phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Đọc hầu hết các bài viết về bức tranh "Đám cưới chuột" đều bàn luận xung quanh ý nghĩa thâm thúy về sự phân chia quyền thế, đẳng cấp trong các giai tầng xã hội mà người ta thấy có tự xưa đến nay. Tuy nhiên, ở góc độ "ngâm cứu" dường như đó mới chỉ là cái cảm quan về bề nổi. Trong bức tranh "Đám cưới chuột" có một số chi tiết mà Phoenix thấy lưu tâm và đang còn ngẫm nghỉ: - Con mèo (vàng, trắng) - Theo Phoenix hình tượng này giống hổ nhiều hơn (cung Dần??) - Số lượng con vật - 12 con (có bức 13 tính cả "mèo") - 4 con ở trên và 8 con ở dưới (tương quan trùng với cung Ngọ trong tử vi tính từ Cung Dần); chú chuột vác quạt trùng với cung Tý (tính theo chiều ngược kim đồng hồ) - Trên bức tranh có 5 chấm đen xếp thành hình tượng Mộc, Hỏa, Kim, Thủy và Thổ (trung cung) - Màu của bức tranh - xanh, đỏ, vàng, đen và nền trắng của giấy - Có bốn bức tranh về Đám rước chuột và không bức nào giống bức nào. Bức nào của Đông Hồ - Việt Nam cổ?? Ở bức thứ 1, chuột có 12 con nhưng trang phục của con chuột Tiến sỹ lại rất giống quan lại của Trung Quốc (mũ cánh chuồn) Ở bức thứ 2, chuột chỉ có 11 con + 1 Dần = 12 con, trang phục rất đơn giản, chuột chỉ cống cá, không cống chim Ở bức thứ 3 chỉ có 11 con chuột + 1 Rồng Ở bức thứ 4, có tới 14 chuột Nhìn mấy bức tranh này nhớ bài đồng dao: Con mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Chú chuột đi chợ đằng xa Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo Phoenix thấy bức tranh "Đám cưới chuột" có liên quan đến hình ảnh của lá số tử vi. Tiếc là thời gian hạn hẹp và khả năng cũng có hạn nên chưa tập trung để phân tích được. Chờ chú Thiên Sứ chỉ dẫn vậy.
  2. TRANH ĐÔNG HỒ " ĐÁM CƯỚI CHUỘT ": CHUYỆN CỦA MUÔN ĐỜI gửi bởi chauthimyduyen vào ngày 28 Tháng 2 2008 23:18 Một trong những bức khắc hoạ nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ là tranh " Đám cưới chuột". Tranh thể hiện khá chân thực và sinh động một hoạt cảnh đám cưới dân gian, nhân vật chính là "chuột" được nhân hoá. Tranh mang bản sắc văn hoá Việt Nam . Đây là tranh treo ngày tết cổ truyền mà dân gian ưa chuộng vì nó vui mắt và chất chứa "chuyện của muôn đời " . Trước tiên, nói về chuyện ngày xuân, các cụ thường bảo :" có nam có nữ mới nên xuân , có đôi có cặp mới nên vần " . Vì thế, tranh tết không thể thiếu chuyện cưới xin, chuyện nam nữ, tình yêu, hạnh phúc. Đó là đề tài muôn thuở . Ở góc nhìn văn hoá , tranh " Đám cưới chuột " thể hiện triết lí âm dương và tín ngưỡng phồn thực. Đối với người Việt , mọi thứ đều đi đôi từng cặp theo nguyên lí âm dương hài hoà : chuột thuộc âm , chẵn ( trong tranh có 12 con : 4 con ở trên, tám con ở dưới ), mèo thuộc dương, lẻ ( trong tranh có 1 con ) ; cô dâu ( âm ), chú rể (dương) . Chuyện mèo chuột , chuyện nam nữ xưa nay muôn đời vẫn thế ! Trong tín ngưỡng Việt Nam, chuột còn tượng trưng cho sự phồn thực ( đẻ như chuột , nơi nào có chuột là nơi đó có cái ăn, có lúa thóc " chuột sa chỉnh gạo , chuột sa hũ nếp "). Ngoài ra, tranh còn phản ánh hai mặt ( trái - phải , trên - dưới ) tồn tại song song của cuộc đời, của xã hội thu nhỏ trong hoạt cảnh vui ngày tết đầy kịch tính . Bên dưới bức tranh là cảnh đám cưới với " ngựa anh đi trước , kiệu nàng theo sau " . Cảnh thật tưng bừng và đầy màu sắc rực rỡ nào lọng che mát, biểu nghênh hôn , kiệy hoa vu quy và họ hàng nhà chuột theo hộ tống . Cả thảy tám con chuột đi theo hàng lối và trật tự , im lặng , chỉ có cái ngoáy đầu nhìn lại phía sau là thấp thoáng vẻ lo âu . Một chú chuột đi sau khiêng kiệu , ngước nhìn biểu tượng ngũ hành ( năm chấm đen). Ngũ hành tương sinh thực chất là âm dương chuyển hoá .Thì ra bên trên bức tranh mới là chuyện thú vị : mèo già đón đường đám rước . Vốn mèo-chuột xung khắc nhau nay bỗng giao hoà. Lúc này , bốn con chuột ( bên trái ) có lễ trình mèo trong ngày cưới . Mèo ( bên phải , được phóng to để phân biệt vị thế xã hội ) cũng im lặng,cụp đuôi dưới bụng,đưa tay nhận quà " chim và cá " trong tiếng loa, kèn trịnh trọng và sự khúm núm dâng hay tay của chuột . "Chim và cá" trong nhận thức của người Việt cũng là qui luật của trết lí âm dương , dựa theo thành ngữ " nhất điểu nhì ngư " thì mọi việc sẽ trôi chảy mau lẹ , để đám rước được an toàn . Nhưng chuyện gì trôi chảy mau lẹ ? chuyện gì đang diễn ra đây ? Đó là mặt trái của cuộc đời , của xã hội : chuyện hối lộ , tham ô . Chuyện này vẫn diễn ra từ xưa đến nay nên đã thành chuyện muôn đời . Bởi phản ánh một cách tế nhị , sâu sắc xã hội qua hoạt cảnh vui ngày tết nên tranh " Đám cưới chuột " sống mãi trong dân gian . Tranh không chỉ vẽ chuyện ngày xưa , chuyện mèo chuột mà là "chuyện của muôn đời" . Nguồn : vanhoahoc.edu.vn
  3. Nguyên tác bài viết trên của tác giả Nguyễn Dư Ngày Tết, thử bàn về một tấm tranh Tết Người viết: Nguyễn Dư 30/12/2007 Đám cưới chuột và Trạng chuột vinh quy. Hai tấm tranh cùng mô tả một đám rước có đủ cả cờ quạt, kèn trống, lễ vật. Giữa đoàn rước là hai nhân vật chính, chàng chuột đội mũ cưỡi ngựa đi trước, nàng chuột ngồi kiệu theo sau. Sừng sững giữa đường, một lão mèo già hung dữ ngồi cản lối, giơ vuốt dọa nạt. Tùy theo trong tranh có chữ nghênh hôn, chú rể, hay tiến sĩ, vinh quy người ta gọi là tranh Đám cưới chuột hay Trạng chuột vinh quy. Những ai thích tranh Tết Việt Nam chắc đều biết hai tấm Phân tích ý nghĩa của tranh, các học giả nhận xét rằng: - "Đề tài (tranh Đám cưới chuột) giống tranh Trạng chuột vinh quy: phải đút lót đám quan lại" (1). - "Thoáng nhìn tờ tranh "Trạng chuột vinh quy" còn gọi là tranh "Đám cưới chuột", ta thấy bức tranh diễn tả một đám rước quan trạng chuột vinh quy rất vui. Cũng kèn trống, cờ quạt, mũ mãng, cân đai chỉnh tề, "Chuột anh" cưỡi ngựa hồng đi trước, "Chuột nàng" ngồi kiệu theo sau, đám rước tiến hành trong không khí trang nghiêm, nhưng thực ra họ nhà chuột vẫn có vẻ lo sợ, thấp thỏm, ngơ ngác, mắt lấm la lấm lét nhìn trước nhìn sau. Thực tế chuột rất sợ mèo, không phải là kẻ dễ dàng để chúng đi lại tự do, nghênh ngang như vậy. Nên muốn được yên thân thoát khỏi nanh vuốt "mèo già", họ nhà chuột đã phải trịnh trọng kèn trống rước lễ vật dâng biếu chú mèo đang vểnh râu, trừng mắt ngồi chờ, nào là chim câu béo, cá chép to là những thứ mèo ưa thích nhất, nhưng đồng thời cũng là những lễ vật người dân lao động xưa thường phải đem biếu xén đút lót cho bọn cường hào quan lại. Tính độc đáo của tranh "Trạng chuột vinh quy" là biểu hiện sự chống đối tích cực của nhân dân về tệ nạn tham ô, ăn đút lót của bọn thống trị, là tiếng cười hóm hỉnh mỉa mai sâu cay của nhân dân lao động đối với chúng. Mặc dù trong tranh không chú thích cụ thể về ý đồ phản ánh của tác giả, nhưng nhân dân vẫn hiểu rõ cái chất đả kích của tranh"(2). - "Tranh Chuột đỗ trạng nguyên vinh quy bái tổ, ngựa anh đi trước, kiệu nàng đi sau. Và đám rước vinh quy này mang chim, mang cá tới biếu chú mèo. Trên bức tranh có đề mấy hàng chữ: “Thử bối đệ ngư: chí, chí, chí” nghĩa là đàn chuột dâng cá kêu chí, chí, chí. “Miêu nhi thủ lễ:mưu, mưu, mưu” nghĩa là chú mèo giữ lễ: meo, meo, meo. Lại có hàng chữ nôm ở góc trái phía trên: Tác lạc: nghĩa là làm vui Khôn khôn khôn đã có dễ Đỗ cao cưới vợ tiếng rằng hời Bức tranh này còn gọi là tranh Đám cưới chuột (3). Các nhận xét về ý nghĩa của tấm tranh đều giống nhau. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là tại sao cùng một tấm tranh vẽ một đám rước, hay nói đúng hơn là hai tấm tranh có cùng nội dung, bố cục mà lại có thể lúc thì là đám cưới, lúc khác lại là đám rước vinh quy? Như vậy hóa ra hai đám rước giống nhau? Điều này còn có nghĩa là các học giả mặc nhiên công nhận rằng dù cưới hỏi hay vinh quy, vô danh tiểu tốt hay bảng vàng bia đá, trong cả hai trường hợp các đương sự đều phải đút lót, hối lộ cho quan chức địa phương? Sau lũy tre xanh ngày xưa, đám chuột đồng, chuột nhắt sợ cụ mèo nanh vuốt là chuyện bình thường, dễ hiểu. Nhưng đến cả hàng chức sắc cũng phải sợ hạng chức dịch trong làng thì quả thật là chuyện khó hiểu, khó tin. E rằng tấm tranh có vấn đề, cần phải đem ra bàn. Trước khi bàn, chúng ta hãy cùng nhau trở về xem Rước dâu và Rước trạng nguyên của xã hội ngày xưa. Hy vọng rằng sau đó chúng ta sẽ rút ra được một kết luận. Rước dâu Tục lệ cưới hỏi ngày xưa ở nước ta bắt chước tục của Tàu nên rất rườm rà, phiền toái. Đại để có 6 lễ: - Nạp thái: nhà trai và nhà gái đính ước. - Vấn danh: nhà trai hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ của cô gái. - Nạp cát: tuổi tác, ngày sinh đôi bên thuận hợp, nhà trai chấp nhận đính ước. - Nạp tệ: nhà trai làm lễ hỏi. - Thỉnh kì: nhà trai xin làm lễ cưới. - Nghênh hôn: lễ cưới, rước dâu. Đến đời Lê và đời Nguyễn thì tục lệ cưới hỏi đã dần dần được thay đổi, bớt nặng nề tốn kém, rút ngắn thời gian chờ đợi. Ngày nay từ thôn quê đến thành phố chỉ còn giữ lễ hỏi và lễ cưới. Có khi cả hai lễ được gồm chung, tổ chức cùng ngày cho tiện. Rước dâu nghĩa là nhà trai đến nhà gái để làm lễ rước cô dâu về nhà chồng. "Về vùng hương thôn với nhau, cưới thường đi về đêm. Lúc đi, phải chọn giờ hoàng đạo mới đi, và phải có một người đàn ông dễ tính ra đón ngõ trước, khi ra thì reo ầm cả lên rằng gặp giai, để cho mọi việc được dễ dàng mau mắn. Trong đám cưới có một ông già (kén ông nào hiền lành, mà vợ chồng còn song toàn, lắm con nhiều cháu mới tốt) cầm một bó hương đi trước, rồi đến các người dẫn lễ, kẻ đội mâm cau, người khiêng lợn rượu v.v...Chú rể thì khăn áo lịch sự, có một đám thân thích dẫn đi. Khi đến nhà vợ, dàn bày đồ lễ, người chủ hôn nhà gái khấn lễ gia tiên rồi thì người rể vào lễ (...). Sáng hôm sau thì đưa dâu, nhà trai nhà gái cùng ăn mừng, làm cỗ bàn mời bà con khách khứa (...). Đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương đi trước, rồi bà con họ hàng dẫn cô dâu đi sau. Đến nhà trai rồi thì một vài bà già dẫn cô dâu vào lạy gia tiên, rồi đưa đi lễ nhà thờ đôi bên bố chồng mẹ chồng (...)(4). Xưa kia, nước ta không có sổ giá thú, thay vào đấy có lễ nộp cheo cho làng. Trước khi cưới, nhà trai phải nộp cheo cho làng của nhà gái. Nộp bằng tiền hay bằng phẩm vật, nhiều hay ít, tuỳ theo lệ của từng làng. Nộp cheo có giá trị như khai báo sổ sách ngày nay. Dọc đường đến nhà gái, thỉnh thoảng nhà trai lại bị trẻ con chăng dây chắn lối, phải cho tiền chúng mới cởi dây cho mọi người đi qua. Lại có đám xin tiền bằng bánh pháo mừng, hoặc bày hương án giữa đường... Nộp cheo, chăng dây, bày hương án cũng là dịp để các chức dịch, người làng, mè nheo, vòi vĩnh tí ti. Đón dâu và rước dâu ngày xưa toàn đi bộ. Sang đầu thế kỉ 20, tại một vài thành phố lớn bắt đầu dùng xe tay, xe song mã. Ngày nay nhiều nơi dùng xe hơi. Phương tiện tuy có thay đổi theo thời, nhưng từ xưa tới nay chưa nghe nói có đám cưới nào có chú rể cưỡi ngựa đi trước, cô dâu ngồi kiệu theo sau, xung quanh nào cờ, nào quạt như trong tranh vẽ! Phải thừa nhận rằng tranh Đám cưới chuột mô tả không đúng một tục lệ quan trọng ngày xưa! Chẳng lẽ nghệ nhân dân gian lại sai lầm như vậy? Rước trạng nguyên Trạng nguyên là người đỗ đầu kì thi cao nhất của khoa cử ngày xưa. Cho tới đầu thế kỉ 20, thi cử ở nước ta được tổ chức mỗi 3 năm một lần. Có 3 kì thi chính là thi hương, thi hội, thi đình. 1- Trước khi thi hương, tất cả sĩ tử phải qua kì sát hạch. Ai đỗ sát hạch mới được ghi tên dự thi hương. Thi hương, được tổ chức ở một số tỉnh lớn như Thừa Thiên, Gia Định, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Nội (về sau Nam Định và Hà Nội nhập làm một thành Hà Nam), gồm có 4 kì. Phải đủ điểm kì trước mới được vào kì sau. Ai đủ điểm qua được 3 kì đầu thì được vào dự kì chót là kì phúc hạch. Cộng điểm cả 4 kì, điểm cao được đỗ cử nhân, thấp thì đỗ tú tài. Các ông tân khoa cử nhân được quan trường ban thưởng một bộ áo mũ, một cái lọng xanh, được mời ăn yến. Chờ đến năm sau đi thi hội. 2- Thi hội: Các ông cử nhân, tú tài, giáo thụ, huấn đạo, được quyền ghi tên thi hội, tổ chức tại kinh đô. Thi hội cũng chia ra làm 4 kì. Ai đủ điểm thì được vào thi đình. 3- Thi đình: đây là kì thi sau cùng để sắp hạng cao thấp, tổ chức tại sân trong cung điện nhà vua. Thi đình được nhà vua ra đầu bài và chứng kiến cuộc thi. Các quan trường chấm bài, đệ lên vua duyệt lại. Điểm cao thì được đỗ tiến sĩ, thấp thì đỗ phó bảng. Đời Lê, ba ông tiến sĩ đỗ đầu được gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Những người đỗ tiến sĩ được xướng danh. Tên tuổi, quê quán được ghi khắc vào bảng vàng, bia đá. Các ông tân khoa tiến sĩ được nhà vua ban cho mũ áo, cân đai, được mời ăn yến. Các ông còn được cưỡi ngựa xem hoa ở vườn thượng uyển, dạo chơi thăm phố xá kinh kì. Trong lúc các ông tân khoa còn vui chơi nơi cung điện, phố phường, thì các chức dịch ở làng được lệnh phải tổ chức đón rước các ông về vinh quy bái tổ. "Đỗ tiến sĩ được nhà vua ban cho áo mũ xiêm ủng, và ban cho cờ biển vinh qui. Cả hàng tổng hoặc nơi trọng văn học thì cả hàng tỉnh phải đem đồ nghi trượng sự thần đi rước. "Ông tân khoa tiến sĩ mặc áo thụng lam, cưỡi ngựa, che đôi lọng, cha mẹ, vợ và ông thầy dạy học mỗi người ngồi một cái võng trần, che một lọng rước vinh qui về làng, thiên hạ kéo nhau đi xem, lại vinh hiển hơn cử nhân nhiều" (4). Nhiều người trong chúng ta còn nhớ đám rước Thời trước: ...Một quan là sáu trăm đồng Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi Chồng tôi cưỡi ngựa vinh qui Hai bên có lính hầu đi dẹp đường Tôi ra đón tận gốc bàng Chồng tôi xuống ngựa cả làng ra xem... Nguyễn Bính Anh chồng trong câu chuyện tuy chỉ đỗ tú tài hay cử nhân, chị vợ chưa được ngồi võng, thế mà đám rước cũng đã có vẻ khá long trọng, có lính dẹp đường, có cả làng ra xem. Rước trạng nguyên, tiến sĩ chắc hẳn còn linh đình, rầm rộ hơn nhiều, có cả tổng, cả tỉnh đi xem! Kể từ kì thi lều chõng đầu tiên tổ chức năm 1075, cho đến kì cuối cùng năm 1919, trong suốt gần 9 thế kỉ xã hội phong kiến Việt Nam đã tôn giới nho học lên hàng đầu tứ dân (sĩ, nông, công, thương), dùng khoa cử để tuyển chọn nhân tài. Các ông trạng, ông nghè (tiến sĩ), ông cử, ông tú chia nhau nắm giữ quyền hành. Trạng nguyên, tiến sĩ là biểu tượng của thành công, phú quý, là mẫu người lí tưởng của các chuyện cổ tích có hậu. Các ông thuộc tầng lớp cao nhất của giới quan lại. Từ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) về sau, "Duy có chức ngự sử là chức quan đứng đầu trong việc giữ phong hóa pháp điển, chức sứ thần là người có trách nhiệm ngoại giao, tất phải kén người đỗ tiến sĩ, quan tiến triều thì không được dự "(5). Đời Lê, trạng nguyên được cấp 55 người tuỳ hành (những người hầu hạ, sai bảo), bảng nhãn được 50 người, thám hoa chỉ được 45 người. Trạng nguyên, tiến sĩ còn được quyền chọn