-
Số nội dung
1.107 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by phoenix
-
Hà Nội ngập nặng vì đô thị hóa không đúng quy hoạch TS Đào Ngọc Nghiêm. Ảnh: PV Trao đổi với VnExpress.net, TS. Đào Ngọc Nghiêm, nguyên giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội , cho rằng, lưu lượng mưa ngoài dự báo, cộng với tình trạng đô thị hóa nhanh không đúng quy hoạch, trong khi các hồ bị san lấp khiến Hà Nội ngập nặng. - Dưới góc nhìn của chuyên gia quy hoạch Hà Nội, ông có thể cho biết nguyên nhân úng ngập trên diện rộng tại thủ đô mấy ngày qua? - Lưu lượng nước mưa là ngoài dự báo của quy hoạch thoát nước. Khi làm dự án thoát nước, chúng tôi đã nghiên cứu từ năm 1954. Năm 1998, Dự án thoát nước đã khởi động song chúng ta chưa tính đến các yếu tố thay đổi, chỉ tính toán lượng mưa là 310mm, tần suất trong 10 năm, song thực chất mưa hiện nay hơn 400mm. Với biến đổi khí hậu toàn cầu, thì thời tiết còn nhiều thay đổi. Theo quy hoạch, dự kiến phát triển đô thị ở phía nam rộng 150km2 với 1,5 triệu dân, và đồng thời phát triển phía bắc, các huyện Đông Anh, Long Biên 100km2 với 1 triệu người, nhưng thực chất hiện nay Đông Anh không phát triển mà chuyển sang phía Tây, bám theo trục đường Láng Hòa Lạc - nơi không có hồ ao lớn. Năm 1995, chúng tôi dự báo năm 2010, Hà Nội mới đạt được 3,3 triệu dân. Song thực tế năm 2007, Hà Nội đã là 3,4 triệu dân với gần 6.000 ha đất được xây dựng, cho thấy tốc độ đô thị hoá nhanh. Hà Nội còn nhập với Hà Tây nữa thì dự báo còn khác xa. Đã đến lúc phải điều chỉnh quy hoạch thoát nước của Hà Nội trong giai đoạn 2, chúng ta chưa lường trước được mức độ tăng trưởng của HN, nhất là tốc độ đô thị hoá. - Trên thực tế, ngập nặng xảy ra ở các khu vực mới mở, còn các khu phố cũ thoát nước khá tốt, tại sao vậy? - Theo quy hoạch, khu phố cổ là cốt 6m, trong khi xây dựng đã được dâng lên cốt 7, có nơi lên tới 10m. Hệ thống cống ngầm do Pháp quy hoạch năm 1920 và năm 1943 có tới 74 km. Như vậy, hệ thống này thoát nước tốt, trong khi đó khu vực phía nam thành phố có cốt thấp nên bị úng ngập là tất yếu. Các khu đô thị mới xây dựng đều đã nâng cao cốt nền, song lại gây úng ngập cho các khu dân cư lân cận, vấn đề này đã không được giải quyết. Năm 1995, Hà Nội có 110 hồ với hơn 2.100 ha, trong tổng diện tích đất xây dựng 10.000ha, song trên thực tế hiện nay đã san lấp hết 30% diện tích hồ trong khi đó lại không có hồ mới. Hồ Yên Sở dự định là 130ha thì hiện không xây dựng đủ, trong khu đô thị Ciputra dự kiến có 30ha hồ song nhà đầu tư vẫn không đào. Khu Yên Hoà có 20 ha mặt nước song thực tế không có. Khu Mỹ Đình dự kiến có công viên và hồ khoảng 10ha song không ai làm. Trong quy hoạch đều có hồ song các chủ đầu tư chỉ làm nhà mà không đầu tư đào hồ. Mưa gây ngập nặng nhiều nơi ở thủ đô. Ảnh: Hoàng Hà - Khu chung cư cũ cũng lâm cảnh ngập nặng, nguyên nhân vì sao? - Từ những năm 60, chuyên gia Ba Lan đã nghiên cứu và cho rằng nâng lên 0,6 đến 1m là được và thực tế đã nâng đến như vậy. Nhưng với dự án thoát nước đã thực hiện thì đáng lẽ ở đó phải nâng lên mấy mét. Do vậy, mới sinh ra úng ngập khu vực, chính quyền phải có giải pháp úng ngập khu vực. - Vậy theo ông, giải pháp khi úng ngập trên diện rộng như thế nào? - Với thực trạng phát triển đô thị của Hà Nội, chúng ta phải xử lý bơm ra theo đầu mối, quy hoạch thoát nước đã chia ra 4 khu vực lớn. Đó là, khu Ba Đình, phố cổ, quận Hai Bà Trưng sẽ dồn xuống Thanh Trì để qua trạm bơm Yên Sở; Khu vực Tả Nhuệ từ huyện Từ Liêm và Nhổn qua cống Liêm Mạc, đổ ra sông Hồng; Khu vực Hữu Nhuệ gồm một phần quận Tây Hồ. Một phần Hoàng Mai và huyện Đông Anh sử dụng đầm Vân Trì. Điều này chúng ta thực hiện rất yếu. Lãnh đạo thành phố mới giải quyết bơm toàn diện với 1-2 trạm bơm thì không thể đáp ứng được. Các trạm bơm hiện nay chỉ có Yên Sở là lớn nhất song công suất cũng chưa đạt theo yêu cầu. Dự án đã phê duyệt công suất là 90m3/giây song chỉ làm đến công suất 45m3 là không đầu tư nữa, chờ giai đoạn 2. Ngoài ra, chống ngập tại từng khu vực. Chúng ta thiếu các trạm bơm nhỏ để cứu tình trạng úng ngập cục bộ. Lãnh đạo Hà Nội phải có lực lượng ứng cứu ngay khi úng ngập cục bộ, nhưng cái này chưa làm được. - Về lâu dài, giải pháp nào tối ưu để hạn chế úng ngập cho thủ đô? - Theo tôi, khi đã có Hà Tây, có thêm 3.340 km2 thì phải giải các dự án xây dựng để tạo thành các hệ thống đô thị, chứ không đầu tư kiểu xôi đỗ, ảnh hưởng tới các khu dân cư lân cận. Hồ điều hoà phải chiếm 5-7% đất xây dựng, bắt buộc chủ đầu tư phải thực hiện bằng các cơ chế hợp lý. Về lâu dài, phải có cơ quan quản lý xây dựng theo một đầu mối chứ không để quy hoạch vẽ trên giấy, trong khi ngành quy hoạch không có chức năng giám sát, các ngành khác như giao thông, xây dựng và quận huyện giám sát trong phạm vi của họ. Đến 2010 mới hoàn thành dự án thoát nước giai đoạn 2, nên chúng ta phải đặt dữ liệu mới vào cho giai đoạn này, bởi diễn biến thời tiết thay đổi trong 15 năm, khi dự án hoàn tất sẽ lạc hậu. Đoàn Loan Nguồn:http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/11/3BA08282/
-
Bí thư Hà Nội: "Thiên tai thì không tính trước được" 16:58' 02/11/2008 (GMT+7) - "Kinh nghiệm tốt nhất vẫn là huy động chính sức dân và huy động tại chỗ. Do đang đi kiểm tra dưới cơ sở nên tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm"- Từ Mỹ Đức - Hà Nội, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị trao đổi với VietNamNet qua điện thoại chiều 2/11. Toàn cảnh Hà Nội trong trận "đại hồng thuỷ" Lo cho dân không bị đói, rét Xe từ các tỉnh về Bến xe Giáp Bát do ngập lụt nên đổ hết khách xuống đầu đường Giải Phóng. Hành khách buộc phải đi thuyền, xe kéo, xe ngựa, xe tải hoặc đi bộ... lũ lượt kéo nhau lội qua đoạn đường ngập lụt. Ảnh chụp lúc 9h sáng ngày 2/11. Trận mưa lớn đã kéo dài từ rạng sáng 31/10 đến chiều nay. Vậy, Lãnh đạo Thành phố đã có đánh giá sơ bộ gì về thiệt hại chưa? - Đợt mưa năm nay có lượng nước và cường độ lớn chưa từng có, lớn hơn rất nhiều so với tất cả các trận mưa trong vòng 30 năm đến 40 năm trở lại đây. Nhiều người so với trận mưa năm 1971 nhưng tôi thấy mực nước năm đó còn thấp hơn nhiều so với trận này. Chưa kể diện mưa úng ngập rộng lớn khắp phạm vi miền Bắc chứ không chỉ riêng Hà Nội và các vùng lân cận nên khả năng nước rút sẽ rất chậm. Về thiệt hại, tính đến hôm qua, số người chết là 17, với nhiều lý do, bị nước cuốn, bị sét đánh, điện giật... Thiệt hại về vật chất rất lớn, bây giờ mới ước tính ở mức tương đối, có thể lên đến hàng nghìn tỷ. Nhất là với bà con khu vực nông nghiệp, nông thôn. Diện tích cây trồng gần như toàn bộ mất trắng, biến thành biển nước mênh mông hết. Đối với bà con ở trong nội thành có nhiều thay đổi nghiêm trọng như đảo lộn sinh hoạt, ách tắc giao thông, ảnh hưởng đến công việc, thiệt hại tài sản. Dự kiến mưa lớn còn tiếp diễn trong nhiều ngày tới, thành phố đã lên những phương án gì để đối phó tiếp theo? - Chúng tôi huy động tất cả nhân lực, các phương tiện và lực lượng. Lãnh đạo thành phố hầu như đã xuống cơ sở đi ứng cứu tại chỗ, triển khai các biện pháp phòng chống ngập lụt. Cố gắng lớn nhất là không để phát sinh tai họa từ ngập lụt. Chẳng hạn nhiệm vụ khó khăn là cố giữ cho đê điều không bị vỡ. Sức chịu đựng của đê có hạn. Bây giờ phải dầm trong mưa suốt cả tuần, diện lại rộng. Ngoài ra, phải phối hợp với các địa phương lân cận để tạo mối liên kết, liên hoàn cho nước tiêu thoát nhanh. Chứ nếu riêng Hà Nội thì không biết thoát nước đi đâu? Xung quanh, bốn bề nước sông đã cao hơn nước đồng, còn bơm nước đi đâu được? Phải phối hợp cùng Hà Nam, Nam Định cùng với Bộ NN&PTNT để lo điều tiết cho nước thoát thì rút mới tương đối nhanh. Điều quan trọng là làm sao lo cho dân trong những ngày này không bị đói, bị thiếu, bị rét, bị bệnh dịch. Nếu nơi nào khó khăn phải báo cáo kịp thời và thành phố sẽ kiểm tra cụ thể. Cần lương thực thì hỗ trợ lương thực, cần thuốc men sẽ hỗ trợ thuốc men... Đặc biệt phải chuẩn bị kế hoạch chu đáo để sau khi nước rút giúp dân khôi phục sản xuất, có lương thực, thực phẩm và đi làm trở lại. Trong công tác quy hoạch thoát nước, trong dự báo thiên tai, thành phố đã lường hết những khó khăn này chưa? - Đây là trận mưa không chỉ lớn mà còn rộng. Chứ nếu diện của nó hẹp thì ứng cứu còn dễ. Ở đây lại rất rộng nên không có chỗ thoát từ nơi này sang nơi kia. Thiên tai thì không tính trước được. Chỉ dự phòng được với tần suất trung bình thôi còn với lũ đỉnh cao thế này thì không dự phòng trước được. Anh Hùng (Thanh Trì) làm phu khuân vác, tranh thủ mấy ngày mưa lớn kéo xe ngựa chở khách, mỗi lượt cả người và xe 80.000 đồng. "Đúng là hôm qua chưa kịp làm" Nhưng ít nhất các phương tiện truyền thông hoặc loa đài cũng phải thông báo cho người dân diễn biến thời tiết những ngày tiếp theo hoặc thông báo cho dân biết những tuyến đường nào có thể đi lại, những tuyến nào ngập lụt để người dân có thể chủ động. Theo dõi bản tin thời tiết trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội trưa hôm qua vẫn chỉ có mấy dòng thông báo nhiệt độ từ 23 - 26 độ C, ngoài ra không có thêm thông báo gì khác? - Sáng nay tôi đã nói với Phó Chủ tịch phụ trách giao thông là cho thông báo trên báo đài đoạn nào ngập lụt và đoạn nào còn đi được để dân biết mà tránh ra. Còn ngày hôm qua (1/11) thì đúng là chưa kịp làm. Người dân cho rằng phản ứng của lãnh đạo thành phố còn chậm trễ, vì đã có những cái chết thương tâm xảy ra như có một em bé chết trên đường đi đến trường. Ông giải thích sao với người dân? - Lãnh đạo đều đi chỉ đạo hết. Không ai nghỉ ngơi. Việc gì cũng phải tính đến hoàn cảnh thực tế. Có cái chậm một chút nhưng khả năng ứng phó cũng có lý do khách quan. Bây giờ là vấn đề thiên tai, phải cùng cố gắng khắc phục. Nếu tại người thì còn phê bình kỷ luật người này người nọ, chứ còn do thiên tai thì chịu.... Sáng hôm qua (1/11), thành phố họp tổng kết vấn đề tôn giáo, chiều tôi đi ô tô kiểm tra các điểm ngập lụt trong nội thành, hôm nay đi ra ngoại thành. Từ chiều qua lãnh đạo thành phố đều đi kiểm tra hết. Có những cái chết bất ngờ không ai lường trước. Có người do điện ẩm ướt chạm vào, có học sinh, sinh viên đi ứng cứu đồ đạc cho dân thì bản thân lại bị cuốn trôi. Đó là những sự cố rất đau lòng và đáng tiếc. Mất điện kéo dài gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và việc làm của người dân. Lãnh đạo TP có biết điều này? - Bất khả kháng thôi. Do trạm biến thế ngập nước, đành phải khắc phục bằng cách câu nối từ khu vực khác, có nơi kéo được, nơi không. Nhưng thiên tai bắt nguồn từ chỗ lượng mưa năm nay lớn bất thường, hạ tầng đầu tư dù cố gắng nhưng chưa phải đủ khả năng đối phó với thiên tai lớn. Dân còn ỷ lại Nhà nước Sau thiệt hại từ trận mưa lũ này, thành phố đã rút ra những kinh nghiệm gì? - Trận mưa lũ này là thông số để chúng tôi có căn cứ dự phòng cho các cảnh báo thiên tai trong tương lai. Lấy mốc giới này để tính các chỉ tiêu như xử lý nước, lụt, đê điều.... Kinh nghiệm tốt nhất vẫn là huy động chính sức dân và huy động tại chỗ. Do đang đi kiểm tra dưới cơ sở nên tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm. Dân cũng đang tự lo tích trữ lương thực, thực phẩm, thưa ông. Nhưng thực tế là do ngập lụt nên chợ không hoạt động và các siêu thị hiện nay đã hết sạch hàng khiến những người nội trợ rất lo lắng. Liệu tình hình này có kéo dài? Thành phố giải quyết thế nào? - Lương thực thì không đáng ngại. Chuyện mọi người đổ xô đi mua là do tâm lý đề phòng mưa kéo dài nên tạo ra lượng cầu quá lớn. Hơn nữa có lý do khách quan là rau hỏng hết, không có hàng cung cấp. Giải pháp khắc phục là phải đưa từ nơi này qua nơi kia. Nhưng vấn đề khan hiếm lương thực, thực phẩm không lớn, nhất thời chỉ mấy ngày thôi. Trong khi chưa dự tính hết những vấn đề về thoát nước cho nội thành để đối phó với trận mưa cường độ lớn, thì diện tích Hà Nội sau sáp nhập với địa bàn rộng hơn có gây thêm khó khăn gì cho thành phố trong đối phó thiên tai không, thưa ông? - Không khó hơn. Nguồn lực mở rộng thì khả năng hỗ trợ cho nhau còn tốt hơn. Trên thực tế là xã nào, nhà nào vẫn phải tự chủ. Thành phố mở rộng rồi thì khả năng chi viện còn lớn hơn chứ. http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/11/811500/
-
ACE LVDT có lẽ nên độn quẻ dự báo thời tiết hàng tuần định kì để nhân dân biết thiên tai có thể đoán trước được .
