phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Trích: Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục -Lý Khắc Cung CÂY ĐA Xung quanh Đền Bà ở làng Ỷ La, Tuyên Quang có mấy cây đa khổng lồ nổi cộm lên như những ngôi nhà lầu nối tiếp nhau. Chúng đan kết lại với nhau bằng những chùm rễ phụ bạt ngàn, bao la. Chúng đu đưa trước gió như những chiếc võng treo thờ ở các đền Mẫu, phủ Mẫu. Đây là hình tượng gợi ý cho các bà mẹ thời xa xưa làm ra lưới bắt cá, tết võng và làm nghề dệt vải Thạch vải. Thạch Sanh ngày xưa có một túp lều tranh dưới gốc cây đa. Ông Bụt nhân từ cũng từ những cây đa hiện ra. Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh ra rễ mẹ, rễ con, bền vững và đầy sức sống. Cây đa yêu đời, đẹp đẽ và nó tượng trưng cho sự phồn sinh và tuổi thọ Biểu tượng của " Hội những người cao tuổi thế giới" được thể hiện qua hình ảnh một cây đa cổ thụ. Cây đa trần trụi với vẻ nguyên thuỷ, có những điều ẩn chứa, có những điều rối rắm và huyền ảo. Nó tượng trưng cho sự trống trải, cho sức mạnh vật lý và địa lý. Nó thu hút vào mình những tia sét, những dòng điện trường. Những đêm mưa to gió lớn, cây đa đã chống chọi lại với gió bão, dũng cảm phi thường. Cây đa xòe tán xanh và rộng ra để che nắng, che mưa cho mọi người. Nó che chở cho mọi người. Nó là cây mẹ, làm cho con người yên tâm với nụ cười, nước mắt, hướng về vĩnh cửu. Người ta gọi cây đa làng, cây đa huyện, cây đa bãi, cây đa bến sông, cây đa xóm, cây đa chợ v.v… Cây đa là điểm ghi nhớ, điểm đánh dấu nổi bật, đại diện cho một nơi chốn đáng được lưu ý. Cây đa chứng kiến những thăng trầm của các lớp người, trong tín ngưỡng dân gian, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa thường có một cái miếu nhỏ đặt bát hương, những chiếc bình vôi để hương khói cho thần cây đa: “Thần cây đa, ma cây gạo”… Chàng và nàng gặp gỡ hẹn hò, thề thốt với nhau bên gốc cây đa. Họ bảo: “Có cây đa biết mối tinh đôi ta”. Cây đa tha thiết và thiêng liêng: "Trăm năm, đành lỡ hẹn hò…Cây đa bến cũ, con đò năm xưa”? Cây đa cũng là nhân vật, là thành viên của xóm làng: "Giếng nước, cây đa tiễn chàng trai ra trận"! Cây đa là hình ảnh cao đẹp, là cả một bức tranh hoành tráng gắn bó với mái đình, chùa, miếu, giếng thơi v v… dựng nên cả một thế giới tinh thần bền vững cho mọi người từ khi còn trẻ thơ cho đến lúc về già. Cây đa tượng trưng cho vẻ đẹp quê hương. Nó góp thêm màusắc, âm thanh cho làng quê êm đềm. Nó vẫy gọi những đàn chim nhiều màu đến hội tụ, làm tổ rỉa quả đa chín. Và thỉnh thoảng vào những buổi đẹp trời từ những cành đa nhằng nhịt, tung ra những trận mưa chim. Người ta nhìn lên mặt trăng huyền ảo, thấy những nét đậm nhạt mà nghĩ ngay ở nơi đó có hình ảnh cây đa và chú cuội. Thế rồi cái huyền thoại ấy ăn sâu vào lòng người: "ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ". Ngày xưa, ở trên thân cây đa thường có những tờ cáo thị, yết thị. Thời kỳ cách mạng xuất hiện những tờ hiệu triệu đồng bào sản xuất, chiến đấu, đoàn kết… Người quan họ có bài "Lý cây đa” nổi tiếng. Đó là một bài hát rất hay nói về anh trai làng đi đến gần gốc đa, nhìn thấy cô gái thắt lưng xanh mà đem lòng yêu mến… Sau một ngày làm việc vất vả buổi chiều mát mẻ, người ta thường tụ tập nhau bên gốc đa. Họ uống chè vối hút thuốc lào rồi kể chuyện với nhau, bàn bạc và bình luận về cuộc sống. Đôi khi, bên quán nước nhỏ cạnh gốc đa có đôi vợ chồng xẩm kéo nhị, hát lên bài "Anh khoá" làm bâng khuâng cả đám đông người nghe. Nhà nghiên cứu người pháp M. Colami đã viết hẳn một cuốn sách về cây đa ôm tảng đá tại làng Thanh Khê huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Cây đa Tân Trào là hình ảnh quê hương cách mạng mùa thu không bao giờ phai mờ trong tâm trí người Việt nam qua câu thơ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Người Hà Nội thường hay nhắc đến cây đa Cổ thụ nổi tiếng: cây đa nhà Bò. Xưa kia, ở ngay cạnh nó là nhà đúc tiền. Bây giờ có một nhà hộ sinh. Qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, cây đa cũng gánh chịu trên mình đầy những vết thương chiến tranh. Cây đa cửa quyền ở phố Hàng Bông có những chuyện kể quái dị kiểu Liêu trai chí dị. Chuyện kể rằng cứ chập tối, thỉnh thoảng có những cô gái rất đẹp ngồi trên những chiếc xe tay có người kéo, đi thăm các cây đa quanh vùng Hà Nội rồi biến mất lúc nào không biết. Ngày hôm sau, người phu xe sẽ rất đắt khách. Cây đa chùa Hai Bà ở Đồng Nhân phải cần đến hơn mười sải tay mới ôm xuể. Cây đa ở làng Vân Hồ có hàng trăm rễ rủ xuống đất như một chiếc mành mành lớn, đeo trên mình hàng trăm chiếc bình vôi cổ kính và những bát hương lập lòe ánh lửa và khói ở quanh nhà Bác cổ (nay là Viện Bảo tàng lịch sử) có 6 cây đa lớn. Gần Hồ Tây, quãng đầu Thuỵ Khuê có cây đa gọi là cây đa cô Son bên cạnh miếu cô Son. Đó là nơi xưa kia anh khoá Hồng và cô Son gặp nhau và chia tay nhau. Cây đa chùa Bà Đanh nguy nga như một lâu đài. Tại phố Quán Thánh có ba cây đa chụm lại gần nhau, rợp bóng cả một khu phố. Người ta dựng ngay cạnh đó một quán cà phê gọi là quán cà phê Quán Thánh người ta cũng thường nhắc đến cây đa làng Lủ, cây đa sông Tô Lịch, cây đa Hàng Gai v.v… Những vị cao tuổi uyên thâm, đức độ, được mọi người tôn kính gọi là các vị cây đa cây đề. Lại có cả những cụm từ cửa miệng như: cúng cháo lá đa, trạch đẻ ngọ đa, con nhà sãi chùa đi quét lá đa, cậy thần phải nể cây đa. Cây đa là một vẻ đẹp, là biểu tượng, là hình ảnh sinh động của làng quê Việt nam. Nó góp Phần làm cho văn hoá làng xã thêm đậm đà, lấp lánh. Nguồn: http://vnthuquan.net
  2. Trích: Người Việt, rừng và nạn phá rừng Nguyễn Tùng và Nelly Krowolski* Nguồn : Tạp chí Thời Đại Mới Người Việt, rừng núi và nạn phá rừng I. Các tín ngưỡng gắn liền với núi rừng Cũng như người Hán, người Việt tin rằng mỗi ngọn núi đều có một vị thần cai quản, gọi là sơn thần hay thần núi. Vị thần núi nổi tiếng thiêng liêng nhất mà phần đông người Việt đều biết qua truyền thuyết Sơn Tinh-Thuỷ Tinh là thần núi Tản Viên hay Ba Vì ở tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội chừng 60 km về phía Tây. Nhiều làng ở đồng bằng sông Hồng và ngay cả ở vùng Thanh Nghệ thờ thần Tản Viên làm thành hoàng. Mẫu Thượng Ngàn (mặc áo xanh) đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng Tam Phủ hay Tứ Phủ. Cũng như Mẫu Thuỷ hay Mẫu Thoải (mặc áo trắng), bà được nhiều đền nhỏ thờ riêng hơn Mẫu Thượng Thiên (mặc áo đỏ, bà thường được đồng hoá với chúa Liễu Hạnh). Ở xã Ðường Lâm (Hà Tây) chẳng hạn, điện thờ Mẫu Thượng Ngàn được xây trên một ngọn đồi của làng Cam Lâm, còn đền thờ Mẫu Thoải thì được xây ở làng Hà Tân bên cạnh sông Hồng, trong khi ở tiền đường của chùa Mía hay Sùng Nghiêm (Ðông Sàng) thì lại thờ cả Tam Toà Thánh Mẫu. Theo Léopold Cadière, tục thờ Mụ Rú trong một ngôi đền ở Quảng Trị tương ứng với tục thờ người khai canh đầu tiên ở địa phương này trước đây vốn là một khu rừng, và vẫn tiếp tục bảo vệ đất đai cho dân làng chống lại sự xâm chiếm của các làng bên cạnh. Cũng theo ông, Mụ Rú là tên địa phương của Bà Mộc trong tín ngưỡng Ngũ Hành, bên cạnh Bà Hoả và Bà Thuỷ, cũng được thờ trong ngôi đền nói trên. Trong số các thú vật sống ở rừng, người Việt sợ và trọng nhất voi và cọp nên gọi chúng là Ông. Họ tin rằng khi sống lâu năm cọp cũng có thể thành tinh như rắn. Mặt khác người Việt cũng tin là những người chết hay cảm thấy ngạt thở trong khi ngủ là vì bị ma mộc đè: ma mộc ở trong một cây gỗ dùng làm cột hay sườn nhà. Cũng nên nhắc đến tục thờ các cây cối linh thiêng: cũng giống như ở Trung Quốc, đó là các thứ cây "uy nghi nhờ cành lá sum sê và nhờ sống lâu năm. Khi già đi, chúng trở thành linh thiêng và siêu nhiên hoá ; người ta tin là chúng có được một quyền lực siêu việt" (H. Doré, Cadière, 1992). Như vậy, các cây cổ thụ có thể thành tinh, nhưng thông thường thì chúng là nơi trú ngụ của của thần hay yêu, tinh, ma, quỷ, như một câu tục ngữ đã khẳng định: "Thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây đề". Ở Huế và Quảng Trị, L. Cadière đã kiểm kê các loại cây linh thiêng có ma, quỷ và nhất là con tinh ở: cây bồ đề, cây sanh, cây da, cây bàng, cây sung, cây giáng châu. Ông còn nhắc trường hợp của một cây mun và một cây gõ (hay gụ), cả hai đều già đến mấy trăm năm nên không ai dám chặt vì sợ bị thần cây hay thần sống trong cây vật chết. Cũng theo L. Cadière, các người tiều phu chẳng bao giờ dám đốn một cây gỗ trên đó có cây quả hộp hay hộp ma (một loại dương xỉ biểu sinh sống bám vào thân hay cành của các cây to) mọc vì sợ thần sống trong cây báo thù. Phân tích các đặc tính mà các loại cây nói trên có chung với nhau, ông nhận xét là tất cả đều có lá "xanh sẫm, dày và mạnh mẽ", một dáng vẻ độc đáo hay lạ lẫm và thường là rất già. Tục thờ cây được biểu hiện bằnh nhiều cách: vài cây hương cắm bên gốc cây hay trên cành, vài thứ đồ mã, các bình vôi bị vỡ hay có miệng bị bít kín nằm chất chồng dưới gốc cây. Ðôi khi một bàn thờ khá tử tế hay một cái miếu nhỏ được dựng sát gốc cây: tất cả tuỳ thuộc ở quyền lực linh thiêng của các vị thần.
  3. Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết: Một kỳ tài “Giải Phóng Môi Sinh” Hà Nhân Văn Bão tố, nóng lạnh, núi lở, biển dâng, động đất v.v… đều ngoài tầm tay của con người, do một Mẹ Thiên nhiên. Hội Ðịa Lý quốc gia Hoa Kỳ, xuất bản tập sách với nhiều hình ảnh quí giá, nhan đề “Sức mạnh của Thiên nhiên” (Powers of Nature – NGS, Wash, DC., 199 pp, với những hìnhảnh tuyệt đẹp và sống động). Cuốn sách quí giá trên lôi cuốn độc giả thật mê say và kỳ thú, từ sự thay đổi dáng hình của trái đất với lục địa và biển cả cách đây 200 triệu năm rồi 135 triệu năm, 65 triệu năm cho đến trái đất ngày nay. Dù là tay vô thần triệt để, trước sóng thần tsunami ở ÐNÁ và bão Katrina ở Hoa Kỳ cũng phải cúi đầu kinh khiếp trước sức mạnh của Mẹ thiên nhiên. Từ ngàn xưa, ta có thể nói một cách đầy tự hào và hãnh diện: Tổ tiên ta đã biết thờ kính Mẹ Thiên nhiên qua Ðạo Mẫu VN , xuất phát từ đời vua Hùng. Ngày nay, HNV tôi có thể nói mà không sợ quá đáng, khiên cưỡng hay đề cao: Tiến sĩ Mai Thanh Truyết là “đệ tử” của đại đạo Thiên Nhiên, môi sinh và môi trường. Nói được như thế là HNV tôi đã sưu khảo và đã nghe cả trăm bào viết và nói của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết và đài RFA trong nhiều năm qua. Nói một cách tâm linh, hẳn là bà Chúa Thượng Ngàn (Ðạo Mẫu) và Mẫu Thoải (Thủy Tiên Thánh Mẫu) chắc sẽ thưởng công cho nhà khoa học lỗi lạc này. Trận giá lạnh kinh khủng ở Việt Nam hiện nay từ miền Trung đến Thượng du miền Bắc, DO ÐÂU? Tất nhiên là do Mẹ Thiên Nhiên, ngoài tầm tay của Nhà nước CSVN. Hơn nửa thế kỷ mới có một trận rét và giá buốt khủng khiếp như thế, kéo dài cả tháng; 54.000 trâu bò và gia súc chết! Nhưng ở mặt khác, rất khoa học, lại do con người VN đã tiếp tay với Mẹ Thiên Nhiên. Về Một Nhà Khoa Học Môi Sinh Việt Nam Nhà khoa học Mai Thanh Truyết đã liên tiếp lên tiếng về môi sinh và họa phá rừng ở Việt Nam trên đài Á Châu Tự Do (RFA) và trên báo. Tôi sưu tầm được gần 30 bài báo thật giá trị, phong phú và cô đọng của TS Mai Thah Truyết, quê ở Tân Phú Thượng, tỉnh Hậu Nghĩa cũ, đậu Tiến sĩ “Cơ cấu hóa học hữu cơ”, ÐH Pháp quốc (Chimie Organique Structurale), cựu Trưởng khoa Hóa Học ÐH Sư Phạm sàgòn, Giám đốc Học vụ ÐH Cao Ðài, Tây Ninh, chuyên gia Nghiên cứu Y sinh hóa ÐH Y Khoa Mineapolis. Với cách nói và hành văn của TS Truyết rất nhẹ nhàng, bình dị, dễ hiểu, có thể nói rất Việt Nam và rất miền Nam với hàng chục năm ông nói và viết về môi sinh, môi trường, thiên nhiên, rừng cây, ô nhiễm. Ông đã đem lại ơn ích rất lớn quê hương Việt Nam. Theo dõi báo chí trong nước, có hàng tá bài nói và viết của TS Truyết đã được sao chép lại gần như nguyên văn đăng vào mục khoa học trên nhiều báo ở Hà Nội và Sàigòn như SGGP, Hà Nội Thanh Niên, Tuổi Trẻ… Nếu đã nghiên cứu về Ðạo Mẫu Việt Nam và khoa học Môi sinh hiện đại, t sẽ thấy TS Truyết quả là một gạch nối giao lưu và phản ảnh truyền thống trọng kính Mẹ Thiên Nhiên , núi rừng và sông biển của ông cha ta xưa. việt Nam có tục thờ CÂY mà học giả Pháp , LM thừa sai L. Cadière đã trình bày khá cặn kẽ: “Le Culte des Arbres” – (BEFEO T.XVIII, 1918). Bà Chúa Thượng Ngàn trong Ðạo Mẫu Tứ Phủ là bà nữ thần coi rừng cây lớn, phải làm lễ cúng bà, phải trồng 6 cây nhỏ để gọi là “trả lại bà Chúa”. Trước ngày Chùa Hương mở hội, phải làm lễ cúng bà Chúa gọi là xin bà cho mở cửa rừng núi ở bìa rừng Bình-Trị-Thiên thường dựng miếu thờ Bà Rú hóa thân bà Thượng Ngàn coi núi rừng. Năm Bính Ngọ (1126), vua Lý Nhân tông ban chiếu chỉ: “Cấm dân chúng mùa Xuân không được chặt cây” (Ðại Việt Sử ký toàn thư, Q.II, tr. 24a). Thập niên 1990, Âu Mỹ hốt hoảng trước họa môi sinh và Thiên nhiên bị tàn phá, Âu Mỹ nhất loạt nói lên cao trào bảo vệ và Giải phóng Môi sinh, Môi trường. Ðặc san khảo cứu khoa học Dedalus của Hàn Lâm Viện Nghệ thuật và khoa học Mỹ ấn hành số đặc biệt, trên 300 trang với chủ đề “THE LIBERATION OF ENVIRONMENT” (Giải phóng môi trường – Dadalus, Summer 1996, vol. 125, no.3). Giáo sư K.M. Meyer-Abich, giảng dạy Triết học Thiên nhiên: Tiến đến một nền Triết học Sinh học Trung đạo (tạm dịch) (Humans in Nature: Toward a Physiocentric Philosophy- Báo đã dẫn, tr. 213-232). Qua công trình nghiên cứu, nói trên đài RFA và viết trên báo của TS Truyết, quả thực ông là một chiến sĩ cách mạng môi sinh trong cuộc giải phóng môi trường mà ông nhắm hẳn về quê hương Việt Nam. Với những bài khảo cứu, đại loại như “Năng lượng methanol”, “Tế bào năng lượng” và môi sinh ở Việt Nam, có thể tập trung thành một bộ sách mấy trăm trang. Nếu giới lãnh đạo CSVN biết lắng nghe, thiết nghĩ đại họa môi sinh ở Việt Nam đâu đã đến nỗi thê thảm như ngày nay. Trận rét kinh khủng này nếu năm 1945 có thể giảm bớt độ giá rét đi rất nhiều vì rừng cây núi đồi chưa trơ trụi, vì còn cây đa cổ thụ, còn lũy tre làng che chở. Hà Nhân Văn 3/2008 Nguồn: http://www.hinhtran.com