đất trong tổng để làm nhà. Hàng huyện làm cổng, hàng tổng làm nhà Chọn chỗ nào, hàng huyện phải cho người tới làm cổng, hàng tổng phải cắt người tới đắp nền xây nhà tại chỗ đó. Đặc ân to lớn như vậy nên mới có cảnh: Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng Chưa đỗ tiến sĩ mà đã vậy, huống hồ đỗ trạng nguyên thì phải biết! Xem thế thì đủ thấy rằng các chức dịch trong làng, các quan lại địa phương dù có gian ác, hống hách đến mấy cũng chỉ dám bắt nạt, hà hiếp đám dân thường thấp cổ bé họng, chứ không ai lại dại dột đụng vào gia đình, họ hàng các ông quan lớn tương lai của triều đình. Cho dù có điếc không sợ súng, cũng chả có mèo già nào dám chơi trò vuốt râu hùm, ra ngồi cản đám rước vinh quy của vợ chồng quan trạng. Lớ quớ thì chỉ có nước tù mọt gông! Nói rằng gia đình, họ hàng trạng chuột phải lo sợ, thấp thỏm, mắt lấm la lấm lét nhìn trước nhìn sau, đem lễ vật đi đút lót, hối lộ mèo già, là không có căn cứ. Có chăng là chính mèo già phải lo sửa soạn chạy chọt, đút lót gia đình, họ hàng quan trạng để được một chân điếu đóm ! Chẳng lẽ người vẽ tranh Trạng chuột vinh quy lại tỏ ra không hiểu gì về uy quyền của quan trạng? Tôi không dám nghĩ có chuyện lạ như vậy! Nhưng rõ ràng là tranh Đám cưới chuột và Trạng chuột vinh quy đều không tả đúng tục lệ ngày xưa. Vậy phải hiểu tấm tranh ra sao? Phân tích bố cục của tấm tranh chúng ta thấy dường như tranh được chia thành hai phần, lằn chia khá rõ nét : - Nửa dưới vẽ một đám rước trạng nguyên vinh quy. Đoàn rước đi trên đường cái, hoặc đường làng đã được dọn sạch cỏ, có cờ biển, "ngựa chàng đi trước, kiệu nàng theo sau". - Nửa trên vẽ một đám rước ở thôn quê, hai bên đường cỏ mọc. Đám rước có kèn trống, lễ vật, bị mèo già chắn lối. Đám rước trạng nguyên được vẽ đúng như sách vở mô tả, dễ hiểu. Còn đám rước bị gặp khó khăn, thì thật là khó hiểu. Cảnh này xảy ra ở đâu ? Trong kho tàng văn hoá truyền thống Liễu Đôi có bài thơ ngụ ngôn Đám cưới chuột (6): Mẹ chuột cũng quyết một lòng Chỉ còn một nỗi sợ ông mèo già. Mèo già tính khí la cà, Này rượu hàng hũ, này gà hàng con. Ông mà đã nóng máu lên, Thì thôi tan nát chả còn thứ chi! ... Cưới chuột thì thật là to, Dãy dài dãy ngắn giăng bờ như nêm. Bỗng dưng dừng lại phía trên, Hai họ ngơ ngác ngó lên sự gì? Một đàn mèo xám mặt bì, Cầm dao,cầm gậy lại thì cản ngăn. Mèo Già nhảy đến nhe răng: - "Tao thì lột xác không thằng nào tha! Chúng mày ăn uống la đà, A!Quân xỏ nõ, khinh già nhơn nhơn!" Chuột Trùm mới vái lạy luôn: - "Xin ngài độ lượng rộng lòng thương cho! Sông sâu còn lúc vắng đò, Bởi vì con trẻ biết lo liệu gì! Mong ngài phù hộ độ trì, Chúng con biết rõ mình thì thật hư!" ... Một trời nước biếc non xanh, Đàn chuột lũ lượt vòng quanh bờ dài. Đi đầu là họ nhà trai. Chú rể áo dài quần áo thướt tha. Chuột Trẻ cho chí Chuột Già, Những là áo lượt quần là tốt tươi. Chuột Vàng dâng quả, đội cơi, Miếng trầu thơm miệng đỏ môi họ hàng(...). Nửa trên của tấm tranh chính là minh hoạ của phần đầu Đám cưới chuột này. Nếu đúng là tấm tranh có hai phần như vậy thì chúng ta lại phải trả lời câu hỏi vì sao nghệ nhân lại vẽ hai đám rước khác nhau trên cùng một tấm tranh? Căn cứ vào lời chú trong tranh Bằng Liệt tân khắc lão thử thủ tân (Bằng liệt mới khắc lại chuột già lấy vợ), chúng ta được biết rằng tấm tranh này mới được khắc lại, không rõ năm nào. Đây chỉ là một trong số nhiều dị bản (Durand đưa ra 3 bản (1), Trung quốc có 4 bản (7), mới đây Nguyễn Đăng Chế lại "phục hồi vốn cổ ", khắc thêm 1 bản). Các dị bản được nghệ nhân sửa đổi tuỳ hứng. Ngày nay chúng ta có tranh ghi bằng chữ hán, chữ nôm, chữ quốc ngữ. Tôi cho rằng trong quá trình tái tạo, có nghệ nhân nào đó đã đem ghép hai tấm tranh cùng vẽ đám rước - rước dâu và rước vinh quy - để làm thành một tấm mới. Việc làm gán ghép này đã vô tình tạo ra một nội dung "đầu mèo đuôi chuột" khó hiểu. Các nghệ nhân đời sau tiếp tục chép lại tấm tranh ghép này, không thắc mắc gì cả. Trường hợp ghép tranh như vậy còn được thấy ở tấm Du Xuân đồ trong sách của Durand (1). Ai đó đã ghép hai tấm tranh Tết biệt lập của bộ tranh Oger, đồng thời sửa đổi cả các câu thơ nôm của chính bản. Chúng ta có thể tạm kết luận rằng tấm tranh Tết nổi tiếng của ta đã được ghép từ hai tấm tranh khác nhau, nửa trên là Đám cưới chuột, nửa dưới là Trạng chuột vinh quy. Các chữ trong tranh đã được người đời sau sửa đổi, thêm bớt một cách tuỳ tiện. Nguyễn Dư Tài liệu tham khảo 1-Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, Paris,1960 2-Nguyễn Bá Vân-Chu Quang Trứ, Tranh dân gian Việt Nam, NXB Văn Hóa,1984 3-Toan Ánh, Làng xóm Việt Nam, NXB Xuân Thu, Hoa Kì 4-Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp Đồng Tháp,1990 5-Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí), NXB Sử học, Hà Nội,1961 6-Bùi Văn Cường-Nguyễn Tế Nhị, Khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi, NXB KHXH, Hà Nội, 1982 7-Văn Ngọc, Tranh khắc gỗ dân gian, Diễn Đàn số 88, Paris,1999 Cập nhật ( 30/12/2007 ) Nguồn: vietccsf.org
  4. Không biết vì sao mấy hình trên đưa vào đây lại bé tẹo. Nhờ BQT chỉ dẫn giúp nhé.
  5. Tiếp theo... Bloc tem này được thiết kế theo bức "Lão thử thú thê" của Trung Quốc? Bức tranh của Trung Quốc có tên gọi "Lão thử thú thê" (Lão chuột cưới vợ), là tranh mộc bản Niên Họa Trung Quốc đời Thanh, khắc in tại Thiệu Dương, Hồ Nam Bức Niên Họa "Lão thử thú thê" này, do nhà văn Lỗ Tấn từng trân giữ và gọi nó là thể tài đích thực truyền thống của Trung Quốc. Ông có nói đến trong tập tản văn "Triêu hoa tịch thập" (1926), chương “Miêu-cẩu-thử”: “Trước giường tôi có dán hai bức Niên hoạ, một là Bát giới chiêu thân (Bát Giới ở rể)... mà tôi không thấy đẹp mắt cho lắm; còn bức kia là Lão thử thú thê vô cùng đáng yêu, từ chú rể, cô dâu, chủ hôn, tân khách, giúp việc, nhân vật nào mõm cũng nhọn, đùi nhỏ, đuôi dài, râu tua, trông rất giống kẻ sĩ, nhưng ăn mặc thì áo hồng, khố lục...” Đàn chuột trong tranh này về hình thể, đường nét, bố cục (cũng phân thành hai phần trên và dưới) và các hàng chữ có thể nói là giữ nguyên văn như trong bức "Đám cưới chuột" của ta. Cũng có tống lễ cho mèo, ban nhạc, đánh chiêng thổi kèn, rước đèn, phu kiệu... Chú rể cưỡi ngựa quay đầu nhìn về hướng cô dâu. Chỉ có vài chi tiết khác là đầu chú rể đội mũ quan triều Thanh (trong bức Đông Hồ là loại mũ cánh chuồn của trạng nguyên) và tay có cầm quạt. Còn hai bên khung cửa kiệu hoa (theo phối cảnh đối xứng) dán 2 câu đối: “Càn khôn định hĩ” (Trời đất định rồi), “Chung cổ lạc chi” (Chuông trống vui vầy). Còn hàng chữ trên cùng bức tranh, có 12 chữ khải: “Sở nam Than trấn tân khắc Lão thử thủ thân toàn bản” và “Bảo duyệt lai” phỏng như tự hiệu, cho biết bức tranh này làm tại Hồ Nam, Thiệu Dương, Sở Nam Than khắc ấn. Nguồn: Toàn Trung Quốc có hơn 80 loại tranh "Lão thử thú thê" được in khắc, nhưng đa số đều họa hình tượng mèo là kẻ thù tự nhiên của chuột, tức vẽ ra thảm kịch chuột là “món ăn” của mèo. Thế nhưng bức Lão thử thú thân của phường tranh Than Đầu này không thường tình ở chỗ là nó không khắc hoạ cái thảm cảnh đó. Cũng như bức đám cưới chuột của Đông Hồ cũng không gây ấn tượng nào về con mèo xuất hiện như một tai hoạ. Như vậy, cách giải thích về bức tranh đám cưới chuột này phải khác và đứng độc lập theo ý nghĩa “cát tường” (là sự tốt lành, thuận lợi, may mắn) của ngày Tết. Rõ ràng ý hướng của của bức tranh này không phải mô tả tình huống rủi ro, bất hạnh. Vì đây là bức tranh gây sự thích thú với trẻ em, nó được “nhi đồng hoá” không còn nhìn sự việc mèo chuột như kẻ thù của nhau trên thực tế. Đồng thời thế giới cổ tích này phản ánh sự cho phép của chúng ta nhìn về một thế giới đại đồng (như trong Dế mèn phiêu lưu kí), thể hiện một sự hoà thuận, cộng tồn, hướng tới nhân tình. Trong ý nghĩa này thì thái độ của người đối với chuột cũng thế, theo tập tục dân gian Trung Quốc xưa, cứ vào mùng 7 tháng Giêng người ta làm lễ cúng cho sinh hoạt của loài chuột, cũng gọi là "Lão thử giá nữ" (Lão chuột gả con gái) hay "Lão thử thú thê" (Lão chuột cưới vợ). Đây có lẽ là “lí do tồn tại” hoạt cảnh bức tranh đám cưới chuột. Và có lẽ người Tàu gián tiếp cũng muốn cầu phồn thực, sinh con đẻ cái như... chuột vậy! Cũng lưu ý và không thể bỏ qua cách chơi chữ nghĩa trong dân gian của người Trung Quốc trong các biểu tượng mang nghĩa cát tường. Hàng chuột trên cùng trước đội nhạc có hai con khiêng lễ vật: ôm gà, nâng cá. “Kê” 鸡 (ji) đồng âm với “cát” (jí) 吉; “ngư” (yú) 鱼 đồng âm với “dư” (yú) 余. Mọi mùa tốt lành, quanh năm dư đủ là lời chúc đẹp cho đám cưới chuột. Dân gian thường dùng hình tượng “kê dương” (ji yáng) 鸡羊 (gà, dê) biểu tượng “cát tường” (ji xíang), lấy “liên hoa lí ngư” 莲花 鲤鱼 (hoa sen và cá chép) biểu hiện “liên niên hữu dư” 连年有余 (hàng năm dư đủ),... đã sớm trở thành nhận thức chung. Như vậy, “kê” cũng là nguyên hình của “phượng”, “lí ngư khiêu long môn” tức cá chép vượt vũ môn thành rồng (cũng chỉ việc đỗ đạt). Ở đây “kê” và “ngư” cũng tượng trưng cho “phượng và long”. Long phượng tức âm dương, càn khôn, nam nữ, vợ chồng. Vì thế “long phượng trình tường” là nghi thức không thể thiếu trong ngôn ngữ chúc tụng hôn nhân. Về nguồn gốc tranh Tết dân gian Việt Nam, có ý kiến cho rằng: tranh mộc bản dân gian Việt Nam - chủ yếu loại tranh dân gian Tết - nguyên thuỷ bắt nguồn từ tranh mộc bản Niên Họa (hay tranh Tết) của Trung Quốc. Hai dòng tranh dân gian tiêu biểu là Đông Hồ và Hàng Trống, về phong cách và đặc điểm chịu ảnh hưởng: Đông Hồ gần với dòng tranh Duy Phường hoặc Dương Gia Bộ (ở Sơn Đông). Hàng Trống gần nhất với dòng tranh nổi tiếng Dương Liễu Thanh (ở Thiên Tân), do sắc thái nghệ thuật và kĩ thuật mộc bản (khắc nét rồi tô màu bằng tay và cũng thường đi về các đề tài truyện, tích). Vấn đề này cần được nghiên cứu một cách khoa học để xác định rõ nguồn gốc của tranh Tết dân gian Việt Nam. Nguồn: http://www.vietstamp.net
  6. "Đám cưới chuột" qua tem: Trong dòng tranh Đông Hồ có một tấm tranh được đề tên khác nhau “Đám cưới chuột” hay “Trạng chuột vinh quy”. Thoáng nhìn tờ tranh "Trạng chuột vinh quy” hay “Đám cưới chuột", ta thấy bức tranh diễn tả một đám rước đầy đủ kèn trống, cờ quạt, lễ vật. Đám rước tiến hành trong không khí trang nghiêm,nhưng rất vui. Giữa đoàn rước là hai nhân vật chính: "Chuột anh" mũ mãng, cân đai chỉnh tề, cưỡi ngựa hồng đi trước, "Chuột nàng" ngồi kiệu theo sau. Sừng sững giữa đường, một lão mèo già hung dữ ngồi cản lối, giơ vuốt dọa nạt. Tùy theo trong tranh có chữ nghênh hôn, chú rể, hay tiến sĩ, vinh quy người ta gọi là tranh “Đám cưới chuột” hay “Trạng chuột vinh quy”. Nhìn sâu trong nét vẽ ta nhận thêm rằng họ nhà chuột vẫn có vẻ lo sợ, thấp thỏm, ngơ ngác, mắt lấm la lấm lét nhìn trước nhìn sau.Trên bức tranh có đề mấy hàng chữ : Thử bối đệ ngư: chí, chí, chí nghĩa là đàn chuột dâng cá kêu chí, chí, chí. Miêu nhi thủ lễ: mưu, mưu, mưu nghĩa là chú mèo giữ lễ kêu meo, meo, meo. Lại có hàng chữ nôm ở góc trái phía trên: Tác lạc nghĩa là làm vui Khôn khôn khôn đã có dễ Đỗ cao cưới vợ tiếng rằng hời Tổng thể tấm tranh toát lên việc họ nhà chuột muốn được yên thân thoát khỏi nanh vuốt "mèo già", đã phải trịnh trọng kèn trống rước lễ vật chim câu béo, cá chép to dâng biếu chú mèo đang vểnh râu, trừng mắt ngồi chờ. Tính độc đáo của tranh là biểu hiện sự chống đối tích cực của nhân dân về tệ nạn tham ô, ăn đút lót của bọn thống trị, là tiếng cười hóm hỉnh mỉa mai sâu cay của nhân dân lao động mặc dù trong tranh không chú thích cụ thể về ý đồ của tác giả. Vậy sao hai tấm tranh có cùng nội dung, bố cục mà lại có thể lúc là đám cưới, lúc khác lại là đám rước vinh quy? Phân tích bố cục của tấm tranh chúng ta thấy dường như tranh được chia thành hai phần, lằn chia khá rõ nét (bản khắc chính thống thì rõ nét hơn ) : - Nửa dưới vẽ một đám rước trạng nguyên vinh quy. Đoàn rước đi trên đường cái, hoặc đường làng đã được dọn sạch cỏ, có cờ biển, "ngựa chàng đi trước, kiệu nàng theo sau". - Nửa trên vẽ một đám rước ở thôn quê, hai bên đường cỏ mọc. Đám rước có kèn trống, lễ vật, bị mèo già chắn lối giống như bài thơ ngụ ngôn "Đám cưới chuột" trong kho tàng văn hoá truyền thống Liễu Đôi. Nếu đúng là tấm tranh có hai phần như vậy thì chúng ta lại phải trả lời câu hỏi vì sao nghệ nhân lại vẽ hai đám rước khác nhau trên cùng một tấm tranh? Căn cứ vào lời chú trong tranh "Bằng Liệt tân khắc lão thử thủ tân" (Bằng liệt mới khắc lại chuột già lấy vợ), chúng ta được biết rằng tấm tranh này mới được khắc lại, không rõ năm nào. Đây chỉ là một trong số nhiều dị bản. Các dị bản được nghệ nhân sửa đổi tuỳ hứng. Ngày nay chúng ta có tranh ghi bằng chữ hán, chữ nôm, chữ quốc ngữ. Và trong quá trình tái tạo, nghệ nhân nào đó đã đem ghép hai tấm tranh cùng vẽ đám rước - rước dâu và rước vinh quy - để làm thành một tấm mới. Việc làm gán ghép này đã vô tình tạo ra một nội dung "đầu mèo đuôi chuột" khó hiểu. Các nghệ nhân đời sau tiếp tục chép lại tấm tranh ghép này, không thắc mắc gì cả. Vậy thì tấm tranh Tết nổi tiếng của ta đã được ghép từ hai tấm tranh khác nhau, nửa trên là "Đám cưới chuột", nửa dưới là "Trạng chuột vinh quy". Các chữ trong tranh đã được người đời sau sửa đổi, thêm bớt một cách tuỳ tiện. Nguồn: http://www.vietstamp.net (Còn nữa)
