phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Chú Thiên Sứ kính mến, Phoenix xin đính chính: Bài viết trên của tác giả Hà Vũ Trọng, nguồn bài viết từ trang của phamthihoai.org. Rất mong sớm được đọc bài phân tích của chú
  2. Trích đoạn từ bài viết: Chữ Hán truyền vào Việt Nam từ bao giờ và bằng cách nào? Vũ Thế Khôi ................. Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá (được dạy và học có chủ định) từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là: a) sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa (ở triều đình trung ương) và người Việt (ở phủ, huyện, làng xã). B) Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa - Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt. Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau: Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó: dùng Lữ Gia mà chính Sử ký Tư Mã Thiên gọi là "Việt nhân" (đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý (Bôn) Nam Đế - V.T.K.) và ghi nhận Gia "làm Thừa tướng 3 đời vua... Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua...; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương". Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt: trong thư dâng Hán Văn Đế (179-156 trước CN) ông viết: "Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu". Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động "xoã tóc, ngồi chò hõ (tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa - V.T.K.) mà tiếp" và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà "phản thiên tính" (tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán!): "Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi" (tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!). Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ (Lã) là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt. Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết: Triệu Đà ... "thúc đẩy chính sách dân tộc "hoà tập Bách Việt", xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán - Việt và phát triển kinh tế - văn hoá" . Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt: "Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến". Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng: "Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] - Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống (1075-1077) khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng...", tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược. Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia (nay là phố Lê Ngọc Hân). Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự "bị động cơ chính trị chi phối", khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án: "... làng Đường Xâm quận Giao Chỉ (nay là Đường Xâm huyện Chân Định) có miếu thờ Triệu Đà..." Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương "Tỉnh Thái Bình" trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ : "Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư"). Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết: làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm (sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm). Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công "hoà tập Bách Việt", phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang (=Lĩnh nam chi quang), họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương (chắt của Triệu Đà) con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin "nội thuộc" nhà Hán... "bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước: "Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc...". Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán...; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ (Đại Việt sử ký toàn thư ghi "mẹ" - V.T.K.) là người Việt, làm vua..., đem quân đánh bọn Thiên Thu (tướng nhà Hán), diệt được họ cách Phiên Ngung (nay là Quảng Châu) 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu" (chúng tôi nhấn mạnh - V.T.K.) . Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng "Việt nhân", "được lòng dân hơn vương", là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội: "Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận" . Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần (TK XII-XIII) chép "Nhà Triệu" ngang hàng với các "Nhà" Ngô, Đinh, Lê (Đại Hành), Lý. An Nam chí lược (đầu TK XIV), do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ "kỷ" mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là "thế gia" ("Triệu thị thế gia") ngang hàng các "thế gia" Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố: Xét như nước Đại Việt ta, Thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là "ngoại thuộc", để phân biệt với giai đoạn "Bắc thuộc" sau này, khi nước ta "nội thuộc" Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là "Nam Việt", nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu "Việt Nam", nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (viết 1919, in 1921) mới lại đưa "nhà Triệu" vào quốc thống Đại Việt. Nguồn: http://www.phamthihoai.org
  3. Xưng Hô Trong Gia Đình Nguyễn Phước Đáng Dẫn nhập: Tết Âm lịch lại trở về với khắp mọi nhà. Gia đình gồm ông bà, vợ chồng, con cháu có dịp quần tụ bên nhau. Nhân cơ hội nầy, tác giả xin viết một bài có vẻ biên khảo, “XƯNG HÔ TRONG GIA ĐÌNH”, để cống hiến cho quí độc giả đọc mua vui trong 3 ngày Tết. Khi có giao tiếp, có trò chuyện với nhau, thì có chuyện xưng hô. Xưng hô là gọi nhau để biết câu nói, câu chuyện đó liên hệ tới người nào. Trong mọi cuộc giao tiếp, trò chuyện, đều có 3 đối tượng để xưng hô: tự gọi mình là xưng, được quy ước là ngôi thứ nhứt; gọi hai đối tượng khác là hô. Người trực tiếp đối thoại qua lại với ngôi thứ nhứt, được quy ước là ngôi thứ nhì. Hai đối tượng, ngôi thứ nhứt và ngôi thứ nhì, đang trực diện giao tiếp mà nhắc đến, nói đến người khác, thì người khác đó được quy ước là ngôi thứ ba. Ngôi thứ nhứt là “tôi”; ngôi thứ nhì là “ông”; ngôi thứ ba là “nó”. Nói thông thường theo kiểu người Việt lưu vong trên đất Hoa Kỳ, thì tiếng xưng hô dùng cho 3 ngôi đó là: tao, mầy, nó. Số nhiều thì có chúng tôi, chúng bây, chúng nó. Đó là nói tổng quát về xưng hô trong xã hội. Trong tiếng Việt, lời xưng hô thật phong phú, có lẽ phong phú nhứt thế giới: Ngôi thứ nhứt có: tôi, ta, tao, tớ, tui, mỗ, anh, em,... chúng tôi, bọn tôi, bọn tao, chúng ông, bọn nầy,... Ngôi thứ nhì có: mầy, mi, bây, em, cô, nàng, anh, chàng, ông,...chúng mầy, chúng bây, bọn mi, các em, các anh, quân bây,... Ngôi thứ ba có: nó, hắn, hắn ta, chàng, chàng ta, chàng ấy, nàng, nàng ấy,... chúng nó, bọn hắn, đám kia, đám đó, quân ấy,... Xưng hô trong gia quyến Việt Nam lại còn phong phú hơn nữa và rất tinh vi, rất phức tạp, đối với người nước ngoài mới học tiếng Việt (vì chưa thấu hiểu cái tinh tuý, lễ nghĩa, tình cảm... của dân tộc Việt). Ngoài những tiếng nêu trên còn có các tiếng vốn là danh từ, mà biến thành đại danh từ xưng hô: anh, chị, em, chàng, thiếp (xưa), con, cháu,... biến đổi khi thì ở ngôi thứ nhứt, khi thì ở ngôi thứ nhì, tuỳ theo từng câu đối thoại. Đặc biệt còn có tiếng mình, ông xã, bà xã... ở ngôi thứ nhì, và đặc biệt tiếng nhà (nhà tôi, nhà em, nhà anh, nhà cháu...) ở ngôi thứ ba. Xưng hô trong gia quyến người Việt thu gọn trong 3 thế hệ: ông bà nội ngoại, cha mẹ, con cháu. Do tuổi thọ càng lúc càng cao, nhiều gia đình còn sống đủ 4 thế hệ: ông bà cố, ông bà nội ngoại, cha mẹ, con, cháu, cháu chắt. Nhưng thông thường phần đông chỉ còn có 3 thế hệ hiện còn sống chung đụng, gần gụi nhau, nên có những giao tiếp chuyện trò cùng nhau. Xưng hô trong các cuộc trò chuyện nầy có thể phân chia ra như sau: 1/- Xưng hô giữa vợ chồng: a) Vợ chồng trẻ, trong những năm đầu, chuyện trò với nhau phần lớn dùng cặp chữ anh em để xưng hô. Chồng xưng anh, gọi vợ là em. Ngược lại, vợ xưng em gọi chồng là anh. Tuổi tác không can dự được vào lời xưng hô nầy. Dù tuổi có nhỏ hơn, chồng cũng xưng ở vai trên, anh. Dù lớn tuổi hơn, vợ vẫn xưng ở vai dưới, em. Bây giờ có biết bao nhiêu chuyện đổi thay so với thuở xưa, về quyền hạn trong gia đình, nhưng về ngôi thứ ngôn ngữ xưng hô giữa vợ chồng vẫn bất di bất dịch: anh em. B) Vợ chồng trẻ trong chỗ riêng tư, những lúc thắm đượm tình âu yếm, có khi xưng là anh, là em, nhưng vợ gọi chồng hay chồng gọi vợ bằng 1 tiếng chung là “mình”. Tiếng mình nầy ở ngôi thứ nhì. - Mình ơi! Em chết mất mình ơi! - Mình, anh yêu mình! Vợ chồng trẻ ít khi (hay không có) gọi nhau bằng mình trước mặt người thứ ba, nhứt là giữa đám đông. Họ còn nhát. c) Đến lúc hết thời kỳ vợ chồng son, khi hai người có tí nhau để nựng nịu, đôi vợ chồng có cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc, họ có thể xưng hô ngọt lịm, hơn cả thời kỳ dùng cặp chữ anh em. Họ vẫn xưng anh, em, nhưng gọi nhau bằng mình rất tự nhiên, rất bình thường, trước cả bàng quan thiên hạ: - Mình ơi, lấy giùm em bình sữa cho con mình nhé! - Anh đang lỡ tay, mình chờ một tí nghe mình? d) Nhưng trong những lúc cơm chẳng lành canh không ngọt, vợ chồng đổi giọng, không còn xưng anh em nữa, mà lạnh nhạt xưng “tôi”. Chồng xa cách gọi vợ là “cô” (tiếng cô nầy nhẹ thể hơn tiếng cô lần đầu gặp gỡ rất nhiều). Còn vợ xa lạ gọi chồng là “ông” - Cô nín đi, đừng lắm lời nhiều chuyện như vậy. Tôi chịu đựng hết nổi rồi đấy!... - Tôi biết hết rồi! Không có lửa sao có khói? Ông không gì, sao có lời ong tiếng ve xì xầm? Tệ hại hơn nữa, trong những khi no mất ngon giận mất khôn, nhứt là ở trong xứ, vợ chồng Việt Nam cũng có khi đánh mất những tiếng xưng hô ngọt ngào anh, em, mình ơi, mình à,... mà dùng những lời của phường đá cá lăn dưa để xưng hô với nhau. Họ dùng cặp chữ tao mầy. Cả vợ cũng xưng tao và gọi chồng là mầy. Thậm tệ hơn nữa, chồng xưng là “ông”, vợ xưng là “bà”, họ cùng gọi nhau bằng tiếng “mầy”. Tiếng ông và bà nầy ở ngôi thứ nhứt, với ý trịch thượng! - Mầy im cái mồm ngay! Không, ông vả cho méo mặt bây giờ! - Bà không im. Ngon vô đây mà vả. Bà thách mầy đấy! (Thời trẻ thơ và thiếu niên, cách nay chừng 50-60 năm, trong vùng quê Miền Nam, tôi nghe thấy rất nhiều cặp vợ chồng xưng hô mà người ngoài nghe có vẻ thô lổ, vợ xưng tôi, gọi chồng là anh; còn chồng xưng tao, gọi vợ là mầy. Hai tiếng tao mầy nầy nội dung không mang ý nghĩa thô lổ, mà tiếng mầy nghe miết rồi quen tai, làm người vợ cảm giác như là tiếng mình ngọt ngào vậy. Có không ít chàng trai có đi học, trong vùng quê ấy, tâm sự với bè bạn như vầy “Gọi vợ bằng ‘mầy’ nghe kỳ kỳ, nhưng biết làm sao bây giờ, cả làng đều gọi như vậy, mình xưng hô anh em với nhau thiên hạ cười mắc cở chết, vợ mình cũng mắc cỡ nữa!..” Tôi nghĩ, thuở xưa, xã hội Việt Nam khắc khe, khi đã thành vợ chồng vẫn sống chung trong đại gia đình, bà mẹ chồng không muốn con trai tỏ ra vẻ chiều chuộng, quỵ luỵ vợ để vợ lừng sau nầy khó trị, nên tình yêu không được biểu lộ ra ngoài bằng thái độ vuốt ve, nũng nịu... Rồi ngay cả lời xưng hô ngọt ngào cũng không được dùng tới. Ở quê, người ta truyền giữ cái nếp đó khá lâu, chẳng biết tới nay còn hay không.) e) Vợ chồng khi bước vào tuổi đời gọi là sồn sồn lại thay đổi cách xưng hô. Đúng ra họ vẫn giữ tiếng xưng là anh (chồng), em (vợ) hoặc tôi (cho cả 2 người). Tiếng hô thì có nhiều cách đổi: Chồng gọi vợ là bà, vợ gọi chồng là ông. Hai tiếng ông bà ngôi thứ nhì nầy mang vẻ đầm thắm, đứng tuổi hơn là lạnh nhạt, xa cách như trường hợp nêu trên. Có người gọi vợ là “má nó”, “má mầy”, “mẹ nó”, “bu nó”, “má con Phượng”, “mẹ thằng Tèo”... Vợ gọi chồng là “ba nó”, “ba mầy”, “tía nó”, “ba thằng Tân”, “cha con Xuân”... - Má nó đi chợ, nhớ mua cho anh xâu bia heineken nghe. - Cha con Xuân đi đâu thì đi, trưa nhớ về ăn cơm, em chờ. “Má con Phượng”, “ba thằng Tân”,... “Phượng”, “Tân” thường là tên đứa con đầu lòng của vợ chồng. Trong gia đình đông con, có khi tên đứa con út được dùng chỗ nầy. Cũng có khi, đông con, lúc nói người ta nhớ tên đứa nào thì dùng tên đứa đó. Đôi vợ chồng có đông con, còn dùng “ba sắp nhỏ” để gọi người chồng; “má bầy trẻ” để gọi người vợ. - Tiếc quá! Mấy khi chú đến chơi, mà “ba sắp nhỏ” lại đi vắng... - Mời chị vô nhà chờ một lát. “Má bầy trẻ” đi chợ về gần tới rồi. Người Việt có khuynh hướng kéo dài lời nói cho có vẻ dịu dàng. Nhưng cũng có vài trường hợp người ta lại cắt ngắn lời nói cho gọn. Lần đầu nghe đôi vợ chồng vốn là anh chị họ của chúng tôi nói chuyện với nhau, họ xưng hô làm tôi bối rối: - Hôm nay “ba” có đỡ không? “Ba” ăn biết ngon chưa? - Đỡ nhiều lắm rồi. Món canh chua “mẹ” nấu bữa nay thật tuyệt vời! Tôi ngơ ngác hết nhìn vợ rồi nhìn chồng, mất ba mươi giây mới sực nghĩ ra, họ đã rút ngắn “Ba thằng Davis” và “Mẹ nó” thành “Ba” và “Mẹ” để gọi nhau. Nhưng quý độc giả sẽ còn ngạc nhiên nhiều hơn nữa, khi nghe đôi vợ chồng nầy xưng hô rất thân tình với nhau như vầy: - “Ba” dùng bữa với cu John đi, “mẹ” hôm nay không thấy thèm ăn! Vợ chồng dùng hai tiếng ba mẹ để xưng hô với nhau trong gia đình như vậy, không phải do cắt ngắn đại danh tự ngôi thứ nhì “ba nó”, “mẹ nó” (như nêu ở trên) mà đó là lối xưng hô “thay lời gọi của con” mà phe Bắc Kỳ rất hay dùng. Bây giờ tôi cũng từng nghe thấy một ít vợ chồng dân Nam Kỳ thành thị và hải ngoại cũng học làm sang, bắt chước dùng cặp chữ ba mẹ để xưng hô như vậy. Cũng có khi vợ chồng chưa đến tuổi sồn sồn, tí nhau đầu lòng còn bồng trên tay, mà họ đã cam tâm dùng cặp chữ ba mẹ để xưng hô với nhau rồi! Tiếc ơi là tiếc! Có một lần vợ chồng tôi lần đầu tiếp xúc với một đôi vợ chồng sồn sồn chưa quen biết nhiều (chưa biết mặt nhau trước). Chúng tôi ngẩn ngơ không phải chỉ ba mươi giây, mà cả đôi ba phút. Khi vừa được mời vào phòng khách, chúng tôi nghe chủ nhà nói với người đàn bà có vẻ cứng tuổi hơn: - “Mẹ” vào trong pha giùm ấm trà... Chúng tôi trù trừ cứ nói trổng với chủ nhà, vì không biết tiếng “mẹ” là thực ngữ hay hư ngữ trong xưng hô. Mãi đến khi nước được bưng ra, có dịp nghe bà kia gọi ông nọ bằng ba và xưng mẹ, chừng đó chúng tôi mới hoàn hồn, nghĩ nhớ ra, họ là người xứ ngàn năm văn vật Bắc Kỳ và thuộc nhóm tôn cổ, thích dùng hư ngữ để xưng hô. Nhưng xưng hô bằng hư ngữ như vậy, theo tôi, nên xứng đôi vừa lứa về tuổi tác và về ngoại hình, để người nghe thoạt đầu khỏi lầm hư với thực. [Tôi là dân Nam Kỳ chánh cống, gốc gác đồng ruộng miền quê, nhờ có đi học đến bậc trung học, nên có dịp bước ra thị thành, rồi làm quen được nàng, giọng nói Nam rặt, dáng vẻ bề ngoài là gái miền Nam, nhưng sưu tra kỹ thì em có tới 50% máu Bắc Kỳ. Tôi rước em về để nâng khăn sửa túi cho oai. Sau ngày cưới, tôi đưa nàng về xứ quê khoe khoang với dòng họ. Đến đâu, phần lớn các chú thím, cô dượng... gọi cô vợ thành thị của tôi là “vợ thằng Đáng”, một vài người bà con nể cái vẻ thành thị lắm thì gọi là “vợ thằng Sáu” hoặc “con Sáu” (tôi thứ sáu trong gia đình). Sau chuyến thăm xứ quê trở về, cô vợ trẻ thành thị đài các của tôi thỏ thẻ đôi lời bình phẩm bên chồng: “Bên anh, người nào cũng chân chất thật thà, ăn nói bộc trực... Nhưng ai cũng gọi em là ‘vợ thằng Đáng’. Chắc bà con đều gọi anh bằng tiếng ‘thằng’. Ngộ ghê! Mấy thím gọi em là ‘Con Sáu’. Em nghĩ, thế cũng hay, em trở thành ‘con sáo’ trong gia đình anh. Con sáo làm cảnh trong lồng. Anh đem con sáo sang sông. Anh mang con sáo về đồng. Nay anh cho con sáo sổ lồng bay về chợ... quê!...” Tình yêu đang lên ngôi! Trong tôi có dòng máu chân chất thật thà, bộc trực (chắc cũng có luôn chất quê mùa, mà “con sáo” có 50% máu Bắc Kỳ, nể tình, không tiện nói ra), nên tôi chẳng nghe thấy tiếng nào là tiếng chê trách trong lời nói của người bạn đời về gốc gác nhà quê của mình. Tôi còn rất thích thú với lời ví von trêu chọc giọng nói Miền Nam . Cái ví von thân phận “con Sáu” thành “con sáo”. Rồi “con sáo sổ lồng” đưa tôi lên thành đô Sài Gòn khoe (anh chồng quê) khắp cùng họ hàng bên nội, luôn thể tập tành tôi thưởng thức món ăn Bắc Kỳ, món phở bò, vì xứ tôi là thánh địa Phật Giáo Hoà Hảo không ăn thịt bò, cấm bán thịt bò (khoảng thời gian từ 1956 trở về trước). Không phải chánh quyền cấm, không có giấy cấm, nhưng chẳng ai dám làm thịt bò, thịt trâu, thịt chó... và cho ăn kẹo cũng không ai dám bán các thứ thịt đó. Bây giờ thì hầu hết tín đồ PGHH thành thị đã không còn kiêng cử thịt bò nữa. Tôi choá mắt với thành đô Sài Gòn, bấy giờ được xưng tụng là Hòn Ngọc Viễn Đông, tôi choá mắt với đám họ hàng bên nội của “con sáo sổ lồng”. Bà Cô ông Chú (Chú chứ không phải Dượng) gọi chúng tôi là “anh Đáng”, “chị Đáng”, chứ không gọi tôi là “chồng con Phụng”. Người văn minh theo Tây học bỏ tên con gái mà lấy tên chồng, kêu như vậy để biết đứa con gái bây giờ “ván đã đóng thuyền”, đã hoá thành đàn bà. Tôi bỡ ngỡ và tiếc nuối cái tên Phi Phụng của con sáo sang sông, nghe hay làm sao trong trái tim tôi, mà giờ đây bị vùi lấp đi thì tiếc quá! Tôi ngỡ ngàng vì bị những người tuổi tác cỡ cha mẹ tôi mà lại gọi tôi bằng anh. Con sáo của tôi có chỉ vẽ trước những điều tôi sẽ đụng phải khi hội kiến với những bà con Bắc Kỳ nầy. Nghe thì nghe vậy, mà tôi chưa hội nhập được trơn tru. Cái chân chất thật thà, bộc trực của tôi bị uốn nắn khác đi, nó bị thụt vòi lần lần. Con sáo dặn đi dặn lại tôi bao nhiêu lần: “Chú thím, Cô Chú có mời ăn uống, anh đừng mau mắn nhận lời, phải biết làm bộ nhũn nhặn từ chối, rồi sau đó hẳn nhận. Thật thà quá, mau mắn quá thành ra thô kệch, quê mùa... Đừng thật thà, nhanh nhẩu như trong quê anh. Trước khi bưng tách trà, trước khi bưng chén cơm, phải mời tất cả mọi người trong mâm xơi nước xơi cơm. Mời hết từng người có mặt trong mâm. Mọi người sẽ mời lại anh. Anh đáp ‘vâng ạ!’ Sau đó mới uống mới ăn. Những cái đó là thủ tục lễ nghĩa, văn minh...” Tôi gãi đầu gãi tai xổ ra nỗi thắc mắc của mình: “Dạy vậy có chắc trúng không? Cơm của người ta, nước của người ta, người ta mời mình thì hợp lý đi. Còn mình có cái gì mang đến mà mở miệng mời người nầy người kia xơi nước xơi cơm. Mà, ví dầu mình có nước, có cơm để mời đi nữa thì cũng một đứa đại diện mời chung một lời, có đâu mỗi đứa lần lượt mở miệng mời, lại mời giáp vòng. Tiếng mời vô hồn như tiếng con vẹt. Cơm lạnh canh ngụi còn gì ngon? Xứ anh không có lối mời a dua đó? Anh mắc cỡ miệng vụ nầy quá!...” Tôi tập tành lối sống văn minh trong thời kỳ ngụp lặn giữa vũng tình yêu lứa đôi đầu đời như vậy đó. Bây giờ tôi đã thông thuộc chuyện ăn phở, biết đòi thêm chanh, ớt, ngò gai, rau quế ăn kèm cho hương vị đậm đà... Có lúc ăn sạch cả tô phở “tàu bay”, tô phở “xe lửa” nữa. Nhưng tôi vẫn chưa hội nhập trơn tru chuyện “mời qua mời lại” trên bàn ăn. Lúc nào tiếng mời của tôi cũng lí nhí ngượng ngập, lúc nào cũng thiếu sót, không mời đủ hết mọi người trong bàn...] Chuyện vợ chồng xưng hô tôi viết ra nãy giờ chỉ mới chung chung và phần lớn thuộc trong Nam . Ngoài Bắc còn nhiều cách xưng hô khác nữa. Xin dành chờ những bạn Bắc Kỳ rành sáu câu chuyện ngoài nớ sẽ viết bổ sung. f) Khi có thêm người thứ ba tham dự vào chuyện tiếp xúc với đôi vợ chồng, thì có thêm từ xưng hô ngôi thứ ba dành cho chồng và vợ: - Bà xã tôi vừa nhắc đến anh chị đây. Sao không thấy ông anh cùng đến? - Xin lỗi ông bà, ông xã tôi đang có hẹn với người bạn ở xa mới đến... Từ ông xã chỉ người chồng, bà xã chỉ người vợ trở thành danh tự kép trong kho tàng tiếng Việt. Tôi nghĩ từ bà xã (có nghĩa là vợ) xuất hiện khoảng thập niên 1950. Trước đó, bà xã chỉ có nghĩa là vợ của ông xã (xã trưởng). Thời đó người ta nhắc nhiều đến chuyện tiếu lâm Lý Toét & Xã Xệ. Và có người nghĩ đến chuyện có ông Xã Xệ thì phải có “bà Xã Xệ”, tức bà vợ của một ông tầm thường trong làng xã. Rồi người ta rút 3 tiếng “bà Xã Xệ” gọn lại thành 2 tiếng “bà xã” để chỉ người vợ. Trong vai trò lời xưng hô, tiếng ông xã, bà xã nếu có chỉ định tĩnh tự đi kèm, thì nó ở ngôi thứ ba: - Ông xã tôi không có nhà. Anh cần nhắn lại điều gì không? Khi không có chỉ định tĩnh tự đi kèm, thì nó ở ngôi thứ nhì: - Bà xã, làm ơn bớt cái miệng lại một tí, anh đang nghe radio! Trước kia, người ta dùng 3-4 tiếng để chỉ chồng mình, vợ mình, như anh nhà tôi, ông nhà tôi, ông chồng nhà tôi, ông xã nhà tôi; bà nhà tôi, nội tướng nhà tôi, bà xã nhà tôi... Rồi sau đó, chừng vài mươi năm nay, người ta lại giản lược lại còn 2 tiếng để chỉ chồng mình, vợ mình. Hai tiếng đó là “nhà tôi”: - Chúng tôi không bao giờ quên anh chị, nhứt là nhà tôi, bà ấy nhắc tới chị luôn. Hai tiếng nhà tôi thật là lững lơ, huyền hoặc. Có người cho rằng nó là từ kép, vì nếu nó không ghép lại với nhau, mà chỉ là hai tiếng đơn đứng gần nhau, thì nó có nghĩa là cái nhà của tôi. Cố Giáo Sư Nguyễn Đình-Hoà đề nghị phải viết có gạch nối ở giữa, nhà-tôi. Tôi không đồng ý coi nó là từ kép, vì nhà tôi có nghĩa là vợ của tôi hay chồng của tôi, nghĩa là nó được chỉ định thuộc về ai. Vậy tiếng tôi còn giữ vai trò chỉ định tĩnh tự. Không ai nói chồng tôi là nhà-tôi tôi (nhà-tôi của tôi); vợ anh là nhà-tôi anh (nhà-tôi của anh); vợ nó là nhà-tôi nó (nhà-tôi của nó). Nó huyền hoặc vì tách rời tiếng nhà ra, để tiếng tôi đóng trọn vẹn vai trò chỉ định tĩnh tự, thì riêng tiếng nhà không thể nào có nghĩa là vợ hay chồng được! Người ta có dùng nhà em, nhà anh, nhà cháu, nhà con... để xưng gọi chồng mình, vợ mình (ngôi thứ ba) đối với người trực tiếp nói chuyện (ngôi thứ nhì) Người ta nói “nhà cháu” có nghĩa là vợ cháu = vợ của cháu. Vậy rõ ràng tiếng nhà có nghĩa là vợ (hoặc chồng). Thực ra những tiếng xưng gọi nhà anh, nhà em, nhà cháu... thoát thai từ tiếng nhà tôi. Người ta thay tiếng tôi bằng tiếng em, anh, cháu để xưng gọi thân mật với những người thân vai nhỏ hơn hay vai lớn hơn. Những tiếng xưng gọi nầy luôn luôn ở ngôi thứ ba. Nếu riêng 1 tiếng nhà mà có được cái nghĩa là vợ hay chồng thì nó sẽ ráp được với 3 tiếng tao, mầy, nó để tạo thành cái nghĩa vợ tao, vợ mầy, vợ nó. Nhưng chưa ai viết nhà nó với cái nghĩa vợ nó, nhà mầy với cái nghĩa vợ mầy. Theo tôi, tiếng nhà không thể có nghĩa là vợ hoặc chồng được. Kho tàng tiếng Việt sắp sửa có thêm từ mới có nghĩa chung là chồng hoặc vợ. Đó là tiếng “mình ơi”: - Ồ! Cảm ơn chú. Mình ơi của cháu lúc nầy ngoan lắm, ảnh bỏ hút thuốc rồi! - Thế nào, mình ơi của mi lúc rày còn thường đi sóp-binh không? “Mình ơi” xuất hiện với nghĩa mới là do bài hát Mình Ơi được ca sĩ Ý Lan và ca sĩ Ngọc Hạ trình diễn thành công rất nhiều lần, tại nhiều nơi, khiến 2 tiếng mình ơi ngọt lịm thâm nhập vào lòng người và biến nghĩa thành vợ hoặc chồng thật ngọt ngào! Tuy nhiên, tiếng “mình ơi” còn đang ở thời kỳ chuyển mình thành danh tự kép. Bây giờ nó còn cần có 2 tiếng đi kèm “của...” (của ai) thì mới là danh tự kép được. 2/- Xưng hô giữa cha mẹ và con cái: a) Xưng hô với con trong năm đầu: Tí nhau của đôi vợ chồng trẻ từ lúc mới sanh đến khi biết nói, không có dịp sử dụng ngôi thứ nhứt để xưng với cha mẹ. Thời kỳ nầy nó chỉ được gọi ở ngôi thứ nhì và ngôi thứ ba. Cha mẹ là 2 tiếng chỉ định vị trí của đấng sinh thành ra con. Nhưng lại rất ít người bắt con dùng 2 tiếng nầy để gọi mình, mà tập con gọi mình bằng ba (cha) và bằng má (mẹ). Tiếng Việt cũng rất phong phú về những tiếng xưng hô nầy. Tương đương với cặp tiếng xưng hô ba má còn có ba mẹ, ba vú, tía má, thầy me, thầy đẻ, cậu mợ, thầy bu... (Một số người có Tây học -nhiều hay ít- còn tập tành xưng hô pa-pa/ma-măng hay pa-pa/măng cho ra vẻ ta đây Tây. Bây giờ có mùi Mỹ trong người, lắm vợ chồng gọi nhau là ho-ni, xưng và tập con gọi mình là đế-đi/má-mì hoặc đết/mom cho ra vẻ ta đây Việt kiều Mỹ): Hầu hết những đứa con được đặt tên thật đẹp, nhưng trong thời kỳ còn bé, phần đông những đứa trẻ bị cha mẹ gọi bằng những tên tục xấu xí, chung chung cho mọi đứa là thằng cu, nhóc tì, cu tí... (trai), con lủng, nhóc bẹp, cái đĩ... (gái). Có nhiều cặp vợ chồng theo nhân dáng khuôn mặt đứa con và ghép thứ của nó vào mà đặt tên tục để gọi, như Cả Vồ (do trán vồ), Hai Xệp (do mũi xệp), Ba Mếu (do miệng hay mếu), Tư Nhăn (do mặt mày thường nhăn nhó quạu quọ)... Không ít chồng vợ gọi con bằng tiếng cưng, cục cưng, cục vàng, hột xoàn... Với những tiếng xưng hô phong phú đó, cha mẹ nựng nịu, trò chuyện một chiều với đứa bé khi nó chưa biết nói: - Cả Vồ của mẹ, thôi dậy đi, tới giờ bú rồi. Ngoan đi, măng cưng. - Ho-ni, ho-ni ra xem mụ bà dạy cu tí cười kìa. [Một vài trường hợp đặc biệt con gọi cha không bằng những tiếng nêu trên. Ba tôi và các cô chú của tôi không gọi ông nội tôi bằng các tiếng ba, tía, cha... mà gọi bằng tiếng “anh” không giống ai. Truy nguyên thì biết rằng khi xưa gia đình Việt Nam dựng vợ gã chồng sớm, phần lớn chưa tới hai mươi. Ông tôi cũng vậy, nên lúc có con đầu lòng (là ba tôi), ông còn mắc cỡ lắm, né tiếng xưng ba, mà xưng anh, mỗi khi nựng nịu, trò chuyện với con. Do đó, khi biết nói, ba tôi cũng gọi lại bằng tiếng “anh”, rồi thành quen luôn, cho đến già đến chết không sửa lại được. Ông nhạc tôi cũng vậy, mắc cỡ khi có con, nên né tiếng ba. Muốn bồng bế con, ông nói “sang đây bê bế” thay vì nói “ba bế” (ông nhạc tôi người Bắc nên dùng tiếng bế, thay vì dùng tiếng bồng, ẳm như trong Nam ) Từ đó các anh chị em gia đình vợ tôi đều gọi cha bằng tiếng “bê”. Những tiếng xưng gọi như vậy không có nghĩa gì hết. Tâm trí của những người con chỉ cần hiểu đó là tiếng dùng để gọi cha mình mà thôi] B) Xưng hô với con khi chúng đã lớn: Thông thường cha mẹ và con cái dùng các cập xưng hô: ba/má-con, tía/má-con, thầy/đẻ-con... - Con cứ an tâm ra đi, ba má còn các em để khuây khoả. - Tía má giữ gìn sức khoẻ, rồi con sẽ quay về. Những tên tục xấu xí thường bị loại dần, không còn được xưng gọi nữa khi đứa trẻ lớn lên, vì những tiếng gọi thằng cu, con lủng, cái đĩ,... làm chúng đỏ mặt tía tai. Nhưng những tiếng xưng gọi bé hai, bé ba..., bé sáu, bé bảy... vẫn còn được gọi cho đến lúc đã lớn, thậm chí lúc đã lập gia thất. Những tiếng đôi “bé+thứ” được coi như tên tục của đứa con. Nhưng cũng có nhiều gia đình, cha mẹ trò chuyện với con cái, trong chỗ không có người ngoài, thường dùng cặp xưng hô tao mầy chất phác, thân mật, nhứt là dân quê miền Nam : - Chuyện đó tao đã dặn trước rồi mà mầy cứ không để ý tới. (Cặp xưng hô mầy tao trong ngôn ngữ Việt Nam có 2 ý nghĩa đối nghịch nhau. Bình thường, về hình thức nó có nghĩa xấu, thô tục, quê mùa, cộc cằn... chỉ sử dụng trong những trường hợp xấu, giận hờn, ghét bỏ, miệt thị... Nhưng mặt khác, giữa 2 đối tượng thân thiết xưng hô với nhau thì cặp nầy biểu hiệu sự thân thiết rất mực. Bạn bè chí thân mới xưng hô mầy tao với nhau. Những lúc thật gần gũi, cha mẹ mới dùng mầy tao với con. Tuy nhiên con cái dùng ngược lại với cha mẹ thì không được. Pháp thì được.) Ở thôn quê miền Nam , con cái thường xưng tôi, tui và gọi cha mẹ bằng tiếng ông bà (ngôi thứ nhì) và ổng bả (ngôi thứ ba): - Má à, tui nói rồi, tui không ưng chỗ đó mà bà cứ ép tui hoài! - Ba dẫn tôi đi chợ, ổng còn dẫn tôi vô tiệm cho uống cà-phê nữa. Ổng dặn tôi đừng nói cho bà biết. Những tiếng tôi, tui, ông, bà, ổng, bả nghe không có vẻ vô lễ, mà chỉ có vẻ chân chất, thật thà, quê mùa mà thôi. Con cái còn gọi cha mẹ bằng tiếng đôi ở ngôi thứ ba, như: ông tía, ông bố, ông già, bà má, bà vú, bà già... Có khi chúng dùng 3 tiếng để nhấn mạnh nữa, như: ông già tía, bà già má... Những tiếng nầy nghe không ngọt dịu, nhưng cũng không phải là vô lễ, thường được nói với ý nghĩa thân mật, trong khi chuyện trò với những người thân thích của gia đình. - Ông tía dặn kỹ, khi nào có bà má ở nhà, tôi mới được ra ngoài chơi. - Ông già tía khó gần chết, bà già má cũng đâu có dễ gì! Tôi ớn ổng bả lắm! Khi con cái đã thành nhân, đỗ đạt, có chức vụ, xưng hô giữa con với cha mẹ vẫn không thay đổi, con-ba/má... Nhưng xưng hô giữa cha mẹ với con có thay đổi. Trong Nam , nơi thôn quê, cha mẹ thường gọi con bằng thứ hoặc bằng thằng+thứ, con+thứ: - Hai, để đó mẹ. Về nhanh đi. Thằng Hai đang chờ con bên bển đó! - Thằng Tư tiếp Ba dọn dẹp phòng khách. Con Năm vô bếp giúp Má một tay. Thời đại điền chủ tư hữu ruộng đất cò bay thẳng cánh ở miền Nam, gia đình giàu có thường xưng gọi con cái mình bằng tiếng cậu (trai), cô (gái) với ý nghĩa là những đứa trẻ quý giá, với mong muốn những tá điền, những khách khứa cũng gọi con mình bằng tiếng “cậu”, “cô” đó. - Chú chờ đó một chút, cậu Hai cần sai bảo chú một việc, cô Ba cũng vậy. Dân thành thị, trong những nhà trung lưu, nhứt là những nhà quyền quí, còn dùng những chức vụ, ngạch trật... của con ghép theo sau tiếng anh, chị để xưng gọi con cái nhà mình, khi nói chuyện với người ngoài: - Anh Phán còn kẹt ngoài Sở. Xin ông chờ chút cháu sẽ về tới! - Anh Đốc-tờ giờ nầy còn ngoài phòng mạch! Gớm! Bà chị thấy đấy, cháu thật là vất vả? (Anh Phán, Anh Đốc-tờ... dùng để chỉ đứa con. Còn nếu chồng là Phán, là Đốc-tờ..., thì bà vợ thường dùng tiếng ông phía trước, Ông Phán, Ông Đốc-tờ...) Còn nhiều cách xưng gọi xun xoe về chồng mình, con mình trong những gia đình thượng lưu, nhứt là tại miền Bắc xưa. 3.- Xưng hô giữa ông bà v à cháu: Xưng hô giữa Ông Bà và cháu không có nhiều từ phong phú như trên. Chỉ có ông/bà-cháu và ngược lại cháu-ông/bà. Ông bà thì có ông bà nội, ông bà ngoại, cho nên ông bà và cháu thường thêm tiếng nội ngoại để xác định rõ: - Thưa, ông gọi cháu vào có việc chi dạy bảo ạ? - Ông gọi cháu vào là để nhờ cháu ngoái trầu cho bà... - Năm mới, cháu xin mừng tuổi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Ông bà nội ngoại thường bỏ tiếng ông bà, rút gọn lại còn tiếng nội, ngoại (chung cho ông lẫn bà) để nói chuyện với cháu: - Năm mới ngoại lì xì cho cháu lấy hên đầu năm. - Nội lì xì cháu cái nầy và thêm lời căn dặn cháu cố gắng học hành. Rất nhiều ông bà dùng tiếng con để gọi cháu. Làm vậy để tình ông cháu, bà cháu được thắm thiết đậm đà hơn. Ngược lại cũng rất nhiều cháu dùng tiếng con để xưng với ông bà (ngay cả với chú, bác, cô, dì, cậu... nữa) cũng nhằm biểu hiện tình cảm thân thiết: - Nghe con học hành giỏi giang, ông bà nội ngoại rất vui. Ông bà mong sao con luôn luôn giữ được mãi như vậy... - Thưa ông bà nội ngoại, con xin ghi tâm khắc cốt những điều ông bà chỉ dạy. (Có người khắc khe, hẹp hòi, bị cái nghĩa đen trói buộc, nên cho rằng “cháu xưng con với ông bà là hỗn láo, vì có ý muốn vượt cấp, ngang hàng với cha mẹ mình” Tiếng con dùng xưng hô giữa ông cháu, bà cháu, không còn ở cái nghĩa đen đó nữa, mà nó có ý nghĩa biểu hiện sự thương yêu và kính trọng người trưởng thượng đang đối thoại với mình. Tiếng con còn được một số người Bắc, nhứt là thuở xa xưa, dùng vượt khỏi cái nghĩa đen, để xưng hô với những người quyền uy, lớn tuổi hay trẻ tuổi hơn người tự xưng con, như tá điền với chủ điền, dân đen với hương chức hội tề xã, với quan trên... Tiếng con nầy lại mang một ý nghĩa khác: quỵ luỵ, hèn hạ...) Tiếng để xưng hô trong gia đình Việt Nam thật phong phú. Dù cố gắng nhớ lại nhiều cách xưng hô mà tôi từng nghe thấy, nghe đó đây trong cuộc sống và thấy viết trên sách báo, nhưng tôi biết mình không đủ khả năng sưu tập đủ. Mỗi nơi, miền Trung, miền Bắc, còn có những cách xưng hô khác nữa. Mong rằng bài nầy giúp ích được phần nào những con em chúng ta sống và lớn lên ở nước ngoài hiểu được nền văn hoá Việt Nam thật đáng vinh danh. Cách xưng hô trong gia đình Việt Nam thể hiện được nhiều sắc thái văn hoá vững chắc của dân tộc./- Nguyễn Phước Đáng Nguồn: http://www.nuocviet.org