  4. Tâm Linh Cây Cỏ & Con Người Nguyễn Mộng Khôi Giữa thập niên sáu mươi, nhà Bác học Cleve Backster chế ra máy Dò Nói Dối, người Mỹ gọi là Lie Detector hay Polygraph, máy này có thể phát hiện những thay đổi về mạch đập, những bất thường của nhịp thở ..v..v... mà Backster cho rằng do tinh thần căng thẳng, không giữ được bình tĩnh khi người bị thẩm vấn có những điều uẩn khúc, những chuyện muốn dấu diếm. Cơ quan Trung Ương Tình Báo( CIA) dùng Lie Detector để điều tra những nghi can. Họ thấy máy này đem lại kết quả tốt nên năm 1986 Backster được CIA mời ra cộng tác và sau đó được cử làm Giám Ðốc Trường Huấn Luyện Dò Nói Dối và Sở Nghiên Cứu Backster(Polygragh Instruction School and The Backster Research Foundation)ở San Diego California. Từ đó, tên tuổi Ông được nhiều người biết đến, nhưng Ông chỉ thật sự nổi danh và được các khoa học gia thế giới cảm phục khi ông tình cờ tìm ra thảo mộc có tâm linh hay là cây cỏ có khả năng biết được ý định của con người. Một buổi sáng được nghỉ, Ông ngồi ngắm những chậu hoa, những chậu cây trong nhà, như một nhân duyên, Ông chú ý đến một cây có lá to và dày như lá đa trong một chậu cảnh, đã một tuần không được tưới nước, đất khô, thân cây cũng khô. Ông bổng nẩy ra ý định: - Thử cắm hai đầu dây của một điện kế(galvanometer) cực nhậy vào cái lá rồi tưới nước vào gốc cây. Nước dần dần lên thân và lá, nhưng cây kim điện kế vẫn đứng im. Rồi một ý nghỉ khác đến với Ông: - Hay là thử đốt chiếc lá này xem sao? Ông chỉ mới có ý nghĩ đốt chiếc lá tức thì kim điện kế bỗng nhẩy lên như bị điện dật. Ông tự hỏi, chẳng lẽ Ông nhìn lầm? Chẳng lẽ lá cây đọc được tư tưởng của Ông mà biểu lộ phản ứng sợ hãi hay sao? Nghĩ như vậy Ông làm thử lần thứ hai. Tay cầm hộp quẹt như sắp sửa đốt chiếc lá, nhưng Backster tự nhủ sẽ không đốt; thì điện kế cũng không nhúc nhích. Lần thứ ba ông nhất định sẽ đốt chiếc lá. Lúc đó trong phòng lặng gió kim điện kế đột nhiên nhẩy mạnh. Nhìn chiếc lá bị đốt một phần Backster thấy sung sướng trong lòng vì sự tình cờ mà biết được linh tính lá cây. Sự khám phá này làm Ông thích thú hơn là phát minh ra máy Dò Nói Dối hồi ba thập niên trước. Ông muốn công bố ngay cho mọi người biết. Nhưng Ông kịp ngừng lại, thái độ đúng của nhà khoa học là phải thử nghiệm đầy đủ, khách quan để không đưa tới kết luận sai lầm, thiên kiến và chủ quan... rồi, Ông định phát triển, nghiên cứu sang nhiều loài thảo mộc khác. Có tới 25 loại cây cỏ được nghiên cứu gồm nhiều loại lá, loại quả và loại củ. Sau những cuộc nghiên cứu thận trọng của Ông và các cộng sự viên. Ông chính thức công bố rằng: - Cây cỏ có trực giác tâm linh Chúng không có mắt, tai, mũi, miệng; không có óc; không có thần kinh hệ... thì cái biết của chúng hẳn phải khác với cái biết của con người. Con người có giác quan nhưng không có trực giác tâm linh như chúng. Dù một bác sĩ tâm lý giỏi cũng không biết được ý định của một kẻ điên khùng sắp đốt nhà mình. Suy nghĩ như vậy làm cho Backster phấn khởi Ông mở rộng cơ sở nghiên cứu và càng khám phá ra những điều mới lạ. Từng mảnh lá tách rời cũng phản ứng như nêu ở trên và người ta gọi là Phản Ứng Backster. Nhà Sinh thực vật(biologist) Ingo Swann, theo dõi cuộc nghiên cứu của Backster và viết trong quyển The Real Story(chuyện có thật). Quyển sách được phát hành ngày 15-11-1998 trong đó có đoạn: - Sự nghiên cứu(của Backster) khởi đầu chỉ là một khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng nhận thức và tự động đáp ứng những xúc cảm mạnh thuận theo ý chí con người ... những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.(His research started with the 1996 almost accidental rediscovery that plants are sentient and respond to the spontaneous emotions and strongly express intentions of relevant humans... Your plants know what you are thinking). Phản ứng Backster còn đi sâu xa hơn và cho biết thêm là cây cỏ phản ứng không phải trước những mối nguy do con người tạo ra, mà cả những bất trắc, không tạo ra bằng ý định. Một con chó bất thần bước vào phòng, một người vốn ghét cây cỏ đi tới cũng làm điện kế nhẩy. Những cử động của một con nhện tiến đến, cũng gây phản ứng cho cây. Ông Backster đã làm thí nghiệm và chứng minh những điều đó trước các sinh viên trường Ðại Học Yale(Hoa Kỳ) trong trường hợp trên, một khi có người tới đuổi nhện và ngay trước khi nhện chạy đi kim điện kế đã hạ xuống. Y như là trước khi nhện chạy thì cái quyết định rút lui của nó đã được cây tiếp nhận. Cây đã thấy hết nguy hiểm và không phản ứng nữa. Một cuộc thí nghiệm khác chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây để ý canh chừng nhau sợ bị quấy rầy nhưng khi có một động vật tới gần, mối nguy gần hơn cây cỏ quay sang canh chừng động vật. Những điều còn làm cho chúng ta kinh ngạc là cây có trí nhớ và tình cảm. Chúng nhận biết những kẻ chuyên phá hoại hoặc những người hay chăm sóc chúng. Ông Charles A. Lewis trong quyển Ý Nghĩa Của Cây Cỏ Trong Ðời Sống Chúng Ta(The Meaning of Plants in our Lives) viết: - Sự say mê nghiên cứu về những liên kết giữa cây cỏ với tâm trí con người mà những tương tác làm tăng thêm hạnh phúc ở ngoại cảnh và môi trường có tác động đến đời sống con người(Fascinating research can lead to enhanced well-being and an appreciation of the environment). Một gia đình an vui, hạnh phúc, cây cỏ trong nhà cũng tươi tốt. Khi người chăm sóc cây cối, cái tương tác tâm linh giữa Cây và Người làm cho cả hai đều khỏe mạnh hơn. Ðó là lý do tại sao những cây mọc gần nhà thường tốt hơn những cây mọc xa. Vậy chúng ta hãy nâng niu, trân trọng từng cọng cây chiếc lá. Hãy dành một chút thì giờ để chăm sóc cây cỏ và vườn tươi(lawn and garden) sức khỏe chúng ta có thể nhờ đó mà tốt hơn. Ngược lại những người thường xuyên chặt phá cây cối thường gặp điều kém may mắn hay nhuốm bịnh là vì khi cây bị xâm phạm, phản ứng tâm linh yếu ớt của cây đánh vào thủ phạm. Mỗi lần một ít, lâu dần người đốn cây sẽ bị bệnh nặng. Có thể người xưa sống an vui, hạnh phúc vì cái thú Ðiền Viên chăng? Các nhà sinh thực học thế giới rất hứng thú đang theo dõi công cuộc nghiên cứu của Backster, hiện đã có 7000 nhà bác học yêu cầu Ông thông báo cho biết kết quả nghiên cứu kèm theo các tài liệu khoa học. Những máy móc tối tân hơn được Ông thâu nhận, nhất là những máy ghi các nhịp luồng điện. Và cuộc nghiên cứu được tiến hành với kế hoạch tinh vi, được ghi chép đầy đủ. Các tài liệu được thu thập và xếp loại cẩn thận. Nếu Backster chứng nghiệm được Tâm Linh Cây Cỏ thì kỹ sư Kirlian đã chụp được hào quang của chúng. Kirlian, tên đầy đủ là Semyon Davidovich Kirlian(1900-1980) sinh tại tỉnh Krasnoda, xứ Amenia nước Nga. Năm 1939 Ông cùng vợ là Valentina đã phát minh ra máy Chụp Hào Quang gọi là Kirlian Electrophotographic Camera(gọi tắt là máy Kirlian). Ông bà này đã áp dụng từ trường của điện vào thuật chụp hình của sinh thực vật (Bio Electrography ). Một tấm ảnh chụp chiếc lá của máy Kirlian hiện ra như một thế giới điểm sáng. Chung quanh nó là hào quang(Corona ). Những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi xa theo những kinh xác định. Không phải chỉ lá mới có hào quang. Cây càng lớn, càng già, hào quang càng rực rở và Trường Sinh Lực( bio field) càng mạnh. Trường Sinh Lực (TSL) chính là sức mạnh vô hình của thảo mộc. Có những tiều phu vừa đốn xong một đại thụ bỗng lăn đùng ra chết. Có thể người này đã chặt phải một linh mộc có TSL quá mạnh. Trong tín ngưỡng nhân gian ta, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa già, thường có một cái miếu nhỏ, đặt bát hương, những chiếc bình vôi, để hương khói cho Thần Linh. Do kinh nghiệm của cha ông truyền lại thì cây lớn có Thần lớn. cây nhỏ có Thần nhỏ: - Thần cây đa, ma cây gạo. Trong kho tàng văn chương bình dân, ta còn thấy những câu tục ngữ xưa, có ý răn đe, những người chặt cây, phá rừng. Ðó là nghề nguy hiểm nhất: - Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá. Nhờ sự khám phá về năng lực sinh học và hào quang của thảo mộc. Một số khoa học gia người Nga thực nghiệm rằng, rau cỏ (vegetable) nào có hào quang càng sáng thì càng nhiều bổ dưỡng ẩm thực. Họ nói: - Hào quang của rau cỏ giảm bớt khi bị nấu chín. Những tấm hình Kirlian cho thấy rau sống có hào quang chói sáng hơn rau luộc. (A Kirlian photogragh of a raw vegetable shows a brighter and more defined corona than a cooked one). Nhiều bác sĩ Tây Phương gần đây cũng đồng ý và viết thành sách. Họ khuyên chúng ta nên dùng thực phẩm tươi. Một tờ báo ở Thụy sĩ ca ngợi bác sĩ Bircher Benner: - Bác sĩ Bircher Benner, người đổi mới những bữa ăn điểm tâm không nấu chín thức ăn trong dưỡng đường của ông ở Thụy sĩ. Ông khuyên rằng thức ăn tươi luôn dùng trước bữa ăn đã nấu nướng, Ông tin chắc thức ăn tươi làm kích thích hoạt động điện của tế bào, vì vậy tăng cường sinh lực cũng như toàn bộ tiêu hóa được tốt hơn( DR. Bircher Benner innovator of Swiss Muesli for use in his clinic in Switzerland, advised that raw food always be taken first, before cooked meal. He believed that raw food stimulate the electrical activity of cells thereby enhancing the vitality as well as improving the rohole digestive process) Ðộng vật cũng có trường sinh lực và tác động mạnh mẽ tới con người. Trong tạp chí y khoa Health Care số 2-2000 có ghi những điều đáng chú ý giữa con người và vật nuôi làm cảnh(Pet) như sau: - Những người yêu thích súc vật và nuôi làm cảnh trong nhà như: Chó, mèo, chim, cá, gà ..v..v.. thường có sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn. Những bệnh nhân bị áp huyết cao, bệnh đau tim, bệnh trầm cảm(depression) cũng lợi lạc hơn những người không nuôi một động vật nào. Các cuộc thử nghiệm của một số bác sĩ Tâm Bệnh Lý (Psychologist) Mỹ và Úc cho biết số người bị tắc mạch máu đã giảm đi hai lần và số người có chất mỡ (cholesterol) cao trong máu sẽ giảm đi nếu chủ nhà có nuôi vài con pets Nhóm khoa học gia thuộc viện đại học U. S. C Tiểu Bang California còn đi xa hơn trong lãnh vực nầy. Họ bảo bệnh Alzheimer dường như phục hồi trí nhớ và cả đến nạn nhân của tử thần AIDS cảm thấy lạc quan và tỏ ra yêu đời hơn khi họ được làm chủ một con vật mà họ ưa thích. - Con người cũng có Trường Tâm Linh, Trường Sinh Lực như thực vật và động vật. Kirlian đã chụp hình bàn tay và ngón tay đều có hào quang, giống như hào quang của chiếc lá. Hào quang nấy bước đầu cho biết về tình trạng sức khỏe của các sinh vật rồi tới tâm trạng của các sinh vật đó. Khi sức khoẻ hoặc tâm trạng thay đổi thì hào quang đó đổi thay theo. Nhiều bác sĩ người Nga khẳng định và viết trong sách Y Học của họ ... Trong quá khứ, hình chụp Kirlian được dùng vào nhiều mục liên quan tới diện mạo, thần sắc của sức khỏe và tâm/ sinh lý. Hình ảnh thật rỏ ràng trong sự tiên đoán những hiện trạng bệnh tật như nhiều hình thức Ung Thư, những bệnh về Bướu, Phong thấp, Xưng khớp Xương, bệnh Thần Kinh, bệnh Suy Nhược v..v... Họ tin chắc hình chụp Kirlian có thể tiên đoán những bệnh từ lúc khởi đầu ngay trước khi có những triệu chứng phát hiện nó là một dụng cụ rất ích lợi để đoán trước bệnh(... Kirlian photograghy has been used in the past for a variety of purpose relating to psycho/physiological aspects of health. It has been clearly shown to be effective in diagnosing conditions such as the various forms of cancer, Cystic, fibrosis, Rheumatoid, Arthritis, Schizophrenia, Depression and Others. It is believed that Kirlian photography can predict the onset of disease prior to symptoms showing, making it a useful tool in early diagnosis) Một số thống kê mới đây cho thấy rằng, người độc thân mau chết hơn người có gia đình. Ban đầu các nhà y học đánh giá là do vấn đề sinh hoạt tình dục. Nhưng ngay cả những người độc thân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng vẫn chết sớm. Người ta lại cho rằng khi có gia đình ổn định, con người được chăm sóc tốt hơn nên sức khỏe cải thiện hơn. Thật ra đó chỉ là lý do phụ, lý do chính là tình thương yêu chân thật của vợ chồng đã tạo ra Năng Lực Tâm Linh( hay TSL) làm cho khoẻ hơn. Những huyệt đạo (sensitive points of body) trong khoa châm cứu (Acupuncture) Ðông y hình như có liên quan đến vùng Không Gian Tâm Linh của con người. Ðến ngày nay Tây y đã công nhận huyệt đạo là có thật. Khi châm cái kim hoặc kích thích vào một huyệt đạo thì nó có tác dụng lên cơ thể. Ðiển hình nhất là Châm (punctuare) gây Tê (numb) trong giải phẩụ Y học Tây Phương phải dùng thuốc tê để làm tê liệt các thần kinh rồi mới mổ xẻ. Các nhà châm cứu Ðông Y chỉ việc châm một số huyệt vào phần cơ thể là họ có thể giải phẩu bình thường. Các tác dụng cụ thể của huyệt đạo buộc các Bác Sĩ Tây Y phải công nhận là có huyệt đạo. Nhưng nó nằm ở đâu thì không ai thấy. Các Bác Sĩ Tây y lấy dao mổ ra, họ không thấy gì ở trong và cũng không thấy một sự liên hệ của Huyệt Ðạo đó với các thần kinh chung quanh, Huyệt Ðạo Hoàn Toàn Không nhưng mà tác dụng của nó thì Có Thật và các huyệt đó nối nhau thành một hệ thống huyệt đạo (Ðường của những huyệt). Trong cơ thể con người có nhiều đường. Ðường Kinh Nhâm đi từ môi dưới xuống trước hậu môn. Ðường Ðốc Kinh đi từ hậu môn tới đỉnh đầu rồi đi về phía môi trên. Còn có Ðường Kinh khác như là Túc Thái Dương, Bàng Quang Kinh.. v..v... những hệ thống kinh Huyệt này chứng tỏ một cách chắc chắn rằng Cơ Thể Nầy Ngoài Cấu Trúc vật Chất, Còn Có Một Cấu Trúc Tâm Linh Vô Hình rất là thật mà qua các Huyệt mình mới hiểu được nó. Qua những sự nghiên cứu của Backster, Swann, Lewis, Kirlians... chúng ta rút ra một hệ luận, không gian tâm linh tuy vô hình nhưng có tác dụng. Những ý nghĩ thầm kín của chúng ta vẫn lặng lẽ tạo nghiệp. Ðối với những người hiểu luật Nghiệp Báo, hiểu rỏ sức ảnh hưởng của Tư Tưởng và môi trường chung, họ sẽ giữ tâm hồn để không bị nhiễm bẩn bởi các dòng tư tưởng ác trong không gian, đồng thời họ chân thành cầu nguyện cho mọi người đều tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ con người, con thú đến tận cây cỏ lá hoa. Nguồn: camxahoc.vn
  5. Thế Ứng Xử Của Người Việt Với Cây Và Hoa --- Trần Quốc Vượng --- Thời đại nào cũng cần cây, để thỏa mãn mọi nhu cầu phức tạp của con người. Từ thời đại nông nghiệp, ngoài cây cỏ tự nhiên đã có cây trồng - cây tự nhiên được thuần hóa, thuần dưỡng hóa, được văn hóa hóa... Cây và cây trồng để ăn (làm thức ăn). Cây và cây trồng để mặc (làm nguyên liệu may quần áo). Cây và cây trồng để ở (làm vật liệu kiến trúc, bàn ghế, giường phản, làm hàng rào, lũy). Cây và cây trồng để đi lại (để đan thuyền nan, đóng thuyền gỗ, ghe bàu đi sông đi biển). Và cây và cây trồng để ngắm, để chơi, gọi là Cây cảnh. Con người không chỉ sống để ăn - ngủ... Con người có năng lực biểu tượng hóa - cũng là văn hóa hóa - đã biến cây thành biểu tượng với mọi nhu cầu Chân - thiện -mỹ. Biểu tượng của Tre Trúc - như lời thơ Hán Việt trên một tranh dân gian - là Tiết tháo, vô tư: Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết Đáo lăng vân xứ dã hư tâm (chưa ra khỏi đất đà có tiết cao vút mây mờ vẫn tâm không) Sen là một biểu tượng của Trong sạch, thanh cao: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. "Phật ngự trên tòa sen" là sự nghệ thuật hóa, tôn giáo hóa của biểu tượng Sen trong trắng thanh tao. Ở Trung Hoa cổ, từ thời đại Kinh thi đến thời đại Đường thi và sau này nữa, đào, đào hoa là biểu tượng người con gái đẹp. Đào chi yêu yêu Chước chước kỳ hoa Chi tử vu qui Nghi kỳ thất gia (Cây đào xinh xắn, mơn mởn sắc hoa, nàng đi lấy chồng, êm ấm cửa nhà). Một tiếc nuối "em đã có chồng..."? Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất chi hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu Đông phong (Năm trước ngày này tại cửa này Hoa đào cùng với mặt người ánh tươi Người đi đâu biệt mất rồi Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông Đấy là tư duy liên tưởng Hoa - Người. Người - Hoa, đã có ảnh hưởng lớn đến thi ca Việt Nam, đến Nguyễn Du - Kiều. "Vẻ chi một đóa yêu đào..." đến tử vi - tướng số "Số đào hoa" "Kiếp đào hoa". Người con gái: "Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu". Với Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, cái thanh lịch kẻ Chợ được biểu tượng bằng nhài, bằng mai: Chẳng thanh cũng thể hoa mai Dẫu không lịch sự cũng người Thượng kinh. Chẳng thanh cũng thể hoa nhài Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An. Rồi nào là: Ngát thơm hoa sói, hoa nhài Không khéo thợ thầy Kẻ chợ (Hà Nội) Yêu người trồng hoa "vừa đảm vừa xinh" và yêu luôn cả "hoa nàng" hay ngược lại "nàng Hoa": Phiên rằm chợ chính Yên Quang Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua! Ai trong chúng ta mà chẳng biết người ta, từ lâu lắm rồi thích đặt tên con gái bằng tên các loài hoa "Hoa Mai Lan Lý mặn mà cả tư", đến người giúp việc là gái thì cũng vẫn là "con sen, con nhài" đối ứng với gia nhân là nam thì dùng quả "thằng cam, thằng quít". Từ trước Công nguyên (xem Hán thư, Nam phương thảo mộc trạng...) ở Giang Nam, người ta quý quất, nhà trồng nhiều "quất" coi như có nhiều nô bộc, do vậy quất được gọi là "mộc nô". Có hiểu vậy mới hiểu vây mới hiểu được câu thơ của vua Trần Thánh Tông nước ta vịnh cảnh Thiên Trường (Nam Định) (xem Thơ văn Lý Trần tập II): Bách bộ sinh ca cầm bách thiệt Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu. (Trăm tiếng chim ca trăm tiếng sáo Nhìn hàng nô bộc quất nghìn cây) PGS. TS Trần Lâm Biền đã có bài viết rất hay về không gian tâm linh quanh cây cối. Nhà văn Tô Hoài cũng có cùng ý tưởng như vậy: Cây cao bóng cả, đại / cổ thụ đểđược "thiêng hóa", đã thành tục ngữ: Thần cây Đa, ma cây Gạo, cú cáo cây Đề. Không ai trồng Đa, Đề trong sân cửa nhà tư gia. Không nhà nào trồng Gạo đầu cổng ngõ. Đa trồng ở đình, ở đầu làng. Đề trồng ở chùa với ý niệm "Bồ đề" (Giác ngộ thành Phật - Buđha). Cây Đại (Chăm-pa) thường thấy ở đền. Cây Si (khi) "cây Vũ trụ" trong các ánh mo Mường. Trong tâm thức dân gian người Tày, người Kinh, người miệt biển cây Xương Rồng xua đuổi tà ma. Xương Rồng được trồng làm hàng rào không phải chỉ vì xương gai của nó. Chuyện "cổ thụ thiêng" vẫn lưu truyền trong tâm thức người Việt, từ Hà Nội đến Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh: Cây có tuổi thọ gấp bao nhiêu đời người "sống lâu thế phải tại sao chứ" (Tô Hoài). Và thế là "cây có hồn": Tục thờ Cây là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tín ngưỡng dân gian ấn Độ, tín ngưỡng dân gian toàn nhân loại. Và tự nhiên hình thành câu ví: Nguyễn Tuân, Văn Cao... là những bậc "đại thụ" trong làng văn nghệ Việt Nam! Và Việt Nam xưa - coi Cây cũng như Người "Trông cây lại nhớ đến Người" (Đỗ Nhuận và dân gian xứ Nghệ). Và có tục Khảo cây vào ngày Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5 