  7. Kiến trúc làng trong tâm thức người Việt 07/09/2008 09:04 (GMT + 7) Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới. Cổng một làng quê Việt Nam (Nguồn: vitinfo.com.vn) "Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu..." Quê tôi là vùng đất bãi sông Hồng. Mẹ kể, tôi sinh vào một ngày đông muộn. Bà đỡ đã tắm cho tôi bằng thứ nước sông Hồng đã được đánh phèn để bớt đi cái mầu phù sa đỏ quạch. Thuở ấy, với tôi, khái niệm về quê hương cứ nhạt nhòa, xa vời vợi… bởi suốt tuổi thơ tôi lớn lên trong lòng Hà Nội. Hình ảnh về làng quê với mái đình, con đê, bến sông… đến với tôi chỉ qua những chuyện kể của bà, những bài ca dao trên ghế nhà trường mà thầy giáo già dạy tôi thường ngâm nga, tựa như: Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. Hay những câu thơ của cha tôi: Ngày Xuân trai gái trong thôn / Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh / Đò sang lặng gió không trành / Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi. (Đò chiều – Xuân Thiêm ). Vậy mà, như mảnh đất phù sa bồi đắp theo tháng năm, hình ảnh về quê hương, về cái nôi tôi sinh cứ dầy lên rõ nét, sâu đậm dần cùng với vốn sống, sự hiểu biết của một người đến độ trưởng thành… Nghề kiến trúc đã cho tôi cơ hội đi nhiều, đến với nhiều vùng miền của đất nước. Để cho tôi được trở về, với niềm đau đáu, đam mê … mong tìm thấy ở làng quê nhỏ bé của mình nói riêng và của nông thôn nói chung một cái gì đấy, giản dị thôi, mà sao lại có sức hấp dẫn đến vậy. Dẫu rằng, vùng quê nơi tôi đến hay trở về vẫn còn nghèo lắm, rất nghèo so với những đổi thay đến chóng mặt nơi phồn hoa đô thị trong nền kinh tế thị trường ngiệt ngã. Dấu ấn của kiến trúc làng là gì? Giáo sư kiến trúc Đặng Thai Hoàng, một người có những kiến giải sâu sắc về kiến trúc đô thị thường trăn trở nói với tôi, đô thị của chúng ta, kể cả các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh đều thiếu những "điểm nhấn" hay "Yếu tố điểm" (Landmarks). Mà theo ông, "Landmarks" là hình ảnh gây ấn tượng cho con người với đô thị, nó tạo ra sự nhận biết về phương hướng, vị trí trong thành phố hoặc trong khu vực. Đó là một loại ký hiệu của cấu trúc đô thị như tháp Eiffel (Paris – Pháp), tháp truyền hình Tower ở Toronto (Canada), tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur (Malaysia)… Tôi đồng ý với nhận xét của ông. Đấy là về đô thị. Còn kiến trúc nông thôn, mà tôi gọi là kiến trúc làng, thì cái cột mốc hay yếu tố điểm kia là cái gì? Đình làng Nông Lục (Bắc Sơn-Lạng Sơn). Ảnh nguồn: photobucket Tôi đã dự nhiều cuộc hội thảo khoa học của các nhà quản lý, của giới quy hoạch, kiến trúc, được nghe nhiều lý luận cao siêu, chung chung có tiếng kêu gọi khi bàn về kiến trúc nông thôn của nhiều vị thức giả. Nhưng những nghiên cứu có tính thực tiễn thì vẫn hiếm hoi lắm! Trên thế giới, không quốc gia nào lại không tồn tại hai môi trường cư trú: Đô thị và Nông thôn. Mà đã có nông thôn là có làng. Nhưng có lẽ, không ở đâu có cấu trúc làng như ở nước ta - Làng Việt. Một kiểu làng đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ, sản phẩm của nền văn minh lúa nước, canh tác lạc hậu với “con trâu đi trước, cái cày theo sau". Làng Việt truyền thống có cấu trúc không lớn. Làng nằm kề cánh đồng, ruộng lúa, sở hữu của cư dân trong làng. Làng nọ cách làng kia cũng bởi cánh đồng làng. Từ hàng nghìn đời nay, mối quan hệ xã hội trong làng chủ yếu là thứ quan hệ “ Gia đình – họ hàng – làng nước". Có nhà nghiên cứu dân tộc học cho rằng, làng là sự mở rộng của huyết thống, nước thì xa hơn, nhưng cũng chung một cội nguồn. Có phải vì thế chăng mà trong lịch sử Việt Nam, các vị vua thường xưng "Tổ" hoặc "Tông" như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông… cũng bởi từ cội nguồn và huyết thống. Nói như vậy để thấy vị trí của làng quan trọng đến thế nào trong xã hội Việt Nam truyền thống. Cấu trúc không gian của làng không phức tạp, nhưng cũng không đơn giản đến mức đơn điệu. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu như làng nào cũng có lũy tre xanh bao bọc, dù làng nằm trong đê hay ngoài đê (ngoài bãi). Lũy tre ken dầy bởi lớp lớp cây tre, măng tre… như bức tường thành che chở cho làng khi có cướp, có giặc ngoại xâm, là nơi cung cấp vật liệu cho làng làm nhà, làm công trình công cộng và bao vật dụng sinh hoạt hằng ngày. Muốn vào làng phải đi qua cổng làng. Cổng làng xưa thường xây bằng gạch, nhiều làng ở vùng trung du và xứ Đoài - Hà Tây (nay đã sáp nhập với Hà Nội) thì xây bằng đá ong, liên kết bằng vôi, vữa trộn với mật mía và muối rất chắc chắn. Qua cổng làng là con đường làng lát gạch nghiêng hình mu rùa. Đường làng quanh co... (Ảnh nguồn: static.flickr.com) Từ đây, ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang, ngõ tắt như xương cá, mà đường làng là xương sống. Nhưng dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng ra là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Năm này qua năm khác, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tất cả đều đi trên đường làng và đi qua cổng làng. Ai đấy đã ví, cổng làng như một nhà ga, ở đó có đợi chờ, có chia ly, có nước mắt em nhạt nhòa trong chiều muộn tiễn người yêu lên đường đi xa, có dáng mẹ gầy xiêu xiêu suốt một đời tần tảo nuôi con, chờ chồng đằng đẵng suốt cuộc chiến tranh. Giáo sư Hoàng ơi! Với tôi và có thể cả với ông, cái cổng làng bình dị ấy sao không thể là một “Cột mốc", một “Yếu tố điểm" quan trọng trong cấu trúc làng! Một góc Mông Phụ Đường Lâm (Nguồn ảnh : photobucket.com) Trong làng, ngôi Đình có vị trí tâm linh đặc biệt. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành hoàng làng, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng. Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là xã hội Việt Nam thu nhỏ thời phong kiến, thì Đình là hình ảnh của làng. Nơi đây diễn ra những cuộc họp của bô lão trong làng, trong họ tộc, từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân Đình và theo lệ của làng. Đình làng với kiến trúc đặc sắc từ kỹ thuật dựng lắp đến nghệ thuật chạm khắc trên các hệ vì, bẩy, kẻ đã trở thành tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống. Nhà trong làng hầu hết là nhà tranh vách đất, sau này đời sống khá hơn là tường gạch, mái ngói. Bố cục nhà trong làng gần như giống nhau, có nhà chính, nhà phụ. Nhà chính thường ba gian hai chái và có hiên rộng. Hiên được che bởi một lớp dại đan bằng tre có thể tháo lắp dễ dàng, vừa kín đáo trong sinh hoạt, vừa tiện mở rộng không gian khi cần thiết, ngăn gió lạnh về mùa đông, che bớt cái nắng gắt chói chang của mùa hè. Nhà chính là nơi ở, nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà, nơi tiếp khách. Hai chái nhà thường được xây kín không mở cửa sổ, là nơi để đồ, hoặc dành làm chỗ ngủ cho đàn bà con gái. Nhà phụ là bếp, chuồng lợn, gà. Nhà chính, nhà phụ thường bố cục theo hình chữ L, ôm lấy cái sân rộng. Trước sân là một ao nhỏ được tạo nên bởi quá trình vật đất tôn nền làm nhà, chung quanh bờ ao thường trồng cây lưu niên. Cấu trúc nhà trong làng giản dị, nhưng rất hài hòa với môi trường thiên nhiên trong lành, có ao cá, vườn cây… Chả thế mà nhiều vị quan khi về hưu, cởi bỏ mũ mão cân đai trở về làng vui thú điền viên là vậy. Những mái nhà đỏ san sát trong làng cổ Việt Nam (Nguồn: ttvnol.com) Cấu trúc làng truyền thống có nguy cơ bị phá vỡ Những năm gần đây, người ta hay nói đến cụm từ “Phát triển bền vững". Đây là một khái niệm xuất hiện vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, do ủy ban Môi trường và phát triển thế giới đề xướng. Sau Đại hội IX của Đảng, vấn đề phát triển bền vững ở nước ta đã trở thành quan điểm thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế thời kỳ 2001 – 2010. Và cũng đã có cả một Nghị quyết về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chúng ta đang trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ để theo kịp xu thế chung của thời đại và hội nhập quốc tế. Đó là quy luật tất yếu của sự phát triển. Theo số liệu điều tra gần đây, hàng năm đất nông thôn bị giảm gần ba vạn ha bởi tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và cả xói mòn, lở đất… Điều đó có nghĩa là đất canh tác ngày càng thu hẹp lại. Khoảng cách giữa làng và đô thị không còn xa nữa, thậm chí có nơi phố và làng đã tiếp cận nhau, hòa vào nhau để trở thành Phố – Làng. Cấu trúc làng truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ. Đó là một thực tế! Việc đi tìm một mô hình làng mới, cấu trúc mới phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, nâng cao đời sống của nông dân là vấn đề bức thiết, phải được quan tâm. Hiện nay, nhiều nhà quản lý, quy hoạch và cả trên báo chí hay dùng khái niệm "Đô thị hóa nông thôn". Theo tôi, cần xem lại khái niệm này. Đô thị hóa là quá trình biến một nơi nào đó thành đô thị. Nhưng không vì thế mà biến nông thôn truyền thống Việt Nam thành đô thị của thời hiện đại! Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông thôn là để nông thôn phát triển, để đời sống nông dân được cải thiện, đủ đầy theo xu thế đi lên của xã hội, chứ không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của nông thôn. Chúng ta cải thiện hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn như xây dựng hệ thống điện, nước sạch, làm đường, mương bêtông, sử dụng hầm chứa rác tạo khí bioga … là hướng đi đúng đắn mà Nghị quyết của Đảng đã từng chỉ rõ. Chúng ta bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp được xây dựng từ hàng nghìn năm nay, nhưng kiên quyết xóa bỏ những hủ tục, lệ làng lạc hậụ để xây dựng hương ước mới, phong tục mới, cuộc sống mới trong một xã hội có kỷ cương, dân chủ, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không gian kiến trúc làng truyền thống cần được tôn trọng. (Nguồn: xomnhiepanh) Sẽ ra sao khi cấu trúc làng truyền thống biến mất, thay vào đó là những dãy nhà kiểu hàng phố cao ngất ngưởng 4 – 5 tầng, kiến trúc lai căng, kệch cỡm, với đủ loại biển hiệu xanh, đỏ lòe loẹt mà ta gọi là “Đô thị hóa" Người viết bài này cứ mường tượng ra cái làng xưa yêu dấu của mình sẽ được các kiến trúc sư sắp xếp lại cho hợp lý hơn, tiện lợi hơn, để sau lũy tre làng là những ngôi nhà 1 – 2 tầng xây gạch không nung, mái lợp tôn cách nhiệt. Con đường làng được đổ bê tông, có hệ thống tiêu thoát nước… Ngày ngày, từ cái cổng làng quen thuộc, những nông dân của thời đổi mới ra cánh đồng cao sản làm việc với các nông cụ tiên tiến. Để rồi khi chiều xuống, họ lại trở về sống bình yên trong ngôi nhà ấm cúng với đầy đủ tiện nghi, có nước sạch, xem ti vi hay nghe nhạc trong một khuôn viên có ao cá, vườn cây… Rồi những đêm hội mùa xuân, trên chiếu chèo ở sân đình, các cô gái làng xinh đẹp sẽ lại hóa thân vào những Thị Mầu, Thị Kính qua làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Đó là cuộc sống của nông thôn Việt Nam trong tương lai gần mà chúng ta đang hướng tới và phấn đấu. Tôi không hiểu sâu về triết học, nhưng tôi thấy thực có lý khi đọc được ở đâu đó một phát hiện lý thú: Nếu lấy Huế làm tâm, quay một vòng ta sẽ được vòng tròn thái cực âm dương. Cái bờ biển cong hình chữ S của Tổ quốc chính là đường tiếp cận giữa âm và dương ấy. Âm là biển Đông. Còn phía đất liền có dãy Trường Sơn bao bọc là dương. Đất – Cha, Biển – Mẹ là thế. Cội nguồn của dân tộc, của văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ đó, nó bền vững, trường tồn qua cả nghìn năm thuộc Bắc, rồi sau này là gần trăm năm bị kẻ thù phương Tây đô hộ. Và, kiến trúc làng Việt là một phần của mạch nguồn văn hóa dân tộc chảy mãi khôn cùng… Hà Nội – Hưng Yên, mùa nhãn – 2008 KTS Phạm Thanh Tùng Nguồn: http://tuanvietnam.net
  8. Vậy là việc "không thể tô trát" đồng nghĩa chấp nhận khiếm khuyết xấu về phong thủy hay là khiếm khuyết không chấp nhận được về tư duy, thưa chú?
  9. Tranh đến tem kể về Ðám cưới chuột Đám cưới chuột - tranh dân gian Đông Hồ. ND - 36 năm trước, tranh dân gian Đám cưới chuột đã xuất hiện trên tem bưu chính trong nước. Cùng với thời gian, hình ảnh thể hiện sức sống lâu bền của nghệ thuật dân gian Việt Nam. Truyện ngụ ngôn "Ðám cưới chuột" Ở Trung Quốc, không một cuốn sách nào khi nói về lễ hội ở nước này lại không đề cập ít nhiều về "Ðám cưới chuột". Truyện "Ðám cưới chuột" ở nước này có thể tóm tắt như sau: Vợ chồng chuột sinh một con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa ai hỏi, bèn đi tìm nơi quyền thế để gả. Sau khi đến Mặt trời, Mây, Tường đều không đắt, đành quay lại. Song sợ mèo nên vợ chồng chuột nhận lời gả cho Mèo. Ðám cưới linh đình, nhưng khi đưa dâu đến nhà trai thì bị chú rể Mèo đớp cả họ chuột. Than ôi! Truyện "Ðám cưới chuột" ở Nhật Bản: Chuột muốn lấy bằng được ai là kẻ mạnh nhất trần gian. Chuột thấy Mặt trời mạnh nhất. Chuột tìm đến Mặt trời. Mặt trời cho Mây mạnh nhất, bởi Mây che Mặt trời. Chuột tìm đến Mây. Mây bảo Gió mạnh nhất. Chuột tìm đến Gió. Gió chỉ ra Bức Tường mạnh nhất. Nhưng quanh năm Chuột vẫn gặm nhấm đục Tường đấy thôi. Cuối cùng Chuột tìm đến Chuột và thế là có "Ðám cưới chuột". Chuyện "Ðám cưới chuột" ở Việt Nam: Theo sách văn hóa truyền thống Liễu Ðôi của Bùi Văn Cường và Nguyễn Tế Nhị có thể tóm tắt như sau: Vợ chồng Chuột làm lễ cưới cho con phải lo cống hỉ cho Mèo, lo yến tiệc hai họ, thế mà đưa dâu đến nửa đường bị Mèo chặn đường. Họ nhà chuột phải chạy vạy tốn kém mới trót lọt. Ðến ngày chuột vợ trở dạ, chuột chồng phải lặn lội lo chạy lễ cho Mèo suýt chết để vợ đẻ con. Nhưng bị Mèo đớp cả mẹ lẫn con. Họ nhà Chuột ngậm ngùi cay đắng và bó tay thúc thủ. Tranh dân gian và tem "Ðám cưới chuột" Ở Việt Nam truyện ngụ ngôn "Ðám cưới chuột" không nhiều nhưng từ khi điêu khắc về chuột còn ít người biết thì tranh về chuột được nhiều nhà mua trang trí nhà cửa ngày Tết Nguyên đán. Có điều, lúc đầu tác giả không đặt tên hoặc đặt tên không rõ ràng để người xem tranh cảm nhận mà gọi. Trước năm 1945, tranh Tết dân gian về con giáp nói chung, tranh chuột nói riêng, xuất hiện đầu tiên ở làng Ðông Hồ khá phổ biến. Viện Viễn Ðông Bác Cổ đã tổ chức sưu tập, giới thiệu ở Việt Nam và Pháp. Năm 1960, M.Dand cho xuất bản thành tập tranh dân gian Việt Nam và lẻ tẻ vài tờ báo, tạp chí cũ có minh họa tranh dân gian trên báo Tết Nguyên đán. Chỉ riêng dòng tranh Ðông Hồ, tranh dân gian dưới dạng châm biếm mèo - chuột đã có vài ba bức cùng chủ đề, cùng bố cục, chỉ khác một hai chi tiết và nhất là chữ thơ đề trên tranh, qua đó để người xem gọi tên. Trên tranh đề hàng chữ "Lão thử thủ thân" (Chuột giữ thân) hoặc "Lão thử vinh quy" (Chuột vinh quy) hoặc "Lão thử thú thân" (Chuột cưới vợ hay Ðám cưới chuột). Khi tranh không đề chữ, có người gọi tên tranh "Chuột vinh quy" là tranh "Ðám cưới chuột" hoặc ngược lại. Nội dung tranh ngụ ngôn "Ðám cưới chuột" cũng khác truyện ngụ ngôn "Ðám cưới chuột" trong sách Văn hóa vùng Liễu Ðôi. Do điều kiện chiến tranh, ván in thất lạc, nghề tranh gián đoạn, sưu tập tranh công bố sau này không còn đầy đủ, chủ đề tranh chủ yếu dựa vào trí nhớ. Tranh chuột được khôi phục qua thành ngữ, ca dao, câu chuyện truyền miệng trong dân gian. Những tờ tranh Ðông Hồ xuất xưởng đều là tranh điệp truyền thống, nền tranh xốp, vàng chanh hay đỏ cam, lấp lánh ánh bạc, nền ấy không lỳ mà nổi vân song hành mịn màng. Trong khung tranh hình chữ nhật chật hẹp, tỷ lệ hài hòa, đầy những chi tiết, những nhân vật khác nhau về tính cách. Chưa tính mèo, ngựa, kiệu,... chỉ đám rước kéo dài của lũ chuột được tác giả cắt đôi, xếp chồng lên nhau: "Phía trên đút cá cho mèo/ Bên dưới lọng tán chuột ngồi vinh quy". Cặp chuột đi đầu tuy có dịp dâng cá, chim, hai món khoái khẩu cho bề trên, nhưng không giấu nổi lo sợ, khúm núm co quắp đuôi. Cặp chuột theo đánh trống thổi kèn toàn là bọn thiên lôi của quan trạng sai đâu đánh đấy, tuy phải khom lưng quỳ gối nịnh nọt, cống hỷ cấp trên nhưng vẫn đề phòng sự trở mặt, mất không của cống, nên cố phồng mang láo mắt thổi kèn cho thật om sòm. Chuột vác biển "tiến sĩ" được tiến sĩ chuột tin dùng thì quên cả việc vác biển cho thật chỉnh tề ngay ngắn, vừa bước thấp bước cao vừa ngoái đầu lại sau và đưa mắt nhìn tình nàng dâu chuột ngây thơ ngồi trong kiệu hoa. Cặp chuột đi sau quên cả việc khiêng kiệu thụng xanh. Chân mang hia, đầu đội mũ quan văn, cưỡi ngựa hồng, có vẻ như chàng rể cũng ngoái đầu lại, vừa nhìn nàng dâu chuột trong kiệu hoa, vừa giục đám rước đi nhanh lên cho thoát mèo. Tác giả vẽ mèo chặn đường lầm lì oai vệ, mắt chăm chú nhìn vào những món khoái khẩu, chân vươn ra như sẵn sàng nhận hối lộ chứ không để ý đến đám rước đang diễn ra bên cạnh. Người xem tranh có liên tưởng mèo sẽ nhận của biếu, rồi tha để bọn chúng tiếp tục triều cống mình. Bức tranh "Ðám cưới chuột" khác với các bức tranh nổi tiếng khác trong dòng tranh Ðông Hồ như "Hứng dừa", "Thầy đồ cóc". Tranh "Hứng dừa" có nhiều đường cong của chàng trèo dừa và nàng nâng váy lên hứng dừa. Tranh "Thầy đồ cóc" nhiều nét xù xì da cóc, đây là hai bức tranh trữ tình lạc quan. Còn tranh "Ðám cưới chuột" là tranh châm biếm dưới dạng mèo chuột. Tết Nhâm Tý 1972, hai họa sĩ của Công ty tem là Ðỗ Việt Tuấn và Ðặng Quang Lục thể hiện trên tem thư Việt Nam mẫu tem "Ðám cưới chuột". Mẫu tem này trong 36 năm qua, đi khắp bốn biển năm châu trên thế giới. Vào dịp Tết Nguyên đán truyền thống của Việt Nam, đồng bào ta ở nước ngoài nhớ quê hương xứ sở đã phóng to mẫu tem "Ðám cưới chuột" treo trong nhà, cũng là dịp thưởng thức mẫu tem nổi tiếng bên cạnh nhiều mẫu tem chuột đã phát hành trên thế giới. Chuột là động vật gây hại, là con vật của đời thường. Hình ảnh của nó trong nghệ thuật vừa huyền diệu, lại vừa rất thực, trần tục mà nhiều nét sâu sắc. DƯƠNG THỤY ANH Nguồn: http://www.nhandan.com.vn