-
Phần I - Mối quan hệ làm ăn. - Mối quan hệ I: Nam Nhâm Tuất nhỏ hơn Nữ Bính Thìn ạ. (chị em cô cậu ruột mừa) Theo phân tích của anh TH nghĩ: mạnh ai nấy làm thì tốt phải không ạ? Tuy nhiên nên tham khảo ý kiến nhau. Bính Thìn nên định hướng, Nhâm Tuất thực hiện. Hơi bất đồng nhưng tốt hơn là ngược lại - Mối quan hệ II: a> bạn bè Nam Nhâm Tuất- bạn với Nữ Tân Dậu Theo phân tích của anh Phoenix, mối quan hệ bạn bẻ sẽ tốt hơn cùng làm ăn phải không ạ? b> Vợ chồng = chồng Nhâm Tuất vợ Tân Dậu Theo anh Phoenix phân tích, trong mối quan hệ vợ chồng Nhâm Tuất - Tân Dậu là ổn rồi. Trong quan hệ vợ chồng nhưng cùng nhau làm ăn, mọi hoạt động giao dịch chồng Nhâm Tuất làm hết. Vợ Tân Dậu chỉ việc giữ tiền (chỉ đứng tên tài khoản nhận tiền hoặc chi trả). Như vậy là ổn đúng không ạ? Xem ra đồng chí rủ bồ đi làm ăn chung đây. :( Cho cô Tân Dậu giữ tiền, làm giao dịch văn phòng là OK. Nói vậy nhưng cô Tân Dậu này khéo léo, được việc hơn cả Nhâm Tuất ấy chứ. Phần II - về mặt học thuật, Th muốn hỏi: cách nhìn nhận theo AD Lạc Việt trên đối tượng Kế Hoạch và Vốn như trên có sai chỗ nào không? Phân chất AD Lạc Việt như vậy ổn không? chứ không liên hệ phần I (Híc ! Dĩ nhiên kế hoạch thì phải phân tích kỹ rồi ạ. :D) Trước khi phân tích nên đặt câu hỏi: Phân tích để làm gì? Thực tế: + Mỗi người sẽ có bản chất, tố chất và ngoại hình đặc thù. + Mỗi người đều chịu sự tác động của vũ trụ xung quanh. Vậy Thiên Can, Điạ Chi, Mệnh phản ánh cụ thể cái gì ? Làm ơn tìm đọc mấy cuốn tử vi hộ cái. Nói không hết được.
-
Anh Thiên Đồng chưa thấy, Phoenix thay đổi không khí giải phiền cho bạn trong lúc chờ anh Thiên Đồng nhé. Chỉ tóm tắt thôi. - Có được nhận làm công việc này không? - Hưu Xích Khẩu: chờ đợi không thấy tăm hơi, liên lạc cũng khó. Tuy vậy, cũng không làm khó khăn cho bạn lắm. - Nếu được thì có ổn định và thuận lợi không? - Sinh Tiểu Cát. Chắc phải sau 3 lần bạn mới có được niềm vui về công việc. Nhưng không phải lâu bền. - nếu không thì bao giờ mới thuận lợi cho sự nghiệp? - Thương - Vô Vong - Mọi thứ lúc này là tạm thời. Cần nhẫn nại nữa mới đến hồi kết quả. Kiên tâm lên nhé.
-
Thạch Thổ hiểu sai ý Hoàng Anh rồi. Không có "rẻ" hay "ôi". Vấn đề đây là diễn đàn trao đổi học thuật. Không phải là diễn đàn xem lý số miễn phí. Mục đích chính của diễn đàn không phải là để xem tử vi, lý số, độn quẻ. Chẳng qua là các bạn tín nhiệm thì hỏi những người có nghiên cứu thôi. Chính vì vậy, chuyện trả lời hay không còn tùy vào cái "duyên", cái "may", cái "hạnh" của mỗi người. Chứ không ai có nghĩa vụ phải trả lời ai trên diễn đàn cả. Ai thấy cảm thông với người nào thì trả lời người đó. Tùy tâm, tùy tài. Các bạn muốn hỏi cũng nên chú ý là xem tham khảo, không nên quá cưỡng cầu. Trường hợp thực cầu thì phải tìm người thực cung mới dễ bề sở ý. Nếu Thạch Thổ có hỏi chú Thiên Sứ mà chưa được trả lời thì có thể vài lý do: - Chú Thiên Sứ không để ý thấy câu hỏi của Thạch Thổ (cái này là vô tình) - Chú Thiên Sứ thấy câu hỏi chưa rõ, chưa đủ thông tin để trả lời (cái này là chính đáng) - Chú Thiên Sứ thấy rồi mà quên mất (cái này là thường xuyên :( ) - Chú Thiên Sứ chưa có cảm hứng để trả lời (cái này không trách ép được) - Chú Thiên Sứ không thích trả lời Thạch Thổ (cái này không hay gặp ở chú Thiên Sứ lắm). Đôi khi người hỏi mà hỏi không khéo cũng khó trả lời và khó trả lời cho hay. Hỏi thế nào cho khỏi sai thì còn tùy vào trường hợp cụ thể. Bạn nào cũng nên cân nhắc chút ít khi đưa ra các ý kiến vì diễn đàn văn hóa thì nên nói với nhau những lời tế nhị hay hơn. Vậy được không?
-
Đâu là sự thật về những chiếc giường trị bệnh đa năng? Ngày cập nhật: 18/07/2008 07:21 Báo Bình Dương ngày 8 và 9-7-2008 có đăng loạt bài phóng sự: “Đâu là sự thật về những chiếc giường trị bệnh đa năng” của tác giả Văn Sơn và Nhân Quang. Qua một tuần khởi đăng, nhiều bạn đọc đã gửi thư, điện thoại trực tiếp đến Ban biên tập và phóng viên để bày tỏ sự đồng tình về loạt bài phóng sự. Qua đó một số bạn đọc đã cung cấp thêm thông tin về vấn đề này. Báo Bình Dương trích đăng một số thông tin của bạn đọc. Một bạn đọc điện thoại trực tiếp đến phóng viên để trình bày: Trong gia đình có cụ lớn tuổi thường xuyên đến một điểm thử máy miễn phí để nằm thử giường, theo lời giới thiệu của một số nhân viên cho rằng những chiếc giường này có chức năng trị bệnh. Mỗi buổi sáng, ông cụ phải thức dậy sớm đến bốc số thứ tự, ghi tên vào nằm giường thử. Qua một tháng ròng rã nằm thử giường, ông cụ thấy sức khỏe tốt: ăn, ngủ được. Sau đó, ông cụ liền kêu gọi con cháu đóng góp tiền để mua máy trị giá 42,6 triệu đồng để về nhà nằm giường trị bệnh. Mỗi ngày, ông cụ vẫn đều đặn nằm giường để trị bệnh ở nhà nhưng sau đó lại thấy sức khỏe bất thường, có triệu chứng tức ngực, nhức đầu, khó thở... Thấy vậy, gia đình liền đưa ông cụ đến bệnh viện thì bác sĩ phát hiện ông bị bệnh cao huyết áp. Bác sĩ khuyên gia đình không cho ông cụ nằm giường trị bệnh nữa. Bây giờ chiếc giường trị bệnh đã “ngốn” của gia đình một số tiền quá lớn nhưng công dụng không như mong muốn. Một bạn đọc khác chia sẻ: Ở quê nghèo nghe đâu có những chiếc giường trị bệnh đa năng nên trong gia đình ai nấy cũng mừng thầm và quyên góp được 30 triệu đồng để mua cho bà cụ chiếc giường trị bệnh. Do còn thiếu một khoản tiền (trị giá chiếc giường hơn 40 triệu đồng) nên gia đình chưa kịp mua. Khi bài phóng sự báo Bình Dương đăng thì gia đình tôi mới “té ngửa” vì chức năng của máy không như những gì đã quảng cáo. Anh Thành, người dân ở Thuận An đã gửi thư đến Ban Biên tập bày tỏ: Sau khi bài báo đăng, nhiều người dân rất đồng tình để biết được sự thật của những chiếc giường trị bệnh thực tế đã diễn ra ở Bình Dương. Một số cơ sở bán máy đến từng nhà để mời các cụ lớn tuổi đi nằm giường thử miễn phí rồi bán giường. Đã có một số người mua máy với mong muốn là trị bệnh theo như những lời giới thiệu. Tuy nhiên khi mua máy thì hiệu quả sử dụng không như mong muốn. Từ loạt bài phóng sự mà báo Bình Dương đã đăng cũng như phóng viên đi thực tế viết bài đã giúp cho nhiều người dân cẩn thận hơn trước khi quyết định mua máy sử dụng, tránh tình trạng nhầm lẫn. Qua đây, tôi cũng mong rằng báo Bình Dương tiếp tục có những loạt bài phóng sự hay để tờ báo trở thành tiếng nói chung của Đảng, của nhân dân. Chị Phạm Thị Tâm, ở TX.TDM đã gửi thư đến Ban Biên tập để chia sẻ: Phóng viên báo Bình Dương đã đi thực tế để kịp thời phản ánh sự thật về những chiếc giường massage trị bệnh theo lời giới thiệu của một số nơi quảng cáo để bán giường. Tôi hoàn toàn đồng tình với những gì bài báo đã nêu. Trong loạt bài phóng sự có phỏng vấn và đặt vấn đề ngành chức năng nói rõ hơn về công dụng của những chiếc giường để người dân hiểu rõ. Trong thực tế vừa qua đã có một số người dân lớn tuổi nghe theo lời quảng cáo đi nằm thử giường để trị bệnh, rồi sau đó nhiều cụ mua giường quá đắt nhưng bệnh tình cũng không mấy thuyên giảm. Qua đọc bài phóng sự, tôi và nhiều người dân rất không đồng tình trước những lời quảng cáo quá xa sự thật. TƯỜNG VY Nguồn: http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=53218
-
Nhâm dương thủy - Bính dương hỏa: Thủy hỏa cùng dương khắc mạnh: người nào cũng cương quyết, khó nhường nhịn Thìn Tuất dương thổ đối trực xung: Ai cũng có chính kiến riêng, đều có năng lực, có bản lĩnh. Mệnh Nhâm Tuất Hỏa (không biết lớn hay nhỏ) sinh Bính Thìn thổ: người Nhâm Tuấn hay phải nhường cho Bính Thìn hơn, cũng chịu "chiều" Bính Thìn hơn. Tuy nhiên phần lớn là xung. Đã bất đồng là bất đồng lớn. Nhâm Tuất cẩn thận, chặt chẽ, mẫn cán, được việc. Tuy không tài hoa bằng Bính Thìn nhưng năng lực không kém. Không thích bị chỉ trích, tuy tỏ vẻ không cần, thích rạch ròi nhưng thực chất lại ưa mềm, nói ngọt, thích được ngợi khen. Nói về làm kế hoạch thì không sáng tạo, cởi mở, nhạy bén bằng Bính Thìn. Nếu ít tuổi thì hay chống đối. Nhiều tuổi hay là nam thì càng không thích bị người khác chỉ huy. Có chuyện hay để bụng, "thù dai, nhớ lâu" :( Bính Thìn nhạy bén, nhanh nhẹn nhưng ý tưởng đôi khi quá rộng mở, quá tầm kiểm soát của Nhâm Thìn dẫn đến sự bất an. Mặc dù thấy tài nhưng phải cẩn trọng những lúc "cảm xúc" quá đà. Nếu nhiều tuổi thì chín chắn hơn nhưng vẫn có thể tự gây ra rủi ro. Cùng nam cả thì dễ cãi nhau không buồn nhìn mặt. Nhưng bề mặt cũng không muốn đối chọi nhau. Dễ nói lại làm hòa. Dù thế nào cũng có chuyện không vừa ý với nhau, nếu không tranh luận thì cũng "bằng mặt không bằng lòng". Nhâm - Tân: âm Kim sinh dương Thủy bất thuận. Kim yếu bị hao mòn, gắng mà khó đủ sức. Sự trợ lực là không đáng kể. Tuất - Dậu: dương thổ sinh âm kim. Hay nghe lời, nhường nhịn, ưu ái, che chở (kể cả nhỏ hơn). Tân Dậu mộc sinh Nhâm Tuất hỏa. Thực chất không sinh được nhiều. Chỉ dễ hòa hợp thôi. Nhâm Tuất và Tân dậu khá hợp nhau. Một cứng - 1 mềm dẻo; 1 cương quyết - 1 nhường nhịn. Tuy không làm được việc lớn nhưng làm cho nhau thấy thoải mái đầu óc, vui vẻ, dễ đồng cảm. Nếu là vợ chồng thì hòa hợp (còn phụ thuộc ai là vợ? ai là chồng?) Chồng thực dương, vợ thực âm nhưng vợ sinh chồng là nghịch lý. Cô vợ này vừa chiều chồng lại vừa biết lo toan cho chồng. Nên chịu phần vất vả. Tân Dậu thực hiện thì phải có Nhâm Tuất kèm để chỉ dẫn và trợ giúp. Về lý thì vậy nhưng còn phải xem tố chất nữa. Choáng :( Âm dương nào cũng phải phân tích dự án thấu đáo cả.