ta. Chính tôi đã được nghiệm sinh tục khảo cây từ tấm bé. Nhà bà nội tôi có trồng cây Hồng xế ngoài sân, cây này mấy năm không ra quả. Ngày tết Đoan Ngọ, buổi sớm mai, bà tôi gọi thằng nhỏ lên dặn dò câu gì đó, nghe xong nó trèo tót lên cây Hồng. Dưới gốc cây, bác phó Nghiễm, người nhà lực lưỡng của bà tôi cầm chày gỗ nện vào gốc Hồng: - Hồng! Trên cây thằng nhỏ đáp: - Dạ! Bác phó: - Sao mày chậm ra quả thế? Chát! chát! Thằng nhỏ: - ối! ối! Đau quá! Con xin ông! Bác Phó: - Năm nay mày phải ra quả nhớ! Nhớ chưa? Thằng nhỏ: - Vâng! vâng! con xin nhớ ạ! Một màn "hài kịch cây trồng!" mọi người cười vui. Năm ấy Hồng ra quả thật. Bố tôi, một kỹ sư canh nông thời Tây thuộc địa bảo: - Đấy là ma thuật trồng cây (magie de culture). Ma thuật cũng là công nghệ (Technologie). Đấy là để "kích thích" cây trồng! "Thiêng". Và "Giải thiêng". Và "Giữ thiêng". Giáo sư Từ Giấy và Hội Sinh vật cảnh Việt Nam đã từ kinh nghiệm dân gian châu thổ Bắc Bộ: - Nhất canh trì (ao) Nhì canh viên (vườn) Ba canh điền (ruộng) - Thứ nhất thả cá... mà hình thành ra công thức VAC, sau còn gọi là hệ sinh thái VAC hay RVAC (Ruộng - Vườn - Ao - Chuồng). Tôi đã viết về ba loại hình vườn bắc -trung - nam của một Việt Nam: Vườn miền bắc: ngang hàng thẳng lối tương đối trong một hệ sinh thái phồn tạp (đa canh) có rào, có dậu, kề ao - dù có như "vườn Bùi" của cụ Tam Nguyên Yên Đổ ở Bình Lục - Hà Nam: Ao sâu nước cả khôn chài cá Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà Cải chửa ra hoa, cà chửa nụ Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa... (Đây là quãng thời gian ngoài Giêng - Hai) Vườn miền trung: cái tự nhiên và cái nhân vi vẫn gần gụi, đan cài vào nhau. Vườn miền nam: Với công nghệ "lên líp (liếp) trồng cây" và có chuyên canh đặc sản ở "miệt vườn". Có một nền "văn minh miệt vườn" (chữ của cụ Sơn Nam) ở Nam Bộ. Chỉ nói riêng vườn miền bắc: qua thí dụ nhà bà tôi, một nhà khá giả nhà quê xứ Nam Hạ Nam Hà: Khuôn viên nhà bà tôi rộng chừng một mẫu hơn (nhà quan lớn Tam Nguyên Yên Đổ có 9 sào vườn và một mẫu ao). Có nhà ở và nhà thờ. Không có tục cắm hoa trong nhà cả tháng cả năm như ngoài Kẻ Chợ ( đây là một "ảnh hưởng Tây", ông bà tôi coi là "dã man" vì hoa chóng héo, phí công người trông!) Tô Hoài nói đúng: ngay ở Kẻ Chợ, phong tục cành đào Tết không phải là lối chơi thời cổ. Bàn thờ, án thư, bàn nước không có chỗ cho hoa đào (Bắc) hay mai vàng (Nam). Chỉ có "hoa cúng", bày trong đĩa đặt trên bàn thờ tổ tiên ban thờ Thần Phật, ngày mồng Một, ngày Rằm, ngày Tết. Cái cốt lõi giữa ban thờ là "mâm ngũ quả" bày trên mâm bồng sơn son. "Nải chuối xanh quả bưởi - bòng, quả Phật thủ (bàn tay Phật), cam quýt chẵn đôi, chẵn chục. ở miền nam, bà con có phần "chơi chữ", bầy quả dừa ("vừa"), quả đu đủ ("đủ"), quả soài ("sài" "vừa đủ sài" như mong ước)... Hai bên ban thờ là hai cây mía tím to, được gọi là "mía ông vải", "gậy chống ông vải" để cả ngọn, mà nhà nhân học - văn hóa giải mã là biểu tượng của sự phồn thực. Nhà - Hiên - Sân - Vườn: mô hình nhà khá giả ở châu thổ Bắc Bộ. Dưới sân, trước hàng hiên, nhà ông bà tôi cho trổ gạch trồng ít cây hoa: ngâu, mộc hai bên con sấu ở bậc thềm, rồi hồng, ròi đào phai, rồi mai... Trong sân giáp vườn, là đỗ quyên, là quất, là sói, là nhài. Rồi vườn giáp sân, là cây tùng, cây bách, cây vạn tuế cầu mong ông bà tôi sống lâu thượng thọ. Mà lạ thay, cây này chết, thì ông bà tôi cũng lần lượt lánh đời... Đó hoàn toàn là những cây cảnh. Tôi mơ màng nhớ tới căn nhà ức Trai - Nguyễn Trãi bên bờ sông Tô cận kề Kẻ Chợ: - Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt - Quét hiên ngày lẹ bóng hoa tan. Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện cùng tôi đã phục dựng căn nhà Nguyễn Trãi từ thơ văn Nguyễn Trãi nhập dịp kỷ niệm 600 năm danh nhân văn hóa (1380-1980). Cửa số, là hệ thanh gỗ, kéo lên, xập xuống, không phải là cửa chớp - cửa kính kiểu nhà Tây. Hiên - sân nhà ông tôi, là "vang bóng một thời" - thời đại ức Trai. Như nhà cụ Tú Lan làng Mọc, phụ thân nhà văn Nguyễn Tuân... Ở ngoài vườn cây ăn quả, thì thong dong trước sân là hàng cau. Người nông dân dậy sớm, khi trời còn tối đất, đứng ở hiên nhìn lên ngọn cau thấy phớt sáng là biết thời gian. Nhiều khi dưới hàng cau hay ở ngay đầu hồi đàng Đông, bà con nhà quê dựng giàn trầu. Bà tôi già, lại sang, nên thích ăn lá trầu vàng. Song cũng có khi trời đã tối mà trong ang đồng đựng trầu của bà tôi đã hết, bà tôi phải lọ mọ ra đầu hồi hái ít lá; vừa hái bà tôi vừa lẩm nhẩm mấy câu cầu khấn. Bà bảo: Đêm, trầu không cũng đi ngủ như người, mình hái vài lá thôi cũng phải xin vì đánh thức nó, nhiều khi nó giận, héo rũ cả giàn! Bố tôi thì giải thích: Đêm có sương, hái lá, còn cuống tươi, sương muối ngấm vào thân trầu, có thể hại cả cây trầu! Ven bờ rào, chỗ ít nắng, bà tôi cho trồng bưởi, mít, ổi. Bố bảo: Cây có vỏ da trơn là loại á nhiệt - ôn đới, không cần nắng nhiều. Nhãn vỏ sù sì, đích thị cây nghiệt đới, phải trồng chỗ thoáng để hoa nhãn "phơi mầu" mới sai quả; nhãn lại cần nước, nên trồng dọc bờ ao bờ đầm bờ trũng. Cam quýt chanh trồng vườn trên ao, đánh vun ụ gốc to, sai quả. Trên cành cam quýt, nuôi ít tổ kiến vàng để nó diệt loài sâu đục thân cây cam quýt hút nước ngọt. Sau này, tôi đọc trong sách Nam phương thảo mộc trạng của Kế Hàm đời Tấn, thấy từ thế kỷ 3 "Người Giao Chỉ" (Việt cổ) đã áp dụng kỹ thuật này cùng kỹ thuật chiết cành vào mùa Xuân: Cái hoa Xuân nở, cái lá Xuân xanh Ai muốn chiết cành, hãy đợi mùa Xuân! Dùng kiến diệt sâu, dùng côn trùng diệt côn trùng được người Mỹ xem là kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, áp dụng ở Mỹ - Canada từ 1850! Thuở bé tôi cũng từng tận mắt xem bố tôi ghép cây: Chặt ngang thân bưởi "bánh tẻ". Dùng dao nhỏ sắc, tách tước ra một miếng vỏ tươi hình chữ nhật, bỏ đi. Lấy ở thân cam chỗ có mấu mầm, cũng khéo léo tách tước ra một miếng vỏ vừa y diện tích vỏ tước trên thân bưởi, đem ghép vào vừa khít, lấy lạt buộc trên dưới chỗ mầm quanh thân bưởi. Nhựa sống bưởi dâng từ gốc lên nuôi mầm cam, ít lâu sau mầm đâm nhánh, bà tôi sẽ có cây cam thân bưởi, quả to hơn mà ngọt cũng như cam! Cũng không ai trồng bụi chuối trước cửa nhà mà thường trồng sau nhà, đầu hồi nhà, chỗ nẻo vắng quanh vườn. Chuối trổ buồng năm một, chặt buồng thì cũng chặt luôn cây chuối, thái lõi cho lợn ăn (người cũng có thể ăn nõn chuối non - đấy là món "loóng" của người Mường - người Huế mà Phó Giáo sư Từ Chi đã phát hiện sự tương liên giữa ẩm thực Mường - ẩm thực Huế (hay ăn rau dại bán ở chợ Đông Ba). Gốc chuối "mẹ" để nguyên, sẽ đẻ ra thân chuối con, cứ thế, cứ như thế như thế, cả đời... Vườn sau nhà bà tôi trồng xoan; quanh bờ ao trồng tre, sung, bòng, nhót, ổi. Đầy trên lũy tre là các tổ chim cò, vạc. Vạc đi ăn đêm, tối bà tôi nghe tiếng vạc, chép miệng "Kêu như vạc", sáng sớm về tổ lại chãng chọe nhau, đú đởn với nhau lại "kêu như vạc" rồi mới ngủ ngày. Da diết thương nhớ cảnh: Cái cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao... "Thân cò lặn lội" là thân người dân cày đầu đội nón mê, lưng khoác áo tơi lá, chân đất lấm bùn lầy... Người dân nghèo ngày trước ít trồng hoa. ở nông thôn, nhà "có máu mặt" mới trồng bụi sói, bụi nhài. Nên nói thành thật, như Tô Hoài là cây hoa, cây cảnh nảy sinh từ cung vua, phủ chúa, dinh quan lớn, nhà phú hộ mà nhất là ở chốn phồn hoa thị thành. Song xin chớ nên quên: Đình - Đền - Chùa - Miếu... ngày trước là những trung tâm văn hóa - tôn giáo (tôn giáo cũng là văn hóa) thì cũng là những trung tâm trồng cây cổ thụ, rồi cảnh hóa những cây cổ thụ đó (si, sanh, đa...) và trồng cây hoa, cây quả, cây thuốc chữa bệnh... Và chính từ Đền - Chùa mà nhiều giống cây có nguồn gốc ngoại sinh, qua giao lưu văn hóa - được hội nhập vào bộ cây giống Việt Nam rồi truyền bá ra Dân gian. Trên tạp chí Châm cứu Sông Bé (1994), thạc sĩ Lê Thị Liên và tôi đã công bố việc phát hiện tấm bia "Tế bệnh điền" thời Trần Minh Tông (1314 - 1328) ở chùa núi Dục Thúy (Non Nước - Ninh Bình), nói rõ các chùa thời Trần được vua cấp ruộng trồng cây thuốc chữa bệnh cho dân. Sau đại thắng Bạch Đằng (1288) Hưng Đạo đại vương lui về Kiếp Bạc, trồng cây hoa, cây thuốc chữa bệnh cho dân. Hai dải núi Nam Tào, Bắc Đẩu chầu vào đền Kiếp Bạc gọi là Dược Sơn và cho đến nay làng có đền Kiếp Bạc nổi tiếng đó vẫn mang tên Dược Sơn. Những nhà nghiên cứu văn học, Phật học đều nhớ bài thơ "Cáo tật thị chúng" hay tuyệt vời của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) có liên quan đến các cây hoa, cây mai nhà chùa trồng đời Lý: Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. (Xuân đi trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa cười Trước mắt việc ruổi mãi Trên đầu già đến rồi. Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua hiên trước một cành mai!) "Nhất chi mai" thanh quý biết bao. Trồng Hoa để thưởng ngoạn, để liên tưởng, để triết lý về lẽ sinh tử, về cuộc Đời! Đại thiền sư Giác Hải cũng tư duy với Hoa và Bướm: Xuân lai hoa điệp thiện tri thì Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ Hoa điệp bản lai giai thị huyễn Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì. (Xuân sang hoa bướm khéo quen thì Hoa bướm cần ưng theo hạn kỳ Bản lai hoa bướm đều huyền ảo Hoa cười bướm lượn bận lòng chi). Cũng ở thời Lý, theo Sử chép (Sử nói ở bài này chủ yếu là nhắc đến bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư), triều đình nhà Lý đã có cả một vườn thượng uyển là Hoa lâm (Rừng hoa nay thuộc Mai Lâm - Đông Anh, Hà Nội), cũng gọi là Hoa Viên (Vườn hoa) ở đó có đền thờ tổ tiên nhà Lý (theo lời truyền miệng dân gian ở Mai Lâm, đây là quê mẹ Lý Công Uẩn - Huyền tích khác nói bà mẹ họ Phan này người Đình Sấm - nay thuộc xã Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh). Ta nên nhớ trại Hàng Hoa - Ngọc Hà nổi tiếng Hà Nội có ngôi đình nổi tiếng đã được xếp hạng thờ Hoa nương (nàng Hoa) tương truyền là người thời Lý, 9 tuổi đã theo cha đi đánh giặc lập công (Xem Hoàng Đạo Thúy Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Hội văn nghệ Hà Nội, 1969). Tôi cho rằng từ thời Lý, vùng Ngọc Hà đã có làng Hoa của kinh thành Thăng Long và dân làng Hoa thờ bà chúa Hoa - Hoa nương - làm nữ thần bảo hộ của làng mình. ở đó đến đầu thời Lê (xem sử chép, 1516) đã tồn tại chợ Hoàng Hoa (Hoàng Hoa = Hoa Cúc). Lý - Trần - Lê theo Sử chép Thăng Long có phường Yên Hoa (đời Nguyễn đổi gọi là Yên Phụ) ở đó và ở Mai Dịch đều có cánh đồng Bông (trước thế kỷ 18 người Bắc gọi Hoa là Bông như người Nam hiện nay), có phường Kim Hoa (đời Nguyễn đổi là Kim Liên) có đầm sen (nay là công viên Bảy Mẫu (Thống Nhất). Chợ Hoa Thăng Long ngày trước chủ yếu là bán hoa cúng ngày Một, ngày Rằm (phiên Rằm chợ chính Yên Quang; Yêu Hoa anh đợi hoa nàng mới mua). Nhưng ở thị thành ngày trước, không loại trừ việc bán cành hoa để cắm lọ độc bình ở những nhà khá giả, quyền quý. Ca dao dân gian Kẻ Chợ có câu: Trách người quân tử bạc tình Yêu hoa rồi lại bẻ cành bán rao. Đó là nhân một hiện tượng hiện thực (bẻ cành hoa đem bán) mà triết lý về nhân tình thế thái. Cũng như cụ Đặng Tiến Nam, Tô Hoài, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường suy đoán rằng các vườn hoa là khởi nguyên tự các nhà vương hầu quý tộc Lý, Trần. Các nhà sử học ta hầu như chưa có một công trình nào viết về lịch sử nghệ thuật trồng hoa, thưởng hoa (họ còn mải viết "đại sử" về chiến tranh, kinh tế, xã hội). Bộ mặt điền trang - thái ấp Lý, Trần, nào ai đã biết rõ. Theo một cách tiếp cận lịch sử qua thơ văn (mà người Mỹ gọi là Intellectual History), ta có thể hình dung được ít nhiều. Xin hãy đọc ít bài thơ của đại tư đồ Trần Nguyên Đán đời Trần, ông ngoại Nguyễn Trãi (Xem Thơ văn Lý, Trần. Tập III). Bài 1: Cửu nguyệt hữu nhân lai phỏng đồng tái (Tháng chín có người đến thăm nhà, cùng làm thơ) Trích: Kích hạ nhiêm nô xiết cảnh linh Xuất môn hỷ tiếp tử khâm thanh Tự ngu cố thác hoa mê viện Tập tĩnh thời quan thảo mãn đình... (Dưới cửa kính, người gia nô rậm râu giật chuông báo hiệu. Ra cửa mừng đón khách áo xanh, Vui ngắm cảnh hoa đầy cả viện. Quen yên tĩnh, thường xem cây cỏ đầy sân). Bài 2: Thu nhật (Ngày thu): Lâm lưu mao xá bản phi quynh Tiểu phố thu thâm hứng chuyển thanh. Mai tảo cúc phương hiền tử đệ Tùng thương trúc sấu lão công khanh... (Ngôi nhà tranh bên sông khép cánh cửa ván, Trong vườn nhỏ giữa mùa Thu, cảm thấy rất thú vị, Mai nở sớm, cúc đưa hương: đệ tử người hiền, Thông xanh, trúc gầy, bậc công khanh già) Bài 3: Cửu nguyệt tam thập nhật dạ hữu cảm (Cảm xúc đêm 30 tháng Chín): ... Vãn cúc tảo mai tân phú quý. Thanh đăng hoàng quyển cựu sinh nhai. (Cúc muộn, mai sớm là phú quý mới, Đèn xanh, sách vàng là nghiệp nhà xưa). Xem thơ Băng Hồ và các tác giả khác, có thể hình dung được cái mà Sử không chép. Thời Lý đã có vườn thượng uyển ở phía Tây Cấm thành ("Hướng Tây cấm chi danh viện" - Văn bia chùa Đọi, 1121). Đời Trần cũng vậy. Bài thơ họa vần "Ban yến cho những người đỗ tiến sĩ ở điện Quan Đức" của nhà vua của Băng Hồ có câu: Cấm uyển tân tình thụ ảnh tà... (Trong vườn cấm, nắng mới lên, bóng cây nghiêng). Bài họa thơ nhà vua "Tháng chín ngắm cúc" nêu rõ: Vụ tẩy yên hoa mãn cấm thành Hoàng hoa thời tiết hảo thu thành Hàm sương ngọc nhị kình thiên trọng ánh nhật kim ba chiếu hạm minh... (Sương mù tan, khói và hoa đầy cả cấm thành, mùa hoa cúc trong tiết thu đẹp, nhị ngọc ngậm sương nặng trĩu vươn lên. Bông vàng nhuốm nắng rực rỡ trước hiên...). Tôi đã về thăm Tức Mặc - Thiên Trường nhiều lần, dò tìm cung điện xưa, dòng sông cũ, vườn cây - hoa của thượng hoàng Trần thuở trước và đã viết bài cho tạp chí Sinh vật cảnh nói về làng Hoa xứ Nam. Phạm Sư Mạnh (nửa đầu thế kỷ 14) đại quan đời Trần, nổi tiếng văn học, có 2 bài thơ ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường. Bài 1: ... Hải thành thổ cống bao cam quất (Thành vùng biển, đồ cống có cam, quất) Bài 2: ... Lưỡng ngạn tân sương kim quất quốc (Sương mới đôi bờ đất quất vàng) Quất thành Nam, cũng như đỗ quyên, cho đến nay còn nổi tiếng. Nguyễn Phi Khanh, con rể Trần Nguyên Đán, phụ thân Nguyễn Trãi, khẳng định trong thơ Thiên Trường có vườn ngự uyển của thượng hoàng: Bài 1: Thiên Trường thí hậu hữu cảm (Cảm xúc sau khi thi ở Thiên Trường) ... Đông phong ngự uyển, hoa rung động Tế vũ càn khôn liễu sắc tân. (Gió Đông (gió xuân), trong vườn ngự uyển, dáng hoa lay, Mưa nhỏ đầy trời, nhành liễu xanh non). Đến Tức Mặc Thiên Trường ngoại thành Nam Định hôm nay, tôi vẫn thấy thôn Liễu Nha (quê Trần Lê Văn) và cùng anh hồi tưởng bến Liễu của dòng sông Châu thời Trần năm nao, ngày nào..." ngạn thụ đông tây kỳ phất lược" (Cây cối đông tây cờ lật phật); "Liễu phố tam thu vũ, Quân bồng bán dạ thanh" (Mưa thu trên bến Liễu, Thánh thót rỏ mui thuyền); "Biển chu bạng liễu quá tiền khê" (Thuyền men rặng liễu lướt khe đi)... Để khẳng định thời Lý Trần, các đấng quân vương quý tộc đều có Hoa viên, tôi xin dẫn thêm một chứng trong Lĩnh Nam chích quái (viết lại năm 1501), truyện Hà Ô Lôi: Nhà quận chúa Trần bên bờ sông Tô có cả một vườn hoa đua sắc, Hà Ô Lôi giả xin làm một chân cắt cỏ, vào vườn cắt sạch cả cỏ cả hoa để bị bắt giữ và tìm cách hát ca để gụi gần Quận chúa. Đầu thời Lê, ở Thăng Long, nhà các quan đều trồng hoa là điều Sử chép chắc chắn: Năm Kỷ Dậu (1429), tháng Ba, ngày 20, vua hạ lệnh: "Cho đô tổng quản và quản lĩnh các đạo cùng các quan viên ở các phường trong kinh thành biết rằng: Hiện nay đất của các công hầu bách quan đều có phần nhất định, phải nên trồng cây, trồng hoa và rau đậu, không được bỏ hoang...". ở trên, ta đã nhắc đến nhà ức Trai bên bờ sông Tô mà bạn ông, tiến sĩ Lý Tử Tấn gọi là "Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền" (Giữa nơi thành thị, mở riêng một cõi lâm tuyền) Trên mảnh đất được vua chia: Cung dư tịch địa bán trăn tinh (Hơn cung đất hẹp nửa đầy gai) Đất cày gõ ải, lảnh ương hoa. Nguyễn Trãi đã cho dựng nhà - vườn, theo tả lại của bạn ông là Nguyễn Mộng Tuân: Nhất điều thủy lãnh tri Tam quán Tứ bích gia bần phú lục kinh Mai ảnh nguyệt niên lai giáng trướng Hà hương phong đệ tống sơ linh. (Một dòng nước lạnh, nhà quan Tam quán, Bốn vách nghèo xơ, chỉ toàn sách vở Trăng võ bóng mai lên trướng đỏ Gió đưa hương sen vào song thưa) Cũng theo Lý Tử Tấn, nhà ức Trai có giậu trúc: Khánh lai trúc ngoại hữu trà yên (Khách đến bên giậu trúc có khói trà). Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy ở thế kỷ 15 Thăng Long - Đại Việt có các loại cây - hoa được chuộng sau đây: Mai - Cúc - Trúc - Tùng - Lan (sau gọi là tứ quý: Mai - Lan - Cúc - Trúc) - Đào - Mẫu Đơn - Thiên Tuế - Mộc - Nhài - Sen - Hòe - Đa già - Dương... (Xem Quốc âm thi tập trong Nguyễn Trãi toàn tập, 1969). Đến thời Lê Trịnh thì việc chơi hoa - cây cảnh đã được Phạm Đình Hồ nêu rõ trong Vũ trung tùy bút: "Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy không thiếu một thứ gì... Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ: "Phụng thủ" vào. Đêm đến các cậu trèo qua tường thành lẻn ra đem tay chân sai lính đến lấy phăng đi rồi buộc tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền...! Như vậy, ta có quyền nói, từ ngàn năm nay nước ta có truyền thống văn hóa chơi - thưởng Hoa - Cây cảnh." Nguồn: http://www.suutap.com