  4. Hình Chim Trên Trống Đồng LẠC VIỆT Trần Gia Phụng 1.- XUẤT XỨ CỦA CHỮ “LẠC” Tài liệu bằng văn bản quan trọng đầu tiên về chữ “lạc” trong danh từ “Lạc Việt” (Lo Yueh), cho đến ngày nay tìm thấy được, nằm trong đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký (sách của Trung Hoa) xuất hiện khoảng giữa đời Tấn (265-420), được nhiều sử sách trích dẫn, từ Thủy kinh chú (thế kỷ thứ 6) của Lịch Đạo Nguyên (Trung Hoa), đến An Nam chí lược (thế kỷ 13) của Lê Tắc (người Việt sống ở Trung Hoa), rồi các sách khác về sau nữa. Lịch Đạo Nguyên, trong sách Thủy kinh chú, đã lặp lại theo Giao Châu ngoại vực ký như sau: “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ.” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.)(1) Trong An Nam chí lược, Lê Tắc trích như sau: “Tại Giao Châu ngoại vực ký, tích vị hữu quận huyện thời, lạc điền tùy triều thủy thượng hạ, khẩn kỳ điền giả vi lạc dân, thống kỳ dân giả vi lạc vương, phó vương giả vi lạc tướng, giai đồng ấn thanh thọ...” (Giao Châu ngoại vực ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là lạc dân, người cai quản dân gọi là lạc vương, người phó là lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu...)(2) Tuy hai cách hành văn khác nhau, nhưng ý chung của cả hai phần trích dẫn trên đây, trong hai sách khác nhau đều bắt đầu rằng ở cổ Việt có một loại ruộng gọi là “lạc điền”, người cày cấy “lạc điền” đề sinh sống là “Lạc dân”, rồi mới có “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng”. Di chỉ rõ ràng nhất về nền văn minh Lạc Việt là trống đồng. Khi Mã Viện (Ma Yuan, 14 TCN - 49) đem quân sang cổ Việt đánh Hai Bà Trưng vào năm 41 (tân sửu), ông lấy được nhiều trống đồng ở cổ Việt, nhiều đến nỗi ông đã dùng các trống đồng đó để nấu chảy và đúc thành con ngựa, dâng lên vua của ông là Hán Quang Võ (Han Kuang-wu, trị vì 25 - 57). Sử sách Trung Hoa gọi trống đồng ở cổ Việt là “Lạc Việt đồng cổ” (trống đồng Lạc Việt). Như vậy là sau “Lạc điền, Lạc dân, Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng” thì có thêm chữ “Lạc Việt đồng cổ”. Từ các tài liệu Trung Hoa trên đây, danh xưng Lạc Việt được dùng để chỉ chủng người sống trên đất cổ Việt, và là tổ tiên của người Việt chúng ta ngày nay.(3) Trên những trống đồng Lạc Việt, trên mặt trống cũng như trên thân trống, có rất nhiều hình ảnh, trong đó có hình chim, mà không có một tài liệu nào của người xưa giải thích về các hình vẽ, hoặc những ẩn dụ trong các hình vẽ, khắc trên trống đồng. Các sử sách cổ cũng không giải thích hình chim trên trống đồng Lạc Việt là chim gì? Nói cách khác, những hình vẽ trên trống đồng Lạc Việt là hình “câm”, và các giải thích của những học giả đời sau chẳng qua là những lời phỏng đoán, những giả thuyết mà thôi, và khó có ai giải mã được đầy đủ ý nghĩa của những hình vẽ nầy. Ngoài ra, hình vẽ trên các trống đồng Lạc Việt hoàn toàn không có màu sắc. Màu sắc các loại chim rất quan trọng vì có nhiều thứ chim có ngoại hình giống nhau, nếu không có màu sắc thì không làm sao phân biệt được. Ví dụ ở Ontario, Canada, có một loại chim gọi là chim sẻ Azores, ngoại hình và bộ lông hoàn toàn giống chim sẻ bình thường (có rất nhiều ở khắp nơi), chỉ trừ cái ức màu đỏ (khác với chim sẻ bình thường), và tiếng hót rất hay trong khi chim sẻ bình thường không biết hót. Nếu du khách ghé thăm thác Niagara giữa Hoa Kỳ và Canada, ở phía bờ Canada, khi nghe tiếng chim hót rất hay, chú ý theo dõi trên các cành cây, sẽ thấy ngay loại chim nầy. Ở Việt Nam không có chim Azores. Nếu đem một tấm hình đen trắng chụp chim Azores về Việt Nam, rồi kể rằng chim nầy hót rất hay, thì người trong nước sẽ không tin điều đó, vì họ nghĩ chim sẻ làm sao hót được? Vậy những con chim trên trống đồng Lạc Việt chẳng có màu sắc, làm cho việc phỏng đoán thêm khó khăn. 2.- CHIM “LẠC” LÀ CHIM GÌ? Để đi tìm ý nghĩa của chữ “Lạc Việt”, các nhà nghiên cứu Việt Nam vào giữa thế kỷ 20 tra cứu chữ “lạc” trong các từ điển Trung Hoa, và được biết rằng một trong những ý nghĩa của chữ “lạc” trong từ điển Trung Hoa là một loài chim. Các ông liền liên tưởng đến hình chim trên các trống đồng Lạc Việt, và đưa ra giả thuyết rằng chữ “Lạc” trong “Lạc Việt” là một loài chim, và có thể là vật tổ của người Lạc Việt. Đầu tiên, học giả Đào Duy Anh, trong sách Lịch sử Việt Nam, xuất bản lần đầu năm 1955, chương 3 (Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, người Lạc Việt), đã viết: “Những điểm ấy khiến chúng ta thấy rằng những người đúc trống đồng ấy - người Lạc Việt - tất đã từng vượt biển. Những chim hậu điểu ấy người ta thấy khắc trên trống đồng chính là chim tô-tem của những người chủ nhân của những trống đồng ấy, tức là người Lạc Việt. Tìm ý nghĩa chữ Lạc hay là họ [Lạc], tức là tên thị tộc của người Lạc Việt, chúng ta thấy chữ ấy chỉ là một loại hậu điểu ở Giang Nam. Xã hội học cho chúng ta biết rằng các thị tộc ở xã hội nguyên thủy thường lấy tên vật tổ mà tự đặt tên. Như thế thì chữ Lạc chính là tên vật tổ, tức loài chim hậu điểu mà chúng ta thấy hình dung trên trống đồng Ngọc Lũ.”(4) Đi theo cách thức nghiên cứu của học giả Đào Duy Anh, là các ông Văn Tân, Hà Văn Tấn và linh mục Nguyễn Phương. Hai nhà nghiên cứu Văn Tân và Hà Văn Tấn tham khảo các từ điển Trung Hoa như Khang Hy, Từ hải, Từ nguyên, để mô tả hình dạng và tranh luận về con chim “lạc”. Còn sử gia Nguyễn Phương cũng dựa vào các từ điển Trung Hoa, và thêm rằng: “Đối với chúng tôi, thiết tưởng không có gì ngăn trở chúng ta nghĩ rằng thứ chim được vẽ trên các trống đồng rất có thể là chim Lạc. Những thứ chim đó là giống chân cao mỏ dài nhưng cổ vắn, thật giống như lời tả gặp được trong các tự điển về chim Lạc nói rằng nó “giống như chim Nghịch nhưng cổ vắn”...(5) Nếu các tác giả trên đây phỏng đoán rằng hình chim trên các trống đồng là chim “lạc”, vậy chim “lạc” phải là loại chim sống với người cổ Việt, trên đất cổ Việt. Trong trường hợp đó, câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là nước Việt Nam chúng ta có chim lạc hay không? Trong đời sống thực tế, hiện nay người Việt ở khắp các miền đất nước Việt Nam, không ai biết chim lạc là chim gì, không ai thấy chim lạc như thế nào, và thậm chí cũng chưa hề nghe nói đến một loại chim là chim “lạc”. Chính các tác giả Đào Duy Anh, Văn Tân, Hà Văn Tấn, Nguyễn Phương cũng không biết chim “lạc” là chim gì, vì nếu biết, các ông đã không cãi nhau về hình dạng con chim “lạc”. Bên cạnh thực tế thiên nhiên, có lẽ cũng nên đi vào các từ điển Việt Nam, chứ không phải từ điển Trung Hoa, để truy tìm chim lạc là chim gì ở Việt Nam? Từ điển Annamiticum-Lusitanum, et Latinum của linh mục Alexandre de Rhodes, xuất bản lần đầu tại Rome năm 1651, được Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Đỗ Quang Chính dịch, Nxb. Khoa học Xã hội in lại năm 1991, trang 131, không có riêng chữ “lạc” đứng một mình, mà chỉ có chữ kép: “LẠC ĐÀNG: Lạc mất đường. Chém lạc: Chém trật. Đi lạc: đi lạc. Chim lạc: chim lạc, và cũng nói về các thú vật khác...” (sic.) Chú ý là từ điển nầy không giải thích riêng chữ “lạc”, mà bắt đầu bằng chữ “Lạc đàng”. Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của, xuất bản ở Sài Gòn năm 1895 có chữ “lạc”, nhưng không có chữ “lạc” nào nói đến ý nghĩa là con chim hay con thú. Từ điển tiếng Việt do Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội khởi thảo, Imprimerie Trung Bắc Tân Văn ấn hành năm 1931, đưa ra năm ý nghĩa của chữ “lạc” (trang 290), nhưng không có ý nghĩa là chim hay thú. Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn 1951, có chữ “lạc”, nhưng cũng không có chữ “lạc” nào chỉ con chim hay con thú. Trong Việt ngữ chính tả tự vị của Lê Ngọc Trụ, Sài Gòn, Nxb. Thanh Tân năm 1959, trang 260, mục chữ “lạc”, nghĩa thứ 5, có ghi: “tên loại thú”. Sau đó trong Việt Nam từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1970, cũng không đề cập ý nghĩa “lạc” là chim hay thú. Tại Hà Nội, Từ điển tiếng Việt, in lần thứ ba, năm 1991, do Văn Tân chủ biên cùng 12 tác giả hợp soạn (trong đó, ngoài Văn Tân, có những tác giả nổi tiếng như Trần Văn Giáp, Hoa Bằng...), cũng không có chữ “lạc” nào có nghĩa là thú hay chim. Trong các sách trên đây, chỉ có từ điển của Alexandre de Rhodes viết “Chim lạc: chim lạc, và cũng nói về các thú khác”, và từ điển của Lê Ngọc Trụ ghi “lạc” là “tên loại thú”. Còn các từ điển khác thì không đề cập đến chim lạc hay “lạc” là “tên loài thú”. Từ điển của A. de Rhodes và của Lê Ngọc Trụ đều không xác định được chim lạc là chim gì, mà còn dẫn người ta đến chỗ “lạc” là một loại thú. Ngay cả ông Văn Tân, trước đây rất hùng biện về hình dạng chim “lạc”, nhưng nay trong bộ Từ điển tiếng Việt do chính ông chủ biên và xuất bản nhiều lần tại Hà Nội, lại không có chữ nào nói về con chim “lạc”. Cuối cùng, đi tìm trong truyện cổ tích Việt Nam, trong truyện thần thoại Việt Nam (Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái), trong truyện dân gian đồng quê Việt Nam, trong ca dao, trong tục ngữ Việt Nam, hoàn toàn không có dấu vết con chim lạc. Như thế con chim “lạc” theo sự phỏng đoán của những nhà nghiên cứu trên đây, cũng không khác gì con rồng trong truyền thuyết, vì chẳng có ai thấy con rồng, và trong thực tế không có con rồng. Đã không biết chim lạc là chim gì, thì làm sao có thể đoán được hình chim trên trống đồng là chim lạc? Ngoài ra, nếu chim lạc là vật tổ, là loại chim quan trọng, thì hình chim lạc phải nằm ở vị trí trang trọng nhất trên mặt trống đồng, đó là vị trí trung tâm. Đàng nầy, hình chim trên các trống đồng Lạc Việt không nằm ở vị trí trung tâm, mà nằm ở vòng ngoài cùng; cũng không phải chỉ có một hình chim trên mỗi trồng đồng, mà có rất nhiều hình chim (vừa bay vừa đậu) chạy vòng tròn quanh mặt trống, có thể xem là những hoa văn trang trí chung quanh mặt trống mà thôi. Nền văn minh nông nghiệp ở Việt Nam từ thuở ban đầu cho đến thế kỷ 19, rất ít thay đổi nếu không muốn nói là không thay đổi. Kỹ thuật cày cấy theo đúng câu phương châm “xưa bày nay làm”, vẫn là con người kéo cày, hoặc “con trâu đi trước cái cày theo sau”. Do đó, nếu con chim lạc là một loại hậu điểu và là vật tổ của nông dân cổ Việt, tại sao vật tổ nầy hoàn toàn không có vết tích gì được ghi lại trong tín ngưỡng vật linh, trong truyền thuyết dân gian, trong chuyện cổ tích, trong sách vở, trong ngôn ngữ và ngay cả trong phong tục hay đời sống hằng ngày của nhà nông Việt Nam? Người Việt gọi cá ông (cá voi), ông ba mươi (con cọp), nhưng tuyệt nhiên không có ai nói gì đến chim lạc hay hậu điểu. 3.- “LẠC” LÀ MỘT TỪ NGỮ PHIÊN ÂM Vào thế kỷ thứ 18, học giả Lê Quí Đôn (1726-1784) trong sách Vân đài loại ngữ, khi nghiên cứu về cổ sử, đã đưa ra nhận xét: "...Tôi xét đời Hùng Vương, trên nối đời Hồng Bàng, không có chữ nghĩa gì truyền lại; về 15 bộ đặt ra thời đó, cùng với các quận huyện do nhà Hán, nhà Ngô [Trung Hoa] mới đặt ra, tên gọi lẫn lộn; tôi ngờ rằng những tên đó do các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được..."(7) Những “hậu nho” nầy chẳng những là “hậu nho” Việt, mà cả những “hậu nho” Trung Hoa nữa. Việc “các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được” bắt nguồn từ hai lý do: Thứ nhất, trước khi Triệu Đà áp đặt nền đô hộ ở cổ Việt năm 198 TCN (quý mão), những danh từ riêng như tên đất, tên người đều là tiếng bản địa cổ Việt. Khi đến đô hộ cổ Việt, người Trung Hoa phiên âm các danh từ nầy, rồi viết lại, nghĩa là người Trung Hoa dùng những chữ Hán có âm giống tiếng cổ Việt, ghi lại địa danh và nhân danh. Chắc chắn chữ “Lạc Việt” cũng nằm trong trường hợp đó. Thứ hai, tuy Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán (mậu tuất), giành độc lập vĩnh viễn cho người Việt năm 938 (mậu tuất), nhưng mãi đến thế kỷ thứ 13, nước Việt mới có bộ chính sử đầu tiên là Đại Việt sử ký do Lê Văn Hưu (1230-1322) soạn xong năm 1272 dưới đời vua Trần Thánh Tông (trị vì 1258-1278). Ghi nhận điểm nầy để lưu ý rằng trước đó nước Việt chưa có sách sử. Các sử gia từ Lê Văn Hưu trở về sau, muốn viết lại lịch sử nước nhà từ thời cổ đại, đều phải dựa vào sử liệu Trung Hoa, đồng thời dựa thêm những truyền thuyết, chuyện cổ tích, chuyện truyền kỳ, mới có thể viết được. Vì vậy, Lê Quý Đôn mới viết “tên gọi lẫn lộn; tôi ngờ rằng những tên đó do các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được..." Trong sách Việt Nam thời khai sinh, sử gia Nguyễn Phương trích dịch một bài báo của Claude Madrolle nhan đề “Le Tonkin ancien” đăng trên Tập san Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient), theo đó Claude Madrolle cho rằng chữ “Lạc” trong “Lạc Việt” là một chữ phiên âm. Claude Madrolle viết: “Tiếng đã quá quen biết với chúng ta đó, các sách Trung Hoa dùng để chỉ vị vua và các tướng cùng dân ở Bắc Kỳ, nghĩa là dân Annamites, và chúng ta cũng dùng hùa theo như vậy. Tuy nhiên trong cảnh xưng hô chung đó, có một chỗ chúng tôi cho là không được ổn đó là vì tiếng phiên âm “lo” cũng gặp được tiếng “Hok-lo, tổ tiên của dân Hải Hậu... Sự trùng hợp đó làm sáng tỏ công trình nghiên cứu của chúng tôi. Thực ra người Lạc ở châu thổ không phải là dân Annamites, nhưng là dân Hok-lo của nước Việt, gọi là Hải Hậu...”(8) Sau Claude Madrolle, tác giả Hoàng Văn Chí, trong sách Duy văn sử quan, cũng chủ trương rằng chữ “lạc” là một chữ phiên âm. Ông cho biết người Trung Hoa đã phiên âm chữ “lạc” với nhiều cách khác nhau, tức với nhiều “bộ” khác nhau, nhưng theo ông “bất cứ chữ Lạc nào [trong chữ Hoa], viết với bất cứ “bộ” nào, với nghĩa là con lạc đà, con chim biển, hay một con thú bốn chân nào đó, cũng đều vô nghĩa. Và đã không có nghĩa, mà viết lung tung, “bộ nọ, bộ kia”, thì chúng ta phải ngờ đây là những chữ người Tàu đã dùng để phiên âm một tiếng nào đó của người địa phương, của tổ tiên chúng ta.”(9) Thông thường, một chữ phiên âm thì phải đọc cho đúng âm của chữ đó. Sau khi đọc cho đúng âm, lại cần phải tìm hiểu ý nghĩa của chữ đó trong tiếng gốc trước khi được phiên âm, và trong trường hợp nầy là tiếng cổ Việt, thì mới hiểu được chữ đó. Chữ Lạc viết bằng chữ Trung Hoa. Người Trung Hoa chỉ dùng âm của chữ nầy để chỉ chủng người ở cổ Việt. Vậy phải đọc theo âm Trung Hoa mới đúng, chứ không phải đọc theo âm Hoa (Hán) Việt. Chữ “Lạc” đọc theo âm Hán Việt của người Việt là “lạc”, còn đọc theo âm của người Trung Hoa là “lo, ló, lô”. Ví dụ Lạc Dương, kinh đô Trung Hoa thời nhà Châu được phiên âm theo chữ Latin là Loyang. Rõ ràng âm “Lo” là Lạc. Về việc phát âm chữ nầy, ông Hoàng Văn Chí viết rõ hơn: “Ngay cả cái lò để nung, người Tàu gọi là lò, chúng ta cũng bắt chước gọi là lò, mà chữ Lò của Tàu, bây giờ tiếng Hán Việt cũng là Lạc. Tóm lại, những chữ mà người Tàu đọc là ló, hay lò, bây giờ chúng ta đọc là lạc hết thảy. Vì người Tàu chỉ dùng chữ Lạc để phiên âm tiếng Ló của người Giao Chỉ, nên về sau, họ viết bất cứ chữ Lạc nào, Lạc là con lạc đà, Lạc là chim biển cũng được, vì bất cứ chữ Lạc nào, viết với bất cứ “bộ” nào, họ cũng đọc là Ló tất.”(9) Tiếp đó, nếu đọc là “lo, ló, lô”, thì phải tìm hiểu ý nghĩa những chữ nầy trong tiếng Việt cổ. Còn nếu chúng ta nhất định đọc theo âm Hán Việt là “lạc”, rồi tìm hiểu nghĩa theo chữ Trung Hoa, thì chúng ta sẽ bị lạc hướng. Ví dụ tên nước Canada được người Trung Hoa đọc theo tiếng “Phổ thông” là “Cá nả tà(i)”, rồi phiên âm qua chữ Trung Hoa. Người Việt đọc chữ Trung Hoa đó theo âm Hoa (Hán) Việt là Gia Nã Đại. Tên của thủ đô nước Hoa Kỳ là Washington. Người Trung Hoa đọc là “Hỏa shỉn tơn”, rồi phiên âm qua chữ Trung Hoa. Người Việt đọc chữ Trung Hoa đó theo âm Hoa Việt là Hoa Thạnh Đốn. Không lẽ một lúc nào đó, người Việt giải thích rằng “Gia” là..., hoặc “Hoa” là... Giải thích “Hoa” là cái bông hoa hay là cái gì đi nữa, dù là có nghiên cứu thiên kinh vạn quyển về chữ “hoa”, về các loại hoa, cũng đều hoàn toàn vô nghĩa, vì đã sai từ căn bản, do chữ “hoa” thật sự chỉ là một tiếng phiên âm. Trường hợp chữ “Lạc Việt” cũng thế. Chữ “lạc” là tiếng phiên âm một từ ngữ của người bản địa cổ Việt. Dầu có nghiên cứu thiên kinh vạn quyển về chữ “lạc” trong sách Trung Hoa, trong các bộ từ điển như Khang Hy, Từ hải, Từ nguyên, và dầu các bộ từ điển nầy đã căn cứ trên những cổ thư danh tiếng của Trung Hoa,(10) thì đó là ý nghĩa chữ “lạc” trong tiếng Trung Hoa phát âm theo lối Hán Việt, chứ không phải là chữ phiên âm từ tiếng của người bản địa cổ Việt.(11) 4.- “LẠC” LÀ LÚA GẠO Chữ “lạc” đọc theo âm Hán Việt là “lạc”, nhưng đọc theo âm tiếng Hoa là “lo, ló, hay lô...” Như vậy, cách tốt nhất nên tìm nghĩa của chữ có âm “lo, ló, lô” trong tiếng cổ Việt là gì? Xin hãy bắt đầu bằng tục ngữ, là những lời nói bình dân phổ thông có vần điệu của mọi người. Tại miền Quảng Bình, phía bắc Trung phần, có câu tục ngữ: “Cơm mô [đâu] cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà”. Chữ “ló” trong câu nầy có nghĩa là “lúa”, vì từ Thừa Thiên ra đến Nghệ An, dân chúng nông thôn đều hiểu và nói thường ngày chữ “ló”, nghĩa là lúa. Ngoài ra, ai cũng biết người miền núi và cao nguyên Việt Nam đều trồng một loại lúa gạo gọi là lúa lốc. Chữ “lốc” cũng là một lối đọc từ chữ “ló” mà ra. Gần đây, xuất hiện hai bộ từ điển tiếng Việt là Từ điển đồng nguyên (viết trên CD) của ông Nguyễn Hy Vọng, và Từ điển tiếng Huế của ông Bùi Minh Đức (California: Nxb. Tâm An, 2001, tr. 271), đều viết rằng “ló” có nghĩa là “lúa gạo”. Theo tác giả bộ Từ điển đồng nguyên, từ ngữ nầy hiện vẫn được dùng ở một số sắc tộc miền núi nước ta như người Mường, người Bờ-ru (Brou), người Mon..., và nhiều sắc dân Đông nam Á. Có hai chi tiết đáng chú ý trong câu viết của sách Thủy kinh chú, khi trích dẫn Giao Châu ngoại vực ký: “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu. Đa vi Lạc tướng...” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu. Có nhiều Lạc tướng...) Chi tiết thứ nhất là “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm.). Tùy thủy triều lên xuống mà cày cầy, thì rõ ràng ruộng Lạc là loại ruộng lúa nước, nghĩa là lúa gạo chứ không phải lúa mì hay lúa mạch ở ruộng khô. Theo Phan Khoang, “từ đời Tây Châu [1186-771 TCN] trở về trước, người Hoa chỉ chiếm lưu vực sông Hoàng Hà...”(12) Điều nầy rất dễ nhận thấy nếu chịu khó mở bất cứ một bản đồ nào về nhân chủng và dân số Trung Hoa qua các thời đại trong các sách Anh ngữ viết về Trung Hoa cổ đại trong các thư viện Bắc Mỹ. Người Trung Hoa cổ đại sống ở thung lủng sông Hoàng (Hoàng Hà), trồng (lúa) mì, (lúa) mạch và kê ở ruộng khô, chưa biết lúa gạo ở ruộng nước. Một nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho biết: “Thuật trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (nguyên văn: “The arts of cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from the despised races of the remote south.” Cũng nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức Khổng Tử (13) “sống chủ yếu bằng loại bánh làm bằng kê” (nguyên văn: “...Confucius have subsisted chiefly on millet cakes...”), và “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và chắc chắn rằng Vương Xung, sáu thế kỷ sau, cũng thế.” (nguyên văn: “...Cofucius never tasted tea, and it is doubtful that Wang Ch'ung, six centuries later, did either....”(14) Trà là loại giải khát cũng phát xuất từ miền nam. Càng ngày càng có nhiều kết quả khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng trung tâm đầu tiên trên thế giới của nền văn minh lúa nước là Đông nam Á, rồi từ đó lan truyền đi khắp nơi trên thế giới. Cũng theo các tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á chính là khu vực Hòa Bình ở Bắc Việt. (15) Hòa Bình nằm trong khu vực uốn khúc sông Đà để đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ, Vĩnh Phúc), quận Giao Chỉ thời cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng. “Theo một tư liệu được coi như tiếng nói chính thức của giới nghiên cứu sử học Trung Quốc, quyển An Outline History Of China, do nhà xuất bản Ngoại văn ở Bắc Kinh ấn hành, trong khoảng giữa năm 1973 đến 1978, các nhà khảo cổ đã khai quật được một số lượng rất lớn các di chỉ lúa gạo, xương và các lưỡi mai bằng gỗ đã hóa thạch dùng trong việc trồng lúa ở làng Hemudu, thuộc huyện Yuyao, tỉnh Zhejiang; niên đại các di chỉ này cách nay 7.000 năm.”(16) Tỉnh Zhejiang (phiên âm theo Pinyin), còn được viết là Chekiang (phiên âm theo Wade-Giles) tức là tỉnh Triết Giang hay Chiết Giang (phiên âm Hoa Việt) bên Trung Hoa, nằm ở phía đông nam sông Dương Tử, phía trên tỉnh Phúc Kiến. Cách nay 7,000 năm có nghĩa là 5,000 TCN, lãnh thổ tỉnh Zhejiang tức Triết Giang hay Chiết Giang chưa thuộc về Trung Hoa. Tài liệu nầy càng cho thấy rõ việc trồng lúa ở Trung Hoa phát xuất từ phía nam mà đi lên. Người Trung Hoa gọi những người ở phía nam sông Dương Tử là Bách Việt, trong đó Zhejiang tức Triết Giang hay Chiết Giang là nơi cư ngụ của nhóm người Đông Việt. Đông Việt thuộc chủng Việt, chứ không phải là người Hoa (Hán), và ai cũng biết các chủng người Việt ở phía nam sông Dương Tử trong nhóm Bách Việt, có nhiều liên hệ với nhau vào thời cổ đại. Bằng chứng của mối liên hệ nầy là ngày nay, nhiều người địa phương từ tỉnh Triết Giang xuống phía nam, sử dụng một số từ ngữ rất giống tiếng Việt và không có trong tiếng Trung Hoa, vì chính họ cũng gốc từ nhóm Bách Việt, trong đó có Lạc Việt.(17) Hiện nay, vấn đề chủng tộc “Việt” (Yueh) là một vấn đề chính trị rất nhạy cảm ở các tỉnh đông nam Trung Hoa và cả Đài Loan nữa. Chi tiết thứ hai trong câu văn của Thủy kinh chú lập lại ý của Giao Châu ngoại vực ký là: “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền... Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu. Đa vi Lạc tướng...” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc... Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu. Có nhiều Lạc tướng...) Trong câu nầy, chữ “lạc” bắt đầu từ “lạc điền”, sau đó được lặp lại nhiều lần, “lạc dân, lạc vương, lạc hầu, lạc tướng”; tất cả đều bắt đầu bằng chữ “lạc”. Nếu hiểu chữ “lạc” là lúa nước tức lúa gạo, thì chữ “Lạc điền” nghĩa là “ruộng lạc”, tức là ruộng lúa nước, hữu lý hơn là chữ “lạc” là chim, vì nếu “Lạc điền” là “ruộng chim lạc”, thì ý nghĩa không được chính xác. Có thể có người cho rằng “Lạc điền” là ruộng “người Lạc” thì cũng không đúng, vì trong trình tự câu văn nầy, rõ ràng bắt đầu từ “lạc điền” (ruộng ló tức ruộng lúa gạo). Sau đó tác giả Giao Châu ngoại vực ký mới định danh rằng “Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng...” (Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc tướng...) Hơn nữa, theo ông Hoàng Văn Chí, không ai nói “Hán điền” (ruộng Trung Hoa) hay “Pháp điền” (ruộng Pháp) nên không thể nói “Lạc điền” là ruộng của “người Lạc”.(18) Cuối cùng tất cả những “Lạc dân”, “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng” sống bằng “lạc điền” được gọi chung là Lạc Việt, tức là sắc dân Việt cày cấy ruộng lúa gạo để sinh sống, nhắm phân biệt với các sắc dân Việt khác trong nhóm Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử như Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Đông Việt ở Chiết Giang... Sắc dân Lạc Việt được nhắc nhiều đến trong sách Hậu Hán thư của Phạm Việp (Fan Yeh, 398-446), nhất là từ giai đoạn Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống Tô Định (Su Ting) năm 40 (canh tý) và Mã Viện cầm quân tấn công Hai Bà Trưng năm 41 (tân sửu), xâm lăng Lạc Việt. 5.