-
Bây giờ con người kiếm sống khó, lại bị hoàn cảnh kim tiền xung quanh thôi thúc, nhiều ham muốn nên bất chấp hành vi để đạt sở cầu. Hơn nữa, quy phạm đạo đức ngày càng lỏng, quy tắc truyền thống mất dần, môi trường đạo đức đã thay đổi, ít còn tác dụng. Ở các nước phương Tây tiếng là văn mình nhưng sự dã man còn phổ biến và ghê rợn hơn nhiều. Cái gì con người làm ra được, chỉ có con người mới khắc phục được. Truyền thống hàng nghìn năm còn rơi rụng, xây dựng cho được là cả kỳ công. Vòng quy luật tạo hóa sinh - trưởng - tồn - diệt - vong nó khiến ra như vậy. Qua hồi thịnh lại đến hồi suy. Đúng quy luật mà cũng buồn. Để tác động lại cần một sức quá lớn.
-
Phoenix mấy lần mơ thấy răng có vấn đề và đúng là cũng có tang. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có tang. Có trường hợp không thấy. Hiện tượng thường là thấy trống rỗng ở một vị trí răng nào đó trong hàm (như bị biến đi mất). Hoặc là răng lung lay gần như đã rụng ra. Mất cảm giác là cái răng còn chắc. Đôi khi thấy cả máu. Có khi lại thấy hàm răng trên bị đẩy vào nằm trong khung hàm răng dưới không gỡ được ra. Rất nhức mỏi cái quai ham. Đến sáng dậy vẫn còn đau nhức. Có lúc lại thấy răng như bị mủn ra, mềm ra giống như là bột vậy. hic.. /color]
-
Vấn đề ở đây không phải là bắt bẻ câu chữ mà là ý niệm để đặt vấn đề chưa sâu sắc. Cái "hổng giống" ai đó dù là hiểu theo nghĩa nào cũng khập khiễng khi rõ ràng những căn nhà này không phải tự dưng xuất hiện một cách "độc nhất vô nhị'. Đây là những dạng nhà đặc trưng của một số dân tộc. Ngay trong chú thích tác giả cũng đã nêu rõ điều này. Đã là đặc trưng theo phong cách dân tộc truyền thống thì nó sẽ giống như những ngôi nhà khác của dân tộc đó chứ không phải là "hổng giống ai". Nhà báo, nhà văn cũng như nhà khoa học. Chỉ cần đưa ra một nhận định không cẩn trọng có thể làm cho nhiều người lầm lẫn. Tâm - Trí - Tầm vốn đã quan trọng thì với nhà báo càng quan trọng.
-
Theo nhận định của Phoenix thì ngày tam nương không có nghĩa là ngày xấu. Nó chỉ xấu với một số việc và một số người. Cùng trong ngày tam nương, có những người làm được việc lớn, người muốn làm cũng không được việc gì. Ngày tam nương chỉ nên cẩn trọng khi hành sự vì có khả năng phát sinh vấn đề. Nếu đủ lực, kiểm soát được tốt hoặc có những điều khác hỗ trợ tốt thì cũng chẳng sao cả. Chúng ta đồng tình rằng vũ trụ là một tập hợp vô số các luồng xạ phát ra từ các sinh thể, vật thể ... tương tác với nhau thì nhất định sẽ có xạ yếu và xạ mạnh. Cùng là gặp một cơn gió, có người sẽ bị cảm, có người thấy mát :unsure:
-
Tại sao bài viết này lại lấy title là "những ngôi nhà thiết kế "hổng giống ai""??? Đây là những ngôi nhà truyền thống, đặc trưng của mỗi dân tộc liên quan đến đời sống, tập tục, văn hóa của họ. Nhà đất tốt hơn nhà gạch, nhà xi măng, nhà thép, nhà kính.... xét chung về mặt sinh khí trong phong thủy. Ở những vùng khô nóng, nhà đất giúp điều tăng - hạ nhiệt tốt, giữ độ ẩm trong nhà làm mát và không bức bối. Lấy chuẩn mực thiết kế của những căn nhà trong thời hiện đại để so sánh với lịch sử và bảo "hổng giống ai" thì không biết người đặt title cho bài viết này "giống ai"????
-
Nếu có điều kiện thì mọi người giúp họ tìm nơi khác ở. Căn nhà này các em cũng không ở được lâu. Các em đều có tương lai không tệ. Nếu tạo được môi trường sống thuận tiện hơn thì giúp các em được nhiều hơn.
-
Tôn vinh không đích đáng ắt gây ra đàm tiếu Đến thăm Điện Versailles, tôi tận mắt thấy cảnh sống của các hoàng đế Pháp xưa thật xa hoa. Rồi đặt chân tới Cố Cung, Di Hòa Viên, tôi lại nhận ra rằng các hoàng đế Trung Hoa còn xa hoa hơn nữa! Có vị chiếm đoạt tới ba nghìn… cung tần, mỹ nữ! Khi chết, trong lăng mộ còn có mấy nghìn người hầu bằng… đất nung! Một ông Tổng thống Pháp thời nay không thể nào được “tôn vinh” như Hoàng đế Louis 14! Mỗi thời đại, mỗi chế độ chính trị - xã hội có những quy điển, chuẩn mực, thang giá trị riêng. Cách thi cử và các học vị xưa đâu có giống hệt hôm nay! Vậy thì, tại sao ta lại cứ phải rập theo cách tôn vinh xưa cũ là khắc tên trên bia đá? Tú tài không đồng nhất với tốt nghiệp PTTH Khoa cử Nho giáo xưa có ba cấp thi: thi hương (hương thí) ở các tỉnh thành, thi hội (hội thí) ở kinh đô, và thi đình (Trung Quốc gọi là điện thí) tại đại điện Hoàng cung, do đích thân Hoàng đế chủ trì. Cách thi cử này xuất hiện ở Trung Quốc từ đời Tuỳ - Đường (586-907). Khoa thi đầu tiên ở nước ta diễn ra vào năm 1075 đời Lý Nhân Tông. Đến đời Lê Thánh Tông thì việc thi cử trở nên hoàn bị. Cũng chính vị Hoàng đế này có sáng kiến cho khắc bia tiến sĩ. Bài viết tranh luận của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí qua địa chỉ e-mail: thaolam@dantri.com.vn Ba năm mới diễn ra một khoa thi. Thi hương năm nay thì năm sau thi hội và thi đình. Người thi trượt khoa này, phải ba năm nữa, mới có khoa khác để “so tài cao thấp”! Do vậy, mới xảy ra tình cảnh: Một người đeo đẳng thi 4 khoa liền trong 12 năm, mà vẫn chỉ đỗ tú tài, không sao vươn tới cử nhân! Có điều, đỗ lần 2 thì được gọi là “tú kép”, đỗ lần 3 gọi là “tú mền”, lần 4 là “tú đụp”! Nhà thơ xuất chúng Tú Xuơng chỉ đỗ tú tài. Và Thi sĩ lừng danh Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu cũng chỉ là một vị tú tài Nho học. Trong tiếng Hán, tú tài có nghĩa là tài năng ưu tú, được bộ Hán - Anh từ điển mà tôi quen dùng dịch là skillful writer (người viết văn giỏi). Bởi vì, muốn đỗ tú tài, phải thuộc làu kinh, sử, và vượt qua được 4 kỳ (tứ trường) khi dự thi hương: Kỳ 1 làm bài về kinh nghĩa; kỳ 2 làm một bài phú và hai bài thơ; kỳ 3 viết các loại văn chiếu, chế, biêu; kỳ 4 viết văn sách. Nghĩa là phải thành thạo sáng tác thơ, phú, văn bát cổ và những gì viết ra phải toát lên nét riêng đặc sắc. Không có gì tương đồng giữa bằng tốt nghiệp THPT hiện nay và học vị đỗ tú tài xưa! Pháp - Hán từ điển in ở Bắc Kinh dịch từ Pháp baccalauréat là trung học tất nghiệp. Còn sinh viên tốt nghiệp đại học tổng hợp thì được gọi là học sĩ, chứ không phải cử nhân. Tiến sĩ đâu có phải là doctor? Học vị tiến sĩ trong khoa cử Nho giáo không tương đồng với học vị doctor hay PhD (tức doctor of phylosophy) của Anh - Mỹ, hoặc docteur của Pháp, doktor nauk của Nga, v.v. Chính vì vậy, các bộ Anh - Hán từ điển đều dịch doctor là bác sĩ. Người Nhật cũng dịch như vậy. Anh hùng Lương Định Của thường tự giới thiệu mình là bác sĩ nông học, bởi vì văn bằng tiếng Nhật ghi như vậy. Ngay bộ Pháp - Việt từ điển của Đào Duy Anh in năm 1936 tại Hà Nội cũng dịch: docteur ès-lettres là văn học bác sĩ, docteur ès-sciences là khoa học bác sĩ, docteur en médecine là y học bác sĩ, v.v. Đáng tiếc, một số từ điển khác ở ta về sau dịch không chuẩn docteur thành tiến sĩ. Học vị tiến sĩ với ngữ nghĩa là người được tiến cử lên Hoàng đế, chỉ có trong thời phong kiến mà thôi. Còn học vị doctor (tiếng Anh) hoặc docteur (tiếng Pháp) thì đều bắt nguồn từ từ Latin doctor, có nghĩa là người uyên bác, nên mới được Trung Quốc, Nhật Bản dịch là bác sĩ. Tiến sĩ được Hoàng đế trực tiếp chọn để ra làm quan. Còn bác sĩ thì vì học rộng nên thường đi vào nghiên cứu, giảng dạy. Tiến sĩ ba năm mới mở một khoa thi. Còn doctor thì bất cứ lúc nào cũng bảo vệ được luận án. Số lượng tiến sĩ rất ít! Trong gần một nghìn năm khoa cử Nho giáo, chỉ có gần ba nghìn tiến sĩ. Thí dụ: Khoa thi năm 1652 có 2.000 cử nhân dự thi, chỉ lấy 9 tiến sĩ; khoa thi năm 1656 có 3.000 cử nhân dự thi, chỉ lấy 6 tiến sĩ; khoa thi năm 1706 có 3.000 cử nhân dự thi, chỉ lấy 5 tiến sĩ! Bởi vì, nhà vua chỉ cần chừng ấy ông nghè để bổ sung vào hàng ngũ công khanh. Còn số lượng doctor thì vô hạn. Ai có vài ba bài báo khoa học, ngồi viết lại thành luận án đạt những tiêu chí cần thiết, là có thể bảo vệ doctor. Chỉ mới khoảng nửa thế kỷ qua, ta đã có 16.000 doctor. Ở một vài nước, số doctor lên tới nửa triệu. Đá nào đủ để khắc bia! Tầm nhìn nghìn năm Dựng bia là chuyện “thiên niên chi kế”. Vậy thử tính xem, một nghìn năm nữa, nước ta có bao nhiêu doctor? Chắc phải là… nhiều triệu! Liệu có… “đục hết đá Nam Sơn không đủ để dựng bia”! Và còn những nhà khoa học được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, v.v. nhưng không có bằng doctor, thì có được khắc bia không? Rồi những doctor người Việt Nam ở nước ngoài? Có lẽ nên làm theo Từ điển Larousse: Chỉ in danh sách những ai được tặng Giải thưởng Nobel và Huy chương Fields (vinh dự toán học ngang Giải thưởng Nobel). Hiện nay, chưa có người Việt Nam nào đạt được niềm vinh quang ấy. Nhưng, trong thế kỷ 21, có thể có chứ?… Hãy chờ để tôn vinh một cách đích đáng. Hàm Châu LTS Dân trí - Làm việc gì mà khái niệm ban đầu không chuẩn thì không tránh khỏi tình trạng hồ đồ cả về mục tiêu đến những tiêu chí để xem xét và kết quả đạt được xem ra cũng rất… mông lung! Theo như sự phân tích - nói có sách mách có chứng - của tác giả bài viết trên đây thì Dự án xây dựng bia “tiến sĩ” đã rơi vào trường hợp này. Vì vậy tốt nhất là cần phải xem xét lại dự án đó như nhiều ý kiến đã đóng góp. Không nên dựa trên cảm tính và căn cứ vào thiện chí của người đề xuất mà cho phép thực hiện một dự án không những thiếu căn cứ khoa học và ý nghĩa thực tiễn, mà còn không chuẩn xác cả về khái niệm của tên gọi, khắc sâu thêm sự nhầm lẫn đáng tiếc giữa danh vị tiến sĩ ngày xưa với học vị “tiến sĩ” thời nay. http://dantri.com.vn/diendandantri/Ton-vin...8/10/256760.vip