  6. TRUYỆN CỔ TÂY NGUYÊN TRONG TƯƠNG QUAN TRUYỆN CỔ ĐÔNG NAM Á LÊ HỒNG PHONG (*) 1.Huyền thoại Tây Nguyên và những motif chung Đông Nam Á: Trong huyền thoại Đông Nam Á rất phổ biến motif cây. Huyền thoại Mường có motif cây si sinh thành nhiều thứ, trong đó có motif cây sinh chim, chim sinh bầu. Người Việt có bọc trăm trứng trăm con; người Mường có bầu trăm trứng. Hai dân tộc đều có truyền thuyết chứa đựng chi tiết sinh ra nhiều người miền xuôi, người miền núi. Huyền thoại Mường có 3 trứng nở ra Lang Đá Cần, Lang Đá Cài, và nàng Vạ Hai Kịp. Tiếp đó là motif hôn nhân anh em ruột; Lang Đá Cái lấy Vạ Hai Kịp… Dịt Dàng tìm cây Chu, chặt cây. Cùng motif cây lạicó những motif nhỏ. Huyền thoại Lào, Ê Đê, Chăm, K’Ho… cũng đều xuất hiện motif chặt cây thần – cây che mặt trời, che sự sống cộng đồng. Chặt cây, máu cây sinh thú, cây có máu như người, người như cây, như thú, máu như người, người như cây sinh thú, sinh người. Cây thuốc đá Keo reng của người Mường, cây thuốc tiên của Cuội (Việt - Mường), cây hồi sinh, gậy hồi sinh (Sơn Tinh), cây lúa có hạt lớn tự về nhà (Ê Đê, Việt…), cây sống lại, cây sinh người (Mạ, K’ Ho), cây bản mệnh của người (Ê Đê), cây vận mệnh dân tộc (Chăm), cây lúa từ phân chim (K’Ho), từ hạt bám kẽ chân mà người lấy được lúa thần (Indonesia), cây tre hoặc măng sinh ra người (Malaysia, Philippin)… Ở Tây Nguyên cao 2000m cũng có huyền thoại lụt với sự phổ biến của motif lụt và motif bầu, có motif bầu - mẹ. Trong 307 dị bản do Đặng Nghiêm Vạn sưu tầm và công bố, các dân tộc Tây Nguyên rất ít motif bầu - mẹ so với type (kiểu) truyện quả bầu Lào mà Nguyễn Tấn Đắc đã khái quát. Ở truyện cổ Lào, Trời làm lụt, ba ông Khún đóng thuyền lên trời tránh lụt, trờI cho trâu, trâu chết, mọc dây bầu một quả (motif bầu, motif cái duy nhất), chọc thủng bầu, các bộ tộc Lào chui ra, chặt cây đa, giết đại bàng cứu sự sống cộng đồng. Theo huyền thoại Mạ, K’Ho (Nam Tây Nguyên) thì sau nạn lụt, anh chị em - cặp duy nhất sống sót cũng tương tự nhiều huyền thoại khác ở Đông Nam Á, mà cơ bản sinh ra ba dân tộc: Kon Prum (Chăm), Kon Chau (người Thượng) và Kon Yoan (Việt)… Tính chất chung của huyền thoại Lào và huyền thoại Tây Nguyên trước hết là ở lớp văn hoá muộn của nó; người Thượng phải tiếp xúc với Chăm, Việt thì mới bổ sung thêm lớp văn hoá mới vào huyền thoại của mình; cũng như sự thống nhất ba bộ tộc Lào Thưng, Lào Lùm, Lào Xủng trong một nước Lạn Xạng đã được biểu hiện vào trong huyền thoại tộc người của Lào… Do vậy, huyền thoại Đông Nam Á dù cổ xưa, cũng không hoàn toàn quá xa thời đại chúng ta sống. Với huyền thoại Philippin, Sicalak và Sicabai là cặp đầu tiên được sinh từ măng tre, vẫn là motif cây sinh người trong tổng thể motif cây. Giã gạo, trời xa đất, lược thành trăng, lò lửa thành mặt trời. Ở huyền thoại nam Tây Nguyên: bầu trời từ lưng trâu, mặt trăng từ sừng trâu…; mặt trời, mặt trăng đều được rèn bởi N’ Đu. Mặt trời, lò lửa có nét gần nhau về màu đỏ, sức nóng, khả năng đốt cháy; tục giữ lửa, thờ lửa cũng gắn với thờ mặt trời, cả hai đều cần cho sự sống. Người có phép kêu mưa, gọi gió, giữ gương thiêng, được tôn xưng và tin tưởng như một thủ lĩnh tín ngưỡng (Pơtao Ea, Pơtao Pui) mà chúng ta quen dịch thoát là vua ! Mặt trời trong huyền thoại Philippin buồn, đòi lấy vợ, con gái thủ lĩnh tự nguyện lấy thần để ánh sáng mạnh lên cho cộng đồng sinh sống. Người Tây Nguyên cũng quan niệm về mặt trời với tính chất nhân hoá như vậy. Đó là một thế giới khác vừa như người vừa hùng mạnh hơn người, thế giới mặt trời gồm nhiều “người - mặt trời” có già, trẻ, gái, trai, có thủ lĩnh là mơtao, pơtao mặt trời. Mô hình tổ chức cộng đồng người chi phối xã hội thần linh. Trình độ tư duy nguyên thuỷ chi phối cách hình dung về thế giới thần, quan hệ thần - thần, thần – ma, thần và ma với người… Có núi lửa ở Philippin là do người vi phạm điều cấm (tự tiện leo núi, dám nhìn núi vàng núi bạc). Người R’măm Tây Nguyên cho rằng đất sụp (núi lửa tiền sử Tây Nguyên) là do ăn thịt heo thiêng ! Người Mạ và K’Ho cho rằng người ta có thể đuổi ma ra khỏi người – ma, để người – ma thành người thường, trong khi đó, ai ăn con heo – ma sẽ thành người – ma. Huyền thoại Miến có nhiều mặt trời thiêu huỷ thế giới: biển dâng tận trờI (motif lụt). Ba anh em: Sun - Mặt trời - Mặt trăng ghét nhau, Sun đuổi theo hai anh đòi lại thuốc bất tử, che lấp nhau thành nhật thực, nguyệt thực… Người nam Tây Nguyên quan niệm trăng, trời tìm nhau, che lấp nhau… thành nhật thực, nguyệt thực. Người Miến quan niệm có bốn vị thần đầu tiên xuống trần, nặn bốn cặp đầu tiên bằng đất, hong lửa thần, thành bốn chủng trắng, đỏ, tối, đen. Người Tây Nguyên cũng được nặn ra bằng đất màu, sống trong hang rồi chui lên trên…(Ê Đê, M’nông, K’ho, Mạ…) Loại người thứ nhất chết trong hồng thuỷ, các tộc người hiện nay là loài người thứ hai. Tổ tiên người Miến đến từ cõi trời Dan với các bama bất tử, Tây Nguyên theo tín ngưỡng đa thần (các Yang, Yàng). Dan – Yan – Yang, Yàng là các từ cùng gốc? Điều này phải cậy nhờ các nhà ngôn ngữ học lịch sử. Motif thỏ cung trăng có trong huyền thoại San và Miến của Mianma: thỏ bạc ngồi nhà thuỷ tinh 15 cửa, mỗi đêm mở 1 cửa, 15 ngày mở 15 cửa, tiếp tục đóng lần lượt mỗi đêm thêm 1 cửa thì được một tháng. Ở huyền thoại Trung Quốc có Hậu Nghệ, Hằng Nga và cây trường sinh trên cung trăng; huyền thoại Mường có cây đa và chú Cuội, còn huyền thoại Tây Nguyên chưa thấy thỏ và cây bất tử. Thở có rất nhiều trong truyện cổ tích Tây Nguyên nhưng tính chất ngụ ý pha tính chất hài. Người Indonesia quan niệm trời đất ban đầu là một khối do ánh sáng, bọt biển, hơi nước (văn hoá biển), nhưng là nhất thể, hỗn độn, bãng lãng, bời lời như huyền thoại Hy Lạp, Việt, Mường… Trời sinh nhiều con, con của trời khóc nhớ thành sương, con của trờI giận thành bão… Người Mạ, K’Ho cho rằng tổ tiên - thần linh ban đầu hoá thân sáng tạo: Kblop thành cá, KB’ la thành muối, K’los thành sắt… II.Cổ tích Tây Nguyên và những motif chung Đông Nam Á: Các motif cổ trong huyền thoại vẫn duy trì theo những cách khác nhau trong cổ tích. Đó là các motif cây trong đó có phổ biến là motif cây si, đa, bầu; motif chim; motif thần xuất hiện để thử thách, giúp đỡ con người; motif mới như mồ côi, mang lốt, biến hoá, kết hôn, motif dũng sĩ diệt ác thú cứu người đẹp qua type truyện Thạch Sanh, motif con chung con riêng qua type truyện Tấm Cám rất phổ biến ở Đông Nam Á. Kiểu (type) truyện Thạch Sanh thuộc loại phổ biến nhất Đông Nam Á, đã được Nguyễn Bích Hà nghiên cứu thành công trình riêng, có kế tục Hoa Bằng, Cao Huy Đỉnh, Hoàng Tiến Tựu…Kiểu truyện này có nhiều motif chung: motif dũng sĩ; motif cây đa; tín ngưỡng và tục tế thần tự nhiên bằng người sống; motif diệt ác thần (chằn tinh, đại bàng, mãng xà) cứu người; motif cô gái câm, motif tiếng đàn (tiếng hát) đuổi thú, đuổi thù cứu cộng đồng; motif kết hôn, lên ngôi… Người Việt có thêm niêu cơm thần – khát vọng no đủ của cư dân lúa nước, trong motif tha thức chung của Đông Nam Á, người Việt để Thạch Sanh tha thứ mẹ con Lý Thông, nhưng trên đường về lại bị sét đánh, hoá thân thành bọ hung. Kiểu truyện mồi coi với quan hệ chị em khác mẹ cũng phổ biến ở khu vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam, người Việt và các dân tộc phía Bắc khá gần nhau ở mâu thuẫn chị em cùng cha và mâu thuẫn dì ghẻ - con chống; người Chăm lại mâu thuẫn con đẻ - con nuôi; người Mạ cũng có motif chị em con cô con cậu, chưa đặt vấn đề dì ghẻ đúng như trình độ phát triển của một xã hội cuối mẫu hệ (Ít và Dong)… Cùng type (kiểu, truyện nhưng các dân tộc ở Đông Nam Á cũng có những điểm khác biệt nhất định: mẹ Chăn Tha (Lào) hoá thân thành rùa vàng, thành bồ đề - biểu tưởng Phật giáo; Tấm (Việt - Việt Nam) biến hoá nhiều kiếp, có Phật xuất hiện nhưng với danh xưng Bụt đậm nét dân gian; truyện cổ Mạ thì nhân vật không hoá thành xoan, thị… mà thành chim, trúc, măng, dưa leo, quýt…Không gian cư trú canh tác, tín ngưỡng và quan hệ với tự nhiên chi phối chi tiết cây trong motif cây và nhiều motif khác. Sự tha thứ là motif chung của cổ tích Tây Nguyên cũng như hầu hết cổ tích Đông Nam Á; trong khi đó, Tấm của người Việt lại trừng phạt em và dì ghẻ, nhưng không phải là vấn đề bàn ở đây. Xét về các motif chung, các nội dung tín ngưỡng, phong tục, quan hệ thiện – ác… trong truyện, cả sự kết thúc truyện, lại thấy truyện cổ Tây Nguyên, cổ tích Chăm gần gũi Đông Nam Á hơn. Sự phổ biến của nhân vật mồ côi trong cổ tích giúp chúng ta xem xét lại một số quan điểm chung về sự ra đời và phát triển của thể loại cổ tích, về nội dung đấu tranh giai cấp của truyện mồ côi nói riêng cổ tích nói chung. Yếu tố thần kỳ cũng rất đậm đặc trong cổ tích nhiều nước, khiến chúng ta không thể lấy thần kỳ làm tiêu chí phân loại cổ tích được. Các tín ngưỡng nguyên thuỷ bản địa, các phong tục, các lễ hội, các lĩnh vực văn hoá vật chất và tinh thần được phản ánh trong cổ tích làm cho cổ tích Đông Nam Á hàm chứa những giá trị văn hoá rất phong phú. III. Truyện hài - ngụ ngôn Tây Nguyên so vớI Đông Nam Á Ở Tây Nguyên rất phổ biến type truyện mà các nhân vật là động vật như thỏ, rùa, khỉ, cọp, voi… mà người kể chuyện gọi trân trọng là ông thỏ (pàng pài), ông cọp (pàng klìu)… Về cơ bản, truyện không chú trọng đến đời sống hay tập tính loài vật, mà thông qua các động vật và quan hệ vật - vật để ngụ ý một vài đặc điểm của con người và quan hệ người - người theo hướng ngụ ngôn. So sánh với truyện cổ Đông Nam Á thì chất ngụ ngôn ở đây chưa cao, chưa súc tích, chưa cô đọng. Dung lượng truyện rất lớn, hành động nhân vật lặp đi lặp lại theo các motif bắt chước, motif mẹo lừa, motif khôn - dại. Đồng thời với yếu tố ngụ ngôn là sự kết hợp với yếu tố hài. Chúng tôi cho rằng, với Tây Nguyên, truyện hài và truyện ngụ ngôn chưa phát triển thành hai thể loại độc lập mà đang trong quá trình vận động, đang ở giai đoạn tiền thể loại: tiền - truyện hài và tiền - ngụ ngôn. Trong khi đó, truyện ngụ ngôn ở một số dân tộc Đông Nam Á đã phát triển với tư cách một thể loại ngắn, tính ngụ ý cao, tính chất hài vẫn còn nhưng dù sao cũng đã có một thể loại truyện cười riêng. Trong truyện cổ Thái Lan, có truyện về loài chim mà kết cấu tương tự truyện về thỏ, và truyện về rùa của Tây Nguyên. Độ kết dính giữa các tiểu truyện cũng còn khá lỏng lẻo mà khi thay đổi trật tự một số tiểu truyện, giá trị toàn hệ thống cơ bản được giữ nguyên. Tuy nhiên, từng tiểu truyện về loại chim có thể được kể độc lập với tính chất ngụ ngôn của nó; còn từng tiểu truyện về rùa hay về thỏ ở Tây Nguyên thì tính chất hài trội hơn bài học ngụ ngôn. Với người Việt (Việt Nam), người Khmer (Việt Nam và Campuchia), và người Lào (Việt Nam và Lào) đều có chung một tiểu loại truyện trạng (Trạng Quỳnh, Xiêng Miệng, Thơ Mênh Chây…). Truyện trạng Đông Nam Á có sự tương đồng về kết cấu hệ thống, tính chất liên hoàn xâu chuỗi thông qua nhân vật chính; có một số motif chung mà chưa biết nước nào mượn của nước nào: Thuốc ngon cơm, gà trống không biết đẻ, Nhờ phận cung nữ… trong Xiêng Miệng rất gần gũi với Món ăn mầm đá, Sao sáng xứ thanh, Rau cải tiến chúa trong Trạng Quỳnh; cả Lào và Campuchia đều chung nhau các motif: Tôi không dám nhặt; Tôi nhặt tất cả… Và trong truyện trạng của ba dân tộc, chủ thể của ba quốc gia này đều có những chuyện lỡm sứ Tàu, vua Tàu… Tuy nhiên, về phương diện nào đó, truyện về thỏ hay truyện về rùa của Tây Nguyên vẫn có nét chung về tính chất đồ sộ, kết cấu lỏng lẻo, về tính chất liên hoàn, tính chất hài như truyện trạng (Trạng Quỳnh, Xiêng Miệng, Thơ Mênh Chây, Cuội…) ở Đông Nam Á. Phải chăng truyệng Trạng có tiền thân từ truyện thỏ, rùa? Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu thêm để sáng tỏ tiến trình phát triển các thể loại truyện cổ Đông Nam Á. IV.Nguyên nhân sự tương đồng của truyện cổ Tây Nguyên và Đông Nam Á. 1.Các dân tộc có cùng gốc tộc người hoặc cùng vùng cư trú ngày xưa khiến kho tàng truyện cổ của họ có thể có nhiều nét chung. Nhiều nhà nghiên cứu đã nổ lực dựng lại hệ thống huyền thoạI Việt - Mường cổ (Phan Ngọc – Phan Đăng Nhật). Tuyển tập huyền thoại Đông Nam Á mà chúng tôi đang khảo sát cũng coi Đẻ đất đẻ nước là huyền thoại Việt Mường … là theo quan điểm Việt và Mường cùng gốc. Một bộ phận người Nguồn từ Quảng Bình vào cư trú ở Lâm Đồng, năm 1999, đoàn sưu tầm của chúng tôi đã ghi được hàng chục đơn vị hát Đúm của họ về tình yêu mà không cần phiên dịch, bởi cư dân này nói bằng thứ tiếng Việt - Mường cổ, gần phương ngữ Nghệ Tĩnh ngày nay. Phải chăng, trong quá khứ, Nguồn cũng từ Việt - Mường mà ra? Các bộ phận Thái bao gồm Thái (Trung Quốc), Thái (Việt Nam), Thái (Thái Lan)… có lẽ cũng vậy; rất tiếc chúng tôi chưa đủ tư liệu để so sánh truyện cổ của các cộng đồng này. 2.Các dân tộc di cư, xen cư, giao lưu văn hoá có thể dẫn tớI sự tương đồng về thể loại, kiểu truyện, tác phẩm hay motif Trong kho tàng truyện cổ Lào đã tồn tại các truyện: Nàng Xip xoỏng (Mười hai cô gái), Khăm pha (Mồ côi), Khăm pha – nàng Ngà (Mồ côi và nàng Ngà), Bò mi pho (Không có cha)… Những truyện này đã được sưu tầm, in ấn. Tháng 1 – 2000, Đoàn sưu tầm văn học dân gian tại Bản Đôn cũng thâu lượm được dị bản của các truyện này tại vùng cư trú của người Lào (và các cư dân nói tiếng Lào) có quốc tịch Việt Nam. Tính chất giao lưu văn hoá trong cộng đồng dân tộc Bản Đôn là có thật, nhưng trước đó, sự chuyển cư của người Lào từ Lào qua Việt Nam đã khiến cho trong tổng thể truyện cổ Tây Nguyên hay truyện cổ Việt Nam có bộ phận truyện cổ Lào với những nét tương đồng nhất định với truyện cổ Lào tại Lào, và có lẽ tại cả một số nước khác trong vùng Đông Nam Á. 3.Các dân tộc và truyện cổ của họ cùng chịu ảnh hưởng một nguồn văn hoá chung nào đó theo những đường thẳng và vòng khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân của sự tương đồng văn hoá và văn học. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn và các tôn giáo Ấn. Chính thế mà truyện cổ Thái Lan lại xuất hiện nhiều nhân vật tu sĩ, đạo sĩ theo cả hai hướng thiện và ác. Trong đó còn thấy nhân vật Cò thông thái Ấn Độ, cu gáy Ấn Độ, thần điểu Garuda, Garuda diệt rắn Naga… Truyện cổ Chăm và văn hoá Chăm có Po Naga – Mẹ xứ sở, Ôn Gru (một chức sắc tôn giáo)… Truyện cổ Tây Nguyên và văn hoá Tây Nguyên có Nak Grài - thần rắn sáng tạo ra sông; suối; Po Grù (thầy tu, thầy giáo, người săn được 30 con voi trở lên…)…Ấn Độ có tuyển tập ngụ ngôn Panchatantra nổi tiếng, và các dân tộc Đông Nam Á cũng vay mượn theo mức độ khác nhau để có Munlatantai và Nangtantai (Lào), Tantri (Indonesia), Nangtantai (Thái Lan)… Như vậy, tôn giáo Ấn và văn hoá Ấn có thể sang các nước ở Đông Nam Á trực tiếp; trong khi cũng tôn giáo ấy và văn hoá ấy lại lên Tây Nguyên của Việt Nam gián tiếp qua con đường văn hoá Chăm, Lào… Xét bề mặt, văn hoá một dân tộc có thể đến một dân tộc khác bằng con đường tôn giáo; nhưng suy cho cùng là văn hoá một dân tộc có thể đến một dân tộc khác qua văn hoá nếu nghĩ rằng khởi thuỷ mọi tôn giáo đều ra đời trên cơ sở văn hoá nguyên thuỷ, và nếu công nhận tôn giáo cũng là một trong những lĩnh vực văn hoá đặc thù trong tổng thể văn hoá. Nhiều cư dân Tây Nguyên theo Tin Lành và Công giáo, khiến cho huyền thoại tộc người của họ ít nhiều có xáo trộn bởi một số chi tiết ngoại lai, thì ông Phật lại có mặt trong truyện cổ Lào Bản Đôn (Việt Nam), và ông ấy cũng được dân gian hoá thành Bụt trong cổ tích người Việt… 4.Sự giống nhau ngẫu nhiên giữa các dân tộc cùng trình độ. Cùng kéo dài một cách bất thường tư duy nguyên thuỷ, tín ngưỡng nguyên thuỷ, tổ chứ xã hội nguyên thuỷ mạt kỳ… cùng phải đặt ra những câu hỏi, những vấn đề cần giải quyết tương tự như nhau cũng có thể làm xuất hiện những nét tương đồng ngẫu nhiên trong truyện cổ, trong văn hoá giữa các dân tộc cho dù không cùng nguồn gốc, không giao lưu. Nói ngẫu nhiên vì chưa giao lưu, không chung nguồn gốc, không chịu ảnh hưởng cùng một nguồn, nhưng xét trong tiến trình phát triển con người, phát triển văn hoá nhân loại thì những vấn đề chung cần giải quyết như nhau trong thời điểm lịch sử khác nhau của từng dân tộc lại là tất nhiên, là mang tính quy luật. V.Tiểu kết: 1.Sự tương đồng trong khu vực văn hoá Đông Nam Á là có thật, cơ tầng văn hoá chung dẫu có chịu tác động bởi các nền văn minh lớn, nhưng vẫn có cái nền gốc chắp thêm cành lá mới. Những giá trị truyền thống là không thể phủ nhận, cần phát huy; nhưng cũng có những nhược điểm cần khắc phục của khu vực: văn hoá viết chưa đột phá để vượt lên hiện đại hoá; dựa vào nền tảng văn hoá dân gian để phát triển là đúng nhưng không được nệ cổ; tích cũ của dân tộc, của khu vực, của văn hoá Ấn chi phối văn học nghệ thuật truyền thống, chi phối lối kết công thức chưa làm thoả mãn thị hiếu công chúng hiện đại. 2.Từ tảng nền văn hoá chung, các dân tộc Đông Nam Á có triển vọng hội nhập, cùng phát triển, kể cả giao lưu nghiên cứu và phát triển nghiên cứu trong sự phát triển toàn diện và thịnh vượng chung của khu vực văn hoá. 3.Các dân tộc còn có nhiều cái độc đáo làm nên bản sắc từng dân tộc để không hoà tan, để vừa nhận, vừa cho, tạo sự hài hoà khu vực và nhân loại. Do phải đi tìm cái chung mang tính khu vực. Do phải đi tìm cái chung mang tính khu vực, nên bài viết tạm gác lại cái riêng để tìm hiểu nét tương đồng là chính. Cần tiếp tục so sánh văn hoá, văn học hai dân tộc hoặc hai quốc gia trong Đông Nam Á để khẳng định cái chung và cái độc đáo của từng dân tộc, từng quốc gia Đông Nam Á. TAY NGUYEN’S FOLK TALENTS AND IT’S RELATIONS TO SOUTHEAST ASIAN FOLK TALES LE HONG PHONG The article first explores legends of Tay Nguyen and the Southeast Asia through major motifs: tree, flood, foetus, etc. Common motif of folk tales of Tay Nguyen (Central Highlands of Vietnam) and the Southeast Asia are also presented, from motifs originating from legends to new motifs: tree, foetus, knights, mute girl, singing instrument, sisters, marriage, ascending the throne, etc. The article also introduces a set of inter – genre tales: Tay Nguyên’s humour – fable and its relations to fable, humorous stories, truyen trang (folk of first laureates of doctorate) of Vietnam and the Southeast Asia. The similarities in the folk tales of the ethnic group as well as the multi – ethnic countries can be explained by the common ancestry origins, cultural exchanges, the same cultural influence or by coincidence. The article mainly focuses on the similarity between folk tales of various ethnic groups rather than the characteristics of each culture and literature. The latter issue shoud be explored in more details to highlight the unity in diversity in the cultures of the region. TÀI LIỆU THAM KHẢO. Giải mã truyện cổ Lào theo phương pháp tiếp cận văn hoá học (Phạm Đức Dương), t/c Văn học, H., số 1/ 1998, tr 51 – 58. Hợp tuyển văn học Lào (Tuyết Phượng và … biên soạn, dịch), Nxb, VH, H., 1981. Huyền thoại về nạn hồng thuỷ và nguồn gốc tộc người (Đặng Nghiêm Vạn), Nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam, t1, Nxb VHDT, H., 1997, tr 803 – 863. Huyền thoại Mạ - K’Ho (Lê Phong), Một số vấn đề văn học Việt Nam, Nxb. Văn học, H., tr 15 – 36. Panchatantra (Huỳnh Ngọc Trảng… dịch), Nxb. Trẻ, Tp. HCM, 1987. Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á (Bích Hà), Nxb. GD, H, 1998. Thần thoại Đông Nam Á (Trương Sĩ Hùng biên soạn), Hội Văn Nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng, 1988. Truyện cổ Thái Lan (Ngô Văn Doanh… tuyển soạn), Nxb. Trẻ, Tp. HCM 1990. Truyện cổ tích Mạ - K’Ho qua tư liệu điền dã ở Lâm Đồng (Lê Phong), giữ gìn và phát huy tài sản văn hoá các dân tộc ở Đông Nam Bộ, Nxb. KHXH, H., 1998, tr 270 – 296. Truyện trạng Đông Nam Á (Trương Sĩ Hùng biên soạn), Sở VHTT Gia Lai – Kontum, 1987. Văn học Ấn Độ, Lào, Campuchia (Lưu Đức Trung…), Nxb. GD, H., 1989. Vặn học các nước Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á xuất bản, H., 1983. Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hoá dân gian (Chu Xuân Diên), Tập san Khoa học, ĐHTH Tp. HCM, số 1/ 1994, tr 45 – 55. Về các nền văn học dân tộc ở Đông Nam Á (Nguyễn Tấn Đắc), Tạp chí VH, H., số 8/1995, tr 2 – 4.
  7. Vài hình ảnh trăng và Tết trung thu (st): Tường Vinh Phi Long Trung thu ở chùa Bình An - Phi Long http://www.vietastro.org/forum/showthread.php?t=901
  8. Trích: Việt Nhân NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CÁC NGÀY TẾT, LỄ, HỘI 3.- Trung Thu Trung Thu là Tết sống thứ ba hoàn toàn có tính cách đàn bà. Trước hết đây là lễ đặc biệt thuộc mặt trăng. Vì thế không mừng đúng vào ngày thu phân là 21 tháng 9 dương lịch, mà lại mừng vào ngày 15 tháng 8, thường là cuối tháng 9. Cứ kể ra thì lễ nào cũng gọi được là thuộc mặt trăng vì theo lịch Viễn Đông thì tháng tính theo mặt trăng biểu thị nguyên lý mẹ. Nhưng lễ này còn có thêm hai nét nữa nói lên nguyên lý mẹ là mừng về đêm, nên có tính chất “ lãng mạn “ nhất (it is undoubtedly the most romantic. Festivals 79). Hai nữa là việc tế tự thì do các bà chủ sự. Tai sao lại thuộc các bà? Lý do sâu xa là vì mùa gặt là công các bà. Thời sơ nguyên đàn ông đi săn, đàn bà ở nhà nghĩ ra việc gieo, mà đã gieo thì rồi có gặt, cho nên mọi tết đều có tính chất mẹ hơn cha. Nhưng vì hậu quả của gặt kéo dài hơn nên có lẽ vì vậy mà tết Trung Thu là một tết mừng mùa gặt, mùa tích trữ (thu tàng) thóc lúa nơi buồng các bà, nên là lễ thuộc các bà hơn và vì thế cũng phát xuất bởi vùng Viêm Việt nhất là Phúc Kiến, theo như các sách cổ nói: old texts tell us that the midautum festival originated in Fukien Province. (Festivals 100) Không hiểu vì từ lúc nào đó thì có một lễ khác gọi là lễ trùng cửu, tuy sau này sáp nhập với Tết Trung Thu nhưng ban đầu là hai Tết khác nhau. Tết Trung Thu hoàn toàn vui vẻ còn trùng cửu thì có mang sắc thái lo âu, xem ra là riêng của dân Việt một dân có nhiều điểm giống với các dân Thái. The festival of “ Double Nine “ belonged to an East Chinese ethnic group, the Yueh. These Yueh were in many respects similar to the Tai. (Festivals 111) Có lẽ vì sự bành trướng của du mục Bắc Phương nên nhiều lần Viêm Việt phải bỏ tất cả để tháo chạy nên lễ trùng cửu tỏ ý lo âu chăng. Ngoài những lý lẽ trên thì ta còn thêm được một chiều kích siêu hình của tết Trung Thu, tức là sự trùng hợp với các số Lạc Thư mà Lạc Thư biểu thị một nền triết đạt quan như đã trình bày trong quyển Dịch Kinh Linh Thể (bài cuối). Thế mà Lạc Thư có những con số hợp với Tết Trung Thu. Vì Lạc Thư gồm 8 lô với một trung cung, và cộng chiều nào cũng được 15, như vậy là có sự trùng hợp với ý cùng của Tết là ăn mừng mùa màng thu gặt thì Lạc Thư cũng là triết đạt quan thâu thái, vì là biểu hiện nguyên lý mẹ đối với nhà Hà Đồ biểu hiện nguyên lý cha. Nguồn: http://www.anviettoancau.net
  9. Nói đến Tết Trung Thu th ai ai cũng biết, nhưng không hẵn ai cũng biết về nguồn gốc c a Tết Trung Thu , Hanhnguyen xin mời mọi người cùng đọc và biết về nguồn gốc c a Tết Trung Thu mà Mình vừa sưu tầm được : Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích. Tết Trung Thu đ có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung Hoa, vào đầu thế kỷ thứ 8. Nguồn gốc Tết Trung Thu t i Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển "Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ" cho rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu b t đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu trông trăng nên còn gọi là Tết Trông Trăng. Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu đ ợc ông Phan Kế Bính diễn tả trong "VN Phong tục": "ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp". Ý nghĩa Tết Trung Thu c a người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với Tết Trung Thu c a người Trung Hoa. Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khắng khít thêm. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. iệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình". Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này. (st) Nguồn:http://www.vietnam.tu-freiberg.de
  10. Tết Trung thu bắt nguồn từ Trung Hoa? Trước tiên xin được nhắc lại với bạn đọc rằng từ Tết là biến âm của từ ‘Tiết’ trong ‘Tiết khí’ mà ra. Ban đầu là dùng để chỉ những lễ đặc biệt của người dân Việt xưa, những dịp này nương theo mùa vụ, còn mùa vụ lại nương theo thời tiết mà thành. Lớn nhất trong năm là Tết Nguyên đán (Xuân) tháng Giêng, hay dân gian còn gọi là Tết cả. Rồi đến Tết Trung thu (Thu) rằm tháng Tám, Tết Đoan ngọ (Hạ) mồng năm tháng Năm, Tết Hàn thực mồng ba tháng Ba…. Thứ hai, Tết Trung thu là của người Việt, tất nhiên không chỉ người Việt, cho dù về sau và hiện nay, các sản phẩm văn hóa gắn liền với sự kiện này đều xuất xứ từ văn hóa Trung Hoa như múa lân (trong Nam)/ múa sư tử (ngoài Bắc), đèn lồng, các câu chuyện về thỏ ngọc và chị Hằng…. khiến gây ra một ngộ nhận rằng tục ăn Tết Trung thu của người Việt bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa. Song đấy là một quy kết nhược tiểu hồ đồ. Người Việt ăn cái Tết lớn nhất của mình vào tháng Giêng và lấy tháng này (tháng Dần) làm tháng mở đầu trong năm âm dương hợp lịch của mình theo người Hoa, điều ấy thì đã hẳn. Song vấn đề được đặt ra ở đây là trước giai đoạn bắt đầu Hoa hóa trong việc ăn Tết ấy thì người Việt ăn Tết hay tổ chức lễ hội chính của mình vào thời gian nào trong năm? Xin thưa, ấy là mùa Thu. Tết của người Việt cổ. Các nhà khảo cổ học đã tìm ra và chứng minh được rằng, Lễ hội lớn nhất của người Việt cổ là vào mùa Thu. Bằng cớ là trên mặt trống đồng in khắc hình ảnh lễ hội, hẳn phải là lớn nhất hoặc/và tiêu biểu nhất nên mới được người xưa chọn khắc lên mặt trống, có thấy hình bông lau, là thứ chỉ nở vào mùa thu. Ở một số nơi tại Đồng bằng Bắc Bộ còn giữ tục ăn Tết Cơm Mới mồng mười tháng Mười, và cả Tết Trùng cửu mồng chín tháng Chín. Nhà văn Vũ Bằng có đề cập tới 2 tết này cùng với hàng loạt tết khác trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình ‘Thương nhớ mười hai’, hồi ức của một nhà văn di cư về đặc sản và những nét văn hóa Bắc Việt men theo 12 tháng. Mong mỏi quanh năm của người dân Việt cũng là nông dân Việt thời xưa thể hiện trong ca dao là ‘Bao giờ cho đến tháng mười’, cũng tức là thời điểm thu hoạch vụ mùa, vụ chính trong năm, bắt đầu một thời gian có ăn và được ăn no, may ra được mùa thì còn là no ấm cho cả năm đó. Trăng trong đời sống người Việt. Người Việt xưa sống bằng nghề nông, thứ nghề phụ thuộc vào thiên nhiên còn hơn là vào con người. Họ phải “Trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm…” trước khi trông vào bản thân mình: “Trông cho chân cứng đá mềm’, chỉ ước ao sao cho “Trời yên bể lặng…” rồi “… mới yên tấm lòng” để mà tính chuyện làm ăn. Và trong hàng loạt cái trông đó thì “Trông trời” là việc đầu tiên. Tất nhiên là phải kết hợp cả việc quan sát trời, trăng, sao, mây mà đoán định thời gian và thời tiết. Song họ quan sát kỹ càng nhất vẫn là mặt trăng. Người Việt có hẳn một bài ca dao tả hình dáng của trăng qua từng ngày một trong tháng: “Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa. mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm, mồng năm…., mồng sáu thật trăng……”. Rõ ràng trăng là một thứ lịch treo trên trời với người Việt. Ở Việt Nam trước đây, học sinh lớp ba đã được học bài ca dao này. Sau cải cách giáo dục thì nó không còn nằm trong sách giáo khoa nữa nên bây giờ trẻ con thành phố ít em biết. Nhưng ở nông thôn thì chắc vẫn vậy. Cách đây vài năm lúc còn ở Việt Nam, có lần vô tình một cậu sinh viên nói với tôi rằng: “Trong tất cả các bài thơ và ca dao, em chỉ còn nhớ mỗi bài ‘Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa…’ vì ngày bé phải thuộc bài này để còn đi chăn trâu.” Nông lịch. Thứ lịch mà người Việt dùng là nông lịch, quen được gọi là âm lịch, thực chất là lịch mặt trăng. Từ ‘tháng’ trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ ‘trăng’, cũng như ‘month’ có gốc từ ‘moon’. Trong cái tháng theo lịch mặt trăng đó thì đến bây giờ người Việt vẫn giữ lệ thờ cúng vào hai ngày sóc, vọng tức là ngày đầu tháng và giữa tháng, một ngày mặt trăng mờ nhất và một ngày mặt trăng tỏ nhất, trong quan sát của người trần gian. Mùa thu lại là lúc tiết trời mát mẻ, khí hậu dễ chịu nhất so với những khắc nghiệt quanh năm. Ngày rằm tháng Tám là khi trăng sáng nhất và đẹp nhất mà việc nông lại đang lúc nhàn. Lẽ nào một tộc người ưa Lễ hội và thường trực ngắm trăng không chỉ để lo công việc làm ăn mà còn là thưởng ngoạn lại có thể bỏ qua thời khắc này mà không tổ chức một cái gì đó, phải đợi cho đến khi người láng giềng phương Bắc, không mấy khi thân thiện, mách nước dùm? Trăng trong văn hóa Việt Nam và Trung Hoa. Hiện tượng thờ mặt trăng trước cũng rất phổ biến với người Việt, nhất là những vùng ven biển, nơi cuộc sống của cư dân theo nhịp thủy triều. Giờ còn lưu lại ít nhất là câu chuyện thần thoại về thần Độc Cước cùng đền thờ ngài ở Thanh Hóa và Lễ hội trọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Các nhà nghiên cứu cho rằng câu chuyện đứa bé còn có nửa thân hình trong thần Độc Cước là hình ảnh ám dụ của mặt trăng khi khuyết nhiều hơn khi tròn cũng như sừng trâu trong Hội trọi trâu chính là hình trăng khuyết (lưỡi liềm). Sau cùng, quan niệm về giới của mặt trăng với người Việt cổ là khác với người Hoa. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã lưu ý tới sự khác biệt về văn hóa giữa các sắc dân căn cứ vào quan niệm của từng tộc người về giới tính của các thiên thể như mặt trăng, mặt trời, sao… Ở Việt Nam cũng đã có hai giáo sư là Kim Định (trong Nam) và Trần Quốc Vượng (ngoài Bắc) cùng dựa vào văn hóa dân gian mà cho rằng mặt trăng trong văn hóa Việt mang ‘giống đực’ còn trong văn hóa Trung Hoa là ‘giống cái’. Người Việt nói: ‘Ông trăng mà lấy bà trời’, hay bài đồng giao: ‘Ông giẳng, ông giăng (trăng). Xuống chơi với cháu. Có bầu có bạn…’ hoặc câu chuyện về: ‘Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời…’. Trong khi văn hóa Trung Hoa là câu chuyện Ông Tơ Bà Nguyệt và Hằng Nga….. Tất cả những điều trên chỉ để nói rằng Tết Trung thu của người Việt đã có từ xưa, có chăng là sau khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, khi tự nguyện, lúc cưỡng bức, suốt một thời gian dài trong lịch sử mà người Việt có du nhập một số tập tục cùng những thành tố văn hóa của người Hoa vừa để làm phong phú thêm nhưng cũng có khi là thay thế hẳn những tập tục khác của mình. Thế cho nên đến bây giờ, nhìn dưới con mắt của người phương Tây chẳng hạn, thì Tết Trung thu của người Việt cũng chẳng khác gì với của người Hoa, có khi còn không phong phú bằng. Nguồn: http://www.radioaustralia.net.au