- CHIM GÌ TRÊN TRỐNG ĐỒNG? Nếu nói rằng chữ “lạc” không phải là chim lạc, và chữ “lạc” là “lo, ló, lô”, tức lúa gạo, “lạc điền” là ruộng lúa gạo, “Lạc Việt” là người Việt sống bằng ruộng lúa gạo, thì một câu hỏi mới cần được đặt ra là hình chim trên trống đồng là loại chim gì? Để trả lời câu hỏi nầy, trước hết chúng ta nên đặt thêm một câu hỏi phụ là ở Việt Nam, từ xưa tới nay, loại chim nào là loại chim sống gần với ruộng lúa nước, với nhà nông và với nghề nông nhất? Trả lời câu hỏi phụ nầy là có thể trả lời luôn câu hỏi về hình chim trên trống đồng Lạc Việt, tức trống đồng của những người Việt sống nhờ “lạc điền”, trồng lúa nước tức lúa gạo. Trên các cánh đồng lúa Việt Nam, có các loại chim thông thường sau đây: chim sẻ, chim mía, chim sâu, chim ột rột hay rột rột (một loại chim có tổ rất đẹp), chim sáo, chim cu đất, chim cu cườm, chim cò, chim hạc... Trong số các loại chim nầy, chim cò và chim hạc, hai loại chim hơi giống nhau, với mỏ dài, cổ dài, cánh dài xem ra có vẻ giống với các hình chim được vẽ trên trống đồng hơn các loại chim khác. Trên trống đồng, ngoài hình chim, còn có nhiều hình khác nữa trong đó có hình người, có thể là những vũ công, hoặc có thể là những chiến sĩ đang nhảy múa. Những người nầy trang điểm bằng những lông chim dài trên đầu. Trong số các loài chim trên đồng ruộng Việt Nam, chim cò có lông dài, có thể dùng để trang điểm, đeo lên đầu, như hình người trên các trống đồng Lạc Việt. Sau đây là hình chim bay khắc trên trống đồng Ngọc Lũ được vẽ lại, khá giống với hình ảnh trong câu tục ngữ “Cò bay thẳng cánh” mà thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy trên đồng ruộng Việt Nam. (19) Ngoài hình vẽ chim bay trên đây, trên các trống đồng Lạc Việt còn có hình vẽ chim đậu trên cành cây. Xin hãy tiếp tục quan sát: (19) Qua hình nầy, có thể có hai câu hỏi được đặt ra: Thứ nhất hình dạng cổ của con chim. Có thể có ba cách suy đoán hình dạng nầy: 1) Đây có thể là cái bìu dài nơi cổ. Nếu là cái bìu dài ở cổ, thì đây phải chăng là chim bồ nông, một loại chim săn cá? Chim bồ nông cũng là một loại chim có mặt trên đồng ruộng Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam chim bồ nông không phổ thông như chim cò, có nhiều nơi hoàn toàn không có bồ nông, trong khi chim cò tràn đầy khắp nơi, từ bắc chí nam, từ bình nguyên lên cao nguyên, nơi nào có hồ ao, ruộng lúa là có chim cò. 2) Đây cũng có thể là chim cò đang ngậm miếng mồi, vì sau khi bắt được mồi, chim đậu lên cành để nghỉ. 3) Đây có thể là chim cò, và bộ lông chim ở cổ chim bị gió thổi hất tung ra ra. Thứ hai, tại sao có những chiếc lông bờm dài trên đầu hình chim? Có người trả lời rằng đây không phải là những lông bờm trên đầu cò, nhưng nếu thường sống ở nông thôn Việt Nam, thì có thể thấy được hình ảnh nầy: trong những ngày lộng gió, gió thổi làm cho lông đầu của cò xửng lên khá giống tấm hình nầy. Có thể người xưa chú trọng đến việc trang điểm bằng lông chim nên vẽ lông chim cò theo mô thức mà họ thích. Phải chăng bộ lông dài trên đầu xửng lên là nét độc đáo của cò, nên sở Bưu Điện Hoa Kỳ ghi lại hình ảnh nầy trên tem thư (stamp) phát hành năm 2003? Đây là hình loại “snowy egret”, một trong những loại cò sống từ miền nam Hoa Kỳ xuống tới Chile và Argentina. Lông chim dài, trắng như tuyết, rất đẹp; dân chúng thích săn bắt loại cò nầy để lấy lông làm đồ trang điểm, nên hiện nay chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh cấm săn bắt loại chim nầy để bảo vệ chim khỏi bị tuyệt chủng. Chim cò hiện diện trên khắp lãnh thổ Việt Nam, ở miền bình nguyên cũng như trên các cao nguyên. Cò chuyên bắt cá, tôm, tép, cua, ếch, nhái trên các ao hồ, sông ngòi và nhất là trên các cánh đồng lúa nước. Cò gắn liền với đời sống nông nghiệp, bàng bạc trong ca dao tục ngữ Việt Nam. Cò có chân dài, bước trên ruộng nước lúp xúp để kiếm mồi, mỏ dài để thò xuống nước bắt mồi, và cò dễ kiếm mồi ở những ruộng nước đục (đục nước béo cò). Đôi khi cò giẫm hư lúa của nhà nông. Vì vậy ca dao có câu: “Cái cò cái vạc cái nông, Sao mày giẫm lúa nhà ông hởi cò? Không không tôi đứng trên bờ Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi...” Bất cứ khi nào ra đồng cày cấy, nhà nông cũng gặp ngay con cò, dù sáng sớm hay xế chiều, kể cả phải kiếm ăn ban đêm: “Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...” Vào những ngày đẹp trời, cò bay lượn thong thả rất đẹp, được ghi lại trong một bài ca: “Con cò bay lã bay la, Bay qua ruộng lúa, bay về đồng xanh...” Thân cò mảnh khảnh, lại rất siêng năng, kiếm sống suốt ngày, không khác gì người phụ nữ Việt Nam, cần cù làm việc trên các cánh đồng để nuôi nấng gia đình, thay cho chồng lên đường theo phận sự nam nhi: “Thân cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Nàng về nuôi cái cùng con, Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng...” Câu ca dao nầy đưa chúng ta liên tưởng đến hình ảnh bà Trần Tế Xương, một phụ nữ Việt Nam tiêu biểu, do chính chồng bà ghi lại: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng mười mưa, dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.(20) Tất cả những câu ca dao, tục ngữ, bản nhạc, bài thơ trên đây cho thấy tâm tình của người dân Việt Nam nói chung, và đặc biệt nông dân Việt Nam nói riêng, rất gần gũi với chim cò. Như thế chắc chắn vào thuở bình minh của lịch sử dân tộc, người Lạc Việt cũng tiếp cận thân thiết với con cò trong khi cày cấy đồng ruộng mà theo Giao Châu ngoại vực ký là loại ruộng nước. Loại ruộng nước rất thích hợp với đời sống con cò. Ngày ngày, người nông dân thuở sơ khai gặp gỡ thường xuyên con cò đi kiếm ăn trên những cánh đồng lúa nước, nên hình ảnh của con cò gắn liền với đời sống của họ, thấm đậm trong tâm tư tình cảm của họ. Vì vậy, có thể người Lạc Việt đã ghi lại hình ảnh con cò trên các trống đồng của mình. Nói cách khác, hình chim trên trống đồng Lạc Việt có thể là những con cò trên đồng lúa cổ Việt, và chủng loại cò đó tồn tại mãi cho đến ngày nay ở Việt Nam. Khi giải thích chữ “Lạc Việt” và hình chim trên trống đồng Lạc Việt, những nhà nghiên cứu từ Đào Duy Anh đến Nguyễn Phương chỉ chú trọng đến những bộ từ điển có tính cách hàn lâm Nho học của Trung Hoa, mà không nhìn lại những bộ từ điển Việt Nam như Annamiticum-Lusitanum, et Latinum (năm 1651) của linh mục Alexandre de Rhodes, Đại Nam quấc âm tự vị (năm 1895) của Huình Tịnh Paulus Của, hay Từ điển tiếng Việt (năm 1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội, là những bộ từ điển đã được ấn hành trước thời các ông. Ngoài ra, còn có một bộ từ điển khổng lồ mà ai cũng có thể tra cứu. Đó là đời sống của nông dân Việt Nam trong cảnh quan thiên nhiên, với những sinh thực vật thân thiết chung quanh. Đó là những ruộng lúa trên khắp các nẻo đường đất nước, cùng với những động vật sống theo đồng ruộng, sống nhờ đồng ruộng. Trong thực tế, những đồng ruộng đó đã nuôi sống dân tộc chúng ta từ thuở khai sinh, và cũng nuôi sống luôn một số động vật khác, trong đó con cò rất gần gũi thân thiết với nhà nông, nhưng vì quá bình dân và quá quen thuộc, nên không được các học giả chú ý. Con cò là đề tài của ca dao tục ngữ, của thơ văn, âm nhạc, thế thì tại sao con cò không thể là đề tài của điêu khắc và hội họa? Nền điêu khắc và hội họa nầy rất xưa, thật là xưa. Đó là những hình vẽ trên trống đồng Lạc Việt, xuất hiện cách đây trên 2,000 năm. Để kết luận, xin lưu ý trở lại rằng tất cả những hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt đều là hình “câm”. Những ý kiến đưa ra chung quanh các hình ảnh trên trống đồng, kể cả bài viết nầy, chỉ là những phỏng đoán, những giả thuyết, chứ không phải là những kết luận. Giả thuyết có thể đúng, có thể sai. Giả thuyết nào hợp lý sẽ đứng vững. Hy vọng sẽ có thêm những thảo luận về vấn đề nầy để càng ngày càng làm sáng tỏ hơn nữa lịch sử thuở khai sinh của dân tộc Việt. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 21-12-2005) CHÚ THÍCH 1. Nguyễn Phương trích dịch, Việt Nam thời khai sinh, Huế: Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại học Huế, 1965, tt. 137-138. 2. Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho],Huế: Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam,Viện Đại học Huế, phiên âm và dịch nghĩa, 1961, tr. 39. 3. Trong sách Việt Nam thời khai sinh, sử gia Nguyễn Phương cho rằng tổ tiên của người Việt thuộc chủng Mông-cổ (Mongoloiid), nhưng ông không giải thích vì sao người Việt nói tiếng Việt chứ không nói tiếng Trung Hoa. Trong khi đó, càng ngày càng có nhiều tài liệu cho thấy người Việt là hợp chủng của người bản địa cổ Việt (Malayo-Polinesian hay Indonesian) với người Mông-cổ đến sau, mà trong đó yếu tố bản địa có tính cách chủ yếu. 4. Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam [xuất bản lần đầu năm 1955], Hà Nội: Nxb. Văn Hóa Thông Tin [tái bản], 2002, tr. 38. Theo lời nói đầu trong sách, Đào Duy Anh cho biết ông soạn sách nầy từ năm 1949 ở Thanh Hóa, nơi tìm ra được nhiều trống đồng. 5. Nguyễn Phương, sđd. tr. 136. 6. Trống đồng Ngọc Lũ: phát hiện năm 1893, nguyên vẹn trong lòng đất ở xã Như Trác, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đường kính 79 cm, cao 63 cm. Bề mặt: Mặt trời 14 tia, 3 vành hoa văn: 1 vành cảnh sinh hoạt, 1 vành 20 hươu đi và 14 chim bay, 1 vành 18 chim bay xen kẽ 18 chim đứng. Tang: Hoa văn hình thuyền, lưng hoa văn người múa. (Hình vẽ lại, trích từ Phạm Huy Thông (Chairman of Editorial Board), Dong Son Drums in Viet Nam, Hà Nội: The Vietnam Social Science Publishing House, 1990, tr. 5.) [Theo ghi chú của Nxb., sách in ở Nhật Bản.] 7. Lê Quí Đôn, Vân đài loại ngữ, Hoa Kỳ: bd. của Phạm Vũ và Lê Hiền, Tự Lực [tái bản], không đề năm ấn hành, tr. 167. 8. Nguyễn Phương trích dịch, sđd. tt. 132-133. (Về số báo, Nguyễn Phương ghi là BEFEO XL) 9. Hoàng Văn Chí, Duy văn sử quan, Nxb. Cành Nam, Hoa Kỳ, 1990, tt. 78 và 79. 10. Các từ điển Khang Hy, Từ hải, Từ nguyên được soạn từ thế kỷ 17, 18 trở đi ở Bắc Kinh (Trung Hoa), và căn cứ trên những bộ cổ thư Trung Hoa, nên có tính Trung Hoa hơn là cổ Việt hoặc Đại Việt. Những bộ cổ thư đó đại để như Tứ thư, Ngũ kinh, Đạo đức kinh, Nam hoa kinh, Mặc tử, Liệt tử, Sử ký (Tư Mã Thiên), Chiến quốc sách, Ngô Việt xuân thu, Hán thư (Ban Cố), Hậu Hán thư (Phạm Việp), Hoài Nam tử, Quốc ngữ, Thuyết văn, Nhĩ nhã, Quảng nhĩ nhã... 11. Từ vấn đề nầy, có lẽ nên mở rộng việc nghiên cứu thêm một số tên của những nhân vật nổi tiếng như Trưng Trắc, Triệu Thị Trinh... 12. Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, Đại Nam tái bản không đề năm, tr. 1. 13. Khổng Tử (551-478 TCN): người tỉnh Sơn Đông (Shandong hay Shantung) vùng hạ lưu Hoàng Hà và ở phía bắc sông Dương Tử. 14. Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, tt. 16, 37, 38. Wang Ch'ung tức Vương Xung (27-97), triết gia thời Đông Hán (25-220) là tác giả nhiều sách lý luận về triết học, trong đó quan trọng nhất là bộ Luận hoành (Lun Heng, 30 quyển). Hoành là cái cân, nghĩa rộng là cân nhắc, so sánh. 15. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86. 16. Nguyễn Đức Cung, “Chung quanh vấn đề Lạc Việt”, tạp chí Đất Mẹ, Houston, số 119, tháng 10-2005, tr. 50, trích dẫn sách của Yang Zhao, Fang Linggui, Gong Shuduo, Zhu Zhongyu, An outline history of China, Edited by Bai Shouyi, Foreign languages press, Beijing, 1982, tr. 39. 17. Theo lời kể của một số người Việt du lịch Trung Hoa, đã đến thăm các tỉnh từ Triết Giang xuống phía nam. 18. Hoàng Văn Chí, sđd. tr. 78. 19. Hình trích từ Nguyễn Khắc Ngữ: Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, Montréal: Tủ Sách Nghiên Cứu Sử Địa, 1981, tr. 49. 20. Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Quốc Gia giáo Dục, Sài Gòn, in lần thứ 8, 1962, tr. 179. Nguồn: http://www.nuocviet.org
  5. Bình Nguyên Lộc Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (Với hơn hai trăm biểu đối chiếu sơ về ngôn ngữ Việt-Mã và nhiều khám phá mới lạ về thượng cổ 5000 năm của dân tộc Việt Nam) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 Không có nền văn hóa nào tự thẹn, cũng không có nền văn hóa nào được phép khinh bỉ các nền văn hóa khác. Cũng như các sinh vật, các nhóm dân tộc đã trải qua nhiều giai đoạn tiến triển y hệt như nhau. Đôi khi chỉ nhờ những nguyên nhơn địa phương và ngẫu nhiên nó giúp vài dân tộc trội hẳn các dân tộc khác. Nhưng luôn luôn, ở tỷ độ lịch sử, những thành tích ấy, lớn hay nhỏ, dài hay ngắn hạn, không bao giờ ổn cố, và những nền văn minh tàn lụi, không còn làm sao mà đếm cho xiết nữa. Vậy, người ta đi đến cái quan niệm là có một sự đồng đẳng căn bản nào ban đầu, chung cho cả nhân loại, đó là cái thực thể hạ tầng của những chênh lệch phụ thuộc khác. Ở đây, cũng như ở các vấn đề khác, tự ty hoặc tự tôn mặc cảm đều không chính đáng. Bác sĩ P. HUARD Giáo sư Y khoa Hà Nội (Tiền chiến) (Les chemins du ralsonnement et de la logique en E.O.) Nguyên văn: Aucune culture ne doit avoir honte d’elle-méme, pas plus qu’elle ne saurait mépriser les autres. Comme les êtres vivants, les groupes ethniques ont passé par les mémes phases de développement. Souveni, ce sont des causes locales et fortuites qui ont permis à certains de dépasser franchement les autres. Presque toujours, à l’échelle historique, cette performance, plus ou moins réussie, ou plus on moins longue, ne s’est jamais definitivement stabilisée et on ne compte plus les civilisations mortes. On arive donc à la notion d’une certaine égalité de base, commune à tous les hommes, substrat sous-jacent à une foule d’inégalites. Le complexe d’infériorité, ici comme ailleurs, n’est done pas plus justifié que le complexe de supériorité. * Ngữ vựng riêng của sách này Về vài danh từ, mỗi sách mỗi dùng khác nhau, nên chúng tôi xin trình ra những danh từ của chúng tôi và đối chiếu với danh từ Pháp, Anh, Mỹ, Đức nếu cần, để khỏi gây ngộ nhận. Ấn học: Hindianisme Trung Hoa học: Sinologie Chủng tộc học: Anthropologie physique và Raciologie (thay cho danh từ Nhân chủng học dùng hồi tiền chiến). Dân tộc: Ethnologie, Ethnographie, Social anthropology, Cultural anthropology – Volkskunde (thay cho danh từ Nhân chủng học tiền chiến). Nhơn thể tính: Caractères anthropologiques Thị tộc: Clan Bộ lạc: Tribu Chỉ số sọ: Indice crânien Dung lượng sọ: Capacité crânienne Giả thiết: Conjecture Giả thuyết: Hypothèse T.K.: Trước Kitô kỷ nguyên S.K.: Sau Kitô kỷ nguyên. * Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Chương I Ba cuộc sa lầy tinh thần khoa học và ba chứng tích chủ lực Công trình khảo cứu về địa chất và tiền sử ở Việt Nam đã được các nhà khoa học Âu Mỹ làm xong. Về địa chất, những công trình ấy được ba nhà trí thức Việt Nam là quý vị Trần Kim Thạch, Lê Quang Sáng và Lê Thị Đính rút tỉa đại cương để soạn thành một quyển sách mà chắc không có quyển nào khác nữa thay cho, tuy quá sơ lược, và có nhiều điểm không đúng lắm, nhưng vẫn giúp người đọc có ý niệm tổng quát và đại khái về đất đai của nước Việt Nam từ thời Hồng hoang đến ngày nay. Đó là quyển Lịch sử thành lập đất Việt, phát hành đầu năm 1971. Đọc quyển sách ấy, ta thấy đất nước cổ hàng tỷ năm. Đất thì đã được biết đích xác, còn người? Lòng đất của ta xưa đã được biết rõ. Người xưa cũng được biết rõ không kém, nhưng nguồn gốc của tổ tiên ta thì lại chưa thể biết được, vì tổ tiên ta ở nơi khác mà đến (mà tổ tiên của dân tộc nào hiện nay cũng thế cả). Hơn thế, chưa từng có nhà bác học nào ráp nối được những cái sọ cổ và đồ vật cổ với sọ của ta và đồ vật của ta, để chỉ người cổ nào là tổ tiên của ta vì trong lòng đất có hàng chục thứ người cổ khác nhau. Muốn biết tổ tiên ta là ai thì chỉ có một phương pháp độc nhứt mà khoa học nhìn nhận, đó là đối chiếu các thứ sọ người cổ và sọ của ta hiện nay. Đó là công việc của sử gia chớ không phải của nhà khảo tiền sử, nên công việc khảo tiền sử đã xong, nhưng cũng chưa ai biết gì hết, vì không có sử gia nào làm cái công việc đối chiếu đó, bởi phải biết rằng đó là phương pháp độc nhứt rồi còn phải đo sọ của ta ngày nay nữa, hai yếu tố căn bản ấy, không được các sử gia kể đến. Sách này có tham vọng là sách chuyên môn, nhưng chúng tôi lại làm một công việc trái lẽ là phổ thông vài điểm về khoa chủng tộc học (Raciologie – Anthropologie physique). A. Chỉ có cái sọ mới giúp ta phân biệt chủng này với chủng khác. B. Cái sọ của các chủng, qua 7, 8 ngàn năm không hề thay đổi. C. Nếu có lai với chủng khác, mà lai một lần hay cứ lai đi lai lại mãi, khoa chủng tộc học cũng biết được vì hai yếu tố chủng tộc cứ tồn tại mãi trong những cái sọ ấy. Trong khi đó thì dưới lòng đất ta có 7, 8 loại sọ cổ khác chủng với nhau, mà sử gia lại không đo sọ để đối chiếu thì làm thế nào để biết tổ tiên ta là ai vào thời thượng cổ? Cả các nhà bác học Âu Mỹ làm việc cho ta hồi tiền chiến, cũng đã quên mất phương pháp đó, trừ một người độc nhứt là ông Madrolle, nhưng ông ấy chỉ mới đo bề cao, rồi kết luận ngay, mà chưa kịp đo sọ, hay tưởng rằng không cần đo sọ thì ta không rõ được. Ta đã tiếp tục công trình của Âu Mỹ đang làm dở dang, cả Bắc lẫn Nam đều có tiếp tục, nhưng ta vẫn bất kể cái căn bản khoa học đó, tức là ta đã đi tìm giờ Ngọ hồi 14 giờ (nói theo Pháp). Viết thượng cổ sử khác xa với viết sử. Viết sử chỉ cần sử liệu, còn viết thượng cổ sử thì lại cần rất nhiều khoa học khác mà không cần sử liệu, bởi làm gì mà có sử liệu vào thời cổ tổ tiên ta còn ăn lông ở lổ. Thế mà các sử gia Pháp Việt lại dùng sử liệu của một nước văn minh trước ta là sử Tàu. Kể ra thì cũng tạm được. Nhưng sử Tàu lại mù mờ, và chỉ có thể dùng được để kiểm soát lại coi nó có ăn khớp với các khoa học căn bản hay không mà thôi. Phương chi ta chỉ đọc tới Sử ký của Tư Mã Thiên đến ba ngàn năm, thì làm thế nào mà biết được sự thật. Chúng tôi làm việc lại, khác hơn tất cả mọi người, là dùng khoa khảo tiền sử và khoa chủng tộc học, mà là khoa khảo tiền sử đúng, chớ không phải là khảo tiền sử dở dang của Colani, Mansy, Golubew, Jansé, những vị ấy đã đưa các sử gia Pháp và ta đến những sai lầm không lối ra từ nửa thế kỷ nay. Ngày nay, trên thế giới không còn chủng tộc nào là thuần chủng nữa hết. Trên Cao nguyên của ta có những người Thượng mà ta cứ ngỡ là thuần chủng được, vì họ sống biệt lập bộ lạc này với bộ lạc khác, vậy mà họ vẫn bị lai giống đến ba bốn lần rồi. Xin lấy thí dụ người Bà Nàng Hơ Roy. Họ là người Bà Nàng, nhưng họ lại lai giống người Giarai. Những người lai giống ấy, lại lai giống một lần nữa với người Chàm. Thế là đã ba lần lai giống. Nhưng chưa chắc cái gốc Bà Na đã là gốc thuần của Bà Nàng, vì họ lại nói tiếng Cao Miên, chớ ít dùng ngôn ngữ riêng của họ là Mã Lai ngữ. Còn các thành kiến cho rằng chủng này tài giỏi hơn chủng khác cũng đã bị xô ngã từ lâu rồi. Như vậy trong thời đại ta, chỉ có vấn đề dân tộc mới là đáng kể, còn vấn đề chủng tộc, chỉ là chuyện phù phiếm. Tuy nhiên, sử học cứ tiếp tục tìm tòi về các chủng tộc, vì không sao phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác bằng các bằng chứng thật khoa học, thì đành phải ngược nguồn về tới chủng tộc vậy, vì chủng tộc thì phân biệt được, bằng một khoa học chính xác, mà ở đây, chúng tôi gọi là Chủng tộc học (Anthropologie physique), thay cho danh từ nhân chủng học mà nhiều vị giáo sư đại học cho là không đúng và muốn thay đổi như thế đó. Dân Việt Nam hơi giống dân Tàu chẳng hạn, mà họ có phải là người Tàu hay chăng, thì chỉ có chủng tộc học mới trả lời đích xác được. Ông H. Maspéro, một nhà bác học mà chúng tôi rất khâm phục, đã phất cờ đi trước hơn hết để về cái nguồn ấy, vào năm 1918. Nhưng vào năm đó, khoa khảo tiền sử và khoa chủng tộc học lại làm việc chưa xong ở Á châu, thành thử ông và bao nhiêu ông Tây, ông Tàu, ông Việt khác đều sa lầy, cho tới năm nay là năm 1970. Ông L. Anrousseau làm lại cái công việc đó năm 1923, nhưng vẫn cứ thất bại. Có thể hai nhà bác học ấy, thuở đó, chưa biết cái căn bản này cũng nên, là muốn phân biệt các chủng tộc thì chỉ có việc đo sọ mới cho biết rõ cái gì, nên quý vị ấy mới làm việc với chỉ độc một nguồn tài liệu là cổ sử Tàu. Năm 1923 thì ông Aurousseau đã bốn năm mươi tuổi rồi, bởi một người Pháp mà leo lên tới địa vị Giáo sư Hán văn cũng phải mất vài mươi năm học hỏi sau cái bằng Tú tài hoặc Cử nhân. Như vậy, quý vị đó thuộc vào trường phái thế kỷ XIX mà việc đo sọ là căn bản phân biệt chủng tộc, chưa được khoa học xác nhận một cách quả quyết vào thế kỷ XIX đó. Người Tàu, mãi cho đến nay, viết về nguồn gốc của chính họ, họ còn chưa biết sử dụng chủng tộc học, thì dùng sử Tàu cách đây hai ngàn năm, hẳn là không thể đi tới đâu hết. Những sai lầm của quý vị đó, mặc dầu là sai lầm, cũng cần được nhắc lại, để so sánh với sự thật trình bày trong sách này, có thế mới rõ trắng đen. Năm 1923, ông L. Aurousseau, giáo sư Hán văn, đã viết: “Lịch sử của nguồn gốc dân tộc Việt Nam, còn phải viết. Nếu những gì xảy ra sau cuộc chinh phục của Lộ Bác Đức vào năm 111 T.K. có thể dễ dàng sắp xếp, thì trái lại cho tới nay (1923) chưa có công trình nghiên cứu nào về những việc xảy ra trước đó, được thực hiện với tinh thần có tính cách phê phán (Aucun travail critique n’a été effectué). Và ông L. Aurousseau bắt đầu, ngay sau câu đó. Than ôi, chỉ là hoài công, bởi mặc dầu ông làm công việc ấy với tài liệu lạ của Trung Hoa mà các sử gia ta chưa đọc vào năm đó, nhưng có đủ đâu nào. Ông chỉ hơn các sử gia ta ở cái chỗ có nghĩ đến, và có làm việc cho thượng cổ sử Việt Nam, nhưng sự thành công rất ít vì mặc dầu chúng tôi khen các ông Tây đọc sử Tàu nhiều hơn ta nhưng quả thật họ vẫn đọc chưa đủ. Hơn thế, sử Tàu lại mơ hồ và xuôi ngược, rất khó dùng nó để tìm ra một sự thật chắc chắn. Nói về một nước kia, Sử ký của Tư Mã Thiên gọi là Âu Lạc, Hàn thư của Ban Cố gọi là Tây Âu, rồi ông H. Maspéro lại hiểu lầm chữ nho, tân tạo ra một danh xưng mới nữa là Tây Âu Lạc thì tưởng cũng khó biết đích xác cái nước đó tên thật là gì lắm thay, và nhứt là khó biết vị trí của nó lắm thay! Ông L. Aurousseau, chắc có ý ám chỉ ông H. Maspéro hơn là ám chỉ các sử gia ta là những người chưa khảo cứu gì cho thượng cổ sử Việt Nam cả vào năm đó, mà chỉ chép lại truyền thuyết dân gian mà thôi. Ông H. Maspéro đã bắt đầu từ năm 1918 nhưng xem ra thì cái tinh thần có tánh cách phê phán của ông L. Aurousseau lại kém hơn của ông H. Maspéro. Và chính ông L. Aurousseau lại đã làm cho rối nùi thêm những gì xảy ra sau năm 114 T.K. mà ông cho là dễ dàng sắp xếp. Sự thật thì đoạn sử sau Lô Bắc Đức vốn đã rối bòng bong rồi lại bị ông làm rối thêm cái nữa thì chẳng còn ai biết đường đâu mà mò nữa. Nhưng dầu sao ta cũng phải nhìn nhận rằng những ông H. Maspéro và L. Aurousseau đọc cổ sử Trung Hoa nhiều hơn và kỹ hơn các sử gia từ xưa đến thời của các ông và phải nhìn nhận rằng các ông có sáng kiến nghĩ đến công việc tìm nguồn quan trọng đó. Sử Tàu thiếu sót, mơ hồ và bí hiểm, lắm câu các ông Nghè của ta cũng không hiểu thì các ông Tây làm thế nào mà hiểu được. Thế nên cả hai ông Tây có công lớn là ông L. Aurousseau và ông H. Maspéro đều sa lầy trong cái đầm cổ sử Trung Hoa, không thoát được mà cũng không giúp chúng ta thoáng thấy được sự thật nào đáng kể. Cuộc sa lầy thứ nhì, xảy ra từ năm 1920, kể từ biến cố Đông Sơn, biến cố ấy lại là một vũng lầy thứ nhì nó làm cho các nhà bác học Âu Á mất đến 50 năm mà cũng chẳng biết được gì hết. Năm 1920, những cuộc phát kiến ngẫu nhiên của dân chúng ở Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa bỗng làm cho các nhà bác học Pháp chú ý đến. Ở đó có nhiều cổ vật lạ lùng bằng đồng thau, không giống của ta hay của Tàu gì hết. Mấy năm sau, vùng Đông Sơn được xem xét kỹ và từ năm 1925 đến năm 1970, nhiều cuộc khai quật kế tiếp nhau, ở các lưu vực những con sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Cả, sông Mã, sông Đà, sông Nhị, sông Đáy, đã cho giới khảo cứu thu lượm được vô số cổ vật bằng đồng pha. Nghiên cứu sơ khởi cổ mộ Đông Sơn, người ta thấy người chết có đồ tùy táng nhứt là trống bằng đồng thau khá rực rỡ. Đó là người thời xưa được chôn trước hai bà Trưng năm 32 năm, và cái thời xưa ấy, được định tuổi thật đích xác là 1915 tuổi, tính đến năm 1924. Tuy nhiên, vẫn chưa chắc lắm là người dưới mồ lại là người bổn xứ, theo khoa học thì phải dè dặt như vậy, bởi họ có thể là chiến sĩ của nước ngoài, thua trận chạy sang xứ ta rồi bỏ mình vì chết bịnh hay tử thương trễ muộn. Trong lần khai quật thứ nhì tìm được một sườn nhà bằng gỗ và tre đã hóa thạch. Nhà ấy có lối kiến trúc giống như hình nhà khắc nơi trống đồng. Bấy giờ thì đã chắc một trăm phần trăm là người có trống chôn theo, là đồng bào với người có nhà, nghĩa là tất cả đều là người bổn xứ. Y là người bổn xứ, vâng, nhưng cổ vật mà y có, y mua của nước nào, hay do chính y chế tạo? Người ta phân chất một mảnh đồng thau của cổ vật và thấy đó là một hợp kim đặc biệt, chắc chắn của bổn xứ, bởi nó khác hẳn hợp kim của Tàu hay của Ấn Độ, của Tây phương thời đó. Hợp kim đồng thau (bronze) của Tàu, đã được tả rõ trong cổ thư Chu Lễ, còn hợp kim của Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ cũng được tả rõ trong cổ thư của các dân tộc ấy, nhờ thế mà so sánh, đối chiếu được. Thế là đã rõ. Người ta vừa phát kiến được một trung tâm của một nền văn minh mới lạ. Trước đó một trăm năm, người ta đã tìm được trống ở nhiều nơi tại Đông Nam Á, kể cả ở Việt Nam nữa, nhưng người ta chưa hề biết chắc một trung tâm nào cả của nền văn minh đó, nó nằm trong một khu vực rộng lớn từ sông Dương Tử cho đến quần đảo Nam Dương, vì trống tìm thấy, nằm trên mặt đất, có thể ở nơi khác lưu lạc tới, lại không có những món khác như cổ tiền chẳng hạn để chứng minh tuổi và nguồn gốc của trống, nhứt là không có ngôi nhà cổ hóa thạch nói trên. Đông Sơn là trung tâm chắc chắn được phát kiến lần đầu, vì không phải chỉ có trống, mà có bao nhiêu vật khác nữa, đồng tánh cách, và vì đó là cổ vật không bị di chuyển bởi đó là đồ đào được trong cổ mộ, người ta biết chắc rằng nó vẫn nằm tại đó từ xưa đến nay, chớ không phải lượm được trên mặt đất, hay đào thấy nằm riêng rẽ một mình như bao nhiêu trống đã tìm thấy, mà nghĩ rằng nó lưu lạc, không thể biết chắc từ đâu trôi dạt đến nơi lượm được. Nhưng nguồn gốc của dân tộc Việt Nam làm thế nào mà nằm ở gần giai đoạn Đông Sơn được kia chớ, nếu quả người Đông Sơn là tổ tiên của ta (nhưng các nhà bác học Âu Mỹ chưa nhìn nhận, chỉ trừ có ông O. Jansé là nhìn nhận mà không chứng minh được). Đó là thời mà dân ấy đã có vua chúa, có Lạc Tướng, Lạc Hầu, đã biết kỹ thuật đồng pha, và giỏi nghệ thuật chế tạo đồ đồng pha, tức đã văn minh rồi. Nguồn gốc của dân tộc phải cổ hơn giai đoạn ấy hai ba ngàn năm, vào thời mà ta còn sống dưới kỹ thuật cựu thạch và tân thạch kia. Sự thật sơ đẳng ấy, không hiểu vì lý do nào mà cho đến cả các nhà bác học Âu Mỹ cũng không biết mà tất cả đều sa lầy tại đó, cứ cố tìm nguồn gốc dân tộc ta ở đó mà thôi, nó làm cho ta mất thì giờ đến nửa thế kỷ (1920-1970). Giáo sư Kim Định đã mắng bọn nghiên cứu Đông Sơn bằng một giọng tự thị: “Thế là giới tân học đã ùa theo mấy nhà khảo cổ, nghĩa là căn cứ trên mấy nắm xương của người Mã Lai Á, Anh Đô Nê-diêng đi nhận họ hàng dọc chủng tộc, lẫn hàng ngang văn hóa với mấy thổ dân này. Văn minh Mã Lai Á là cái chi, nó nói lên được những gì với tâm hồn người Việt? Nó giải nghĩa thế nào cả một khối văn chương bình dân…” Thấy rõ là giáo sư đại học Kim Định chưa học khoa khảo tiền sử về Á Đông mà chỉ học vụ Đông Sơn là một cuộc sa lầy, nên ông mới quả quyết rằng ta không phải là Mã Lai mà đích thị là Tàu. Theo giáo sư thì ta lập ra nền văn minh Tàu ở bên Tàu rồi bị người Tàu cướp đi nói là của họ. Ta văn minh lắm, chớ không kém như mấy thổ dân đó mà ông gọi là Mã Lai Á = Malaiaie (!) (Với danh xưng Mã Lai Á, thật không biết giáo sư muốn chỉ ai, vì Mã Lai là một chủng tộc rất lớn, còn Mã Lai Á là một quốc gia nhỏ xíu, hơn thế các nhà bác học nghiên cứu Đông Sơn cũng chẳng bao giờ thốt ra ba tiếng Mã Lai Á cả.) Còn chủng Mã Lai thì chính những nhà bác học đó phủ nhận rằng dân Việt Nam là hậu duệ của chủng Mã Lai Đông Sơn, không hiểu do đâu mà bao nhiêu trí thức ta đều cho rằng họ bảo rằng dân ta là Mã Lai. Đó là một bí mật mà chúng tôi tìm mãi mà không vỡ lẽ. Vậy xin mời giáo sư khoa khảo tiền sử đúng, chớ không phải sai như bọn học về Đông Sơn và ông sẽ thấy cái gì khác hơn ông tưởng tượng nhiều lắm. Ông sẽ thấy văn bình dân ta đầy dẫy tiếng Mã Lai mà ông không hiểu. Thí dụ: Tua Rua đã xế ngang đầu Em còn đứng đó làm giàu cho cha. Tua Rua là tiếng Mã Lai đó ông ạ. Ông không biết rằng thành ngữ “Tay chơn bộ hạ” của ta là thành ngữ Mã Lai, họ nói Tay cẳng bộ hạ đấy. Ông không biết: Bắc thang lên hỏi ông Trời Thang = Tangga (Mã Lai), và Trời cũng là tiếng Mã Lai mà cả Mã Lai và Phù Tang Nhựt Bổn cũng còn dùng hiện nay. Dưới đây là một câu 8 từ, gồm toàn từ Mã Lai: Hắn lấy ná (nỏ) bắn chim làm rụng lá Không có lấy một danh từ, động từ nào mà là danh từ, động từ của chủng Viêm, hay chủng Hoa trong đó hết. Toàn là tiếng Mã Lai. Và điều chắc chắn hơn hết là ông không biết Mã Lai chủng phát tích tại đâu, nên tưởng rằng nó phát tích tại Mã Lai Á (Malaisie) nên khuyên ta đứng tìm nguồn gốc dân tộc ở phương Nam. Nó đã tự xưng là Mã Lai cách đây ngàn năm tại Hoa Bắc và Ấn Độ, được Tàu phiên âm là Ló (Lạc) nhưng với bộ Mã, tức Mạ Ló, còn Aryen thì phiên âm là Mlechia. Ông bảo bọn cựu học quá tin vào truyền thuyết, còn tân học không tin gì cả. Ông sẽ thấy rằng bọn tân học tin toán học và về thượng cổ sử Việt Nam, họ sẽ viết đúng 2 + 2 = 4, y như toán học, chớ không ghép đủ thứ tài liệu hỗn loạn để mà đoán mò. Nhưng bọn nghiên cứu nền văn minh Đông Sơn bị ông mắng thật là đáng đời, đã bảo nguồn gốc của một dân tộc không làm sao mà nằm tại giai đoạn đồng pha được, mà phải nằm trước giai đoạn tân thạch lận kia. Hơn thế, đồ vật không cho ta biết đích xác được cái gì, mà chỉ có sự đối chiếu sọ của dân ta ngày nay với sọ của đủ thứ người cổ đào được ở Bắc Việt mới giúp ta biết được ta là hậu duệ của chủng nào mà các nhà bác học Âu Mỹ ở Đông Sơn lại không có ông nào nghĩ đến sự thật căn bản đó hết. Nói ông L. Aurousseau thuộc trường phái thế kỷ XIX, các nhà bác học Đông Sơn trẻ hơn, nhưng vẫn không hơn L. Aurousseau một gờ ram. * Biến cố Đông Sơn lại xô thiên hạ vào một cuộc sa lầy phụ thuộc mà chúng tôi tạm đặt tên là cuộc sa lầy II bis. Trước hết vì một danh từ bác học mà cả một số nhà bác học Âu Mỹ cũng không hiểu. Đó là danh xưng Indonésien. Nghiên cứu hình khắc ở các cổ vật đó, và kiến trúc của ngôi nhà đào được, biết rõ danh tánh của nó, người ta kết luận rằng người chết chôn dưới mồ thuộc một chủng tộc mà danh xưng khá bí hiểm đối với người Việt, danh xưng đó là danh xưng Indonésien. * Các nhà bác học vẫn tiếp tục gọi họ là người Anh Đô Nê-diêng, nền văn minh của họ là nền văn minh Đông Sơn, mặc dầu nhiều dân tộc khác cũng có cổ vật cùng tách cách, trong một địa bàn rất lớn ở Đông Nam Á, từ Hoa Nam, cho tới Nam Dương quần đảo. Nếu đó là duy vật Việt Nam đi chăng nữa thì nền văn minh đó không riêng gì là của Việt Nam. Vì đó là công việc khoa học, mà khoa học thì phải chính xác, mà một yếu tố chính xác là sự chính danh, thành thử các nhà bác học đó bắt buộc phải dùng một thuật ngữ qua chuyên môn là danh xưng Anh Đô Nê-diêng. Anh Đô Nê-diêng, một thuật ngữ của khoa chủng tộc học (raciologie) chỉ có nghĩa là Cổ Mã Lai, chớ không có gì lạ. Là nhà chuyên môn, các nhà bác học ấy phải dùng danh từ chuyên môn, mặc dầu đã có danh từ thường. Danh từ thường là Proto-Malais. (Quyển sách nhỏ này có tham vọng là sách chuyên môn.) Hình nhà khắc ở trống đồng Đông Sơn, nóc oằn, mái túm. Hình thuyền khắc ở binh đồng Đào Thịnh. Thuyền của người Mã Lai Nam Dương hiện kim. Hai đầu nóc nhà và hai đầu của hai thứ thuyền giống nhau. Nếp nhà hóa thạch đào được ở Đông Sơn, cổ gần hai ngàn năm, được ông V. Goloubew hồi phục lại theo tưởng tượng với vật liệu chưa mục nát. Mái nhà xuống tới sàn tre nên phải trổ cửa vách hồi. Ngói khác. Một nếp nhà của người Mã Lai sơn cước hiện kim ở Nam Dương, mái cũng xuống tới sàn và cửa cũng trổ vách hồi, cả ba nếp đều nóc oằn và mái túm. Nhưng chúng tôi dùng danh từ thường là Cổ Mã Lai, chứ không nói Anh Đô Nê-diêng là một danh từ mà đại đa số dân ta chưa quen). Danh xưng Anh Đô Nê-diêng được chúng tôi dịch ra là Cổ Mã Lai, chớ nhiều học giả khác còn dịch khác nữa, chẳng hạn ông Phạm Việt Châu dịch là Cựu Mã Lai, có ông khác lại dịch là Tiền Mã Lai. (Sau sẽ có thống nhứt, và Cổ hay Cựu, hay Tiền gì, còn tùy ở đa số nhà chuyên môn). Nhà của người Mã Lai hiện kim, tiến bộ hơn và mái không xuống tới sàn, nên trổ cửa dưới mái được. Nhà của người Mã Lai hiện kim, y như nhà số 7, cả hai đều còn nóc oằn, nhưng ở đây có thêm điểm mái cong quớt lên, chớ không túm lại. Một kiểu nhà tranh của Nhựt Bổn (gốc Mã Lai) nhưng nóc nhà mô chớ không thẳng. Mô là biến dạng của oằn, hễ không oằn thì mô, chớ không ưa thẳng. Kiểu cổng nhà điển hình của Nhựt Bổn (gốc Mã Lai) nhại theo nóc nhà oằn của chủng tộc. Tóm lại tánh cách Mã Lai thật rõ rệt nơi các cổ vật Đông Sơn. Danh xưng quá chuyên môn Indonésien, chẳng những làm rối trí người thường mà còn làm cho cả đến học giả lầm lẫn nữa. Nhưng chẳng những ta lầm lẫn về cái danh xưng ngây ngô nhận là danh xưng Indonésien, ta lại còn lầm lẫn về một danh xưng khác, không có gây ngộ nhận, đó là danh xưng Mélanésien. Thế nên những sách khảo cứu của ta rất xuôi ngược về mặt chủng tộc học. Ở cái điểm ấy, ta hiểu lầm người Âu châu, rồi ta lại hiểu lầm ta. Một vài học giả của ta lầm lẫn chủng Mã Lai với chủng Mê-la-nê-diêng (Mélanésien) chẳng hạn như sử gia Nguyễn Phương và học giả Lê Văn Siêu, có lẽ vì từ Mã Lai hơi giống từ Mê La về giọng đọc. Trong Việt Nam thời khai sinh, trang 46, sử gia họ Nguyễn viết: “Như thế chủ trương rằng giống Mê-la-nê đã từ miền biển du nhập vào vùng cổ Việt, không phải là không có lịch sử. Chẳng những họ đã từ đại dương tràn vào cổ Việt, mà còn tràn vào cả lục địa Trung Hoa nữa. Ngày nay sử sách Trung Quốc vẫn nói rằng “Mã Lai chủng” đã chiếm nước đó trước khi nòi giống Trung Hoa bắt đầu xuất hiện”. Câu trên đây cho thấy rõ rằng sử gia Nguyễn Phương hiểu rằng Mê-la-nê = Mã Lai chủng. Nhà học giả Lê Văn Siêu, trong Việt Nam văn minh sử cương, trang 17 viết: “Căn cứ vào những đồ đá trau để dấu vết ở Hòa Bình và Bắc Trung Việt, Lào, Thái Lan, Mã Lai, và những xương sọ người đào thấy ở hang động Hòa Bình và Bắc Sơn có nhiều triệu chứng đó là giống Úc châu và Mã Lai (Papou-Mélanésien), thì nhiều nhà bác học lại cho rằng giống dân ở hải đảo Mã Lai đã di cư lên đất liền”. Sự sai lầm, trong câu trên đây, không phải ở lời phỏng đoán của các nhà bác học được ám chỉ đến trong câu văn đó, mà là ở lối dịch: Papou Mélanésien = Úc Mã Lai Danh xưng Mê-la-nê-diêng gốc Hy Lạp, chỉ có thể dịch là hắc-nhân-đảo (Homme noir de iles), nhưng vì không đúng nên không ai dịch làm gì. Đó là dân thuộc chủng da đen hoàn toàn và tóc quăn quíu, còn chủng Indonésien tức Mã Lai không thuộc chủng da đen còn tóc thì dợn sóng chớ không quăn quíu. Về mặt chủng tộc học, Mélanésien chỉ có một nghĩa: đó là Mê-la-nê-diêng, không dịch ra tiếng Việt được, ngoài ra, không có nghĩa nào khác hơn, nhứt là không có nghĩa là Mã Lai bao giờ. Cũng cứ về mặt chủng tộc học thì Indonésien (Anh Đô Nê-diêng) cũng có một nghĩa duy nhứt: đó là Proto Malais, nên dịch là Cổ Mã Lai hơn là Tiền hay Cựu Mã Lai như đã có người dịch. Cổ, ở đây là có vóc dáng văn hóa thời kỳ đầu của một chủng tộc, chớ không phải là sống vào thời cổ, Tiền Mã không ổn, bởi chưa có Hậu thì không thể nói đến Tiền. Cựu có thể, không có Tân thì không nên nói đến Cựu. Một nhà chủng tộc học Mỹ cho biết rằng hiện nay những người mà ta gọi là Kim Mã Lai đều là người đã bị lai giống với các chủng khác hết cả rồi, mà có đến 70 nhóm bị lai giống khác nhau, lai Tàu, lai Ấn, lai da trắng, nhưng lai Tàu là phần đông. Người Kim Mã Lai thuần chủng chỉ có thể thấy được lần cuối cùng vào thế kỷ thứ 10 S.K. mà thôi. Nhưng những Mã Lai thuần chủng hiện còn sống sót, đang sống vào thời kỳ cổ, tức họ là Cổ Mã Lai (Indonésien) đấy. Tuy nhiên, theo riêng chúng tôi thì còn người Kim Mã Lai thật sự. Theo chúng tôi thì người Giarai ở Cao nguyên ta là Kim Mã Lai. Ngôn ngữ của họ rất thuần Mã Lai, họ có kết hôn với các dân tộc khác, nhưng cũng là Mã Lai với nhau cả, như Chàm chẳng hạn, chớ không phải là khác chủng. Và họ không sống theo Cổ Mã Lai vì họ đi lính cho Tây rất đông trước năm 1945, họ biết mặc Âu phục, biết địa lý, biết đó biết đây, chớ không phải chỉ biết có cái địa bàn nhỏ hẹp của họ, và tuy cứ giữ phong tục của họ, họ vẫn biết có nhiều dân khác có phong tục khác, tôn giáo khác, tóm lại họ không sống vào thời kỳ cổ sơ, mà vóc dáng của họ cũng không cổ sơ. Ta nhìn vào một anh địa phương quân ở Phú Bổn, ta cứ ngỡ anh ấy là người Việt Nam. Nhưng họ quá ít, nên không ai biết họ, trừ các nhà chủng tộc học có làm việc ở “Đông Pháp”, nên thế giới kể như không còn Kim Mã Lai. Nhưng Cổ Mã Lai thì lại còn nguyên vẹn ở khắp Đông Nam Á, trong núi rừng. Thật ra thì danh xưng Indonésien rắc rối này có hai nghĩa, một nghĩa thông thường, có ghi trong các từ điển ngôn ngữ: đó là dân của xứ Indonésien (Nam Dương quần đảo). Nhưng trong khoa chủng tộc học, nó lại mang nghĩa khác là Nê-Diêng là người “Mọi” trên Cao nguyên. Họ nói đúng, nhưng không rành mạch khiến ta ngộ nhận và giẫy nẩy lên, chối bây bẩy rằng tổ tiên ta là “Mọi”. Nhưng thử hỏi có tổ tiên của dân tộc nào lại không Trãi qua thời kỳ dã man, rồi thời kỳ kém cỏi hay không chớ? Các ông Tây đó là các ông Tây dốt khoa chủng tộc học, chẳng biết Indonésien là gì hết, nghe các ông Tây không dốt, nói người Thượng là Indonésiens, các ông bèn hiểu rằng Indonésiens = Mọi. Nhưng người Thượng, y hệt như người Jarai, là Kim Mã Lai đấy, vì họ đã tiến đến thời đại sắt, còn Cổ Mã Lai khi di cư đến Đông Nam Á chỉ mới tiến tới thời đại tân thạch thượng. Vậy các ông Tây không dốt vẫn ăn nói hàm hồ. Không phải hễ biết mặc Âu phục mới được gọi là Kim Mã Lai mà hễ bước sang thời đại sắt rồi thì phải được xem là Kim Mã Lai. Dụng cụ sắt của người Thượng, không phải là được chế tạo bằng sắt mà họ mua được của Ai Lao, Cao Miên hay Việt Nam đâu. Người Sơ Đăng tự lực đi tìm quặng sắt trong các núi của tỉnh Kontum rồi nấu thành sắt, rồi luyện sắt đó thành thép, một công việc mà chính người Việt Nam đã quên mất rồi vì ta đã quen mua sắt và thép trên thị trường thế giới từ một trăm năm nay. Nếu vì một lý do nào mà ta bị cô lập, không hiểu ta còn nhớ kỹ thuật nấu quặng nữa hay chăng? Nhưng người Sơ Đăng thì lại rất thạo kỹ thuật đó. Nhưng vì nông nghiệp của người Thượng còn ở giai đoạn hỏa canh và luân canh nên tạm gọi họ là Cổ Mã Lai cũng chẳng sao, nhưng xin đừng tưởng rằng Anh Đô Nê = Mọi. Cổ Mã Lai đã là tên của một chủng tộc rồi thì còn đặt tên nào khác cho họ nữa làm gì? Và Mọi là gì? Danh xưng Mọi hoàn toàn vô nghĩa về khoa chủng tộc học mà tưởng sách khoa học không được phép dùng. Trong ngôn ngữ Việt Nam, mi tương đương với Man di của Tàu, với Yuavana của Phạn ngữ, chỉ bất kỳ chủng nào mà còn kém mở mang đến mức chưa biết cất nhà. Như thế thì Papou, Négrito gì cũng là Mọi được hết, chớ không riêng chủng nào, còn riêng chủng Mã Lai thì bọn Cổ vẫn biết cất nhà. Người thường muốn dùng danh từ bậy bạ thế nào cũng được, chớ khoa học thì không. Khoa học phải gọi đúng tên chủng tộc, gọi đúng tên dân tộc. Như đã nói, các ông Tây không dốt khoa học, gọi người Thượng là Cổ Mã Lai, chớ không bao giờ gọi họ là Mọi. Nhưng khi họ gọi người Đông Sơn là Cổ Mã Lai thì không được ổn lắm. Theo Hậu Hán thư thì người Lạc Việt ở vùng Giao Chỉ làm ruộng đã giỏi có dư thóc bán cho Hợp Phố và Cửu Chơn. Thế nghĩa là họ đã biết cày, không còn làm hỏa canh và luân canh nữa thì họ là Kim Mã Lai đứt đi rồi. Người Thượng kia mà chúng tôi còn cho là Kim Mã Lai, huống hồ gì là người Lạc Việt Đông Sơn. Tuy nói thế chứ biên giới giữa Cổ và Kim cũng không có gì rõ rệt cho lắm. Hiện nay ở Phi Luật Tân có ba nhóm người mà khoa học rất bối rối, không biết sắp họ vào hạng Cổ hay Kim. Chính vì tình trạng hỏa canh và luân canh của họ. Đó là ba nhóm Igorotes, Ifugaos và Bontok mà ông O. Jansé cho là đồng bào của hai bà Trưng di cư sang, sau cuộc tàn sát của Mã Viện (nhưng ông O. Jansé dù có chuyên môn nhưng nói vô bằng chứng). Nhưng như đã nói, không có biên giới rõ rệt thì ta cứ tạm xem người Đông Sơn là Anh Đô Nê-diêng vậy, cho dứt khoát vấn đề, trong giai đoạn này cái đã, rồi sẽ hay. Cả hai nghĩa của danh xưng Indonésien đều sai về mặt khoa học. Thế mới chết! Trong danh xưng Anh Đô Nê-diêng nghĩa thứ nhứt, tức nghĩa thông thường, có ngữ căn Ấn Độ. Mà ngữ căn ấy sai. Ở xứ đó, không có người dân Ấn Độ nào hết, hay chỉ có leo heo như Sài Gòn vậy thôi, họ là Ấn kiều chớ không phải dân. Số là khi người Âu châu tới đó, thấy dân xứ ấy theo văn hóa Ấn Độ, họ bèn gọi gộp xứ ấy và nước Ấn Độ là “Những xứ Ấn Độ” (Les Indes). Về sau, biết rõ hơn, họ phân biệt xứ đó (Nam Dương) với Ấn Độ, nhưng vẫn cứ còn giữ ngữ căn Ấn Độ và gọi Nam Dương là Indonésien tức cứ còn vô lý hoài. Nhưng nếu chỉ có một nghĩa ấy mà thôi, thì có sai cũng chẳng sao. Phiền lắm là còn một nghĩa thứ nhì nó khiến cho cả một số học giả Âu châu cũng lầm vì cái ngữ căn Ấn Độ sai đó. Nghĩa thứ nhì, như đã nói, là Cổ Mã Lai. Người đặt danh xưng với cái nghĩa đầu, đã đặt sai như đã giải thích trên đây. Rồi nhà bác học nào đó, đã cho nó cái nghĩa thứ nhì mà giới bác học đã trót nhìn nhận, lại không mát tay chút nào hết. Đa số dân ở xứ Nam Dương thuộc chủng Mã Lai, trong đó có cả Cổ Mã Lai và Kim Mã Lai. Khi muốn tìm một danh xưng chỉ các nhóm Cổ Mã Lai thì nhà bác học khuyết danh ấy nghĩ ngay đến cái xứ mà họ gọi sai là Indonésie, và cho danh xưng Indonésien cái nghĩa là Cổ Mã Lai. Ông ấy đã từ một danh xưng sai, tạo ra một thuật ngữ chuyên môn sai. Đành rằng khó lòng mà khi đặt ra danh từ mới, một nhà khoa học không nghĩ đến cái gì, trường hợp đặt tên đâu thì họ nghĩ đến tên xứ đó. Ở đây hẳn ông đó đã nghĩ đến xứ Indonésie, ở đó có rất đông dân Cổ Mã Lai. Nhưng đó là một ý nghĩ phất phơ, không có tánh cách đồng hóa xứ và dân, và nếu ông ấy giàu tưởng tượng, ông ấy đã thấy rằng người ta sẽ ngộ nhận bởi ở Việt Nam cũng có Cổ Mã Lai, ở Cao Miên, ở Thái Lan, Miến Điện, Trung Hoa cũng thế thì ông ấy nên tránh cho người ta sự ngộ nhận có thể xảy ra, không nên dùng danh xưng sai có sẵn đó với một nghĩa thứ nhì nữa, nghĩa thứ nhứt vốn đã sai rồi. Nhưng cái nghĩa khoa học của danh xưng Indonésien đã trót có từ lâu, đã được trước bạ khắp thế giới khoa học thì ta cũng đành phải hiểu đúng như giới khoa học đã hiểu, không mong sửa lại được, phương chi những người lầm, không phải vì muốn sửa đổi, mà chỉ lầm bởi ngộ nhận thôi. Giáo sư Lê Văn Hảo lại có một định nghĩa khác, không biết vì ngộ nhận hay vì muốn dịch khác đi. Nhưng ta nên xem như là giáo sư không có ngộ nhận, chỉ dịch khác mà thôi. Trong quyển Hành trình vào dân tộc học giáo sư Lê Văn Hảo viết: “Chủng Anh Đô Nê-diêng là chủng tộc Ấn Độ Nam Dương”, ý giáo sư muốn nói đó là dân bổn xứ của quần đảo Nam Dương, hay Ấn Độ nào ở đó? Sự thật thì chẳng hề có dân Ấn Độ ở đó bao giờ, còn dân bổn xứ ở đó mà thuộc hạng cổ, thì ở đâu cũng có cả, không riêng gì ở đó. Lại còn một sự lầm lẫn rối bòng bong nữa, do Anh ngữ tạo ra. Trong Anh ngữ có hai danh xưng Indonésia và Indonésian. Indonésia là tên nước, cái nước Nam Dương ngày nay. Còn Indonésian mới là tên chủng tộc tương đương với danh xưng Indonésien của Pháp. Sử gia Phạm Văn Sơn đã lầm lẫn hai danh xưng đó, nó chỉ khác nhau có một chữ n sau cùng. Trong Việt sử tân biên, ở trang 54, sử gia Phạm Văn Sơn có viết: “Một số trí thức Việt Nam cũng thắc mắc rằng người Việt ta nay chưa chắc đã là một nhóm trong gia đình Bách Việt. Nếu chúng tôi không lầm, các vị đó đã chịu ảnh hưởng của ý kiến do cô M. Colani, H. Mansuy, Patte, Par mentier, cùng một số học giả Thụy Điển, Hòa Lan, chủ trương rằng thánh tổ cơ bản của dân tộc Việt Nam chính là thánh tổ “Indonésia”. Ý sử gia muốn nói: “Thánh tổ Indonésian” đấy vì sử gia đang nói đến chủng tộc chớ không hề nói đến xứ nào hết, mà các ông Tây bà đầm mà sử gia ám chỉ đến cũng chỉ nói đến chủng Indonésian mà không hề nói đến xứ Indonésia, vì đã bảo người Cổ Mã Lai có mặt khắp nơi chớ không riêng gì ở nước Indonésia. Đó là nói về sự lầm lẫn danh xưng chớ “bên trong còn lắm điều hay”, vì: - Indonésian – Bách Việt đó, chớ không phải là hai thứ khác nhau đâu. Đó là nội dung của quyển sách này với hàng trăm chứng tích cụ thể và khoa học. Kể cả một số nhà học giả Âu châu cũng chẳng biết Indonésian là gì, nên họ mới lập ra cái thuyết dân Hoa Nam tràn xuống lưu vực Hồng Hà và đồng hóa dân Indonésian ở đó, rồi biến thành dân Việt Nam. Thuyết này được ông Hoàng Trọng Miên (V.N.V.H.T.T.) lặp lại. Người Hoa Nam thuở xưa đích thị là Cổ Mã Lai, như chúng tôi sẽ chứng minh ở những chương sau, và khi dân ở lưu vực Hồng Hà cũng là Cổ Mã Lai thì không thể có sự kiện nhóm Mã Lai này “đồng hóa” nhóm Mã Lai khác. Hơn thế, khoa khảo tiền sử đã cho thấy rằng người Indonésien ở lưu vực Hồng Hà chỉ mới tới đó từ sau, chớ không phải là dân thổ trước nằm sẵn đó để đợi dân Hoa Nam tới để mà bị “đồng hóa”. Nhà bác học G. Cocdès nguyên Viện trưởng Viện Viễn Đông bác cổ cũng thấy nhiều nhà học gia Âu Mỹ dốt, nên ông đã nhiều lần nói khéo cho họ biết rằng Indonésien là Cổ Mã Lai, đừng có hiểu bậy bạ mà làm rối ren vấn đề. Nhưng ông G. Cocdès rất khiêm tốn, ăn nói rất kín đáo, chớ không hò hét vô lễ như chúng tôi. Sở dĩ chúng tôi có thái độ vô lễ là vì phải hò hét như vậy thiên hạ mới hết ngộ nhận chớ nói thầm như ông G. Cocdès thì các nhà bác học Âu Mỹ cứ tiếp tục ăn nói hồ đồ hỗn độn rối trí người đọc, chẳng ai hiểu gì cả. Chúng tôi sẽ bị mắng, bị ghét, nhưng chúng tôi tự hy sinh, cốt làm ổn định một tình trạng loạn xà ngầu. Nhưng ông G. Cocdès đã biết Indonésien rồi, đã chỉnh thiên hạ rồi, vẫn không biết sự thật lịch sử vì rồi ông viết: “Dân Việt Nam tràn đến, đuổi dân Anh Đô Nê-diêng lên Cao nguyên”. Ấy, họ là ai, ở đâu tràn đến hở ông G. Cocdès? Nói như sử gia Nguyễn Phương mà còn nghe được: Người Tàu tràn đến, đuổi người Indonésien đi mất, chớ nói như ông thì bí mật quá. Dân Việt Nam thuộc chủng nào mà đuổi Cổ Mã Lai đi? Ngữ căn Anh-đô này còn gây ngộ nhận ở nhiều nơi khác, rất là buồn cười. Thuở xưa ông Kít Tốp Cô Long đi tìm Ấn Độ về ngã hướng Tây. Ông gặp Châu Mỹ với dân thổ trước ở đó và ông ngỡ đã gặp dân Ấn Độ, nên ông đặt tên họ là Indien. Báo hại mấy trăm năm sau, khi Âu Châu biết Ấn Độ thật sự rồi thì phải bày ra danh xưng thứ nhì là Hindou để chỉ người Ấn Độ. Họ đã lầm, nhưng rồi đã xoay xở để không gây ngộ nhận. Indien = Thổ dân Mỹ Châu Hindou = Ấn Độ Thế mà cho đến năm nay, các sách dịch của ta về Mỹ Châu cứ tiếp tục dịch Indien là Ấn Độ, khiến học trò phải điên đầu, tự hỏi tại sao mà ở Châu Mỹ lại có dân Ấn Độ? Chưa bao giờ mà một ngữ căn lại gây ngộ nhận nhiều đến thế, sâu rộng đến thế, và sự ngộ nhận lao vào cả giới văn nghệ và bác học nữa, tức lan vào toàn khối trí thức ta. Các nhà bác học Âu Mỹ, tuy nói thế chứ không phải ông nào cũng dốt. Và họ dùng danh xưng bí hiểm không cố ý. Nó chỉ bí hiểm với người không chuyên môn, chớ các nhà bác học thế giới thì hiểu rất đúng. Tại ta không thông ngoại ngữ đó thôi. Nguồn: Bách Bộc xuất bản. Giấy phép xuất bản số 3650/BTT/PHNT ngày 2/8/1971. Nguồn: http://www.phamthihoai.org
  6. Lăng Văn Vương Triệu Mạt Quốc Vinh, BBCVietnamese.com Đây là lăng của Triệu Mạt, cháu nội của Triệu Đà. Lăng tình cờ được phát hiện năm 1983 khi xe xúc đất va vào một bức tường đá trong khi đào đất để cất một trung tâm thương mãi tại khu vực nầy ở Quảng Châu. Nhân vật Triệu Đà và nước Nam Việt là những sự kiện quen thuộc trong lịch sử Việt Nam. Nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/inpictures/story/2006/12/061227_nanyuetomb.shtml
  7. DCVOnline – Nguồn gốc dân tộc là một đề tài khoa học, phức tạp và còn nhiều tranh cãi. Điển hình là cuộc thảo luận trực truyến ở Diễn đàn Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh miền Nam nước CHND Trung Hoa (Quảng Đông và Quảng Tây) và xa gần liên hệ đến nguồn gốc người Việt Nam. Cuộc tranh luận có hai nhóm rõ rệt. Một là nhóm người Trung Hoa, đa số là ở lục địa và nhóm thứ hai, đa số là người Việt hải ngoại - kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa. Mời bạn đọc muốn tham khảo thêm ghé thăm trang đọc thêm Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa và đọc bài của tác giả Lê Đỗ Huy, “Ai là tổ tiên của cư dân Lưỡng Quảng?”, Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33 đăng lại trên talawas và có thêm chú thích. Trong bài này tác giả Lê Đỗ Huy tường thuật về một nhận định chung của c hai nhóm và những nhà nghiên cứu nước ngoài là: Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN. Nhận định này khác với ý kiến sau đây của tác giả Nam Phan: “Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam và người Trung Quốc Hoa Bắc (thuộc Hán tộc thuần chủng) lại khác nhau hoàn toàn. Và sự khác nhau này cũng đã được DNA di truyền học hiện đại xác định.” (trích : www.dcvonline.net) Mời ACE tham khảo tại: Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (Còn tiếp_
  8. Trích: Những ý kiến xung quanh bài viết của tác giả Nam Phan Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2) 2008-02-12 01:10:02 Tâm Việt For Reference only. Liên hệ người Nùng với chủng tộc Đông Nam Á Người Choang [www.gio-o.com] Triều đại nhà Tần (năm 221-206 trước Dương Lịch) đã tiến vào vùng này, đặt tên vùng là Lĩnh Nam (Ling-nan) và đã giao tranh trong một loạt các cuộc chiến với các người dân địa phương. Những chiến dịch không mấy thành công này đã là bước khởi đầu của sự bành trướng kéo dài của Trung Hoa vào trong khu vực. Nhà Tần đã cho đào kinh Li [Lí?] tại Xing-an, nối liền các hệ thống sông ngòi miền nam với miền trung.(13) Mặc dù sự kiểm soát của Trung Hoa xem ra chỉ vươn không xa hơn trung tâm có tường thành bao quanh nhằm phục vụ cho việc xây dựng con kinh Li tại Xing-an (14), vùng Lĩnh Nam kể từ đó có thể được tiếp cận từ phía bắc và phía nam, và được ràng buộc với chính Trung Hoa. Nguồn: http://www.dcvonline.net (Còn tiếp) Trong thời kỳ suy sụp của nhà Tần, khu vực trở thành nước độc lập dưới quyền của một người Hoa gốc Hán, Zhao Tuo [có kèm chữ Hán, để chỉ Triệu Đà, chú của người dịch], tự xưng là “Võ Vương của nước Nam Viêt.”(15) Zhao Tuo kiểm soát vùng Lĩnh Nam, và mở rộng nó bằng việc sáp nhập các lãnh địa của Trung Hoa nơi phía Bắc và đất đai của Việt Nam về phía Nam.(16) Vương quốc của ông ta bị tái chinh phục bởi Nhà Hán (206 Trước Dương Lịch – 220 sau Dương Lịch) trong năm 111 trước Dương Lịch. ............... Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2) 2008-02-12 10:44:52 Nhất Đăng Cám ơn tác gỉa. Tôi rất thú vị được đọc những đề tài này. Không có ý kiến vì tất cả chưa có gì là khẳng định, ngay các học gỉa cũng chỉ thấy một vài dấu vết rồi suy đoán. Tôi mong có ngày tổ tiên của mình sẽ được nói một cách khẳng định như các tổ tiên của Châu Âu hay chí ít, giống của Tàu. Tuy là chính Tàu bây giờ cũng được tìm thấy là văn hoá Tàu do nhiều chủng tộc tạo nên (trong đó có chủng Việt, vì vậy mà thầy Kim Định nhắc nhở Nho (không phải Tống Nho mà là nho nguyên thuỷ) bắt nguồn từ văn hoá Việt). Biết đâu chừng. Gỉa thuyết nào cũng có thể thành sự thật cả. Về Chủng Tộc, người thượng là VN chính gốc. Về chính trị, lại khác! 2008-02-12 11:22:12 Đào Công Khai Xét về chủng tộc, người "Việt Nam" đúng nghĩa nhất chính là đồng bào THƯỢNG hiện nay. Còn chúng ta, đa số là lai Tàu, lai từ chủng tộc đến văn hóa và chính trị! Bách Việt xuất phát từ bên Tàu, vùng lưu vực sông Dương Tử, và là những bộ lạc kém văn minh hơn Trung Quốc nên bị Trung Quốc đánh đuổi về phương Nam và đồng hóa dần. Dân Lưỡng Quảng bên Tàu đa số là nguồn gốc Bách Việt. Vài thế kỷ trước công nguyên, còn nhóm Âu Việt và Lạc Việt sống ở Bắc Việt cũng bị Triệu Đà sang chiếm rồi đồng hóa nốt và lập thành quốc gia Nam Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số bộ lạc của Bách Việt không sống như người kinh, họ chạy lên rừng sống du mục và thoát khỏi sự đồng hóa của Trung Quốc cho đến ngày nay. Người "VN" chúng ta gọi họ là người Thượng. Dưới thời Triệu Đà thì người VN cũng còn nhiều sắc thái riêng, nhưng đến thời Bắc Thuộc, do chính sách đồng hóa của người Hán nên người kinh đã dần dần sống theo phong tục Tàu, họ quên dần những tập quán cũ thời bộ lạc của họ. Họ sống tập trung ở đồng bằng dưới sự kiểm soát của nhà Hán. Có nhiều người lấy chồng Tàu, sau nhiều đời như thế dân VN bị đồng hóa. Trong giai đoạn Bắc Thuộc, quan lại Tàu vẫn thường lấy gái VN, di dân bên Tàu sang VN làm ăn rồi định cư luôn ở VN tạo thành một khối chính trị hỗ trợ cho sự cai trị của Tàu. Cũng nhiều di dân là những kẻ tội phạm, tù vượt ngục, ... giang hồ; họ sang VN rồi cùng với quan lại Tàu được cử sang cai trị bên VN nổi dậy chống lại triều đình Trung Quốc để tự trị ở nước Âu Lạc. Cho nên việt sử mới có những anh hùng như Lý Bôn, Triệu Quang Phục... toàn là người Tàu cả. Nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là của người VN chính cống, vì người VN truyền thống theo mẫu hệ. Đến khi bị Tàu đồng hóa thì dân VN mới theo phụ hệ như người Tàu. Dưới thời Bắc Thuộc, vì có những người kinh bon chen lấy Tàu, làm việc cho Tàu, nịnh bợ quan Tàu, buôn bán làm ăn với người Tàu, theo phong tục, tập quán và nghề nghiệp của Tàu càng ngày càng nhiều; dần dân đa số người kinh là theo phong tục đó, họ học tiếng Hán để tiến thân trong xã hội, biết dùng trâu để cày ruộng, rồi họ thấy mình văn minh và giầu có hơn người thượng, chính họ lại là những người viết sử nữa, cho nên họ khinh rẻ xa lánh người thượng. Họ coi người thượng như không phải là người VN, nhưng chính họ mới là kẻ bị Tàu đồng hóa và người thượng mới chính là người VN chính gốc của giòng Bách Việt! Chính những người Tàu ở VN nhiều đời, họ cũng tưởng họ không phải gốc Tàu nữa; tập hợp những điều trên lại (cộng thêm sự độc lập về chính trị, tôi sẽ nói sau) thành người VN ngày nay! Re: Về Chủng Tộc, người thượng là VN chính gốc. Về chính trị, lại khác! 2008-02-12 11:33:15 Nhất Đăng Nói chính xác là người Mường. Trên vùng cao có nhiều dân tộc lắm. Chỉ người Mường là một chi của Việt tách ra thời Hai Bà Trưng. Vì vậy, người ta đã tìm thấy loại chữ nòng nọc ở đây. Và người ta nghĩ đó là chữ cổ Việt. Những ông thầy có tên bằng chữ Hán Việt như phần (1) thì nên nghi ngờ là đã bị Hán hoá vì trước khi Tàu đô hộ dân ta không thể có tên bằng Hán Việt như vậy. Cũng giống như tên 18 đời Hùng Vương là tên Hán Việt. Có nên nghi nghờ chút nào không ? Việt Sử ngày nay được viết bởi thế hệ sau, dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn 2008-02-12 12:00:42 Đào Công Khai Toàn bộ việt sử chúng ta học được viết dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn. Sử xưa của VN đã bị quân Minh sang chiếm và mang về Kim Lăng đốt hết rồi. Nhiều pho sử rất quý của VN như Vạn Kiếp Bí Truyền và Binh Thư Yếu Lược của Đức Trần Hưng Đạo đã bị đốt thời đó! Các sử gia nhà Hậu Lê và Nguyễn cũng phải đọc sử Tàu để viết sử ta, còn nhiều phần xưa hơn thì họ phải dựa vào dã sử, thần thoại, truyền thuyết. Cho nên mới có chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, cái Nỏ Thần, Phù Đổng Thiên Vương... Tất cả đó là chuyện sạo, nhưng nó dựa vào phong tục tập quán nước ta. Cũng như chuyện bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng thì làm sao tin được; nhưng nó cũng lý giải cho ta thấy Bách Việt (100 bộ lạc VN) chính là nguồn gốc của dân tộc VN! Re: Việt Sử ngày nay được viết bởi thế hệ sau, dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn 2008-02-13 05:27:02 Lại Mạnh Cường Thưa qúi bạn, *** Theo nhận xét cá nhân tôi thấy bạn Đào Công Khai trình bày lại những gì chúng ta đã được học từ ngày xưa, cách nay đã nhiều thập niên qua (có thể trên dưới thế kỷ theo sự võ đoán của tôi tính là từ lúc các nhà khoa học gia phương Tây theo chân thực dân Pháp vào VN). Chính những nhà học giả phương Tây đã đặt nền móng cho những nghiên cứu khoa học về các sắc tộc ở VN. Trong thế kỷ 20 ta thấy có nhà bác học Yersin, hoc trò cưng của Louis Pasteur và R. Koch - người tìm ra vi trùng Lao, đã có những nghiên cứu vê người Thượng ở Tây Nguyên; giáo sự cợ thể học Pierre Huard đóng góp nhiều về ngành nhân chủng học (giào sư thạc sĩ YK Trần Anh vốn là đô đệ ông Huard sau này là giáo sư môn nhân chủng học ở đại học Văn Khoa Sài Gòn cho đến khi bị VC ám sát chết vào sau tết 1970). Trước đó các nhà khoa học khác, thưòng là các giáo sĩ (dòng Tên Jessuit) đóng góp rất nhiều cho các công trình khảo cứu các sắc dân như Chàm ở miền Trung hay các sắc tộc thiểu số khác ở miền Bắc. *** Trong những thập niên gần đây có nhiều tiến bộ vượt bực trong ngành khảo cổ học, dân tộc học, cũng như về di truyền học qua sự nghiên cứu rất thâm sâu về cấu trúc DNA (kể từ thời hai ông bác học người Anh Watson và Creek hồi thập niên 50 nghĩ ra mô hình hai dải xoắn ốc helice nối kết vói nhau bằng cầu nối dưa trên căn bản của hình như bốn chất thì phải). Đã có những khám phá mới về nguồn gốc con người và các sắc tộc trên thế giới. Bể học mênh mông, xem qua rồi chỉ nhớ loàng thoáng, vì không thuộc chuyên môn của mình, nên không dám làm bàn. Dù sao con người thời đại mới đã được giải phóng rất nhiều về nhũng ràng buộc bởi những cơ cấu xã hội vô lý ngày xưa, như giáo hội hay các cấm kỵ trong kinh sách v.v.... Con người tự do bay bổng, nên dám đặt các dầu hỏi trong mọi lãnh vực, mà ko sợ coi là phạm thượng hay báng bổ thần thánh ! Chính những phim khoa học giả tưởng về thời cổ đại hay thời băng tuyết (ice tide) ... ngày một nhiều thêm và thật hấp dẫn, như về thế giới các loài khủng long (Jurassic Park năm 1993 của đạo diễn Steven Spielberg chẵng hạn) làm hấp dận người xem, kích thích trí tò mò của mọi người muốn truy nguyên về thời cổ xưa khi con người chưa xuất hiện hay đang còn ăn lông ở lỗ ! *** Dân tộc nào cũng có xây dựng ít nhiều huyền thoại về mình. Chẵng đâu xa dân Nhật tự cho mình là con cháu của Thái dương thần nữ chẵng hạn. Đọc Việt sử thời thượng cổ ta thấy ngay sự vô lý về đời các vua Hùng tính ra ông vua nào cũng sống trên trăm năm !??? Còn ông Bàn Cổ là thuỷ tố của Tàu cũng sống dai hơn điả , hahahaaaa :-) ! Những huyền sự thực là những truyện truyến khẩu, dựa vào đời sống dân gian lúc đó pha trộn thêm phong tuc tập quán, nói khác đi cái văn minh văn hoá dân mình vào cho đậm đà hương vị thần bí linh thiêng ! Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc 2008-02-12 11:48:11 Đào Công Khai Không phải chỉ có mình Bách Việt bị đồng hóa bởi người Tàu, vô số các chủng tộc thiểu số khác ở Trung Quốc và chung quanh đã bị Tàu đồng hóa đứt bóng luôn. Họ bị đồng hóa không còn tông tích gì nữa; trái lại VN chỉ bị Tàu đồng hóa về chủng tộc thôi, còn về chính trị thì VN vẫn còn giữ được độc lập cho đến ngày ngay. Nói về chính trị của VN thì nó hoàn toàn khác biệt với vấn đề chủng tộc của VN. Chủng tộc VN có thể bị lai Tàu, nhưng chính trị có lúc bị lai Tàu, rồi có lúc VN hoàn toàn độc lập và điều đó còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Cho nên khi nói tới người VN trên phương diện một nước độc lập thì phải hiểu nghĩa nó nó bao gồm đủ mọi sắc tộc thiểu số trong đó. Nói chung là Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc khác nhau họp lại. Gồm người Thượng, người Tàu và tất cả mọi nhóm di dân từ Mã Lai, Ấn Độ sang. Người Mỹ họ cũng đâu phải chủng tộc là Mỹ. Chủng tộc Mỹ đã bị chính người Mỹ giết hết, chỉ còn vài bộ lạc mọi da đỏ ngày nay. Người Mỹ cũng toàn là người Anh, Pháp, Tây Ban Nha, ... di cư sang đây đánh nhau rồi lập thành nước Mỹ. Họ khác là vì họ mới đánh giết người mọi da đỏ xong, cách đây nửa thế kỷ. Còn VN thì người Tàu họ đã giết người VN dài dài từ hơn 20 thế kỷ qua. Cho đến bây giờ thì người Mỹ cũng như người VN, đều lấy dân mọi da đỏ và dân Bách Việt làm nền tảng cho dân tộc mỗi nơi. Nhưng đa số nguồn gốc dân tộc thì là người Âu Châu (ở Mỹ) và người Tàu (ở VN). Bởi thế nên tất cả mọi thứ chúng ta đều giống Tàu, chỉ có ngôn ngữ mơi được thằng Tây nó xây dựng cho bộ chữ La Tinh để viết, nếu không thì VN cũng vẫn xài chữ hán trong chính quyền mà thôi. Nhưng khác biệt giữa người VN và Tàu đó là ý thức độc lập. Ý thức độc lập về chính trị, nên dân Bách Việt và những người Tàu ở vùng Lưỡng Quảng và Bắc Việt đã hợp tác với nhau thành lập nước Nam Việt để chống lại sự bành trướng và đồng hóa của Trung Quốc. Vì thế Triệu Đà dù là người Tàu, nhưng VN đã đưa ông ta vào Việt Sử, coi ông ta là anh hùng lớn của dân tộc VN. Cái ý nghĩa dân tộc VN đó là ở nơi chí quật cường, ý thức độc lập không chịu thần phục và đồng hóa bởi Trung Quốc! Ý thức độc lập và ý thức dân tộc của người VN (chưa hẳn là khác biệt về chủng tộc với người Tàu) là ở chỗ họ muốn lập quốc, họ muốn có một quốc gia độc lập chống lại sự bành trướng và đồng hóa của Trung Quốc. Sự khác biệt về chủng tộc được Việt Sử chú trọng để nhằm nói lên những khác biệt về chí quật cường và khát vọng độc lập của "người VN". Singapore và Đài Loan cũng tương tự như vậy, Đài Loan thì đa số họ là người Tàu; nhưng Singapore thì không hẳn như vậy, họ gồm người Mã Lai, Thái Lan và số lớn hơn là người Tàu nhưng họ (đa số gốc là tị nạn CS Tàu) muốn họ là một quốc gia độc lập, không bị ảnh hưởng chính trị bởi Trung Quốc. Re: Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc 2008-02-12 21:30:58 Võ Bình Thưa bạn Đào Công Khai, Tôi nghĩ khác biệt chính giữa người VN và Tàu (Hán) là ngôn ngữ, phong tục và tập quán. Ý thức độc lập không hẳn chỉ ngưới VN mới có. Không cần biết chúng ta là Việt chính gốc hay không chính gốc (lai Tàu, Tây, Miên, Chàm, etc.), còn người nói tiếng Việt và gìn giử phong tục và tập quán là nước Việt Nam còn cơ hội để tồn tại. Hơn 2000 năm lịch sử cùa chúng ta đã chứng minh điều đó. Những người cùng chung một tiêng nói, phong tục và tập quán có khuynh hướng sống gần nhau và lập thành một nhóm riêng biệt, hãy nhìn xem những cộng đồng người Việt ở Little Saigon (Mỹ), Cabramatta (Úc), biển hồ Tonlesap (Miên), ... Re: Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc 2008-02-23 04:29:55 NGỌC NỮ "Không cần biết chúng ta là Việt chính gốc hay không chính gốc (lai Tàu, Tây, Miên, Chàm, etc.), còn người nói tiếng Việt và gìn giử phong tục và tập quán là nước Việt Nam còn cơ hội để tồn tại" Võ Bình . Tui rất đồng ý với bạn Võ Bình, "Còn người nói tiếng Việt và giữ dìn phong tục và tập quán là Nước Việt Nam còn cơ hội Để Tồn Tại." Tui nghĩ là đưa ra vụ (Nhân Chủng Học) chỉ để đồng hóa chúng ta với Tàu, NO ! Tui không chịu ! Là người Việt Nam, từ Tổ Tiên chúng ta hàng ngàn năm xây dựng nên, bây giờ gần như cả thế giới lai giống pha trộn Âu Á, nhưng nguồn gốc chánh của chúng ta, thì chúng ta giữ. Không chịu nghe những lời nói nào đồng hoá người VN với một chủng tộc nào khác cả! Nếu những người đảng viên cộng sản họ muốn như vậy, họ chỉ có thể đồng hóa tự thân họ và những người liên hệ họ hàng của họ. Nhưng không được phép ép buộc đồng hóa những người khác ! Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2) 2008-02-12 14:15:59 DSaiGon Nói về Căn Cước VN mà không nói đến dòng VN gốc Chiêm Thành (Miền Trung) và Khmer (Miền Nam) thì qủa là thiếu sót và không đấy đủ. Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2) 2008-02-12 20:35:21 Nhất Đăng Nếu có quyển "Nhìn lại sử Việt" của Lê Mạnh Hùng thì sẽ thấy ông viết : Lạc Việt và Chiêm Thành cùng chủng Lạc. Thú thật đây là điều mới lạ đối với tôi. Đến nay tất cả các luận cứ đều chưa có gì chắc chắn vậy thì cứ thâu nhận, coi như cho thêm mình một ít kiến thức vậy. Nguồn: http://www.dcvonline.net (Còn tiếp)
  9. Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2) Nam Phan Phần 2: Căn cước Việt Nam qua khám phá DNA và Khảo cổ học Như chúng ta đã biết, với chủ trương Đại Hán thống trị và thống nhất của các triều đại Trung Hoa từ ngàn xưa, mọi dấu tích văn hóa và lịch sử dân tộc nguyên thủy của Việt Nam đều đã bị xóa bỏ hoặc bị tráo trở vay mượn để biến thành một phần văn hóa và dân tộc quan trọng của Trung Hoa. Rất may là máu huyết và lòng đất vẫn còn lưu giữ các quá khứ lịch sử văn hóa và dân tộc ấy một cách hết sức trung thực. Vì thế, trước khi muốn tìm hiểu lại về căn cước thật Việt Nam qua truyền thuyết cũng như sử liệu, chúng tôi muốn đưa vào phần 2 này những khám phá về di truyền học DNA và khảo cổ học để có cơ sở khoa học xác thực hơn. Để có một cái nhìn tổng thể trong bối cảnh tiến hóa chung của nhân loại, chúng tôi xin mạng phép lược trích từ sách The Journey of Man của tác giả Spencer Wells (1) về những dấu tích thiên di của các tổ tiên nhân loại đã để lại trong DNA của tất cả mọi người hiện nay trên thế giới. Qua đó, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá đâu là sự khác nhau và giống nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam, cũng như các căn cứ để cố học giả Kim Định đã khẳng định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”. Bản đồ thế giới vẽ bằng DNA: Hành trình của nhân loại, của Spencer Wells Nguồn: press.princeton.edu Theo khảo sát DNA được tổng kết từ nhiều công trình nghiên cứu của các nhà di truyền học đứng hàng đầu thế giới, trong đó có tác giả Spencer Wells, thì tất cả mọi người đang sống trên khắp trái đất đều có huyết thống từ một cặp thủy tổ xuất hiện ở Châu Phi cách nay khoảng 60.000 năm (tr. 55 & 71). Sau đó, có thể vì lý do thời tiết và môi trường sống thay đổi, cũng như sinh đẻ đông đảo (tr. 95 và 108), nên hầu hết hậu duệ của hai cụ đã lần lượt rời Châu Phi ít nhất là trong hai đợt chính như sau: Đợt một rời cách nay khoảng 60.000 – 50.000 năm, đi dọc theo bờ biển phía nam Châu Á, ngang qua Ấn Độ, và đến định cư tại Đông Nam Á trước khi chuyển tiếp đến Châu Úc và các vùng phụ cận (tr. 69, 72, 75 và 100). Trong số này, về sau cũng có những nhóm tiếp tục men theo bờ biển phía Đông Trung Quốc để vào tiếp Bắc Mỹ (tr. 72–3). Cũng nên nhớ là trong thời gian cuối Băng tuyết, eo biển Bering khô cạn và nối liền lục địa Châu Á với Châu Mỹ. Đợt hai rời Châu Phi, đi ngang qua ngã Trung Đông khoảng 50.000 – 45.000 năm (tr. 109–110), sau đó di chuyển tiếp vào vùng đồng bằng Iran hoặc Nam Trung Á (tr. 111). Tại đây lại chia thành hai nhánh (tr.112). Một nhánh đi vòng lên hướng Bắc để vào Trung Á, tạo thành thị tộc Trung Á (tr. 113–4)), sau đó chuyển tiếp qua các thảo nguyên Nam Siberia (tr.118, 120). Về sau, nhánh cũng tách thành hai nhóm. Một nhóm đi về hướng Tây và vào đến Châu Âu khoảng 30.000 năm (tr. 132–3). Nhóm còn lại tiếp tục di chuyển về hướng Đông để vào Mông Cổ và vào miền Bắc Trung Quốc (tr. 110 và 120); số còn lại tiếp tục thiên cư đến Châu Mỹ qua eo biển Bering vào khoảng 20.000–15.000 năm (tr. 139). Riêng nhánh thứ hai, sau khi tách ra khỏi đợt hai ở vùng đồng bằng Iran, đã tiếp tục di chuyển xuống hướng Nam để vào Pakistan và Bắc Ấn Độ (tr. 112–3). Tại đây nhánh này cũng tách ra làm hai nhóm hậu duệ chính. Một nhóm tiến sâu xuống tiểu lục địa Ấn Độ, hợp chủng với những di dân đường biển của đợt một Châu Phi đã đến trước, và trở thành thị tộc Ấn Độ cách nay khoảng 30.000 năm (113). Nhóm hậu duệ còn lại xuất phát từ phía đông núi Hindu Kush và Himalaya, tìm cách vượt những trở ngại của rừng núi cao, tiếp tục di chuyển về hướng đông, tạo thành thị tộc Đông Á (tr. 119). Sau đó, trong khoảng thời gian 10.000 năm trở lại đây, các hậu duệ kế tiếp của nhóm thị tộc Đông Á này đã trở thành những nhà nông Trung Quốc đầu tiên và đã sản sinh đông đảo, tạo ra “Làn sóng Tiến bộ” lan nhanh quanh khu vực Đông Á (tr. 157). Hiện nay các cư dân tại Đông Á có khoảng 60 – 90% huyết tộc của thị tộc Đông Á; còn các cư dân tại Đông Nam Á lại mang một hợp chủng huyết thống vừa của một chủng tộc địa phương và vừa của chủng tộc nông nghiệp Trung Quốc (tr. 119). Mổ xẻ và nhận định. Cũng theo các công trình khảo cứu di truyền học nói trên, cư dân Đông Á đã mang trong giòng máu của mình một sự pha chủng rất phức tạp. “Huyết thống của đợt một di dân đường biển rời Châu Phi không những có một tần số khá cao khoảng 50% tại Mông Cổ, mà còn phổ thông xuyên suốt vùng Đông Bắc Á” (Wells, sđd, tr. 120). Để hiểu điều này hơn, Spencer Wells đã giải thích với một đoạn văn mà chúng tôi xin tóm lược ý như sau: Có thể có những bộ phận di dân đường biển của đợt một Châu Phi, sau một thời gian định cư định canh tại Đông Nam Á, đã dần dà di chuyển tiếp lên hướng Bắc qua hàng ngàn năm để vào lục địa. Sau đó, có thể họ đã gặp và hợp chủng với hậu duệ của nhóm di dân đường bộ phương Bắc, nguyên thuộc nhánh thị tộc Trung Á xuất phát từ các thảo nguyên Nam Siberia và Mông Cổ đến. Dầu vậy, những công trình khảo sát DNA của cư dân Đông Á do Luca Cavalli–Sforza và các cộng sự người Trung Hoa của ông thực hiện lại vẫn cho thấy có sự khác biệt huyết thống giữa người Trung Hoa miền Bắc và người Trung Hoa miền Nam. Thậm chí, tuy cùng thành phần của một nhóm chủng tộc, như người Bắc Hán và Nam Hán, họ sống bên nhau rất gần gũi về địa dư nhưng lại xa nhau về chủng tộc. Nhóm Bắc Hán quần tụ xen kẽ chung với những cư dân khác không Hán tộc, còn những người Hoa Nam (tức Nam Hán) thì tạo thành một nhóm riêng rẽ (Wells, sđd, tr. 120–1). Đây cũng là điều phù hợp với khoa khảo sát sọ não mà trước đây trong chương Dẫn nhập chúng tôi đã có trích lược từ sách Nguồn gốc Việt tộc của tác giả Phạm Trần Anh (2) để dẫn chứng. Theo đó, giữa người Trung Quốc ở miền Hoa Nam và người Việt Nam chúng ta đều có sọ tròn và có chỉ số sọ gần giống nhau. Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam (tức Nam Hán) và người Trung Quốc Hoa Bắc (tức Bắc Hán) lại khác nhau. Hơn nữa, duy nhất chỉ có người Bắc Hán là có sọ dài, giống như người Mông Cổ và Châu Âu (Phạm Trần Anh, sđd, tr. 323 và 328). Đến đây, chúng ta nhận thấy sở dĩ đã có sự khác nhau giữa Bắc Hán và Nam Hán chắc chắn là do hệ quả của môi trường sống và lối sống khác nhau giữa du mục thảo nguyên Bắc Hán và nông nghiệp định cư định canh Nam Hán. Cho dù trước đó đều cùng thuộc đợt hai Châu Phi, nhưng từ thời điểm phân tách ra hai nhánh – một đi vòng qua các thảo nguyên Nam Siberia, Mông Cổ để vào Trung Quốc, và một vòng qua Ấn Độ, Himalaya, vào Đông Á hoặc vòng xuống Đông Nam Á để vào Trung Quốc – thời gian này đã trải qua một quá trình phân hóa hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn năm. Xét điểm ý của Spencer Wells trong câu: “Trong khoảng thời gian 10.000 năm trở lại đây, hậu duệ của nhóm thị tộc Đông Á đã trở thành những nhà nông Trung Quốc đầu tiên và đã sản sinh đông đảo, tạo ra Làn sóng Tiến bộ lan nhanh quanh khu vực Đông Á” (sđd, tr. 156). Theo thiển ý chúng tôi, có thể tác giả chỉ nhằm nói đến giai đoạn trồng lúa nước đã trở thành phổ thông sau khi các hậu duệ của nhóm thị tộc Đông Á đã học hỏi kinh nghiệm trồng lúa nước dọc trên hành lang di dân từ Tây sang Đông hoặc từ Nam lên Bắc. Vì thời gian ấy chính là thời kỳ sau các đợt hồng thủy rút đi, tại các vùng ven sông và biển, nhất là từ phía Nam sông Dương Tử trở xuống, đã hình thành nhiều vùng đầm lầy phù sa, lại có gió mùa và có thời tiết ấm áp, nên rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước theo kiểu đại trà. Để dẫn chứng cho lập luận trên, chúng tôi xin trích một vài khám phá khảo cổ học đáng lưu ý như sau: Thứ nhất, nhà khảo cổ học người Thái Surin Pookajorn đã khám phá những hạt lúa với đồ gốm và những sản phẩm thủ công thời Đồ Đá Mới như rìu đá tại Hang Sakai (giáp với Mã Lai), có niên đại cách nay khoảng giữa 9260 và 7620 năm (Oppenheimer, sđd, tr.68). Thứ hai, Joyce White, một nhà khảo cổ học Hoa Kỳ, lại khám phá một xã hội nông nghiệp (lúa nước) tại Ban Chiang ở miền Bắc Thái Lan, có niên đại khoảng 6 – 7 thiên niên kỷ TCN (Oppenheimer, sđd, tr. 69)(5). Thứ ba, sau những công trình nghiên cứu khảo cổ học của bản thân cũng như của đồng đội tại vùng Non Nok Tha và những vùng phụ cận ở miền Bắc Thái Lan, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II dạy tại Đại Học Hawaii (7) cũng nhận định: Tôi (tức Solheim) đồng ý với Sauer (6) rằng chính cư dân của nền văn hóa Hòa Bình ở đâu đấy trong vùng Đông Nam Á đã biết trồng cây trong vườn nhà đầu tiên, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đã xảy ra sớm hơn 15.000 năm TCN (...) Theo truyền thuyết lâu nay, người ta cứ cho rằng chính những làn sóng di dân từ phương Bắc xuống phương Nam đã mang theo sự phát triển kỹ thuật đáng kể cho vùng Đông Nam Á. Tôi gợi ý rằng chính nền văn hóa nguyên thủy thời đồ đá mới của miền Bắc Trung Quốc, được biết đến với tên văn hóa Ngưỡng Thiều, đã phát triển từ một chi lưu văn hóa Hòa Bình ở vùng phía bắc Đông Nam Á mà trước đó nó đã di chuyển lên phương Bắc vào khoảng sáu hay bảy thiên niên kỷ TCN. Còn nền văn hóa gọi là Long Sơn gần đây hơn mà người ta tin tưởng đã xuất phát từ văn hóa Ngưỡng Thiều ở miền Bắc Trung Quốc, sau đó bùng lên phát triển về hướng đông và đông nam. Riêng phần tôi lưu ý rằng thật sự văn hóa Long Sơn đã phát triển ở miền Nam Trung Quốc và di chuyển lên phía bắc. Tất cả hai văn hóa này đều đã phát triển từ một căn bản văn hóa Hòa Bình. Trong tác phẩm Eden in the East của mình, Stephen Oppenheimer (4) cũng đã có một lời kết luận tương tự: Stephen Oppenheimer, tác giả Thiên đàng ở phương Đông Nguồn: press.princeton.edu ”Thay vì theo mô thức “lấy Trung Hoa làm trung tâm” với thành kiến cây lúa nước do người Trung Hoa khám phá và trồng, ngày nay chúng ta phát hiện chính “những kẻ mọi rợ phương Nam” gốc Đông Dương, nói ngôn ngữ Nam Á (Austro–Asiatic speaking), đã dạy cho người Trung Hoa biết cách trồng lúa nước” (tr. 71) (7). Ngoài ra, trống đồng còn là một khám phá văn hóa khá độc đáo của tổ tiên Việt tộc chúng ta, vừa phản ánh nét văn hóa nông nghiệp và vừa phản ánh nét văn hóa sông biển. Chúng ta sẽ bàn đến điều này trong một chương khác để đạt chiều sâu hơn. Kết luận. Qua các nghiên cứu nói trên, chúng ta cũng đã bắt đầu thấy được những câu trả lời khá xác thực về nguồn gốc phức tạp văn hóa, cũng như huyết tộc của tổ tiên người Trung Hoa. Họ vừa có văn hóa và huyết tộc du mục thảo nguyên gốc Thổ và Mông Cổ xuất phát từ phương Bắc đến (tức thuộc thị tộc Trung Á), vừa có văn hóa và huyết tộc gốc du mục cao nguyên Tây Tạng, xuất phát từ Himalaya – nhóm này nguyên thuộc thị tộc Đông Á. Họ còn hợp chủng và vay mượn cả văn hóa và huyết tộc của những người bản địa có nguồn gốc văn hóa từ phương Nam và đã đến Trung Quốc trước họ. Nhóm bản địa này nguyên thuộc đợt một rời Châu Phi, đi men theo đường biển. Chính Lạc Việt chúng ta phát xuất từ nguồn gốc dân tộc và văn hóa phương Nam này. Kế đến, họ cũng còn hợp chủng với một nhóm khác nữa, nguyên cùng nguồn gốc thị tộc Đông Á xuất phát từ Himalaya đến, nhưng nhóm này lại đi men theo các sông lớn như Dương Tử, Tây Giang, Cửu Long… Đây chính là nhóm đã đem lại kinh nghiệm trồng lúa nước đầu tiên cho vùng Đông Nam Á, tức bao gồm từ miền cực nam Đông Nam Á đến vùng đồng bằng sông Dương Tử Trung Quốc, kể cả Vân Nam và Ba Thục. Nhóm này về sau chính là tổ tiên của Âu Việt và đã được huyền thoại hóa qua truyền thuyết mẹ Âu Cơ. Thế nhưng, Lạc Việt và Âu Việt là một tổng thể văn hóa và dân tộc Việt Nam, đã được thuật lại qua các truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, mà mới đây Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Viện Văn học Quốc gia tại Hà Nội, đã gọi là “văn hóa Viêm Việt” khi ông nhận định về triết gia Kim Định trong bộ Tự điển Bách khoa Văn học ấn bản năm 2003 – 2004 tại Việt Nam. © DCVOnline (1) Wells, Spencer : The Journey of Man. NXB Random House Trade Paperbacks, Nöõu Öôùc (2003). (2) Phạm Trần Anh: Nguồn gốc Việt tộc. NXB Việt Nam Ngày Mai, 2007. (3) Xin xem http://www.mevietnam.org/NguonGoc/fv–newlight.html (4) Oppenheimer, Stephen: Eden in the East. NXB Weidenfeld and Nicolson, London , 1998. (5) Khảo cổ học khám phá những làng nông nghiệp lúa mì và lúa mạch xuất hiện đầu tiên tại Jericho Cận Đông, chỉ có niên đại khoảng thiên niên kỷ thứ 5 TCN mà thôi (Wells, sđd, tr. 148–9) (6) Sauer là một nhà địa chất Hoa Kỳ, vào năm 1952 đã nêu lên một giả thuyết tương tự, nhưng các nhà khảo cổ học hồi đó chưa chấp nhận. (7) Từ nay, trong những bài viết chúng tôi, Austro–Asiatic được dịch là Nam Á; còn Austronesian được dịch là Nam Đảo. Tức là dịch từ chữ sang chữ hơn là dịch đúng theo nghĩa. Vì nếu theo nghĩa thì chúng tôi phải dịch Austroasiatic thành Đông Nam Á: lý do là địa bàn nói ngôn ngữ này chủ yếu tại miền Đông và Đông Nam Châu Á. Nguồn: http://www.dcvonline.net/
  10. Trích Những ý kiến tham luận xung quanh bài viết của tác giả Nam Phan Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-22 00:13:31 Tâm Việt Tổ tiên ta đã sống bên sông Hoàng Hà, cạnh núi Thái Sơn - trước khi tộc Hoa Hạ xâm chiếm [chinhkhiviet.com] Theo Thái Dịch Lý Đông A CHU TRỊ LỤC .... Một ít tài liệu còn lượm lặt được ngay trên lịch sử của nòi Hán. Từ đời Đại Việt, lúc tổ tiên ta còn trên sông Hoàng Hà tranh đấu lấy trung tâm của thiên hạ bấy giờ (Thái Sơn) cho mãi đến lúc xuống đến sông Dương Tử Giang, Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh, trong cái khoảng lịch sử Tàu từ Hoàng Đế đến Chiến Quốc, Xuân Thu cho tới Tần, Hán. a) Trạng huống đấu tranh của Việt, Hán trong khoảng ấy? :wacko: Thần Nông, Viêm Đế, Thuấn phải chăng là nòi Việt, hoặc bằng quân sự hay chính trị đấu tranh mà chiếm được ngôi chí tôn của thiên hạ bấy giờ. c) Lịch sử đấu tranh lấy Thái Sơn và ngôi thiên tử giữa ba nòi Hán, Việt, Di trong khoảng bấy giờ? Sự phân bố của nòi giống ấy? d) Trạng huống Nam thiên của nòi Việt mất trung tâm và chia ra Bách Việt. đ) Sự liên hệ giữa các nước Sở, Ngô, Việt với Việt Đại Việt. e) Trạng huống của sự tái kiến lại trung tâm sinh hoạt Việt bởi đời Việt Thường mà lập ra Hồng Bàng? Sự phân phong lên núi xuống bể linh lạc, thất bại thế nào? Ngày nay sự phân chia và ly tán của Bách Việt càng xa vời đi. 1) Sự liên hệ về các mặt giữa các nòi giống có máu Việt cũ? 2) Sự tái kiến lại Đại Việt cũ trên nền tảng một văn minh Viêm mới? 3) Lý tắc Totem của Tiên Rồng và văn hóa Môn tái kiến? Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-22 06:42:19 Tâm Việt Lý Đông A là tác giả đã cảnh cáo người Việt về họa diệt chủng, Phương Bắc Hoa Hạ là kẻ thù truyền kiếp của tộc Bách Việt. Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-22 09:18:40 Nhất Đăng Tìm nguồn gốc bằng lối đo sọ có lẽ là phương pháp gây thích thú cho tôi nhất. Ngày còn nhỏ, cứ nhắm mắt học thuộc lòng : dân Việt nam thuộc giống Melanesian và Indonesian hợp lại. Chẳng biết Indo là gì, Mela là gì, cứ việc học vì nhu cầu trả bài. Đến khi vớ quyển sách của Bình Nguyên Lộc, ông dùng các phương pháp : đo sọ, ngôn ngữ tỷ hiệu cùng khảo cổ học mới thấy nhân chủng học người ta đã tìm ra rất rành mạch, thế nào là chủng Mongolique, thế nào là bắc Mongolique, thế nào là nam Mongolic, thế nào là Indonesian, thế nào mà Melanesian..., rồi trong sách của ông BNL cứ đem tên Kim Định ra để đối chứng, lại đi tìm sách Kim Định để đọc. Thú thật, thoạt đầu đọc sách của thầy Kim Định nuốt không vô vì thật mông lung, nhưng sau khi nghe thầy nói chuyện, dần dần tạm chấp nhận ý kiến của thầy, bắt đầu đọc sách thầy thì thấy rằng tuy hai người dùng hai cách để chứng minh nguồn gốc của dân tộc Việt, kết luận của cả hai đều là : Hoa bắc là đất của giống Bách Việt, bị Tàu Mongolique đuổi dần về phương Nam, Tàu lai giống với dân bị chiếm thành bắc Mongolique, rồi thêm một lần lai giống phía Nam thành Nam Mongolique. Còn dân Việt chính hiệu là Indonesian, pha giống với giống dân Nam đảo Melanesian tạo ra dân Việt. Sau 1.000 năm đô hộ của Tàu, lại bị Tàu bắt đồng hoá, có lai chút Tàu, nhưng yếu tố Tàu trong sọ Việt không nhiều như ở Hoa nam, nên vẫn còn chủng chính chứ không bị thành Nam Mongolique như Hoa nam. May thay, nhờ sự bất khuất của tổ tiên ta mà ta còn giữ được nước Việt hiện nay. Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-22 11:34:56 Tiêu Phong Chào bác Nhất Đăng, Theo những giáo sư đã từng nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ Việt (điển hình là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Hy Vọng), ngôn ngữ Việt trước tiếng Hán có nhiều liên hệ với hệ thống ngôn ngữ của thành phần Mã Lai Đa Đảo (Malayo-Polynesean languages, còn gọi là Austronesian languages). Nếu ta Google Austronesian languages, sẽ thấy tên các nước như , Việt Nam, Mã Lai, Lào, Cam Pu Chia, và Đài Loan nắm trong các vùng nói các thứ tiếng này. TP tin rằng ngôn ngữ học sẽ giúp ích rất nhiều trong việc truy tìm căn cước thật của VN. Còn căn cước của VN cho tương lai thì sao? Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-23 04:04:29 Nhất Đăng Những di hài hoá thạch tìm được có thành phần Austronesians và austroasiatics. Những di hài tìm được chưa chắc là tổ tiên của dân Lạc Việt hoặc có cũng chỉ phần nào vì có nhiều giống dân cư ngụ ở miền Bắc nước Việt cổ. Không thể khẳng định được khi chưa tìm ra đích xác. Vì theo những nghiên cứu thì cư dân đầu tiên của miền Bắc nước ta là Melanesian và Australoid (thổ dân Úc). Sắc dân này da đen, môi dày, chiều cao cở 1m50-1m55. Có lẽ đây là lý do mà VC cứ rang rảng nói VN là cái nôi của loài người. Dân Việt hiện nay vóc dáng khác. Lượng trống đồng đào được ở những vùng chung quanh chỉ là số ít. Có thể đó là những trống đồng được mua về hay do giao hiếu, quà tặng. Lượng trống đồng nằm trong khu vực miền Bắc nhiều để có thể kết luận đây là trung tâm của trống đồng. Tuy nhiên như tôi đã nói, có dữ kiện, mỗi người tuỳ cách suy luận của mình mà viết. Chưa có gì là khẳng định cả. Thượng cổ sử của Việt nam vẫn còn nằm trong bóng tối. Tiếc là ta đã bị Mã Viện phá huỷ hết gần như tất cả nên giờ này muốn tìm hiểu lại càng khó hơn. Thật thú vị nếu tìm được gốc tích thật của dân ta. Cám ơn bác Tiêu Phong đã trò chuyện. Tôi rất thích đề tài về thượng cổ sử Việt nam. Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-22 20:04:02 Vô Sắc Một bài viết mang tính nghiên cứu, khoa học, lẽ ra thường khô khan, nhưng lại thật là thú vị, lôi cuốn. Tuy mang tính đại chúng cho mọi người đọc có thể hiểu nhưng vẫn giữ cân bằng, không mất đi những minh chứng, dẫn chứng rõ ràng cụ thể cho một bài viết khoa học. Tuyệt! Tôi không dám lạm bàn về nhân chủng học, di truyền học, chỉ xin góp một chi tiết khá đặc biệt có liên quan đến nguồn gốc, quan hệ láng giềng của dân tộc Việt, cùng ảnh hưởng của chính trị, xung khắc quân sự, đến sự giải thích của lịch sử, kể cả khảo cổ học, liên quan đến bài viết trên. Chúng ta hay nhắc đến, và thường tự hào, về nền văn minh cổ xưa của Việt Nam, qua sự phát hiện ra trống đồng Đông Sơn và Ngọc Lũ (600 BC-100AD) vào những năm 1920-30. Nhiều người Việt cho rằng đây là một nền văn minh độc đáo, riêng biệt, của chúng ta. Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là sau này người ta cũng đã đào được các loại trống đồng này tại các đảo của Indonesia (và họ cũng gọi là trống đồng Đông Sơn, có lẽ vì được phát hiện sau các trống đồng đào được tại Đông Sơn, Thanh Hóa), ở miền Nam Trung Hoa, ở miền Bắc Thái Lan, và cả Miến Điện. Riêng người Indonesia, theo một ghi chú bên cạnh một trống đồng của họ triển lảm tại Úc mà tôi xem được cách nay hơn 15 năm, cho rằng các điệu vũ khắc họa trên mặt trống đồng vẫn được người dân Bali (của đảo Bali, Indonesia) ngày nay múa hát. Cách đây 5-7 năm tôi cũng có đọc một bài nghiên cứu dài, thật chi tiết (với rất nhiều hình ảnh), và rất nổi tiếng (được trích đăng lại nhiều nơi), nhan đề: Who Invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino-Vietnamese Archaeological Debate of the 1970s and 1980s, của một tác giả Mỹ gốc Trung Hoa, Xiaorong Han (hiện là Ass. Prof. của ĐH Butler, Hoa Kỳ). Bài nghiên cứu nêu lên rất nhiều điều thú vị về nguồn gốc của các trống đồng được xếp loại Đông Sơn (và các loại tương cận). Ông này hình như biết đọc và viết tiếng Việt (các chú thích chữ Việt đều không sai các dấu). Tiếc rằng giờ tôi chỉ tìm thấy được abstract trên net (nên không dẫn link). Ai có thời gian xin tìm giúp cho ai cần. Một giả thuyết trong bài viết là trống đồng (nói chung) xuất xứ từ một sắc tộc (Yoh?) ở Vân Nam, phát triển ra khắp miền Nam Trung Hoa và lan xuống khắp vùng Đông Nam Á. Một chi tiết thú vị ông đưa ra, như nhan đề bài viết đã nêu, là các cuộc tranh cải giữa các nhà khảo cổ và nghiên cứu Việt Nam - Trung Quốc thường mang dấu ấn, không chỉ về tinh thần quốc gia khác biệt (nationalism), mà còn do các thay đổi về quan điểm chính trị, cùng xung khắc quân sự với nhau, trong các thập niên 1970-80. Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) 2008-01-23 17:28:57 Hoàng Hoa Cám ơn tác giả đã cho đọc một bài khá lý thú. Trong ký ức vốn bị thòi gian bào mòn, tôi còn nhớ một bài văn vần không nhớ của ai, lâu lâu lắm rồi từ khi vừa mới đánh vần đọc được chữ. Địa giới nước tă được mô tả như sau: " Nam giáp Hồ Tôn, Tây Ba Thục, Đông biển, Bắc đến Động Đình Hồ " Như vậy VN ở trọn trong lảnh thổ TQ ngày nay.
  11. Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1) Nam Phan Gần đây, từ trong nước cũng như ngoài nước, đã có khá nhiều sách báo khảo cứu về nguồn gốc văn hóa và dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, dường như vẫn chưa có câu trả lời hoàn hảo và nhất thống về nguồn gốc xuất phát và về thời gian hình thành. Ba ngàn năm, bốn ngàn năm, hay hơn nữa? Từ trong dòng máu Trung Hoa, hay thuộc một chủng khác, độc lập và có văn hóa riêng, hoặc pha chủng cả hai và vay mượn văn hóa của nhau? Hoặc pha chủng với nhiều chủng tộc khác nữa, như Thái, Mường, Mèo, Dao, Tày chẳng hạn, nhưng lại chịu ảnh hưởng vượt trội của Trung Hoa? Hoặc ngược lại, và nói như cố Giáo sư Kim Định: “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”(1). Những điều băn khoăn như thế thật ra cũng rất dễ hiểu, nhất là đối với những người không chuyên khảo lịch sử. Bởi lẽ, nói một cách tổng quát, người Việt chúng ta xưa nay vẫn tin mình là “con cháu Lạc Hồng”, có “bốn ngàn năm văn hiến”, và rằng đất nước đã được vua Hùng dựng lên đầu tiên, với quốc hiệu Văn Lang, tại vùng châu thổ sông Hồng miền Bắc. Tuy vậy, cũng qua sách vở học hành, chúng ta lại được biết khá nhiều chuyện kể lẫn tên gọi về các thủy tổ dân tộc, như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, hay Âu Cơ, Hùng Vương, đều nghe ra có vẻ Tàu, hoặc nửa Tàu nửa Việt. Rồi nào, cả ở Việt Nam lẫn bên Trung Quốc đều cùng có những địa danh Hà Nội, Hà Bắc, Sơn Tây, Bình Dương... hay những họ Trần, Phạm, Trịnh, Đặng, v.v.... rất giống nhau. Ngay cả câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn...”, mọi người Việt Nam chúng ta đều thuộc, nhưng ít ai biết núi Thái Sơn nằm ở tận vùng Đông bắc Trung Quốc. Còn sông Lạc, một chi nhánh của sông Hoàng Hà, cũng chảy xuyên qua vùng này. Và cũng tại nơi đây đã từng xảy ra những trận đánh đầu tiên giữa các bộ lạc của Hoàng Đế Hoa tộc với các hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông cách nay hơn bốn ngàn năm, để mở màn việc chiếm đất và mở rộng bờ cõi xuống phía Nam của Hán tộc phương Bắc. Hơn nữa, sông Lạc cũng là nơi vua Đại Vũ nhà Hạ đã gặp rùa và nhận “Lạc thư” chỉ giáo về cách cai trị thiên hạ, mà bấy lâu nay truyền thuyết lịch sử của Trung Quốc đã tự nhận là một triều đại lớn của họ. Nhưng ngày nay qua nghiên cứu sự mâu thuẫn nội tại từ trong nội dung lịch sử, chúng ta lại nhận thấy vua Đại Vũ không phải là người Hoa Tộc. Chẳng hạn, ông là người Cối Kê - nay gọi là Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử. Mà vùng này trong thời kỳ ấy đang còn là đất của các tộc Bách Việt. Chính Việt Vương Câu Tiễn được kể là dòng dõi Hạ Vũ, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng đã lên ngôi lập nghiệp tại đây. Thành thử, có khả năng cả hai địa danh Thái Sơn và sông Lạc, cũng như nhiều địa danh và nhiều điển tích khá quen thuộc khác gọi là của Trung Quốc đều có mối liên hệ lịch sử với tổ tiên Bách Việt nói chung và tổ tiên Lạc Việt chúng ta nói riêng. Điều này có nghĩa là có thể vì cái quá khứ lịch sử của tổ tiên dân tộc ta đã bị giấu nhẹm hoặc bị tráo trở vay mượn trong hàng ngàn năm, do quá trình “nam tiến” đồng hóa và thống nhất của Hán tộc phương Bắc, cũng như sau đó do quá trình đô hộ gần một ngàn năm nữa trên phần đất chủ quyền của Việt Nam thời bấy giờ, khiến những gì văn minh, văn hóa của kẻ bị thua Việt tộc nay đã trở thành di sản của kẻ chiến thắng Hán tộc và đã bị quên lãng. Điển hình là hơn 70 đến 80% người Trung Quốc hiện nay còn phát âm theo giọng Việt (Kim Định, sđd, tr. 8). Đồng thời, song song với tiếng Quan Thoại có nguồn gốc ngôn ngữ Hán tộc phương Bắc và được dùng như ngôn ngữ quốc gia chính thức hầu hết các cư dân Trung Quốc ở vùng Hoa Nam đều có ngôn ngữ địa phương riêng của họ và được gọi chung là Việt ngữ. Khoa nghiên cứu về sọ não gần đây cũng cho thấy: Giữa người Trung Quốc ở miền Hoa Nam và người Việt Nam chúng ta đều có chỉ số sọ gần giống nhau. Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam và người Trung Quốc Hoa Bắc (thuộc Hán tộc thuần chủng) lại khác nhau hoàn toàn(2). Và sự khác nhau này cũng đã được DNA di truyền học hiện đại xác định (chúng tôi sẽ trình bày rõ chi tiết hơn vào dịp khác). Cho nên, nói như học giả Kim Định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”, đó là điều không sai. Hơn nữa về sau này, kể cả trong thời kỳ Việt Nam hoàn toàn tự chủ trên chính đất tổ hình chữ “S” của mình, nhưng vì không có chữ viết riêng (hoặc bị hủy mất như đã có một số tác giả gần đây nêu lên), giới sĩ phu chúng ta nói chung và các sử gia nói riêng đều đã phải học cả chữ Nho lẫn nội dung văn hóa của hệ thống tư tưởng, triết lý và chính trị của Trung Hoa, nên các biên khảo lịch sử đất nước chúng ta đã không sao tránh khỏi những điều thiếu sót, mù mờ, hoặc sai lầm. Phần nhiều những công trình nghiên cứu lịch sử này đều phải dựa vào truyền khẩu của các truyện tích, ca dao, tục ngữ, hoặc dựa vào suy đoán từ sử sách chữ Hán của Trung Hoa. Mãi đến thế kỷ 14, những truyện kể về họ Hồng Bàng mới được một vài sử gia đương thời biên soạn và đưa vào trong hai tác phẩm Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam Trích Quái. Sau đó, vào khoảng cuối thế kỷ 15, Ngô Sĩ Liên là sử gia đầu tiên mới chính thức đưa truyền thuyết họ Hồng Bàng vào quốc sử qua bộ Đại Việt Sử ký Toàn Thư của ông(3), mặc dù chính ông đã nghi ngờ tính xác thực nội dung của truyện kể(4). Dĩ nhiên, những điều ngờ vực về tính xác thực như thế không phải là không có lý của nó. Đó không phải là điều vô bổ đối với những hiểu biết khai trí cho hậu duệ chúng ta trong nỗ lực tìm hiểu căn cước thật của Việt Nam bởi lẽ đã là truyền thuyết, nhất là truyền thuyết về đất nước, về dân tộc thì tự bản chất của nó ít nhiều đều chứa đựng tính chất hoang đường, thần thoại. Không những Ai Cập, Hy Lạp, hay Do Thái, Ấn Độ, mà ngay cả Trung Quốc - một đất nước có nền văn hóa rất gần gũi với văn hóa chúng ta, và có khá nhiều sử liệu được ghi chép rất sớm - cũng không sao thoát khỏi tính chất thần thoại hoang đường. Dường như đó cũng là một thứ tiền lệ tri thức của nhân loại, đặc biệt là trong thời kỳ khoa học chưa khởi sắc. Những thiếu sót và sai lầm về lịch sử dân tộc Việt Nam như thế không chỉ từ trong nước và từ những kẻ đô hộ, mà còn do sự tin tưởng chung của thế giới trước đây. Một nhận xét trong bài viết “New Light on a Forgotten Past”(5) của Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư Nhân chủng học Đại học Hawaii, đăng trong tạp chí National Geographic tháng 03/1971 có đoạn: “European and American historians generally have theorized that what we call civilization first took root in the Fertile Crescent of the Near East, on its hilly flanks. There, we have long believed, primitive man developed agriculture and learned to make pottery and bronze. Archeology supported this belief, partly because it was in the region of that Fertile Crescent that archeologists did their most extensive digging”. (Lý thuyết của các sử gia châu Âu và châu Mỹ thường cho rằng những gì gọi là văn minh đều bắt nguồn đầu tiên tại vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu ở Cận Đông, trên những sườn đồi. Đã lâu rồi, chúng ta tin tưởng người cổ sơ ở đó phát triển nông nghiệp và học hỏi làm đồ gốm và đồ đồng. Khảo cổ học đã hỗ trợ niềm tin này, một phần vì các nhà khảo cổ học chỉ loanh quanh đào bới trong khu vực Lưỡi Liềm Phì Nhiêu ấy mà thôi). Nhưng thật ra, cũng theo tác giả Solheim, những khám phá khảo cổ học gần đây ở vùng Đông bắc và Tây bắc Thái Lan, cũng như tại Đài Loan, tại miền Bắc và miền Nam Việt Nam, thậm chí cả những khám phá khảo cổ học ở Mã Lai, Phi Luật Tân và vùng Bắc Úc, cũng cho thấy nhiều dữ kiện và thông tin khả tín để khẳng định: Nền văn minh Hòa Bình cổ xưa nhất đã xuất hiện tại vùng Đông Nam Á cách nay hơn 10.000 năm và đã có nguồn gốc từ Việt Nam. Những điều khám phá và khẳng định trên của Solheim còn tỏ ra phù hợp với công trình nghiên cứu của Stephen Oppenheimer (1998), được viết trong cuốn “Eden in the East”(6) của ông. Căn cứ vào hải dương học, địa chất học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, thần thoại học, và một phần công trình nghiên cứu di truyền học của bản thân, Oppenheimer đã đi đến những kết luận hết sức mới mẻ mà chúng tôi xin tóm lược thành ba điểm có liên hệ nhất với bài viết này như sau: Điểm 1: Cách nay khoảng 20.000 - 18.000 năm, Đông Nam Á là một lục điạ rộng lớn gấp đôi lần ngày nay, bao gồm Đông Dương, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, và kéo dài đến các vùng mà nay đã trở thành những nhóm quần đảo Sumatra, Java và Borneo. Bởi lẽ mực nước biển của thời bấy giờ thấp hơn ngày nay 120 - 130 mét, nên các khu vực ấy đều là đất liền khô ráo. (tr. 10, 17-8, 29, 80). Điểm 2: Đông Nam Á đã là trung tâm đầu tiên của các nguồn gốc văn hóa và văn minh của thế giới trong thời kỳ tiền sử (tr. 17). Nhưng vì trải qua 3 giai đoạn băng tuyết tan rất lớn của thời kỳ cuối Băng Hà đã xảy ra cách nay khoảng từ giữa 14.000 đến 8.000 năm (tr. 24), nên các nền văn hóa và văn minh tiền sử này đã bị chôn vùi theo với thêm lục địa Đông Nam Á bị ngập sâu dưới lòng biển (tr. 18, 62-3). Đây là điều đã ám ảnh trong các câu chuyện “Đại Hồng Thủy” gần như được phổ biến rộng khắp thế giới từ Đông sang Tây (tr. 24-5). Điểm 3: Cũng từ đó, cách nay khoảng từ 8.000 đến 7.000 năm, đã có nhiều đợt di dân từ các vùng ngập nước, phải phân tán đi vào Châu Úc, hoặc đi vào các nhóm quần đảo Pacific và Ấn Độ, hoặc theo hướng Bắc để vào sâu trong lục địa châu Á nói chung và Trung Quốc nói riêng (tr. 10). Trong khi di tản họ đã đem theo các tập tục văn hóa và văn minh tiền sử của họ, trong đó có những kinh nghiệm trồng trọt và thuần thục gia súc (tr. 71). Dẫu vậy, ở đây chúng ta không nên nhầm lẫn vùng Đông Nam Châu Á là cái nôi xuất phát thủy tổ nhân loại như đã có một số nhà nhân chủng học tin tưởng theo thuyết tiến hóa tại nhiều địa phương (multiregionalism theory). Thật sự, đó chỉ là một trung tâm văn minh rất sớm của thời kỳ tiền sử, mà phát khởi của nó là nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúa nước. Nhiều nghiên cứu di truyền học mới đây, được nhà di truyền học hàng đầu Spencer Wells(7) đúc kết và viết trong cuốn “The Journey of Man ” xuất bản năm 2002, đã cho biết: Tất cả mọi người trên khắp thế giới ngày nay đều là hậu duệ của một cặp thủy tổ quê quán tại Châu Phi. Đặc biệt, trong cuốn sách này còn có một công trình nghiên cứu DNA lấy từ hơn 12.000 cư dân bản địa sinh sống trên khắp vùng Đông Á, do nhà di truyền học Li Jin (Lý Huỳnh) và các đồng nghiệp của ông thực hiện, đã khẳng định: Tất cả huyết tộc của 12.000 người này đều có chung nguồn gốc tổ tiên xuất phát từ Châu Phi cách nay khoảng 50.000 năm (tr. 119-20). Như vậy, mặc dù Việt Nam ta không có hoặc không còn những di tích theo kiểu kiến trúc vĩ đại Trường Thành của Trung Quốc hay Kim Tự Tháp của Ai Cập để lại, nhưng lòng tin của người Việt mình là dòng giống Lạc Hồng, là con Rồng cháu Tiên và đã có bốn ngàn năm Văn Hiến - hay nói như học giả Kim Định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu” - đều đã có cơ sở. Dường như lòng tin này đã có sẵn trong “gene” di truyền của chúng ta. Bản thân chúng tôi trước khi nghiên cứu viết những giòng lịch sử này có thể cũng giống như nhiều người Việt Nam khác, đã không sao hiểu nổi núi Thái Sơn ở đâu mà lại hiện diện trong câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn...”. Nhưng nhờ tìm đọc sách báo và nghiên cứu ngọn ngành như đã khái lược ở trên, nên bây giờ chúng tôi mới vỡ lẽ ra những điều như sau: Thứ nhất, dân tộc ta thuộc một chủng tộc riêng, không những khác với Hán tộc Trung Hoa, mà còn hiện diện trên đất nước Trung Hoa trước họ. Tuy nhiên, dân tộc ta cũng không thuần chủng, mà là một hợp chủng của hai dòng tộc chính là Lạc Việt và Âu Việt, đồng thời đã có nguồn gốc xuất phát từ quê tổ Việt Nam và ngày nay đã được nhìn nhận là chủ nhân của nền văn hóa Hòa Bình. Thứ hai, không những vua Vũ nhà Hạ, mà cả Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa, Đế Nghiêu, Đế Thuấn… đều là những nhân vật vừa có tính cách lịch sử và cũng vừa có tính cách huyền thoại. Tất cả các nhân vật này đều phản ánh từ nguồn gốc văn hóa phương Nam của các tộc nông nghiệp Bách Việt, tức không là Hán tộc và khác với Hán tộc. Thứ ba, Hán tộc là nhánh chủng tộc du mục có gốc Thổ (Turk) và Mông Cổ, xuất phát từ những thảo nguyên ở miền Trung Á và Siberia đến. Họ chỉ mới có mặt ở vùng trung lưu Hoàng Hà, sớm nhất là thời Hoàng Đế (theo truyền thuyết được Sử Ký Tư Mã Thiên đề cập), tức sau thời kỳ Phục Hy và Thần Nông. Nhưng có phần rõ ràng hơn cả, có lẽ họ xuất phát từ thời nhà Chu và cũng chỉ bắt đầu bành trướng Trung Quốc xuống đến vùng Hoa Nam trong thời kỳ nhà Tần và Hán. Thứ tư, các từ ngữ văn minh, văn hóa và văn hiến, cùng với những ý nghĩa của chúng, đều có nguồn gốc xuất phát từ một đất nước đã được mang tên là Văn Lang. Văn Lang thật sự không phải là một đất nước có biên giới rành rọt theo quan niệm quốc gia mà ngày nay chúng ta hiểu. Đó là một miền đất nước được ranh định tại những nơi đã có sự định cư, định canh của các chi tộc Bách Việt và nằm trong phạm vi lãnh thổ Đông Nam Á, phía Bắc tiếp giáp với Trung Nguyên miền Hoa Bắc và phía Nam bao gồm Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương. Nét văn hóa độc đáo của Văn Lang là tục xâm mình và dùng rìu búa, một loại dụng cụ vừa dùng để chặt đẽo, nhưng cũng vừa dùng như là vũ khí. Để hiểu biết rành mạch và chi tiết hơn về căn cước thật của Việt Nam, chúng tôi sẽ lần lượt tháo gỡ và trình bày những nguyên nhân nhầm lẫn lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam ta trong những chương kế tiếp, nếu điều kiện cho phép. Và để đạt được những điều như thế, dĩ nhiên trong tiến trình biên khảo, chúng tôi sẽ phải mượn và trích lại thật nhiều những phần ý, hoặc văn, hoặc cả ý lẫn văn, của một số tác giả mà chúng tôi đọc được trên mạng điện toán, cũng như trong sách báo. Mặt khác, với chủ đích không nhằm đạt chất lượng chuyên khảo, mà chỉ phổ biến kiến thức phổ thông, chúng tôi sẽ tránh tối đa những phần nghiên cứu và từ ngữ quá chuyên môn, hoặc những từ ngữ chẳng những không còn thích hợp với tri thức mới ngày nay mà còn có thể gây ngộ nhận về ý nghĩa lịch sử đích thực. Tiện đây, chúng tôi xin cám ơn trước các tác giả có những phần trích ý, trích văn, đồng thời cũng mong được sự thông cảm về vấn đề tác quyền, nếu có. Vì thật sự đây cũng chỉ là nghĩa vụ chia xẻ tri thức chung đến với mọi người mà thôi. © DCVOnline (1). Kim Định: Nguồn gốc Văn hóa Việt Nam . NXB Nguồn Sáng, Sài Gòn, 1973 (tr. 1). (2). Phạm Trần Anh: Nguồn gốc Việt tộc. NXB Việt Nam Ngày Mai, 2007 (tr. 256-8, 322-4) (3). Đại Việt Sử ký Toàn thư. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993 (tr. 23) (4). Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (1): Quốc tổ mang hai giòng máu (www.dunglac.net) (5). Xin xem http://www.mevietnam.org/NguonGoc/fv-newlight.html (6). Oppenheimer, Stephen: Eden in the East. Weidenfeld and Nicolson, London, 1998. (7). Wells, Spencer. The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Random House Trade Paperbacks, New-York, 2003. Nguồn: http://www.dcvonline.net
  12. Ai là tổ tiên của cư dân Lưỡng Quảng? Lê Đỗ Huy lược thuật Mấy năm qua, tại Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) đã diễn ra một cuộc thảo luận trực tuyến về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây [Lưỡng Quảng] của CHND Trung Hoa. Dựa vào những tranh luận trên diễn đàn này, một hoạt động sôi nổi, lôi cuốn nhiều người ở Trung Hoa lục địa và hải ngoại tham gia, chúng tôi xin lược thuật để bạn đọc tham khảo. Cuộc thảo luận trực tuyến được thực hiện bằng tiếng Anh, có đôi chỗ chú thích bằng tiếng Hoa, gồm hàng trăm ý kiến dàn trải trên 7 chương, mỗi chương có thể in ra chừng hơn 30 trang giấy khổ A4. Chủ đề của cuộc thảo luận là quan điểm Liên-Bách Việt (Pan-baiyueism), bàn về nguồn gốc chung của người Việt Nam và người nói tiếng Quảng Đông (Cantonese). Các thành viên tham dự diễn đàn này gồm chủ yếu là người Trung Hoa ở phía Nam (nhóm thứ nhất), thường phủ định quan điểm "Liên-Bách Việt", một số người Việt Nam và Việt gốc Hoa (nhóm thứ hai, ít hơn về số người), được xem là cổ súy cho quan điểm trên, và một số ý kiến trung dung. Các tranh luận thường khá gay gắt, nhưng các nhóm có vẻ đồng thuận với một số sử liệu, thường trích từ các công trình nghiên cứu phương Tây sau đây [1] : Vào khoảng đời nhà Chu (1134-770 tCn) và Xuân Thu, tại khu vực phía Nam Trung Hoa giáp với biên giới Trung-Việt ngày nay đã tồn tại những bộ tộc không thuộc Hoa tộc như Bách Việt, Bộc (Pu) [2] ... Tới thời Xuân Thu, người Việt ở khu vực núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) thuộc Chiết Giang lập ra vương quốc Việt. Nước Việt vào năm 473 tCn đã chinh phục nước Ngô [3] láng giềng, đóng đô ở Tô Châu thuộc Giang Tô. Nhưng rồi Việt bị nước Sở thôn tính năm 306 tCn. Vào thời Xuân Thu, người Đông Việt được xem là cư trú ở vùng nay thuộc phía Đông nước Trung hoa hiện đại, người Dương Việt cư trú ở phía bắc của tỉnh Giang Tô hiện nay. Các bộ tộc Bách Việt khác như Âu Mân sống ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến; Nam Việt sống ở vùng Quảng Đông, Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Phúc Kiến... Trong thời kỳ Chiến quốc (480-221 tCn), vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, giống như các lãnh thổ thuộc Thục và Ba nay thuộc Tứ Xuyên, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống" [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà. Bắt đầu thời kỳ miền bắc của Dương Tử bị Trung Hoa hóa [Hán hóa] mạnh mẽ. Bức trường thành ngăn các bộ tộc du mục từ phương bắc xuống đã được nước Tần (221-206 tCn) và Yên xây dựng. Khu vực hiện nay thuộc Phúc Kiến lần lượt bị nhà Tần và nhà Hán chinh phạt, nhưng phong kiến Trung Hoa đã không thực sự kiểm soát được vùng đất này. Vào đầu đời Hán (206 tCn - 220), Triệu Đà lập ra vương quốc Nam Việt ở khu vực Quảng Đông, độc lập với triều đình Hán. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa năm 221 tCn, quân nhà Tần bắt đầu tiến xuống phía nam dọc theo sông Tây Giang tới vùng Quảng Đông hiện nay, và xác lập các quận dọc theo các trục đường chính. Tới năm 112 tCn. Hán Vũ Đế đã chinh phục những vùng phương Nam (Trung Hoa), cùng với vùng nay là miền bắc Việt Nam và cử người Hán cai quản các quận. Dưới đời Hán, ngoài Nam Việt ở viễn nam chủ yếu là ở Lưỡng Quảng và Việt Nam, sử sách còn kể về tiểu quốc Mân Việt ở đông bắc tập trung ở vùng sông Mân Giang, nay thuộc Phúc Kiến (Mân là tên cũ của tỉnh Phúc Kiến). Thời Tam Quốc, Sách Địa lý chuyển luận trong Hán thư chép: "Ở khoảng bảy hay tám ngàn dặm tính từ Giao Chỉ đến Cối Kê (nam Giang Tô hay bắc Chiết Giang), những người Bách Việt có mặt ở mọi nơi, chia thành nhiều thị tộc". Hoạt động di cư của người Trung Hoa (Hán) càng tăng trưởng, người Việt càng bị đẩy vào các vùng đất cằn hơn, và vào rừng núi. Không giống như những người du mục Trung Á như tộc Hung Nô hoặc tộc Tiên ti, người Việt chưa từng thực sự đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự bành trướng hay kiềm tỏa của Trung Hoa (người Hán). Thỉnh thoảng họ dấy lên những cuộc đột kích vào khu định cư của người Hoa, mà các sử gia cổ gọi là “những cuộc nổi loạn". Người Trung Hoa (Hán) cho rằng người Việt không văn minh, và hay đánh lẫn nhau. Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn chia tách tiếp theo đã đẩy mạnh quá trình Trung Quốc hóa. Các thời kỳ bất ổn và chiến tranh ở miền Bắc Trung Hoa giữa Bắc Triều và Nam Triều, cũng như trong đời Tống đã dẫn tới hoạt động di cư ồ ạt của người Trung Hoa (xuống phương Nam). Hôn nhân dị chủng và giao lưu giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn giữa người Trung Hoa (Hán) và không Trung Hoa (không phải Hán) ở miền Nam. Cho đến đời Đường, từ “Việt” đã trở nên một định ngữ chỉ vùng hơn là chỉ một nền văn hóa. Một nhà nước từng nằm ở tỉnh Chiết Giang hiện nay trong thời kỳ Ngũ đại thập quốc chẳng hạn, đã tự xưng là Ngô Việt. Về thời Bắc thuộc, Diễn đàn dẫn luận án phó [?] tiến sĩ của Jennifer Holmgren "Sự đô hộ của Trung Hoa đối với [bắc] Việt Nam" (Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết: Những ghi chép về hoạt động của Trung Hoa ở Bắc Bộ Việt Nam trong 6 thế kỷ đầu thời kỳ thực dân này (Việt Nam gọi là thời Bắc thuộc) cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung hoa. hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt... Sự trêu ngươi như thế cho thấy một số thị tộc Trung Hoa xác lập quyền lợi của dòng họ mình ở Bắc Bộ: định cư dần dần, giúp đỡ mở mang và cuối cùng hoà nhập vào môi trường xã hội kinh tế và chính trị ở Bắc Việt Nam. Kết quả cuối cùng của quá trình này là sự xuất hiện của một tầng lớp thượng lưu Hoa-Việt, quá trình phi thực dân hóa ở vùng viễn nam, và những mưu toan bất thành ở thế kỷ VI để khôi phục nền độc lập, thoát ách đô hộ của phương Bắc. Ví dụ cho quá trình này là sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp thời Hậu Hán và những nỗ lực giữ nền độc lập của người nhà ông này sau khi ông qua đời. Từ cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng thế kỷ I đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn thế kỷ VI, sử sách của Trung Hoa cho thấy biểu hiện của một sự phụ thuộc về chính trị trên nền nửa độc lập với Bắc triều. Theo dòng thời gian, những thời kỳ có đặc tính bán tự trị ngày càng tăng lên. Xu thế này làm nền cho cuộc nổi dậy của nhà [Tiền] Lý ở giữa thế kỷ VI và cuối cùng là sự phân liệt hoàn toàn khỏi Trung Hoa vào thế kỷ X. Tác động của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa đã không được xác định một cách chính thức, nhưng nó khá rõ rệt. Ngôn ngữ của các tiểu quốc cổ Ngô và Việt tạo nên ngôn ngữ Ngô, và phần nào tới ngôn ngữ Mân ở Phúc Kiến. Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng một số từ tiếng Trung Hoa có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ chẳng hạn như từ jiang (giang), có nghĩa là sông. Những tàn tích về người Việt có thể quan sát được trong một số nhóm thiểu số ở Trung Hoa. Ở Chiết Giang, nhà hát được gọi là rạp diễn Việt kịch. Tiếng Việt là một bộ phận của tiếng Trung Hoa và thường được gọi là tiếng Quảng Đông. Mẫu tự chính thức và các phương ngữ hình thành từ nó được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hồng Kông, Ma Cao và tại một số cộng đồng Hoa Kiều trên thế giới. Một số tên gọi khác của người Việt còn truyền được tới nay là Yi-Yue (hoặc Yu-Yue/ Ngải-việt), Mân-việt, Sơn-Việt, Dương-Việt (người Việt ở biển), U- Việt và Câu-Ngô. Những nhà nghiên cứu tiếng dân tộc cho rằng tên gọi người Việt có liên quan đến nghề chế biến cây gai dầu ở miền nay là Chiết Giang. Chữ Việt cũng được xem là từ chỉ lưỡi phủ việt, một dụng cụ hay khí giới giống cái búa hay cái rìu, hình chữ nhật, biểu trưng cho quyền lực hoàng gia hay đế chế. Nhiều dụng cụ dạng rìu bằng đá đã được tìm thấy ở Hàng Châu, do vậy, nhiều học giả cho rằng lưỡi việt (búa dùng trong nghi lễ) là một sáng chế của miền Nam. Chữ Việt cũng từng được dùng để chỉ Quảng Đông và Quảng Tây [4] . Cho dù nhiều bộ tộc Việt vẫn thấp thoáng đó đây trên lãnh thổ CHND Trung Hoa và để lại những dấu ấn trong sử sách đến cuối đời Hán, nay chỉ có thể kể tên vài nhóm dân Việt như Palyu “Lai", Bugan “Hualuo hay Huazu”, Bit, Bulang, Hu, Kemu, Khuen, Wa... Di sản lớn nhất của người Việt cổ chính là miền Bắc Việt Nam, miền đất mà họ chạy về đó định cư do sự truy bức của Trung Hoa. Về các tộc thiểu số khác ở khu vực nay là biên giới Trung Việt, theo sách của S. Robert Ramsey. Những ngôn ngữ của Trung Hoa (The Languages of china) tr. 233, không chỉ có Hakka (Khách gia, miền nam gọi là Hẹ), Mân và người Quảng Đông, là những người ở miền Nam Trung Hoa từ đầu, mà từ lâu đời người Thái đã thấp thoáng đóng một vai trò có qui mô ngay trước khi một thiên hạ Trung Hoa lộ rõ. Từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, những khu vực trồng lúa đã lốm đốm xuất hiện ở lưu vực sông Dương Tử. Vẫn theo S. Robert Ramsey, trong số các tiểu quốc được điểm tên trong lịch sử Trung Hoa có Ngô, ở gần Thượng Hải hiện nay, và Việt nằm dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, là những quốc gia của người Thái. Các quốc gia này dần dần bị Trung Quốc nuốt dần và đa số người Thái đã trở thành người Trung Hoa, qua đồng hóa về văn hóa và ngôn ngữ. Một nhà dân tộc học đã ước tính rằng ít nhất 60% người Quảng Đông có tổ tiên là thổ dân nói tiếng Thái. Về các vùng khác thuộc miền Nam Trung Hoa nói chung: miền Nam Trung Hoa trước thời Hán bao gồm nhiều nền văn hóa gần với Đông Nam Á như văn hóa Đông Sơn. hoặc những nền văn hóa nổi tiếng hơn như Ngải, Di hoặc Ba Thục. Trong đó, văn hóa Điền ở Vân Nam thể hiện những cư dân khác sau thời đồ đồng. Xứ Vân từng cho thấy mối liên hệ về các nhóm người phương Nam với những bức tranh trong hang vẽ pháp sư (saman) khua gươm cong, chuôi có núm tròn kiểu Hán, thể hiện quyền lực trên đầu một đám đông. Người Hán từng có tục xăm mình để trấn áp những chứng bệnh nhiệt đới cũng như những cừu thù trong thời gian chiếm đóng những vùng đất thù địch. Ở Vân Nam, văn hóa hiện đại của địa phương này không có nhiều liên hệ với nền văn hóa thuần Hán của vùng đồng bằng trung tâm cả về tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực. Ở Vân Nam, còn tồn tại tục ăn côn trùng. Những nguồn và ý kiến trên thường thuộc về các nhà nghiên cứu phương Tây, ít gây tranh cãi hơn so với những ý kiến dưới đây. Nhóm thứ nhất (người Trung Hoa, đa số là ở lục địa) cho biết một số phát hiện và khẳng định sau: Người Quảng Đông cách đây 2.000 năm là sự pha trộn giữa người Việt tại chỗ và người Hán. Người Việt lúc đó gần với người thiểu số dân tộc Nùng hiện nay ở Việt Nam. Vương quốc Nam Việt gồm những cư dân người Kinh (?) sống ở đó nhưng họ là người Trung Hoa. Quảng Đông và Quảng Tây cũng như quốc gia cổ Nam Việt, không có quan hệ với dân tộc hiện nay mang quốc hiệu Việt Nam. Hoặc họ (người Trung Hoa ở phương Nam) không có quan hệ gì với người Nam Việt, cho dù Triệu Đà, vua Nam Việt lúc đó là người Hán. Trong khoảng 100 năm gần đây người Hoa di cư xuống Việt Nam là từ Lưỡng Quảng và Phúc Kiến. Người Hán phương Bắc, theo nhóm thứ nhất, hầu như không di cư xuống Việt Nam, họ chỉ chạy sang Nam Triều Tiên vào năm 1949 và định cư chủ yếu ở Pusan và Seoul. Người Hoa di cư xuống phía Nam thường không phải là người Hán. Họ tự gọi mình là người Minh Hương, hiện ở Việt Nam còn thế hệ thứ tư của những người Minh Hương, phần nhiều không nói, viết được tiếng Hoa. Người miền Nam Trung Hoa có ngoại hình khác với người Trung Hoa phương Bắc. Nhà Nguyên Mông chia người Trung Hoa thành các nhóm: Mông, du mục người Hán phương Bắc, người Hoa phương Nam. Một vài ý kiến cho rằng người Trung Hoa phương nam có ngoại hình phần nào giống với người Việt Nam. Nhiều người Quảng Đông hiện đại còn giữ được gia phả theo đó tổ tiên của họ di cư từ phía bắc xuống Quảng Đông vào đời Đường (618-907) và đời Tống (960-1279). Cuộc di cư lớn nhất xảy ra vào cuối đời Tống, họ cư trú ở nơi mà người Nam Việt đã bị đẩy xuống Quảng Tây hoặc Việt Nam hiện nay, nơi mà khi đó những người Choang là thiểu số so với người Kinh chiếm đa số. Người Trung Hoa ở phương Nam hiện nay nói chung đã bị Hán hóa. Còn có trên 50 triệu người thuần huyết thống Nam Việt hiện ở Quảng Tây và Quế Lâm. Những người thổ dân thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Tày, Đai..., được chính phủ Trung Hoa xếp vào cùng nhóm với người Choang, nhóm này có tổng dân số trên 20 triệu người. Không có nhiều người Quảng Đông sinh ra ở Việt Nam. Cộng đồng Trung Hoa ở Việt Nam chủ yếu là những người nói tiếng Triều Châu (Tiều) hoặc Phúc Kiến [5] . An Dương Vương (Thục Phán), Triệu Đà, cũng như anh hùng dân tộc của Việt Nam Lý Bí, đều là người phương Bắc Trung Quốc. Nhiều ý kiến của nhóm thứ nhất thường nhấn mạnh rằng họ là những người Quảng Đông thuộc về hệ Hán, hiện chiếm đa số ở khu vực Lưỡng Quảng, và "rất tự hào về nguồn gốc Hoa Hạ và Đông Di của mình", hiện chung sống với "các dân tộc thiểu số” đáng yêu có nền văn hóa rực rỡ, danh giá thuộc về giòng dõi Nam Việt. Rằng đa số người Trung Hoa hiện đại không cho rằng nước Nam Việt lúc đó gần với Âu Lạc (được xem là nằm trong vương quốc Nam Việt) hơn là gần với Trung Hoa. Rằng những người Việt Nam hiện đại kém hiểu biết cần được dạy dỗ, rằng họ chỉ có quan hệ với Âu Lạc, nhưng không có quan hệ gì với vương quốc Nam Việt. Cổ sử Trung Hoa, theo họ chép rằng những người Hán đã tàn sát và đánh đuổi những bộ lạc Việt về phía Nam và xuống đồng bằng sông Hồng trong "các cuộc chinh phạt cướp đất". Có ý kiến khuyên người Việt không nên tự hào về dòng dõi Nam Việt vì đây chính là giống Nam Man [6] . Một số ý kiến cho rằng người Việt nhìn chung là “bội bạc", "quanh co”, đàn ông Việt Nam không chăm chỉ và không chú trọng xây dựng gia đình theo khuôn mẫu Á đông. Có ý kiến lại cho người Việt là đần độn và khờ dại. Cũng có ý kiến cho rằng người Việt hiện đại xấu hổ (?) vì dòng dõi Bách Việt và tìm cách “leo thang" để gắn mình với người Quảng Đông và người Trung Hoa. Và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ không được người Mỹ ưa chuộng (?) Xin nêu thêm một số phát hiện đến từ cả hai nhóm và các nhà nghiên cứu phương Tây: Nhà Tần (221-206 tCn) cũng có truyền thuyết về con chim thần (tựa như Âu Cơ). Có nhiều người Việt cổ bị đồng hóa thành Trung Hoa nhiều năm trước đây. Chẳng hạn họ Âu-dương đến từ đất Lư Lăng của vương quốc Việt cổ. Có một hoàng tử Việt mang họ này bị nhà Chu bắt. Hậu duệ của ông, một sử gia nổi tiếng nhà Tống mang họ này. Hiện nay, ở một số tỉnh miền Nam Trung Hoa còn nhiều người mang họ này. Một số người Quảng Đông cũng mang họ này. Sử gia đời Tống Âu-dương Tu cho rằng người Việt có cùng một tổ tiên với với người [Hoa?] Hạ, một quan điểm bị nhóm thứ nhất của Diễn đàn này phê phán. Các khu vực Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam từng có nền văn hóa riêng và dân cư khác biệt, không in dấu lên triều đình Hán hay các nghi thức đặc trưng cho đế chế Trung Hoa. Quảng Châu được Ngô vương Tôn Hạo, vua thứ tư nhà Đông Ngô, chắt của Tôn Quyền, chia tách từ Triều [?] Châu [7] vào năm 264. Có lượng đáng kể của dòng máu Trung Hoa trong huyết quản người Lạc Việt và U Việt. tức là người Việt hiện đại. Những người U Việt thuộc nhóm Bách Việt, bị nhà Thanh (1644-1911) dồn đuổi xuống lãnh thổ Việt Nam. Chuyện chín chúa tranh vua" (Cẩu chúa cheng vùa) của các dân tộc Tày, Nùng… có thể là minh họa cho sử liệu này. Khái niệm “Hán hóa” từng thuộc về những đường biên giới cổ đại thật xa lạ với hiện nay. Không thể xem là những tộc người thiểu số đang không được đãi ngộ ở CHND Trung Hoa, cho dù một số trong họ đã biến mất trong những triều đại phong kiến sau cùng. Miền Nam Trung Hoa từng thuộc những tộc người thiểu số hiện cung cấp một ít di sản phục vụ cho du lịch. Không nên nghĩ rằng tất cả công dân Trung Hoa thực thụ hiện đang cố trở nên càng giống Hán càng tốt. Những dị biệt về tính cách sắc tộc và văn hóa vẫn còn tiềm tàng ở CHND Trung Hoa, thể hiện cả ở nét mặt của những người không phải dân tộc Hán. Những khu vực như Tân Cương hay Tây Tạng về cốt lõi văn hóa vẫn cho thấy sợi chỉ mỏng manh của bản sắc văn hóa và cho thấy rõ ràng nên xem xét cư dân hoặc sở hữu đất đai (!) có thể xem là hoàn toàn Trung Hoa hay không. Sự hiện diện trước đây của những thổ dân không phải người Trung Hoa có thể thấy rõ trong những tài liệu khai quật được. Nhưng công nhận hay không công nhận điều này cũng không thể xem như lý do để chuyển sang đề tài chính trị. Càng không phải duyên cớ để các khu vực khác khoanh vùng để đòi lại… (đây là ý kiến từ phương Tây). Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN. Một ý kiến đáng chú ý từ nhóm thứ hai - chủ yếu gồm người Việt hải ngoại, kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa - không gặp phải phản kháng của nhóm thứ nhất: Việt là từ mà người Hoa Hạ gắn với thổ dân khu vực đông nam của Trung Hoa mà họ gặp phải. Định nghĩa khái lược này hợp với một địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á… bao gồm ngoài đông nam Trung Hoa còn bao gồm Tây Nam nước này. Đông Nam Á xét về vị thế, Đông bắc Ấn Độ, các đảo trên Thái Bình Dương, và Madagascar. Dân này nói tiếng Austronesian, Tai-Kadai, Austroasiatic và Hmong-Mien (Mon-Khmer). [1]Người dịch tổng hợp và chú thêm niên đại để người đọc tiện theo dõi. Chú thích trong bài là của ban biên tập Xưa & Nay. Chú thích của talawas để trong []. [2]Theo một nguồn nữa, các bộ lạc không phải người Hán gồm: Hoa Di (thuộc bộ tộc Lô Lô) hay Xu và Việt ở phía đông, Khuyển Nhung ở phía tây, Di ở phía bắc, Pu, Khương và Man ở phía tây nam và phía nam. [3]Theo một Website phương Tây được công nhận rộng rãi [?], nước Ngô cũng là một quốc gia của người Việt nằm ở nam Giang Tô và bắc Chiết Giang. Giới quý tộc của hai quốc gia này học tiếng Trung, thuận theo pháp luật Trung Hoa và học theo công nghệ quân sự Trung Hoa, phát triển giao thông thủy là chính, và nghề nuôi trồng thuỷ sản, chứ không chỉ làm thuần nông nghiệp. Hai nước này cũng nổi tiếng về nghề đóng tàu và tác chiến trên sông nước, cũng như nghề làm gươm. Vào thời Chiến Quốc, hai nhà nước Ngô và Việt, bắt đầu can thiệp mạnh hơn vào chính trường Trung Hoa. Năm 506 trCn, chiến tranh bùng nổ giữa Ngô và Việt, lúc ác liệt lúc lắng dịu trong suốt 30 năm sau. Tới năm 473 trCn, Việt Vương Câu Tiễn chiếm được Ngô, được các lân bang là Tề và Tấn công nhận. Năm 333 trCn, đến lượt Việt bị Sở thôn tính. [4]Như khái niệm biên khu Việt-Quế được dùng khoảng giữa thế kỷ XX, bên kia biên giới là hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam. [5]Được phương Tây xem là những nhánh của ở phương Nam có liên hệ với Hán tộc. Tuy nhiên, một trang Web thông dụng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ phương Tây [?] cho rằng tiếng Phúc Kiến và Triều Châu là phương ngữ phụ trong tiếng Mân. [6]Là một trong số các dân tộc mà người Hán coi là mọi rợ (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Xin lưu ý ở trên có ý kiến của người Quảng Đông hiện đại thể hiện sự tự hào là người Đông Di. [7][có thể ông LĐH nhầm. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay.] Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33 Nguồn: http://www.phamthihoai.org
  13. Phoenix rất tán đồng đề xuất của chú Thiên Sứ. Phoenix đề xuất thêm, ACE cử ra một người tập hợp và cập nhật danh mục các bài đã sưu tập để tránh bị trùng lặp và tiện cho việc tra cứu.
  14. Không có cách khắc phục hả chú Thiên Sứ?
  15. Trung Quốc binh đao chiến sự nhiều, võ học phát triển là tất yếu. Tuy thế, ai dám khẳng định những chiêu bay lượn phóng chưởng, rồi "truyền âm nhập mật", độn thổ, nội công "hộc máu" là những đặc trưng của võ học Trung Hoa dù nó đầy rẫy, nhan nhản trong phim của TQ, HK, ĐL. Thực tế thì chúng đã góp phần không nhỏ làm cho đông đảo công chúng tin vào sự kỳ diệu của võ học Trung hoa mà chính họ thừa sức để hiểu rằng điện ảnh đã "vẽ" thêm màu sắc cho thực tế. Nhưng những người dân Trung Hoa bình thường nhất hiểu rằng, võ học của họ không phải là sự "bay lượn" như trong phim. Cách đây một thời gian, đài truyền hình đã giới thiệu về 10 trường phái võ nổi tiếng và truyền thống nhất của Trung Quốc. Trong đó có một loại võ cực kỳ đơn giản, nguyên thủy nhưng thiết thực giúp cho những người Trung Hoa yêu nước giành được thế thắng trong cuộc tranh đấu của họ. Như vậy, điện ảnh phải làm vai trò của nó. Vai trò đó không phải chỉ là làm phim tư liệu trung thực về lịch sử mà phải làm ra những bộ phim có tính nghệ thuật và giá trị thẩm mỹ cao (cả mỹ học và nhân văn) đối với đời sống con người từ những tư liệu đó. Phim Việt Nam đa số như cơm tẻ nấu dở: vừa khô, vừa sạn, vừa sượng, vừa nát lại vừa cháy. Chỉ một phần trong số phim ảnh của chúng ta giống như bát cơm nếp thêm, làm người ăn cảm nhận được mùi hương lúa nếp, hình dung được cánh đồng lúa rì rào. Trong khi đó, trên thế giới - hầu hết các bộ phim được công chiếu và thành công đều có chung 1 giá trị là tạo cảm xúc, truyền được cảm xúc đến người xem khiến họ hòa đồng vào tình huống, nội dung phim. Như họ là một nhân chứng cho phim vậy. Phim Hàn Quốc rất dài dòng, lê thê, cốt truyện nhàm nhưng đánh vào tình cảm đời thường của đa số thanh niên, phụ nữ (rất đúng đối tượng). Nó làm người ta dễ cảm thông, dễ hiểu, và dễ bị xúc động cùng nhân vật, tình huống phim. Chưa kể là tác phong và trang mục rất hiện đại, mode của diễn viên thì tạo cảm xúc rất mạnh với giới trẻ. Phim Mỹ cực kỳ đặc trưng về việc truyền thông điệp và cảm xúc. Nếu không đánh vào ấn tượng "sững sỡ" trong các bộ phim viễn tưởng, khám phá.... thì cũng đánh vào tinh thần vươn lên, ý chí với cuộc sống, thái độ tích cực trong các vấn đề mâu thuẫn .... Diễn viên, trang phục, thiết kế cảnh quan thì khỏi nói, làm cho đa số khán giả thấy đúng như (thậm chí hơn) mình mong muốn, không có gì phải chê nữa. Phim Trung Quốc cầu kỳ đến kỹ lưỡng. Sự sáng tạo thì không ngừng. Cùng một cốt truyện có đến cả chục phim mà người xem vẫn có thể xem được. Chẳng mấy ai ngồi phê phán cái ông này mặc không giống ông kia trong truyện. Người xem bị hấp dẫn bởi tình huống chuyển thể trong phim, sự đổi mới trong phong cách diễn viên, thậm chí người ta còn mong chờ để xem diễn viên sẽ mặc trang phục nào thay cho trang phục của chính nhân vật đó mà phim khác đã mặc. Điện ảnh là NGHỆ THUẬT thứ 7. Đã là nghệ thuật thì đòi hỏi đầu tiên của nó là sự sáng tạo. Nhà làm phim có trách nhiệm làm ra cái mới và truyền giá trị từ cái mới đó tới người xem để thể hiện các thông điệp. Thế mà các bác nhà ta cứ lấy lý do lịch sử này nọ để nói rằng phim không khả thi. Sao chẳng nói thằng băng ra rằng: Sợ các nhà làm phim của Việt Nam chẳng làm nổi một bộ phim cho ra phim với đề tài này vì nó quá khó và quá "bó".
  16. Chú Thiên Sứ kính mến, Trong trường hợp vì điều kiện thi công khó khăn khiến cho căn nhà không thể tô trát toàn diện phần tường bao ngoài thì sẽ ảnh hưởng thế nào đến sự hài hòa theo quan điểm của PTLV? Nếu khắc phục thì có giải pháp nào không?
  17. Thiên Đồng kính mến, bao nhiêu ngày mới được cái quẻ Đỗ Đại An. Phải cảm ơn Thiên Đồng nhìu wá :wacko: Xem ra còn mệt mỏi. Không biết Tốc Hỷ tương ứng với phần nào của cái nhà nhỉ?
  18. Phoenix bị bệnh, lấy quẻ cho mình là lộn xộn. Thêm nữa, vốn không chú tâm học hành nên luận quẻ rất "lởm khởm". Lại nhờ Thiên Đồng thêm lần nữa nhé? 1. Phoenix có xin được giấy phép xây nhà sớm không? 2. Việc xin giấy phép có gặp khó khăn, trục trặc hay tốn kém gì không? 3. Việc xây nhà có suôn sẻ, trọn vẹn không? :ph34r: Phiền Thiên Đồng nhé! Có dịp sẽ hậu tạ. :ph34r:
  19. Cây cổ thụ - Linh hồn của Thủ Đô Hà Nội. Ảnh VIT Trong trí nhớ và trong mắt cha tôi, Hà Nội cổ truyền tan biến dần cùng với sự ra đi của những cây cối mà kỷ niệm bám víu vào. Và, vào một dạo xuân, khi cây gạo gốc sần sùi thân cao ngất đứng trước đền Ngọc Sơn, hầu như mùa cuối cùng buông rơi những bông hoa ngô nghê, cha tôi lặng lẽ ra đi trên chiếc ghế, nơi ông tâm tưởng về lòng trung hậu giữa người đời, lòng trung hậu ngay cả với cỏ cây quanh ta. Đã đành, cây là cây. Mọc, lớn, chết. Chết già, chết thui, chết chặt. Thoát chết thui và chết chặt, thành cổ thụ. Cổ thụ, đứng giữa rừng, thân to, tán rộng, sống lâu mà trông vẫn cường tráng, vẫn ngây ngô. Cổ thụ, đứng đầu làng, cạnh những ngôi đền, đình và chùa, giữa người đời và thánh thần, nhìn thấy và nhịn chịu tất thảy, trông giống hệt các bô lão, phải gọi chúng là cụ mới phải. Nhiều khi chúng còn cao tuổi hơn cả những ngôi đình và nếp chùa, già nua hơn những con đường lát gạch móm mém. Và, giả dụ biết nói, chúng sẽ kể cho ta nghe câu chuyện miên mam về những niềm vui và những nỗi thống khổ của các kiếp người và kiếp cây. Làng quê ta đâu đâu cũng bắt gặp những cây - bô lão như thế. Muốn ngả mũ chào, muốn cài dắt nén nhang, tựa như đứng trước một ngôi miếu vô danh Ôi, những cây đa, cây đề, cây si, cây bàng quê ta, bởi sao mà chúng đậm hồn Việt đến thế. Hoa sưa đường Trần Hưng Đạo. Ảnh VIT Cây cổ thụ đứng giữa phố phường hình như cũng thành thị hoá. Thành thị hoá không chỉ bởi chúng được đem trồng thành hành, thành lối hai bên đường hay ở các vườn hoa. Thành thị hoá bởi chúng, như người thị thành, phải chịu sự chen chúc, va chạm và lấn lướt. Thành ra cây ở đô thị nom khô, nom từng trải hơn cây ở làng. Khuôn mặt phố phường có thể hôm nay cũ kỹ và ngày mai có thể tươi trẻ lên, song những cây cổ thụ thì, dù là lá cứ xanh hoặc cứ rụng khi mùa đến, gốc rễ của chúng, tấm thân của chúng vẫn cứ già cỗi đi. Nhìn chúng, ta không thể không suy tưởng rằng cây cũng có tính cách, có tâm tư và có thái độ. Nhận rõ hơn là sự cam chịu, không nói lên lời, trên da thịt những cây cổ thụ ấy.Cha tôi, thời trước, thường kể cho tôi về những cây cổ thụ và những loài cây chỉ mọc ở Hà Nội. Ông nhớ chúng vanh vách, như Ông nhớ các căn nhà và chủ nhân trên các phố Hành Gai, Hàng Đào, Hàng Cân… Ông nhớ tới những cây gạo, vốn là đồ trang sức của chốn quê nghèo, không rõ vì sao lại mọc ở Hà thành lắm thế: một cây ở bên Nhà hát Lớn, chỗ khách sạn Hilton bây giờ, một cây mọc ở sát đường tàu điện, chỗ bệnh viện Đống Đa… Ông than thở về cái sự những cây đa, cao tuổi hơn vài lần các phố phường Hà Nội, bị giam nhốt trong một công sở ở phố Hàng Trống, ở sân sau của một viện bảo tàng. Ông kể về cái cây đa có từ thời phố Hàng Gai còn làm độc nghề in sách và bán sách, nay bị nhà cửa chen lèn, chặt đến nỗi không hiểu làm sao cái cây già khụ ấy còn chưa tắt thở. Ông kể về hàng cây cơm nguội trên một đoạn phố Lý Thường Kiệt, nơi một chiều đầu năm 1947, có chàng trai đất Hà thành giắt trái tạc đạn bên sườn, vác bao cát đặt lên vỉa hè, áp súng vào má, bắn Tây. Một viên đạn từ phía khác kết thúc đời chàng trai phong lưu. Chỗ anh yên nghỉ, trên một con phố ngắn, suốt mấy chục năm, cả thời Tây lẫn thời ta, hai hành long não đẹp như sắp đặt, nghiêng nghiêng cúi mình. Nay con phố này đã thành chợ, nhiều người, lắm hàng, thừa rác. Tiếng chặt thịt cầy nghe rền tai, ghê ghê. Trong trí nhớ và trong mắt cha tôi, Hà Nội cổ truyền tan biến dần cùng với sự ra đi của những cây cối mà kỷ niệm bám víu vào. Và, vào một dạo xuân, khi cây gạo sốc sần sùi, thân cao ngất đứng trước đền Ngọc Sơn mùa cuối cùng buông rơi cùng buông rơi những bông hoa ngô nghê, cha tôi lặng lẽ ra đi trên chiếc ghế mây, nơi ông tâm tưởng về lòng trung hậu giữa người đời, lòng trung hậu ngay cả với cỏ cây quanh ta. Ông ra đi, như cây già, chết tại chỗ vậy. Cho đến bây giờ, mỗi lần đi trên đường Điện Biên Phủ (xưa kia là đường Cột Cờ), tôi chưa bỏ được thói quen đếm xem còn bao nhiêu cây đa để về mách lại với Ông. Cây hoa sữa trên đường Nguyễn Du. Ảnh VIT Mới đây, tôi có dịp đến một đất nước xanh - sạch - tươm và đẹp như thể một vườn hoa khổng lồ. Những thảm cỏ và luống hoa được chăm chút như cái thảm nhà mình. Những thân cây trẻ khoẻ, tán lá mỡ màng, không vương vấn bụi. Những toà nhà ngất trời không một vết nhơ bẩn. Sạch và tươm, tưởng đến mức vô trùng. Sạch và tươm, tưởng như không tưởng. Y hệt một mô hình kiến trúc tỉ lệ 1: 1. Lạ thay, ở chính cái vườn hoa - địa đàng ấy, bỗng dưng tôi nhớ tới Hà Nội với những con phố cũ kỹ, luộn thuộm, đầy kịt chất đời và vị sống. Những con phố che không xuể cái cũ, cái nghèo, cái duyên thầm của mình bởi những cây, những hàng cây cổ thụ. Chúng không đẹp như những cái cây ở đô thị giống như mô hình kia. Chúng là những bộ trang phục cũ kĩ, mộc mạc mà phố phường Hà Nội quê tôi ăn bận vào mình. …Để thoả sức ngắm cây, tốt nhất là cưỡi lên xích lô hoặc xe ôm, cứ việc ngửa mặt, ngước mắt lên mà ngắm, mà ngẫm về cây vào cuối thu đầu đông, vào ban mai, khi nắng vẫn còn non và sương chưa tan hết. Phố tôi ngụ, hai bên mọc đều những cây bàng, cùng nghiêng đầu vào giữa lòng đường, che phủ những dãy nhà cũ và mới với hình hài kiến trúc hãm tài. Những cây bàng làm phố tôi ở giống hệt những con phố tỉnh lẻ khác, giông giống cả những con phố ở Huế, ở mãi tận Côn Đảo. Song, ở những nơi ấy, cây bàng, nhìn kỹ, có khác. Chúng bồng bột hơn. Trong làn sương sáng, rặng cây cơm nguội cuối đường Yên Phụ, trước lối rẽ vào khách sạn Thắng Lợi, quanh năm tán lá lưa thưa và màu lúc nào cũng vàng hoe hoe, cứ tưởng như chúng có bổn phận lưu níu cái đẹp của thu Hà Nội mà thực ra chỉ cảm nhận được vài ba chục ngày, mỗi năm. Tôi thuộc hàng cây đa trên đường Trấn Vũ, Quán Thánh, Yên Phụ và trên những con đường khác. Song tôi chưa thấy cây đa nào mà thân hình có dáng vẻ đồ hoạ và có sức biểu đạt như hai cây trồng trước đình Thanh Hà ở Ngõ Gạch. Chúng tưởng như đã được “chậu cảnh hoá”, không thể mọc cao và bành trướng ra, vì nơi đây con người qua lại phải ý tứ, kẻo va đụng vào nhau. Cây lộc vừng chín gốc ven Hồ Gươm. Ảnh VIT Ở Hà Nội, còn có những đường phố cây trồng theo quy củ từ thời Pháp thuộc; độc cây sấu, độc cây xà cừ, long não, sao đen… Những thứ cây trồng theo trật tự ấy, thoạt đầu chỉ cốt để lấy bóng mát, mọc lâu cũng có được tính riêng đâu. Nói đến đường phố nào, nhớ ngay đến hình ảnh cây cối ở đó, trước khi nhớ đến kiến trúc. Đường Phan Đình với bốn hàng cây sấu, đường Tràng Thi với hai hàng cây bàng rõ to, sao mà đẹp, mà sang, mà nhã đến thế. Đường phố bởi vậy mà có thương hiệu, thương hiệu tạo nên bởi cây. Núp dưới bóng cây hầu như là tất cả: Phật, thánh, thần, ma quỷ, nhà, quán, người đời… Ở Hà Nội, quán nào mà tìm được gốc cây, có đất rộng mươi mét vuông và có tán lá rộng là cuốn hút được khách đến với mình. Nơi những cái quán ấy, cây trở thành cái trụ của ngôi nhà không có mái, trở thành ông chủ của cái tiệm, tạm bợ mà bám trụ lại lâu. Người ta hẹn nhau đến quán này quán nọ, theo gốc cây. Riêng tôi có thói quen chiều chiều, gọi bạn, đến gốc bàng ở ngã ba phố Chân Cầm và Lý Quốc Sư, uống bia. Ở góc phố rộng hơn vài cái chiếu đôi ấy, hễ ngồi xuống là quên hết: sự chật chội, sự nhếch nhác, sự ngó nhòm đầy hiếu kỳ của những ông Tây bà đầm lướt qua trên những chiếc xích lô. … Tôi cứ hay tự vấn, vì sao những cây ở các đường phố mới, vừa trồng mà thân đã có hình hài nghiêng ngả và cong queo, chẳng khác gì những ông cụ non. Thì ra, chỉ vì tiếc công, tiếc tiền và lười biếng mà những người cắm chúng xuống đất, không kẹp vào mấy cái que. Như người ta kẹp răng, cho đỡ vẩu vậy. Quả đúng là cây cối góp phần tạo nên một góc cái duyên, cái riêng của cảnh sắc Hà Nội. Và, nếu nói kiến trúc Hà Nội là một quỹ văn hoá - vật chất độc hiếm, một di sản đô thị thì cây cối cũng không thể tách rời khỏi cái vốn liếng ấy. Y hệt như sông hồ không thể tách lìa khỏi cái cơ thể thống nhất của Hà Nội Đã ai làm cái việc kiểm kê xem trong quỹ cây xanh Hà Nội, có những loại cây gì? Cây gì là phù hợp nhất, lợi ích nhất, đặc trưng nhất? Đã ai kiểm kê xem Hà Nội ta có bao nhiêu cây thuộc diện cổ thụ, đại cổ thụ? Đã ai nghĩ đến việc duy dưỡng chúng, giải thoát chúng khỏi những cái ôm quắp đến nghẹt thở bởi nhà phố? Đã ai kiểm kê xem những còn phố nào, những đoạn phố nào có những loại cây góp phần định đoạt diện mạo không lặp lại, cho chúng? Đã ai nghĩ đến việc bổ khuyết những loài cây quý hiếm đang mất dần, làm cho những con phố trở nên hẫng hụt? Ai nghĩ tới việc chữa trị những cây - bô lão đang thoi thóp? Cây cổ thụ, một dạng di sản, góp phần gìn giữ bộ nhớ cho đô thị. Một lần tản bộ, nhận ra trên đường Trần Phú ở Hà Nội, người ta trồng sấu non vào chỗ những cây mới chết. Một lần tản bộ trên đường Lê Lợi ở Huế, thấy người ta trồng cây long não non vào những cây mới đổ. Mừng và hy vọng, thay cho cây. Hoàng Đạo Kính Nguồn: http://www.vitinfo.com.vn
  20. NHÀ BA GIAN Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ PHONG THỦY LẠC VIỆT Phong Châu(*) Ở các vùng nông thôn Việt Nam – nhất là các vùng miền Bắc – các căn nhà 3 gian,1 gian 2 trái, 5 gian là những kiểu nhà rất phổ biến. Sự giàu có hay nghèo hèn của chủ nhân những ngôi nhà, được thể hiện qua qui mô và vật liệu làm nhà; nhưng kiểu dáng hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Có thể có một vài biến tấu trong kết cấu kèo, cột, sự nhô ra, thụt vào của các phòng…Ví dụ như kiểu nhà ba gian – Tứ trụ giao nguyên, một thò hai thụt – tức là ngôi nhà ba gian có vì kèo hai lớp hàng ngang, giống như hai tầng cây xuyên. Những căn nhà này được bố trí theo hàng ngang, có mặt tiền rất rộng, có thể có một hay nhiều cửa cùng hướng mặt tiền của căn nhà. Một đặc điểm nữa là kiểu bài trí đồ đạc trong nhà cũng na ná như nhau: Căn phòng chính giữa được bố trí làm phòng khách và nhà thờ. Ngay sát tường đối diện với cửa cái người ta đặt bàn thờ - Thần, Phật và Gia tiên. Theo phép thờ cúng thường người ta đặt bàn thờ Phật ở chính giữa – nếu đứng từ ngoài nhìn vào – bàn thờ Thần đặt bên tay trái, bàn thờ Gia tiên đặt bên tay phải. Trước bàn thờ, người ta thường có đặt một bộ trường kỷ hoặc bàn ghế tiếp khách. Hai bên cột nhà trước bàn thờ, người ta thường treo hoành phi, câu đối, hoặc như nhà nào nghèo trên vách cũng treo tranh hoặc câu đối bằng giấy. Nhà thường không có chia buồng ngang, nên người ta hay đặt hai bộ ván ở hai bên nhà. Nếu có chia làm hai trái thì một bên nhà người ta để cót thóc hoặc giống cây các loại cho mùa sau. Một bên người ta làm phòng ngủ. Thông thường thì khu vực bếp làm riêng, biệt lập hoặc ngăn cách hẳn với căn nhà. Có thể nói: Do sự phổ biến và tồn tại rất lâu đời, nên những kiểu nhà trên trở thành một lối kiến trúc đặc thù, rất phổ biến trong văn hóa nông thôn Việt Nam. Tại sao ông cha ta lại chọn kiểu nhà này? Nếu xét dưới góc độ Phong thủy thì những kiểu nhà này có những đặc điểm chung như sau : * Cách bài trí nội thất trong nhà như trình bày ở trên gợi cho ta một ý niệm về sự cân bằng Âm Dương. * Tất cả các ngôi nhà từ trước đến sau chỉ có một ngăn. Do đó, hướng nhà, hướng phòng, sơn nhà, sơn phòng đều trùng hợp. Trong Phong thủy gọi đó là nhà Đơn trạch . * Thông thường các căn nhà đều được bố trí theo hướng cửa chính là Nam hoặc Đông nam. Các cụ thường ví: “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam”. Với sự phổ biến kiểu nhà này ở khắp một vùng nông thôn rộng lớn và tồn tại lâu đời, đã chứng tỏ một sự thống nhất về văn hóa xã hội và là một sự lựa chọn có ý thức của tiền nhân. Nhưng tại sao tiền nhân lại chọn kiểu nhà này? Theo cái nhìn của thuật Phong Thuỷ – dù xét theo phương pháp của Dương trạch tam yếu hay Bát trạch minh cảnh và trong điều kiện kinh tế thời xưa – thì đây là một kiểu nhà bảo đảm tối ưu về mặt phong thuỷ cho một căn nhà, trong sự tương quan nội tại của căn nhà đó (Không tính tương quan của căn nhà với cảnh quan môi trường). Điều kiện cần để có sự tối ưu này là căn nhà hợp hướng với cung mạng của chủ nhà. Những sự phân tích dưới đây, được đặt giả thiết là hướng nhà hợp tuổi chủ nhà. 1) Lập luận theo Dương trạch tam yếu: Một căn nhà được coi là tốt thì phía sau nhà phải tốt (Tọa sơn tốt – nói theo thuật ngữ Phong thuỷ) và hướng nhà phải tốt. Vì là nhà đơn, nên tất cả các phịng chính và phụ đều có hướng tốt và toạ sơn tốt. 2) Lập luận theo Bát trạch minh cảnh: Do tất cả các phòng và nhà đều hợp hướng chủ nhà (theo giả thiết đã nêu). Bởi vậy sẽ mang lại sự thống nhất và phát tài cho gia đình. Đến đây, một vấn đề được đặt ra: Theo đồ hình Hậu thiên bát quái từ bản văn cổ chữ Hán thì Hậu thiên bát quái Văn Vương phân Đông & Tây trạch như sau: ĐÔNG TÂY TRẠCH BÁT QUÁI VĂN VƯƠNG Như vậy, bạn đọc cũng thấy chỉ có người mạng cung thuộc Đông Tứ trạch mới có cơ hội được cặp sơn hướng tốt nhất là Bắc – Nam (Phúc Đức). Còn cặp sơn hướng tốt nhất của người Tây Tứ trạch là Tây Nam và Đông Bắc chỉ thuộc loại trung bình (Sinh khí). Không lẽ thuật Phong Thuỷ Đông phương lại chỉ ưu ái cho người thuộc Đông tứ trạch? Nhưng với đồ hình Hậu thiên bát quái đã hiệu chỉnh của Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb VHTT 2002) thì có sự cân bằng giữa Đông và Tây trạch vì cặp sơn hướng Tây Bắc – Đông Nam (Càn & Khôn) cho người Tây tứ trạch (Phúc Đức) tương ứng với cặp Bắc – Nam (Khảm & Ly) của Đông tứ trạch . Xin xem hình minh hoạ sau: ĐÔNG TÂY TRẠCH HẬU THIÊN LẠC VIỆT Trên cơ sở này chúng ta xem hình minh hoạ dưới đây cho một căn nhà truyền thống theo Phong thuỷ Lạc Việt: TỌA BẮC HƯỚNG NAM Khảm & Ly Phúc Đức trạch thuộc Đông tứ trạch TỌA TÂY BẮC - HƯỚNG TÂY NAM Càn & Khôn Phúc Đức trạch thuộc Tây tứ trạch Qua hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy: Đây là điều kiện tối ưu về phong thuỷ cho một căn nhà ở nông thôn Việt Nam (Với yếu tố cần là hợp hướng với cung mạng chủ nhà) dù luận theo phương pháp của Dương trạch tam yếu hay Bát trạch minh cảnh. Phải chăng sự hợp nhất trong cách giải thích về Phong thuỷ theo hai trường phái khác nhau cho căn nhà truyền thống của Việt Nam là cơ sở của một giả thuyết cho rằng: Những phương pháp ứng dụng khác nhau của các trường phái Phong Thuỷ hiện nay, ngày xưa vốn bắt đầu từ một phương pháp thống nhất và nhất quán. Nhưng sự thăng trầm về lịch sử khiến nó bị thất truyền và tán lạc? Chính từ những yếu tố tương tác khác nhau và những phương pháp ứng dụng của nó , mà người Hán sưu tầm được - từ những mảnh vụn còn lại của một nền văn minh Lạc Việt đã sụp đổ - người ta đã coi là những trường phái khác nhau và mâu thuẫn đến khó tin, dù cùng một phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành? Sự phổ biến trong kiến trúc của một kiểu dáng nhà ở các vùng nông thôn Việt Nam là một yếu tố nữa cho thấy sự thống nhất về văn hóa và tri thức, đã chứng tỏ rằng: Khoa Phong thủy lưu truyền trong văn hóa Đông phương, nguyên thủy vốn là một phương pháp nhất quán và hoàn chỉnh; thuộc về một nền văn minh một thời huyền vĩ ở miến Nam sông Dương Tử. Khi nền văn minh này bị sụp đổ vào thế kỷ thứ III trước CN, chính nền văn minh Hán đã tiếp thu một cách rời rạc những mảnh vụn của nó và lập thành những cái mà người ta quen gọi là gọi là trường phái; hỗn độn, mâu thuẫn và không đầu, không đuôi và chỉ là phương pháp ứng dụng. Người viết hy vọng những nhà nghiên cứu quan tâm sẽ đóng góp những ý kiến quý báu. PHONG CHÂU ------------- * Chú thích: Phong Châu là bút danh của Nguyễn Vũ Tuấn Anh khi viết bài này, đã đăng trên một tờ báo nào đó mà lâu ngày không nhớ tên. Trên đây là một bài viết của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố trên internet. Post lại cho ACE "ngâm" cứu. Bài này còn thiếu đồ hình chưa post được lên. Sẽ bổ sung sau.
  21. Về Bình Dương thăm nhà cổ Nguyễn Thị Hậu Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Cấu trúc địa chất cơ bản là vùng bán sơn địa nhưng có nhiều dạng địa hình tự nhiên như đồi gò, đồng bằng, sông ngòi, rừng nguyên sinh… Nơi đây là vùng đất lý tưởng vì sự đa dạng về thổ nhưỡng và môi trường sinh thái: vừa giàu có về rừng cây gỗ quý nổi tiếng một thời, vừa có chất đất thuận lợi để trồng cây công nghiệp và có cả đồng bằng phù sa màu mỡ. Trên vùng đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi nên nhìn chung dân cư Bình Dương có đời sống ổn định, nền nếp, phong lưu, văn hóa phát triển. Theo Đại Nam Nhất Thống chí thời Tự Đức, Bình Dương xưa thuộc trấn Phiên An, giữa hai huyện Bình Dương (Tân Bình) và Phước Long, dân cư trù mật, nhà ngói, phố chợ liền lạc, là xứ phồn hoa đô hội của đất Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. Ngày nay dấu ấn xứ phồn hoa đô hội ở Bình Dương vẫn còn được lưu giữ qua nhiều ngôi nhà cổ, một loại hình di tích văn hóa độc đáo của vùng đất này. Làng xã ở Bình Dương thường nằm yên bình, tĩnh lặng giữa thiên nhiên đầy cây xanh của vườn cây trái hay vườn cây cảnh, trên vùng đồi gò đã được khai phá thành vườn tược hay trên những cù lao nằm giữa dòng Đồng Nai. Có lẽ phong cảnh nhà vườn với nếp sống phong lưu thể hiện rõ nhất nơi những căn nhà bề thế, cổ kính trên những cù lao trù phú như cù lao Mỹ Hoà, Mỹ Quới (tên cũ của Bạch Đằng, Tân Uyên) cù lao Rùa, cù lao Thạnh Hội… Cù lao ở đây đã được con người chọn để cư trú từ lâu đời, nơi có nhiều dòng họ giàu có “tam đại đồng đường” trong những ngôi nhà cổ đồ sộ giữa vườn cây trái bạt ngàn, không gian tĩnh mịch và môi trường sinh thái trong lành. Tại Bình Dương hầu như có đủ các kiểu nhà thường thấy ở Nam Bộ. Nhà chữ đinh: là loại nhà phổ biến nhất tại Bình Dương. Kiểu nhà này có hai căn, căn nhà trên nằm ngang và căn dưới nằm xuôi, đòn dông của hai căn này thẳng góc với nhau, giống như chữ đinh (丁¡) trong Hán tự. Đặc điểm của nhà chữ đinh là cửa cái của nhà trên trổ ở chiều dài của ngôi nhà, còn cửa cái của nhà dưới trổ ở chiều rộng (tức ở đầu hồi nhà), do đó cửa cái hai căn nhà trên và nhà dưới đều mở ra cùng một hướng, có chung mái hiên trước, tạo sự đồng nhất cho toàn bộ ngôi nhà. Kiến trúc nhà chữ đinh thể hiện ý thức về trật tự phong kiến rất rõ. Nhà trên quan trọng vì là nơi thờ cúng tổ tiên nên thường bề thế, cao hơn nhà dưới, đây cũng là nơi sinh hoạt chủ yếu của nam giới. Nhà dưới là nơi ở chung của gia đình, nơi sinh hoạt thường xuyên của phụ nữ. Dù nhà bằng vật liệu bán kiên cố hay kiên cố, phần lớn nhà chữ đinh tại Bình Dương đều thuộc dạng nhà chữ đinh có cầu nối đặc trưng của miền Trung, tức là nhà có phần trung gian nối vách và mái giữa nhà trên và nhà dưới thành một tổng thể chứ không tách rời nhau. Để cất được một căn nhà chữ đinh, trước tiên phải có diện tích đất khá rộng, sau nữa chi phí cho vật liệu xây dựng khá cao, vì vậy chỉ những gia đình khá giả trở lên mới có khả năng đáp ứng. Có những ngôi nhà chữ đinh diện tích nhà trên đến 250m2 (ngang 10m dài 25m), được xây dựng bề thế với những cột gỗ lớn, các bộ phận trang trí kiến trúc được chạm khắc tinh xảo. Đi khắp Bình Dương, nhất là những nơi có cư dân lâu đời như thị xã Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, Dĩ An, Thuận An… đâu đâu cũng có những ngôi nhà chữ đinh cổ xưa với dạng nhà vườn giống nhau. Phổ biến là nhà chữ đinh có kích thước trung bình, mái ngói cổ rêu phong, hiền hòa giữa những vườn cây xanh, tạo cho cảnh quan cư trú một vẻ đẹp yên bình và sung túc. Nhà chữ Nhị cũng khá phổ biến tại Bình Dương. Loại nhà này có hai căn: nhà trên ở phía trước và nhà dưới liền ngay phía sau nhà trên, do đó hai cây đòn dông của nhà trên và nhà dưới nằm song song với nhau như chữ nhị (二þ). Bố cục mỗi căn nhà thường là ba gian, tuy nhiên sau này người ta cất nhà dưới dài thêm một gian so với nhà trên để lấy ánh sáng. Nhà dưới là không gian cư trú, còn nhà trên chủ yếu dành làm nơi thờ tự. Nhà chữ nhị cũng thuộc loại nhà có diện tích đất tương đối lớn. Nhà chữ Đinh và nhà chữ Nhị là những ngôi nhà có tuổi khá xưa, phần lớn được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, chủ nhân thường là người giàu có. Tuy đã trải qua trùng tu nhiều lần nhưng nhờ xây dựng bằng các loại gỗ quý, thợ dựng khéo léo và kỹ lưỡng, con cháu có sự lưu tâm giữ gìn nên đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhà ba gian hoặc ba gian hai chái là loại nhà phổ biến trong dân chúng. Không gian của căn nhà vừa để ở, vừa có chức năng thờ tự và tiếp khách. Nhà ba gian phân bố ở vùng nông thôn và cả thành phố. Để tận dụng diện tích làm nhà ở, theo độ che rộng của mái nhà, người ta xây dựng thêm một hoặc hai chái hai bên nhà ba gian. - Nhà năm gian hai chái tại Bình Dương được tầng lớp điền chủ, phú gia, trí thức giàu có ưa chuộng. Kiểu nhà này chiếm diện tích đất rộng, kỹ thuật xây dựng công phu, vật liệu tốn kém vì là sự kết hợp giữa kiểu nhà gỗ truyền thống với phong cách kiến trúc và vật liệu xây dựng của phương Tây, thường được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XX: nền nhà cao có bậc tam cấp, tường xây gạch dày, tô hồ quét vôi. Cột nhà có khi là cột bê-tông nhưng vì kèo gỗ và lợp ngói, có trần nhà. Nhà cổ ở Bình Dương cũng thể hiện tính chất chung của nhà cổ Nam bộ, đó là có kết cấu nhà cột giữa (nhà rôi) và nhà xuyên trính (nhà rường) theo hệ thống khung chịu lực truyền thống như ở miền Bắc, miền Trung. Về sau có thêm dạng nhà đúc kết cấu bê tông chịu lực theo kiểu phương Tây. Nhà cột giữa thuộc kết cấu cổ truyền, cột cái (cột giữa) kết gắn trực tiếp vào đòn dông và giao điểm của hai cây kèo, tạo thành một bộ vì nhà giản đơn, thích hợp với loại hình nhà thô sơ, bán kiên cố. Hạn chế của nhà cột giữa là không gian nhà chật hẹp do sự hiện diện của hàng cột giữa. Nhà xuyên trính còn gọi là nhà rường phổ biến hơn nhà cột giữa. Bộ khung sườn nhà này không có hàng cột cái ở giữa nên không gian nội thất khá rộng rãi. Một số nhà rường biến thể là nhà bát dần được xây cất rất qui mô. Mái ngói của dạng nhà bát dần kéo sà thấp xuống (giống như chữ Bát…..trong Hán tự). Bên ngoài nhìn vào kiểu “mái xụ" này thấy nhà có vẻ thấp, nhưng bước vào bên trong sẽ thấy hệ thống kèo cột và trần nhà rất cao làm cho nhà thoáng mát vì kiểu mái đó có tác dụng che mưa và ánh nắng chói chang vùng nhiệt đới, đồng thời hạn chế được tầm nhìn từ bên ngoài. Nhà ông Trần Công Vàng ở thị xã Thủ Dầu Một là một ngôi nhà rường theo kiểu chữ đinh, gồm 5 gian 2 chái, dài 24m, ngang 22m với 6 hàng 24 cây cột, đầu kèo chạm trổ tinh xảo. Cột nhà xưa thường bằng các danh mộc như sao, cẩm lai, gỗ mun. Bình Dương hiện còn nhiều ngôi nhà cổ có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật, niên đại trên dưới 100 năm, chủ yếu tập trung ở thị xã Thủ Dầu Một và huyện Tân Uyên, như nhà ông Trần Văn Tề (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần Văn Hổ (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần Công Vàng (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Nguyễn Văn Đằng (xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên), nhà ông Đỗ Cao Thứa (xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên), nhà ông Nguyễn Tri Quang (xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một)… Trong số đó có hai ngôi nhà được công nhận Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia vào năm 1993, đó là nhà ông Trần Văn Hổ và nhà ông Trần Công Vàng. Hầu hết nhà cổ ở Bình Dương có giá trị về mỹ thuật kiến trúc và trang trí là nhà chữ đinh. Riêng nhà của một số gia đình giàu có nổi tiếng ở thị xã Thủ Dầu Một, ở huyện Tân Uyên thì có qui mô khá lớn và hình thức đa dạng chứ không chỉ là kiểu nhà chữ đinh truyền thống. Nhà ông Trần Văn Hổ thuộc kiểu nhà 5 gian 2 chái rất rộng lớn, hoàn toàn bằng gỗ chạm trổ kỹ lưỡng từ cột, kèo đến vách. Kiểu nhà này xưa vốn là đặc quyền của tầng lớp quan lại cao cấp thời Nguyễn, thường dân không được phép xây dựng. Nhà ông Nguyễn Văn Đằng theo kiểu nhà chữ công £¨工¤£© có hai gian lớn gọi là Đông lang – Tây lang; hay kiểu nhà chữ khẩu £¨口£© (gồm 4 căn với hướng đòn dông tạo thành hình vuông) của ông Nguyễn Tri Quang. Hầu hết những căn nhà cổ vừa nêu trên đều khẳng định chức năng thờ cúng ông bà tổ tiên và thể hiện niềm tự hào về gia tộc trên các bức đại tự như Trung Nghĩa Đường, Trần Miêu Duệ, Nguyễn Phủ Đường… tại gian thờ chính trong nhà. Việc xây dựng nhà ngày xưa rất công phu. Gia tộc ông Đỗ Cao Thứa cho biết nhà xây 3 năm mới hoàn thành, do những người “thợ Bắc” thi công. Vì địa thế vùng Tân Uyên thấp nên nhà phải đắp nền cao rất công phu. Đất phải lấy từ ấp Bình Hóa (xã Uyên Hưng) vận chuyển bằng xe bò đến bờ sông, sau đó chở đất bằng ghe qua sông rồi mướn người gánh về đổ đắp nền nhà. Nền cao hơn mặt đất 0,8m, xung quanh nền nhà được bọc móng rất kiên cố bằng những tảng đá ong vốn có nhiều ở miền Đông Nam Bộ. Nhà cổ tại Bình Dương là dấu ấn thời kỳ phong kiến giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Hầu hết nhà cửa thời kỳ này còn tồn tại cho tới nay đều nhờ kỹ thuật xây dựng kiên cố với các loại danh mộc quý, chắc như lim, căm xe, cà chất… Khung sườn các nhà xưa hầu hết sử dụng kỹ thuật lắp ghép tự nhiên (lắp mộng) chưa dùng đinh sắt. Các bức vách gỗ phía trước nhà hoặc vách ngăn giữa gian thờ tự với gian nhà trong, những cây kèo, hoành phi, câu đối, bao lam, bàn thờ, trang thờ, bình phong… đều được chạm trổ tinh xảo theo phong cách chạm lộng, chạm thủng, chạm chìm khéo léo. Ngôi nhà vừa là công trình kiến trúc tài hoa, vừa chứa đựng những tác phẩm điêu khắc phản ánh các giai đoạn của nền mỹ thuật Nam Bộ: giai đoạn sớm là chạm trổ trên gỗ mộc, toàn bộ chỉ để gỗ tự nhiên, giai đoạn muộn hơn là dùng sơn ta để sơn son thếp vàng hoặc cẩn ốc, khảm trai, sơn mài… Thời kỳ đầu nhà cổ tại Bình Dương được thi công xây dựng và trang trí chạm trổ bởi các nhóm thợ mộc nổi tiếng khéo tay từ miền Trung vào như thợ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Bình Định (thường gọi chung là “thợ Huế”). Bên cạnh đó còn có thợ mộc của “trường phái thợ Thủ” (Thủ Dầu Một) với tay nghề giỏi nức tiếng đã dần đảm trách vai trò chính yếu trong xây cất nhà và trang trí nội thất. “Thợ Thủ” không chỉ hành nghề ở Bình Dương mà còn ở nhiều nơi khác. Người ta rước “thợ Thủ” về xây nhà và nuôi nhóm thợ trong nhà hàng năm để họ chạm khắc trang trí cho ngôi nhà. Những thế hệ nghệ nhân “thợ Thủ” đã trải nghiệm tài nghệ của mình và lưu danh về kỹ thuật xây cất và nghệ thuật trang trí nội thất những ngôi nhà trên khắp Nam Bộ. Trong “Nam kỳ nhân vật phong tục diễn ca” Nguyễn Liên Phong đã nêu: …“Nhà khéo cất tốn bạc muôn Tiếng đồn thợ Thủ ráp khuôn kỹ càng” Những nghệ nhân nghề mộc khéo léo, tài giỏi của Bình Dương xưa đã để lại những tác phẩm nghệ thuật của mình trên các kèo đùi ếch, trên “lá dung” đầu kèo, bao lam, hoành phi, câu đối, bàn ghế, tủ thờ… được chạm, cẩn tinh xảo, làm nổi bật sắc gỗ mộc thanh cảnh, vàng óng, đỏ tươi và sắc mun ánh ngời bóng loáng của sơn ta, của xà cừ… Đặc biệt toàn bộ vách trước những căn nhà truyền thống ở Bình Dương thường được “thợ Thủ” chạm trổ tỉ mỉ tài hoa, tạo nên vẻ đẹp sinh động nhưng tôn nghiêm cho căn nhà. Từng khung vuông, khung chữ nhật của bức vách trước được chạm khắc nhiều đồ án hoa văn các môtíp điển hình như tứ linh, tứ quý, quả lựu, hoa mẫu đơn… Vách trước cũng thường chạm đôi “mắt cửa” hay biểu tượng của âm dương, nhật nguyệt và khung viền cửa trước (bao lam) thường chạm trổ kiểu đòn võng khéo léo. Nhà xưa ở Bình Dương hầu hết lợp ngói âm dương, nền nhà lót gạch tàu đỏ. Trong nhà theo mô thức trang trí nội thất thống nhất, gồm bộ trường kỷ gỗ đen ở gian giữa phía trước bàn thờ, hai gian nhà hai bên bày hai bộ ván ngựa. Ở một góc nhà có tủ kiếng để chưng bày các cổ vật kỉ niệm. Bàn thờ, nhất là các câu đối trên cột hoặc các bài minh bằng Hán tự đặt trên bàn thờ tổ tiên đều được cẩn ốc hoặc sơn son thếp vàng. Nội dung các câu đối, bài minh hầu hết đều đề cao lòng hiếu đễ với ông bà tổ tiên, nề nếp gia phong, việc kính trọng và phụng dưỡng cha me. Ngoài dấu ấn đặc trưng của tâm thức Nho giáo đương thời thể hiện như yếu tố chủ đạo trong nội dung các câu đối, bài minh… chủ đề trang trí trong những ngôi nhà xưa tại Bình Dương còn thấy một nội dung khác của văn hoá Nho giáo, đó là những bài thơ cổ tả phong cảnh hay là điển tích xưa. Ngoài đồ trang trí nội thất chủ yếu bằng gỗ như tủ thờ, bàn thờ, trường kỷ, bộ ván, mấy bộ bàn ghế… trong nhà còn có nhiều đồ gốm Biên Hòa, gốm Lái Thiêu như đôn tròn, lục giác, đôn voi, chậu kiểng, độc bình. Nhiều ngôi nhà cổ còn có vài vật dụng Tây phương như đèn Măng sông, quạt trần, máy hát đĩa… Về Bình Dương đắm mình trong không gian tĩnh lặng của những ngôi nhà cổ giữa khu vườn êm ả, tiếng ồn, khói bụi đường xa dường như không len lỏi vào đến nơi đây, cuộc sống xô bồ gấp gáp chốn thị thành dường như không hiện diện ở nơi đây… Chợt thấy mình như được quay về với những ngày xưa yêu dấu… Tham khảo: Tài liệu của Ban quản lý di tích tỉnh Bình Dương Nguồn: vannghesongcuulong.org
  22. Không gian Mường</b>[/size] Không lâu nữa, khi địa giới của Hà Nội sẽ mở rộng tới một phần của “Tỉnh Mường Hòa Bình”( chữ của Pierre Grossin, một học giả người Pháp-1926) thì không gian Mường sẽ ra sao? Kiến trúc sư ….Rùa Theo truyền thuyết, vào thời vua Hùng, nhờ có Rùa vàng hay Thanh Giang sứ, Thục Vương mới xây dựng xong thành Cổ Loa. Còn theo truyền thuyết Đẻ Đất đẻ Nước, một áng Mo bất hủ của người Mường, thì thầy dạy của Đá Cần- ông tổ kiến trúc của tộc người này lại cũng là cụ… Rùa. Theo Đẻ Đất đẻ Nước, chính trong cuộc đấu tranh sinh tồn, để không bị sát hại, loài Rùa đã mách bảo người Mường: “ Bốn chân tôi là bốn cột cái Hai vỉa sườn là hai mái nhà Xương sống nên đòn nóc bắc kèo cái Xương sườn nên rui Lỗ đầu làm lối lên cửa chạn... » Dường như để thử thách người Mường, ban đầu Rùa bảo người lấy cây lau làm độ (cột nhà), lấy cây lồ cồ (một loại cây thân mềm) làm đòn tay, lấy cỏ may làm lạt buộc. Đương nhiên ngôi nhà đã bị hư hỏng ngay trong lần đầu tiên Đá Cần và nàng dạ Kịt sử dụng. Lần sau bị bắt lại, Rùa van vỉ hết lời mới được tha chết. Rùa nói với Đá Cần: chặt cây sấu làm xà, đẵn cây lim làm cột, lạt buộc bằng cây giang, lợp nhà ba gian bằng cỏ bái. Kể từ đó người Mường mới có « đụn chín quà, nhà chín gian » (đụn- túi, bịch) . Thoát khỏi cảnh « sống trong gốc cây búng, dưới bóng cây nhò, ẩn trong gò cây, gò cối » nhưng nhà người Mường vẫn luôn nương dựa, bám víu thiên nhiên. Nhà sàn thường dựa lưng vào núi, quay mặt ra sông, suối. Xung quanh nhà bao phủ màu xanh của cây lá. Dân ca Mường có câu : Hương thơm hoa gì mà thơm ngào ngạt Thơm hương mít trong nhà Hay thơm hoa cà ngoài ngõ Hay thơm hoa bưởi hoa vong... Người Mường không có không gian sinh hoạt cộng đồng kiểu hạn khuống của người Thái hay nhà rông của người Bana. Người Mường quan niệm: “ngôi nhà không chỉ thuộc sở hữu riêng của gia đình mà còn được xem là sản phẩm thuộc sở hữu chung của cộng đồng” (Đặng Văn Tu- Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi-1988). Ngôi nhà Mường có những phân chia không gian rất ước lệ như Trên- Dưới, Trong – Ngoài. Cầu thang chính đi vào phần Trên, phần Ngoài nơi đặt bàn thờ tổ tiên, bếp chính, nơi đàn ông tiếp khách. Cầu thang phụ bên trái dẫn đến bếp phụ, nơi phụ nữ sinh hoạt. Với sự phân bổ mặt bằng như thế này, không gian sinh hoạt cộng đồng đã thực sự ẩn trong mỗi gian nhà. Thân thiện với thiên nhiên, hòa đồng với đồng bào phải chăng là hai điểm nhấn chính trong bản thiết kế của kiến trúc sư Rùa? Nhà Lang Lang là dòng dõi quý tộc, những người có địa vị cao nhất trong mỗi Mường. Nhà lang thường là nhà sàn có kiến trúc lớn nhất, bề thế nhất. Cùng với nhà lang, còn có nhà tạo, nhà ậu, nõ một biểu hiện sự phân biệt các đẳng cấp trong xã hội Mường. Nhà ậu là của những người khá thân cận với lang. Nhà tạo giành cho những người thuộc tầng lớp bình dân. Nhà nõ của những người nghèo khó. Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng : nhà sàn Mường thường thấp và nhỏ hơn nhà sàn Thái- Tày ở Tây Bắc. Cấu trúc một vì kèo Mường khá đơn giản, chỉ gồm « kẻ », « cang » (quá giang), « toón xay » (đòn tay) « tố ô » ((cột). Nhà sàn Mường thường có 5 gian (voòng). Theo giáo sư Nguyễn Khắc Tụng : bộ khung nhà Mường hình thành trên cơ sở các vì kèo. Bộ vì kèo chưa phải là bộ phận hữu cơ của vì cột, nó chỉ gá vào đòn tay cái, chân của nó khớp một cách lỏng lẻo vào các đầu cột con. Chưa có sự khẳng định kèo thuộc về bộ khung mái hay của vì cột. Trong rất nhiều chuyến đi tìm hiểu văn hóa Mường, tôi không mảy may có cơ hội để quan sát một kiến trúc thuần Mường như từng được các nhà khoa học mô tả. Cơ may chỉ mới đến trong lần thăm bảo tàng Mường của họa sỹ Vũ Đức Hiếu. ( Bảo tàng tư nhân đầu tiên về văn hóa Mường mới được thành lập từ tháng 12 năm 2007. ) Đây là nguyên mẫu một nhà lang ở xóm Chiến, xã Nam Sơn, huyện Tân Lạc. Ngôi nhà của gia đình bà Hà Thị Lệ. Ngôi nhà được bố mẹ bà Lệ làm trước khi sinh bà. Năm nay bà Lệ 106 tuổi. Họa sỹ Hiếu cho biết : hầu hết nhà sàn Mường bây giờ đều làm theo kiểu nhà ... Việt. Đây là một ngôi nhà hiện tồn hiếm hoi và đặc trưng nhất cho kiến trúc cổ truyền Mường. Họa sỹ Hiếu cũng cho biết : dựng một ngôi nhà gỗ Việt chỉ mất gần chục ngày. Nhưng dựng riêng bộ khung cột của nhà lang phải mất hơn một tháng. Do các chi tiết gỗ không có mộng, chốt mà chỉ gá, xếp lên nhau nên quá trình thi công đòi hỏi sự chính xác và cẩn trọng hơn. Từ nhà sàn xuống nhà đất Nếu hôm nay việc kiếm một ngôi nhà thuần Mường đã là rất khó khăn thì trong tương lai không xa nữa, việc tìm một ngôi nhà sàn trên đất Mường chắc chắn sẽ chung một cảnh ngộ. Xa xưa, người cũng như rùa chỉ có thể tồn tại khi bám vào các nguồn nước. Cuộc sống hôm nay có nhiều dòng chảy khác nên nhà đất, nhà bê tông Việt đang dần thay thế nhà sàn Mường. Dọc đường quốc lộ số 6, cũng không nhiều khi người ta còn được chiêm ngưỡng không gian Mường. Chỉ vài nếp nhà sàn duyên dáng sau vạt mía đỏ, những luống cải trắng, xa xa núi đá xanh trập trùng. Nếu có đi sâu vào các Mường Động, Mường Chậm, tinh thần Mường chỉ còn thấp thoáng trên những chòi, lều nhỏ bé ngoài nương ngô, ruộng lúa. Những lớp mái lợp lá gianh, lá sàn bò đang từng ngày được thay thế bằng tấm lợp xi măng. Trong gian nhà nhỏ của một đôi vợ chồng trẻ ở xóm Sung 2 thuộc trung tâm Mường Bi rực rỡ đủ loại màu sơn cùng tranh ảnh Trung Quốc... Mùa khô. Mọi con suối Mường đều khô cạn. Không biết loài Rùa, vật thiêng của tộc Mường, đang tồn tại ra sao? Chỉ thấy rất nhiều những vỏ mai rùa vứt đầy trong xó bếp những nhà hàng đặc sản đang mọc lên nhan nhản dọc tuyến đường Hà Nội- Hòa Bình. a- nhà lang trong Bảo tàng Mường của họa sỹ Vũ Đức Hiếu b- nhà ậu c- Nhà tạo nhỏ bé hơn và được làm toàn bộ bằng tre, nứa, lá. d- Những lều chòi nhỏ bé như cố gắng níu giữ tinh thần kiến trúc Mường e- Những phối cảnh thật khó quên f- Trang trí mới, cũ trong nhà sàn Mường, f8- f10 : Bếp được đẩy ra thành một không gian độc lập với nhà. Mái bếp chủ yếu được lợp bằng lá sàn bò. Nếu luôn có khói bếp, loại lá này có thể dùng được trong 5 năm. g- Chất liệu tre trong kiến trúc Mường h- Kho lúa nhà lang i- Mộ đá cổ rất đặc trưng của người Mường j- K3 : vật đựng nước để rửa chân trước khi lên nhà sàn Nguồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-F9xq_Swpbqf...cq=1&p=2344
  23. CHUYỆN CỦA NHÀ RƯỜNG[/size] Người xưa có câu "an cư lập nghiệp", ổn định chỗ mới mong xây dựng được cuộc sống ấm no. Vì vậy, việc xây nhà là việc cả đời người. Dùng những vật dụng chắc chắn là vững chải xây nhà cộng với kinh nghiệm hàng mấy trăm năm, người xưa đã xây dựng nên những căn nhà vừa bền lại vừa kiên cố để có thể "an cư" trong thời tiết khắc nghiệt nắng nóng, mưa dầm ở miền Trung. Kiến trúc nhà rường Trong khu vườn rộng rãi của mình, gia chủ không chỉ xem phong thủy để lựa chọn miếng đất tốt, phù hợp với tuổi mà còn chọn hướng nhà. Có được "thế nhà" tốt nhất, người trong nhà sẽ mạnh khỏe, ăn nên làm ra. Nhà rường thường xoay mặt về hướng nam, nắng sáng và chiếu không chiếu thẳng vào trong nhà chỉ xiên ở hai bên vách. Bếp được dựng ở bên trái, vuông góc với nhà chính, cùng trông ra sân. Khi gió Nam và Đông Nam thổi vào thì vách ngăn không cho gió tạt vào bếp làm lửa tràn ra ngoài dễ cháy nhà. Thông thường, trước nhà chính được trồng một dãy cau, sau nhà vườn chuối xanh um sẽ chắn bớt gió mùa Đông Bắc. Nhà không nằm sát vệ đường mà thụt sâu vào ngõ với cổng lớn uy nghi. Đường dẫn vào nhà có hai hàng chè tau xanh mát, cuối đường là một bình phong cao. Vì vậy, muốn vào nhà, khách phải rẽ sang hai bên để vào. Bình phong giúp cho khách tránh không đường đột khi vào cũng như tạo nên nét kín đáo cho ngôi nhà. Nhà rường chủ yếu được dựng bằng gỗ kiền hoặc gỗ mít. Nóc nhà là cả một bộ khung (giàn trò) với nhiều cột ghép lại mà theo mộng nẽo. Tùy theo số lượng và chiều cao của cột mà nhà rường được chia làm nhiều loại khác nhau. Nhà chia theo căn có: nhà ba gian hai chái và một gian hai chái; chia theo chiều cao hoặc khoảng cách của cột tùy thuộc vào độ dài của trếng (tính bằng thước mộc là 0,40m). Nhà ba gian hai chái có kích thước khác nhau với những tên gọi như: nhà ba hai, nhà ba bảy hoặc nhà bốn hai. Nhà một gian hai chái thì có một cách gọi khác nhau nhà vuông và kích thước tùy theo chủ nhân của ngôi nhà. Từ những con số của cột cái (cột hàng nhất) người ta tính ra kích thước các bộ phận khác như: xà thượng, xà ngồi, quà giàng, xà nách... Nhờ vậy, mỗi cột, xà gỗ làm tách riêng nhưng khi ghép một vào tiền khít và liên kết chặt chẽ với nhau mà không dùng đến một cây đinh thép. Trong bộ phận nóc nhà thì đòn đôông (đòn nóc) là quan trọng nhất. Khi làm lễ cất nóc, người chủ phải xem ngày giờ phù hợp với cung mạng để làm lễ thượng lương. Mái nhà rường được lợp bằng ngói liệt, với hai lớp dày chồng lên nhau. Do vậy, mùa hè rất mát, mùa đông thì ấm áp. Mái nhà có độ dốc từ 15-30 độ nên chống được những cơn bão mà không bị sụt ngói. Kỹ thuật điêu khắc cũng là một nét nổi bật của nhà rường. Phần nhiều các xà lùi hạ, gáy quà giang đều được chạm trỗ hết sức công phu. Các hình mây cuộn, hoa lá hoặc đường diềm trang trí được khắc từng nét nhỏ rất tinh vi chạy dọc theo các đòn ngang nhỏ. Nhà rường ở Kim Long có những điểm khắc biệt so với nhà rường ở nơi khác. Ngoài kiến trúc ba gian hai chái cùng trang trí nội thất: câu đối, hoành phi; người ta còn xây dựng thêm một nhà hiên nhỏ ở ngay trước mặt nhà chính. Nhà hiên dài bằng nhà chính, rộng bằng 1/3; mái lợp tranh hoặc ngói liệt. Nóc nhà hiên được dựng bởi các xà đấu với nhà quà giang mà không có xà nách. Các cột nhà hiên không trong bóng mà vuông vắn, chắc khỏe. Ngôi nhà của ông Lê Hối (1/4 đường Nguyễn Hoàng) và ông Lê Quang Dinh (4/4 đường Hương Bình) vẫn còn giữ được nét kiến trúc đặc biệt đó. Trong số các nhà rường cổ ở vùng Kim Long, nhà anh Dinh mang dạng kiến trúc 1 gian hai chái. Căn nhà vuông này còn toàn bộ giàn trò, rui mèn, đòn tay, liên ba, thanh vọng. Xung quanh được bảo vệ bằng tường vôi, không có cửa hậu. Các đường xuyên thổ, đuôi keo đường chạm lộng, khắc chìm hình áng mây, hoa lá tinh xảo, đường nét mềm mại. Kiến trúc ngôi nhà này gần với kiến trúc ngôi nhà thờ Đặng Huy Trứ ở Hương Trà. Trong nhà, nhiều vật dụng vẫn còn được giữ gìn như: bộ bàn ghế chữ hát (H) có chạm khắc hoa lá, bàn tròn có giá đỡ bốn chân...đặc biệt, trên những hoành phi vẫn còn đọc rõ dòng chữ Hán sơn son thếp vàng: Duy Tân năm thứ 6 (tức năm 1914). Đa số các cột trong nhà rường đều được kê trên một tảng đá phẳng, do vậy cột ít bị ẩm mốc. Trong ba gian nhà, người ta chỉ ở hai gian và hai chái, gian giữa thường được dùng để thờ gia tiên. Vào thăm nhà, khách không thể không cúi đầu để bước qua ngưỡng cửa, nó vừa chắn mưa hắt vào nhà vừa là vật cản nhỏ khiến khách phải cúi đầu bước vào. Ơi những nhà rường, nay còn đâu? Đi dọc con hói nhỏ, chúng tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy một quán nhậu đã "mọc lên" trên ngôi nhà rường cổ. Căn nhà rường dường như còn y nguyên dáng vẻ cổ kính không còn để lại một chút dấu tích. Các đầu xà gỗ hình đầu rồng xoăn theo từng thớ gỗ, những cây cột đen bóng, những cánh cửa buồng khoa màu mun...tất cả như đang còn hiện hữu trong tâm khảm của chúng tôi. Những năm gần đây, nhà rường bỗng trở thành một "của quý" mà người chuộng đồ cổ ưa thích. Những căn nhà gỗ phút chốc có giá bằng cả kho tiền. Nhà rường lần lượt rời bỏ mảnh đất của mình ra đi. Nó được dựng lên trong những sân gạch, trên khu đất của nhà hàng, trong vườn người sưu tập...nhìn những nhà rường ấy chúng tôi thấy sao mà bơ vơ và lạc lỏng đến vậy. Nó như người nhà quê ra phố, những lối nhỏ quen thuộc, vườn cây trái xanh um chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của du khách. Nó vẫn còn nguyên vẹn từ chân cột đến đòn nọc thế mà ngượng ngịu xúng xính trong tấm áo không phù hợp với mình. Qua chiến tranh, thiên tai, nhà rường không còn nhiều. Phần lớn bị xuống cấp, chủ nhà vì khó khăn nên cũng mong bán lấy tiền xây nhà khác. Có người, do ông bà tổ tiên để lại, họ xem ngôi nhà là nhà thờ chung nên không muốn thay đổi, họ để mặc ngôi nhà dần dần xuống cấp, hư hỏng. Người khác mong có chỗ ở cho con cháu nên quyết định bán kiếm vài trăm triệu xây nhà mớị..nhiều nguyên nhân nhưng chỉ một hậu quả: nhà rường dần dần mất đi. Tuy vậy, nhiều chủ nhà vẫn còn tâm huyết với vốn cổ cha ông. Họ hiểu giá trị văn hóa vật thể, truyền thống gia đình nên hết sức giữ gìn. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tình của ông Lê Hối mà ngôi nhà rường Kim An không không còn bị mối mọt làm hư hại. Nhà sắp được thay một lớp ngói liệt mới. Ông Lê Quang Dinh còn có một kế hoạch hoàn chỉnh hơn. Nhìn ánh mắt và giọng nói của anh khi dẫn khách đi giới thiệu, chúng tôi hiểu rằng: những ngôi nhà rường vẫn đang được những bàn tay nâng niu, trân trọng và gìn giữ. Những thế hệ sau này sẽ không phải tìm đọc qua sách báo hay đi đến những nơi khác để tham quan vốn cổ của chính làng quê mình. Phục hồi nhà rường- bao giờ? Nhà rường phần lớn đều bị hư hỏng, sửa chữa cho đúng và có tiền để là một vấn đề lớn đối với mỗi nhà. Do vậy, nhiều người vẫn sống trong những ngôi nhà rường bị dột và mối mọt. Dù rất muốn sửa chữa nhưng mọi việc đều ở ngoài tầm tay. Cá biệt, có ngôi nhà được đầu tư hàng trăm triệu để trở thành một nơi di tích thì chủ nhà không đồng ý. Chủ nhà dường như chưa thấu hiểu hết giá trị văn hóa lịch sử ngôi nhà mình đang ở. Đây cũng là một khó khăn lớn trong công việc trùng tu các nhà rường cổ. Những nhà rường khác hoặc thiếu kỹ thuật khi trùng tu, hoặc không có tiền sửa chữạ..Những khó khăn vẫn chất chồng với những người đang tâm huyết phục hồi vốn cổ dân tộc: Nhà rường. Đứng trước tình hình đó, Hội kiến trúc miền Trung vẫn không nhụt chí. Nhiều tháng qua, các chuyên gia đã đi khảo sát, lập đồ án tìm hiểu các nhà rường cổ trên địa bàn tỉnh. Hội cũng có kế hoạch đầu tư kinh phí cho các nhà rường nhằm giữ lại nét kiến trúc rường cổ của dân tộc. Đây thật sự là tin vui đối với những nhà rường đang xuống cấp ở Huế. NGUYỄN LAN Nguồn: http://mimikhanhvan.multiply.com/reviews/item/1
  24. Tìm hiều về nhà cửa ở Bến Tre [ HUIS - NgoiNhaChung.nEt ] Cũng như các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long, nhà ở của Bến Tre chủ yếu thường được cất dọc theo đôi bờ các sông, rạch, kênh đào, có con đường đất chạy song song theo dòng nước nối từ nhà này sang nhà khác, kéo dài từ đầu xóm cho đến cuối xóm và có thể tiếp tục đi xa hơn nữa. Dạng thứ hai là loại nhà cất dọc theo các trục giao thông bộ, một bên hay cả hai bên đường còn tùy thuộc vào địa thế của từng nơi.Nhà lớn hay nhỏ đều có sân và vườn (không kể ở các thị tứ, bến sông, bến đò, bến phà, nhà được xây cất sát mép đường để tiện việc buôn bán, bán hàng quán). Thông thường qua ngõ thì đến sân rồi nhà, sau nhà là vườn, nếu đất rộng thì vườn nằm cả hai bên nhà, có trồng cây ăn quả. Quanh vườn là hàng rào cây xanh như bông bụt, chè tàu, kim quýt. Hàng rào mang tính chất quy ước về ranh giới, hay để trang trí hơn là vì mục đích bảo vệ, chống trộm cướp. Cổng vào nhà cũng vậy, thường có ít cửa đóng, đôi khi chủ nhà trồng hai cây bông giấy ở hai bên và uốn giao nhau thành một vòm cong để thêm đẹp nhà. Các quãng dọc theo hàng rào, người ta hay trồng xen những trái cây ăn quả như dừa, xoài, mận, mít hay cây lấy gỗ như so đũa, tràm bông vàng, mù, u, bạch đàn. Tùy theo địa thế rộng hay hẹp và cũng tùy điều kiện kinh tế, sở thích của từng người, mà cách bố trí ngôi nhà trong khuôn viên có khác nhau theo mấy dạng chính sau đây. 1. 2. Sân - nhà - vườn 3. Vườn - sân - nhà - vườn - ao cá 4. Sân - nhà - bến nước (do đất hẹp, nằm sát mé sông hay rạch) 5. Sân - nhà - vườn sau - vườn hai bên (ngôi nhà nằm ở trung tâm khu vườn) Bến Tre thuộc vùng quanh năm nắng nóng, nhưng nhờ nằm trên các cù lao bao bọc bởi những sông lớn và một hệ thống kênh rạch đan, cắt chằng chịt, nên khí hậu được điều hòa, không nóng quá và cũng không lạnh quá. Do đó, nhà cửa của người Bến Tre nói chung đều xây cất thích nghi với môi trường, đất đai, và thời tiết ở địa phương. Nhà có thể được xây cất lớn hay nhỏ bằng gạch hay bằng lá tùy theo điều kiện kinh tế của gia chủ, nhưng Bến Tre ít có kiểu “nhà đạp”, “nhà đá” (nghĩa là xây cất quá tạm bợ) như ở Bạc Liêu, Cà Mau hay Đồng Tháp Mười. Đại đa số nhà ở nông thôn Bến Tre được làm bằng gỗ, lá. Nguyên nhân chủ yếu vì tỉnh nghèo về vật liệu xây dựng, nếu mua ở nơi khác đường vận tải xa, giá thành cao, thêm vào đó, Bến Tre lại bị tàn phá nặng nề nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua. Theo các cụ cao tuổi thì xưa kia Bến Tre có rất nhiều tre và cây cổ thụ như sao, dầu, chứ không như bây giờ, lại có nhiều cây gỗ khác như mù u, trâm bầu, mít, sầu đâu ở ngay nơi vườn. Bến Tre xa núi, không có tranh, nhưng lại giàu lá dừa nước. Dừa nước bền hơn tranh và rơm rạ, dùng lợp nhà, làm vách che cũng đẹp hơn. Lá lợp hàng năm thừa cho nhu cầu trong tỉnh, phải bán sang các nơi khác. Nếu như ở miền Bắc, mặt nhà quay về hướng nam được coi như là một sự đúc kết có tính quy luật, vừa để tránh được ngọn gió mùa đông bắc, vừa để đón nhận ánh sáng và những tia nắng ấm mặt trời, thì ở miến Nam, người ta vẫn lưu truyền câu" Lấy vợ hiền hòa, xây nhà hướng nam" tuy nhiên đó không phải là một yêu cầu bắt buộc, bởi vì không nhất thiết các nhà đều phải như thế. Việc quay mặt nhà về hướng nào hoàn toàn tùy thuộc vào sự tiện lợi, hợp lý nhất của địa cuộc và cảnh quan chung quanh. Nếu phía trước là con lộ hay dòng sông lớn, thì nhất thiết mặt nhà phải hướng về phía đó, dù là hướng đông hay bắc. Nhà quay mặt ra sông vừa đón làn gió mát từ dòng sông mang lại, vừa chứng kiến cảnh rộn rịp, đông vui của thuyền bè xuôi ngược, tận hưởng cái đặc ân của thiên nhiên "Một cửa thấy sông nước". Ở cùng một xóm, dù quay mặt ra sông rạch, hay quay về phía mặt lộ (đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã) thì vườn nhà này thường liền với vườn nhà kia, mà ranh đất là con mương nhỏ ngập nước. Xưa, việc dựng nhà được quan niệm như là một trong những việc hệ trọng do đó ngoài việc chọn "cuộc đất" vừa ý rồi, còn phải xem ngày lành tháng tốt để dựng nhà, có lễ cúng Thổ địa (thần đất) và tuân thủ một số điều kiêng cữ. Nghèo thì cúng con gà, đĩa xôi, cùng hoa quả. Giàu thì làm đình đám hơn. Nhà khi dựng lên còn có lá bùa bằng mảnh vải đỏ vẽ hình bát quái treo tòn teng dưới đòn dông ở gian giữa. Có người treo nguyên cả cuốn lịch Tàu. Ngày nay, những tập tục mê tín dị đoan về địa lý, phong thủy cũng như một số tín ngưỡng, kiêng kỵ, lạc hậu đã giảm đi khá nhiều. Tuy nhiên một tập tục mang tính cộng đồng của đồng bào cùng xóm cùng làng, tối lửa tắt đèn có nhau vẫn được lưu giữ. Đó là trong làng xóm có người nào làm nhà mới thì những người chung quanh coi như có bổn phận đến giúp đỡ không lấy tiền công. Dưới quyền chỉ huy của người thợ cả, họ mỗi người một việc, thạo gì làm nấy để giúp gia đình chủ lắp ráp, xây dựng ngôi nhà. Nhiều nơi khi dựng nhà, người ta còn bắt vợ lẫn chồng chủ nhà cùng nâng hai đầu cây đòn dông, hay cùng sờ tay vào cây cột cái với hàm ý rằng đây là "của chồng công vợ" tạo nên và họ sẽ sống hạnh phúc với nhau trong ngôi nhà ấy. Gác sang một bên quan niệm dị đoan, ta thấy đằng sau cái động tác tượng trưng ấy một biểu hiện của tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa vợ và chồng trong đời sống thôn dã. Khi sườn nhà đã đặt trên các hàng cột, người thợ cả lấy cây "thước tổ" mà ông ta dùng để đo tính toán lắp ráp ngôi nhà đặt trên chiếc bàn ở giữa nhà trên có lễ vật, hương hoa bày sẵn. Mọi người đến giúp dựng nhà đều đứng nghiêm mắt ngước lên phía nóc nhà như biểu thị sự hài lòng và vui mừng chúc tụng chủ nhà mọi sự tốt lành như ý. Các dạng nhà chính: Nhà chữ Đinh Đây là loại nhà rất phổ biến trong tỉnh, vùng này cũng có được cấu tạo gồm một nhà trên và nhà dưới, nhưng khác nhà sắp đọi ở chỗ nhà dưới nằm ngang hàng với nhà trên xoay đầu hồi ra phía sân trước, có cửa vào riêng cùng hướng với nhà trên. Nhà trên và nhà dưới cùng một mặt phẳng nên tiện cho việc bố trí bàn ghế khi có tiệc tùng, cưới xin, đám giỗ v.v… Bộ cửa nhà trên gồm nhiều cánh ghép liền với nhau, chứ không phải chỉ có hai cánh như kiểu nhà Châu Âu. Nhà chữ đinh thường có dãy hàng ba phía trước, nên nắng không bị chói, mưa không bị tạt vào bên trong. Có một tập quán lâu đời là nếu xây nhà chữ đinh thì cổng không mở ngay vào cửa chính của nhà trên, mà lại mở vào phía đi vào nhà dọc (của chữ đinh). Tùy sân trước rộng hay hẹp mà chủ nhà đặt ở đó nhiều hay ít chậu kiểng. Cũng có người không chơi kiểng mà áp dụng công thức: sân vườn - nhà - vườn sau. Ở đây có ao cá, chuồng gia súc, gia cầm, nếu vườn rộng thì có thêm cây ăn quả. Bên cạnh loại nhà chữ đinh thông thường trên đây, một số nơi cải tiến thành loại nhà chữ đinh có sân trong. Theo cấu trúc này, nhà dưới được tách ra khỏi đầu hồi nhà trên, tạo một sân nhỏ phía sau để lấy ánh sáng cho nhà dưới. Đây cũng là nơi đặt thêm hồ nước hay lu chứa nước mưa. Cách bố cục bên trong nhà chữ đinh nói chung gần giống nhau. Ở nhà chính, bàn thờ được đặt ở gian giữa và các gian hai bên. Trước bàn thờ, bên phải và bên trái là nơi đặt đi văng chân quỳ thay cho phản gỗ ngày xưa. Trước bàn thờ gian giữa là nơi bố trí bộ salông hoặc chiếc bàn chữ U với 6 ghế dựa. Nhà khá giả có thêm một tủ búp phê đựng ly tách, chén, bát đắt tiền và vài chai rượu. Các bàn thờ chạm trổ cầu kỳ ngày xưa, nay được thay bằng chiếc tủ thờ kiểu Gò Công, dùng để đặt bàn thờ bên trên, vừa để đựng những đồ đạc quý giá bên trong. Nhà sắp đọi Đây là loại nhà tương đối phổ biến ở nông thôn Bến Tre, gồm một nhà trên (hay nhà trước ba gian và một nhà dưới (hay nhà sau) sắp liền kề cùng chiều dài với nhà trên. Giữa hai nhà có chiếc máng xối chạy suốt từ đầu này đến đầu kia để hứng nước mưa. Nhà sắp đọi thường là nhà lá, cột bằng gỗ mù u, sầu đâu, so đũa, gỗ mít kê trên đá táng. Dãy cột hàng ba phía trước thường làm bằng tre gốc. Ở nơi ven biển thì dùng cây mắm, cây đước hay chà là. Trên cơ sở nhà sắp đọi, người ta còn cải tiến thành một số kiểu nhà khác, như nhà sắp đọi nối dài (phần nối dài có cửa trông thẳng ra sân trước), hay nhà sắp đọi có sân trong (phần mái nhà dưới được tách cách nhà trên độ hai, ba mét, có lối đi với mái che nối liền hai nhà). Sân trong vừa để lấy ánh sáng cho nhà dưới, vừa là chỗ để dãy lu chứa nước mưa. Nhà có chái Thông thường ở nông thôn Bến Tre, nhà ở nông thôn Bến Tre, cũng như Nam Bộ nói chung, gồm có một nhà chính và một nhà phụ. Ngôi nhà chính thường là ba gian, hai mái, hoặc ba gian một chái (khác với miền Bắc là nhà thường không chái). Số gian thường là số lẻ (1-3-5) ít ai chọn số chẵn. Nếu diện tích của hai kiểu nhà bằng nhau, thì nhà ba gian, hai chái nhìn vẫn thoáng hơn, dễ coi hơn nhà ba gian hai chái nhìn vẫn thoáng hơn, dễ coi hơn nhà ba gian một mái chái do tính cân đối của nó. Ba gian giữa được coi như khu vực chính, còn hai chái hai bên thường được làm buồng chứa đồ đạc và làm buồng ngủ cho phụ nữ trong gia đình. Nhà không chái Tuy không phổ biến, nhưng loại nhà này thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp ở nông thôn. Những gia đình nghèo, ít người hay chọn kiểu nhà này, vì cấu trúc đơn giản, dễ làm. Chỉ cần một số cây gỗ, tre để làm sườn còn mái che và hai bên vách đứng thì làm bằng lá dừa nước hay ván gỗ. Cũng có một số nhà tường xây theo kiểu này và lợp ngói, tôn, hoặc phi-brô ximăng. Trong trường hợp này, vách hai bên phải bằng gạch. Trong những năm chiến tranh và cả về sau này, ở nông thôn, nhất là dọc theo những đường cái, người ta xuất hiện loại nhà không chái, và chỉ một chái. Phía mặt tiền được làm cao hơn, mái đổ xuôi, về phía sau. Nhà chữ công Một số nhà xưa còn lại hay xây theo kiểu này. Ngày nay, loại nhà này ít được phổ biến. Về cấu trúc loại nhà này gồm có nhà trên và nhà dưới như kiểu nhà sắp đọi, nhưng thay vì nhà sắp đọi được bố trí hai mái đâu vào nhau, giữa có máng xối để hứng nước mưa, thì ở đây giữa nhà trên và nhà dưới cách nhau một khoảng sân rộng và được nối bởi một nhà cầu dài từ mái sau nhà trên đến mái trước nhà dưới. Cách cấu trúc này tăng thêm ánh sáng cho cả nhà trước và cả nhà sau. Nguồn: http://ngoinhachung.net
  25. Kiến trúc nhà ở của người Lô Lô Nhà được thiết kế ba gian. Gian giữa nhà (gian khách) rộng khoảng 3,5 m, được dựng có nóc gọi là xà đốc (sảng lè). Khi dựng xà đốc người ta phải xem ngày, giờ đẹp... Cũng giống như dân tộc Mông, dân tộc Nùng, dân tộc Bố Y… sinh sống ở các huyện phía Bắc tỉnh Hà Giang, kiến trúc nhà ở của người Lô Lô là nhà trình tường (nhà đất). Khi một gia đình nào đó chuẩn bị làm nhà, ngoài việc chuẩn bị đủ vật liệu để làm nhà ra thì công việc chọn đất và hướng làm nhà ở của người Lô Lô rất quan trọng; xem hướng có đẹp và hợp với gia chủ hay không thì mới quyết định dựng nhà. Nhà ở của họ thường có mặt quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Các hộ gia đình dân tộc Lô Lô thường dựng nhà ba gian, có hộ làm năm gian nhưng rất ít. Khung nhà được làm bằng gỗ tương đối đơn giản được kết cấu dựa trên các kèo gỗ (Lù phù) có từ 3 đến 5 hàng chân. Những vì kèo được liên kết với nhau bằng hệ thống đòn tay, ngang, dọc. Nhà được thiết kế ba gian, gian giữa nhà (gian khách) rộng khoảng 3,5 m. Gian giữa nhà được dựng có nóc gọi là xà đốc (sảng lè), khi dựng xà đốc người ta phải xem ngày, giờ đẹp thì mới dựng. Khi dựng xà đốc chủ nhà buộc một miếng vải đỏ, đóng ba đồng bạc vào thân xà đốc, buộc một túi thóc nếp, một túi ngô nếp lên hai đầu xà đốc. Dựng xà đốc xong, bắt một con gà trống cho uống một tí rượu, rồi thả con gà trống đứng lên xà đốc, làm hai túi bánh dày bố trí hai người đứng ở hai đầu xà tung bánh xuống cho trẻ em trong làng bản ăn. Với ý nghĩa là người ta cầu chúc cho ngôi nhà được xây cất cẩn thận và gia chủ làm ăn phát tài. Không gian nhà được tổ chức theo quy mô hẹp, khép kín. Nhà ở có ba gian và không có chái. Xung quanh nhà có hệ thống tường rào bao bọc (được xếp bằng đá, đây là nét đặc trưng, nét rất riêng của các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao phía Bắc Hà Giang), trước cửa nhà có một sân nhỏ. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách và uống nước của gia đình. Gian này có một cửa chính rộng 1,2 m, cao 2 m gồm hai cánh khi mở quay vào trong nhà. Gian chính cũng chính là nơi để thờ tự tổ tiên, gia chủ đặt một bàn thờ nhỏ để các hình nhân khắc bằng gỗ ở bên trên (mỗi hình nhân tượng trưng cho một người trong gia đình đã khuất). Gian buồng được đặt ở bên phía tay trái hướng từ cửa chính vào, ở gian buồng này cũng đặt một cửa sổ ở mặt trước. Gian bếp phía bên tay phải, gian này là nơi nấu ăn và là gian dành cho trẻ nhỏ, gian này cũng được lắp đặt một cửa sổ. Gác xép là nơi cất giữ và bảo quản lương thực, và khi nhà có đông khách cũng được dùng để ngủ. Muốn lên được gác xép người ta đã làm một thang gỗ có 9 đến 11 bậc và người ta kiêng không làm cầu thang có bậc là số chẵn. Tường nhà được là bằng đất, đất dùng trình tường không được đổ nước vào để trộn, thường người ta dùng đất có nhiều sỏi hoặc đá xít thì càng tốt, nó giúp cho tường đỡ bị nứt, độ bền cao và có sức chịu lực lớn. Tường nhà có độ dày từ 40 - 50 cm. Mái nhà được lợp bằng ngói máng (ngói âm dương), mái nhà được lợp một hàng úp một hàng ngửa và chồng lên nhau tạo thành rãnh thoát nước khi có mưa. Xung quanh nhà có tường rào bằng đá được xếp đè lên nhau có chiều cao từ 1,5 m - 2 m. Kiến trúc nhà ở của người Lô Lô nói riêng và kiến trúc nhà của các dân tộc thiểu số sinh sống ở các huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang nói chung, phong cách kiến trúc của họ có nhiều nét tương đồng. Về căn bản là giống nhau và đều là nhà đất. Tuy nhiên ở mỗi dân tộc lại có quan niệm khác nhau về việc chọn đất, hướng đất để dựng nhà. Đối với dân tộc Lô Lô thì việc dựng nhà, kiến trúc nhà ở luôn gắn liền với cuộc đời của mỗi con người./. Chuyên đề Dân tộc và Miền núi Nguồn: http://www.vovnews.vn