-
Dự thảo luật Quy hoạch đô thị: Vai trò của kiến trúc sư trưởng bị nghi ngờ Lần đầu lấy ý kiến QH về dự thảo luật Quy hoạch đô thị. (Dân trí) - “Thời kỳ 10 năm Hà Nội có kiến trúc sư trưởng, cái làm được thực tế là quá nhỏ bé so với những việc không làm được. Dự luật mới không thuyết phục hơn về tính ưu việt của thiết chế này, chỉ thêm cồng kềnh, phiền phức”, đại biểu Đặng Huyền Thái góp ý. Chiều 22/10, Quốc hội thảo luận ở tổ, lần đầu lấy ý kiến về dự án luật Quy hoạch đô thị. Luật này dự kiến thông qua trong kỳ họp tới và có hiệu lực từ 1/1/2010. Kiến trúc sư trưởng… để cho vui Là người trình bày báo cáo thẩm tra dự án luật Quy hoạch đô thị, Chủ nhiệm UB kinh tế của QH, Hà Văn Hiền, bộc bạch băn khoăn vị trí của Kiến trúc sư trưởng trong hệ thống quản lý quy hoạch đô thị. Theo ông Hiền, kiến trúc sư trưởng nếu có phải là người hình thành và duy trì được sự thống nhất về kiến trúc đô thị, sao để không xảy ra tình trạng qua mỗi thời Chủ tịch thành phố, quy hoạch lại thay đổi, “phế” nhau xoành xoạch. Tán đồng quan điểm đó, đại biểu Nguyễn Ngọc Đào thở dài cho rằng luật Quy hoạch đô thị đang xây dựng trên thực trạng các đô thị đã bị “băm nát”. Nói riêng về Hà Nội, đại biểu Đào cũng cho rằng, việc quản lý quy hoạch theo… nhiệm kỳ, cứ “hết nhiệm kỳ là hạ cánh” dẫn đến sự chắp vá khắp thành phố. Ông Đào thẳng thắn: “Nhiều người nước ngoài nhận xét, từ máy bay nhìn xuống, đô thị Việt Nam lổn nhổn như đống rác”. Thiết chế kiến trúc sư trưởng, ông Đào đặt câu hỏi nghi vấn đây là “ý tưởng” của những người từng nắm giữ vị trí này của thành phố 10 năm trước. Đại biểu này cảnh báo, thời gian đó đã để lại bài học lớn về việc bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo dẫn đến tình trạng thêm rối rắm. Ông Đào nêu thẳng quan điểm không cần “dựng lại” một thiết chế như thế. Thành phố cần một nhạc trưởng về quy hoạch nhưng chỉ cần củng cố Sở quy hoạch kiến trúc và giao nhiệm vụ cho người đứng đầu cơ quan này. Còn kiến trúc sư trưởng, ai cũng sợ “ông ấy” vì “ông ấy” thả sức vẽ, thả sức bày đặt rồi… không chịu trách nhiệm gì. Như khơi đúng nguồn, đại biểu Đặng Văn Khanh cho rằng, nói như đại biểu Đào vẫn là nhẹ nhàng. Luật quy hoạch đô thị đưa ra một chức danh mới - kiến trúc sư trưởng, mà chỉ quy định vỏn vẹn trong 1 điều luật (Điều 17). “Chẳng lẽ đưa một người lên ngồi vẽ rồi để đấy?” - ông Khanh buông lửng câu hỏi. Đại biểu này cho rằng, kiến trúc sư trưởng theo quy định này… chơi vơi, không được giao thẩm quyền cũng như trách nhiệm nào cụ thể. Ông Khanh phân tích lại mô hình kiến trúc sư trưởng thời Pháp, khi bản vẽ, thiết kế của người này đã được duyệt, dù chỉ đóng một con dấu hình bầu dục, cơ quan nào cũng phải chấp nhận, không thể thoái thác. “Kiến trúc sư trưởng của ta, chắc có vẽ xong rồi cũng để đấy… cho vui, khó làm được gì”, ông Khanh kết lại. Đại biểu Nguyễn Tiến Định “tấn công” ở khía cạnh, luật quy định các thành phố như Hà Nội, TPHCM đã có Sở quy hoạch kiến trúc, có Hội đồng kiến trúc quy hoạch lại có cả kiến trúc sư trưởng nhưng không thể hiện việc phân quyền thế nào, nhiệm vụ, chức năng cũng tương tự nhau, cùng là tham vấn cho Chủ tịch UBND thành phố về vấn đề kiến trúc, quy hoạch. Đại biểu Đặng Huyền Thái đề nghị thẳng “rút khái niệm này” vì thời kỳ 10 năm Hà Nội có kiến trúc sư trưởng trước đây, cái làm được thực tế là quá nhỏ bé so với những việc không làm được. Bà Thái phân tích, dự luật mới cũng không thuyết phục được hơn về tính ưu việt của thiết chế này, chỉ thêm cồng kềnh, phiền phức. Tất cả các câu hỏi đều chưa có hướng nảy ra “đáp án” trong buổi góp ý lần đầu này. “Lờ mất phần chìm của tảng băng” Liên quan đến nội dung “đặt vấn đề” của dự án luật Quy hoạch đô thị, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh “chỉnh” ngay về thao tác. Bà Khánh phân tích, ngay việc sử dụng đất đai của chúng ta hiện nay cũng đang rất lôm côm, không hiệu quả. Vậy nên chăng cần có luật quy hoạch sử dụng đất trước rồi mới nói tới quy hoạch đô thị. Nữ đại biểu nêu luôn vài ví dụ thực tế, khắp nơi, chỗ nào cũng có thể trở thành khu công nghiệp, chỗ nào cũng có thể làm khu đô thị mới… Nếu chưa có luật quy hoạch sử dụng đất mà luật quy hoạch đô thị đã thông qua, chạy đuổi theo nhau, sẽ lại sớm phải sửa, phải nắn. Đại biểu Đỗ Hồng Sơn phát biểu cảm giác về toàn bộ dự luật là mơ hồ, mới chỉ mang tính chất thống kê, nhặt nhạnh hoạt động xây dựng đô thị trong các thời kỳ khác nhau cộng lại, không tìm thấy khả năng cải thiện thực trạng quản lý quy hoạch đô thị hiện nay. Đại biểu Đặng Văn Khanh chia sẻ quan điểm, quy hoạch đô thị phải trên cơ sở quy hoạch tổng thể của đất nước. Theo ông, như Hà Nội hiện nay là “không có dấu hiệu” của công tác quy hoạch. Nếu có được quy hoạch tổng thể, Hà Nội đã không bị băm nát, chỉ nói riêng một dải đất ngoài đê sông Hồng, bao năm không thể làm gì được vì đụng luật khác. Đại biểu Đặng Huyền Thái “lật lại”, Hà Nội hiện tại thì có thể đã an bài nhưng trước mắt còn Hà Nội mở rộng. Vấn đề là xây dựng được luật này sao để giải quyết được những vấn đề về quy hoạch thủ đô. Và như thế, theo bà Thái, phần lớn nhất của tảng băng vẫn chìm chưa được nói đến. Nguồn: http://dantri.com.vn/Sukien/Vai-tro-cua-ki...8/10/256558.vip
-
Người này được một thời gian ít nhiều sẽ gặp di chứng. Nhiễm trùng hoặc là tái sỏi hoặc là bệnh phái sinh. Cần theo dõi và chăm sóc kỹ cho bệnh nhân.
-
Bạn thờ Đức Quan Thánh Đế Quân là ông Quan Vân Trường (người Hoa) hay là Ông Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân, là Đệ Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo trong Đạo Cao Đài hay là ông Hưng Đạo Vương (miền Bắc_ VN)? Đức Sinh Nương Nương là ai vậy? Có phải là bà Địa Mẫu không? Người Hoa thường thờ chung ba vị này trên một ban thờ. hoặc để bát nhang của QABT cao hơn. Nếu bạn là người Hoa thì miễn bàn vì đó là tập tục của dân tộc rồi. Người Việt không thờ chung như vậy. Nếu đã thờ thì: Quan thế âm Bồ tát, Đức Phật Như lai, Phổ Hiền bồ tát, Văn thù Bồ tát, các vị địa tạng .... đại diên cho Phật pháp thờ một hệ riêng Đức Thánh trần (Hưng Đạo Vương) đại diện cho thánh trần thờ riêng một ban Mẹ nhân gian (Mẫu Liễu Hạnh) đại diện cho thánh thiên thờ riêng một hệ với cộng đồng tứ phủ Mẹ đất (Bà Địa Mẫu), Cha trời (Tiên thiên) đại diện cho trời đất thờ chung hoặc riêng mỗi vị một ban Thổ địa, thần tài thờ riêng một ban. ....... Tóm lại là đất ai người đó ngồi. Nhà chật thì mời tất cả các vị chung một ban (tâm). Thắp nén nhang cầu ai gọi người đó. Thánh thần cũng phải xá cho thôi :unsure:
-
Nhiều chỗ lắm: 155 Lý Thái Tổ, 113 Thích Quảng Đức, 4-6 Nguyễn Trung Trực, Chợ Lớn, chợ Bến Thành, Chợ An Đông, chợ Gia Định, Thương Xá Tax, Hải Thượng Lãn Ông, ........
-
Đáng tiếc, đến giờ Việt Nam vẫn chưa có tên trong danh sách các nước thuộc Hiệp hội thiên văn thế giới ((IAU). Tại Hội nghị thiên văn quốc tế 2007 tại Ấn độ (do Unesco và Hiệp hội Thiên văn quốc tế tổ chức), trong 1.713 đề tài được chọn từ khắp các nước trên thế giới đến với hội nghị thiên văn quốc tế chỉ có duy nhất một đề tài của thầy Nguyễn Thành Tương, giáo viên vật lý và thiên văn Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (TP.HCM) làm là của người VN!