  11. Cội nguồn Tết trung thu Lý Anh (Trích Thời Báo Toronto số 1424 Sept. 22/2007) Tết Trung Thu vào rằm tháng Tám âm lịch là ngày tết truyền thống của một số quốc gia ở Châu Á như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Tính theo âm lich, mỗi năm có 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi mùa có 3 tháng. Tháng 8 là tháng thứ 2 của mùa thu, ngày giữa tháng là Rằm tháng Tám được gọi là Tết Trung Thu. Hàng năm, người dân các nước Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bổn đều làm bánh để ăn Tết Trung Thu, thưởng thức trăng tròn và đoàn tụ với người thân trong gia đình. Bánh Trung Thu của người Việt và người Hoa cùng một loai. Đại Hàn và Nhật Bản làm loại bánh khác. Cội nguồn Tết Trung Thu Theo truyền thuyết, Tết Trung Thu có từ vài ba ngàn năm nay. Người Trung Hoa thời cổ đại sống bằng nghề chăn nuôi và trồng trọt. Suốt mùa hè trời nắng ấm, người dân chăn nuôi và săn bắn dễ dàng, đầu tháng 8 lại thu hoạch nông sản phẩm, đến rằm tháng 8 bầu trời xanh biếc, trăng rằm trong sáng, cả nhà vui vẻ đoàn tụ, tượng trưng cho " trời và đất hợp nhất", nên mới có Tết Trung Thu. Thời đó, Tết Trung Thu đơn thuần là ngày lễ cúng thần nông, chỉ có cơm rượu, không có các loại bánh như ngày nay. Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ thời Xuân Thu. Tuy vậy, trước đờ Đường văn tự chưa phát triển, sử sách viết về Tết Trung Thu không nhiều lắm. Từ đời Đường trở đi, nhiều nhà thơ hoặc văn nhân viết những bài thơ hay tác phẩm về Tết Trung Thu, người đời sau mới biết được truyền thuyết và tập tục của nó. Từ đó Tết Trung Thu trở thành ngày lễ cố định hàng năm. Tương truyền Đường Thái Tông nằm chiêm bao bay lên cung trăng, được chị Hằng tặng cho "Nghê Thường vũ y khúc". Tết Trung Thu mới thịnh hành trong dân gian. Các triều đại sau Đường như Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến ngày nay. Tết Trung Thu trở thành ngày Tết của dân tộc Trung Hoa. Tết Trung Thu lấy mặt trăng làm chủ đề, nên có nhiều truyền thuyết về mặt trăng. Ngày nay các phi hành gia từng đặt chân lên mặt trăng, thấy rõ cảnh hoang dã ớ chốn đó, nhưng truyền thuyết về mặt trăng vẫn in đậm vào tâm khảm ngưởi Trung Hoa hay người Việt Nam, người Đại Hàn và người Nhật Bản. Trong đó chuyện " Hằng Nga lên cung Trăng" được nhiều người thích nhất. Tương truyền rằng thời cổ đại xa xưa có 10 mặt trời xuất hiện, mang tai họa đến cho dân gian. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết được tin đó vội sai đại thần Hậu Nghệ xuống phàm, trừ hại cho dân. Hậu Nghệ mang theo bà vợ xinh đẹp là Hằng Nga giáng trần, dùng nỏ thần bắn rơi chín mặt trời. Ngọc Hoàng giận Hậu Nghệ bắn rơi chính người con của ông, không cho trở về thiên đình. Tình cờ Hậu Nghệ được Vương Mẫu cho một lọ thuốc trường sinh bất tử, uống vào có thể bay lên thiên đình. Một hôm nhân lúc Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sinh bất tử nuốt vào bụng, thế là biến thành tiên nữ, cứ thế bay lên lẩn trốn trên cung trăng để tránh sự chê bai của các tiên nữ trên trời. Nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Lý Thương Ẩn đã làm bài thơ tả Hằng Nga sau khi ăn trộm thuốc tiên phải trốn trên cung trăng nói lên tâm trạng của những kẻ làm những việc sai trái lúc nào cũng tự trách mình Hằng Nga Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm Trường hà tiệm lạc, Hiểu tính trầm Hằng Nga ưng hối thâu linh dược Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm Dịch nghĩa Ánh đuốc soi vào tấm bình phong Vân Mẫu Sông Ngân gần lặn, sao Mai cũng chìm Hằng Nga hối hận vì uống trộm thuốc tiên Biển trời xanh biếc đêm đêm phiền muộn. Dịch thơ Bình phong Vân Mẫu ánh đuốc soi Sông Ngân gần lặn, sao Mai rơi Hằng Nga hối hận trộm thuốc uống Biển trời xanh lòng thêm nhoi nhói Đối với người Việt Nam thời cổ đại, Tết Trung Thu được diễn tả trong tục lệ : "Ban ngày làm cỗ cúng tiên, tối đến bày cỗ ngắm chị Hằng". Lễ vật hàng đầu là bánh mặt trăng, ngày nay gọi là bánh Trung Thu, và nhiều thứ bánh nhuộm các màu sắc xanh đỏ tím vàng cũng như hoa quả. Con gái thị thành thì thi tài gọt đu đủ thành các loại hoa, nặn bột làm con giống: Trâu bò, lợn gà, tôm cá trông thật là bắt mắt. Theo sử sách, Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, từng được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, là một trong những Trống Đồng Đông Sơn có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất. Tết Trung Thu cũng chính thức được tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Theo "Tang Thương Ngẫu Lục", tác phẩm chữ Hán của 2 nhà văn Việt Nam Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thời vua Lê chúa Trịnh, Tết Trung Thu được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ chúa. P.Giran, học giả người Pháp cũng từng viết trong " Magie et Religions Annamites, Paris: Challamet, 1912" về Tết Trung Thu. Theo ông, rằm tháng 8 mặt trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội mừng trăng. Theo phong tục Việt Nam, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bầy cỗ cho các con để đón trăng rằm. Các vị mua và làm đủ các loại đèn lồng thắp bằng nến treo trong nhà hoặc cho các con mang đi rước đèn cùng bè bạn. Cỗ mừng Tết Trung Thu gồm : bánh Trung Thu, các loại bánh kẹo khác, trái cây... nhiều hay ít tùy hoàn cảnh của mỗi gia đình. Trong văn học nghệ thuật có nhiều tác phẩm thơ ca, hội họa, âm nhạc miêu tả Tết Trung Thu, trong đó có bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu : Có bầu có bạn can chi tủi Cùng gió cùng mây thế mới vui Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười Người Đại Hàn gọi Tết Trung Thu là ngày hội Chosuk. Trong dịp vui mừng của ngày hội này, người dân Đại Hàn thường bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thượng Đế cho họ được mùa, nên đã nghỉ ngơi vui chơi trong 3 ngày. Trước đây giao thông chưa thuận tiện, vào ngày hội Chosuk, những người buôn bán làm ăn ở thành phố thường về quê nhà thăm bà con họ hàng thân thích, những người sống ở quê nhà thì tổ chức hội hè như người Việt chúng ta đón mừng ngày Tết Âm Lịch. Trước ngày hội Chosuk một tháng, các công ty thương mại lớn ở Đại Hàn thường giảm giá hàng cho khách mua về làm lễ vật tặng nhau. Trong ngày hội Chosuk, người Đại Hàn ăn loại bánh làm bằng bột nếp và đậu xanh trộn với đường, họ gọi là "songpyon". Dịp này thanh thiếu nhi Đại Hàn thích nhẩy bài "Kang Kang Su Vol Lae" Rằm tháng 8 người Nhật Bản tổ chức ngày hội Hounen Odori (Hounen có nghĩa là hạnh phúc và giầu có, Odori có nghĩa là nhẩy múa). Dịp này họ thường ra sau vườn hoặc ngồi trước cửa ngắm trăng và ăn mừng ngày hội Hounen Odori bằng loại bánh hình cái gối làm bằng gạo (rice dumplins) người Nhật gọi là "Tsukimi dango" Bánh Trung Thu Nói đến Tết Trung Thu không thể không nói đến bánh Trung Thu. Tại sao rằm tháng 8 lại có tập tục làm bánh Trung Thu tế lễ hoặc thưởng thức? Bánh Trung Thu bắt nguồn từ loại bánh bột mì thời cổ đại. Cách đây trên 3,000 năm, người dân vùng Triết Giang làm loại bánh ngoài vỏ là bột mì, phía trong là nhân đường để tế lễ. Người thời Hán đưa hạt đào, hạt vừng và đậu phụng từ Tây Vực về, thế là xuất hiện loại bánh ngon hơn, tuy mặt ngoài vẫn bột mì nhưng nhân làm bằng hạt đào, mè hoặc đậu phụng. Về sau, bánh Trung Thu đều được cải tiến qua các triều đại. Đầu thời Minh sử sách có ghi " Mười lăm tháng Tám là Trung Thu" người dân trao tặng bánh Trung Thu để chúc nhau đoàn tụ và có cuộc sống bình yên. Còn có câu chuyện khác là Chu Nguyên Chương cuối thời Nguyên lợi dụng phong tục Tết Trung Thu trao bánh cho nhau, sai quân nhét vào bánh mảnh giấy ghi ngày khởi nghĩa để thống nhất hành động, kết quả tiêu diệt được nhà Nguyên, dựng nên nhà Minh. Từ đó bánh Trung Thu ngoài phong tục còn mang thêm ý nghĩ chính trị. Ngoài ra bánh Trung Thu còn tượng trưng cho đoàn viên. Phàm là con cháu Tam Hoàng Ngũ Đế (vua Trung Hoa thời cổ đại) dù xa quê hương đến mấy, khi nhìn và thưởng thức bánh Trung Thu cũng không sao quên được cội nguồn và người thân. Từ ngày có Tết Trung Thu đến nay, bánh Trung Thu được phát triển theo từng giai đọan lịch sử. Bởi vậy người Trung Hoa có câu : Niên niên Trung Thu minh nguyệt dạ Tuế tuế nguyệt bính hữu bất đồng (Năm nào Trung Thu trăng cũng sáng Tuổi nào cái bánh cũng khác nhau) Lý Anh (Toronto 2007) Nguồn:http://tvvn.org/f21/ta-t-trung-thu-ngua-n-ga-c-va-nghae-7441/ (Còn tiếp)
  12. Nhân nói chuyện "ông Trời" trích một bài Việt báo đã đưa tin đọc thư giãn làm vui: "Ông Trời có thật? Thứ bảy, 30 Tháng tám 2008, 18:26 GMT+7 Một người đàn ông Trung Quốc đã thề trước Trời đất rằng anh ta không vay tiền của hàng xóm và chỉ một phút sau, kẻ điêu toa đã bị sét đánh! Thế mới biết, Ông Trời cũng có mắt. Anh chàng tên là Tô này thề trước đám đông láng giềng ở thành phố Phúc Thanh rằng mình chẳng vay tiền ai. Trong khi đó, anh Hoàng ở nhà bên lại khẳng định Tô vay mình 500 tệ từ 3 năm trước. "Cách đây 3 năm, anh ta vay tôi 500 tệ nói là muốn mua quà tặng đám cưới một người bạn, nhưng bây giờ thì anh ta lại cãi bay cãi biến," Hoàng ấm ức phân trần với hàng xóm trước cửa nhà Tô. "Tôi đã nói rồi, nếu anh Tô có gan thề với Trời đất rằng anh ta không vay tiền tôi thì tôi sẽ bỏ qua món nợ này." Nghe xong câu này, anh chàng tham tiền lập tức tuyên bố thề thốt rằng không vay bạn tiền. Nhưng nói vừa dứt câu, một tia chớp lóe sáng và sét đánh trúng anh ta. Tô được đưa tới bệnh viện cấp cứu ngay lập tức. Các bác sĩ cũng xác nhận anh chàng đã bị sét đánh! Hiện Tô đang nằm tại khoa hồi sức cấp cứu." Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Ong-Troi-co-that/55200970/167/ Sau lần lỡ miệng này, chắc chắn không bao giờ Tô dám mạnh miệng thề thốt những điều điêu trá.
  13. Rin86 nhắc nhở rất đúng về 2 khái niệm "mặt trời" và "trời" (ông trời) trong ngôn ngữ của người Việt. Một là danh từ từ chỉ sự vật hiện tượng (mặt trời = Sun) và một là đại từ "ông trời" chỉ một nhân vật quyền năng vô hình (God).' Thần thoại Trung Quốc có câu chuyện Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời (tổng số 10 mặt trời) khác với sự tích 9 mặt trời trong văn hóa Mường, người H'mông cổ (là câu chuyện mà Rin86 muốn nhắc đến???). Nhân ngày rằm trung thu, post để ACE đọc cho vui. Truyện Hậu Nghệ: Thời cổ xưa, trên Trời có mười Mặt Trời cùng xuất hiện trên bầu Trời, ánh sáng Mặt Trời rực rỡ đã đốt cháy đất đai, đồng ruộng đều khô héo, mọi người nóng đến không thở được, ngã xuống đất hôn mê bất tỉnh. Vì thời tiết quá nóng nực, một số yêu quái mãnh thú cũng từ sông ngòi khô cạn và rừng sâu ẩm thấp chạy ra, làm hại loài người. Thảm hoạ của loài người đã làm kinh động Thiên Đế, Thiên Đế ra lệnh cho thần cung Hậu Nghệ xuống trần gian giúp loài người thoát khỏi cảnh đau khổ. Hậu Nghệ mang theo một chiếc cung màu đỏ, một túi tên màu trắng cho Thiên Đế ban cho, và mang theo người vợ xinh đẹp của mình là Hằng Nga cùng xuống trần gian. Sai khi đến trần gian, Hậu Nghệ trước tiên khuyên mười Mặt Trời mỗi ngày lần lượt thay phiên nhau để một Mặt Trời ra, như vậy vừa mang lại ấm áp cho Trái Đất, mang lại ánh sáng cho loài người, lại tránh Mặt đất phơi quá nóng, nhưng các Mặt Trời đều không nghe lời Hậu Nghệ. Hậu Nghệ bị chọc tức đã bắt đầu cuộc chiến đấu bắn Mặt Trời. Anh lấy chiếc cung đỏ từ trên vai mình xuống, rút mũi tên trắng, bắn vào các Mặt Trời kiêu ngạo và ngang ngược, không bao lâu, mười Mặt Trời có chín Mặt Trời bị bắn rơi. Trên Trời chỉ còn một Mặt Trời, loài người đã có thể an cư lạc nghiệp, bởi vậy họ rất cảm ơn sự giúp đỡ của Hậu Nghệ. Công lao của Hậu Nghệ đã bị các Thiên thần khác ghen tị, họ đến bên Thiên Đế gièm pha, khiến Thiên Đế xa lánh Hậu Nghệ. Cuối cùng Thiên Đế cách chức Hậu Nghệ và vợ anh Hằng Nga xuống trần gian, không cho phép họ trở về Trời. Hậu Nghệ và Hằng Nga bị oan ức đành phải ẩn cư tại trần gian, dựa vào nghề săn bắn của Hậu Nghệ đề sinh sống, cuộc sống rất nghèo khổ. Theo đà thời gian trôi qua, Hậu Nghệ cảm thấy có lỗi với vợ bị mình liên luỵ nên bị đầy xuống trần gian. Anh nghe nói thần tiên Tây Vương Mẫu trên núi Côn Luân có một loại thuốc thần, uống loại thuốc thần này, người có thể lên Trời. Do vậy, anh trèo đèo lội suối, trải qua biết bao gian khổ, đến núi Côn Luân xin Tây Vương Mẫu cho thuốc thần. Điều đáng tiếc là, thuốc thần của Tây Vương Mẫu chỉ đủ dùng cho một người. Hậu Nghệ vừa không nỡ bỏ lại người vợ yêu dấu một mình lên Trời, cũng không muốn một mình vợ lên Trời bỏ lại mình ở trần gian. Do đó anh mang thuốc thần về nhà rồi giấu đi. Nhưng Hằng Nga lại sống không quen với cuộc sống nghèo khổ, nhân lúc Hậu Nghệ không ở nhà, Hằng Nga tìm thấy thuốc thần, liền một mình uống thuốc thần. Bỗng chốc, Hằng Nga thấy người mình ngày càng nhẹ, từ từ bay lên Trời, cuối cùng bay đến Mặt Trăng, ở vào cung Quảng Hàn. sau khi Hậu Nghệ phát hiện vợ bỏ mình từ lên Trời, rất đau khổ, nhưng lại không thể dùng tên thần phương hại Hằng Nga, đành phải chia tay với Hằng Nga. Hậu Nghệ sống lẻ loi một mình, anh tiếp tục đi săn bắn để sinh sống, đồng thời dạy học trò bắn tên, trong số học trò anh có một người tên là Phùng Mông, tiến bộ rất nhanh, không bao lâu đã rất giỏi bắn tên. Nhưng Phùng Mông nghĩ, nếu Hậu Nghệ còn sống thì mình không thể nhất thiên hạ được, bởi vậy có một lần nhân thầy uống rượu say, đã từ đằng sau bắn chết Hậu Nghệ. Lại nói Hằng Nga tuy đã lên Mặt Trăng, nhưng trên đó chỉ có chú thỏ giã thuốc và một ông lão đốn củi. Hằng Nga nhớ lại quãng thời gian tốt đẹp sống chung với chồng và tình cảm ôn hoà giữa trần gian, cảm thấy rất cô độc và lạnh lùng vắng vẻ, bởi vậy Hằng Nga cả ngày buồn bã ngồi trong cung Trăng. Thần thoại của người H'mong (Việt Nam) "Thần thoại HMông kể rằng: Ngày xưa, bỗng đâu mọc về chín mặt trời, tám mặt trăng, cỏ cây muôn loài đều bị thiêu đốt. Đôi trai gái Giàng Dua và Giàng Dự bèn “đốn cây cổ thụ của trời” làm tên nỏ bắn mặt trăng, mặt trời: Mặt trời thò ra chín cái, bắn tất Mặt trăng ló ra tám cái, bắn hết Chỉ sót lại một đôi mặt trăng và mặt trời út. Mặt trăng và mặt trời còn sót sợ quá trốn mất làm cho thế giới tối đen bảy năm liền. Sau, nhờ gà trống gáy gọi mặt trăng, mặt trời mới trở về; từ đó có ngày đêm, muôn loài sinh sôi nảy nở, đường trai gái yêu nhau cũng sinh ra từ đấy: Lúc ấy mới có ngày có đêm Gái Giàng Dua, trai Giàng Dự vội lấy quần áo mặc Người nào biết lớn biết nhỏ thì nói rằng Đó là gái Giàng Dua, trai Giàng Dự mặc quần áo." Trường ca "Đẻ đất, đất đẻ nước" của người Mường nói đến: " ông Cuông Minh Vàng Rậm, nàng Ả Sấm Trời khai mỏ đồng: Đúc được chín mặt trời, Đúc được mười hai mặt sáng (mặt trăng), Mặt trời mọc lên ràng rạng, Mặt sáng mọc lên hừng hừng, ... Nắng nhiều, nắng quá lắm, đến nỗi Tìm nguồn chẳng ra nước mà uống, Làm nương chẳng nên lúa nên màu, ... Lúc ấy có họ nhà Ngao, vốn là thần nỏ: Tay trái vít dây nỏ lăm lăm, Tay phải lắp tên bương vòm vòm, ... Tên bắn sang, mặt sáng rùng mình, Tên bắn trúng, mặt trời rơi rơi, Rụng mặt trời, trời tối như bưng, Tối như vào thung xanh hang đá, ... Bắn rụng hết tám, ai là người đứng ra kêu cho mặt trời duy nhất còn lại lên khỏi chân trời? Ai giải cho được nỗi sợ miên man, ngấm ngầm của người thượng cổ, chẳng biết rồi đây mặt trời có trở lại đuổi đêm tối đi cho con người có được một ngày mai hay chăng? Quyền lực huyền bí của con gà ải (gà rừng) chính là đó: Nó gáy một tiếng ở đằng đông, Gáy vồng sang phía đằng tây, Mặt trời nghe tiếng con gà ải, Mặt trời lên rải nắng vàng, …" Văn hóa Việt thật nhiệm màu. Càng kỳ bí càng thấy hấp dẫn mỗi khi "lấp lánh" tỏa sáng.
  14. 3.000 cây đổ đồng loạt một cách bí ẩn (Ảnh minh họa) (Dân trí) - Gần 3.000 cây tại một khu rừng cộng đồng ở quận Banke thuộc khu vực phía tây Nepal đã bất ngờ đổ xuống trong vòng 10 phút. Người dân địa phương tin rằng chỉ có sức mạnh siêu nhiên mới làm được việc này. Trang web eKantipur.com đưa tin khoảng 3.000 cây tại rừng Shrikrishna, cách thủ đô Kathmandu khoảng 360km về phía tây, đã bất ngờ đổ xuống hôm thứ 2 tuần trước. Người dân địa phương cho hay, khu vực đã xuất hiện những vết nứt rất sâu. “Không có cơn dông hay bão nào xảy ra trong ngày hôm đó”, Tilak Bahadur Chand, một người dân địa phương nói. Không thể giải thích hiện tượng kỳ bí, người dân đã viện tới giả thuyết là các lực lượng siêu nhiên. Họ bắt đầu bàn tán xôn xao rằng sự việc là một điềm gở và họ đang lo sợ một điều gì đó tồi tệ sắp xảy ra. Tin tức về vụ cây đổ đã nhanh chóng lan đi nhanh chóng và rất đông người dân từ các khu vực lân cận đã ùn ùn kéo đến khu vực để tận mắt chứng kiến hiện tượng bí ẩn. Người dân địa phương cho biết họ đã ngay lập tức báo cho Văn phòng bảo vệ rừng (DFO) về vụ việc. Nhưng họ cho rằng DFO đã không hành động gì để tìm ra sự thật. Hemlal Aryal, quan chức bảo vệ rừng của quận, hứa sẽ sớm tới hiện trường để tìm hiểu vụ việc. Minh Trí Theo Xinhua Nguồn: http://dantri.com.vn/chuyenla/3000-cay-do-...08/9/250599.vip Thử dùng LVĐT để tìm câu hỏi xem sao? 21h17p ngày 13/09/2008 - Quẻ Thương Lưu Niên. Sự thay đổi địa chấn liên quan đến mạch nước ngầm (dòng nham thạch??) đã âm thầm diễn ra từ rất lâu mà không được phát hiện dẫn đến "tai nạn" (Lưu Niên) cho rừng cây (Thương). Việc này gây xúc cảm tiếc nuối dai dẳng chưa thể dứt trong lòng người dân. Người ta sẽ tìm ra nguyên nhân nhưng cần phải một thời gian, chưa thể có ngay câu trả lời. Phải chờ kết quả xem.