  10. Đám cưới chuột đỏ xanh Lê Đại Thanh 1. Tôi nhớ ngày xưa mẹ già đón Tết Phiên chợ cuối năm mua tờ tranh đám cưới chuột Chuột lớn Chuột con Chuột đỏ Chuột xanh Đánh trống, thổi kèn, râu ngửa vênh vênh 2. Chuột chú rể ngồi trên lưng ngựa trắng Cầm roi liễu Mắt nhìn cao lơ lẳng Chuột cô dâu che quạt theo sau Khênh kiệu son có bốn chuột khênh hầu Âm nhạc: sáo, tiêu, nhị, hồ, trống bỏi Đàn chuột đi vui như ngày trẩy hội. Tâm hồn tôi Mảnh kính ánh muôn màu Sáng từng giây lộng lẫy giữa đêm sâu Giấc mơ nhỏ có bướm vàng hoa lá 3. Tôi ước mơ làm chàng phò mã Gặp em là cô gái đi hài thêu Tuổi ấu thơ chưa rõ ý thương yêu Chuyện thần thoại sáng vì sao tưởng tượng. Yêu đất nước người nông dân đồng ruộng Mỗi xuân về bôi phẩm vẽ tranh Tranh lợn Tranh gà Đám cưới chuột đỏ xanh Cô Tố nữ thoa son môi hồng cánh kiếm 4. Mặt vách nhà tôi mỗi ngày Tết đến Chú cóc cầm roi dạy học nghiêm trang Chị ỉn lưng xanh Anh ỉn khoanh vàng Đủng đỉnh khoe màu giữa lòng đêm tối 5. Em đến đời tôi mùa xuân mở hội Cô gái rơi hài mặc áo cô dâu Nhà nghèo đám cưới vải nâu Chiếc nón tỉnh Thanh lá gồi bẹ trắng Em đến đời tôi bốn mùa mưa nắng Đêm sáng trăng đập lúa sân rêu 6. Tôi vẫn mơ em mặc yếm phẩm điều Tôi cưỡi ngựa đi giữa đường võng lọng Rồi khói lửa thắt khăn tang cuộc sống Không giết nổi người nông dân lao động Yêu tranh gà lợn như yêu vợ yêu con Mỗi xuân về cô Tố nữ thoa son Lại gẩy đàn tranh gõ xênh đón Tết. 7. Đất nước Việt Nam ngàn năm bất diệt Màu phấn son, bản khắc mộc đơn sơ Còn người tôn trọng đời thơ Còn người xây dựng giấc mơ tâm tình Đám cưới chuột đỏ xanh Âm thầm kéo quân đi trên vách Chiếc roi tre điểm sách Họ cóc học đánh vần Vợ chồng nhà ỉn kiễng chân Xoắn tít cái đuôi đinh ốc. 1956 Nguồn: http://tapchihuongnghiep.com.vn
  11. Ván khắc bản in Đám cưới chuột làng Đông Hồ Nguồn: http://share.ovi.com
  12. Triết lý Á Đông trong tranh đám cưới chuột 22/01/2008 Ngày trước cứ mỗi năm Tết đến, các gia đình ở vùng nông thôn Bắc Bộ đêuc sắm một vài tờ tranh Đông Hồ về treo. Năm Dậu có tranh Gà, năm Hợi có "Đàn lợn âm dương", và năm Tý lại có "Chuột vinh quy bái tổ" và "Đám cưới chuột". Câu chuyện không dừng lại ở việc treo tranh ngày tết mà xa hơn, mỗi bức tranh là gom góp, chất chứa những ước mơ, khát vọng và những triết lý trong cuộc sống. Xuân Mậu Tý này, chúng tôi xin lạm bàn về "Đám cưới chuột" như một món quà ngày Xuân. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế (làng tranh Đông Hồ) biết: Đề tài trong tranh Đông Hồ gắn lên với đời sống, văn hóa tâm linh của người Việt Nam. Khi làng tranh Đông Hồ xuất hiện thì tranh về con chuột cũng đã có. Tuy nhiên, tranh chuột Đông Hồ hay chính ờ lý do vì sao lại vẽ về mèo và chuột, hai con vốn rất xung khác hay có thể gọi là đối kháng một mất một còn? Mèo tượng trưng cho tầng lớp trên, tầng lớp thống trị trong xã hội phong kiến, còn chuột chính là biểu trưng của những người bị thống tri, thuộc tầng lớp dưới. Đám cưới chuột không đơn thuần bàn về chuyện chuột- mèo mà mang táng nghĩa sâu xa chỉ thực trạng xã hội cũ với mối quan hệ giữa kè mạnh và kẻ yếu. Cái tài của các có thời xưa chính là vẽ tranh đả kích mà giới thống trị không thể làm gì. Đi sâu phân tích bố cục bức tranh chúng ta sẽ thấy dốc ẩn ý của người xưa. Mười hai con chuột hội tụ trong một bức tranh được phân chia thành hai lớp. Lớp trên gồm 4 chú chuột đang dâng là cho mèo, được nghệ nhân “thuyết minh” bằng hai chữ “thủ lễ”. Gánh nặng được đặt lên vai của chú chuột đi đầu mang gà. Gà có đủ lông, đủ cánh, đủ cả đầu đuôi nhưng chuột lại chẳng thấy đuôi. Nghệ nhân Nguyên Đăng Chế lý giải: Chú chuột duy nhất trong 12 con không thấy đuôi, chính là bởi vì đi đấu mang gà đến cống mèo, mèo giơ tay ra đón, chuột sợ quá nên cặp đuôi lại. Một chi tiết dí dỏm nhưng thật hay. ẩn chứa trong đó cái lẽ thường chuột sợ mèo. Sợ vậy mà sao chuột vẫn phải trực diện trước mèo? Theo sau chú chuột mang gà, một chú mang cá dâng bằng cả hai tay cùng hai chú thổi kèn. Có kèn mà chằng có trống, chiếc kèn lại chúc xuôi theo chiều thuận mà không phải là “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” Tất cả các chi tiết đều cộng hưởng gãy thắc mắc, tò mò đối với người xem. Trung tâm của lớp trên này cũng như của cả bức tranh là hình ảnh con mèo đang yên vị đón nhận lễ vật từ chuột như một nhu cầu bình sinh. Đầu mèo, đuôi mèo và chân mèo đều quy về một hường đối diện với chuột thể hiện rõ sự tiếp nhận cống vật. Nghệ nhân dân gian xưa đã thật khéo khi phân chia bức tranh thành 2 lớp trên, dưới. Và tất nhiên, mèo ờ lớp trên, bành trướng như chính sự bành trướng của thế lực thống trị trong xã hội cũ. Theo nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, tranh Đông Hồ nói chung hay bức tranh Đám cười chuột nói riêng không có viễn cận, xa gần như trong tranh hiện đại. Tuy nhiên, người nghệ nhân dân gian vẫn thể hiện được sự xa gần, trên dưới bằng một đường ngoằn nghoèo tách bức tranh làm hai. Chính cái nét thể hiện đơn giản ấy lại tạo một hiệu quả thật bất ngờ làm bật lên ý đồ trong tranh. Chuột và mèo, hai giống vật vốn không đội trời chung. Vậy mà chuột phải mang lễ vật tới cống nộp mèo, đó là bởi chuột làm lễ cưới. Chú rể muốn đón được cô dâu về trong bình yên thì tất phải mang gà, mang cá đến cống cho mèo. Mối thâm thù giữa chuột và mèo độc hóa giải bằng chính sự thông minh của chuột, của kẻ yếu. Theo nhà giáo nhân dân Trấn Văn Chút, cái hay ờ đây chính là sự hóa giải: Tránh voi chẳng xấu mặt nào, mà một đời chuột không thể tránh mèo suốt, vậy nên phải đối đấu. Cũng không thể chỉ “cúi dấu lạy trước trung quan’’ mà phải cống nạp. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn- gà, cà phải đi trước, kèn sáo đi sau như là sự mỹ lệ hóa cho thói đút lót... Lớp dưới, lớp thứ hai của bức tranh là cảnh đám rước cô dâu chuột về nhà chồng. Hai chữ “nghênh hôn” in trên tấm biển lớn do một chú chuột khiêng là trung tâm của lớp tranh. Chú rể đi đầu cưỡi ngựa hồng không quên ngoái đấu lại trông chừng kiệu cô dâu đi gần cuối. “Chú gò cương có phấn như an tâm, có phấn như lo ngại vì tuy rằng công việc cống nạp đã có chiều thuận, đấu đã xuôi, nhưng liệu đuôi có lọt?” (theo NGND Trấn Vãn Chút). Hai chú chuột đi cuối đoàn cũng ngoái đấu lại đầy dè chừng. Toàn bộ các nhân vật của đám rước dâu, chỉ duy có hai khuôn mặt cô dâu, chú rể được tô màu đỏ như men say ửng hồng. Một cuộc sống bình yên, vui vấy hạnh phúc là ước mơ của những người dân, nhưng để có được họ phải đánh đổi bằng những cống phẩm cho quan trên. Tầng ý nghĩa sâu xa của bức tranh "Đám cưới chuột" chính là ở chỗ đó. Câu chuyện hài hước, dí dỏm về đám cưới của chuột lại mang tính đả kích sâu cay. Ý nghĩa của bức tranh không chỉ có giá trị trong thời đại phong kiến mà còn tới tận bây giờ, nhất là trong công cuộc chống tham nhũng hiện tại. Cách bố trí về màu sắc theo kiểu đan xen với điểm nhấn là hai màu đỏ- đen, màu của âm dương đối kháng nhưng rất hài hòa càng làm tăng hiệu quả ý nghĩa cho bức tranh. Năm chấm đen ở ngay đường ngăn cách viễn- cận chỉ đơn thuần là sự bù lấp vào khoảng trống duy nhất của bức tranh, là cách để "không bi tràn màu khi in thủ công hay còn có ý nghĩa sâu xa hơn triết lý ngũ hành? Có lẽ phải có một lý do để nghệ nhân chọn số lượng 5 chấm chứ không , phải 4 hay 3, và càng đặc biệt khi cách sắp xếp một chấm ờ giữa, bốn chấm vây xung quanh 1 trùng khớp với cách vận hành của ngũ hành (hành Thổ ờ giữa, các hành Kim, Mộc, Thủy, thỏa bao quanh).Luận theo ngũ hành luôn thấy hai mặt: tương sinh và tương khắc. Trong ngũ hành tương sinh đồng thời cũng có ngũ hành tương khắc, trong tương khắc cũng ngự có tương sinh. Đó là quy luật chung về sự vận động, biến hóa của tự nhiên. Nếu chỉ có tương sinh mà không có tương khắc thì không thể giữ gìn được thăng bằng, có tương khắc mà không có tương , anh thì vạn vật không thể có sự sinh hóa. Bởi vậy tương sinh, tương khắc là hai điều kiện không thể thiếu được để duy trì thăng bằng tương đối của hết thảy mọi vật”. Tương sinh, tương khắc, đó chẳng phải mối quan hệ mèo- chuột, quan lại và dân đen được nói đến trong bức tranh "Đám cười chuột “? Chuột vốn là kẻ phá hoại với nhà nông nhưng lại được lấy làm hình ảnh tượng trưng cho người nông dân. Mèo vốn là vật nuôi trong nhà hữu ích lại đại diện cho tầng lớp thống trị. Sự kết hợp đặc biệt giữa mèo và chuột với “nhận dạng” khác thường này phải chăng còn hàm chứa ẩn ý về triết lý Thiện- ác của nhà Phật (trong cái : thiện đã có mầm mống của cái ác và ngược lại, trong cái ác cũng luôn tồn tại điều Thiện). Thiện tay ác đều phải biết điều hòa, cũng như cái sống, cái chết có khi là chuyện gang tấc nhưng biết cách hóa giải thì cái khó, cái chết sẽ bị đẩy lùi. Cách hóa giải cái ác của chuột chính bằng việc cống nạp, nhưng đó cũng đâu phải là chuyện nhỏ của riêng chuột, của làng mà còn là chuyện quốc gia đại sự khi có quyền biến. Nhà thơ Hoàng Cầm đã đúc kết về tranh Đông Hồ trong hai câu thơ: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sàng bừng trên giấy điệp" Cái nét kiêu hãnh trong câu thơ chính là những sắc màu được chế biến thủ công từ những nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ gạch non, màu làng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng nghiền từ vỏ sò, vỏ ốc...’'Mău dân tộc" là đó. Nhưng đâu chỉ có vậy, tranh Đông Hồ còn đậm “chất dân tộc”, chính là chất triết lý theo quan niệm Á Đông với quy luật âm dương ngũ hành và cái triết lý của Phật pháp kia... Tranh Đông Hồ thường xuất hiện vào dip Tết nên còn gọi là tranh Tết. "Đám cưới chuột", bức tranh về con vật đầu tiên trong 12 con giáp vì vậy càng thêm ý nghĩa trong những ngày đầu năm Tý- năm chuột. Bức tranh treo lên vừa làm cho không gian ngày Tết thêm ấm cúng, vừa thể hiện ước mơ khát vọng về năm mới. Tuy rằng ngày nay tranh Đông Hồ không còn chỗ đứng như xưa, nhưng ẩn ý trong tranh vẫn mãi được người đời nhắc đến, đó là những bài học triết lý sâu sắc đúng với muôn đời. KHÁNH NGUYÊN Nguồn: http://www.bhxhgl.org.vn/
  13. Đầu năm Tý nói chuyện Chuột 2008-02-15 Nói về hội họa chắc tôi dốt bậc nhất thiên hạ. Thế nhưng Tết nào tôi cũng thích mua một tập tranh Đông Hồ (thể loại tranh sinh hoạt) về dán khắp nơi trong nhà. Đơn giản vì đây là dòng tranh dân gian, nhìn cái đã thấy ngay vẻ chân quê, đích thực của cuộc sống thường ngày. Màu sắc trong tranh cũng rất tươi sáng, có đường ranh rõ ràng, mạch lạc. Cả tập tranh chỉ toàn người và các con vật gần gũi, thân quen như trâu, gà, lợn, mèo, ếch, cá và chuột... Dễ chơi, dễ hiểu nhưng không kém phần súc tích, hàm ý sâu xa. Năm nay, năm Mậu Tý, tức năm con chuột. Xem lại bức tranh chuột bỗng thấy... giật mình bởi sức sống xuyên tầm trong nội dung thể hiện. Nhìn lũ chuột xếp hàng khúm núm dâng lễ vật lên mèo trong bức tranh "đám cưới chuột" cảm giác đây là bức tranh duy nhất hợp với mọi thời đại. Tính tham lam, đục khoét của con người tưởng đã giống chuột lắm rồi, ai dè cả cách đi hối lộ của loài chuột cũng chẳng khác con người là mấy. Hóa ra con người và con chuột cũng có nhiều điểm tương đồng ra phết! Tranh Đông Hồ là một dòng tranh nổi tiếng của xứ Bắc. Người làng Mái xưa kia (tức làng Đông Hồ) dùng những bản khắc gỗ có mẫu vẽ sẵn, sau đó phết màu lên ván rồi in. Vì vậy tranh không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên tác về ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại. Nghệ sỹ sáng tác tranh mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Giấy in tranh là loại giấy gió mịn màng. Trước khi in giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên tính riêng biệt của tranh Đông Hồ. Các khối, mảng màu trong tranh thường được lấy từ chất liệu thiên nhiên. Muốn có màu đen lấy lá tre đốt thành than, màu xanh thì lấy từ vỏ lá Chàm, màu vàng lấy từ hoa Hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, dễ cây Vang, màu sơn lấy từ sỏi núi v.v... Sự độc đáo của tranh còn thể hiện ở nét gần gũi, gắn với làng quê, ngõ xóm, với cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác. Với những bức vẽ không dễ hiểu cho lắm thường có phần chữ Hán đi kèm, giải nghĩa tương đối rõ ràng. Bức tranh "Chuột vinh quy" và "Đám cưới chuột" cũng có bổ sung giải nghĩa này. Khi còn sống, ông ngoại tôi, một nghệ nhân gốc làng Mái dù đã sơ tán về đất Kinh kỳ nhiều năm nhưng mỗi khi được hỏi về tranh Đông Hồ ông thường phấn khích nói cả giờ không biết chán. Theo ông, hai bản vẽ "Chuột vinh quy" và "Đám cưới chuột" là đáng giá nhất, thể hiện đúng nhất những tiêu cực tồn tại trong xã hội. Ở bức "Đám cưới chuột" có 6 họa chữ, họa chữ thứ nhất (nằm phía dưới con chim, do lão chuột dẫn đầu cầm) được dịch là Tống lễ, có nghĩa là bắt buộc làm một việc mà bản thân không muốn làm. Tôi rất tâm đắc với từ này bởi nhìn tranh thấy lão chuột dâng chim bồ câu đang tỏ ra sợ hãi vô cùng, đến nỗi quắp chặt đuôi vào trong bụng, cứng đơ đơ (và chắc là đang run như cầy sấy). Bây giờ phải nghe lệnh tống giam, tống đạt cáo trạng, tống đạt bản án... hoặc buộc phải hối lộ quan trên nhằm thoát tội... con người có lẽ cũng cùng tâm trạng như chuột này mà thôi. Lão đi sau cũng với dáng điệu như thế, có phần ít sợ hơn một