-
Phoenix xin hỏi chú Thiên Sứ một chi tiết: Khi làm cầu thang thì thường cần để ý mấy yếu tố về mặt phong thủy: - Vị trí - Hướng lên của cầu thang - Số bậc cầu thang - Các xà, dầm đâm ngang hoặc vật bố trí dưới gầm cầu thang - Độ kín của bậc Về mặt khoa học, độ rộng bậc thang và chiều cao tay vịn cần đảm bảo công thức để sử dụng hợp lý, tránh ảnh hưởng đến sức khỏe Tuy nhiên, có trường hợp gặp mắc mớ: - Số bậc đủ (n:4+1) thì tầng quá cao hoặc quá thấp (do điều kiện thi công) Trong trường hợp này thì yếu tố số bậc sẽ quan trọng hơn hay yếu tố bậc hợp lý sẽ quan trọng hơn? Số bậc thường tính riêng cho từng tầng. Điều này có áp dụng cho cả tầng lửng không? Bản thân thiết kế phong thủy là làm hài hòa các luồng khí và phối hợp hài hòa các dạng vật thể. Vậy trường hợp thang trong nhà nếu theo phong thủy thì làm nhà mất cân đối (quá cao hoặc quá thấp) thì tác dụng phong thủy ở đây được tính bằng gì? Hiểu biết hạn hẹp, kính nhờ chú Thiên Sứ và ACE am hiểu chỉ dẫn.
-
Một vài sách tử vi nhắc đến khái niệm này. Ở Miền Trung thường kiêng sinh con vào các tháng 9,10,11,12 của các năm 26,28,33 tuổi vì con sinh ra hay ốm đau, khó nuôi hoặc quấy phá nhưng có thiên tính đặc biệt. Người mẹ vất vả. Theo Phoenix kiểm tra một vài ví dụ thì thấy đều là ngày tam nương (chưa có chứng minh kết luận). Phoenix mới biết nông cạn có vậy thôi :unsure:
-
Mã não - biểu tượng "quyền lực" của người Tà Ôi Nếu như biểu tượng "quyền lực" phổ biến hàng đầu của người Kinh là vàng, thì với người Tà Ôi ở các huyện miền núi của Thừa Thiên-Huế (TT-H) và Quảng Trị lại chỉ đơn giản là một loại đá không phải quý lắm: những hạt mã não! Lang thang miền núi của TT-H và Quảng Trị nhiều năm, nhưng mãi đến gần đây, tôi mới được chứng kiến một phụ nữ "không có tuổi" tên là Kăn Đân ở xã Hồng Thuỷ, huyện A Lưới có một lúc 6 chuỗi mã não đeo trên cổ. Thích quá nên hỏi người "phiên dịch" có thể xin, mua hay đổi cái gì đó để lấy một chuỗi hay vài hạt mã não được không? Bà kăn dân (trái), một trong những người phụ nữ Tà Ôi hiếm hoi có dến 6 chuỗi mã não. Người "phiên dịch", một cán bộ xã tên Hồ Văn Tâm, cười lắc đầu: "Chắc chắn là không được bởi với người phụ nữ Tà Ôi, những hạt mã não là báu vật. Bây giờ ra chợ bỏ mấy chục ngàn là có thể mua được một chuỗi mã não chứ ngày trước, để có được mỗi hạt mã não như thế, họ phải đổi bằng... ba con bò". Cùng với chum, nồi đồng, chiêng, ché... những hạt mã não, vừa là trang sức, vừa là một biểu tượng về "quyền lực" và sự giàu có, sang trọng của người Tà Ôi. Ai có nhiều mã não, chắc chắn người đó rất giàu có và có địa vị cao trong cộng đồng. Mỗi một phụ nữ Tà Ôi khi lấy chồng, của hồi môn mang theo luôn là những hạt mã não. Nhà nào giàu to thì cho con gái một đôi chuỗi; giàu vừa thì một vòng đeo tay; tệ lắm thì cũng phải có một đôi hạt. Bà Kăn Đân kể: "Không chỉ là của hồi môn, mà ngày xưa trai gái người Tà Ôi yêu nhau, quà tặng hay tín vật cũng thường là những hạt mã não". Bởi vậy, dù bây giờ giá trị vật chất của nó không còn như xưa, nhưng người phụ nữ Tà Ôi vẫn nâng niu, gìn giữ những hạt mã não như một báu vật vì mỗi hạt có một "số phận" gắn liền với những câu chuyện kể và kỷ niệm buồn vui từ dĩ vãng. Phụ nữ Tà Ôi nâng niu những hạt mã não như báu vật. Ông Trần Nguyễn Khánh Phong - giáo viên Trường Trung học Cơ sở và Dân tộc nội trú huyện A Lưới, người có thâm niên gần 8 năm đi sưu tầm và nghiên cứu các vật dụng liên quan đến đời sống của người Tà Ôi ở TT-H và Quảng Trị - có một phát hiện rất thú vị về những hạt mã não của người Tà Ôi: Không chỉ là vật trang sức, những hạt mã não còn xuất hiện trong môtíp trang trí của tượng nhà mồ (dưới cổ) và một số vật dụng sinh hoạt khác như trên vải, gùi... Điều này chứng tỏ, ngoài ý nghĩa vật chất, những hạt mã não có một vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh và tinh thần của người Tà Ôi. Hạt mã não đẹp và quan trọng là thế, nhưng bây giờ, tìm đỏ mắt cũng không thấy một phụ nữ Tà Ôi trẻ tuổi nào đeo trang sức bằng mã não. Vậy là thêm một nét văn hoá độc đáo và đẹp đẽ của người Tà Ôi sắp sửa bị mất đi. Đã vậy theo phong tục, mỗi một phụ nữ Tà Ôi khi chết đi, một trong những vật dụng buộc phải chôn theo cũng là hạt mã não, nên loại trang sức này ngày một ít đi. Theo ông Trần Nguyễn Khánh Phong thì hiện trung bình, mỗi phụ nữ lớn tuổi người Tà Ôi còn giữ được nhiều nhất là khoảng 10 hạt mã não, nên việc trên cổ đeo một lúc 6 chuỗi như bà Kăn Đân là hiếm, và có thể coi đó là một phát hiện thú vị. Nguồn: www.quehuongoi.vn link bài viết: http://www.quehuongoi.vn/news/detail...&am...t=4&id=1384
-
Nạn lạm phát lý thuyết của người Việt. Tại quốc nội: Mới đây, báo chí trong nước khua chiêng múa trống rầm rộ cổ vũ cho một phát kiến vĩ đại của học giả Trần Gia Phụng: Họ Lý ở Đại Hàn chính là người Việt. Ông đưa ra độc nhất một dẫn chứng mới phát hiện trong Việt sử thông giám cương mục do nhà xuất bản Văn Sử Địa Hà Nội dịch thuật. Ông còn cho biết các bộ chính sử khác như Đại Việt Sử ký Toàn thư , Khâm định Việt sử, Thông giám Cương Mục v.v... đều không có. Thế nhưng những vấn nạn khác nảy sinh. Hoàng tử Lý Long Tường cho dù tị nạn ở Đại Hàn thế kỷ thứ 12, vẫn không có chứng cớ đưa đến việc dòng dõi họ Lý ở bên ấy chính là người Việt, ngoại trừ 1 trùng hợp là Việt Nam và Đại Hàn đều có họ Lý. Thế thì Lee ở Mỹ, Lý của bộ tộc Hmong, Lý bên Trung Hoa v.v... thì sao? Họ cũng có thể thuộc dòng dõi Việt Nam tùy theo hoàn cảnh chính trị qua bộ máy tuyên truyền Hà Nội nếu họ cần tung ra một phát kiến mới phục vụ cho mục đích nào đó. Ngay sau khi bác Hồ tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945, bắc Triều Tiên cũng như khối Cộng Sản Đông Âu vội vã lên tiếng công nhận và từ ấy mối giao hảo giữa ta và Bắc Triều Tiên ngày càng thắm thiết vì cả hai đều có một kẻ thù chung là đế quốc Mỹ qua 2 cuộc chiến tranh Mỹ - Bắc Hàn và Mỹ Việt. Nếu ta từng ví Việt Nam và Trung Hoa như mồm và răng thì ta với Bắc Triều Tiên cũng mật thiết như thuyền và biển. Thế nhưng thời chống Mỹ cứu nước, Hà Nội lâm vào cảnh kiệt quệ kinh tế, khoai sắn, củ chuối là thực phẩm dằn bụng của nhân dân cả nước, tại sao Bắc Triều Tiên "lòng thuyền không đau rạn vỡ"? Và hiện nay Bắc Hàn đang đói nhăn răng, phải cạp cỏ mà ăn, chúng ta không "bạc đầu thương nhớ"? Trải qua 8 thế kỷ, Lý Long Tường ở Triều Tiên vẫn chẳng ai thèm nói tới? Xin nói sơ qua về mối giao hảo giữa ta và Nam Hàn. Nam Hàn là một đối tác kinh tế quan trọng trong giai đoạn mở cửa. Xin nói thêm, kinh tế ta chẳng có gì cả ngoài việc phục dịch ngoại nhân qua các kinh doanh du lịch. Khắp nơi, khách sạn, khu giải trí, vườn sinh thái, nhà hàng, lễ hội ... thi nhau phô diễn những sắc thái ngoạn mục mời gọi du khách. Có thể nói kinh tế ta chủ yếu chỉ vỏn vẹn gồm vài thứ : tiền Việt Kiều gởi về, hầu hạ du khách và thảm thương hơn nữa, bán bắp thịt thanh niên nam nữ qua mỹ danh hợp tác lao động. Dù ta sản xuất gạo hàng đầu thế giới sau Thái Lan, kinh tế ta không đặt căn bản trên nông nghiệp. Cá Basa, tôm sú và các mặt hàng thực phẩm khác lại càng đóng vai trò phụ thuộc hơn nữa. Khắp nơi từ nam ra bắc ta đều thấy những cơ sở kinh doanh của Nam Hàn như cư xá, cơ xưởng đóng giầy, lắp ráp xe hơi, xe máy dầu, vi tính mọc lên như nấm. Như một con nợ mà tài sản thế chân không đủ đảm bảo cho sự vay mượn thêm nữa, vì rằng số nợ của ta nay lên đến 40/100 tổng sản lượng quốc gia và tuy ta phát triển trung bình 7/100 nhờ vào vay mượn mà ta gọi khéo là đầu tư, và ta cấm nói đến lạm phát, ta lạm phát 9.5/100, một chênh lệch kinh hoàng theo quan điểm kinh tế. Vài con số: Public debt: 65.9% of GDP (2004 est.) Inflation rate (consumer prices):9.5% (2004 est.) GDP - real growth rate: 7.7% (2004 est.) Current account balance: $-2.061 billion (2004 est.) (Theo dữ liệu http://www.cia.gov/cia/publications/...k/geos/vm.html) Public debt được định nghĩa là tổng số trái khoản quốc gia: nợ của chính phủ địa phương và quốc gia; một chỉ số chi tiêu bằng vay mượn thay vì đánh thuế vào dân.(Theo http://web.ask.com/web?q=what+is+public+de...qsrc=0&o=0) Chả trách được toàn dân ta rất ...yêu nước. Ta sang giàu không thua ai. Người có xe hơi ta cũng có xe hơi, người bỏ ra hàng vạn đô la một năm cho con cái ăn học ở những trường tại Hà Nội do ngoại quốc làm chủ, ta cũng thế. Lắm ông lớn “trong sạch” nhất Việt Nam bỏ ra tới 50000 USD một năm cho con cái du học ngoại quốc. Kẻ nào tỏ ra lo lắng cho mức chi tiêu ghê gớm của ta đều là bọn phản động, họ chưa từng về Việt Nam nên chưa biết ta giàu có đến mức nào. Đầu tư đối với Việt Nam ta có nghĩa là vay nợ. Nhìn sang các nước láng giềng như Thái Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Mã Lai ta cũng không nên ngạc nhiên đặt câu hỏi: Tại sao chẳng có ma nào thèm đầu tư vào các nước ấy? Phải chăng họ ...thiếu trí khôn hơn ta? Tại sao họ không đặt nặng vào kỹ nghệ du lịch như ta hay không gửi nhiều nhân công đi lao động xứ người như ta? Khôn hay dại khi họ chỉ chuyên tâm sản xuất những thứ trong khả năng chuyên môn sẵn có của họ như lúa gạo, thủ công nghiệp. Thái Lan không kêu gào đầu tư (tức là vay nợ) để sản xuất những thứ quá sức của họ như chế tạo xe hơi, phóng vệ tinh, đóng tàu biển ... Ta như con nhái muốn to bằng con bò. Chế xe đạp chưa chắc có người mua nhưng ta rấp ranh chế xe hơi chứ không thèm chế thứ xoàng xĩnh như xe máy dầu, một sản phẩm thiết thực hợp với hoàn cảnh kinh tế và hệ đường sá trong nước. Cho nên chuyện nhập cảnh hàng triệu xe máy dầu thì cứ nhập cảng, ta chế xe hơi cho thế giới nể. Đầu tư (xin nói toạc ra là vay nợ) đến mức nợ 65/100 thì hào phóng đến đâu, ngoại quốc sẽ có ngày khép chặt hầu bao vì nhỡ ta chẳng có gì bảo đảm nữa. Tiên liệu sẽ có ngày đầu tư của ngoại quốc từ từ giảm sút, ta tung những trò tuyên truyền kiểu họ Lý (nhưng phải là Lý Nam Hàn chứ không phải họ Lý ăn cỏ ở Bắc Hàn) là người Việt. Các ông kim chi đang làm ăn ở Việt Nam mất mát gì mà không công nhận? Tôi ở Đại Hàn nhưng chính phủ ông bảo tôi là dòng dõi Lý Long Tường cũng chả sao, miễn là tôi vẫn có quyền đập giày Nike vào mặt công nhân Việt Nam là được rồi. Meta quen với một thằng Mỹ họ Lee. Thế nào cũng có ngày một sử gia tiến sĩ nào đó, tốt nghiệp nhờ chém giám khảo, phát hiện họ Lee này cũng là người Việt, dù da họ có đen một tí cũng vẫn là người Việt, vào thế kỷ 14, 15 nào đó sểnh chân lạc lối sang Mỹ, hay được Lý Long Tường phái sang Mỹ rồi sinh cơ lập nghiệp ở đấy. Chẳng qua ta nợ nhiều quá, tổng sản lượng quốc gia không đủ làm cho các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn nữa, ta xoay sang đòn tình cảm. Là người Việt Nam dù ăn kim chi hay nước da có đen đi chăng nữa, ta phải góp vốn xây dựng kinh tế Việt nam thôi. Tình tự quê hương mà. Chắc họ Lý của ta không lưu lạc sang Bắc Hàn hay Hmong vì họ nghèo quá, nhận họ hàng làm gì. Một đoạn phỏng vấn trích từ http://dactrung.net/phorum/tm.asp?m=39711 "...