  15. Giải đáp hiện tượng 'bàn xoay' Nhiều người đặt tay lên mặt một chiếc mâm. Đọc thần chú và nó sẽ... tự quay. Trò chơi "kỳ lạ" này có ở miền Nam nước ta, được nhiều người cho là thần bí. Các nhà khoa học đã thí nghiệm và kết luận mâm quay là do... lực cơ học, chứ chẳng phải do tác dụng thần bí nào cả. Hiện tượng mâm quay Trò chơi dân gian này đã xuất hiện ở nước ta từ hàng trăm năm trước, được lưu truyền chủ yếu ở một số tỉnh phía Nam (Bình Định, Lâm Đồng, Đà Nẵng..). Mâm quay có cấu tạo hình tròn, được làm bằng gỗ, đồng, nhôm hoặc thuỷ tinh. Mâm được thiết kế đặt trên một ổ trục để giảm ma sát khi quay. Người tham gia chơi đứng quanh, đặt tay lên mâm và "ra lệnh" liên tục trong đầu: "Hãy quay"... Quay thuận hoặc ngược chiều kim đồng hồ là do người chơi quy ước với nhau khi bắt đầu thực hành thí nghiệm. Người chơi đọc liên tục và khi thấy mâm bắt đầu quay (hoặc cảm giác mâm có xu hướng quay) thì nương theo chiều quay của mâm mà đi theo, không được cản lại. Khi mâm đã quay rồi, muốn dừng lại thì mọi người cùng đọc: "hãy dừng lại". Đọc liên tục cho đến khi mâm dừng hẳn lại mới nhấc tay ra. Như vậy, khi mọi người đặt tay lên mâm và cùng đọc khẩu lệnh thì mâm sẽ vâng lời và quay (hay dừng) theo đúng câu thần chú mọi người đang đọc. Vậy thực sự mâm quay có hiểu được ý nghĩ của con người không? Cuộc khảo nghiệm mâm quay Để tìm lời giải đáp, Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) đã lập một đoàn công tác để khảo sát, tìm hiểu bản chất của hiện tượng này. Theo nhận định ban đầu của Hội đồng khoa học UIA, mâm có thể quay được khi và chỉ khi có một lực nào đó tác động vào mâm tạo ra mômen quay - lực này nằm trong mặt phẳng của mâm, có phương vuông góc với bán kính quay (tức là tiếp tuyến với đường tròn quay). Có 4 nguyên nhân có thể tạo ra mô men này, đó là: - Tác động của điện từ trường, - Tác động của lực sinh học, - Tác động của lực cơ học và - Tác động của sức mạnh siêu hình hay cõi giới tâm linh. Đoàn khảo sát chọn địa điểm khá nổi tiếng về hiện tượng mâm quay, là nhà hàng Phong Lan cạnh chùa Tàu, Đà Lạt, nơi báo chí nói nhiều trong những năm qua. Chủ nhà hàng dành riêng một căn phòng để chuyên biểu diễn tiết mục này. Chiếc mâm quay làm bằng gỗ, đặt trên một ổ trục quay được thiết kế khá công phu. Chủ nhà giới thiệu đây là chiếc mâm "gia truyền", có từ thời ông nội, đồng thời giới thiệu cả cuốn sổ ghi cảm tưởng của du khách về sự kỳ diệu của mâm quay. Trước hết, đoàn công tác lật chiếc mâm ra khỏi ổ trục quay, kiểm tra xem trong đó có cài các thiết bị có thể bị ảnh hưởng của sóng điện từ điều khiển từ xa hay không. Phương án này nhanh chóng được loại bỏ vì chẳng tìm được thiết bị nào, hơn nữa từ xa xưa, chiếc mâm đã được biểu diễn như vậy, mà lúc đó cũng chưa thể có thiết bị điều khiển từ xa bằng sóng điện từ như bây giờ. Trong đoàn khảo nghiệm còn có một số nhà ngoại cảm nổi tiếng, họ cho biết không hề tìm thấy sự can thiệp của cõi giới tâm linh trong căn phòng này. Như vậy đã loại bỏ được hai khả năng là mâm quay được do tác động của lực điện từ và cõi giới tâm linh. Thí nghiệm dương tính Để tiến hành thí nghiệm dương tính, nhóm nghiên cứu đã làm theo đúng quy trình như các nhóm khác làm trước đây: Mọi người đứng xung quanh, đặt tay trực tiếp lên mặt mâm và đọc lệnh cho mâm "quay". Lần đầu ra lệnh mâm quay theo chiều kim đồng hồ. Sau hơn 4 phút đọc "thần chú", mâm từ từ quay, càng lúc càng nhanh. Sau khoảng 5 phút, mâm được yêu cầu "dừng lại". Thí nghiệm được lặp lại, nhưng ngược chiều kim đồng hồ. Lần này, chỉ khoảng 3 phút mâm đã quay và khi muốn dừng lại cũng chỉ mất hơn 1 phút. Thí nghiệm âm tính Cuộc thí nghiệm lần ba, giao cho mỗi người tham gia một quả cầu, cỡ quả bóng bàn. Lần này mọi người không đặt tay trực tiếp lên mặt mâm như trước mà phải đặt tay thông qua quả cầu trên mặt mâm. Các quá trình đọc "khẩu lệnh" vẫn y nguyên như trước. Nhưng kỳ lạ thay, mọi người đọc đến 30 phút mà mâm vẫn không nhúc nhích. Dù đổi "khẩu lệnh" đọc ngược lại mâm vẫn trơ trơ bất động. Người chủ nhà rất ái ngại, thốt lên: "Từ trước tới nay, chưa có vụ nào làm thí nghiệm mà mâm không quay. Các bác là nhóm đầu tiên đọc thần chú mà mâm không chịu nghe lời". Lý giải về hiện tượng mâm quay Theo ông Vũ Thế Khanh, thành viên nhóm nghiên cứu của UIA, khi tay người chơi không tiếp xúc với mặt mâm mà phải gián tiếp thông qua mặt cầu, người chơi chỉ có thể tác dụng lực vuông góc với mặt mâm (mà phương này thì không gây ra mômen quay cho mâm). Quan sát kỹ các lần làm thí nghiệm, thấy rõ: người chơi dù vô tình hay cố ý đẩy tay đi thì quả cầu lập tức lăn ngay, không truyền lực ngang xuống mâm được nữa. Cách đặt lực như vậy đã làm cho mâm hết "phép lạ". Thông qua thí nghiệm này, nhóm nghiên cứu kết luận không hề có tác động của lực sinh học hay lực lượng siêu nhiên nào đó như mọi người vẫn nghĩ. Thực tế, mâm chỉ có thể quay được khi và chỉ khi người chơi đặt tay trực tiếp vào mâm tạo mômen quay cho mâm. Nếu lực này bị khử mất do quả cầu lăn thì mâm không thể quay được. Nhưng lực cơ học gây mô men quay do đâu mà có? Khi người chơi đặt tay trực tiếp lên mặt mâm, liên tục đọc khẩu lệnh thì tâm lý phát sinh tự kỷ ám thị, dần dần bị rơi vào ảo giác: hình như đang có lực vô hình nào đó làm cho mâm quay và cảm thấy mâm "chuẩn bị quay", nên người chơi có xu hướng nương theo chiều quay quy ước trong đầu. Khi đó, vô tình hay hữu ý đã gia tăng lực vào mặt mâm. Cứ như vậy, mâm sẽ quay càng lúc càng nhanh hơn. Đấy là chưa kể đến trường hợp trong số đó có một người cố tình đẩy cho mâm quay. Quá trình dừng mâm lại cũng theo nguyên tắc ấy mà phát sinh tâm lý tương ứng. Như vậy, hiện tượng mâm quay là do các lực cơ học tạo ra, chẳng phải là tác động thần bí nào cả. Thật ra, người chơi chưa thực sự trong trạng thái "vô tư", chưa thực sự "vô thức". Do vậy, khi đọc khẩu lệnh họ dần bị rơi vào ảo giác và dĩ nhiên phát sinh hiệu ứng của lực "tự kỷ ám thị". Hiệu ứng này là thủ phạm gây ra lực cơ học tạo mômen quay cho mâm. Tuy nhiên, người chơi không hề nghĩ chính mình là thủ phạm, chính mình bị tự kỷ ám thị nên khi thấy mâm quay thì cho rằng do yếu tố khách quan nào đó. Cùng thí nghiệm trên, nhóm nghiên cứu đã tiến hành với những người có công phu tu thiền hoặc yoga thì mâm không hề quay (vì họ đã tạo được trạng thái vô thức nên không bị chi phối bởi hiệu ứng của sự "tự kỷ ám thị"). (Theo Thế Giới Mới) _________________ Nguồn: http://thezoob1.14.forumer.com/a/gii-p-hin...ay_post384.html
  16. Đọc cái này nhớ hiện tượng bói chén.
  17. Hóa chất dùng tùy tiện trong nông nghiệp hiện tại đang là nguy cơ tiềm ẩn làm phá vỡ cấu trúc gen gây đột biến của nhiều loại sinh vật. Bao gồm cả động thực vật và con người. Trung Quốc hiện nay phát hiện càng ngày càng nhiều động vật và người dị dạng.
  18. Phoenix còn một topic dang dở về Long, Lân, Quy, Phụng mà chưa có thời gian để post bài tiếp. Nhân ở đây nói đến con chim Lạc, góp ý nhỏ làm vui. Qua quan sát nhiều hình ảnh về chim phượng, chim trĩ, chim công thì Phoenix nhận thấy hình ảnh chim phượng mà người Trung hoa hay nói tới đã bị biến thể sang gần với hình ảnh của chim công và nó không gần gũi với văn hóa Việt. Chim phượng trong văn hóa cổ Trung Hoa được mô tả với sự cường điệu "đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá với năm màu và cao sáu thước". Tuy nhiên hầu hết hình ảnh về chim phượng đều thể hiện rất rõ cái đuôi kiều diễm, duyên dáng và sang trọng. Loài chim này mang tính truyền thuyết y hệt như rồng mà Trung Hoa mô tả. Những cái sinh ra từ tưởng tượng thì mang tính biểu tượng nhiều hơn là triết lý. Phoenix cho rằng Chim Hạc - Chim Trĩ của Việt Nam mang ý nghĩa bản cổ khác hẳn với chim Công, chim Phượng của Trung Hoa. Chim Lạc Việt gắn liền với đặc trưng của người Việt là cư dân nông nghiệp. Con chim biểu tượng cho trí tuệ, triết lý vận động cuộc sống chứ không biểu trưng cho sự quyền quý, phúc đức, trung thực, phúc hậu rất dễ hiểu trong xã hội phong kiến lâu dài của Trung Hoa. Chim Lạc Việt được mô tả chân phương đơn giản, ước lệ, thể hiện tri thức, tư tưởng giống như con chim trong quẻ Phong Sơn Tiệm và gần gũi với đời sống của cộng đồng cư dân cổ. Con cò, con vạc, con bồ nông, con hạc đều được vào vật tổ trống đồng. Chim lạc như là logo biểu trưng của người Việt cổ, chỉ bản chất đặc trưng của những người dân gắn liền với hình thái dân cư lúa nước (đầm, bãi, ao hồ), nơi mà loài chim cùng với con người sinh tồn trong một quần thể sinh thái. Hình ảnh chim Lạc cho thấy sự ban sơ, lâu đời hơn rất nhiều so với con chim Phượng (Hoàng). Phải chăng, tiếp nối nền văn minh Lạc Việt, người Trung Hoa không thể hiểu hết tính minh triết của hình ảnh "Lạc", "Rồng" nên họ mới "thêm râu, vẽ vảy" để tạo ra cho mình biểu trưng Rồng - Phượng rất mơ hồ và huyền thoại như ngày nay?
  19. Vothuong có những chia sẻ cho các ACE trên diễn đàn, phải cảm ơn Vothuong mới đúng. Chuyện sai sót là chuyện thường mà.
  20. Bài trắc nghiệm này khó làm nhỉ!
  21. Hà Vũ Trọng Đám cưới tiến sĩ chuột Ta hay chuột Tàu? Chuột, con vật nhỏ con nhưng vì lanh lợi nên đứng đầu 12 chi, và vì vậy được người Tàu tôn lên hàng “lão”. Tết Mậu Tí năm nay nhiều người nhắc đến bức tranh mộc bản nổi tiếng Đám cưới chuột, để rồi lại nhắc đến làng Đông Hồ. Nhưng thời vàng son của tranh dân gian Đông Hồ đã qua từ lâu, nay làng lại tiếp tục sang thời hoàng kim của hàng mã. Thời “hàng mã lên ngôi”, làng Đông Hồ đã giàu lên trông thấy. Riêng việc nghiên cứu “công nghiệp” hàng mã hay vấn đề tiền âm phủ được đô la hoá chỉ xảy ra trong thời mở cửa, có thể trở thành đề tài nghiên cứu thú vị và nghiêm túc về nền kinh tế Việt Nam. “Cõi dương làm sao cõi âm làm vậy”, dưới đó cũng có “ngân hàng âm phủ” (như ta thấy hàng chữ “The Bank of Hell” in trên tờ đôla “ma” mệnh giá lớn với chân dung Ngọc hoàng Thượng đế cùng với chữ kí của Diêm vương bay lăn lóc trên các vỉa hè Sài Gòn). Hình ảnh thể hiện trong bức Đám cưới chuột ngày xưa vốn ưu ái dành cho trẻ em, sau này một số nhà theo chủ nghĩa hiện thực cắt nghĩa là nó “tố cáo giai cấp thống trị”, vì chuột thuộc thành phần “dân oan”, thấp cổ bé họng khi có chuyện cưới hỏi, đỗ đạt, cũng phải hối lộ bằng cách dâng con gà, con cá cho lão mèo tham quan! Nếu vậy, lại không tránh khỏi cái vụ “mua quà cho xếp” trong dịp Tết. Việc họ nhà chuột “dâng cá” (tất nhiên không chỉ dịp Tết) mà một ngài Thanh tra Chính phủ tiết lộ có khi trị giá cả trăm ngàn đô. “Con cá” trong cổ tích là con chuột nhỏ đúc vàng mà ông quan thanh liêm “dân chi phụ mẫu” tuổi Tí khi về hưu gặp cảnh nghèo xơ, đã tiếc rẻ trách vợ: Sao lúc đó bà không bảo với họ là tôi tuổi Sửu! Dẫu sao, giải thích Đám cưới chuột như “bức tranh hiện thực phê phán” theo lối trên là hợp với thời đại hơn bao giờ hết, lại vừa đầy ắp “bản sắc dân tộc”. Đề tài họ nhà chuột tiếp tục được chíu chít chiếu cố, nhưng rôm rả nhất vẫn là về các món thịt chuột đậm đà bản sắc khắp ba miền. Ở các làng chuột miền Bắc, các đám cưới không thể thiếu thịt chuột. Thiếu chuột, lễ cưới không thành. Thật tuyệt, Thịt chuột lang thang kí, với đề xuất ăn thịt chuột cũng là để “cứu” nhân loại: “Theo thống kê của một tổ chức quốc tế, số lương thực mà họ hàng nhà chuột xơi trong một năm đủ để nuôi 20 triệu người trên thế giới. Nghĩ theo kiểu khác thì ăn thịt chuột, mà ăn cho nhiều vào, cũng là cách ‘cứu’ nhân loại”. Nói thêm, con người ăn thịt chuột thay mèo và nên thay cho thịt mèo để cứu loài “hổ đồng bằng” ở một số làng quê gần như tuyệt chủng. Tới đây, bài viết này xin đi vào vấn đề: đưa ra vài nghi nhận trong việc tìm nguồn gốc và đề tài bức mộc bản Đám cưới chuột, còn gọi là Chuột vinh quy, lâu nay nó thường được gán cho là thuộc dòng tranh Tết Đông Hồ. Có thực sự như vậy không? Nguồn gốc tranh Tết dân gian Việt Nam, về phong cách và đề tài sáng tạo của nó cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào rõ ràng. Và trong việc phân loại, cũng chưa có sự gạn lọc về xuất xứ để tránh sự “cầm nhầm” đáng tiếc. Về tổng quát, tranh mộc bản dân gian Việt Nam - chủ yếu loại tranh dân gian Tết - nguyên thuỷ bắt nguồn từ tranh Niên hoạ (hay tranh Tết) của Trung Quốc. Hai dòng tranh dân gian tiêu biểu là Đông Hồ và Hàng Trống, về phong cách và đặc điểm chịu ảnh hưởng, tạm thời xác định: Đông Hồ gần với dòng tranh Duy Phường hoặc Dương Gia Bộ (ở Sơn Đông). Hàng Trống gần nhất với dòng tranh nổi tiếng Dương Liễu Thanh (ở Thiên Tân), do sắc thái nghệ thuật và kĩ thuật mộc bản (khắc nét rồi tô màu bằng tay và cũng thường đi về các đề tài truyện, tích). Thời điểm các dòng tranh Niên hoạ Trung Quốc [1] này du nhập vào Việt Nam khoảng vài trăm năm trong thời nhà Thanh. Nhưng thời kì cực thịnh chỉ vào cuối thế kỉ 19 cho đến mấy thập niên đầu thế kỉ 20, nhất là thể loại truyện Nôm dân gian lúc đó nở rộ và luôn cần có tranh mộc bản minh hoạ. Về lĩnh vực này, học giả Maurice Durand và vợ ông đã dày công nghiên cứu rồi. Trên thực tế, loại tranh mộc bản dân gian thực sự đã cáo chung vào điểm mốc năm 1944, hiểu như một nhu cầu tiêu thụ về văn hoá và tín ngưỡng dân gian cho ngày Tết. Sau đó nó chỉ tồn tại như những phiên bản được một số nghệ nhân ráng duy trì nghề tổ, và khách hàng là những người chơi tranh. Cũng nói thêm, từ 1945, nhất là những năm 1950, loại tranh mộc bản này được chính quyền miền Bắc vực dậy với những đề tài cho những vận động chính trị, chính sách ruộng đất, hợp tác xã, lớp học bình dân... Thời kì sớm nhất khi tranh Niên hoạ du nhập vào Việt Nam, có lẽ chỉ thịnh hành chủ yếu loại tranh với đề tài “cát tường” (may mắn, tốt lành) của Trung Quốc và tín ngưỡng như Đạo giáo, Phật giáo. Sau đó, các phường tranh này có nhu cầu khai triển, sáng tác thêm các đề tài bản địa, pha chế chất liệu riêng, nhưng về mặt kĩ thuật vẫn giữ nguyên sự thuần phác chứ không phát triển cho phong phú và tinh tế hơn. Riêng Hàng Trống, ngoài sự đóng góp quan trọng vào các loạt tranh tín ngưỡng như Đạo giáo, nhất là đạo Mẫu (với cả một hệ thống đồ tượng chư thần thánh bản địa như Bà Chúa Thượng ngàn, Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh, Ông Hoàng, Ngũ hổ), các loạt tranh đề tài văn học (như Truyện Kiều, Thạch Sanh), hay đề tài lịch sử, v.v... nó còn phản ánh trực tiếp sinh hoạt xã hội đương thời, nhất là đề tài “văn minh tiến bộ” hay “khai hoá” trong xã hội thành thị Bắc kì thời Pháp thuộc. Bức Đám cưới chuột hay Chuột vinh quy của làng Đông Hồ là một trong những bức được tán tụng nhiều và được trẻ em yêu thích nhất. Hai bức tranh Tết cùng đề tài Đám cưới chuột, được lần lượt trình ra dưới đây với một số nhận xét và cũng để người xem tự so sánh, đánh giá: Bức thứ nhất từ Việt Nam, do Maurice Durand sưu tập, in lại trắng đen cùng với hai dị bản khác trong cuốn Imagerie Populaire Vietnamienne. Và bức thứ hai, Lão thử thành thân, tranh Niên hoạ từ Trung Quốc, in khắc do một phường tranh ở tỉnh Hồ Nam thời nhà Thanh. Đặc biệt, bức này nằm trong số tranh mộc bản do Lỗ Tấn sưu tập. H.1. Đám cưới chuột, in trong cuốn Imagerie Populaire Vietnamienne của Maurice Durand Bức trên đây được cho là sản phẩm của làng Đông Hồ, mô tả cảnh đám cưới chuột, có thể là bức xưa nhất vì còn giữ lại nhiều chi tiết và chữ khắc, đặc biệt tên của phường tranh. Đọc các chữ (tính từ góc trên bên phải): “Bằng Liệt tân khắc lão thử thủ thân” (Bản khắc mới của Bằng Liệt bức Chuột cưới vợ). “Miêu nhi” (mèo); “tống lễ” (tặng quà); “tác nhạc”: chơi nhạc; “đả đăng” (vác đèn); “tân lang” (chú rể); “kiệu phu” (khiêng kiệu); “đả thái” (vác cờ phướn). Những dị bản khác cùng một chủ đề luôn có cảnh dâng lễ vật cho mèo hay “quan viên”. Durand nói có một số giải thích bức tranh này như là sự châm biếm người Tàu vào thời đó (xin tham khảo thêm bức Chuột Tàu rước rồng vàng ở phần Phụ lục). Gần như M. Durand bỏ quên câu truyện dân gian có liên hệ ít nhiều đến đề tài cho bức tranh này là truyện Nôm ngụ ngôn Đám cưới chuột của làng Liễu Đôi [2] ít được thịnh hành, và truyện cổ tích thịnh hành của Trung Quốc Lão thử giá nữ (Lão chuột gả con gái hay Cô dâu chuột) [3] . So sánh truyện thơ Đám cưới chuột của làng Liễu Đôi với tình huống trong tranh, thấy chi tiết câu chuyện không ăn khớp, như: cảnh trạng nguyên vinh quy, mèo già có mặt ung dung như quan viên nhận lễ vật trong ngày cưới. Các “dị bản” khác: Các hàng chữ Nho: “miêu”, “tống lễ”, “tác nhạc”, lão thử thủ thân” (lưu ý: “thủ thân” 守身 ở đây là “giữ thân”(?) chứ không phải “thú thân” 娶亲hay “thành thân” 成亲là cưới vợ hay kết hôn). Còn chữ hàng dưới là “nghênh hôn”, “giai tế” (chú rể) Chuột đi sau chú rể khiêng bảng đề “Tiến sĩ” . Con đi trước vác cờ đề “Tân hôn”. Tiếp theo, hãy so sánh với bức Niên hoạ Trung Quốc được khắc in ở Hồ Nam để thấy sự trùng hợp gần như toàn diện, ngoại trừ vài chi tiết phụ. Lão thử thành thân, Niên hoạ Trung Quốc đời Thanh, khắc in tại Thiệu Dương, Hồ Nam Lão thử thành thân, Niên hoạ Trung Quốc đời Thanh, khắc in tại Thiệu Dương, Hồ Nam Bức Niên hoạ Lão thử thú thân này, do nhà văn Lỗ Tấn từng trân giữ và gọi nó là thể tài đích thực truyền thống của Trung Quốc. Ông có nói đến trong tập tản văn Triêu hoa tịch thập (1926), chương “Miêu-cẩu-thử”: “Trước giường tôi có dán hai bức Niên hoạ, một là Bát giới chiêu thân (Bát Giới ở rể)... mà tôi không thấy đẹp mắt cho lắm; còn bức kia là Lão thử thú thân vô cùng đáng yêu, từ chú rể, cô dâu, chủ hôn, tân khách, giúp việc, nhân vật nào mõm cũng nhọn, đùi nhỏ, đuôi dài, râu tua, trông rất giống kẻ sĩ, nhưng ăn mặc thì áo hồng, khố lục...” Đàn chuột trong tranh này về hình thể, đường nét, bố cục (cũng phân thành hai phần trên và dưới) và các hàng chữ có thể nói là giữ nguyên văn như trong bức mà M. Durand đưa ra. Cũng có tống lễ cho mèo, ban nhạc, đánh chiêng thổi kèn, rước đèn, phu kiệu... Chú rể cưỡi ngựa quay đầu nhìn về hướng cô dâu. Chỉ có vài chi tiết khác là đầu chú rể đội mũ quan triều Thanh (trong bức Đông Hồ là loại mũ cánh chuồn của trạng nguyên) và tay có cầm quạt. Còn hai bên khung cửa kiệu hoa (theo phối cảnh đối xứng) dán 2 câu đối: “Càn khôn định hĩ” (Trời đất định rồi), “Chung cổ lạc chi” (Chuông trống vui vầy). Còn hàng chữ trên cùng bức tranh, có 12 chữ khải: “Sở nam Than trấn tân khắc Lão thử thủ thân toàn bản” và “Bảo duyệt lai” phỏng như tự hiệu, cho biết bức tranh này làm tại Hồ Nam, Thiệu Dương, Sở Nam Than khắc ấn. Toàn Trung Quốc có hơn 80 loại tranh Lão thử thú thân được in khắc, nhưng đa số đều hoạ hình tượng mèo là kẻ thù tự nhiên của chuột, tức vẽ ra thảm kịch chuột là “món ăn” của mèo. Thế nhưng bức Lão thử thú thân của phường tranh Than Đầu này không thường tình ở chỗ là nó không khắc hoạ cái thảm cảnh đó. Cũng như bức đám cưới chuột của Đông Hồ cũng không gây ấn tượng nào về con mèo xuất hiện như một tai hoạ. Như vậy, cách giải thích về bức tranh đám cưới chuột này phải khác và đứng độc lập theo ý nghĩa “cát tường” (là sự tốt lành, thuận lợi, may mắn) của ngày Tết. Rõ ràng ý hướng của của bức tranh này không phải mô tả tình huống rủi ro, bất hạnh. Vì đây là bức tranh gây sự thích thú với trẻ em, nó được “nhi đồng hoá” không còn nhìn sự việc mèo chuột như kẻ thù của nhau trên thực tế. Đồng thời thế giới cổ tích này phản ánh sự cho phép của chúng ta nhìn về một thế giới đại đồng (như trong Dế mèn phiêu lưu kí), thể hiện một sự hoà thuận, cộng tồn, hướng tới nhân tình. Trong ý nghĩa này thì thái độ của người đối với chuột cũng thế, theo tập tục dân gian Trung Quốc xưa, cứ vào mùng 7 tháng Giêng người ta làm lễ cúng cho sinh hoạt của loài chuột, cũng gọi là Lão thử giá nữ (Lão chuột gả con gái) hayLão thử thú thân (Lão chuột cưới vợ). Đây có lẽ là “lí do tồn tại” hoạt cảnh bức tranh đám cưới chuột. (Và có lẽ người Tàu gián tiếp cũng muốn cầu phồn thực, sinh con đẻ cái như... chuột vậy!) Cũng lưu ý và không thể bỏ qua cách chơi chữ nghĩa trong dân gian của người Trung Quốc trong các biểu tượng mang nghĩa cát tường. Hàng chuột trên cùng trước đội nhạc có hai con khiêng lễ vật: ôm gà, nâng cá. “Kê” 鸡 (ji) đồng âm với “cát” (jí) 吉; “ngư” (yú) 鱼đồng âm với “dư” (yú) 余. Mọi mùa tốt lành, quanh năm dư đủ là lời chúc đẹp cho đám cưới chuột. Dân gian thường dùng hình tượng “kê dương” (ji yáng) 鸡羊(gà, dê) biểu tượng “cát tường” (ji xíang), lấy “liên hoa lí ngư” 莲花 鲤鱼(hoa sen và cá chép) biểu hiện “liên niên hữu dư” 连年有余 (hàng năm dư đủ),... đã sớm trở thành nhận thức chung. Như vậy, “kê” cũng là nguyên hình của “phượng”, “lí ngư khiêu long môn” tức cá chép vượt vũ môn thành rồng (cũng chỉ việc đỗ đạt). Ở đây “kê” và “ngư” cũng tượng trưng cho “phượng và long”. Long phượng tức âm dương, càn khôn, nam nữ, vợ chồng. Vì thế “long phượng trình tường” là nghi thức không thể thiếu trong ngôn ngữ chúc tụng hôn nhân. Phụ lục Tranh hài hước dân gian Đông Hồ Chuột Tàu rước rồng vàng Cảnh rước và múa rồng của cộng đồng người Hoa ở Hà Nội tổ chức vui chơi trong những ngày lễ hội. Họ được nhân cách hoá thành đàn chuột. Đây là cảnh múa rồng vào ngày tết. Đám rước bao gồm cờ, phướn, đèn cá chép (biểu tượng cát tường), trái cây, đội nhạc (kèn, trống, thanh la), pháo. Hai con chuột múa rồng ở đằng đầu và đuôi rồng. Điểm hài hước chính nằm ở những cái đuôi rất dài của đàn chuột ám chỉ đuôi sam dài mà người Tàu thời nhà Thanh phải mang. (Theo Maurice Durand) Một số Niên hoạ của Trung Quốc đề tài đám cưới chuột Niên hoạ Miên Trúc (Tứ Xuyên) Niên hoạ Chương Châu (Phúc Kiến) Tranh cắt giấy Thượng Hải Lão thử giá nữ, niên hoạ Dương Liễu Thanh (Thiên Tân) Trong Tây Du Kí , thầy trò Đường Tăng với nghi trượng đứng một bên xem cảnh đám cưới chuột tưng bừng tiến vào “Hang không đáy”. Niên hoạ Thượng Hải. Cô dâu chú rể chuột trên tem do bưu điện Canada phát hành năm Mậu Tí 2008 Tham khảo Maurice Durand, Imagerie Populaire Vietnamienne, École Français d’Extrême-Orient, Paris 1960 Tranh dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 1995 Mạt Thanh niên hoạ (Thượng Hải đồ thư quán quán tàng tinh tuyển), Nhân dân Mĩ thuât Xbx 2000 Vương Thụ Thôn, Trung Quốc nhân dân niên hoạ bách đồ, 1988 Tô Châu Đào Hoa Ổ mộc bản niên hoạ, Giang Tô cổ tịch Xbx 1991 Websites: - http://news.xinhuanet.com/ziliao/2004-01/1...ent_1279748.htm - http://yichan.folkw.com/www/guanzhu/115445419.html - http://www.xueyou8.com/html/1/1-167470.html © 2008 talawas [1]Tranh mộc bản Niên Hoạ có sớm nhất ở Trung Quốc chính thức vào thời Tống, ghi chép trong cuốn Đông kinh mộng hoa lục (1072) rằng cứ cận dịp Tết nguyên đán, chợ búa nhộn nhịp bán tranh niên hoạ các vị Môn thần, Chung Quỳ trừ quỷ, đào bản và đào phù (tức bùa trừ tà bằng cách cắm cành đào trước cửa) cầu may mắn, sự bình an. Có hơn 10 khu vực làm tranh Niên hoạ có tiếng. Nhưng bốn dòng mộc bản Niên hoạ sản địa trứ danh và lớn nhất, gọi là “Niên hoạ tứ đại gia”: Tô Châu Đào Hoa Ổ, Thiên Tân Dương Liễu Thanh, Sơn Đông Duy phường Dương Gia Bộ, và Tứ Xuyên Miên Trúc. Về danh xưng tranh Niên hoạ mỗi thời mỗi nơi gọi cách khác. Cho đến năm 1850 danh xưng “Niên hoạ” mới xuất hiện lần đầu và được chấp nhận dùng làm danh từ chung. Kho tranh Niên hoạ được xem là lớn nhất do các nhà truyền giáo Pháp sưu tập được vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tổng cộng hơn 3000 tấm, hiện tàng trữ ở Thư viện Thượng Hải. [2] Câu chuyện thơ Nôm miêu tả gia đình chuột tất tả lo chạy lễ cưới cho con với đủ mọi lễ nghi tập tục. Và cũng phải lo lễ vật cho lão mèo để lễ cưới diễn ra êm xuôi. Nhưng thảm cảnh chỉ xảy ra sau khi vợ chuột sinh đẻ, lão mèo đã đến bắt sạch đám chuột con mới sinh. [3] Câu chuyện cổ tích Trung Quốc về một lão chuột muốn gả con gái cho kẻ giàu có và quyền thế, tính đi tính lại chỉ thấy có lão mèo là chọn lựa vừa ý. Nhưng khi rước dâu về đến dinh thự của mèo, lập tức cô dâu trở thành bữa đánh chén ngon lành cho chú rể trước khi làm lễ cưới. Một dị bản khác của Trung Quốc (có lẽ nguồn gốc từ ngụ ngôn Ấn Độ): Bố mẹ chuột muốn gả con gái cho một chàng rể có sức mạnh nhất. Bắt đầu đi hỏi mặt trời, rồi tới mây, gió, và núi. Cuối cùng nhận ra là chỉ có họ chuột “nhà ta” mới là khoẻ hơn hết thảy Nguồn: http://www.phamthihoai.org
  22. Chuyện "Đám cưới chuột" đã có tác quyền của Nhà xuất bản Kim Đồng nên không thể chia sẻ ở đây. Ai muốn đọc thì liên hệ với Phoenix nhé. B) Một bài "Thách cưới" trong truyện: Em là con gái nhà giàu Mẹ cha thách cưới ra màu xanh xao Cưới em trăm tấm gấm đào Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng Sắm xe tứ mã đem sang Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu Ba trăm nón Nghệ đội đầu Một người một cái quạt Tàu thật xinh Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình May chăn cho rộng ta mình đắp chung Cưới em chín chĩnh mật ong Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò Cưới em tám vạn trâu bò Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm Lá đa mặt nguyệt hôm rằm Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi Xin chàng chín chục con dơi góa chồng Thách thế mới thỏa trong lòng Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân
  23. Truyện "Đám cưới chuột" của nhà văn Tô Hoài đã được Nhà xuất bản Kim đồng mua bản quyền và phát hành lại năm 2004.
  24. Chuyện “thầy” phong thuỷ miệt vườn Là người từng thiết kế và thi công nhà, tôi xin phép không đề cập đến phong thuỷ một cách “chính thống” ở đây, mà chỉ chia sẻ vài mẩu chuyện dở khóc dở cười xung quanh chuyện…dở hơi của “phong thuỷ nửa vời”. Hy vọng qua đó có thể giúp được nhiều người khi quyết định một việc rất hệ trọng của đời người: xây cất nhà Cầu thang phải “vẽ” thêm một bậc chẳng giống ai cho phù hợp với cách đếm của “thầy” trong một căn nhà ở Trà Vinh 180 độ... xoay! Anh chị khách hàng của tôi ở Trà Vinh là người tin phong thuỷ và đã trải qua nhiều lần xây nhà. Sau gần hai tháng tiếp xúc trao đổi, tôi mới hoàn chỉnh phương án thiết kế và bản vẽ. Theo đó, tôi bố trí miệng bếp theo hướng đông, phù hợp với kiến trúc căn nhà và được xem là hợp với chủ nhà (cũng là hướng đã được tuân thủ trong ngôi nhà trước đây của họ theo chỉ dẫn của một “thầy” chuyên coi việc cất nhà khá nổi tiếng ở địa phương). Tất cả diễn ra suôn sẻ và sẽ không có sự cố nếu không có một “thầy phong thuỷ” được mời đến sau đó. Anh chị chủ nhà cho biết thầy này khá nổi tiếng ở TP.HCM. Tuy nhiên, khi được đề nghị tham vấn từ đầu, thầy đã không chịu “dời gót ngọc” đến Trà Vinh xem đất, mà chỉ nhận tư vấn qua... điện thoại. Thầy cho biết đã từng coi hướng cất nhà, mở văn phòng và rất nhiều người trong số đó hiện đã thành đạt, đang ăn nên làm ra. Qua điện thoại, thầy bảo cứ thiết kế “vô tư”, đến ngày khởi công thầy chỉ việc xuống xem qua một tí là được! Ngày khởi công, khi nghe chủ nhà trình bày phương án bố trí, thầy phán: “Bếp để hướng này là không ổn! Miệng bếp phải quay về... hướng tây!”. Nghĩa là, hướng bếp theo “trường phái” của thầy phải xoay 180 độ so với hướng bếp thiết kế theo “trường phái” của thầy địa phương. Nhà bếp vốn không đủ rộng, không thể “cứ vô tư, lật qua lật lại là được” như đề xuất của thầy. Phương án thiết kế vì vậy phá sản! Ngày khởi công phải dời lại. Anh chị chủ nhà lục đục, “chiến tranh” có nguy cơ nổ ra. Thầy lên xe về thành phố, bỏ lại ngổn ngang công trường! Phóng lao nên phải theo... “thầy”! Một khách hàng khác của tôi vốn là giáo viên, gia đình có người làm việc trong ngành xây dựng. Khi họ định cất nhà, tôi được mời đến tư vấn thiết kế. Nhưng rồi tôi đã dội ra vì chủ nhà đưa cho bản thiết kế mặt bằng do thầy tự vẽ ra, trên đó thể hiện phòng ốc đầy rẫy “số đen”, “số đỏ” và chi chít các cung mệnh được cho là hợp với gia chủ và các thành viên trong nhà. Điều kiện thầy đưa ra cho chủ nhà là buộc người thiết kế nhất nhất tuân thủ bản vẽ của thầy. Cùng dãy phố, nhưng nhà này so với nhà kia phải “nhô ra hơn một chút, cao hơn một chút (một cục gạch cũng được)” là “xúi quẩy” của không ít thầy phong thuỷ! Vấn đề sẽ không đến nỗi tồi tệ nếu như “bản vẽ” của thầy chỉ có giá trị tham khảo hoặc nếu không cũng không quá phi khoa học như vậy. Theo đó, hằng ngày người chủ nhà này phải đi vào nhà một cách... vòng vèo, tuyệt nhiên không được vào cửa chính, mà phải bằng lối phụ dưới... đáy cầu thang! Ngoài ra, theo bản vẽ thầy đã “binh” thì không hề có một chút diện tích phụ, chủ nhà đã không thể “cựa quậy” gì thêm trong cái không gian... nhà phố trên mảnh đất dự kiến cất biệt thự vườn! Đất rộng là thế, nhưng diện tích cất nhà được thầy ấn định một cách chi li, nhà vệ sinh chỉ vỏn vẹn trên dưới 2,2 mét vuông cho tất cả các phòng, kể cả phòng chính. Sự phân tích, tư vấn nghề nghiệp của tôi hoàn toàn không có tác dụng khi chủ nhà nói cùng với việc đưa ra “phương án thiết kế”, thầy còn bảo đảm: “Cứ làm theo thầy, ngày khởi công bạc tỉ sẽ có trong tay!”. Đỉnh điểm của sự hài hước là khi chủ nhà buột miệng nói với tôi rằng hiện chưa có tiền, nhưng “bấm bụng” làm đại vì “Thầy này giỏi lắm, nhiều người tin thầy lắm!”. Đến nước này, tôi phải hỏi: “Cô không chơi chứng khoán, không kinh doanh bất động sản, vé số trúng bạc tỉ cũng không còn phát hành nữa, mà cô cũng không chơi vé số. Vậy tiền tỉ ở đâu ra?”... Đồng nghiệp của tôi nghe chuyện đều cho rằng đây có vẻ đang là “mốt” trong ngành xây dựng hiện nay, là chuyện buồn cho người hành nghề thiết kế, và cho chính chủ nhà. Có không ít chủ nhà cả tin phải rơi vào tình cảnh dở khóc dở cười, thậm chí vỡ nợ vì lỡ trót phóng lao nên phải theo… thầy! Có người cắc cớ hỏi: “Nếu giỏi vậy, sao thầy không vẽ nhà cho chính mình để ngày khởi công lấy tiền tỉ, mà đi xem cho người khác chỉ để nhận ít tiền công?”. Khi thầy... phán! Sau khi khảo sát hiện trạng một ngôi nhà phố, một “thầy miệt vườn” đã tư vấn cho chủ nhà cần phải cải tạo ngôi nhà ngay lập tức với chiều cao hơn nhà bên cạnh một chút, “cao hơn... một cục gạch cũng được”! Tuy là dãy phố hiện hữu vốn được yêu cầu xây dựng bằng mặt phố, nhưng thầy vẫn cứ bảo phải ốp đá loại dày cho nhô ra hơn nhà kế bên, như vậy làm ăn mới khá! Theo không ít thầy, hành lang từ trước vào nhà sau phải luôn bên tay trái, tức phía trước nhìn vào (!?) Bấy lâu nay, hai hộ cùng buôn bán chung một mặt hàng, vào ra vốn dĩ va chạm xích mích như lẽ thường trong cuộc sống hay gặp phải. Nhưng từ sau tư vấn của thầy, hai căn nhà liền kề trong dãy phố vốn hài hoà nay bắt đầu “chỏi” nhau thấy rõ. Đợi thân chủ của thầy cải tạo nhà xong, hộ kế bên lập tức tự cơi nới (chấp nhận bị phạt do không xin được giấy phép), tất nhiên lần này phải “gác” trở lại bên kia bằng việc nâng mái nhà cao hơn hộ trước... hai cục gạch. Chủ hộ cho biết thực ra không có ý định làm bởi nhà không nhiều người, nhà cũ vốn khá rộng ở vẫn không hết, nhưng vẫn phải làm vì “mỗi lần ra vào nhìn họ là... thấy ghét!”. Lần nọ, ngôi nhà của anh bạn tôi được giới nghề nghiệp đánh giá cao nhờ bố trí khá hợp lý về công năng sử dụng, hài hoà về màu sắc, có phong cách về kiến trúc. Tiến độ hoàn thiện nhà đang vào giai đoạn gấp rút để bàn giao. Không ít người đi ngang thấy nhà đẹp xin vào tham khảo cho ngôi nhà tương lai của mình. Một hôm, nhóm người bà con của chủ nhà ở quê ra đến tham quan, trong đó có một thầy chuyên coi việc cất nhà, ngày cưới hỏi đám tiệc... Đi một vòng nhà, trong khi nhiều người khen thì thầy phán những câu “chết người”! Theo thầy, tất cả việc bố trí của người thiết kế là... “sai”, từ cầu thang cho đến hướng bếp, từ lối vào nhà sau đến số bậc cầu thang... Và “kết luận” nhà này xây xong sẽ làm ăn không ổn, tốn hao tài lực, con cái bất kính... cùng những phán đoán sặc mùi mê tín khác! Chủ nhà đùng đùng nổi giận, dù đủ tế nhị nhưng đã không đủ bình tĩnh nên vội vàng... tiễn “vị thầy” không mời mà đến này! Những trường hợp nêu trên nên được xem như một cảnh báo về mặt trái của phong thuỷ trong đời sống hiện nay. Với những ai đang có ý định cất nhà, lời khuyên đưa ra là phải biết “miễn nhiễm” với những tư vấn, những “chống chỉ định” vô lý dễ dẫn đến những mối bất hoà không đáng có không chỉ đối với chính gia đình mình mà còn cả với láng giềng. Cái gọi là “công thức” được đưa ra bởi rất nhiều “thầy miệt vườn” mà phong thuỷ thực sự tuyệt nhiên không hề có và không hề muốn đạt tới. Bài và ảnh: KTS Lê Công Sĩ (Trà Vinh) Hướng lên cầu thang là một trong những “chống chỉ định” của thầy: có “trường phái” buộc đi lên ngược chiều kim đồng hồ, có “trường phái” buộc phải ngược lại Phần tường không hoàn thiện này là “sản phẩm” của thầy phong thuỷ, hai chủ hộ liền kề không hợp tác với nhau Đó là một trong những câu chuyện éo le khi KTS "gặp" mấy thầy phong thủy trời ơi. Kiến trúc sư khổ, gia chủ khổ và đôi khi hàng xóm cũng khổ vì mấy thầy phong thủy trời ơi này. Ngoài ra còn có những bài viết khác về phong thủy của các kiến trúc sư nhiều kinh nghiệm. Mời bạn đọc trên Kiến trúc & Đời sống số 29, có trên các sạp báo ngày thứ tư, 3.9.2008. Nguồn: http://www.sgtt.com.vn