành, mạng thông tin nội bộ (mạng LAN), mạng ADSL tốc độ cao... để phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thời tiết, thủy văn đã được cập nhật, thông tin kịp thời đến các cấp chính quyền, các cơ quan, ban ngành có liên quan ở địa phương. Mạng lưới quan trắc KTTV của Ðài đang từng giờ, từng phút quan trắc, đo đạc, phát báo, lưu trữ các dữ liệu KTTV và môi trường. Từ những trạm ở vùng núi cao, xa xôi hẻo lánh như Mường Lát, Hồi Xuân, Thạch Quảng, Mường Xén tới những trạm hải đảo như Hòn Ngư..., những người làm công tác KTTV đang từng giờ, từng phút theo dõi diễn biến của các hiện tượng thời tiết, của từng con sông, dòng suối để phát hiện kịp thời, cảnh báo và dự báo phục vụ sản xuất, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế, xã hội, đời sống dân sinh trong khu vực và trên cả nước. Thu Trang / Nhân Dân Nguồn: http://www.chovinh.com Báo cáo và tổng kết vẫn chỉ là ........... Báo cáo và tổng kết
  25. Tiếc thay chưa có chủ trương đặc biệt quan tâm đến chính sách và chất lượng nhân sự ngành khí tượng thủy văn. Nếu như công tác này trở thành ưu tiên trọng điểm của quốc gia, được giám sát để làm tốt và đạt hiệu quả thì cứu được bao nhiêu mạng người, tránh được bao nhiêu thiệt hại kinh tế và khỏi phải lo đi chống "sâu" tham nhũng.