Để tìm hiểu vấn đề này, MN đã phỏng vấn Giáo sư Trần Gia Phụng, hiện đang định cư tại thành phố Toronto thuộc Canada. Giáo sư Trần Gia Phụng là tác giả nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam xuất bản tại Canada như bộ " Những câu chuyện Việt sử" gồm 3 tập, " Những cuộc đảo chánh trong cung đình Việt Nam" , " Những kỳ án trong Việt sử" , hay " Quảng Nam trong lịch sử" , v.v... Minh Nguyệt: Trước hết, xin ông cho biết sơ qua về thân thế Hoàng tử Lý Long Tường? Trần Gia Phụng: Theo những tài liệu mới phát hiện thì Hoàng tử Lý Long Tường sống vào thế kỷ 13 và là con thứ của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138-1175), em của vua Lý Cao Tông (trị vì 1176-1210), và là chú của vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224)... Tôi nói tài liệu mới phát hiện là vì những bộ chính sử như " Đại Việt Sử ký Toàn thư" , " Khâm định Việt sử" , " Thông giám Cương mục" hoàn toàn không viết về Lý Long Tường, và có thể không biết có Lý Long Tường trong lịch sử. Chỉ vào nửa sau cuả thế kỷ 20, khi hậu duệ cuả Hoàng tử Lý Long Tường về Việt Nam tìm hiểu nguồn cội tổ tiên, thì chúng ta mới biết đến vị hoàng tử nhà Lý mà thôị Lý Long Tường có thể được xem là một trong những " Ông Tổ" vượt biên vì lý do chính trị đầu tiên cuả người Việt Nam." Giáo sư Trần Gia Phụng nói :"Theo những tài liệu mới phát hiện thì ..." Những tài liệu mới phát hiện ấy ở trong Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957 tt. 448-449. Lạ heng! Xuất bản năm 1957 nhưng chỉ mới phát hiện năm 2005 rằng họ Lý ở Đại Hàn là người Việt Nam vào giai đoạn tiềm năng đầu tư đã qua thời kỳ tột đỉnh của nó và nợ nần đang hồ hởi đuổi kịp tổng sản lượng quốc gia. Ta còn tuyên truyền nào trắng trợn hơn thế không? Càng ngày ta càng nhiều lý thuyết phục vụ nhà nước. Còn nhớ thời chiến tranh Việt Nam, nhà báo khuynh tả Wilfred Burchett tuyên bố nhà tù Cộng Sản Bắc Hàn là chốn nghỉ mát sang trọng nhất thế giới. Trích:” ... After visiting one POW camp, Burchett described it as a "luxury resort…”. Hễ bất cứ ai nói ra điều gì có lợi, người đó ắt phải tăm tiếng, đạo đức và tài năng. Vậy thì nhà báo đạo đức và tăm tiếng Burchett lập nên một giả thuyết rằng chính Mỹ Ngụy giết mấy ngàn đồng bào tại Huế hồi tết Mậu Thân 1968, và để che giấu tội ác, Mỹ Ngụy phong tỏa phạm trường, không cho báo chí đến Huế rồi tung ra chiến dịch đổ lỗi cho cách mạng. Được hỏi Tại sao ông cũng là báo chí mà ông lại lọt qua rào cản của Mỹ Ngụy ở Huế để viết bài thì ngài Burchett khả kính lúng túng rồi nói sang chuyện khác. Không chừng thời còn chen vai thích cánh với ta chống Mỹ cứu nước, ta cũng xưng tụng ngài Pôn Pốt là … đạo đức. Tại hải ngoại: Nạn lạm phát giả thuyết không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở trong số các học giả hải ngoại. Trong một buổi diễn thuyết, một vị (xin giấu tên) sau khi đưa ra một số dẫn chứng về sự tương đồng ngôn ngữ tìm thấy ở một số dân tộc, ví dụ như Việt nam có chữ “lao xao” và Mỹ cũng có chữ “loud” và “sound”. Cả Việt lẫn Mỹ đều chỉ âm thanh. Ông còn dẫn chứng một số chữ Thái Lan, Kampuchia phát âm và ý nghĩa giống tiếng Việt cũng theo ví dụ hồi nãy, rồi cứ thế kết luận rằng vì 42/100 trường hợp giống nhau ấy, ta và Thái Lan, Kampuchia cùng một gốc. Do đó, không có ngôn ngữ Việt Nam mà chỉ có ngôn ngữ Đông Nam Á. Tiếc rằng ông không cho biết con số 42/100 giống nhau ấy lấy ở đâu và nếu ông tự tìm ra thì cách thức tìm ra con số 42 ấy như thế nào? Giống 42/100 tại sao họ nói ta chẳng hiểu đến 1/100? Đã giống nhau 42/100, tất khác nhau phải là 58/100. Ông cũng không giải thích 58/100 khác biệt giữa ta và Thái Lan do đâu mà ra? Nếu thể chế chính trị và khoảng cách địa lý tạo ra 58/100 khác biệt thì cớ sao tại Việt Nam ta, Bắc Nam 2 miền cách nhau những 2000 cây số, tuyệt giao từ 1954 – 1975, ta vẫn nói giống nhau? Dường như vị học giả này bỏ sót rất nhiều công đoạn trong quá trình khảo cứu. Như thế có 2 loại trong hiện tượng lạm phát giả thuyết: Một để tuyên truyền và 1 vì không nắm vững về phương pháp khảo cứu gọi là phương pháp luận. Có 2 trường phái rõ rệt. Descartes và Bacon. Trước khi tìm hiểu 2 trường phái này, Meta sơ lược những yếu tố cần thiết trong việc lập lý thuyết. I - Đối thuyết: Một giả thuyết là một giải thích có hệ thống cho một nhóm dữ kiện liên hệ. Một đối thuyết là một cách giải thích khác cho nhóm dữ kiện ấy, kết quả ấy, sự kiện ấy. Thường thường giả thuyết là một phát biểu nhân quả: dữ kiện cho thấy X gây ra Y hoặc B xảy ra nếu A hiện diện. Điều quan trọng phải nhớ rằng trong lãnh vực của giả thuyết và giải thích, dữ kiện tự nó không nói lên điều gì cả; chúng phải được chuyển dịch (nôm na là cắt nghĩa). Việc chuyển dịch liên quan đến nhiều trở ngại, gồm thiên kiến thí nghiệm, sự lẫn lộn nhân quả và mẫu vật nghiên cứu không được thu thập một cách ngẫu nhiên (non-random sampling). Cơ nguy của việc chỉ có một giả thuyết: Nếu chúng ta tự hạn chế trong một giả thuyết độc nhất, chúng ta sẽ bỏ sót các dữ liệu không thích đáng nếu nó không chứa đựng sự giả chân của lý thuyết. Tuy nhiên, những dữ liệu ấy có thể hàm chứa tính đúng sai nếu ta có thêm một giả thuyết khác. 1- Vài chứng cớ sẽ bị bỏ rơi. Nếu chúng ta tập trung trong một lý thuyết độc nhất, chúng ta sẽ bỏ sót bất cứ dữ kiện nào không liên hệ đến tính xác thực của giả thuyết. Ví dụ: Nếu chúng ta cho rằng không có ngôn ngữ Việt Nam mà chỉ có ngôn ngữ Đông Nam Á, chúng ta sẽ tập trung vào việc thu thập những chứng cớ giúp thiết lập hay bác bẻ giả thuyết vì chúng không thích đáng. Do đó chúng ta có lẽ bỏ sót sự kiện không liên hệ. Mặt khác, một trong những giả thuyết cho rằng ngôn ngữ Việt Nam và Trung Hoa có những liên hệ mật thiết hơn thì những khúc chiết khó giải thích (chẳng hạn 42/100 giống nhau thì 58/100 kia tại sao khác nhau?) trong ngôn ngữ Đông Nam Á sẽ không bị bỏ sót. 2. Chúng ta có thể tin tưởng một cách mù quáng vào giả thuyết của chúng ta vì cảm tính. Ý tưởng thương yêu súc vật không giới hạn trong việc tìm đáp án, dĩ nhiên là thế. Khi nào nó xảy ra, kẻ thương yêu súc vật bắt đầu tìm kiếm và chọn lọc chỉ những chứng cớ nâng đỡ giả thuyết của mình, bất kể hay vô tình gạt bỏ những dữ liệu chống tình yêu súc vật. Cho thí dụ, đây là một câu chuyện: Meta nuôi một con chó và sinh lòng yêu thương nó. Để con chó ngoài sân, đặt một tấm bảng :”Đẩy cửa vào mà ăn cơm”, con chó biết đường vào nhà ăn. Meta làm một thí nghiệm khác. Cũng để con chó ngoài sân nhưng lần này meta treo tấm bảng bằng Anh ngữ “Come this way for lunch”, con chó cũng biết đường vào nhà. Chưa hết, khi Meta bịt mắt con chó, vì không đọc được chữ, con chó không vào nhà. Meta kết luận rằng con chó của Meta thông thạo 2 ngôn ngữ, bất kể rằng chẳng để tấm bảng nào, nó cũng sục sạo tìm cho được đồ ăn vì trong tiềm thức, Meta không muốn làm thí nghiệm để tấm bảng không có chữ. Nó đi ngược với lòng thương yêu con chó của Meta. Ngoài ra, Meta lờ đi việc con chó không vào nhà vì khi bịt mắt, nó không nhìn thấy cửa ra vào chứ không phải không đọc được chữ. II - Luật đề xuất và thử nghiệm giả thuyết. 1. Giả thuyết phải biện minh mọi dữ kiện thích đáng. Một giải thích chỉ cắt nghĩa một phần dữ kiện hoặc trái ngược với một sự kiện chủ yếu, thì không phải là một giải thích thỏa đáng. Nên nhớ, đặc biệt lúc bắt đầu, mọi cắt nghĩa đều vướng những vấn đề và chứa đựng vài dữ kiện có vẻ đối nghịch. Sự thực được lọc lựa, và làm sáng tỏ hơn một khi ta có được những dữ kiện tốt hơn. Vì vậy không nên loại bỏ tất cả chỉ lưu lại những dữ kiện hoàn hảo. Biết đâu khi ta càng đào sâu vào công trình nghiên cứu, những dữ kiện có vẻ dư thừa ấy lại vừa vặn lọt vào trong lý thuyết của ta. 2. Những giải thích đơn giản thường đúng hơn những giải thích phức tạp. Đây là nguyên tắc của Occam's Razor. Nguyên tắc Occam's Razor như sau. Những thực thể không được bội thừa nếu không cần thiết. Sự cắt nghĩa đòi hỏi những xác định đơn sơ nhất thường là cái đúng. Nói cách khác, khi 2 hay nhiều cắt nghĩa đáp ứng được tất cả yêu cầu cho một cắt nghĩa thỏa đáng của cùng nhóm hiện tượng, cái đơn giản nhất chính là cái đúng. Luật này được William of Occam (also spelled Ockham) đề ra, một triết gia Anh thế kỷ 14. Nó không hoàn toàn đúng hẳn nhưng đó là ý tưởng hữu ích. 3. Nhiều giả thuyết thường đúng hơn ít. Nhiều sự việc có thể xảy ra; nhưng ít sự việc có lẽ xảy ra. Có thể những phi hành gia thượng cổ xây dựng kim tự tháp Ai Cập nhưng có lẽ người Ai Cập tạo nên.More probable explanations are usually to be preferred over less probable ones. Many things are possible; fewer things are probable. It is possible that ancient astronauts built the pyramids, but it is more probable that the Egyptians did. 4. Kết quả rút ra từ giả thuyết phải phù hợp với chứng cớ. Nếu bạn lập giả thuyết rằng một quả bom phá hủy một phi cơ và làm cho nó bị rơi, bạn phải kỳ vọng tìm thấy mảnh vụn quả bom như là kết quả của giả thuyết. Khi bạn bắt đầu đọc những sự kiện phù hợp với lý thuyết, có lẽ bạn không ngăn được ý tưởng :” Tại sao, phải, nó phải như vậy.” Tuy nhiên, khi bạn bỏ công nghiên cứu (hay ngay cả bỏ thì giờ tự tạo ra một lý thuyết) một vài đối thuyết – giả thuyết đầu đột nhiên kém thuyết phục. Giống như nhiều sự việc khác trong đời sống, khi bạn chỉ có độc nhất một chọn lựa, nó có vẻ là một chọn lựa