chút bởi đuôi lão ngoe ra một tí. Lưng vẫn "còng", lão khúm núm, vẻ như cảnh giác, đề phòng trong khi dâng một con cá chép ngon hết sẩy cho cái lão có thể... ăn thịt cả họ nhà chuột bất cứ lúc nào. Chữ Hán viết sau, ngay sát đầu gáy lão chuột này dịch nghĩa là Tấu nhạc. Hai chữ ở chỗ lão chuột đầu tiên (hàng đầu, từ trái sang) dịch nghĩa là Thủ thân. Theo các cụ ở làng Đông Hồ thì ý tứ hay được người xưa gửi gắm ở đây chính là cách ví von: cá lớn nuốt cá bé. Trong xã hội còn tiêu cực, muốn được việc cá nhân thì việc tư lợi đương nhiên sẽ xảy ra. Đám cưới chuột, nghĩa là chuột tác duyên sinh con đẻ cái, duy trì giống nòi là việc làm rất hiển nhiên, hợp với quy luật tạo hóa mà vẫn phải lệ thuộc, phải biếu xén. Chuột muốn được việc, nghĩa là muốn đám cưới của mình được tiến hành suông sẻ thì phải lụy mèo. Việc đưa và cống lễ cho mèo (vẻ rất đanh ác) khi chuột muốn đạt được lợi ích cá nhân của mình gọi là Tống lễ (bắt buộc phải làm). Tương tự, trong cuộc sống ngày nay cũng vậy, nhiều việc tưởng chừng là đơn giản, phù hợp với pháp luật, với quyền và lợi ích công dân nhưng muốn cho suông sẻ vẫn phải "lót tay" quan. Cả việc đưa và nhận hối lộ đều phải làm sao cho... kheo khéo. Chữ Thủ thân trong "Đám cưới chuột" ý nói lão chuột đưa quà biếu xén cho "đại vương mèo" cũng phải hết sức cẩn thận, giữ mình. Mèo ta ngồi cuộn đuôi, nhưng mềm mại chứ không cứng đơ hay co quắp. Lão có dáng vẻ ung dung, tự tại của kẻ "bề trên" chuyên quyền và đầy uy lực. Một chân lão giơ lên, dứ dứ như thể đang đang kiểm định, ngẫm nghĩ xem chim, cá ngon hơn hay... thịt chuột ngon hơn. Và nữa, nếu đưa hối lộ mà không khéo, mèo ta không những không nhận cho mà việc bại lộ thì "Trạng chết chúa cũng băng hà" theo luôn. Nguy hiểm. Đưa và nhận hối lộ đều nguy hiểm như nhau nên khi làm việc này phải hết sức cẩn thận, kín đáo mới không hại mình, hại người. Cầu thân nhưng vẫn phải "Thủ thân" là thế. Nhưng ở đời muốn ăn gì thì phải... nuôi thứ ấy. Sách "Gương báu soi lòng" (Minh tâm bảo giám) đã dạy: "Muốn ăn dưa phải trồng dưa, muốn ăn đậu phải trồng đậu" (thực qua đắc qua - thực đậu đắc đậu). Một cửa hàng băng đĩa lậu hay kinh doanh trái phép hay một đơn vị thi công muốn "rút ruột" công trình v.v... thì phải "nuôi" những người được trao quyền giám sát. Mà người này muốn hưởng lợi bất chính cũng phải chăm nuôi, bao bọc cho những giả trá, xấu xa này có "đất" để sống. Cách này đã được gọi tên rất rõ ràng là "dựa vào nhau mà sống" hoặc "nuôi lẫn nhau". Mèo tuy ít học nhưng xem ra cũng hiểu cái lý này lắm. Muốn có nhiều thịt chuột thì trước mắt phải tạm bằng lòng với chim, với cá, để nhà chuột dựng vợ gả chồng cho con cháu, rồi sinh con đẻ cái thật nhiều cái đã, rồi tha hồ mà "bắt" chuột. Con người cũng thế. Cứ cho những sai trái tồn tại, cho "sống" để hai bên (bên giám sát và bên vi phạm) cùng có lợi. Lúc cần thiết (để lập thành tích) thì sẵn đấy mà "tóm" làm ví dụ. Đương nhiên, lệnh tóm thường được báo trước - nếu vẫn còn "thiện ý" cho nhau "sống". Khi "miếng ăn" không còn thấy ưng ý nữa, khi xét thấy đã đến lúc "phế bỏ" người này để đặt người kia lên là cũng có thể giở mặt, bắt bài như... mèo bắt chuột. Cũng vì cái lý "thực qua đắc qua - thực đậu đắc đậu" này mà loài mèo vốn được sinh ra giữ vai trò tiêu diệt họ nhà chuột, nhưng bao lâu nay chuột vẫn mặc sức hoành hành, nhởn nhơ sống, nhởn nhơ gặm nhấm, đục khoét và trộm cắp khắp nơi. Đặc điểm này con người và con chuột giống nhau tới mức khó phân định. Cùng đi hối lộ mèo trong tranh "Đám cưới chuột" còn có hai kẻ theo đuôi tấu nhạc góp vui, hầu hạ quan trên (chắc chắn đám cưới này thuộc con nhà "danh gia thế phiệt" nên mới có kiệu, có lọng che, có mũ cánh chuồn và chuột ngựa hồng, yên gấm, áo thụng). Chỉ là thằng lính đi theo nên hai tên này thả sức vẫy đuôi, chẳng việc gì phải co quắp hay cứng đờ run sợ. Tấu nhạc vừa là để cho buổi lễ thêm phần long trọng, vừa là để góp vui cho mèo trong lúc nhìn chim, ngắm cá mà quên đi món khoái khẩu bậc nhất là thịt chuột. Chắc cũng vì mải vui nên mèo ta mất cảnh giác, quên khuấy đến hai cái kèn... đám ma lũ chuột đang dùng để tấu vui cho mình. Cái vẻ ngoài cung kính vậy thôi, chứ cả con người và con chuột một khi đã đi hối lộ thì chả đời nào tôn kính nổi cái kẻ nhận "lễ" kiểu này nữa. Bức tranh "đám cưới chuột" được chia làm hai nửa. Phần trên diễn tả cảnh lo lót, kiếm "đường đi lại" của nhà chuột, trái hẳn với không khí vui mừng, phấn khởi phía dưới. Nhà chuột đây thuộc hàng quan lại có khác. Đi đón dâu mà vẫn mặc quan phục, đội mũ cánh chuồn, lại có kẻ theo sau che lọng như có ý... "làm khó" cho mèo. Cả đàn chuột có thể vui mừng tíu tít, nối đuôi nhau... đi trước miệng mèo đâu phải chuyên dễ. Ở đời cũng vậy. Có những việc tưởng như không sao làm nổi, nhưng một khi có quyền, có tiền là "qua mặt" được hết các lực lượng canh giữ, giám sát. Càng ngẫm càng thấy sự "luồn lọt" của con chuột và con người sao giống nhau đến thế! Ở bức tranh "chuột vinh quy" cũng vẫn là chuyện cống nạp, nhưng được thể hiện ở mức độ khác. Xưa kia người chăm chỉ, chịu khó dùi mài kinh sử, thi cử đỗ đạt sẽ được ban võng, lọng để vinh quy bái tổ, đồng nghĩa với việc thăng quan, tiến chức, có một vị trí trong xã hội. Thế nhưng với một xã hội cón tiêu cực thì ngoài nỗ lực cá nhân, lễ lạc vẫn là thứ không thể bỏ qua, nếu muốn tiến thân. Ngày nay cũng vậy, nhiều người tài giỏi nhưng không biết "sống", nói thẳng ra là không biết cách "tạo dựng mối quan hệ" và không chịu khom lưng, khụy lụy hay lễ lạc bề trên thì cứ việc... ngồi yên một chỗ, cấm có hy vọng "ngoi lên" làm ông này bà nọ. Chuột là loài ngặm nhấm, loài đục khoét. Trong xã hội bọn tham quan, nhũng loại thường được ví với loài chuột. Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài "Ghét chuột" ám chỉ bọn ấy. Kinh thi có bài "Chuột xù" nói về chuyện ấy. Bọn chuột gậm khoét không thiếu thứ gì, rồi khi nhà "có việc" lại dùng phần của đục khoét được dâng lên bề trên lấy sự che chở, sự bảo vệ mà yên tâm "đục khoét" tiếp. Với ý nghĩ ấy, bức tranh "đám cưới chuột" chính là bản cáo trạng, áp dụng cho mọi thời đại có cảnh nhiễu nhương, ức hiếp dân lành. Xem tranh xưa lại ngẫm đến ngày nay. Một bức tranh họa được ra đời cách đây khoảng 400 năm vẫn có tính thời sự đủ để cho người ta nghĩ về những thâm thúy của người xưa gắn với bao chuyện đời nay. Và, Tết năm Tý này, có bao nhiêu con "chuột lớn", sau khi gặm nhấm, đục khoét của công, của dân, đã mang chim vàng, cá ngọc đến lễ những "đại vương" đang ngự ở ghế trên, để rồi lại tiếp tục chui rúc, lẩn từ chỗ nọ sang chỗ kia, la liếm hết thứ này thứ khác mà không biết ngừng, biết nghỉ? Hà Thương Nguồn: http://www.danviet.com.au
  14. Ý nghĩa bức tranh Đám cưới chuột 29/01/2008 Đám cưới chuột Bức tranh Đám cưới chuột có lẽ nhiều người đã từng xem qua, nhưng ý nghĩa trong bức tranh ấy thì không phải ai cũng biết… Bức tranh Đám cưới chuột là tranh dân gian Đông Hồ vẽ về một chú rể chuột thi đỗ, vinh quy bái tổ với cảnh “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Chú chuột bảnh chọe ngồi trên lưng ngựa, đầu đội mũ cánh chuồn, trông ra dáng chú rể quan vừa đi vừa ngoái lại nhìn cô chuột. Cô dâu chuột ngồi trên kiệu hoa, vẻ mãn nguyện. Cả bầu đoàn thê tử nhà chuột cùng đi với đám rước lọng vàng tán tía khá rộn ràng. Trong khi ấy ở phía trên tranh, đại diện cho gia tộc chuột là mấy anh em nhà chuột đang khúm núm; kẻ bê chim, người xách cá đến lo lót cho mèo để mong được yên ổn trong ngày cưới. Mèo thì đang phồng má, trợn mắt, vênh râu, múa vuốt nhằm ra uy, dọa dẫm họ nhà chuột. Trên bức tranh có đề đôi câu đối: “Thử bối đệ ngư: chí, chí, chí/ Miêu nhi thủ lễ: mưu, mưu, mưu” (nghĩa là: Đám chuột dâng cá kêu: chí, chí, chí/ Chú mèo giữ lễ kêu: meo, meo, meo). Bức tranh này có sự gợi tứ từ câu chuyện ngụ ngôn dân gian Đám cưới chuột. Nội dung câu chuyện là gia đình nhà chuột lo việc tác thành cho hai con. Ngoài trăm công ngàn việc chuẩn bị như xem tuổi cho cô dâu, chú rể, xem ngày lành tháng tốt để làm lễ ăn hỏi, xin cưới, lại còn phải lo một việc quan trọng nữa là lo lót cho bác quan mèo già, mong mèo vị tình mà làm ngơ để cho đám cưới được chu toàn, yên ổn. Ngày cưới, họ hàng nhà chuột hoan hỉ, tưng bừng trong nghi thức dân tộc cổ truyền. Hôn lễ được cử hành trong không khí đầm ấm, khiêm nhường, không ầm ĩ, phô trương… Nhưng bi kịch không xảy ra trong ngày cưới của đôi trẻ chuột mà lại xảy ra vào lúc vợ chuột sinh con. Vợ chuột vừa qua cơn “vượt cạn”, những tưởng “mẹ tròn con vuông”, ngờ đâu lúc ấy mèo già xuất hiện, bắt đi tất cả đám con của chuột… Nguồn: Trung tâm thông tin (Theo Bao Giao duc online)
  15. Năm Chuột nói chuyện Tí - Trong tiềm thức của người Trung Hoa và người Việt, con chuột là biểu tượng của sức sinh sản dồi dào, vô độ và vì vậy nó mang nghĩa sung túc, thịnh vượng. Đám cưới chuột - Tranh dân gian Đông Hồ Luôn lục lọi, đào bới, tìm kiếm, cắn nát, gặm nhấm không mệt mỏi...con chuột được coi là biểu hiện của tính tham lam vô độ và tính năng động nghiêng về chiều phá phách, thủ lợi. Cái hang chuột ẩm và ấm dưới lòng đất biểu trưng cho kho báu cất giữ cẩn mật chờ được khám phá, lục lọi. Mối quan hệ con Chuột và cái Hang không cần giải thích cũng tự hiện rõ ý nghĩa dục tính và sức sinh sản dồi dào ở bất cứ nền văn hóa nào trên thế giới. Cách tính khởi điểm thời gian trong kinh Dịch cũng lấy con chuột là sự khởi đầu: Tí, Sửu, Dần, Mão...Nhà sử học Trần Quốc Vượng luôn nhắc: Khởi từ tí...như một lí giải về sự khởi đầu của vũ trụ. Vì lẽ gì mà con chuột, một con vật không lấy gì làm sạch sẽ lắm lại được chuyển từ bình diện vật chất sang bình diện tinh thần không chỉ ở Á Đông? Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới đã có một nhận xét rất hay về con chuột: "Háu đói, đẻ nhiều và hoạt động về đêm y như thỏ, con chuột cũng có thể là đối tượng của một ẩn dụ phong tình giống như con vật gặm nhấm kia nếu như đồng thời nó không xuất hiện như một con vật đáng sợ thậm chí quái ác". Về thói phong tình của chuột thì chỉ cần xem bức tranh Đám cưới chuột của làng tranh Đông Hồ là đủ. Chàng rể chuột phong lưu cưỡi ngựa hồng đi trước kiệu hoa của cô dâu chuột trong một đám cưới rình rang sang trọng nhưng xem kỹ thì thấy đám cưới này nhuốm đầy vẻ lén lút, bất an. Phía trên bức tranh là đoàn cống nạp vật phẩm cho mèo có đủ chim, cá và nhạc nhẽo. Một sự đảo ngược khá thú vị khi đáng lý âm nhạc phải tưng bừng trong đám rước dâu thì lại tưng bừng trong đoàn chuột hối lộ mèo còn không khí im lặng đầy sợ sệt lại ngự trị ở đoàn rước dâu. Dĩ nhiên, chuột sợ mèo một phép nhưng nỗi sợ mất tính mạng ấy cũng không thể ngăn chàng chuột rước một hoặc một vài cô nàng lên kiệu hoa về nhà. Ông mèo ở bức tranh này quả là oai nghi phong độ, cử chỉ của ông cho thấy ông đã hạ cố chấp nhận lễ mọn của lũ chuột và ban cho lũ chuột được hưởng chút hạnh phúc. Các nghệ nhân dân gian Đông Hồ đã vẽ ông mèo với oai hổ còn đám đông chuột thì lại có võng lọng nghi trượng đàng hoàng và khôn đến mức gặp khó thì biết hối lộ. Thời xưa ấy, các bậc minh quân cũng đã rất ghét tệ tham nhũng, hối lộ; thời Lê đã từng có những vị quan đại thần như Lê Sát, Lê Ngân bị rời đầu, bị tịch thu toàn bộ gia sản vì tội này nhưng xem ra hối lộ và tham nhũng là một phần không nhỏ của đời sống. Sinh khí của đời sống cùng tiếng cười trào tiếu dân gian đã phả vào từng mảng màu, nét mực trên tranh. Nếu có thể coi đấy là hạnh phúc kiểu chuột thì hạnh phúc ấy chắc chắn lớn hơn cả cái chết và chúng ta đâu có thể coi thường? Chuột rước đèn- Tranh dân gian Đông Hồ Ở Đông Hồ còn có một bức tranh chuột rất hay nhưng ít người biết đến: Chuột rước đèn. Bố cục đăng đối hoàn hảo thể hiện niềm vui và khát vọng no đủ hơi tầm thường nhưng rất cảm động. Lễ rước đèn rất lớn và rơi vào rằm tháng 8, Trung Thu, nên chúng ta thấy có lá cờ đại dẫn đầu đám rước rồng, có đèn cá chép, đèn lồng, kèn, trống tạo nên không khí om sòm và rực rỡ. Hãy ngắm chú chuột vạm vỡ uốn mình song song với cán cờ đại đang múa gậy trước đầu rồng ở phía trên góc phải và chú chuột nhỏ thó cầm bộ xương cá ở phía dưới góc trái. Kẻ một đường thằng qua 2 chú chuột này sẽ có một đường chéo đi qua miệng rồng thì thấy rõ sự đăng đối kỳ lạ thể hiện lời cầu ước được no đủ, sung túc của họ hàng nhà chuột. Một điểm kỳ thú nữa ở bức tranh này cũng không nên bỏ qua kẻo phí của: các nghệ nhân Đông Hồ đã vẽ mặt rồng hao hao như mặt mèo (nếu tạm bỏ bộ râu rồng). Dù là con rồng-mèo bằng giấy do chuột sáng tạo ra để thể hiện lòng biết ơn thì ít mà thể hiện nỗi sợ tuyệt đối thì nhiều nhưng nỗi sợ ấy, về bản chất là nỗi sợ cơm áo gạo tiền (bộ xương cá của chú chuột nhỏ phía dưới cùng góc phải). Hóa ra muốn kiếm sống yên ổn thì hiển nhiên chuột phải tôn kính và sợ mèo. Bức Đám cưới chuột và Chuột rước đèn bổ sung cho nhau làm sáng rõ nhận thức dân gian về quyền lực thống trị và miếng cơm mang áo ở đời. Tiếng cười trào tiếu cất lên từ chính hiện thực đời sống con người mới thâm thúy và mạch lạc làm sao! Khác với văn minh Hoa-Việt, ngay từ thời tiền sử ở văn minh Hy Lạp, con chuột hay được nối kết với con rắn tạo nên biểu tượng âm ti, sức mạnh tăm tối và đáng sợ. Trong sử thi Iliade, vị thần Apllon được nhắc đến dưới cái tên Sminthée, phối sinh từ một từ có nghĩa là chuột. Apollon thời tiền sử là một biểu tượng nước đôi: con chuột cắn phá mùa màng, gieo rắc dịch hạch nhưng Apollon với tư cách là vị thần của mùa màng lại che chở con người, chống lại các loài chuột. Tính phân cực này còn thể hiện rất rõ khi Freud đã chỉ ra trong cuốn Năm phân giải tâm thần Chuột (Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế giới): "con vật nhơ bẩn và đào bới lòng đất mang hàm nghĩa dương vật và hậu môn, nối liền nó với khái niệm của cải và tiền tài. Điều đó khiến nó được xem là hình ảnh của tính hà tiện, tham lam và lén lút." Truyền thuyết về Apollon ở văn minh Hy Lạp (Apollon- thần chuột- phát dịch bệnh - thần chữa lành mọi bệnh tật) xem ra rất gần gũi với truyền thuyết thần Chuột, con trai của vị thần Rudra. Người Trung Quốc, Nhật Bản và cả ở Xibia xem chuột là biểu tượng của sinh sản dồi dào. Một biến thái khác theo đó: chuột là hóa thân của trẻ em - với ý nghĩa sung túc, thịnh vượng. Nhưng vì tính lục lọi không biết chán nó còn được dùng để biểu trưng cho thói trộm cắp, chiếm hữu, gian lận của cải. Nhưng kẻ cắp này, theo tryền thuyết Ấn Độ là Atmâ, ở trong tim ta. Sau tấm màn của những ảo ảnh một mình nó hưởng thụ những thú vui hiển nhiên của cuộc đời và cả ích lợi của sự tu luyện khổ hạnh. Ngân Hà Nguồn: http://www.vnchannel.nel
  16. Mậu Tí tản mạn về bức tranh “đám cưới chuột” QUÁCH ĐẠI HẢI Họ hàng nhà chuột chung sống với con người từ thời thượng cổ. Chúng có mặt khắp nơi từ vùng cực giá băng, xứ Phi nóng nực đến núi rừng, hải đảo, thảo nguyên... Tùy theo đặc điểm sống và vóc dáng chuột tự chia ra nhiều loài từ “con nhắt” có thể ép mình chui qua kẽ tủ đến những thằng cống lúc nhúc hàng đàn, đến loài chuột trũi chuyên đào hang, loài chuột tuyết... Nhưng cái loài đáng kinh ghét này kể ra cũng hay hay khi chúng góp mặt mua vui cho con người trong nghệ thuật tạo hình. Sự ranh mãnh tinh quái ngoài đời của chúng đáng sợ bao nhiêu thì trong bộ phim hoạt hình nhiều tập của hãng Oanđinây nổi tiếng lại trở nên đáng yêu bấy nhiêu. Sự thông minh linh hoạt có phần láu cá của chú chuột Jery và nét ngờ nghệch của mèo Tôm đã chinh phục được các khán giả nhí . Ngoài tự nhiên tạo hóa cho chuột một vóc hình cân đối hài hòa còn trong tranh tượng cổ chúng được cách điệu đẹp hơn về hình thức, được nhân cách hóa giàu tính triết học, xã hội. Chuột có mặt nhiều và sinh động trong điêu khắc ở đền thờ Ấn Độ giáo, trong tranh trung cổ châu Âu đặc biệt độc nhất vô nhị là ở tranh dân gian khắc ván Việt Nam. Bức tranh “Đám cưới chuột” (cũng có tên là Trạng chuột vinh quy) mãi mãi còn nguyên giá trị nghệ thuật, giá trị triết học nhân văn. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các nghệ sĩ dân gian tài hoa đưa ông mèo vào tranh Đám cưới chuột làm nhân vật minh họa cho một chủ đề lớn. Mèo là khắc tinh của chuột nên trong tranh được cách điệu ngoại hình và nội tâm hung dữ thành nhân vật cường hào, lý dịch (một chức quan cơ sở thời phong kiến, còn thân phận người dân thấp hầu bé họng được biểu tả bằng đám chuột luôn phải chịu sự nhũng nhiễu của ông xã mèo. Tranh được bố cục phá thể tài tình với hai cảnh chiều ngang rõ rệt khiến ta liên tưởng đến một vở diễn có hai màn đầy đủ lớp lang. Vở kịch Đám cưới chuột bắt đầu bằng màn làm thủ tục xin phép ông xã mèo với đầy đủ lệ bộ phải có ở một chàng chuột vừa đỗ Trạng nguyên: Chim, cá béo, kèn, sáo... Lễ vật thật là sang nhưng xem ra xã mèo vẫn ra oai một chút cho xứng danh bậc tiên chỉ (bằng chứng là dáng ngồi nhà quan của “ông” rất bệ vệ và chắc chắn lắm mặt ông bạch to, râu chĩa ra như những thanh kiếm, tay phải giơ cao đầy sức nặng răn đe) nên làm cho đám trai đinh nhà chuột vừa dâng lễ vừa khiếp đảm. Cảnh họ nhà chuột dâng lễ cho ông xã mèo làm ta có cảm tưởng như có tiếng gầm gào, chít chít nơi đây thật là một buổi đi đăng ký kết hôn lạnh toát sống lưng. Kịch được chuyển màn hai rất lôgich, thay cho không khí nặng nề của màn một là lễ rước dâu thật tưng bừng nghe đâu đây như có cả tiếng pháo và nhạc hỷ, Trạng chuột đội mũ cánh chuồn cưỡi ngựa hồng vẻ mặt vô cùng sung mãn ngoái đầu ngầm nhìn cô dâu chuột thẹn thùng trong kiệu hoa. Đám rước có cờ biển, có lọng. Màn này chỉ có tám nhân vật tượng trưng thôi nhưng rất có không khí vu quy - những đôi mắt đa nghi rất ranh của đám cưới chuột được tả rất sinh động, kẻ nhìn phải, kẻ liếc trái luôn mở to đề phòng sự bất trắc có khi xã mèo đã nhận lễ rồi nhưng vẫn xơi tái cả đám “Ngựa anh đi trước, kiệu nàng theo sau”. Thật đáng là một vở bi hài kịch các cụ nhà ta tài thật khi nâng lên và thổi vào đám chuột một nét tiếu lâm sắc nét, dùng ngôn ngữ đồ họa câm lặng để nói lên mọt thực tế hiện hữu chua chát “Thiếu thức vua không thể thua lệ làng” hoặc “Quan sang cũng ở làng mà ra” cái đắt của tranh là ở chỗ đó, tính tương phản trong sắc màu, đường nét, tính đối chát tâm lý là đặc điểm nổi bật của nghệ thuật dân gian, trong trường hợp này (đám cưới chuột) đề tài đồ họa và giá trị chuyện tiếu lâm đã dung hòa vào một thể thống nhất. Xuân này là của “chuột vàng” sáu mươi năm mới đến có một lần (1948 - 2008) vả lại chuột lại đứng hàng thứ nhất trong mười hai con giáp, trộm nghĩ ta cũng nên giảm án cho “Họ nhà Thử” chí ít cũng qua mấy ngày Tết để họ nhà chuột nhận bàn giao năm mới từ họ nhà Chư, tiết trời dần chuyển sang ngày mới dông dài một tý những chuyện biết về loài chuột cùng quý độc giả mua vui nhân dịp đón xuân về. Tết Mậu Tý 2008 Q.Đ.H[/color] Nguồn: http://www.phapluan.net/
  17. Xem tranh “Đám cưới chuột” TQĐT - Thực ra bức tranh dân gian này có mấy di bản và không có tên. Căn cứ vào các chữ nôm ghi trên tranh, ngày trước các cụ gọi là “Tiến sĩ chuột vinh quy”. Ngày nay ta quen gọi là tranh “Đám cưới chuột”. Thoạt nhìn ta biết bức tranh kể một câu chuyện trên một tuyến dài. Có lẽ nếu để thế tranh mất cân đối, lại khó hình dung toàn cảnh câu chuyện nên người nghệ sỹ xưa đã cắt đôi bức tranh, thông minh xếp nửa trước lên trên, nửa sau xuống dưới cho người xem thuận mắt, dễ hình dung. Tuyến dưới đi đầu cưỡi con ngựa khỏe thắng đủ yên cương là chú rể chuột đầu đội mũ quan văn ra vẻ nghênh ngang, ngoái nhìn đám rước dâu và cô vợ xinh đẹp của mình. Tiếp theo chú chuột cẩn tắc cầm lọng che mưa nắng. Rồi chú chuột vác biển đề hai chữ “Nghinh hồn” nghiêng ngả, liếc nhòm cô dâu ngồi trong kiệu cáng. Rồi đến bốn chuột khệ nệ khiêng kiệu, ngồi chễm chệ là cô vợ quan khăn áo chỉnh tề chăm chăm đôi mắt mãn nguyện nhìn theo chú rể. Hai chú chuột cuối vừa tung tẩy đi vừa quay nhìn phía sau ngụ ý đám rước còn kéo dài. Tất cả tám chuột đều tung tẩy ra vẻ tự đắc đầu đuôi ngoáy tít. Ngắm nửa phần bức tranh ta hình dung ra hình ảnh của ông nghè, của quan trạng đỗ đạt cao chiếm bảng vàng, được các quan đại thần ban thưởng, gả con gái cho vinh quy bái tổ với cờ lọng, mũ mão. Thực tế trong một xã hội phân chia đẳng cấp, luật lệ thi cử khắt khe thì người bình thường không thể có một đám cưới rùm beng, khoe mẽ như thế. Để có được chức sắc, có được lễ rước dâu hoành tráng, chú rể chuột đã phải làm gì? Phần trên bức tranh sẽ nói rõ: Chặn đầu đám rước dâu là bác mèo đại, ngồi chồm chỗm như quan phụ mẫu, dáng vẻ thư thái kẻ cả, giơ một chân trước lên sẵn sàng nhận quà biếu, không cần phải giấu mặt. Thì ra để đám cưới mình suôn sẻ, không bị làm khó dễ, chú rể chuột đã khôn khéo lo tính toán cử đoàn thương thuyết đi trước ngoại giao. Từ xưa đến nay chuột vốn sợ mèo. Và bổn phận của mèo là tiêu diệt loài gặm nhấm, ăn cắp, phá hoại. Thế mà giờ đây mèo chịu ngồi yên, giơ tay nhận của biếu xén, hối lộ của chuột. Chắc chắn họ hàng nhà chuột đã tìm hiểu kỹ yêu cầu, sở thích của bác mèo mà tìm kiếm lễ vật. Ta thấy ngoài vật chất chim cá, còn có cả ngón đòn tinh thần là kèn trống, ca hát, tâng bốc nịnh hót mèo. Kẻ có quyền sinh quyền sát của họ hàng nhà chuột. Phải chăng trong cái yếu thế, chú rể chuột đã biết hạ mình chút đỉnh để mong được việc lớn, thì âu cũng là lối ứng xử khôn khéo, linh hoạt để mong được chung sống hòa thuận, yên vui. Khác hẳn tuyến dưới; các chú chuột trước quan lớn đều khúm núm sợ sệt, không còn cảnh quay ngược, quay xuôi tung tẩy. “Đám cưới chuột” là bức tranh dân gian khỏe về đường nét, đẹp về mầu sắc, mới lạ về bố cục; mang đầy ý tưởng của người nghệ sỹ xưa gửi gắm muôn đời sau. Bức tranh không đơn thuần mô tả một đám cưới mà sâu sắc hơn mang theo cả một lẽ sống. Cũng chính vì lẽ ấy, trong dân gian còn có lời bình cho bức tranh như sau: Khôn khổn khồn khôn đã có đuôi Đỗ cao cưới vợ tiếng vang trời Bác mèo mới vểnh nhô đầu ngó Chú chuột sai quân lễ tận nơi. Thái Thành Vân Nguồn: http://www.baotuyenquang.com.vn
  18. Đám cưới chuột 05/02/2008 09:58 (HNM) - Trong bộ tranh dân gian Đông Hồ, bức tranh gây được ấn tượng dai dẳng và được nhiều người ưa thích là bức tranh “Đám cưới chuột” còn được gọi là “Trạng chuột vinh quy”. Bức tranh vẽ chuột mà lại giàu tính xã hội, nói lên chuyện con người. Cái thời mà các nghệ sỹ nông dân tài hoa rất mực của làng Mái Đông Hồ vẽ nên bức tranh ấy là cái thời mà ai cũng mong mỏi hai sự việc lớn trong đời. Đó là đại vinh quy tức là thi đỗ làm quan và tiểu vinh quy là lấy được vợ như ý. Đám cưới rất trang trọng, mang đậm hình ảnh ngựa anh đi trước, kiệu nàng theo sau. Chàng xênh xang trong bộ áo gấm xanh. Nàng mặc áo màu. Họ được rước đi, rạng rỡ trên con đường làng màu son nhạt với những vạt cỏ màu mạ. Chuột Trạng hoặc chuột chú rể được che lọng tía tượng trưng cho vinh quang, danh vọng lớn. Chuột cô dâu dịu dàng trong chiếc kiệu Bát cống có nhiều hoa văn trang trí kiểu cổ. Bốn chú chuột hầu hạ, ghé vai khiêng. Đám rước còn có biển đỏ, dàn nhạc. Hai chú chuột thổi kèn có “cung bậc” khác nhau: Kèn vua và kèn đại. Trang phục của các chú chuột “điếu đóm” lòe loẹt, tinh nghịch gợi người xem liên tưởng tới kiểu trang phục của các anh hề ở gánh xiếc. Bức trang tưng bừng về màu sắc, hài hòa về nhân vật, sinh động, rộn lên vẻ đùa bỡn, diễu cợt trào lộng. Người ta thấy cái quần bó là rất thích hợp với hình dáng của các chú chuột nhanh nhẹn và năng động, phảng phất kiểu dáng của chiếc quần bò ngày nay. Nhưng, cái hay, cái thú vị lại là ở chỗ có ông Mèo già ngồi đón đường đám rước khiến người ta nghĩ ngay tới câu chuyện về mèo và chuột vốn là hai loài xung khắc, đối lập nhau. Chuột thuộc âm mà mèo thuộc dương. Cả hai đều phải tuân theo quy luật hài hòa của tạo hóa nên cuộc đấu tranh nào cũng phải có sự nhượng bộ lẫn nhau. Trong việc cư xử cũng vậy. Lúc này đây, nhà chuột đã có lễ biếu ông Mèo. Chuột đi đầu dâng lễ lại là con chuột đặc biệt, vào loại anh chị, đáo để, đã “thân qua bách chiến” đến nỗi cụt cả đuôi. Do đó, ông Mèo già cũng hơi ngán. Tuy vậy, chú rể, cô dâu và cả họ hàng nhà chuột vẫn chưa thật vững tâm. Họ vẫn còn mắt trước mắt sau, e ngại có chuyện gì đó sẽ xảy ra... Chú chuột mang con cá biếu ông Mèo, có dáng điệu khúm núm, sợ sệt khi nhìn thấy kẻ mạnh hơn mình. Lại nữa, chuột tuy làm nhiều điều xấu, tội lỗi và đáng ghét. Song chuột lại tượng trưng cho sự phồn thực. Đẻ như chuột mà. ở đâu có chuột là nơi ấy có gạo, có cánh đồng, vựa thóc. Năm nào mèo ăn chuột quá tích cực thì mùa màng hỏng vì có sự hoạt động của chuột thì đất trồng mới trở nên xốp. Chuột kêu rúc rích là trong nhà có nhiều thóc. Bức tranh còn nói lên rằng nhà chuột cũng rất chịu khó học hành để được đỗ đạt. Bức tranh “Trạng chuột vinh quy” hay “Đám cưới chuột” còn sống mãi với Tết cổ truyền của chúng ta: Tết về nhớ bánh chưng xanh Nhớ đám cưới chuột, nhớ tranh lợn gà... Lý Khắc Cung Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/vn/43/158403/
  19. 10/02/2008 ĐÁM CƯỚI CHUỘT Nguyễn Sĩ Dũng "Trạng chuột ơn vua cưới vợ làng, Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng! Nàng dâu xứ chuột chân đi đất, Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân!” (Ngô Văn Phú) Trên đây là một phần của sự diễn giải bằng thơ bức tranh Đông Hồ “Đám cưới chuột”. Đây là bức tranh mô tả một đám rước dâu chuột hết sức long trọng. Trạng chuột cưỡi ngựa đi trước. Cô dâu chuột ngồi kiệu theo sau với một đoàn tùy tùng dài không ngớt. Chỉ có điều, để cho tiệc cưới được diễn ra suôn sẻ, họ hàng nhà chuột đã phải hối lộ quan mèo rất nhiều của ngon, vật lạ. Bức tranh chỉ nói chuyện ngày xưa và chỉ nói chuyện mèo chuột nhì nhằng, nhưng có biết bao nhiêu vui buồn trong đó! Mà vui buồn thì lẫn lộn vào nhau, tan biến trong nhau - vui cũng có thể chính là buồn. Trước hết, bức tranh là niềm an ủi lớn cho những người đương thời chúng ta. Thì ra, chuyện tham nhũng, hối lộ có từ ngày xửa, ngày xưa, chứ tuyệt nhiên không phải là sản phẩm độc quyền của đời sống hiện đại. Và nếu “lệ làng” có tự ngày xửa ngày xưa, thì chúng ta chỉ có lỗi một phần trong đó - ở cái phần tiếp tục duy trì và mở rộng cái “lệ làng” đó ra. Thực ra, nếu quyền lực có tự ngày xửa ngày xưa, và sự lạm dụng quyền lực cũng có tự ngày xửa ngày xưa, thì tham nhũng có tự ngày xửa ngày xưa cũng là điều dễ hiểu. Tham nhũng chỉ là một căn bệnh của quyền lực. Kê toa trên giấy cho căn bệnh này thì dễ, nhưng chữa trị nó trong cuộc sống thì khó vô cùng. Thực tế cho thấy, phần lớn các sáng kiến chống tham nhũng đều rất giống với sáng kiến treo chuông vào cổ mèo. Treo chuông vào cổ mèo, thì mèo đi đến đâu chuông kêu đến đó. Họ hàng nhà chuột nhờ đó có thể chạy thoát dễ dàng. Vấn đề chỉ là trong họ hàng nhà chuột ai đủ to gan, và ai có khả năng treo được chuông vào cổ mèo? Hai là, bức tranh cho thấy đã là mèo thì bao giờ cũng có thể gây khó cho chuột. Chuyện cưới xin là chuyện riêng tư trong đời sống dân sự. Chuột tổ chức cưới mấy mâm, chuột rước dâu như thế nào là chuyện của chuột. Quí hồ chuyện cưới xin này không gây thiệt hại cho người ngoài, thì quan mèo không thể có thẩm quyền can thiệp. Thế nhưng, bức tranh dân gian khuyên chúng ta là chớ có nên tin vào những nguyên tắc của luật dân sự. Quan mèo có thể phá nát đám cưới, nếu như trạng chuột chỉ biết luật trên giấy, mà không biết luật ở đời. Quan mèo là cái bóng quá lớn của công quyền đè nặng lên không gian tồn tại của họ hàng nhà chuột. Mà như vậy thì các quyền sẽ bị hạn chế, các chi phí sẽ phát sinh. Ba là, bức tranh còn nói lên sự bi hài của địa vị và chức quyền trong cuộc sống. Trạng chuột phi ngựa đưa dâu trông uy phong biết bao nhiêu! Cô dâu chuột ngồi kiệu trông quyền quý biết bao nhiêu! So với họ hàng nhà chuột, thì cô dâu chú rể quả là những đấng cao sang. Tuy nhiên, so với mèo thì cô dâu, chú rể vẫn chỉ là chuột. Sự khúm núm, sự lo lắng vẫn thấp thoáng đâu đó đằng sau sự cao sang. Phải chăng đó cũng là lý do tại sao châm ngôn “Trông lên thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống cũng chẳng có ai bằng mình” lại có sức an ủi to lớn như vậy? Bức tranh “Đám cưới chuột” còn được ban nhạc “Gạt tàn đầy” chuyển thành bài hát. Được lặp đi, lặp lại liên tục là những lời hát sau đây: “Ai mang cá đến cho con mèo hoang tàn ác? Ai mang cá đến cho con mèo hoang say mềm?” Ai mang nếu không phải là những chú chuột ở quanh ta và ở trong ta?! Nguồn: tuoitre.com.vn
  20. Bức tranh đám cưới chuột Trong một số tranh treo vào những ngày Tết Nguyên đán của chúng ta, bức tranh gây được ấn tượng dai dẳng và được nhiều người ưa thích là bức tranh Đám cưới chuột còn gọi là Trạng chuột vinh quy. Điều này cũng có lý. Bởi tranh về chuột mà lại giàu tính xã hội, nói lên chuyện con người. Cái thời mà các nghệ sĩ nông dân tài hoa rất mực của làng Mái Đông Hồ vẽ nên bức tranh ấy là cái thời mà ai cũng mong mỏi hai sự việc lớn trong đời. Đó là đại vinh quy tức là thi đỗ làm quan về, tiểu vinh quy là lấy được vợ như ý. Đám cưới rất trang trọng, mang đậm cái hình ảnh ngựa anh đi trước, kiệu nàng theo sau. Chàng xênh xang trong bộ áo gấm xanh. Nàng mặc áo màu gụ. Họ được rước đi, rạng rỡ trên con đường làng màu son nhạt với những vạt cỏ màu mạ. Chuột Trạng hoặc chuột chú rể được che lọng tía tượng trưng cho vinh quang, danh vọng lớn. Chuột cô dâu dịu dàng trong chiếc kiệu bát cổng có nhiều hoa văn trang trí kiểu cổ. Bốn chú chuột hầu hạ, ghé vai khiêng. Đám rước còn có biển đỏ, dàn nhạc. Hai chú chuột thổi hai chiếc kèn có cung bậc khác nhau: kèn pha và kèn đại. Trang phục các chú chuột “điểu đóm” là một loại gần như lòe loẹt, tinh nghịch gợi người xem liên tưởng tới kiểu trang phục của các anh hề ở gánh xiếc. Bức tranh tưng bừng về màu sắc, hài hòa về nhân vật, sinh động, rộn lên vẻ đùa giỡn, giễu cợt, trào lộng. Người ta thấy cái quần bó là rất thích hợp với hình dáng của các chú chuột nhanh nhẹn và năng động, phảng phất kiểu dáng của chiếc quần bò ngày nay. Nhưng, cái hay, cái thú vị lại là ở chỗ có ông Mèo già ngồi đón đường đám rước khiến người ta nghĩ ngay tới câu chuyện về mèo và chuột vốn là hai loài xung khắc, đối lập nhau. Chuột thuộc âm mà mèo thuộc dương. Cả hai đều phải tuân theo quy luật hài hòa của tạo hóa nên cuộc đấu tranh nào cũng phải có sự nhượng bộ lẫn nhau. Trong việc cư xử cũng vậy. Lúc này đây, nhà chuột đã có lễ biếu ông Mèo. Chuột đi đầu dâng lễ lại là con chuột đặc biệt, vào loại anh chị, đáo để, đã “thân qua bách chiến” đến nỗi cụt cả đuôi. Do đó, ông Mèo già cũng hơi ngán. Tuy vậy, chú rể, cô dâu và cả họ hàng nhà chuột vẫn chưa thật vững tâm. Họ vẫn còn mắt trước mắt sau, e ngại có chuyện gì đó sẽ xảy ra... Chú chuột mang con cá biếu ông Mèo, có dáng điệu khúm núm, sợ sệt khi nhìn thấy kẻ mạnh hơn mình. Lại nữa, chuột tuy có nhiều điều xấu, tội lỗi và đáng ghét song chuột lại tượng trưng cho sự phồn thực. Đẻ như chuột mà. Ở đâu có chuột là nơi ấy có gạo, có cánh đồng, vựa thóc. Năm nào mèo ăn chuột quá tích cực thì mùa màng hỏng vì có sự hoạt động của nhà có nhiều thóc. Bức tranh còn nói lên rằng nhà chuột cũng rất chịu khó học hành để được đỗ đạt. Chuột cũng chung tình như ai chứ không phải loại (mèo mả gà đồng)... Bức tranh Trạng Chuột vinh quy hay Đám cưới chuột còn sống mãi với Tết cổ truyền của chúng ta: Tết về nhớ bánh chưng xanh Nhớ đám cưới chuột, nhớ tranh lợn gà... Theo Thế giới Phụ nữ
  21. Bức tranh “Đám cưới chuột” và dòng tranh Đông Hồ hôm nay 09:35:00 12/02/2008 Tranh Đông Hồ phản ánh cuộc sống hồn nhiên và ước mơ giản dị của người dân quê với hàng trăm mẫu tranh ở 5 loại chính: Tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh. Đi từ cuộc sống lao động, lại được những bàn tay nghệ nhân tinh tế phản ánh, tranh Đông Hồ sống động và rất có hồn. Cái rét ngọt cuối năm không làm vơi đi niềm nao nức, cho chúng tôi tìm về làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) - vùng đất đã nổi tiếng suốt 5 thế kỷ qua với một dòng tranh dân gian được coi như di sản văn hóa không thể thiếu của người Việt. Qua chợ Hồ, triền đê đầy gió đưa chúng tôi đến làng tranh nằm nép mình thơ mộng bên dòng sông Đuống - cái miền quê nhỏ bé đã trở thành cảm hứng của bao nhà thơ tên tuổi: Tú Xương, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Ngô Văn Phú, Chế Lan Viên... "Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp" Giáp Tết nên không khí khắp làng nhộn nhịp lắm. Giấy màu phơi trên các bờ tường, góc sân rực rỡ cả làng. Nhưng không phải cả làng làm tranh như trước. Giờ đây, Đông Hồ chỉ còn 3 người sống chết với nghề tranh là các ông Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Hữu Sam và Trần Văn Sở - những người đã được công nhận danh hiệu "Bàn tay vàng", trong đó, duy nhất ông Nguyễn Hữu Sam được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phong tặng danh hiệu "Nghệ nhân làng nghề Việt Nam". Các nghệ nhân sưu tầm, phục chế các bản khắc, tranh quý và cả phóng tác những bức nổi tiếng. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam đã ngoài 80 tuổi, nhưng hàng ngày, ông vẫn thảo những nét vẽ tinh sắc cho cô con dâu vờn thủy mặc. Bây giờ, đang mùa tranh Tết, trong nhà các nghệ nhân đầy ắp tranh. Tranh trên tường, trên giá, trên tủ, bàn, ghế… từng chồng, từng xấp. Khách đến mua tranh cũng rộn ràng. Nhiều người ở tận trong Nam ra mua tranh về làm quà tết tặng bạn bè, người thân. Hầu như ai cũng chọn bức "Đám cưới chuột" vốn nổi danh từ hàng trăm năm: "Mà bao năm tháng trong tranh Tết/Tiếng trống vinh quy vẫn rộn ràng" ("Đám cưới chuột" -Ngô Văn Phú). Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam bảo, năm tới là Mậu Tý, nên khách đặt vẽ tranh "Đám cưới chuột" hay làm lịch rất nhiều. Không ai biết đích xác thời điểm ra đời của bức tranh ấy, chỉ biết rằng, nó đã được truyền từ đời này qua đời khác đến tận bây giờ. Tùy theo chú thích mà bức tranh có thể hiểu là "Đám cưới chuột" hay "Trạng chuột vinh quy". Nhưng cả 2 nội dung đều có không khí vui nhộn với kèn trống, cờ quạt, phù hợp với tâm thế mọi nhà trong dịp đầu năm nên luôn được ưa chuộng. Trên bức tranh còn có 2 hàng chữ đối nhau: "Thử bối đệ ngư: chí, chí, chí" (đàn chuột dâng cá kêu chí, chí, chí). "Miêu nhi thủ lễ: mưu, mưu, mưu" (chú mèo giữ lễ: meo, meo, meo). Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Sam, ngoài không khí tưng bừng, vui vẻ, bức tranh được truyền tụng qua nhiều đời chính bởi ý nghĩa sâu sắc của nó: nhìn vào đã thấy ngay cảnh cá lớn nuốt cá bé. Đám rước tưng bừng với đầy đủ nghi thức, lễ vật, có chàng chuột cưỡi ngựa đi trước, theo sau là kiệu rước nàng chuột, nhưng giữa đường lại có một lão mèo già to béo trấn giữ, đe dọa. Vì thế, một nhóm chuột phải mang cá, chim đến để cống nạp, lại kèm cả nhạc lễ để bày tỏ vui mừng, nhằm dọn đường cho đám rước đầu xuôi đuôi lọt. Nét độc đáo của tranh là tiếng cười hóm hỉnh, mỉa mai sâu cay của nhân dân lao động đối với bọn thống trị, cũng là thái độ phản ứng của nhân dân trước nạn tham ô, tham nhũng. Bức tranh như tái hiện cảnh người dân lành xưa thường phải chịu đựng sự áp bức của bọn quan tham. Đó chính là ý nghĩa xuyên thời đại của bức tranh mà vì thế, qua bao thế kỷ, "Đám cưới chuột" vẫn được người chơi tranh yêu thích. Hơn nữa, bức tranh được tạo nên không chỉ bởi màu sắc, hình khối, mà còn là những rung cảm tinh tế cùng trí tuệ, tài hoa, những triết lý nhân sinh mà các nghệ nhân xưa gửi trong từng đường nét. Ông Sam giải thích thêm: Nhiều người cho rằng, bức tranh còn chứa đựng tinh thần phản kháng của người dân Việt Nam xưa với kẻ thù truyền thống phương Bắc. Nơi níu giữ hồn dân tộc Tồn tại qua nhiều thế kỷ, tranh Đông Hồ được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam, in vào tâm khảm hàng trăm thế hệ. Theo ông Nguyễn Đăng Chế thì nghề làm tranh khắc gỗ dân gian ở Đông Hồ - còn có tên gọi làng Mái - xuất hiện từ thế kỷ XVI. Trước đây, cả làng gồm 17 dòng họ đều làm tranh nên có câu ca truyền khẩu: "Cô kia mà thắt lưng xanh/Có về làng Mái với anh thì về/Làng Mái có lịch có lề/Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Tranh Đông Hồ độc đáo ở chỗ được làm hoàn toàn thủ công, từ màu sắc pha chế, in tranh đến vờn thủy mặc. Tranh in trên giấy dó quét điệp bằng chổi lá thông. Mỗi màu là một bản khắc, một lần in. Màu sắc của tranh được chắt lọc từ thiên nhiên: sỏi son cho màu đỏ, hoa hòe, gỗ vang làm nên sắc vàng, ánh đen từ than tre và màu xanh lấy từ lá chàm... Tranh Đông Hồ phản ánh cuộc sống hồn nhiên và ước mơ giản dị của người dân quê với hàng trăm mẫu tranh ở 5 loại chính: Tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh. Đi từ cuộc sống lao động, lại được những bàn tay nghệ nhân tinh tế phản ánh, tranh Đông Hồ sống động và rất có hồn. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam cho biết: Bố cục tranh Đông Hồ chặt chẽ đến mức, ông từng thử bỏ một vài chi tiết nhằm tạo sự mới mẻ cho tranh nhưng người xem vẫn yêu thích các bức nguyên bản hơn. Hình như các nghệ nhân Đông Hồ đã rút ruột tằm, để trong mỗi bức tranh dân gian đều chứa đựng bao điều sâu thẳm về văn hóa, tình cảm và triết lý cuộc đời. Nét vẽ nhuần nhụy, mang theo rung cảm chân thành của các nghệ nhân Việt từng đưa tranh Đông Hồ lên vị trí đáng kể trong nhiều triển lãm nghệ thuật lớn trên thế giới. Ấy nhưng, mọi điều giờ đây đã thay đổi. Ông Hoàng Bá Nhất - Phó trưởng thôn Đông Khê cho biết: Cả làng Đông Hồ gần 400 hộ giờ chỉ còn 3 nghệ nhân giữ nghề. Những nhà khác đều đã chuyển qua làm hàng mã. Bởi việc tiêu thụ tranh cũng khó, nhất là trong sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường với vô vàn tranh ảnh phong phú về mẫu mã, in ấn công nghệ cao. Ông Nguyễn Như Điều - Phó Chủ tịch UBND xã Song Hồ tự hào: Người dân Đông Hồ năng động lắm. Làng tranh bị thu hẹp thì làng mã lại phát triển. Những người nhất quyết sinh tử với nghề tranh nay đã có thu nhập ổn định từ tranh. Các gia đình khác không tồn tại bằng tranh cũng nhanh chóng chuyển sang nghề gõ phỗng, làm mã vốn tồn tại song trùng với nghề tranh từ trước. Nghề làm hàng mã không chỉ lúc nông nhàn mà có việc làm quanh năm, lại tận dụng được cả lao động trẻ con và người sức yếu. Tiếng là nghề phụ, nhưng lại cho thu nhập chính: 400-500.000đ/tháng/người. Mỗi gia đình ở đây sản xuất chuyên một mặt hàng chứ không phải làm từ A đến Z: có nhà chuyên làm mũ, có nhà chỉ làm mặt nạ, có nhà chuyên quần áo… Từ tháng 7 âm lịch, cả làng đã sản xuất hàng mã phục vụ Tết Nguyên đán, Rằm tháng Giêng. Đến tháng 3, lại lao vào làm hàng mã phục vụ Rằm tháng Bảy. Quanh năm, chả lúc nào ngơi tay. Cứ nhìn vào làng là biết sự sung túc của người dân Đông Hồ: 100% gia đình có nhà xây, điện lưới, xe máy, TV; đường làng 100% bê tông. Giữa làng, có những ngôi nhà cao to, đẹp đẽ như ở đô thị lớn. Có việc làm quanh năm nên Đông Hồ ít tệ nạn, là cơ sở để an ninh ở Đông Hồ duy trì ổn định. Đại úy Lê Nho Phấn - cán bộ Công an tỉnh Bắc Ninh, phụ trách huyện Thuận Thành cho biết: Xã Song Hồ đã được phong Anh hùng LLVTND và 18 năm liên tục được nhận Cờ thi đua của Bộ Công an và UBND tỉnh về phong trào bảo vệ an ninh, dĩ nhiên trong đó, có sự góp phần không nhỏ của Đông Hồ. Ông Nguyễn Như Điều băn khoăn: Xã cũng muốn khôi phục làng tranh, nhưng việc tìm đầu ra lại ngoài tầm tay của chính quyền. Hiện tranh Đông Hồ chủ yếu bán cho khách du lịch nước ngoài, chứ tiêu thụ trong nước còn hạn chế. Nếu không phát triển được, mai một của tranh Đông Hồ thật khó tránh khỏi. Những nghệ nhân gắn bó với nghề bằng cả tình yêu máu thịt, bằng niềm tự hào của một dòng họ làm tranh, như ông Sam, ông Chế, giờ đều đã tuổi cao sức yếu. Hơn nữa, không ít bức tranh Đông Hồ đã không còn nguyên chất truyền thống, khi nhiều màu sắc đã được sử dụng bằng màu công nghiệp thay cho nguyên liệu xưa cũ mà cha ông vẫn dùng. Một số bản khắc mới không còn nét tinh tế, có hồn như bản cổ. Sự sáng tạo lai căng làm mất đi nét văn hóa vốn có của giá trị truyền thống. Vọng về từ ký ức Đình Đông Hồ - di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, nằm ở cuối làng. Nhìn ngôi đình cửa đóng then cài, lá rơi phủ kín sân, bước chân chợt ngập ngừng trong niềm tiếc nuối trào dâng. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế bùi ngùi: Trước năm 1945, cứ tháng Chạp hàng năm, dân làng Đông Hồ thường ra đây bán tranh cho người tứ xứ treo Tết. Nhà nhà mua về dán trên tường và năm sau lại vứt bỏ, mua tranh mới, nên nghề làm tranh mới sống được. Mỗi năm chỉ một tháng Chạp, như câu ca: "Dù ai buôn bán trăm nghề/Nhớ đến tháng chạp thì về buôn tranh..." mà trong tháng Chạp cũng chỉ có 5 phiên chợ tranh vào các ngày 6, 11, 16, 21 và 26. Người đến chợ tranh, không chỉ bán mua, mà còn để thưởng thức loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo chỉ có ở vùng Kinh Bắc nên thơ. Bên sân đình, các cô gái Đông Hồ ngồi bán tranh, cho khách mang về chẳng riêng "Tranh Đông Hồ, gà lợn nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp" (Hoàng Cầm), mà còn cả nụ cười, ánh mắt, sự lịch lãm của những thôn nữ sinh ra ở mảnh đất hào hoa, nghệ thuật. Nhưng rồi, năm đói 1945, rồi kháng chiến, thế là chợ mất, làng tranh cũng tan theo. Suốt từ đó, không còn phiên chợ tranh nào được mở nữa. Ngôi đình còn đó. Hồ bán nguyệt rực hồng hoa súng còn đây. Tất cả vẫn vẹn nguyên, mà sao chợ tranh Đông Hồ chỉ còn vọng về từ ký ức? Nét văn hóa độc đáo rất riêng có bao giờ trở lại, để sân đình thôi vắng vẻ giữa bâng khuâng? Dạ Miên Nguồn: http://www.cand.com.vn/vi-VN/vanhoa/2008/2/84878.cand
  22. ĐÁM CƯỚI CHUỘT BỨC TRANH DÂN GIAN DƯỚI GÓC NHÌN CHỐNG THAM NHŨNG Chân dung tác giả Hồ xuân Tuyến. Tết Nguyên đán, cùng với “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ – Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, mỗi gia đình người Việt xưa còn treo tranh Tết. Tranh Tết thường là tranh dân gian Đông Hồ, tranh Hàng Trống. Từ trong cung vua đến hàng phố, làng quê; từ nhà giàu cho chí nhà nghèo đều có tranh dân gian treo Tết. Trong nhà có tranh thờ, tranh trang trí ngày xuân; trên cánh cửa thường là đôi bức tranh Gà hay Hai tướng canh cửa để cầu phúc, cầu may, trừ tà… Tranh dân gian ngày Tết mang đầy ý nghĩa nhân văn. Tranh Gà nói về tình mẫu tử, tình yêu thương, đùm bọc nhau giữa các thành viên trong gia đình, về trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái. Tranh Lợn biểu tượng của sự sung túc, no đủ. Tranh Lí ngư vọng nguyệt (Cá chép trông trăng) ngụ ý về tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên, phấn đấu trong học tập, sự thành đạt của gia chủ. Tranh Phú quý và Vinh hoa là hai bức tranh thường treo cặp đôi biểu tượng cho những điều mong ước tốt đẹp như tên tranh. v.v. Những bức tranh dân gian Đông Hồ như tranh Gà, tranh Lợn, tranh Hứng dừa, tranh Đánh ghen, tranh Thầy đồ cóc, tranh Đám cưới chuột… thể hiện đậm đà tâm hồn, tính cách thuần hậu, chất phác, hồn nhiên của người bình dân và cũng giàu chất triết lí dân gian, triết lí cuộc sống sâu sắc và ý nhị. Đám cưới chuột là bức tranh quen thuộc với mọi người dân Việt. Bức tranh cũng có ý nghĩa triết lí sâu xa. Đặc biệt, nó mang nhiều ý nghĩa nhân văn trong một thời điểm mà Luật chống tham nhũng của Nhà nước ta vừa được Quốc hội thảo luận và thông qua, trong thời điểm mà tinh thần đấu tranh chống tham nhũng trong nhân dân đang dâng cao. Bức tranh được bố cục chặt chẽ. Có thể thấy rất rõ hai mảng tiểu nội dung: phần trên là cảnh ăn hối lộ và đưa hối lộ, cảnh dưới là cảnh đám cưới nhà Chuột, cảnh ngựa anh đi trước, kiệu nàng đi sau. Lễ cưới là việc “đại hỉ”, nhưng để trót lọt, Chuột phải “lễ” quan Mèo nào gà, nào cá. Ý nghĩa chung toát lên từ bố cục này là: muốn đám cưới diễn ra một cách trót lọt, xuôi chèo mát mái thì phải lo lót cho kẻ có quyền thế.Trước hết là cảnh hối lộ và nhận hối lộ. “Quan” Mèo được miêu tả mang tính chất tượng trưng, đầy ẩn ý – rất mập mạp, béo tốt, là kẻ được ăn uống đủ đầy. Việc hối lộ cũng đẩy lên một cách trang trọng (đi thành đoàn, kèn trống nghiêm chỉnh). Rõ ràng, đây là một việc làm không thể xem thường. Người hối lộ thì kúm núm, nịnh bợ; kẻ nhận hối lộ thì “tay” giơ lên ra vẻ không cần, nhưng cũng có vẻ giống như đang đưa “tay” đón nhận. Phần trên của bức tranh đã thể hiện được bản chất của sự việc: đưa và nhận hối lộ.Phần dưới của bức tranh là cảnh đám cưới. Đây không phải là đám cưới của người bình dân, mà là một đám cưới của một kẻ có địa vị. Bằng chứng là có biển có lọng, chú rể đội mão quan, cô dâu ngồi trong kiệu. Vậy là, quan nhỏ muốn công việc của mình thuận lợi thì phải lễ lạt quan lớn hơn mình, “biết điều” với kẻ có quyền thế hơn mình. Đó là chuyện đưa và nhận hối lộ trong hàng quan lại phong kiến xưa. Quan nhỏ tham nhũng để có tiền, có bạc, có lễ vật biếu xén, nịnh bợ quan trên. Mục đích lễ lạt, biếu xén ấy là để thăng quan tiến chức, để tiếp tục có vị trí tốt hơn mà đục khoét dân tình, nhũng nhiễu dân đen.Một tầng ý nghĩa khác, sâu sắc hơn của bức tranh này mà người xem có thể thấy: Mèo và chuột vốn là hai đối tượng xung khắc nhau, mâu thuẫn gay gắt, một sống một còn với nhau. Thế mà ở đây, chúng lại cùng nhau tồn tại. Tồn tại một cách “hoà bình”, tồn tại trong thế: kẻ yếu hơn muốn yên ổn, hạnh phúc thì phải cống nạp, chịu quy phục kẻ khác. Tham nhũng đã đưa những kẻ vốn đối đầu nhau xích lại gần nhau, thậm chí sống chung với nhau. Mới hay tham nhũng nguy hiểm biết nhường nào!Bức tranh “chống tham nhũng” này ra đời đã mấy trăm năm mà đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa. Nguồn: http://hoxuantuyen.vnweblogs.com/post/4300/42408
  23. "Đám cưới chuột": Tưng bừng mà ý nhị 08/02/2008 08:04 (GMT + 7) "Đám cưới chuột" không chỉ thể hiện mong muốn tạo dựng cuộc sống gia đình và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, còn phê phán mạnh mẽ tệ nạn đút lót, hối lộ mà còn thể hiện sự thâm thuý, tài tình của người dân nước Việt. Tranh dân gian Đông Hồ "Đám cưới chuột" Tranh Đông Hồ là một dòng tranh dân gian nổi tiếng ở nước ta, đề tài của tranh rất phong phú, đa dạng phản ánh những tâm tư, tình cảm, quan niệm cũng như các hoạt động trong đời sống xã hội. Bằng sự sáng tạo tài tình cùng bàn tay khéo của mình, các nghệ nhân dân gian đã tạo nên những tác phẩm mộc mạc, giản dị nhưng lại hàm chứa biết bao ý nghĩa sâu sắc, đó chính là một biểu tượng cho nét đẹp của văn hóa Việt. Trong số những bức tranh dân gian Đông Hồ, có lẽ “Đám cưới chuột” là một bức tranh khá quen thuộc và phổ biến với chúng ta. Nhân dịp xuân Mậu Tý, xin cung cấp cho bạn đọc một số điều thú vị quanh bức tranh này. Tưng bừng "Đám cưới chuột" Trước hết, về bố cục của tranh, nội dung phản ánh một đám cưới, mà đã là đám cưới thì khung cảnh phải đông vui nhộn nhịp, thế nhưng do giới hạn khuôn khổ nên nghệ sĩ dân gian chỉ thể hiện những nét chính. Cái hay ở đây là tuy lược bỏ nhiều chi tiết nhưng người xem vẫn thấy được không khí của đám rước dâu rất trang trọng nhưng tưng bừng với tấm biển đề chữ “Nghinh hôn”, lọng che, kèn thổi, chú rể mũ cao, cô dâu áo dài đội khăn, ngồi kiệu hoa. Phía trên bức tranh có viết hai câu tiếng Hán: “Thử bối đệ ngư, chí, chí, chí” (Nghĩa là: đám chuột dâng cá kêu chí chí chí); “Miêu nhi thủ lễ, mưu, mưu, mưu” (Nghĩa là: Con mèo giữ lễ kêu meo meo meo). Hai chú chuột khiêng kiệu phía sau vừa đi vừa ngoái đầu lại nhìn cho thấy đám rước còn kéo dài. Để thể hiện điều này, bức tranh được cắt làm hai đoạn chuyển động từ trái qua phải, cảnh chính là đám rước đặt ở đoạn dưới, còn đoạn trên diễn tả nhóm chuột đi lễ mèo. Thủ pháp nhấn mạnh và lược bỏ được sử dụng làm nổi bật nhân vật trọng tâm bằng cách phóng to, thu nhỏ kích thước. Mèo được vẽ to, đại diện cho tầng lớp thống trị, tuy ít nhưng có quyền lực lớn, trong khi cái kiệu, con ngựa là phương tiện di chuyển của chuột được thu nhỏ lại. Ý nghĩa "Đám cưới chuột" Bức tranh “Đám cưới chuột” mang khá nhiều ý nghĩa. Cảnh đám cưới thể hiện mong muốn tạo dựng cuộc sống gia đình và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Góc trên bên phải của tranh có bốn chữ “Lão thử thủ thân” (Chuột giữ mình) với hàm ý trong môi trường xã hội, người ta cần tỉnh táo và có ý thức giữ gìn để tránh những điều xấu xảy ra với mình. Việc chuột phải lễ mèo, ngoài việc thể hiện bằng hình ảnh còn có hai chữ “Tống lễ” (biếu lễ vật) chính là sự phê phán mạnh mẽ những tệ nạn nhức nhối, đó là đút lót và hối lộ. Phía sau chiếc kiệu của cô dâu chuột, nghệ nhân dân gian còn điểm 5 chấm nhỏ tượng trưng cho Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Phía trên của bức tranh có hai chú chuột mang lễ vật thì chú chuột đi đầu được vẽ màu nâu đỏ (= dương) ôm con chim (chim bay trên trời, dương), chuột đi sau thân mình đen (= âm) xách cá (cá bơi dưới nước, âm). Những chi tiết này thể hiện nguyên lý âm dương hòa hợp. Giai thoại "Đám cưới chuột" Bên cạnh những ý nghĩa nói trên, xung quanh bức tranh “Đám cưới chuột” còn có một giai thoại khá thú vị. Chuyện kể rằng thời Lê Trung Hưng, vào những ngày cuối cùng của một năm Tý, đoàn sứ thần nhà Thanh trên đường về nước có ghé qua thăm làng Đông Hồ để chiêm ngưỡng những bức tranh do dân làng làm ra. Trong lúc nhìn ngắm, viên Chánh sứ thấy bức tranh “Đám cưới chuột” bèn nảy ra vế đối khá hóc hiểm: "Tý tận, thử tống mão" (Cuối năm Tý, chuột lễ mèo) Qua vế đối, Chánh sứ nhà Thanh có ý vòi vĩnh, tự coi mình là mèo, còn dân làng như đàn chuột phải mang lễ vật đến biếu. Thâm ý còn răn đe rằng nước Việt muốn sống yên ổn thì phải cống nạp Bắc triều. Trong khi các quan sở tại và người làng còn đang lúng túng chưa biết phải đối lại như thế nào thì có cụ nghệ nhân làng Đông Hồ đã lấy ra một bức tranh giơ lên. Tranh vẽ một chú trâu to khỏe đang vểnh tai bước đi trên con đường quanh co, uốn lượn như rồng. Chánh sứ nhà Thanh nhìn bức tranh mà tái mặt, và hiểu ngay ý của cụ già đối lại rằng: "Sửu đầu, ngưu thốn thìn" (Đầu năm Sửu, trâu nuốt rồng) Con rồng được vua chúa Trung Quốc coi là hình ảnh của ngôi Thiên tử, thế mà nay lại bị con trâu tượng trưng cho xứ sở nông nghiệp phương Nam nuốt. Vế đối còn có ý rằng trâu nuốt rồng tức là người Việt sẽ đánh thắng quân đất Bắc. Theo thứ tự của 12 con giáp trong hệ chi thì sau Tý là Sửu, sau Mão là Thìn. Chỉ một vế đối mà thể hiện được sự thâm thúy, sâu cay và tài tình của người Việt trước Chánh xứ phương Bắc. Bạn đọc Lê Thái Dũng (Hà Nội) Nguồn: http://tuanvietnam.net
  24. Đám cưới chuột Thứ Năm, 7/2/2008, 14:39 (GMT+7) LTS: Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn xuân Mậu Tý, TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã có bài viết tản mạn quanh bức tranh dân gian Việt Nam - Đám cưới chuột, với những cảm nhận, suy ngẫm về chuyện xưa, chuyện nay qua hình ảnh trong tranh. >> Vào đây để xem chi Video rõ nét các chi tiết trên tranh (Nguồn: VTV) Trạng chuột ơn vua cưới vợ làng, Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng! Nàng dâu xứ chuột chân đi đất, Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân!” (Ngô Văn Phú) Trên đây là một phần của sự diễn giải bằng thơ bức tranh Đông Hồ “Đám cưới chuột”. Đây là bức tranh mô tả một đám rước dâu chuột hết sức long trọng. Trạng chuột cưỡi ngựa đi trước. Cô dâu chuột ngồi kiệu theo sau với một đoàn tùy tùng dài không ngớt. Chỉ có điều, để cho tiệc cưới được diễn ra suôn sẻ, họ hàng nhà chuột đã phải hối lộ quan mèo rất nhiều của ngon, vật lạ. Bức tranh chỉ nói chuyện ngày xưa và chỉ nói chuyện mèo chuột nhì nhằng, nhưng có biết bao nhiêu vui buồn trong đó! Mà vui buồn thì lẫn lộn vào nhau, tan biến trong nhau - vui cũng có thể chính là buồn. Trước hết, bức tranh là niềm an ủi lớn cho những người đương thời chúng ta. Thì ra, chuyện tham nhũng, hối lộ có từ ngày xửa, ngày xưa, chứ tuyệt nhiên không phải là sản phẩm độc quyền của đời sống hiện đại. Và nếu “lệ làng” có tự ngày xửa ngày xưa, thì chúng ta chỉ có lỗi một phần trong đó - ở cái phần tiếp tục duy trì và mở rộng cái “lệ làng” đó ra. Thực ra, nếu quyền lực có tự ngày xửa ngày xưa, và sự lạm dụng quyền lực cũng có tự ngày xửa ngày xưa, thì tham nhũng có tự ngày xửa ngày xưa cũng là điều dễ hiểu. Tham nhũng chỉ là một căn bệnh của quyền lực. Kê toa trên giấy cho căn bệnh này thì dễ, nhưng chữa trị nó trong cuộc sống thì khó vô cùng. Thực tế cho thấy, phần lớn các sáng kiến chống tham nhũng đều rất giống với sáng kiến treo chuông vào cổ mèo. Treo chuông vào cổ mèo, thì mèo đi đến đâu chuông kêu đến đó. Họ hàng nhà chuột nhờ đó có thể chạy thoát dễ dàng. Vấn đề chỉ là trong họ hàng nhà chuột ai đủ to gan, và ai có khả năng treo được chuông vào cổ mèo? Hai là, bức tranh cho thấy đã là mèo thì bao giờ cũng có thể gây khó cho chuột. Chuyện cưới xin là chuyện riêng tư trong đời sống dân sự. Chuột tổ chức cưới mấy mâm, chuột rước dâu như thế nào là chuyện của chuột. Quí hồ chuyện cưới xin này không gây thiệt hại cho người ngoài, thì quan mèo không thể có thẩm quyền can thiệp. Thế nhưng, bức tranh dân gian khuyên chúng ta là chớ có nên tin vào những nguyên tắc của luật dân sự. Quan mèo có thể phá nát đám cưới, nếu như trạng chuột chỉ biết luật trên giấy, mà không biết luật ở đời. Quan mèo là cái bóng quá lớn của công quyền đè nặng lên không gian tồn tại của họ hàng nhà chuột. Mà như vậy thì các quyền sẽ bị hạn chế, các chi phí sẽ phát sinh. Ba là, bức tranh còn nói lên sự bi hài của địa vị và chức quyền trong cuộc sống. Trạng chuột phi ngựa đưa dâu trông uy phong biết bao nhiêu! Cô dâu chuột ngồi kiệu trông quyền quý biết bao nhiêu! So với họ hàng nhà chuột, thì cô dâu chú rể quả là những đấng cao sang. Tuy nhiên, so với mèo thì cô dâu, chú rể vẫn chỉ là chuột. Sự khúm núm, sự lo lắng vẫn thấp thoáng đâu đó đằng sau sự cao sang. Phải chăng đó cũng là lý do tại sao châm ngôn “Trông lên thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống cũng chẳng có ai bằng mình” lại có sức an ủi to lớn như vậy? Bức tranh “Đám cưới chuột” còn được ban nhạc “Gạt tàn đầy” chuyển thành bài hát. Được lặp đi, lặp lại liên tục là những lời hát sau đây: “Ai mang cá đến cho con mèo hoang tàn ác? Ai mang cá đến cho con mèo hoang say mềm?” Ai mang nếu không phải là những chú chuột ở quanh ta và ở trong ta?! TS. NGUYỄN SĨ DŨNG - Phó chủ nhiệm VP Quốc Hội Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/Home/vanhoadulich/vanhoa/2787/
  25. Xin giới thiệu một bài viết viết liên quan đến bức tranh "Đám cưới chuột" của làng Đông Hồ. Xem lại bức tranh dân gian "Đám cưới chuột" Thứ ba, 05/02/2008 10 giờ 03 GMT+7 Lớp tuổi chúng tôi không mấy ai không biết về tranh Đông Hồ. Nhưng khi đọc “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm thì vẫn tha thiết yêu, khao khát muốn kiếm tìm và thêm lần chiêm ngưỡng. Con gái tôi đang dạy môn Họa ở trường THCS, nó gửi đứa em đang học ở Hà Nội tìm mua được mấy bức tranh Đông Hồ như: Tranh gà, lợn, hứng dừa và cả “Đám cưới chuột” để treo trong nhà dịp Tết. Nhân năm Mậu Tý đến, xin có đôi điều tản mạn về bức tranh “Đám cưới chuột”. “Đám cưới chuột” không đơn giản là bức tranh sinh hoạt ngộ nghĩnh mà chủ yếu là lời chế giễu và phê phán, tố cáo sâu sắc một lớp người của một thời trong quá vãng... Trên nền tranh xám vàng sậm gợi sự bức bối (khác với màu vàng mơ trong tranh gà; màu hoa lý gợi sắc xuân trong tranh hứng dừa...) tác giả dồn nén hai hoạt cảnh trước và trong ngày rước dâu, lối tả đầy đủ mọi hành vi, sự kiện. Bức tranh chia hai diện trên, dưới. Hẳn là chuyện trước sau? Đây là cảnh rước dâu. Chú rể cưỡi ngựa. Cách trang phục rõ là một quan chức nào đó. Nếu không cũng là một “cậu ấm”. Hắn quay đầu lại, nét mặt vênh váo, lố bịch hơn hân hoan, hạnh phúc... Liền sau chân ngựa, anh hầu cứng nhắc tuân lệnh, nhưng lọng chỉ che cho mình; anh vác biển “nghinh hôn” còn mãi ngó sang hai nàng khênh kiệu cô dâu, cái biển ngả ngớn trên vai muốn buông lời chòng ghẹo (ta biết chắc hai phu kiệu phía trước là nữ bởi tác giả dân gian đã thú vị vẽ họ không râu). Ngồi trong kiệu cô dâu chít khăn lượt, mặc áo gấm, nhưng lại ... lẹm cằm. Có phải tác giả ý muốn hài hước : cô ả sứt môi lấy cậu lưng gù như trong truyện vui dân gian? Đó cũng chỉ là một nét tô thêm cho nụ cười mỉm của người xem thôi. Cái chính là cô ta có cái dáng của bà quan ngồi kiệu hơn là một cô dâu e ấp, ngượng ngùng. Cuộc hôn nhân này thực là “đôi lứa xứng đôi (!)”. Hai anh phu kiệu phía sau sao lại ngoảnh mặt đi? Anh ta khó chịu hay bất bình vì phải khiêng một người không xứng đáng? Đám rước dâu còn đâu là “hỉ sự” ! Mảng thứ hai chồng lên mảnh thứ nhất là cảnh tiến cống. Ngay trên đầu chú rể là một ông mèo sụ, da trắng, mắt xanh lè, trợn trừng giơ một tay nhận lễ. Trước mắt “ngài” kẻ “tống lễ” run rẩy hai tay tiến dâng một con chim; phía sau, một kẻ hai tay xách con cá, sợ ngay râu, rúm cả người, mắt hết cả tinh lạc, trắng dã. Đám “tác lạc” theo sau là “lão thử” (chuột già) và một con chuột chúc kèn xuống đất thổi. Hẳn là điệu kèn ấy cũng ủ ê sầu thảm? Còn đâu là lễ nhạc tưng bừng mua vui như chú rể mong muốn khi sai đi “tống lễ” bề trên? Nhìn ông mèo bệ vệ, to như một ông ba mươi, đầu nổi bướu tham ấy thì con chim, con cá kia đáng gì cho một bữa lót dạ? Sau đó thân phận kẻ lót lễ tự đến miệng hùm này sẽ ra sao? Vì thế mà chúng sợ, chúng run, chúng sầu, chúng thảm?! Ai cũng biết mèo là kẻ thù không đội trời chung của cả loài chuột. Vậy mà không hiểu sao trong cái ngày hạnh phúc nhất của đời mình, vì lẽ gì mà chú rể chuột lại mang đồ tiến cống? Hẳn là chuột muốn làm trọn phận tôi con? Bức tranh có nét tố cáo sự cấu kết hèn hạ đến vô liêm sỉ với kẻ thù ngoại bang của tầng lớp phong kiến. Bức tranh ghi đủ 10 chuột quân hầu, 4 chuột đen, 6 chuột khoang. Tất cả đều ở trần, phải đâu là ngẫu nhiên vô tình? Mỗi chuột một dáng vẻ biểu hiện một tâm lý khác nhau, một phản ứng khác nhau trong đám rước. Người nghệ sĩ dân gian rất chú ý miêu tả những cái đuôi: đuôi sợ hãi quắp chặt hoặc cứng đơ, đuôi nghịch ngợm ngo ngoe, đuôi mệt mỏi kéo lê, đuôi nặng nề chống chống như một cái chân thứ ba. Nét bút của người vẽ thật tài hoa biểu thị sự quan sát tinh tế, một kỹ năng điêu luyện. “Đám cưới chuột” có những nét hài nhưng nhìn chung tính chiến đấu rất cao do sức tố cáo phê phán mạnh mẽ. Thái độ của tác giả thật rạch ròi qua từng nét vẽ, mảng màu. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ 16 cũng đã có bài thơ “Ghét chuột”. Đứng về phía người dân, quan trạng đã lớn tiếng mắng gay gắt bọn tham quan hại dân tàn nước, khoét rỗng kho đụn, phá nát mùa màng. Bức tranh dân gian này khai thác từ một khía cạnh khác. Nhưng chỉ với con chim, con cá, tức sơn hào hải vị làm đồ cống quan thầy, thì ta cũng hiểu bọn này đã lấy từ đâu! Năm Tý, đôi điều tản mạn xung quanh việc xem lại bức tranh “Đám cưới chuột”, để góp thêm tiếng nói trong dòng chảy của những tiếng nói chống lại nạn quan tham nhũng nhiễu, những kẻ luôn tìm cách đục khoét của công, đục khoét sức dân vì lợi ích của riêng mình. Như Ý Nguồn: http://www.baocantho.com.vn __________________