đúng; nhưng khi bạn có nhiều chọn lựa, “khẩu vị của bạn thêm phần tinh tế. Kinh Thánh cũng có đoạn : “Kẻ đầu tiên trình bày trường hợp của mình có vẻ đúng, cho đến khi người khác bước ra và nhận xét anh ta” (Proverbs 18:17). Khi bạn bắt đầu suy tưởng một giả thuyết cho một chuỗi dữ kiện, hãy tự hỏi: “Có những dữ kiện nào khác liên hệ có thể biện minh cho kết quả? Những thủ thuật tìm đáp án. 1. Bỏ thì giờ xem xét và thăm dò vấn đề thật kỹ trước khi bắt tay vào việc tìm giải pháp. Thông thường, hiểu vấn đề ắt giải quyết được vấn đề. 2. Chia vấn đề thành những phần nhỏ thường dễ tìm ra giải pháp hơn. Giải quyết từng vấn đề riêng biệt. 3. Manh mối giải quyết vấn đề phải to lớn và ở khắp nơi. 4. Bạn luôn có thể làm được điều gì đó. 5. Một vấn đề không phải là một điều trừng phạt; nó là một cơ hội gia tăng hạnh phúc nhân loại, một dịp may chứng tỏ năng lực của bạn. 6. Công thức của một vấn đề khẳng định tầm mức chọn lựa : câu hỏi của bạn quyết định câu trả lời bạn lãnh nhận. 7. Cẩn thận đừng tìm một đáp án cho đến khi hiểu rõ vấn đề và cẩn thận đừng chọn một giải pháp cho đến khi bạn có đủ mọi phương án chọn lựa. 8. Phát biểu sơ khởi của một vấn đề thường phản ảnh một giải pháp nặng định kiến. 9. Sự chọn lựa càng phong phú (ý tưởng, các giải pháp khả thí…) cho phép bạn chọn cái tốt nhất, hợp lý nhất vì chọn một món trong một sự chọn lựa chỉ có một thì không phải là một chọn lựa. 10. Người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng và giải pháp của họ tốn công sức hơn người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng, giải pháp của người khác. 11. Nên nhớ điều quan trọng nhất trong việc khảo cứu, tìm giải pháp. Một giải pháp tinh xảo, tân kỳ nhưng ngu dại mặt xã hội không phải là giải pháp tốt. Ví dụ chế ra thuốc trị bịnh AIDS bằng máu trẻ em chắc không được hoan nghênh. 12. Khi tình trạng chót đã rõ ràng nhưng tình trạng hiện tại còn mờ mịt, hãy lần dò ngược lại. 13. Kẻ chần chờ là người kết thúc sau chót. 14. Bác bỏ một vấn đề không giải quyết vấn đề đó. Thực ra, nó làm cho vấn đề đó tồn tại và ngăn trở việc tìm giải pháp. 15. Giải quyết vấn đề thực sự hiện hữu, không phải triệu chứng của vấn đề, không phải vấn đề bạn đã có đáp án, không phải vấn đề bạn mong muốn hiện hữu và không phải vấn đề vài người nào đó tin rằng hiện hữu. 16. Một nhà chế tạo thi hành một kế hoạch; một nhà sáng tạo sản xuất một kế hoạch. 17. Sự sáng tạo là xây dựng cái mới từ cái cũ bằng nỗ lực và trí tưởng tượng. Có 2 phương pháp xây dựng lý thuyết. Diễn dịch của Rene Descartes và quy nạp của Francis Bacon. Rene Descartes (1596-1650) Ta hẳn biết triết lý và toán học hiện đại khởi đầu bằng công trình của Rene Descartes . Phương pháp phân tích về suy luận tập trung vào vấn đề nhận thức luận (epistemology, nghĩa là chúng ta biết như thế nào), vốn là mối ưu tư của các triết gia từ đó. Descartes đã theo học ở trường nổi tiếng Jesuit of La Fleche, đã thụ huấn về triết, khoa học và toán. Ông có một chứng chỉ luật và sau đó tình nguyện gia nhập quân đội để có phương tiện cũng như cơ hội nới rộng kinh nghiệm . Khi nghĩa vụ quân sự cho phép, ông tiếp tục nghiên cứu về toán và khoa học. Rốt cuộc, ông không hài lòng với những phương pháp không hệ thống dùng bởi các giới chức tiền nhiệm trong khoa học, bởi ông kết luận: chúng không sản xuất được bất kỳ điều gì mà không gây tranh cãi và kế tiếp là nghi hoặc, ngoại trừ trong lãnh vực toán học mà ông tin đã được xây dựng trên một nền tảng vững chắc. Mặt khác, khoa học thời Trung Cổ, phần lớn đặt căn bản trên các tín điều của các khoa học gia trong quá khứ hơn là sự khảo sát trong hiện tại. Vì thế Descartes quyết định phát động một phương án nghiên cứu riêng cá nhân. Nhưng theo ông, ngay cả sự quan sát cá nhân trong cuốn sách Thiên Nhiên cũng không đủ vượt qua sự nghi hoặc bởi vì sự quan ngại của ông về "sự lừa gạt của giác quan". Sau khi nhận xét tất cả các phương pháp điều tra cũ mới hiện có, Descartes quyết định rằng phải có một phương thức tốt hơn, và trong bài thuyết trình về phương pháp (Discourse on Method ), ông viết, "Cuối cùng tôi quyết định nghiên cứu tự mình tôi, và chọn con đường đúng". Descartes tỏ nguyện vọng tái thiết một hệ thống chân lý mới đặt nền tảng trên một nguyên lý bất khả phản bác, giống như điểm tựa của Archimedes, cho phép ông "dời trái đất ra khỏi quỹ đạo của nó và đặt nó trong một quỹ đạo khác". Các bạn còn nhớ câu : "hãy cho tôi một điểm tựa, tôi có thể nâng quả đất" không? Nguyên lý đầu tiên ông cảm thấy hiển nhiên được tóm gọn trong phát biểu : Cogito ergo sum (I think therefore I am). Descartes tin rằng từ đấy, ông ta có thể dùng phương pháp lý luận mới xây dựng trên nguyên lý đầu tiên này, cuối cùng dẫn đến sự thống nhất mọi kiến thức. Phương pháp của Descartes đặt trên những quy tắc sau : 1- Quy tắc đầu tiên là không bao giờ chấp nhận bất cứ cái gí là đúng trừ phi tôi nhận ra một cách tỏ tường những điều này : cẩn thận tránh sự vội vã và tiên kiến (đánh giá quá sớm), và không kết luận điều gì trừ khi nó tự hiển thị rõ ràng, minh bạch trong đầu tôi rằng không còn một mảy may ngờ vực nào nữa. 2- Nguyên lý thứ hai là chia sự khó khăn thành nhiều phần càng nhỏ càng tốt, và vì nhỏ, đáp án dễ tìm hơn. 3- Thứ ba là suy nghĩ trong một cung cách thứ tự, bắt đầu với những sự việc dễ và đơn giản nhất và từ từ tiến sâu vào những nan đề phức tạp hơn, coi như các tài liệu theo thứ tự không nhất thiết phải thế. 4- Cuối cùng là hoàn chỉnh các liệt kê, tổng quát các ghi chép sao cho không còn gì bỏ sót. Tóm lại, phương pháp của ông đòi hỏi (1) chấp nhận là đúng chỉ khi ý tưởng ấy rõ ràng, không thể ngờ vực, (2)chia vấn đề thành nhiều phần nhỏ, (3)đúc kết, rút tỉa kết luận từ kết luận khác và (4) thực hiện một tổng hợp có hệ thống của toàn vấn đề. Descartes đặt toàn thể phương thức triết lý về khoa học của ông trên phương pháp lý luận diễn dịch. Descartes đã rất lạc quan về kế hoạch tái thiết một thực thể tri thức mới đáng tin cậy . Ông ta còn băn khoăn nếu trong "mọi sự có thể hiểu được với con người", có thể không là một ứng dụng thích hợp phương pháp của ông mà "không thể có bất cứ những mệnh đề quá khó hiểu đến nỗi không thể chứng minh hoặc quá tối nghĩa mà chúng ta không thể khám phá". Phạm vi tổng quát rõ rệt của Descartes có thể dẫn đưa đến kết luận rằng khoa học về nhận thức của ông (epistemology) đòi hỏi sự bác bỏ mọi thẩm quyền kiến thức, kể cả thánh kinh. Về dữ kiện, ông tự xem ông là một tín đồ Công giáo và để tôn trọng "chân lý mặc khải" (truths of revelation), ông bày tỏ :" Tôi không dám đặt những chân lý này vào những nhược điểm lý luận của tôi" Rốt cục vì đức tin tôn giáo mà ông tự giam hãm trong cái vỏ kén của sự tự xét mình . Tuy nhiên, Descartes đã gieo trồng những hạt mầm chống đối quan điểm duy thần của thế giới để cho phép con người lệ thuộc vào chính lý trí mình chứ không phải lệ thuộc vào thần linh như xưa. Phần còn lại cho những nhà nhân bản chủ nghĩa theo đuổi để dành một chủ nghĩa duy lý toàn diện như phương tiện chính thiết lập chân lý. Francis Bacon (1561-1626) Francis Bacon được gọi là vị tiên tri chính của cuộc cách mạng khoa học. Mới 12 tuổi, Francis Bacon theo học ở trường đại học Ba Ngôi (Trinity College, Cambridge), sau đó tốt nghiệp luật và cuối cùng được phép vào các tiệm bán rượu (1582, như thế, ông thành tài trước 21 tuổi). Ra trường, ông hoạt động chính trị với hy vọng nó giúp ông thực hiện những ý tưởng về sự tiến bộ khoa học . Khoảng thời gian ấy, ông được bầ làm dân biểu, phong chức hiệp sĩ (một đẳng cấp quý phái trong xã hội hơn là một chức vị), nắm giữ chưởng lý và tước vị Baron Verulam, Viscount St. Albans. Ông nổi tiếng là phát ngôn viên cho quốc hội Anh và như một chuyên gia luật Anh quốc cho vài vụ án nổi tiếng thời đó . Với tư cách một triết gia xuất chúng, Bacon động viên chính mình viết về những lĩnh vực sâu xa như khoa học và luật dân sự trong cuộc tranh đấu chống lại những lề luật xưa cũ của kinh điển chủ nghĩa (scholasticism) với sự lệ thuộc một cách nô dịch vào những điều nhà chức trách chấp nhận. Ông biện hộ cho quan điểm rằng :"bất kỳ điều gì trí tuệ nhận thức và tin tưởng với mãn nguyện xưa nay đều được đánh giá là khả nghi". Sự đam mê vào viễn ảnh sự tiến bộ của triết lý thiên nhiên mọc rễ trong niềm tin của ông rằng khoa học lệ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và cũng là nhân tố chính của tiến bộ kỹ thuật. Hầu hết công trình triết lý của ông được áp dụng vào the Novum Organum, cuốn sách nói về suy luận theo phương pháp quy nạp dùng cắt nghĩa thiên nhiên. Bacon phê phán rất gay gắt những kẻ kinh điển chủ nghĩa chỉ muốn nhảy từ một vài khảo sát tiểu tiết sang những định lý xa vời, rồi thì loại suy những định lý ấy qua chứng minh tam đoạn luận .(nói dễ hiểu hơn là chỉ cần quan sát sơ sơ rồi hấp tấp kết luận). Ông cũng bày tỏ mối bi quan của những người thuộc học phái kinh nghiệm chủ nghĩa, lầm lạc với những thí nghiệm bất cần tham khảo những hiện tượng liên hệ, vì chúng đã bị coi như vô lý trong sự tổng hợp của họ . Theo Bacon, có 4 phạm trù (nôm na thể loại) về tri thức sai, hay "ngẫu tượng"(Idols), gọi theo cách của ông, đã chiếm ngự trong đầu óc con người thời đó . 4 ngẫu tượng đó là : - Ngẫu tượng bộ tộc (Idols of the tribe): Là niềm tin sai lầm trong đầu óc con người. Chúng ta có khuynh hướng phóng đại, xuyên tạc và thiên vị. Khi chúng ta nhìn ngắm bầu trời, chúng ta không dừng lại ở chỗ ghi nhận trung thực cái gì đã mục kích. Chúng ta đem ý kiến riêng, thêm thắt vô số những bản chất tưởng tượng vào các thiên thể. Lâu dần những tưởng tượng này trở nên có uy tín và lẫn lộn với các sự kiện khoa học cho đến khi thực giả quyện thành một khối không thể tách rời. Gọi là bộ tộc vì chúng nằm sâu trong bản chất con người. Ví dụ thuyết địa cầu là trung tâm vũ trụ phát sinh từ những hạn chế của hiểu biết nhân loại. Vì tất cả nhận thức chúng ta, cả cảm giác và trí tuệ là những phản ảnh con người, không phải vũ trụ, ngẫu tượng bộ tộc bắt rễ trong sự bất toàn thiên bẩm của con người. - Ngẫu tượng hang động (Idols of the cave): Cắt nghĩa chủ quan vì bịa đặt cá nhân hay khuynh hướng cá nhân. Ví dụ khái niệm Thế giới quan từ trường của Gilbert. Ông cho rằng từ lực là linh hồn của trái đất.Xin tìm Gilbert's "magnetic world view." trong http://chem.ch.huji.ac.il/~eugeniik/...y/gilbert.html để đọc thêm. Trí tuệ con người giống như một hang động. Tư tưởng của mỗi cá nhân lần mò trong hang thẳm và được sửa đổi bởi tính khí, giáo dục, thói quen, môi trường và may rủi. Vì vậy, một người dốc tâm nghiên cứu vấn đề nào đó nô lệ vào chính sự quan tâm của ông ta và chuyển dịch mọi hiểu biết khác theo công trình nghiên cứu của mình. Nhà hóa học cho rằng hóa học là chủ chốt mọi sự, nhà vật lý cho rằng vật chất là tất cả. - Ngẫu tượng mậu dịch (Idols of the market-place): Trở ngại ngôn ngữ và sự lẫn lộn giữa ngôn từ và thuật ngữ. Ví dụ vấn đề định nghĩa các từ lại lệ thuộc vào chính các từ . Ta không thể định nghĩa chữ bằng cách dùng chữ cũng như không thể lấy thước đo sự chính xác của thước khác hay dùng một quả cân để nghiệm nặng nhẹ quả cân khác. Con người uốn nắn tư tưởng thành ngôn ngữ để tiện trao đổi nhưng ngôn ngữ thường thay thế tư tưởng và con người nghĩ rằng họ thắng thế trong một tranh luận vì họ nói hay nói giỏi hơn đối phương. Ảnh hưởng của sự vận dụng ngôn ngữ bất cần lưu ý đến ý nghĩa xác thực của nó chỉ bóp méo sự hiểu biết và nảy sinh sai lạc. Ngôn ngữ thường phản bội mục đích của nó, làm lu mờ tư tưởng nó được dùng để diễn tả. - Ngẫu tượng sân khấu (Idols of the theatre) : Những giáo điều triết lý được nhận thức từ những quy luật chứng minh sai. Nó liên quan đến kết quả phương pháp lý luận tam đoạn luận của Aristote. Chúng rất nguy hiểm vì tính hoang đường và hoàn toàn không thể kiểm chứng. Chúng gồm ngụy biện, duy nghiệm và mê tín dị đoan trong lãnh vực lý thuyết, triết lý và khoa học.Khi triết lý sai lầm được khai thác và đạt được uy tín trong thế giới của các nhà trí thức, con người sẽ không dám ngờ vực nữa. Vì triết lý trực tiếp kế thừa một tiến trình cá biệt và con đường của đời sống và cả 2 thành phần này được lãnh hội qua học hỏi, không phải bẩm sinh. Vì thế, ngẫu tượng sân khấu dùng để chỉ sự việc không thể lý luận, không thể hiểu thấu. The Phaedo của Plato là một thí dụ. Đề mục là vấn đề linh hồn sau khi chết. Vì không ai chết đi, sống lại để kể lại cuộc du hành của linh hồn, Plato bắt đầu cắt nghĩa bằng nhận thức của mình. Tuy nhiên, sự hiểu thấu và lý luận của ông bị giới hạn rằng cho đến lúc ông ta kể câu chuyện của ông, ông chưa hề chết. Vì vậy the Phaedo là một ngẫu tượng sân khấu vì cái được diễn giải là hoang đường và đòi hỏi một niềm tin mãnh liệt để có thể tin được. Trái với những ngẫu tượng trên (tôn trọng những tên gọi của ông, xin hiểu ngẫu tượng là nhược điểm trong suy luận con người) Bacon nói rằng một khoa học đích thực tiến hóa trong những bậc thang đi lên và bằng những nấc thang kế nhau không gián đoạn hay hư gẫy, chúng ta tiến từ những hiện tượng riêng biệt đến những định lý sơ khởi và rồi những định lý trung gian, cái này bao gồm những cái trước, và cuối cùng hình thành cái định luật quán triệt tất cả . Tóm lại, phương pháp của ông yêu cầu : (1) Tích trữ những quan sát riêng biệt (những hiện tượng đơn lẻ thuộc kinh nghiệm). (2) Bằng quy nạp, suy ra những định lý sơ khởi. (3) Cuối cùng đề xuất những ý tưởng quán triệt nhất, theo từng bước tiệm tiến. Nếu chúng ta đọc ý nghĩa hiện đại thành ngôn ngữ Bacon dùng, chúng ta có thể thấy một điềm báo của ý tưởng một giả thuyết trong từ "định lý sơ khởi". Định lý sơ khởi chính là giả thuyết vậy . Xin đừng trách Bacon, thời đó chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu lắm . Sự kiện này giúp phương pháp của ông thích hợp với khái niệm đã trưởng thành của khoa học ngày nay, tuy nhiên, ngữ cảnh (context) chỉ rõ rằng ý tưởng của ông vẫn chưa được phát triển toàn diện . Bacon cũng lý giải rằng phương pháp quy nạp này "phải được áp dụng không những trong việc khám phá các định lý mà còn ngay cả trong việc đúc kết thành định luật cuối cùng nữa", có lẽ phù hợp với khái niệm của một hệ khuôn thước, nhưng một lần nữa, nó có thể văn bản hóa . Trong cả 2 trường hợp, rõ ràng quan điểm của Bacon về phương pháp khoa học là tiệm tiến và tích trữ dữ kiện khảo sát. Sự chấp hành táo bạo kinh nghiệm chủ nghĩa của Bacon có thể ám chỉ trong vài trường hợp ông không chấp nhận bất kỳ kiến thức nào không được nhận ra từ sự quan sát cá nhân. Điều này là một sự hiểu lầm hẹp hòi quan điểm triết lý thiên nhiên của Bacon, lĩnh vực ông cho rằng là một nô tỳ trung thành nhất của tôn giáo. Bacon thực sự thấy phương pháp mới của ông về lãnh hội kiến thức là một thể hiện sự linh ứng lời tiên tri trong Thánh Kinh về ngày tận thế " Sẽ có nhiều người đến và đi và kiến thức sẽ tăng thêm". Thêm vào đó, ông thấy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật chính là sự phục hồi sứ mệnh thống trị . Ông viết :"Loài người ngã xuống từ sự vô tội cùng một lượt với sự thống trị của mình trước đấng sáng tạo. Cả hai sự mất mát này có thể được sửa chữa một phần trong cõi tạm; sự sạch tội thì bằng tôn giáo và đức tin, sự thống trị thế giới bằng nghệ thuật và khoa học". Tuy thế, có lý do tin rằng quan điểm của Bacon sẽ gây quan ngại cho các nhà nhân loại bản chủ nghĩa, vì ông tin rằng phương pháp quy nạp "sẽ đẩy lùi cái hạn chế của quyền năng và sự vĩ đại của con người", và một ngày nào đó sẽ "nắm tất cả". Với những người ủng hộ quan điểm thế giới khoa học, sự dự đoán này được công bố là đã linh nghiệm. Dị đồng trong phương pháp luận của Descartes và Bacon . Sự khác biệt giữa Descartes và Bacon rất nhiều và sâu xa, nhưng cũng có nhiều điểm giống nhau. Mỗi vị tiền phong này rao truyền sự phế bỏ mọi phương pháp cổ truyền và mọi kết quả của các công trình nghiên cứu trước. Cả hai đòi hỏi một tiêu chuẩn chính xác mới vì có quá nhiều thí dụ về lý luận tuỳ tiện và quan sát chủ quan trên con đường khoa học trong quá khứ. Cũng có một niềm tin chung giữa 2 vị là mối hoài nghi về "sự dối gạt của giác quan". Thêm vào đó, họ tin vào sự lược giảm những vấn đề thành những thành phần nhỏ nhất, đơn giản nhất như một nguyên tắc tổng quát. Descartes và Bacon mỗi người tự thấy mình chủ yếu trong vai trò hiển dương khoa học và do đó họ đóng góp rất ít vào bất cứ lãnh vực riêng biệt nào đó trong khoa học thực nghiệm. Cuối cùng, cả hai đều là những thiên tài thăng tiến các lãnh vực của khoa học mà sau đó trở nên điều kiện phải có để tiến bộ. Khác biệt rõ ràng nhất trong phương pháp luận của Descartes và Bacon liên hệ đến quá trình lý luận. Descartes bắt đầu với những nguyên lý rút ra bằng trực giác làm tiền đề trong phương pháp luận diễn dịch chuẩn, nhưng Bacon bắt đầu bằng quan sát duy nghiệm, áp dụng quy nạp pháp suy luận ra những định lý cao hơn. Phương pháp của Descartes là phương thức từ trên đi xuống, còn Bacon là từ dưới đi ngược lên . Sự khác biệt này rõ rệt đến nỗi có những lúc Bacon chỉ trích nặng nề phương pháp của Descartes là thí dụ điển hình cho những gì sai lầm trong khoa học . (Hehehe dĩ nhiên Bacon không tố cáo Descartes phản cuốc, phản xẻng như Việt Cộng). Một khác biệt cốt yếu trong học trình của 2 người là Descartes am hiểu một cách quán triệt về toán học và Bacon thì không chuyên về toán. Descartes được ghi nhận về những thành công trong đại số và hình học và Bacon thì ít đề cập về toán vì ông chuyên môn về luật. Học trình có thể giải thích những tương tự trong phương pháp của Descartes luôn song song với chứng minh toán học . Riêng Bacon, sự quan sát duy nghiệm trong khoa học có thể tương ứng với "nhân chứng" cần có để chuẩn bị cho một vụ án vì ông là một luật gia. Dựa vào học trình của Descartes, nó có vẻ rõ rệt rằng cái méo mó nghề nghiệp của ông có thể thấy trong các nhà toán học, ông nói :"các toán học gia đã có thể tìm ra vài chứng minh, vài vài lý do chắc chắn và minh bạch", vì vậy, ông quyết định "bắt đầu với những gì họ đã làm". Dù sự nghiệp xuất chúng của Bacon, ông ta đã thực sự rất thực dụng chủ nghĩa trong việc theo đuổi một mẫu mã tìm thấy trong cơ khí học. Nghệ thuật cơ học đặt nền tảng trên thiên nhiên và ánh sáng của kinh nghiệm. Vì sự quan sát này ông đã bị ấn tượng sâu xa về sự khám phá ngành in ấn, thuốc súng và từ lực. Trong quan điểm "không đế quốc, giáo phái hay thiên thể nào có vẻ áp đặt quyền lực và ảnh hưởng trong công việc của con người hơn những khám phá cơ học này". Một lưu ý quan trọng là dù phương pháp của Bacon và Descartes khác nhau, khi các mẫu mã của họ được tổng hợp thành một, chúng ta có một sự đoán trước về toán học thực nghiệm hiện đại. Hiện nay, ta có thể thấy khi gộp chúng lại với nhau, phương pháp của Rene Descartes và Francis Bacon là phôi thai của phương pháp khoa học hiện đại. Kết luận. Tóm lại, có 2 nguyên do dẫn đưa đến việc đề xuất và gieo rắc những lý thuyết sai lạc: tuyên truyền phục vụ cho một ý đồ nào đó và nghiên cứu thiếu cơ sở luận lý, không nắm vững phương pháp luận. Cả 2 nguyên do đều né tránh những sự kiện bất lợi cho lý thuyết của mình và cả hai cùng có hại đến tri thức con người. Về mặt tuyên truyền, ta thấy thể chế nào cũng tuyên truyền nhưng đặc biệt ở những quốc gia cố bám vào học thuyết chính trị, ý thức hệ nhảm nhí nhằm biện minh cho độc quyền cai trị đất nước như các quốc gia vẫn còn oằn vai dưới gông xiềng chủ nghĩa Cộng Sản, trong đó có Việt Nam ta. Hiện tượng các vị cựu lãnh đạo đất nước, lãnh đạo đảng sau khi mất hết quyền hành, cất tiếng than vãn về cái ách chính mình đẽo gọt choàng lên đầu trên cổ mình như ông lão Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu và các vị đối lập khác cho chúng ta thấy cái nguy hiểm của việc tạo lập bừa bãi các thuyết sai lầm phục vụ cho những mục đích riêng tư. Về mặt thiếu chuyên môn cũng thế. Phải cẩn thận trong mọi đề tài nghiên cứu. Phải hiểu kỹ vấn đề và làm việc theo một quy trình có phương pháp khoa học. Meta mong mỏi mai sau, chúng ta không bị mang tiếng là nhà bảo sanh của nạn lạm phát lý thuyết. Metamorph. Nguồn: http://hatnang.net/
-
BQT nên chăng tuyển thêm 1 số Mod và phân quyền cho họ đi "dọn dẹp" :unsure: