phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Trong quá trình đi tìm tư liệu về Diêm Vương, Phoenix tìm thấy thuyết này: "Thập Điện Diêm Vương là hệ thống Diêm Vương đặc biệt của Trung Quốc, trong kinh Phật thời kỳ sớm nhất không có cách nói này về Thập Điện Diêm Vương. Theo Cấm Độ Tam Muội Kinh nói : dưới sự cai trị của Diêm Vương chỉ đặt Ngũ Quan gồm có Tiên Quan cấm sát, Thuỷ Quan cấm đạo, Thiết Quan cấm dâm, Thổ Quan cấm lưỡng thiệt, Thiên Quan cấm tửu (Tiên Quan cấm giết chóc, Thuỷ Quan cấm trộm cướp, Thiết Quan cấm dâm dục, Thổ Quan cấm hai lời dối trá, Thiên Quan cấm uống rượu). Quyển thứ ba mươi ba trong trước tác Phật Tổ Thống Ký thuộc Sử Truyền Phật Giáo Trung Quốc ghi lại : “Thế truyền Đường Đạo Mi" (nguồn: http://www.thegioivohinh.com/showthread.php?p=64882) Đây là chi tiết rất phù hợp với khái niệm "Ngũ hành Thiên - Ngũ hành Địa"; tương ứng với Thiên Hoàng (cha trời/Càn/Dương) và Địa Mẫu (mẹ đất/Khôn/âm). Tuy nhiên, Phoenix chưa tìm được thêm tài liệu nói rõ về chi tiết này. Nếu ai có tư liệu, vui lòng chia sẻ. Phoenix xin trân trọng cảm ơn!
  2. Quan niệm về cái đẹp ở Nhật qua các thời kỳ [/color] 04/11/2008 - 23:48 Phụ nữ Nhật hồi xưa rất thích nhuộm răng đen, hơn thế nữa, họ còn thích cả...xăm mình? Tag: Quan niệm về cái đẹp ở thời Nara (710 - 793) là làn da trắng trẻo. Cũng trong thời Nara, phụ nữ Nhật bắt đầu biết dùng phấn trắng để trang điểm mặt và thích xăm mình. Giới quý tộc thời ấy còn khởi xướng phong trào nhổ lông mày, nữ cũng như nam. Nam giới thích cột tóc đuôi gà hay búi thành lọn, trong khi các cô gái lại thích xõa tóc ngang vai. Nhuộm răng đen là dấu hiệu cho thấy quý bà đó thuộc tầng lớp thượng lưu và người ta cho rằng tục nhuộm răng ở xứ Phù Tang có nguồn gốc từ Đông Nam Á chứ không phải Trung Hoa. Phái nam thuộc giới quý tộc không những nhuộm răng mà còn "đánh má hồng" song song với việc cạo trọc nửa đầu (phần trán) Phong trào nhuộm răng đen lan mạnh đến thế kỷ 11, thời Nhật hoàng Shirakawa (1072-1086). Phái nam thuộc giới quý tộc không những nhuộm răng mà còn ''đánh má hồng'' song song với việc cạo trọc nửa đầu (phần trán). Ở thời này, phụ nữ tiếp tục thích để tóc dài và buông rủ lững lờ như những con suối ở Kyoto. Da trắng cộng với tóc đen là công thức làm đẹp của phụ nữ Nhật trong giai đoạn này. (Trích từ nguồn: Xem tại đây)
  3. [b]Vài nét về tục nhuộm răng đen [/b]GS.TS NGUYỄN LÂN DŨNG Theo BS. Hồ Đắc Duy thì trong các truyện cổ tích, từ hàng nghìn năm trước người nước ta đã có tục nhuộm răng, theo truyền thuyết tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Thái, Si La... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm. Như người Thái ở Việt Bắc thì họ nhuộm răng và ăn trầu là làm cho răng bền chắc tránh sâu răng. Chiết răng Suốt trong thời niên thiếu thì người con gái Thái chưa làm, chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu. Cách nhuộm răng của họ cũng khác với người Kinh, để làm sạch răng họ phải chà sát nhiều lần bằng một miếng cau khô sau đó dùng lưỡi dao hoặc lưỡi thuổng cùn hơ cho vừa nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra mà không cháy thành than. Chờ cho bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy nhựa đó miết vào răng. Miết cho đến lúc chất nhựa này bọc hết hai hàm răng mới thôi. Trong vòng 7 đến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non. Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Một câu chuyện về nghệ thuật nhuộm răng thường được nhiều người ở Huế nhắc đến là cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ, cách cầu Ngói Thanh Toàn và làng Đồng Di Tây Hồ một con sông. Muốn được bà nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi... Đến năm 1949, không hiểu tại sao ông già mù hát vè bị Tây bắt và lôi ra bắn chết dưới dốc cầu An Cựu. Cả nhà bà thầy Thại dọn đi đâu mất trong ngày hôm ấy, nghe đâu mấy năm sau có người gặp bà ở cửa Tranh Đề. Kể từ khi nền văn minh tây phương, nền văn minh răng trắng xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta (1862) nhất là vào những thập niên 30 thế kỷ 20. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo tây, làm me tây... còn nhóm kia thì cho rằng bối tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Lúc mà phong trào để răng trắng thắng thế cũng là tục nhuộm răng bắt đầu đi vào lãng quên.
  4. Thành phần hóa học của chất thuốc nhuộm răng Bọ cái phát tiết sáp nhựa Từ lâu người ra đã biết cây sơn Rhus vernicifera sp. hay R. succedana L., thuộc họ Xoài Anacardiaceae, có nhựa nhưng không dùng được trong miệng vì chất laccol rất độc. Nhựa trong thuốc nhuộm răng được lấy ra từ một côn trùng cánh nửa hemiptere tí hon (0,60-0,70mm) sống ký sinh từng tập đoàn từ 80-100 con (ở Việt Nam trung bình 170 con) trên thân, cành nhiều loại cây ở Đông Nam Á. Con sâu nầy tùy tác giả được gọi Tachardia lacca R. Bld., Carteria lacca Sign. hay Coccus laccae Kerr, trước khi mang tên thông dụng ngày nay Laccifer lacca Kerr, thuộc họ Sâu cánh kiến Lacciferidae Cockerell. Tachardia, Carteria từ Tachard (1709), Carter (1861) là tên những nhà khoa học đã khảo cứu và miêu tả nhựa sâu như Kerr (1781), Roxbary (1796). Lacci nguồn gốc từ tiếng Ấn Độ lakh hay Phạn tự laksha nghĩa là trăm ngàn vì số lượng sâu trên cây nhiều vô kể, từ đấy phát xuất những danh từ Âu Mỹ lak, lac, laque. Sâu chọn làm giống được buộc vào cây, có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi lưới rồi mắc lên cành, ở chỗ phân nhánh để sâu bò sang nhiều cành. Sâu hút nhựa cây mà sống, trưởng thành lớn lên thành bọ mới phân hóa đực, cái. Cả hai loại (hai phần ba là cái) cùng nhau làm tổ trong vỏ cành cây, tổ loại đực hình thoi, mỏng và nhỏ, tổ loại cái hình tròn, lớn hơn. Bọ đực thoát xác, mọc chân, mọc cánh, có thể di động được để đến với bọ cái. Trong lúc đó bọ cái nằm yên trong tổ, chỉ lòi bộ phận sinh dục ra ngoài để giao cấu. Làm xong nhiệm vụ, bọ đực kiệt lức chết đi, hy sinh cho giống nòi. Bọ cái có chửa, phồng lớn, cho phát tiết sắc tố và và sáp, nhựa để nuôi nấng và bảo vệ bầy con sắp đẻ. Mỗi bọ cái có thể mang đến một ngàn trứng (ở Việt Nam, trung bình từ ba đến bốn trăm trứng) hình bầu dục nhỏ, dài, chen lấn trong một túi dung dịch nhuộm màu đỏ son rất đẹp. Ấu trùng từ trứng nở ra, ăn sắc tố mà lớn lên làm dung dịch đặc lại, khô dần. Oái ăm thay, sâu càng trưởng thành thì tổ mẹ càng chật ra, bọ cái dần dần bị ngạt chết, cũng hy sinh cho giống nòi như bọ đực, sâu con không chịu đựng được nữa, luồng qua xác mẹ để thoát ra ngoài, bắt đầu một chu kỳ khác. Mỗi năm có hai chu kỳ. Những bọ đực mùa đông nhờ có cánh có thể bay qua thụ tinh những bọ cái ở các cành xa. Theo nguyên tắc, mỗi năm có thể lấy nhựa hai lần, song ở Việt Nam vì khí hậu ít ôn hoà nên chỉ thực hiện được một lần. Ở Mộc Châu, thả 5kg giống trên cây vải, nhựa thu hoạch được là 200 kg. Còn sắc tố cấu tạo trong tổ cho sâu con có thể thu hoạch cùng lúc với nhựa, nhiều khi trước khi trứng nở nhưng như vậy thì mất đi một lứa sâu mới. Bản chất của các cây trú sâu có ảnh huởng rất lớn lên nhựa sơn. Chúng phải mọc ở những vùng không quá nóng, không quá lạnh, cần ẩm ướt nhưng đừng mưa quá nhiều. Ấn Độ là nước sản xuất nhựa nhiều nhất trên thế giới, khoảng 50.000 tấn mỗi năm, xuất cảng qua Hoa Kỳ, Indonexia, Canada, Đức, Nhật, Pháp, Nga ,… Bên nước ấy, nhựa sơn hảo hạng được lấy từ những cây kusum Schleichera trijuga Willd., dhak Butea frondosa Roxb., arhar Cajanus indicus Sprengl hay C. cajan (L.) Mills. Ở Việt Nam, cây trú sâu mọc trong khoảng cao độ 400-700m. Ta cũng có cây kusum gọi là dầu trường hay cọ phèn (lúc trước dầu dùng để gội dầu, nhân hạnh thế đào lạc trong bánh trái), cây dhak gọi là giêng giêng (vỏ cây tán với gừng để đắp lên vết rắn hay bò cạp cắn), cây arhar gọi là cây đậu thiều hay đậu săng (cây thường được dùng để chữa đau xương mỏi chắc). Ngoài ra sâu nhựa cũng ăn bám trên các cây chưng bầu Combretum quadrangulare Kurz (trái và vỏ cây được dùng làm thuốc trừ giun), dầu dầu Schleichera oleosa (Lour.) Oken., bồ đề Ficus religiosa L., sen cát Shorea cochinchinensis Pierre, lá ngón Pterocarya tonkinensis Dode, ba chế Desmodium cephalotes Wall., hay một số cây ăn quả như vải Litchi sinensis Radk., táo Ziziphus mauritiana Lamk., nhãn Euphoria longan (Lour.) Steud.,… Nhựa sơn bên ta tùy theo địa phương được gọi cánh kiến (hay cánh kiến đỏ), cành kiến, kiền kiến,… nên có sự ngộ nhận : có người cho là cánh con kiến, có người hiểu là cành cây kiến, có người lại tưởng là thân con sâu kiền kiến hay kiến vương,… Thành phần cấu tạo nhựa sơn Ngày nay trên thị trường người ta phân biệt ba loại nhựa sơn : nhựa thô lấy từ thân, cành cây ra còn chứa tạp chất như vỏ cây, lá cây, sâu non, xác bọ, đậm màu, gọi là sticklac tức là nhựa thỏi. Dùng nước chiết xuất để đào thải sắc tố, đem phơi khô, giã nát rồi rửa lọc các tạp chất thì được nhựa màu đỏ vàng, còn chứa chút ít sáp, gọi là seedlac tức là nhựa hột. Lại tiếp tục rửa nước, làm ròng, lọc sạch, có khi tẩy trắng với một dung dịch alcali hypochlorit (11) thì nhựa tinh khiết màu vàng lạt mang tên shellac tức là nhựa vẩy. Làm lớp sơn lót trong giai đoạn nhuộm thứ nhất, nhựa sơn đóng vai trò chủ chốt vì trực tiếp kết dính men răng. Tuy được chú ý từ những thế kỷ 18, 19, nhựa sơn chỉ bắt đầu được khảo cứu tường tận từ đầu thế kỷ 20 rồi bật tung vào những thập niên 70, 80. Chính vào những năm nầy mà nảy nở những luận án nha y đề cập đến vấn đề dùng nhựa sơn để nhuộm răng (4-7) . Khi khảo sát seedlac của cây palas, nhóm Mhaskar-Sukh Dev (18) dùng ethanol pha nước khử sáp rồi lấy ether làm kết tủa "nhựa cứng" tách nó ra khỏi phần "nhựa mềm". Phần "nhựa cứng" còn gọi "nhựa ròng", chiếm 70% tổng số nhựa cây, được đem phân tích qua các phương pháp sắc ký lớp mỏng và giấy (18de). 12 acid đã được xác định (18d) : butolic (14b,18b,20) , aleuritic (12ab,13,18b), jalaric (18ab), shellolic (10,12a,24), epishellolic (18ab,24a), laksholic (18b), epilaksholic (18b), laccijalaric (18c), laccishellolic (18c), epilaccishellolic (18c), laccilaksholic (18d) và epilaccilaksholic (18d) acid cùng 18 amin acid (22). Nếu những tên shellolic, lacksholic, laccishellolic, laccilaksholic acid dĩ nhiên từ shellac, lakh mà ra, những tên butolic, jalaric acid lấy gốc từ những tên cây trú sâu Butea monosperma Lamk., jalari Shorea talura Roxb. Hai aleuric và butolic acid là những phân tử dài, mở, những acid khác đều là những dẫn xuất của một vòng terpen. Bên cạnh các acid nầy, nhóm Gardner (12) còn chiết xuất ra được những kerrolic acid (12d), laccolic lacton (12cd), periolic acid (12c). laccaic acid A laccaic acid B laccaic acid C laccaic acid D Còn hai hóa chất quan trọng trong nhựa sơn là hai sắc tố màu vàng erythrolaccin và màu đỏ laccaic acid (8ab,15,23b). Cấu tạo cả hai có đồng sườn anthraquinon mang ba hoặc bốn nhóm hydroxy ; laccaic acid có thêm hai nhóm acid và một nhóm keton. Sắc tố nầy được khai thác trong thực phẩm, mỹ nghệ. Vải bô nhuộm với sắc tố nhựa sơn có khả năng khử trùng chống Escherichia coli, Bacillus subtilis, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa. Gần đây cây đậu săng Cajanus cajan (L.) Mills được khảo cứu tường tận hơn. Lá cây chứa một số hóa chất như vitexin, salicylic acid, henritriacontan, laccerol, longistylin, pinostrobin, b-sitosterol, b-amyrin,… . Mục đích các nhà khảo cứu là tìm một cây trú sâu cống hiến đủ điều kiện để có nhựa sơn tốt. Theo đông y, nhựa sơn có tác dụng làm thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm máu, đậu chẩn, tuy vậy ít được dùng làm thuốc. Sách xưa có nói đến chống thổ tả, trừ nôn mửa, tiêu chảy. Shellac phát triển nhiều hơn trong mặt kỹ nghệ. Được nói nhiều nhất là nguyên liệu để làm dĩa hát, bắt đầu với những dĩa 78 vòng mà phần lớn chúng ta đều biết cách đây một nửa thế kỷ, ngày nay khó chóng chỏi với nhựa nhân tạo. Nhựa sơn là một chất chịu acid, cách điện, chống tia cực tím, còn được dùng để làm vec ni, mực in, thuốc xức tóc, khuôn răng giả, bao chống ẩm, tô nón nỉ, đánh bóng sàn nhà, đồ gỗ, tre, vải, da,… Ngày nay, nha y dùng nhiều nhựa nhân tạo để lấp bít các lỗ hổng trong răng. Những nha sĩ tôi gặp không có ai chịu hưóng về nhựa sơn dù là một hóa chất thiên nhiên có nhiều tính chất tốt về sức kết dính, độ thấm nước (rất cần để xử lý trong miệng luôn có nước miếng), thêm vào một kích thước khá nhỏ để dành chỗ các enzym, vi khuẩn có thể làm hư răng. Ngành nha y ta có nên chăng tiếp tục khảo cứu để dùng trong công cuộc phòng ngừa bệnh sâu răng ? Nhựa sơn tẩy trằng có thể là một thuốc nhuộm răng trắng, bảo vệ men răng. Trích Thông tin Khoa học và Công nghệ (4) (1997) 61-66 (có sữa chữa và bổ túc tài liệu) Tham khảo (*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 676 1- Dr Hocquard, Une campagne au Tonkin, Hachette, Paris (1882) ; Arlea, Paris in lại (1999) 122 2- A. Sallet, Les laquages des dents et les tinctures dentaires chez les Annamites, Bull. Amis Vieux Hué (4) 15 (1928) 223 3- Nguyễn Văn Ký, La société vietnamienne face à la modernité, l’Harmattan, Paris (1995) 231 Vài luận án nha y vế nhuộm răng 4- Vũ Ngọc Quỳnh, Le laquage des dents en Indochine, Hà Nội 1937 5- Bửu Điềm, Phùng Thị Cúc, Le laquage des dents auVietnam. Le shellac en dentisterie préventive, Paris 1973 6- Trần Văn Phú, La résine gomme laque. Orientation des recherches vers son emploi dans l’obturation des micro-espaces des dents, Paris 1975 7- Tô Huệ Mỹ (bà Lê Văn Lý), Le laquage des dents. Contribution à l’étude des mœurs et coutumes de l’ancien Viet Nam, Paris 1973 ; Trân Thị Phùng Giao (bà Hồ Võ Tuân), Réflexions sur le laquage des dents au Vietnam, Toulouse 1978 ; Claude Bosq, Noircissement des dents en Asie orientale, Paris 1982 ; Cyril Bourgaux, Pratiques traditionnelles, culturelles et rituelles intéressant les tissus durs et mous de la cavité buccale en Asie et Océanie tropicales, Bordeaux 1989 Nhựa sơn 8- Nhóm Burwood : a) R. Burwood, G. Read, K. Schofiels, D.E. Wright, J. Chem. Soc. (1965) 6067-73 ; :P id. (1967) 842-54 9- D. Chen, H. Li, H. Lin, Zhongcaoyao (10) 16 (1985) 2-7 10- Nhóm Cookson-Morisson : a) R.C. Cookson, N. Lewin, A. Morisson, Tetrahedron 18 (1962) 547-58 ; :) R.C. Cookson, A. Melera, A. Morisson, id. 1321-3 11- M.O. Faruq, M.I.H. Khan, M.M. Alam, M.Z. Haque, M.A. Rahman, Bangladesh J. Sci. Ind. Res.(3-4) 27 (1992) 134-40 12- Nhóm Gardner : a) B.B. Schaeffer, Wm.H. Gardner, Ind. Eng. Chem. 30 (1938) 333-6 ; :rolleyes: B.B. Schaeffer, H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 451 ; c) H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 454-8 ; d) Wm.H. Gardner, Official Digest Federation Paint and Varnish Production Clubs (1938) 473-8 ; e) P.M. Kirk, P.E. Epoeri, Wm.H. Gardner, J. Amer. Chem. Soc. 63 (1941) 1243-6 13- B.S. Gidvani, J. Chem. Soc. (1944) 306 14- Nhóm Gunstone : a) W. Caruthers, J.W. Cook, N.A. Glen, F.D. Gunstone, J. Chem. Soc.(1961) 5251-4 ; :rolleyes: W.W. Chritie, F.D. Gunstone, H.G. Prentice, id. (1963) 5768-71 15- K. Harada, R. Higuchi, A. Ohwa, T. Ohtsubo, Japan 75 13,298 (1975) 3 tr. 16- M.G. Hussain, M.H. Ali, M.M. Ali, F.K.N. Chowdhury, J. Acad.Sci. (2) 11 (1987) 231-2 17- F. Liu, P. Yi, S.Li, Linye Kexue (1) 24 (1988) 106-12 18- Nhóm Mhaskar-Sukh Dev : a) M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetr. Letters (8) (1963) 513 ; :lol: M.S. Wadia, R.G. Khurana, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetrahedron 25 (1969) 3841-54 ; c) A.N. Singh, A.B. Upadhye, M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 3855-67 ; d) R.G. Khurana, A.N. Singh, A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 26 (1970) 4167-75 ; e) A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 4177-87 19- M. Matsumoto, Y. Yehara, Japan Kokai 78 29,965 (1978) 2 tr. 20- Nhóm Sen Gupta : a) S.C. Sen Gupta, P.K. Bose, J. Sci. Ind. Res.11B (1952) 458-61 ; :D S.C. Sen Gupta, id. 18B (1959) 210-2 21- R. Singh, A. Jain, S. Panwar, D. Gupta, S.K. Deepti, Dyes and Pigments (2) 66 (2005) 99-102 22- P.N. Srivastava, R.K. Varshney, Entom.Exp. Appl.(2) 9 (1966) 209-12 23- Nhóm Venkataraman : a) N.S. Bhide, A.V. Rama Rao, K. Venkataraman, Tetr. Letters (1) (1965) 33-5 ; :P E.D. Pandhare, A.V. Rama Rao, R. Srinivasan, K. Venkataraman, Tetrahedron Suppl. (1) 8 (1966) 229-39 24- Nhóm Yates : a) P. Yates, J. Amer. Chem. Soc. 82 (1960) 5764-5 ; :lol: P. Yates, A.C. Mackay, L.M. Pande, M. Amin, Chem. Ind. (1964) 1991 ; c) P. Yates, G.F. Field, Tetrahedron 26 (1970) 3135-58 ; d) P. Yat’es, P.M. Burke, G.F. Field, id. 3159-7 (Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)
  5. Răng đen hột huyền Tác giả: Võ Quang Yến Răng đen ai nhớ cho mình Để duyên mình thắm, để tình ra say Ca dao Bác sĩ Hocquard kể chuyện vào cuối thế kỷ 19, một vị quan ta được mời dự một dạ hội tại dinh Thống sứ Pháp ở Sài Gòn. Thấy vị quan mãi ngắm quan khách khiêu vũ, một sĩ quan Pháp lại thì thầm hỏi ý kiến ông ta về các phụ nữ Pháp. Vị quan thành thật trả lời : "Các bà đẹp lắm, có điều răng các bà giống như răng chó !". Ý ông muốn nói răng các bà quá trắng. Lẽ tất nhiên, viên sĩ quan Pháp rất ngạc nhiên nhưng ông ta không hiểu đuợc một người Việt hồi đó không thể hình dung một người đẹp mà không có hàm răng đen lánh đã được hằng bao thế hệ văn, thi, họa sĩ ca tụng. Nhớ hàng tre thẳng đọt măng Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền Phong tục nhuộm răng, xâm mình khởi đầu từ thuở thượng cổ xa xăm, truyền thuyết đặt vào thời đại Hùng Vương. Nếu thói xăm mình về sau được bỏ, tục nhuộm răng thành công tồn tại qua nhiều thời buổi, ngay cả lúc quân đô hộ Trung Quốc bắt dân ta bãi bỏ. Nhưng tục nhuộm răng cũng như tục búi tóc không chống cự lại đuợc ảnh hưởng Tây phương và chỉ hơn một nửa thế kỷ là dần dần các cụ chịu cắt tóc, các bà cạo răng trắng. Nghe nói những cô giáo là những người đầu tiên không muốn giữ răng đen nữa nhưng sáng đi sớm, chiều về muộn, luôn phải tìm cách lẫn tránh cha mẹ còn cho đàn bà con gái có răng trắng là không đứng đắn. May mà các bác lính thợ tùng chinh sang Mẫu quốc còn giữ răng đen. Nghe nói lính ta nhỏ con, thường bị quân Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Một sĩ quan Pháp, để tránh lôi thôi, phiền nhiễu, bèn phao tin đồn mà ông bịa đặt : những người có răng đen ăn thịt người ! Từ đấy lính thợ ta được yên thân… Tôi còn nhớ hồi nhỏ, mỗi khi mẹ tôi hay chị tôi nhuộm răng là cả nhà rộn rịp vì các bà tự nhuộm lấy, không qua tay các thầy nhuộm như ở các gia đình quan lại, ông hoàng bà chúa, cung tần mỹ nữ,… Những người ngoại quốc, ngay cả bây giờ, thường tin ăn trầu thì có răng đen. Họ không dè muốn có hàm răng đen đẹp phải mất biết bao công phu, chịu đựng, chuẩn bị kỹ càng, chế biến chất thuốc, kiên nhẫn nhuộm răng rồi sau đó còn phải săn sóc, bảo dưỡng cho lớp sơn luôn được láng bóng. Nhuộm răng cũng như sơn mài, trước cần phải có một mặt nền sạch sẽ. Thường trong luôn hai, ba ngày, các bà phải đánh răng, xỉa răng với vỏ cau khô hay than bột trộn với muối sống hầm chín, nhai chanh lát, rồi súc miệng với rượu trắng pha nước chanh. Các bà không biết nhưng từng trải qua kinh nghiệm, đã tìm ra trong chanh citric acid là một acid nhẹ có khả năng đánh gỉ, chùi sạch men răng. Tuy nhẹ, acid cũng tác dụng ít nhiều lên môi, lưỡi, nếu răng,…gây nhức đau tưởng như hai hàm răng lung lay, rụng được. Trong giai đoạn chuẩn bị nầy cũng như các giai đoạn sau, các bà không được nhai đồ ăn dai, cứng như thịt mà phải nuốt trửng cho nên thường người ta cho ăn bún trộn mỡ heo hay ăn cháo và trái chua, uống nước nóng. Kỹ thuật nhuộm răng nhiều đợt Nhuộm răng có nhiều phương pháp, tùy theo từng vùng. Ở miền Trung, nhất là ở Huế, nơi có nhiều vua chúa, quan lại, ăn chơi lịch sự, liều thuốc rất nhiều, lắm khi gia truyền cần giữ bí mật (2). Nói giản tiện, thường răng đuợc nhuộm làm hai đợt. Đợt đầu xem như là lớp sơn lót, nhuộm với một hỗn hợp cánh kiến, nước chanh vắt, rượu trắng, cho nấu thành hồ, phết lên lá chuối hay lá dừa, lá cau, có khi lên vải thô hay lụa, rồi cho áp vào răng, nhiều lần trong một đêm, cho đến lúc răng nhuốm màu cánh gián, giữa đỏ và nâu đậm như màu cánh con gián. Sáng hôm sau phải cẩn thận lột lá hay vải ra, súc miệng với nước mắm hảo hạng hay nước dưa chua để loại trừ mọi căn bả. Bây giờ có thể qua đợt thứ nhì, nhuộm với một hỗn hợp hắc phàn, thanh phàn, bầu bí, lựu bì, quế chỉ, đại hồi, đinh hương được nấu nóng, trộn với gạo nếp và rượu trắng rồi cũng cho áp lên răng nhiều lần, nhiều ngày cho đến lúc răng trở thành đen huyền. Lần nầy cũng lại phải súc miệng kỹ càng như sau đợt đầu để thải bỏ chất nhuộm dư thừa. Và sau nhiều ngày phải tránh nhai nhiều, nhai mạnh để khỏi làm tróc lớp sơn đang còn non, mềm. Răng nhuộm xong còn cần phải chiếc để củng cố lớp sơn. Thường người ta dùng một lớp nhựa chảy ra từ một sọ dừa đốt cháy đặt trên một cái rựa sắt, đem bôi thành một lớp lên trên răng. Ở Huế, hai liều thuốc xỉa có tiếng để chiếc là cố xỉ tán và cố xỉ cao (2). Cố xí tán gồm có thanh phàn, hắc phàn, ngũ bội, cam thảo, bình lang, tế tân, bạch chỉ, tam lăng, nhũ hương, nghiền thành bột rồi dùng que tăm đập nát một đầu để tô lên răng. Cố xí cao gồm có những chất vừa kể, thêm vào sinh địa, tật lê, cánh kiến, một dược, đương qui nấu trong nước sôi, cô lại thành cao trước khi dùng. Hắc phàn, thanh phàn là những sulfat sắt và đồng có nhiệm vụ ổn định chất sơn. Bầu bí hay ngũ bội, (hay ngũ bội tử, là túi con sâu Schlechtendalia sinensis Bell trên cây muối hay diêm phu mộc Rhus semialata Murray), lựu bì (tức là vỏ cây Punica granatum L. đem lại tannin có tính chất làm xẩm màu lá hái như chè, thuốc lá, cà phê , chống oxi nên bảo quản gỗ được lâu ngày và nhất là tác dụng lên da, gây tê, cầm máu, giải độc, kháng sinh). Còn những chất quế chi (cây Cinnamomum loureirii Nees hay C. zeylanicum Nees, chữa cảm mạo, tê mỏi), đinh hương (cây Syzygium aromaticum (L.) Merr. et Perry., chữa cam răng, đau bụng), cam thảo (thân rễ cây Glycyrrhiza uralensis Fish. hay G. glabra L., chữa ho hen, loét dạ dày), bình lang (trái cây cau Areca catechu L., chữa giun sán, viêm ruột lỵ), tế tân (cây Asarum sieboldii Miq., chữa đau răng, cảm lạnh), bạch chỉ (rễ cây Angelica dahurica Benth. et Hook., chữa lở mồm, hôi miệng), nhũ hương (nhựa cây Pisticia lenticus L., chữa đau sưng, tiêu nhọt), sinh địa (thân rễ cây Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Lobosh, chữa đau răng, chóng mặt, ho khan, bệnh lao), tế tân (trái cây Tribulus terrestris L., chữa đau mắt, kinh nguyệt không đều), một dược (nhựa cây Commiphora momol Engler, thuốc điều kinh, giảm đau, tiêu thủy), đương qui (cây Angelica sinensis (Oliv.) Diels, chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược), đại hồi (trái cây Illicium verum Hook., thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa), ngoài tính chất dược liệu, là những chất thơm cống hiến hương vị cho liều thuốc nhuộm. Được bảo vệ cẩn thận, răng nhuộm có thể tồn tại mươi, hai mươi năm, màu đen huyền luôn lóng lánh giữa hai đôi môi, không thì những lớp sơn tróc ra, những vết vàng lạt hiện lên răng gọi là răng cải mả, phải nhuộm lại. Trái lại, từ răng đen muốn trở lại trắng cũng không phải dễ vì những phương pháp dùng acid mạnh hay mài răng đều không thích hợp, có thể làm hư răng. Ngày nay người trẻ tuổi khó lòng cảm xúc trước một nụ cười với hai hàm răng đen. Nhưng nhuộm răng không phải chỉ là một vấn đề mỹ quan mà còn có một lý do thực dụng : từ lâu người ta đã nhận thấy răng nhuộm đen ít bị sâu răng. Vì vậy có vài luận án nha y quan tâm đến đề tài nhuộm răng. Ngoài công trình của nha sĩ Vũ Ngọc Huỳnh ở Hà Nội, trong số những luận án tồn trữ ở Trường Đại học Nha y Paris, phần lớn các tác giả cốt yếu chú trọng đến phong cách, tập quán nhuộm răng. Hai nha sĩ Phùng Thị Cúc (sau nầy trở thành nhà điêu khắc có tiếng Điềm Phùng Thị) và phu quân Bửu Điềm (thầy cũ Anh văn của tôi ở Trường Trung học Khải Định) thì dựa lên công tác của nhóm Nguyễn Dương Hồng ở Hà Nội để đề nghị dùng nhựa sơn trong việc phòng ngừa bệnh sâu răng. Nhưng đi sâu vào khoa học nhiều nhất có lẽ là luận án của nha sĩ Trần Văn Phú, dùng nhựa sơn để lấp bít những khoảng trống tí hon trong răng. Thì ra, ông cha ta xử lý rất khoa học. Trước hết, như đã thấy, muốn thuốc dính chặt vào men răng, cần phải gây một mặt răng sần sùi. Vì men răng không xốp, một dung dịch acid yếu như citric acid trong chanh đủ để mài mà không đào những lỗ quá sâu làm hư men răng. Bên phần nhựa sơn cũng cần một trạng thái dễ trải với những hột sơn kích thước hiển vi có thể lọt vào bất cứ khoảng trống ở nào. Với một đường kính 17-20 angstrom, hột sơn nhỏ hơn một con trùng như streptocoque đến 250-500 lần, dễ dàng trám hết mọi lỗ hết còn chỗ cho vi trùng. (Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)
  6. Tục nhuộm răng của người Việt Nam Tác giả: Võ Quang Yến Trong các truyện cổ tích thì từ hàng nghìn năm trước người nước ta đã có tục nhuộm răng, theo truyền thuyết tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “... rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Thái , Si La ... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm như người Thái ở Việt Bắc thì họ nhuộm răng và ăn trầu là làm cho răng bền chắc tránh sâu răng. Suốt trong thời niên thiếu thì người con gái Thái chưa, chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu. Cách nhuộm răng của họ cũng khác với người kinh, để làm sạch răng họ phải chà sát nhiều lần bằng một miếng cau khô sau đó dùng lưỡi dao hoặc lưỡi thuổng cùn hơ cho vừa nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra mà không cháy thành than. Chờ cho bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy nhựa đó miết vào răng. Miết cho đến lúc chất nhựa này bọc hết hai hàm răng mới thôi. Trong vòng 7 dến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non. Tục nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (Giao Chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu "Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...". Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi sam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu (Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48). Trong bài hịch của Quang Trung năm 1789, trước lúc xuất quân có câu liên quan đến tục nhuộm răng Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Còn trong văn chương, ca dao thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua Và để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bỏ công trang điểm má hồng răng đen. Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Trong truyện Kiều có những câu liên quan đến cái răng nhưng không phải bởi cái màu răng đen hạt huyền mà là bởi trận bão ghen tuông của Hoạn Thư : Vội vàng xuống lệnh ra uy Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng. Trong những thói tục của người dân quê nước ta thì trẻ con bị gãy răng, nếu là răng hàm dưới thì vứt răng xuống gầm giường, nếu là răng hàm trên thì vứt lên mái nhà và hô 3 tiếng cho “ ông thiêng ” nó tha đi để cho mau mọc răng. Thầy nhuộm răng Thông thường người ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm vì lúc ấy răng còn non, độ thấm cùa thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người bình dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng giới giàu có hay quý tộc, quan lại lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp gia truyền khác nhau. Huế là nơi còn lưu giữ được nhiều công thức chế thuốc nhuộm răng cũng như các thứ thuốc để duy trì mầu đen bóng của răng. Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Từ thuở mười ba, mười bốn tuổi, trai gái đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng nhiêu khê, phải trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài một tuần có khi đến nửa tháng và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết đưọc công thức pha chế của họ. Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó... Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5 , 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi dầy bụng cho trẻ sơ sinh... Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu câu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử , lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biêt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô ... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi... Đến năm 1949, không hiểu tại sao ông già mù hát vè bị Tây bắt và lôi ra bắn chết dứơi dốc cầu An Cựu. Cả nhà bà thầy Thại dọn đi đâu mất trong ngày hôm ấy, nghe đâu mấy năm sau có người gặp bà ở cửa Tranh Đề. Cách nhuộm răng : Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt mầu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuôm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẻ và chân răng phài lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoạc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng "mềm" đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thơi gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7 –10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng bà thầy sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khỏang thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt trửng thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các bà thầy cho các người nhuộm răng ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dể nuốt trửng. Khi thấy răng có mầu đỏ già, mầu của cánh kiến thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộn đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu. Công thức pha chế của thuốc nhuộm răng Thuốc nhuộm răng gồm các thành phần căn bản như sau : - Bột nhựa cánh kiến. - Nước cốt chanh - Phèn đen - Nhựa của gáo dừa Nhựa cánh kiến Hình nhựa cánh kiến Nhựa cánh kiến đã được chế biến và có mặt trên thị trường ở dạng này. Sâu cánh kiến đỏ còn gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae). Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quý có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học… Sâu cánh kiến đỏ còn gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae). Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quý có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học… Ở nước ta có gần 60 loài cây trong rừng tự nhiên hay rừng trồng có thể làm cây chủ để sản xuất ra nhưa cánh kiến có chất lượng tuyệt hảo như các cây họ phèn, cọ khiết, muồng đen, sung, vả, vải, nhãn, đậu thiều, táo... trong đó cọ phèn, cọ khiết và nhất là đậu thiều cho cánh kiến có chất lượng cao nhất. Người ta chọn những cành cây chủ có sâu cánh kiến định cư phát triển tốt, không bị nấm mốc sâu bệnh. Cánh có lớp nhựa dày, sáng màu và đã chín thành thục. Khoảng 1 tuần trước khi kiến nở tiến hành cắt kiến giống, đem buộc thả ngay lên cây chủ, hoặc trải mỏng trong sọt tre thông thoáng để nơi râm mát ít ngày rồi đem buộc lên cây chủ. Trước khi buộc thả giống phải phát luỗng cây cỏ xâm lấn, tỉa cành, tạo tán cho cây có nhiều cành bánh tẻ càng tốt. Thời vụ: tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9. Thời điểm thu hoạch: tốt nhất trước khi kiến nở 2-4 tuần. Tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả ngừơi ngừơi dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng. Kể từ khí nền văn minh tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta (1862) nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đã để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuờ mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, phong trào đòi nữ quyền, giải phóng, phong trào tiễn phát đang râm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo tây, làm me tây... còn nhóm kia thì cho rằng bối tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Bấy giờ người ta chỉ thấy, chỉ đánh giá cái bề ngoài mà không chú trọng cái nhân cách, tư tưởng ở bên trong... Đấy là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm răng ở nuớc ta. Riêng cá nhân tôi thì hàm răng óng ả hạt huyền là một hình ảnh đẹp nhất trong đời niên thiếu, bởi vì mẹ tôi và các dì tôi là những người có những hàm răng với những chiếc răng đều đặn, óng ả đen mượt tựa hạt huyền, cho đến khi bà cụ 92 tuổi bà vẫn còn lại được 6 cái răng đen. Nét duyên dáng, móm mén với những chiếc răng thế kỷ làm cho khuôn mặt của bà đôn hậu và vui hơn, tôi nghĩ có lẽ khi ba tôi cưới mẹ tôi phần nào có thể là : Răng đen ai nhuộm cho mình Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say ? (Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)
  7. Nguồn: http://www.jucelinodaluz.com.br Giới thiệu Juselino Nóbrega da Luz Jucelino Nobrega da Luz sinh vào tháng 3 năm 1960 tại thành phố Maringa thuộc tiểu bang Parana của nước Ba Tây. Hiện nay đang cư ngụ tại một vùng ngoại ô của Ba Tây tên gọi là Thánh Pao lồ. Ông đã sanh được 4 người con gái và đang là giáo sư giảng dậy môn Anh văn. NGƯỜI TIÊN TRI VỀ TƯƠNG LAI CỦA NHÂN LOẠI TRÊN THẾ GIỚI (Lời Nhập Dẫn) http://www.martin-wagner.org/prophecies.htm Nhà tiên tri Jucelino sanh năm 1960 tại nước Ba Tây. Ông từng dự đoán nhiều sự kiện và các thảm họa đã xảy ra trên thế giới bao gồm sự kiện 911, chiến tranh Iraq và sự bại trận của Tổng thống Saddam Hussein cùng sự bị bắt giữ và xử tội của ông ta, trận động đất cùng sóng thần (tsunami) tại quần đảo Indonesia, và sự tạ thế của đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ nhị. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1997, Jucelino đã gửi đến cho tổng thống nước Indonesia một lá thư về sự dự đoán của ông là vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, vào lúc 7 giờ, sẽ có một trận động đất với cường độ 8.9 và nó sẽ tạo nên một cơn sóng thần cao đến 10 mét. Jucelino nhận được thư phúc đáp của vị Tổng thống này là: “……. có rất nhiều sự việc mà chúng tôi không thể không đi làm nhưng chúng tôi không thể giải quyết những việc chưa phát sinh. “ Jucelino cũng có rất nhiều dự đoán rất kinh hồn và đồng thời cũng đang sắp sửa tới trước mắt của chúng ta. Năm 2008: vào tháng 7, tại Nhật Bản, sẽ có một trận động đất và cơn sóng thần với chiều cao 30 mét. Vào ngày 17 tháng 12, tại Mỹ, sẽ có khủng bố xảy ra. Vào ngày 18 tháng 9, tại Trung Quốc, sẽ có một cuộc động đất với cường độ trên 9.1 Địa điểm xảy ra động đất là Nam Kinh (Linh ?) và đảo du lịch Hải Nam là trung tâm địa chấn. Cơn sóng thần cao của nó cao đến 30 mét, sẽ mang đến sự tử vong cho hàng triệu người. Tuy rằng sau Thế Vận Hội Olympic mới có động đất này, trước Thế Vận Hội đã có các triệu chứng báo hiệu là các cơn động đất nhỏ. Vì chính phủ Trung Quốc đang đổ dồn hết sức lực để lo cho việc tổ chức Thế Vận Hội nên sẽ lờ đi các cơn tiền chấn này, không chuẩn bị trước các sách lược để đối phó. Chính phủ Trung Quốc cũng có ý muốn ém nhẹm sự kiện này. Những hành động này của chính phủ Trung Quốc, nếu có, thì sẽ mang đến tai họa thảm khốc và trùng hợp với câu trích dẫn của Mr. “Time Traveler” John Titor rằng “Thế Vận Hội Olympic 2004 tại Hy Lạp sẽ là cái cuối cùng.của thế giới Năm 2010: tại nhiều quốc gia ở Phi Châu, nhiệt độ sẽ lên cao đến 58 độ Celcius và đồng thời có sự khan hiếm nước nghiêm trọng. Vào ngày 15 tháng 6, thị trường Stock Dow Jones của NewYork sẽ bị sụp đổ và kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm. Năm 2011: phương pháp trị liệu ung thư thành công, nhưng đồng thời có một loại bệnh độc lạ xuất hiện. Người nào bị nhiễm cơn bệnh này thì sẽ chết ngay sau đó 4 tiếng đồng hồ. Năm 2013: ngoài bệnh ung thư bướu não, phương cách trị liệu các bệnh ung thư khác đều thành công. Tại vùng quần đảo Canary của Tây Ban Nha, từ ngày 1 cho đến ngày 25 tháng 11, vì sự bộc phát của núi lửa, địa chấn phát sanh ra. Tiếp sau đó sẽ có một cơn sóng thần với độ cao 150 mét . Khi dồn vào đến quần đảo Canary, nó còn cao đến 80 mét. Tại Mỹ và Ba Tây cũng chịu ảnh hưởng của cơn sóng thần, nước biển sẽ tràn sâu vào đất liền khoảng từ 15 đến 20 dặm Anh. Ngoài biển, trước cơn sóng thần này, nước biển sẽ rút xuống 6 mét và các loài chim bay đầy trên bầu trời. Năm 2014: có một tiểu hành tinh đến gần và sẽ có sự va chạm với địa cầu. Sự va chạm này có thể mang đến sự diệt vong nhân loại. Năm 2015: trong tháng 11, nhiệt độ trung bình của trái đất sẽ đạt đến 59 độ Celcius và thế giới đại loạn sẽ phát sinh. Năm 2016: vào trung tuần tháng 4, Typhoon sẽ phát sinh tại Trung Quốc; một số thành phố lớn bị phá hoại. Tổng thống Mỹ George W. Bush sẽ khẩn cấp nhập viện về bệnh trạng ảnh hưởng đến tính mạng. Năm 2026: vào tháng 7, tại San Francisco sẽ xảy ra một cuộc động đất kinh thiên động địa (The Big One) vô tiền khoáng hậu. Đất tại lằn nứt Saint Antonio bị phá và làm tiểu bang California bị sụp đổ. Rất nhiều núi lửa sẽ phát sinh và các cơn sóng thần cao trên 150 mét. Từ những dự đoán của Juselino, nhiệt độ của địa cầu đến năm 2012 tại Phi Châu sẽ đạt đến 58 độ Celcius và nạn thiếu nước trầm trọng sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhiệt độ tiếp tục gia tăng đến năm 2015 sẽ đạt tới 59 độ Celcius; nhiều người bị nóng chết và nhân loại trên toàn cầu bị rơi vào khủng hoảng. Bất luận như thế nào, sự gia tăng nhiệt độ của địa cầu thì nhanh chóng hơn là sự suy đoán của các khoa học gia trên thế giới đã cho là rất chậm. Những sự kiện này nếu đúng thì thời gian cho nhân loại không còn lai bao nhiêu ! Năm 2007: những thời gian cuối của năm 2007 là thời gian cảnh tỉnh cho nhân loại. Mr Juselino kỳ vọng rằng trên thế giới có sự biến chuyển ý thức hệ rất là lớn. Người Chiêm Tinh Đoán Biết Tương lai của Nhân Loại và Địa Cầu Juscelino sanh năm 1960 chức nghiệp hiện tại là giáo sư . Đang sống với 1 vợ và 4 con gái, sinh hoạt rất là thanh đạm. Ông là người rất thẳng thắn, công minh. Tất cả những lờì tiên đoán về những đại nạn phát sinh của ông đều ghi đầy đủ rõ ràng ngày tháng năm. Để cho bất cứ nhũng người nào muốn xác thực tính chân thực của các dự đoán này, Juselino đã đem đăng ký các lời giải đoán này trong Bưu Điện Ba Tây để làm phương tiện xác định. Những dự đoán của Juscelino đã liên tục phát sinh. Nếu trong mộng của thấy được những chuyện mà đối tượng là một cá nhân thì ông sẽ chỉ nói với riêng biệt với cá nhân đó thôi. Nhưng nếu đối phương là một vị nguyên thủ quốc gia hoặc là người có địa vị trong xã hội có sức ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, thì ngoài cá nhân của người đó ra, Juselino cũng thông báo cho các sơ quan sở tại như các cơ quan thông tin của nhà nước và quần chúng. Jucelino và những người tiên đoán khác có chỗ không giống nhau là những gì Juselino thấy được trong mộng thì hoàn toàn được bộc lộ và trực tiếp truyền đạt đến đương sự. Ngoài ra, như đã tường thuật như trên, những sự kiện được tiên đoán đều được đăng bộ và có những chỉ dẫn rõ ràng cho những người nào muốn đến sao lục tìm tòi các lời tiên đoán này. Jucelino cũng bỏ vào các điện tín mà ông đã gửi đến cho các đương sự. Thường thường Jucelino phải mất từ 3 đến 4 giờ mỗi ngày để giải quyết việc sắp xếp các hồ sơ tiên tri này. Có khi Juselino cũng phải chi trả nhiều tiền cho các dịch vụ đăng ký, đăng bộ, gửi thư, đánh fax mà tất cả tiền bạc đều chỉ từ bản thân cá nhân của Juselino, từ sự tiết kiệm tiền bạc trong cuộc sống thanh bần dạy học của ông. Có người hỏi Juscelino từ tuổi nào thì ông đã bắt đầu có sự tiên tri từ giấc mộng của ông. Juscelino đáp rằng việc này đã khởi sự từ lúc năm ông lên 9 tuổi (năm 1969). Trong 1 giấc mộng, ông có thể thường trông thấy được 3 sự kiện và có lúc nhiều nhất lên đến 9 sự kiện. Juscelino nói rằng những giấc mộng từ sự bất tri bất giác của ông. Ông không có khả năng tự chủ với các giấc mộng này. Vào lúc ông 19 tuổi, Jucelino đã có dịp gặp nhà tiên tri nổi tiếng. Francisco Shabiz. Ông Francisco đã 2 lần được đề nghị cho giải Nobel. Ông này là một người có đặc dị công năng (phép thần thông) đồng thời cũng là một nhà từ thiện . Từ sau sự gặp gỡ này, cho đến ngày nay, tổng số các sự kiện mà Jucelino dự đoán đã lên đến hơn 80 ngàn. Hồ tưởng lại một sự kiện Jucelino đã dự đoán trên thế giới và đã trở thành thực tế là việc ám sát công nương Dianna: Vào ngày 4 tháng 3 năm 1997, từ sở Bưu điện Bazil, một thư cảnh cáo đã gửi cho Dianna. Trong thư, Jucelino nói: “Tôi nhận được tin tức từ Thượng Đế cho biết rằng có người ác ý thiết kế mưu sát Ngài bằng một tai nạn xe cộ. . Bảy vị Thiên sứ đã nói với tôi rằng, trong viêc xe cộ này, sanh mạng của Ngài cũng bị mất đi. Các chuyêng gia sẽ cho là một tai nạn bình thường, không phải là sư ám sát nhưng mà họ hoàn toàn trật lất hết. Người hung thủ sát nhân là người thân cận Ngài. Việc này sẽ xảy ra trước năm 2000.” Jucelino cũng đem sự cảnh cáo này đến cho các tờ báo lớn nhất của nước Anh như là Times, Daily Telegrah và Gardian. Nhưng tin tức này bị ém nhẹm không được đăng tải, Đến 5 tháng sau đó, vào tháng 8 năm 1997, khi tai nạn xe cộ này đã xảy ra như lời Juscelino, báo chí Anh mới làm rùm beng việc này lên. Và đúng như Jucelino nói, chính quyền Anh đã xem việc này như là một tai nạn xe cộ không cần lưu ý. Sự chính xác của lời tiên tri không chỉ làm cho thế giới chấn động mà còn là sự chấn động rằng sự âm mưu ám sát từ Hoàng Gia Anh. Mặc dầu Jucelino dự đoán rằng là việc này phát sinh ra trước năm 2000 nhưng ông đã có gửi cho tổng thống Ba Tây Cardodo 2 năm trước đó (thư này có đóng mộc đăng ký) đề cập từ khoảng từ 1997 và 1998 Vương phi Dianna sẽ bị tử nạn. Trung Tâm Mậu dịch Thế giới (trung tâm 2 tầng lầu ở New York): Năm 1989, Jucelino gửi tổng thống Mỹ và lãnh sự quán Anh ở Mỹ cũng nhận được thư cảnh cáo (ngày 26 tháng 10 năm 1989). Lá thư cảnh cáo này có đăng tại Panama trong văn phòng thị thực của ông Klicheeba. Trong thư cảnh cáo này, Jucelino nói rằng, vào năm 1993, trung tâm mậu dịch thế giới sẽ bị một sự công kích lần thứ nhất, nhưng không xác định ngày tháng rõ ràng. Tuy nhiên, ông đã cho biết sự công kích lần thứ 2 vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cũng như sự dự đoán của Jucelino, 3 năm sau đó, vào ngày 26 tháng 2 năm 1993, có một vụ nổ ở bãi đậu xe làm khá nhiều người chết. Và lần thứ hai, 12 năm sau, sự kiện 911 đã làm kinh động toàn thế giới. Những sự việc làm cho mọi người kinh ngạc hơn là, sau 911, sự bùng nổ chiến tranh giữa A Phú Hãn và Iraq. Iraq bị thua trận và tổng thống Saddam Hussein sẽ chạy đến trung bộ của thành phố Dawool để lẫn trốn trong đó. Như các vị đã biết, tất cả mọi việc Jucelino đoán đều đã phát sinh. Thư cảnh cáo này cũng có gửi cho Tổng thống Mỹ Bush cha ngày 28 tháng 10 năm 1989. Dự báo thư này cũng gửi cho Bill Clinton. Trong thư cho Bill Clinton, Jucelino trình bày sự quan tâm đến sự khủng bố tại Manhantan, “Hai toà nhà sẽ bị một quả cầu bao vây. Có thể có người sẽ xem đó là một việc giỡn chơi, không cho đó là 1 việc thành thực vì thế tôi mới gửi thư đến các tờ báo Mỹ để hy vọng được đăng tải.” Như trên tường thuật, với tất cả sự kiện phát sinh trong xã hội như vậy, Juscelino đều công khai thông báo. Ông không chỉ thông báo mà vẫn còn đem nội dung công hàm đến cho các nhà báo. Nhưng cho đến nay, hầu như không có một đài truyền thông nào tiếp nhận một cách công khai và loan báo các sự kiện này cho thế giới biết. Cũng như ở Miami, nhà báo Helleroot có gửi thư trả lời cho Juscelino như thế này: “Cơ quan thông tin của chúng tôi có nhận thư của ông vào ngày 26 htháng 10 năm 1989 là ông có đoán Trung Tâm Mậu dịch ở Manhantan sẽ bị khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, chúng tôi đánh giá cao sự tiên đoán này sau đó ông cũng có đoán Mỹ sẽ có chiến tranh với Iraq và Saddam Hussein sẽ bỏ chạy vào Trung bộ của Iraq tên là Dawool. Những tình tiết xảy ra rất chính xác nhưng chúng tôi không dám tiết lộ vì sợ rằng mang đến sự khủng hoảng trong quần chúng…” Đối với sự trốn chạy của Saddam Hussein phát sinh vào ngày 13 tháng 9 năm 2001. trong thư Jucelino gửi thư đến tổng thống Bush mô tả về chỗ hầm núp của Jucelino. Ông có cho biết ngoài hầm trú ẩn, nằm sát bên con sông Chigulus, có một tờ báo viêt về Noah’s Ark. Trên hầm này có một miếng gỗ đậy và chỗ ra vào của miệng hầm có những rác rưởi che để che mắt thiên hạ. Sau này, người ta đọc lại tất cả chi tiết tường thuật về chỗ này thì thấy đúng tất cả. Thực tế, những dự đoán kinh thiên động địa của Juscelino vẫn không ngừng. Về vấn đề Saddam Hussein bị bắt thì chúng ta biết là ông bị kết tội và bị kết án tử hình vào ngày 30 tháng 12 năm 2006 sẽ bị tử hình. Và sau đó, quốc hội Iraq và Shiai đối nghịch với nhau rất kịch liệt, nhất thời mở ra cuộc nội loạn. Ngày đêm đều làm chết rất nhiều người. Sự phán tội cho Saddam Hussein và nội chiến của Iraq tất cả đều đúng với sự tiên đoán Juscelino. Trong lá thư 3 mà ông đã gửi đến đài phát thanh Pass FM của vào ngày 29 tháng 5 năm 2006: “Quốc hội Iraq phán Saddam Hussein có tội có thể bị tử hình vào ngày 30 tháng 12 năm 2006. Toàn quốc Iraq vì việc này trở thành sự đấu tranh và cướp đi nhiều sanh mạng”. Ngoài những việc này ra, trong mộng Jucelino cũng thấy được thiên tai nhân họa của thế giới. Với khả năng nhìn thấu tương lai nhân loại, ông không phải là người bình thường. Về cơn sóng thần ở Indonesia, tại đảo Sumatra, Juscelino có gửi thư cảnh cáo đến đại sứ quán Ấn Độ tại Ba Tây 8 năm trước. Thư cảnh cáo này có nôi dung “vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, ở Indonesia đảo Sumatra tỉnh Ache sẽ phát sinh động đất với cường độ 8.9 Soeharto.
  8. Nguồn: http://vnexpress.net/ Người phán đông, kẻ phán tây, hên xui đủ cả. Một làng quê nhỏ ở Phú Yên nhưng có cả chục người hành nghề thầy bói. > Khủng hoảng tinh thần vì chuyện xem bói đầu năm Bắt đầu từ mùng 3 Tết, trong nhà ngoài ngõ của các thầy ở thôn Định Thắng (thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa, Phú Yên) đã rộn rịp người. Tại nhà thầy Trường, một thầy bói có tiếng tăm vào hàng bậc nhất ở thôn Định Thắng, mới 7h sáng đã ken kín xe máy. Trong nhà, ngoài ngõ hơn chục người đang chờ đến lượt xem bói. Cô Hoa (thành phố Tuy Hòa) cho biết, năm nào cô cũng phải "diện kiến" thầy đầu năm vì nhà làm nghề biển, muốn biết trước vận số của từng năm. Khi được hỏi những điều thầy phán qua nhiều năm thấy có đúng hay không người phụ nữ trung niên này cười cười: "Cũng nhiều cái đúng lắm chớ... thầy mà. Thầy bói bài nên phải đến thiệt sớm cho linh thiêng. Người nào chạm vào bộ bài sớm chừng nào thì độ linh thiêng càng cao chừng ấy". Xe dựng kín sân nhà thầy Trường. Ảnh: Pháp luật TP HCM. Mỗi suất bói phải mất nửa tiếng đồng hồ. Dãy người kế tiếp ngồi mỏi nhừ vẫn chưa đến lượt. Trong khi đó, lượng người kéo đến mỗi lúc một đông. Tại Định Thắng, nổi tiếng không kém thầy Trường là thầy Pha. Theo lời người dân trong làng, thầy tuy bị mù nhưng trên sành thiên văn, dưới tường địa lý. Khách chỉ cần nói tuổi là thầy đã đoán được tất tần tật vận số của năm đó. Ngay cả xe biển số xanh mang cũng len lỏi vào đến nhà thầy. Trong vai một người đã có gia đình đi cùng vợ, khách xin thầy Pha xem chọn hướng xây nhà. Sau khi hỏi tuổi, bấm năm lần mấy ngón tay, thầy bảo: "Anh phải cất nhà về hướng tây mới may ra yên ổn. Nếu cất nhà về hướng đông thì sẽ "thông gió hai đầu". Tức là anh có bồ mà vợ anh cũng chả kém". Rời nhà thầy Pha đến thầy Lan, người phụ nữ này được quảng cáo "bói bài được lắm". Thầy Lan chừng 60 tuổi nhanh miệng hỏi khi khách vừa tới: "Hai con xem gì?". Xốc bài 7 cái, thầy bảo khách rút ra một con bất kỳ để xem vận hạn năm Kỷ Sửu. Rút tiếp ba lần, mỗi lần ba con sắp từng cụm, thầy bảo khách giở bài tiếp. "Xem nào... anh cất nhà hướng đông. Phải hướng đông nhé! Hướng này làm ăn mới vượng. Hướng tây là hỏng bét đấy, vợ chồng bất ổn, nghèo suốt!" Quay sang người bạn gái đi cùng, thầy hỏi "Thầy nói nhé, con coi đúng không. Tình duyên hai con mới nảy nở đây phải không? Là duyên bỗng dưng gặp". Cô bạn nhìn tôi, mím môi: "Dạ phải thầy". Thực ra, khách và cô bạn đã quen biết nhau từ thời hồi đi học phổ thông. Hàng xóm thầy Lan cho biết, thầy làm nghề coi bói từ hồi 18 tuổi. Thầy ở miền ngoài có chồng về đây và làm nghề này đã mấy chục năm. Ngoài bói bài, thầy còn bói tay, xem số mệnh qua lá cây... "Nếu không xem bài thì con cũng có thể bứt lá cây cho thầy xem vận số, số mệnh trong đó cả", thầy nói chắc nịch. Cô bạn gái đi cùng bảo nên phải quay lại nhà thầy Trường để xem thêm. Gần nhà thầy Trường còn có thầy Hoàn nghe nói cũng thiêng lắm... (Theo Pháp luật TP HCM)
  9. Bốn ngàn năm Văn Hiến ĐÔNG BIÊN Nguồn:taphopdongtam.org Người Việt Nam vẫn tự hào có “bốn ngàn năm Văn Hiến”. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi cáo tri: “Như nước Việt Nam ta từ trước - Vốn xưng Văn Hiến đã lâu..” Đến vua Thái Tổ nhà Minh, nước Tàu cũng gọi Việt Nam là “Văn Hiến chi bang”. Bản Đăng Đàn Cung, quốc ca thời nhà Nguyễn tấu mỗi khi có đại lễ với lời ca : “ Bốn ngàn năm Văn Hiến nước Nam khang cường là nhờ công đức người xưa…” Có người căn cứ vào 4 chữ “Văn Hiến Chi Bang” do vua Thái Tổ nhà Minh viết tặng cho sứ thần nhà Trần khi đi sứ sang Tàu là Doãn Thuấn Thuần mà cho rằng danh xưng nước Việt Nam Văn Hiến có từ đấy. Nhưng chính Nguyễn Trãi đã viết rõ trong Bình Ngô Đại Cáo “Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng Văn Hiến đã lâu…”, chứng tỏ dân ta tự xưng Văn Hiến đã lâu chứ không phải ai tặng cho, ban cho và vua Thái Tổ nhà Minh tặng 4 chữ Văn Hiến chi bang chỉ là công nhận một cách công khai danh xưng vốn đã được dân ta tự xưng từ lâu. Vả lại, nếu tên Việt Nam Văn Hiến chỉ mới bắt đầu từ khi Minh Thái Tổ viết tặng 4 chữ “Văn Hiến chi bang” vào năm 1368 thì quả là quá mới, tính đến nay, năm 2006, chỉ mới có 638 năm. Mà dân ta thì đã tự xưng bốn ngàn năm Văn Hiến từ lâu. Tính từ thời lập quốc với họ Hồng Bàng của Kinh Dương Vương, tên nước là Xích Quỷ vào năm 2879 trước Công Nguyên đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 là được khoảng 4000 năm. Vậy thì cụm từ “Bốn ngàn năm Văn Hiến” được truyền tụng có từ thời nhà Lý hoặc trước đó khi dân ta dành được chủ quyền. Đến nay, năm 2006, tính từ thời Kinh Dương Vương lập quốc đã gần 5000 năm, đúng ra là 4885 năm. Vậy thì căn cứ vào đâu mà dân ta tự nhận là dân tộc có Bốn Ngàn Năm Văn Hiến? Tổ tiên, cha ông ta đã có thành tích gì đễ đáng được gọi là Văn Hiến ? Kể từ thời lập quốc ở vùng Trường Giang, Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải, Nam giáp Hồ Tôn, rồi cứ lần lần “co rút lại như miếng da trâu” (Kim Định), mất đất cho Hoa tộc. Từ thời Xuy Vưu mất Hoa Bắc cho Hiên Viên, đến thời Hùng Vương thứ 6, Hoa tộc do Ân Cao Tông cầm đầu lại xâm lăng Văn Lang, rồi từ đó cho đến đời Hùng Vương thứ 18, nước Văn Lang chỉ còn lại vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay. Vậy thì có gì hãnh diện để tự nhận có Bốn Ngàn Năm Văn Hiến? Chúng ta truy nguyên để tìm xem Tổ Tiên đã làm gì cho con cháu được tự hào có Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Một xã hội được gọi là Văn Hiến là một xã hội quy tụ được tiến bộ của nền văn minh thực dụng và nền văn hóa trừu tượng cùng sánh đôi thực hiện có lợi ích cho xã hội. Về văn minh thực dụng xã hội ta từ thời tối cổ đã biết trồng lúa nước, thuần hóa súc vật, đóng ghe thuyền vượt sông vượt biển đánh cá, nung đất làm những đồ sành sứ, khai thác mỏ đồng tạo tác trống đồng tuyệt vời v.v… Chúng ta sẽ không đi vào chi tiết các công trình sáng tạo đó. Chúng ta sẽ tìm hiểu nền văn hóa trừu tượng như thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư, Hà Đồ, Kinh Dịch, Lịch Pháp, Hồng Phạm Cửu Trù, mà người Trung Hoa tự nhận là của dân tộc họ sáng tạo. Có thực như thế không ? Nhưng trước hết hãy tìm về nguồn để xem tộc Hoa và tộc Việt ai là chủ đất Trung Hoa ngày nay và xem ai là chủ của nền văn hóa gọi là Lý Số đó. THỜI LẬP QUỐC Dân tộc Việt Nam phát tích từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam) do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh trăm con, gốc tích Bách Việt. Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương và Long Nữ. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên. Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông. Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ. ( Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông). Kinh Dương Vương, họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ vào năm 2879 trước Công nguyên. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền ngôi cho con là Hùng Vương, đổi tên nước là Văn Lang. Thần Nông là một trong Tam Hoàng, có hiệu là Viêm Đế. Thần Nông sanh Đế Khôi, Đế Khôi sanh Đế Thừa, Đế Thừa sanh Đế Minh. Họ Thần Nông truyền đến Đế Minh là cháu 3 đời thì chia làm hai ngành vì Đế Minh đi xuống phương Nam lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục trong khi đó đã có con lớn là Đế Nghi. Đế Minh truyền cho Đế Nghi làm vua phương Bắc và Lôc Tục làm vua phương Nam, hiệu Kinh Dương Vương. 1-THẦN NÔNG BẮC : Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi. Đế Nghi (2889-2844 TCN) Đế Lai (2843-2794 TCN) Đế Ly (2795-2751 TCN) Đế Du Võng (2752-2696 TCN) Ngành Thần Nông Bắc đến đây chấm dứt vì bị Hiên Viên xâm lăng cướp ngôi, lấy hiệu Hoàng Đế (2697 TCN). Đó là ông vua khởi thủy cùa dòng Hoa tộc. 2- THẦN NÔNG NAM : Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục. Lộc Tục hiệu Kinh Dương Vương (2879 TCN). Lập ra họ Hồng Bàng. Tên nước là Xích Quỷ. Dân Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Tính đến nay, (2006) được 4885 năm. Lạc Long Quân, sinh trăm con (2794 TCN) Hùng Vương (2745-258 TCN), 18 đời, tên nước là Văn Lang. Lĩnh Nam Trích Quái viết về việc Hiên Viên cướp ngôi của Đế Du Võng như sau : “Đế Nghi (2889-2844) truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quân thần là bọn Xuy Vưu thay mình coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam…Truyền đến đời Du Võng thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh. Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu cùng Hiên Viên giao binh ở Phàn Tuyền, đánh ba trận đều thua, bị giáng chức ở đất Lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết.” Theo đó thì : Họ Thần Nông đến đời Đế Minh truyền ngôi cho 2 con: Đế Nghi cai trị phương Bắc, Lộc Tục cai trị phương Nam. Phương Bắc ở vùng sông Hoàng Hà, nơi Hiên Viên (Hoa tộc) xâm lăng đánh Xuy Vưu (Việt tộc) để chiếm đất đai. Phương Nam ở vùng sông Dương Tử tức là vùng đất châu Kinh châu Dương, Lộc Tục dùng để đặt đế hiệu là Kinh Dương Vương.. Như thế, vào thời thượng cổ toàn thể nước Tàu đều thuộc về họ Thần Nông Viêm Đế, tổ của dòng Việt tộc. 2- Mãi đến đời Đế Du Võng (2696 TCN) Xuy Vưu làm tướng quốc thì Hoa tộc cầm đầu bởi Hiên Viên mới từ sa mạc tràn vào đánh chiếm phần đất của dòng Thần Nông phương Bắc, tức là vùng sông Hoàng Hà. Những từ Xuy Vưu làm loạn hay Đế Du Võng xâm lăng chư hầu chỉ là danh từ của kẻ chiến thắng (Hoa tộc) gán cho người thua (Việt tộc) kiểu được làm vua thua làm giặc! Sau này các nhà viết sử của ta nhiều khi cũng bị ảnh hưởng mà dùng lối nói của Hoa tộc. 3- Về dòng Thần Nông, đến đời Đế Minh thì chia làm hai ngành, một ở phương Bắc, một ở phương Nam. Từ lâu, dân ta thường nói phương Bắc để chỉ nước Tàu do tộc Hoa cai trị và phương Nam để chỉ nước Việt. Vì vậy mà có sự hiểu lầm về Thần Nông và Phục Hy, cho rằng Phục Hy và Thần Nông là người Tàu gốc Hoa. Xét ra như vậy không đúng vi mãi đến đời Du Võng là cháu 7 đời Thần Nông thì tộc Hoa mới từ vùng sa mạc Tây Bắc tràn vào đánh chiếm vùng đất Hoàng Hà của dòng Thần Nông Bắc. Vậy thì có lẽ nào Phục Hy và Thần Nông là tổ tiên của Hoa tộc được ? Về nguồn gốc Hoa tộc, theo ông Bình Nguyên Lộc trong cuốn “Nguốn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì Hoa tộc là thứ người lai căn của giống người Trung Á Tokarien (Tocharian, Nhục Chi) và Mông Cổ, vì không có đất sống nên mới tràn vào miền bắc nước Tàu đánh chiếm đất cùa Việt tộc, Theo sử Tàu thì khoảng 3000 năm tr.CN. dân du mục Mông Cổ vượt sông Hoàng Hà đánh Bách Việt từ sông Hoàng Hà đến sông Dương Tử của Đế Du Võng… Khi Hoa tộc chiếm trọn nước Tàu rồi thì đồng hóa dân Việt còn ở lại thành người Hoa hay Hán. Họ cũng đồng hóa các nhân vật huyền sử của Việt tộc, các kinh điển, sử sách Việt tộc làm của họ. Ngay cả đến ông Bàn Cổ của tộc Miêu họ cũng nhận là tổ tiên của Hoa tộc. Vì sự mạo nhận đó mà bao nhiêu sách vở, kinh điển, đã trở thành của tộc Hoa hết mà họ gọi là Thiên Thư do thần tiên truyền cho. Sau ngàn năm bị đô hộ, khi dành lại được tự chủ thì Việt tộc trắng tay, phải đi học lại với kẻ thống trị những vốn liếng của Tổ Tiên bị chiếm đoạt. Nhưng rất may, có những truyền thuyết, những di vật được lưu lại để con cháu ngày sau nhận được di sản của tổ tiên cao quý xứng đáng với danh xưng Văn Hiến ngàn đời. Chúng ta lần tìm từng chứng tích. Nhưng ở đây sẽ không bàn đến các chứng tích cụ thể như Trống Đồng, như Lúa Nước v.v..hay những di chỉ các nền văn minh Hòa Bình, Đồng Đậu, Đông Sơn v.v.. mà chỉ chú trọng đến các lý thuyết về sáng tạo vũ trụ có ảnh hưởng đến con người, đó là phần Lý Số đang chi phối xã hội Á Châu và hiện ảnh hưởng tới Tây phương. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Vua Kinh Dương Vương nối nghiệp con cháu Thần Nông, lấy con gái vua Động Đình Quân, tỏ rõ đạo vợ chồng, nắm ngay gốc văn hóa, lấy đức mà cảm hóa dân…đó chẳng là phong tục thái cổ từ Viêm Đế ư ?” Theo đó nền tảng Văn Hiến Việt tộc đã có từ thời thái cổ. ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH. Đời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh đuổi giặc Ân xâm lăng, vua Hùng tính việc truyền ngôi, mới bảo các con tìm món ngon vật lạ mà có ý nghĩa nhất để dâng lên Tổ Tiên thì sẽ được truyền ngôi cho. Các hoàng tử, Quan Lang, đổ xô đi tìm trân châu hải sản của ngon vật lạ dâng lên vua. Trong khi đó, hoàng tử Lang Liêu đã dùng một thứ ngũ cốc bình thường để làm một thứ bánh có ý nghiã nhất dâng lên vua cha. Lang Liêu dùng gạo nếp giã nhuyễn nắn thành hình tròn gọi là Bánh Dầy để tượng hình trời, lại lấy gạo nếp gói hình vuông để tượng đất, gọi là Bánh Chưng. Bánh Dầy Bánh Chưng tượng trưng cho Âm Dương. Bánh chưng ở trong có nhân thịt, đậu xanh, gạo nếp, gói bằng lá dong, nấu trong nước tượng trưng cho Ngũ Hành. Lĩnh Nam Chích Quái viết về bánh dầy bánh chưng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được, nếu lấy gạo nếp hoặc gói hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý ơn trời đất phát dục vạn vật”. Bánh dầy tròn tượng trời chỉ Dương. Bánh chưng vuông tượng đất chí Âm. Câu tục ngữ dân ta hằng nói, nhất là để chúc sản phụ khi sanh : “Mẹ Tròn Con Vuông” là để nhắc nhở nguyên lý Âm Dương của trời đất. Bánh chưng giữa có thịt, kế đến đậu xanh, rồi gạo nếp, bọc bằng lá, nấu trong nước. Thịt màu đỏ chỉ Hỏa. Đậu xanh màu vàng chỉ Thổ. Gạo nếp trắng chỉ Kim, Bánh luộc tiết ra dịch chất (nhựa) hợp với diệp lục tố tạo ra màu xanh dính trên mặt bánh chỉ Thủy. Lá dong màu xanh gói ở ngoài chỉ Mộc, năm thứ đó tượing trưng cho Ngũ Hành. Dây lạt buộc ngoài nhuộm đỏ gồm 4 sợi buộc từng cặp song song và vuông góc chia bánh thành 9 ô vuông, chỉ cửu cung của Lạc Thư Hà Đồ. Chiếc bánh theo thứ tự từ trong ra ngoài, ta thấy ở giữa có thịt màu đỏ chỉ Hỏa. Hỏa sanh Thổ, đậu xanh màu vàng chỉ Thổ. Thổ sinh Kim, gạo nếp trắng là Kim. Kim sinh Thủy, dịch chất do nước nấu gạo sinh ra chỉ Thủy. Thủy dưỡng Mộc, lá dong bọc ngoài chỉ Mộc. Ta có Ngũ Hành Tương Sinh : Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy dưỡng Mộc. Bánh chưng được sắp xếp ngũ hành tương sinh theo hướng tương sinh của trái đất. Lòng trái đất là một lò lửa đỏ rực, theo đó nhân bánh là thịt màu đỏ tượng cho Hỏa. Vỏ trái đất là đất (thổ), tương ứng với lớp đậu xanh của bánh màu vàng tượng cho Thổ. Đất sinh ra kim loại nên bánh theo đó mà có gạo nếp trắng tượng cho Kim. Từ lòng đất nước chảy qua kim khí mà ra ngoài, bánh cũng được nấu trong nước tượng cho Thủy. Các giòng suối, giòng sông nước nuôi cây cối, lớp lá bọc ngoài của bánh tượng cho Mộc. Theo đó thì ngay từ thời thái cổ, cha ông chúng ta đã biết cấu trúc của trái đất và theo đó đặt ra luật Ngũ Hành. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành hẵn là đã có từ lâu nhưng đến đời Hùng Vương thứ 6 thì được cụ thể hóa bằng Bánh Chưng Bánh Dầy. Thật là tuyệt vời, với thứ ăn đơn giản ngon miệng mà thể hiện được ý niệm cao siêu của một thuyết bao trùm vũ trụ, trời đất vạn vật. Dân ta mỗi năm đến ngày tết lại nấu bánh chưng bánh dầy để dâng lên Tổ Tiên, cũng như dâng lên bàn thờ Quốc Tổ vào dịp Giỗ Tổ. Tập tục đó được truyền từ đời này qua đời khác cho đến tận ngày nay. Nhờ đó qua các cuộc thăng trầm của đất nước với hàng ngàn năm bị đô hộ, vẫn với cắp bánh chưng bánh dầy đó làm chứng tích để nhận ra nguồn gốc Âm Dương Ngũ Hành là của các bậc tiền nhân từ thời thượng cổ lập thuyết truyền lại. Dù Bắc phương có dùng võ lực để cướp đất, để đoạt thành tích trí óc thì vật sở hữu vẫn là đích thực của Việt tộc. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành có từ bao giờ ? Cổ thư Trung Hoa viết vua Đại Vũ đi trị thủy đến sông Lạc gặp con rùa thần nổi lên, trên lưng rùa có những chấm đen trắng gọi là Lạc thư, nhân đó mà làm ra 9 trù lớn (Hồng Phạm cửu trù) mà trù thứ nhất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo Kinh Thư thì thuyết Âm Dương Ngũ Hành được nói đến trong thiên Hồng Phạm Cửu Trù do ông Cơ Tử nói với vua Vũ nhà Chu. Hồng Phạm Cửu Trù có 9 Trù mà trù thứ nhất nói về Ngũ Hành : một là Thủy, hai là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là Thổ. Cơ Tử là một hiền thần cùa nhà Thương/Ân bị vua Trụ bỏ tù được Vũ vương nhà Chu diệt nhà Thương/Ân cứu ra. Theo sách Chu Dịch thì khái niệm Âm Dương do Khổng Tử (500 TCN) viết ở Thập Dực khi diễn giải Chu Dịch. Hệ từ Thượng, chương V - tiết thứ nhất, có đoạn viết : “Nhất Âm Nhất Dương chi vị đạo” . Hệ từ Thượng, chương thứ XI viết : “Thị cố Dich hữu Thái Cực, Thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái”. Lại có người nói (theo Sử Ký và Lã Thị Xuân Thu) thì thuyết Âm Dương Ngũ Hành do Trâu Diễn sống thời Chiến Quốc (350-270 TCN) là người hoàn chỉnh và lập ra phái Âm Dương gia. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành được phổ biến ở Trung Hoa vào thời Hán Vũ Đế (156-87 TCN) do ông vua này truyền các nhà chiêm tinh, lý học đến để hỏi xem ngày đó tháng đó cưới vợ tốt không ? Người theo thuyết “Ngũ Hành” nói được, người theo thuyết “Kham Dư” nói không được, người theo thuyết “Kiến Trừ “bảo là xấu, người theo thuyết ”Tùng Thời” bảo rất xấu, người theo thuyết “Lịch Gia” nói hơi xấu, người theo thuyết “Thiên Nhân” nói tốt vừa, lại người theo thuyết “Thái Nhất” nói đại cát. Các ông tranh nhau cãi đến đỏ mặt tía tai không ai chịu ai. Sau cùng Hán Vũ Đế bảo : “mọi điều nên hay kiêng, phải lấy thuyết Ngũ Hành là chính. Kể từ đó, thuyết Ngũ Hành được phát triễn”. (Sử Ký, Nhật Giả Liệt Truyện) Xem như thế thì truyền thuyết, sách vở Trung Hoa nói về xuất xứ Âm Dương Ngũ Hành rất lộn xộn. Thuyết lâu đời nhất do Cơ Tử đời vua Vũ nhà Chu (1122 TCN) trong thiên Hồng Phạm Cửu Trù. Truyền thuyết của ta nói đời Hùng Vương thứ 6, Lang Liêu đã làm ra Bánh Dầy Bánh Chưng để tượng cho Âm Dương Ngũ Hành. Đời Hùng Vương thứ 6 tương đương với đời Ân Cao Tông (1740 TCN) khi ông vua này đem binh xâm lấn đất Văn Lang bị Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi. Như vậy thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã có trước nhà Chu lâu đời khoảng 600 năm. Hơn nữa, Hồng Phạm Cửu Trù là sách của họ Hồng Bàng, dẫn chứng ở sau. (Chu Dịch trong quẻ Ký Tế, phần tượng truyện, hào 3 có nói :”Cửu Tam : Cao Tông phạt Quỉ phương tam niên, khắc chi, tiểu nhân vật dụng” (Cao Tông đánh nước Quỷ phương, ba năm mới được, chớ dùng tiểu nhân). Thuyết Âm Dương Ngũ Hành hẳn là đã được lưu truyền lâu đời trước Hùng Vương thứ 6. Lang Liêu thấm nhuần, thấu hiểu nên mới cụ thể hóa trong chiếc Bánh Dầy Bánh Chưng. Nhờ Bánh Dầy Bánh Chưng được lưu truyền từ đời này qua đời khác cho đến tận bây giờ mà thuyết Âm Dương Ngũ Hành chứng tỏ là xuất xứ của dân Việt, do các bậc thánh nhân Lạc Việt lập thuyết. ÂM DƯƠNG và KINH DỊCH. Thiên Hệ Từ thượng truyện, chương II của Kinh Dịch viết : “Thi cố thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc chi, thiên địa biến hóa, thánh nhân địa chi, thiên thủy tương, hiện cát hung, thánh nhân tượng chi. Hà Đồ xuất, Lạc Thư xuất, thánh nhân tắc chi.” (cho nên trời sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo, trời đất biến hóa thánh nhân bắt chước. Trời bày ra hình tượng, hiện ra sự tốt xấu, thánh nhân phỏng theo ý tượng. Bức đồ hiện ra ở sông Hoàng Hà, hình chứ hiện ra ở sông Lạc, thánh nhân áp dụng theo). Hai chữ thánh nhân ở đây mọi người cho là Phục Hy phỏng theo Hà Đồ, Lạc Thư mà vẽ bát quái. Hạ từ truyện, chương II chép rõ hơn : “Ngày xưa họ Bào Hy (tức Phục Hy) cai trị thiên hạ, ngửng đấu lên thì xem hình tượng trên trời, cúi xuống thì xem phép tắc ờ dưới đất. Xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi với trời đất (của từng miền) gần thì lấy thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi làm ra bát quái để thông suốt cái đức thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật.” Chu Dịch toàn bộ của Ngô Tất Tố viết : “…Kinh Dịch bắt đầu từ vua Phục Hy, một ông vua về đời thần thoại, cũng gọi là Bào Hy, không biết cách đây mấy nghìn năm hay mấy vạn năm. Lúc ấy Hòang Hà có con Long Mã hiện hình, lưng nó có khoáy thành đám, từ 1 đến 9, vua coi những khoáy đó mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch ra từng nét. Đầu tiên vạch một nét liền, tức là “vạch lẽ” để làm phù hiệu cho khí Dương và một nét đứt, tức là “vạch chẵn” để làm phù hiệu cho khí Âm. Hai cái vạch đó gọi là Lưỡng Nghi, Trên mỗi Nghi thêm một nét nữa, thành ra bốn cái “hai vạch” gọi là Tứ Tượng, Trên mỗi tượng lại thêm một vạch nữa thành ra tám cái “ba vạch” gọi là Bát Quái (8 quẻ). Sau cùng vua ấy lại đem Quẻ nọ chồng lên Quẻ kia điên đảo khắp lượt thành ra 64 cái “sáu vạch” gọi là 64 Quẻ.” Các nhà nghiên cứu về nguồn gốc của hai ký hiệu Âm _ _ Dương __ đưa ra ý kiến như sau : 1- Thời kỳ sùng bái bộ phận sinh dục dùng gạch dài __ tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam chỉ Dương và gạch đứt _ _ tượng trưng cho bộ phận sinh dục nữ chỉ Âm. 2- Lúc đầu dùng ống trúc 1 đốt __ để tượng trưng cho dương tính và loại ống trúc 2 đốt _ _ tượng trưng cho âm tính. 3- Tập tục kết giây thừng, sợi giây thừng giữa thắt nút tượng cho Âm sau biến thành _ _ , một loại giây thừng không kết nút tượng cho Dương sau biến thành __ . . 4- Nguồn gốc Dịch Quái là ở Quy bốc (bói mai rùa). Mai rùa gồm có 2 lớp. Lớp ngoài vỏ cứng, lớp trong mềm. Lớp vỏ cứng ngoài có hoa văn phân thành 9 vảy. Lớp trong mềm chia thành 12 vảy, lại có đường chỉ nhỏ phân đều mỗi bên 6 vảy. Lớp ngoài cứng số lẻ 9. Lớp trong mềm số chẵn 6. Số 9 đại diện cho Dương. Số 6 đại diện cho Âm. (Lưu Bá Ôn, Dịch Học Toàn Tập, Nguyễn Viết Dần dịch, Nguyễn Bích Hằng hiệu đính, nxb Thông Tin Văn Hóa, Hà Nội) Các lối giải thích nguồn gốc Dịch như trên đều cho thấy Dịch bắt nguồn ở nền Văn Hiến Văn Lang : 1- Sùng bái bộ phận sinh dục là tập quán của dân Nam Á (AustroAsian) tức Việt Tộc. Tại nhiều vùng ở Miền Bắc và Trung Việt Nam còn có tục lệ cúng bái, rước sách bộ phận sinh dục (Ông Đùng Bà Đà, Nõn Nường). 2- Vùng đất nhiều tre nứa thuộc vùng sinh sống của Việt tộc, từ phía nam sông Dương Tử đổ xuống vì thế chỉ có người Việt mới có hứng khởi dùng tre nứa để tượng cho Âm Dương. 3- Sử cổ viết về người Lạc Việt : “Chính sự dùng lối kết nút”. Kết nút để phân biệt Âm Dương, sợi giây thừng giữa thắt nút là Âm, sợi không thắt nút là Dương. Điều này chứng tỏ vạch định ra Âm Dương là của nền Văn Hiến Văn Lang. 4- Qui bốc là của dân Việt. Sách Tàu viết bộ Việt Thường đem biếu vua Nghiêu con rùa trên lưng có ghi lịch pháp gọi là Qui Lịch. Bói mai rùa cần phải có rùa lớn. Rùa lớn chỉ ở vùng sông Dương Tử mới có. Sông Dương Tử có Động Đình Hồ. Động Đình Hồ là cái nôi của Việt tộc. Âm Dương Ngũ Hành, Dịch số, Lịch pháp, Lạc Thư Hà Đồ, Hồng Phạm Cửu Trù đều phát xuất từ Động Đình Hồ, từ Châu Kinh Châu Dương. Lý số là sản phẩm trí óc của những bậc thánh nhân Việt tôc. Theo cổ thư thì Phục Hy là người lập ra Kinh Dịch căn cứ vào Âm Dương mà vạch ra Quẻ Lưỡng Nghi, Bát Quái. Phục Hy là một trong Tam Hoàng. Tam Hoàng là thủy tổ cùa Việt tộc như triết gia Kim Định đã phân chất : “Phục Hy làm ra Kinh Dịch. Oa Hoàng làm ra phép linh phối. Thần Nông làm ra nông nghiệp. Hữu Sào làm ra nhà sàn. Bàn Cổ xếp đặt trời đất….Xưa rày người ta vẫn nghĩ rằng bấy nhiêu vị là người Tàu cả. Nhưng đến nay khoa học khám phá ra rằng các ngài không phải là Tàu. Hỏi vậy là ai ? Các học giả chưa nói ra ngã ngũ… Xin đem các vị đi thử máu, xem là máu Tàu hay máu Việt….Đến lúc thử xong thì ra toàn loại máu T.R. (Tiên Rồng). “Phục Hy có tên là Thanh Tinh : Rồng Xanh, đúng là máu R đã thế lại giao chỉ với bà Nữ Oa tức hai vị quấn đuôi nhau làm sao không lây máu nhau được. Vì thế xin bà tí huyết để phân tích, mới rút ra thì đã thấy là máu T (chim) vì khi bà chết thì hóa ra chim Tinh Vệ (tức máu T : chim) tha đá lấp bể.” Giáo sĩ người Pháp tên là Bai-Chin (1656-1730) trong thư từ với Lép-Nít (1646-1716) cho rằng Phục Hy và Te-li-chít trong thần thoại Hy Lạp chỉ là một người. Chu Bá Ôn trong Dịch Học Toàn Tập viết : “…Từ trong bức thư của Lép-Nít (Leibniz) trả lời Bai-Chin (Bouvet) có thể thấy rõ, điều quan tâm hơn cả là làm thế nào để vận dụng các ký hiệu trong Kinh Dịch để phát triển hai vấn đề ngôn ngữ phổ thông và thần học. Trong thư của Bai-Chin trả lời ông có nói, Phục Hy và Te-li-chít trong thần thoại Hy Lạp có thể chỉ là một người, vì thế ngôn ngữ trong Kinh Dịch có thể là ngôn ngữ trong Kinh Thánh được các học giả sử dụng chung trong thời đại mông muội…” (Chu Bá Ôn, Dịch Học Toàn Tập, Nguyễn Viết Dần biên dịch, Nguyễn Bích Hằng hiệu đính, Nhà xuất bản Văn Hóa –Thông Tin, Hà Nội, 2003) Theo Nguyễn Xuân Quang trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt thì thần thoại Hy Lạp có tới 2 vị là hình bóng của Phục Hy. Đó là thần Hermes và thần Cecrops. Thần Hermes là người nho nhả dáng dấp nhanh nhẹn giống hệt con người văn vẻ Phục Hy. Hermes có cây gậy thần caduceus có con rắn quấn biểu tượng cho y học Tây phương. Còn Phục Hy được mô tả đầu quấn vòng kết bằng lá tượng trưng cho y học Đông phương. Còn thần Cecrops được coi như người đã lập ra hôn phối như Phục Hy với Nữ Oa lập ra linh phối. Cecrops lập ra chữ viết giống như Phục hy vạch ra các hào âm dương được xem như là người lập ra chữ viết. Cecrops thường được vẽ hình phần trên là người phần dưới là giống rồng rắn, giống như linh vật rồng của dòng giống Việt tộc. Ông Nguyễn Xuân Quang còn cho Phục Hy cũng liên hệ với Thần Cò Ibis Thoth của Ai Cập. Thần Cò Thoth phát minh ra chữ viết giống Phục Hy lập ra hào âm dương được coi như chữ viết thời sơ khai. Thần Cò Thoth còn gọi là thần Khôn Ngoan giống Phục Hy là người văn vẻ thông minh. Thần cò Thoth là Kẻ Đo Thời Gian giống Phục Hy Thắt Nút Kết Thằng và làm Lịch Rùa. Thần Cò Thoth là một chiêm tinh gia giống với Phục Hy vạch ra Bát Quái của Kinh Dịch, nguyên thủy là một thứ bói toán. Phục Hy được coi như thánh nhân áp dụng Hà Đồ tìm hiểu tinh tú. HÀ ĐỒ LẠC THƯ ‘Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Hà Đồ do vua Phục Hy (4480-4369 TCN) phát hiện khi đi tuần thú ở sông Hoàng Hà thấy con Long Mã từ dưới sông hiện lên trên lưng có Hà Đố ghi chép việc trời đất mở mang. Còn Lạc Thư do vua Đại Vũ (2205 TCN) đi trị thủy thấy con rùa thần nổi lên trên mình vẽ Lạc Thư.’ Theo đó thì vua Phục Hy thấy long mã mà làm ra Hà Đồ rồi mãi đến một ngàn năm sau vua Đại Vũ mới thấy rùa thần ở sông Lạc mà làm ra Lạc Thư. Tại sao lại có sự cách biệt một thời gian cả ngàn năm mà cái đáng lẽ có trước là Lạc Thư rồi mới dựa theo đó để phác họa ra Hà Đồ thì lại cho Hà Đồ có trước và Lạc Thư có sau? Sự gán ghép cho ông vua này tìm ra Hà Đồ ông vua kia tìm ra Lạc Thư một cách lúng túng chứng tỏ Lạc Thư Hà Đồ không phải của Hoa tộc. Âm Dương Ngũ Hành là sự giải thích về việc hình thành trời đất và từ đó ứng dụng vào việc ảnh hưởng đến con người. Còn Lạc Thư Hà Đồ là tìm hiểu sự vận hành của những ngôi sao trong thiên hà và giải thích các hiện tượng vũ trụ. Tại sao lại gọi là Lạc Thư ? Truyền thuyết nói về thời Hùng Vương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, dân gọi là Lạc dân, ruộng gọi là Lạc điền. Như thế Lạc Thư hẳn là sách của dân Lạc Việt. Còn Hà Đồ là đồ hình miêu tả sự vận động của giải ngân hà hay thiên hà. Cụm từ Lạc Thư Hà Đồ có nghĩa là sách của dân Lạc Việt nói về những sự hiểu biết về các liên quan đến giải ngân hà, vũ trụ. Ngày xưa người Lạc Việt thường viết chữ Khoa đẩu (chữ con nòng nọc hay con quăng) vào lưng rùa, có lần đem biếu cho Đế Nghiêu làm lịch gọi là Quy Lịch, điều đó chứng tỏ người Lạc Việt đã có chữ viết. Triết gia Kim Định nói về việc đó như sau “Có lưu truyền kể rằng, vào đời Đường nước Việt Thường biếu vua Nghiêu rùa thần trên mu có chữ con quăng ghi việc từ khai thiên lập địa về sau. Đế Nghiêu ra lệnh ghi chép và gọi là “Quy Lịch” Quy Lịch cũng gọi là Lac Thư, tức sách của Lạc dân thành bởi 9 bộ số, nhưng 9 cũng quy vào hai là số 2 đất và 3 trời, trong truyện nói bóng là ghi truyện tự khai thiên lập địa… Sự thực đó là đạo trời, đạo đất, đạo người. Lý do nền tảng tại sao tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa Việt mà phải nghiên cứu các phó sản của nó là Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành, Hồng Phạm Cửu Trù, Lạc Thư, Sách ước. Vì tất cả đều do Việt tộc chính, về sau Tàu có lẽ thêm vào được ít chút bằng sự tô chuốt trang hoàng bề ngoài mà thôi, chứ cái nõn thì đã có sẵn rồi.” (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên) HÀ ĐỒ LẠC THƯ và THUYẾT CON RỒNG CHÁU TIÊN Truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam nói Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra một bọc có một trăm trứng nở ra trăm con. Hùng Vương được truyền ngôi chia nước ra làm 15 bộ, đặt tên nước là Văn Lang, truyền được 18 đời. Lạc Long Quân tên húy Sùng Lãm là con của Lộc Tục Kinh Dương Vương và Long Nữ. Lộc Tục là con của Đế Minh và Vụ Tiên. Vì gốc tích Tiên và Rồng nên dân Việt được gọi là “Con Rồng cháu Tiên”. Rồng biểu tượng cho sức mạnh vũ trụ vật chất. Tiên biểu tượng cho trí óc, sự sáng suốt, thông thái, tâm linh. Lộc Tục Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân gốc Lạc nên dân Việt cũng được gọi là “Con Hồng cháu Lạc” cũng gọi là Lạc Việt. Âu Cơ đẻ ra một bọc 100 trứng, nở ra 100 con. Cái Bọc trứng của mẹ Âu Cơ tượng trưng cho Trứng vũ trụ trong quá trình tạo sinh là nguyên thủy Thái Cực. Tượng của Thái Cực hình tròn phân cực thành Âm và Dương. Từ bọc Thái Cực Âm Dương nở ra 100 con. Tại sao lại 100 ? Vì tổng số của Lạc Thư Hà Đồ là 100. Độ số Lạc Thư cộng là 45. Độ số Hà Đồ là 55. Cộng chung là 100. Trong Lạc Thư Hà Đồ có 50 vòng đen thuộc Âm tương ứng với 50 con theo Tổ Mẩu Âu Cơ lên núi và 50 vòng trắng thuộc Dương tương ứng với 50 con theo Tổ Phụ Lạc Long Quân xuống biển. Lạc Thư có độ số ma phương cộng dọc công ngang cộng xéo đều ra số 15. Đó là số 15 bộ của nước Văn Lang. Số 15 bộ có lẽ chỉ là con số tượng trưng cho sự vận dụng quy luật vủ trụ Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư, Hà Đồ trong việc điều hành đất nước. Bánh chưng lễ có 4 sợi giây lạt nhuộm đỏ buộc từng cặp song song nhau và vuông góc chia chiếc bánh thành 9 ô vuông. 9 ô vuông này có liên quan đến cửu cung và độ số của Lạc Thư Hà Đồ. Bánh chưng buộc bằng giây lạt (cũng đọc là lạc) nhuộm đó (hồng) nhắc nhở ta nhớ đến nguồn gốc dòng giống Lạc Hồng. (giây Lạc (lạt) màu Hồng) Hình vẽ Củu cung Lạc Thư Hà Đồ và độ số ma phương 15 và 100 ĐỘ SỐ LẠC THƯ = 45 Số Ma Phương =15 4 9 2 3 5 7 8 1 6 Các số cộng ngang cộng dọc cộng xéo đều ra 15 gọi là số ma phương Số ma phương 15 tương ứng với 15 bộ của nước Văn Lang Độ số Lạc Thư : 15 x 3 = 45 ĐỘ SỐ HÀ ĐỒ = 55 2 7 4 3 5-10 9 8 1 6 Tổng độ số Lạc Thư 45 + Hà Đồ 55 = 100 Lạc Thư có các số 9+3+7+5+1 = 25 thuộc Dương Lạc Thư có các số 4+2+6+8 = 20 thuộc Âm Hà Đồ có các số 7+9+5+1+3 = 25 thuộc Dương Hà Đồ có các số 2+4+10+6+8 = 30 thuộc Âm Tổng số Dương của Lạc Thư và Hà Đồ = 50 Tổng số Âm của Lạc Thư và Hà Đồ = 50 50 thuộc Dương tương ứng với 50 con theo Cha Lạc Long Quân xuống biển 50 thuộc Âm tương ứng với 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi. Tổng độ số 100 tương ứng với 100 con của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân. ( Lưu ý : Các số lẻ thuộc Dương, các số chẳn thuộc Âm) Huyền thoại Con Rồng Cháu Tiên và Một Bọc nở Trăm Con là do Tiền Nhân muốn nhắn gởi con cháu biết rằng Thái Cực, Âm Dương Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ là sản phẩm của Việt Tộc do Tổ Phụ thời thượng cổ lập ra với độ số chính xác sự vận hành của vũ trụ và các sao trong giải Thiên Hà. HỒNG PHẠM CỬU TRÙ Theo các nhà lý học Trung Hoa cho Hồng Phạm Cửu Trù là của vua Đại Vũ (nhà Hạ) đi trị thủy đến sông Lạc gặp một con rùa thần nổi lên, trên mai có vòng tròn đen trắng gọi là Lạc Thư, ông dựa vào đó mà làm ra 9 trù lớn, gọi là Hồng Phạm Cửu Trù rồi diễn giải và truyền lại cho đời sau. Đoạn văn này phải hiểu là vua Đại Vũ (Hoa Hạ) đã lấy được sách hay học được với dân Lạc Việt về cách xem thiên văn nên gọi là Lạc Thư và cùng lúc học được Hồng Phạm Cửu Trù của họ Hồng Bàng. Lại một thuyết nữa theo Kinh Thư nói Vũ Vương nhà Chu đánh thắng nhà Thương mới mời ông Cơ Tử là một tội phạm của Trụ vương để hỏi đạo trời. Cơ Tử bèn đem đạo đó là Hồng Phạm Cửu Trù mà báo lên cho Vũ Vương. Ông Cơ Tử này cũng chỉ là người đã học được Hồng Phạm Cửu Trù từ đời trước nay đem truyền lại cho Vũ Vương mà thôi. (Kinh Thư nói là của Khổng Tử nhưng chính thực là của cháu 12 đời của Khổng Tử là Khổng An Quốc đời Hán Cảnh Đế viết dựa vào cổ thư lấy được trong vách nhà Khổng Tử.) Trong Kinh Thư thiên quan trọng nhất là Hồng Phạm Cửu Trù lại mang nội dung của người Lạc Việt. Triết gia Kim Định nhận định như sau : Trong mấy thiên đầu Kinh Thư chữ “Viết” cũng đọc và viết là “Việt”. “Viết nhược kê cổ” cũng đọc là “Việt nhược kê cổ” ( ). Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn…vì vậy mà có câu lập lờ mở đầu “Việt nhược kê cổ”. Cả Mã Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ “nhược” là thuận, chữ “kê” là khảo. Vì thế câu trên có nghiã rằng : “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa”. Nếu nói viết nhược kê cổ thì câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu Kinh Thư thì không tiện, nên cho rằng chữ “Việt” với viết” như nhau…” Như chúng ta đã biết Âm Dương Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ là của dân Việt thì Hồng Phạm Cửu Trù cũng là của dân Việt. Hồng Phạm Cửu Trù là 9 trù của họ Hồng Bàng làm ra để theo đó mà điều hành việc nước. Hồng Phạm Cửu Trù là bản Hiến Pháp cổ nhất của dân Việt do họ Hồng Bàng lập ra cho việc trị nước. Hồng Phạm Cửu Trù có 9 trù tức 9 loại, 9 mục : Trù 1 : Ngũ Hành : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Trù 2 : Ngũ Sự : Mạo (dung mạo), Ngôn, (nói năng) Thị (nhìn xem), Tư (suy nghĩ), Thính (nghe). Trù 3 : Bát Chính : Thực (ăn), Hóa (tiền bạc), Tự (tế tự), Tư không (canh tác), Tư Đồ (giáo dục), Tư khấu (hình phạt), Tân (ngoại giao), Sự (binh bị). Trù 4 : Ngũ Kỷ : Năm, Tháng, Ngày, Tinh Tú, Lịch pháp. Trù 5 : Hoàng Cực : (Hoàng là vua, ở ngôi cao nhất gọi là cực). Người làm vua phải dựng nên mực thước cho dân theo. Tóm lại là lẽ công bằng chính trực mà vua phải theo và cũng là người lãnh đạo phải làm, mà như thế là theo lẽ trời. Trù 6 :Tam Đức : Ngay Thẳng, Cứng rắn, Ôn Hòa. Trù 7 : Kê Nghi : Tra cứu nghi ngờ. Khi có sự hồ nghi do dự thì dùng bói toán để biết ý trời. Trù 8 : Thứ Trung : Các “điềm trời”. Mưa nhiều : vua làm việc rồ dại. Đại hạn : vua sai lầm. Nóng nhiều : lười biếng, bê trễ chính sự. Rét nhiều : Làm việc tính cách nóng nảy. Gió nhiếu : ngu tối, mờ ám. Trù 9 : Phú Cực : Ngũ Phúc và Lục Cực : Ngũ Phúc : Thọ, Giàu, Khỏe mạnh, Đức tốt, Sống trọn đời, Không rủi ro. Lục Cực : Chết do tai nạn, chết non. Đau ốm tật bệnh. Lo buồn. Nghèo đói. Ác nghiệt. Nhu nhược. Câu truyện Sơn Tinh Thủy Tinh mà Hùng Vương thứ 18 ra điều kiện ai muốn cưới công chúa Mỵ Nương thì sính lễ phải có là : “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” (Nam Hải Dị Nhân, Phan Kế Bính) Đây là những giá trị tinh túy nhất của nền văn hiến Văn Lang mà họ Hồng Bàng tạo lập được từ thời thượng cổ cho đến thời bấy giờ, vua Hùng Vương đòi hỏi người con rể và cũng có thể là người kế vị phải thông suốt và có trách nhiệm gìn giữ. * Voi chín ngà : Trù thứ nhất: đó là trạng thái ban đầu của vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm Dương Ngũ Hành là : Kim, Môc, Thủy, Hỏa, Thổ và 4 trạng thái tương tác của nó là Tứ Tượng : Tương sinh, Tương khắc, Tương thân ,Tương cụ, tổng cộng là 9. Đây là căn bản của hệ tư tưởng, chủ thuyết của nền Văn Hiến Văn Lang được mở đầu trong Hồng Phạm Cửu Trù : Bản Hiến Pháp của họ Hồng Bàng. * Gà chín cựa : (Kê Nghi) trù thứ 7 của Hồng Phạm Cửu Trù. Khi nhà vua có điều gì nghi ngờ thì trước hết mưu tính trong lòng rồi mưu với các khanh sĩ, khi cần thì mưu vớii thứ dân, mưu với bói toán. Đó là hình thức dân chủ ngày nay, không độc đoán mà lấy ý kiến dân chúng. * Ngựa chín Hồng Mao : Ngựa ngày xưa tượng trưng cho sức mạnh, chiến tranh và quyền bính. Ngựa chín hồng mao là hình ảnh của Hồng Phạm Cửu Trù, là những giá trị mà người lãnh đạo phải noi theo trong việc điều hành quốc gia, giữ vững biên cương. Truyền thuyết kể rằng: Sơn Tinh là Tản Viên Sơn Thần đã giải đúng và cưới được Mỵ Nương nhưng không màng ngôi vua mà quyết chí theo Chử Đồng Tử ngao du sơn thủy tu tiên nên nhường ngôi vua cho Thủy Tinh Thục Phán. An Dương Vương đã không giữ được cơ nghiệp của họ Hồng Bàng truyền lại mà để mất trong tay Triệu Đà (Hoa tộc). Thời kỳ rực rỡ của nền Văn Hiến Văn Lang đã khép lại khi An Dương Vương trên lưng thần Kim Quy đi xuống biển. Quy Lịch Sách Thông Chí của Trịnh Tiều chép: “Đời Đào Đường (Vua Nghiêu 2253 TCN) Phương Nam có bộ Việt Thường cử sứ bộ qua lại hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ đã sống trên 1000 năm, mình dài hơn 3 thước, trên lưng có khắc văn khoa đẩu ghi việc trời đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Đoạn văn ngắn đó cho ta nhiều điểm đáng lưu ý : Bộ Việt Thường : đây là một bộ của nước Văn Lang 15 bộ. Trên lưng rùa có khắc chữ khoa đẩu : chữ khoa đẩu cũng gọi là chữ nòng nọc hay chữ con quăng. Điều này chứng tỏ tộc Việt đã có chữ viết ghi các sự việc. Chữ viết khắc trên lưng rùa nên cần phải có rùa to lớn. Rùa lớn chỉ ở vùng sông Dương Tử là nơi tộc Việt sinh sống mới có. Tộc Hoa ở vùng Hoàng Hà không có rùa lớn. Những mu rùa người ta tìm thấy sau này ở kinh đô nhà Thương có khắc chữ khoa đẩu hẳn là của dân Lạc Việt, có thể do dân Lạc Việt đem tặng, có thể là do tộc Hoa xâm lăng đánh cướp được ( nhà Thương/Ân xâm lăng Văn Lang thời Hùng Vương thứ 6). Rùa lại đến với dân Việt khi thần Kim Quy giúp vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa và cho móng vuốt làm lẫy nỏ để giữ nước nhưng đã bị Trọng Thủy của tộc Hoa ăn trộm tức đoạt mất tinh hoa của nền văn hiến Việt tộc. Do đó Hoa tộc đã học được thuyết Âm Dương Ngũ Hành cũng như Lạc Thư, Hà Đồ, Kinh Dịch, Lịch pháp cùa tôc Việt. - Ghi việc trời đất mở mang : là việc tạo thành trời đất từ Thái cực đến Âm Dương Ngũ Hành, Kinh Dịch và Lạc Thư Hà Đồ. - Sai chép lấy gọi là Quy Lịch : chứng tỏ Việt tộc đã biết coi thiên văn địa lý để làm ra lịch. Dân Việt sống bằng nghề trồng lúa nước (Lạc dân, Lạc điền) cần biết thời tiết để canh tác trong năm nên cần có lịch. Hoa tộc đã học làm lịch với Việt tộc. Kinh Thư viết là vua Nghiêu sai hai ông Hy Hòa làm ra lịch. Như đọan văn trên nói rõ là khi được rùa thần trên lưng có khắc chữ khoa đẩu nói về việc trời đất mở mang do bô Việt Thường đem tặng nên mới sao chép lấy gọi là Quy Lịch chứ không phải do vua Nghiêu sai hai ông Hy Hòa làm ra lịch. Lại nữa, dân ta có câu ca dao độc đáo nói về việc hai ông Hy Hòa làm lịch: Ai về nhắn họ Hy Hòa Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh. Nó chứng tỏ hai ông Hy Hòa Làm lịch này là người Lạc Việt trong thời nước Văn Lang đang rực rỡ với nền Văn Hiến dựa trên nền tảng Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư, Hà Đồ và Hồng Phạm Cửu Trù cũng như Kinh Dịch. Các sách Tàu như Giao Châu Ký, Tam Đô Phủ, Ngô Lục Địa lý, PhươngThảo Mộc Trang xác nhận 12 con giáp của lịch pháp là của Việt tộc như sau : “..họ (Lạc Việt) đem tính tình các con vật mà so sánh với người rồi họ truyền tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba sinh con cọp v.v..” …“Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng trà mà uống”… “dùng đá màu làm men gốm”…”Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (tức thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh (lể giác bầu) lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh…” chứng tỏ dân Lạc Việt đã làm ra lịch, đã áp dung âm dương trị bệnh, căn bản của nền y học. Sách Cổ Kim Đồ Thư, Thảo Mộc Điếm viết : “Mã Viện tâu vua Tàu: Giao chỉ ép mía làm đường…Giao Chỉ làm giấy mật hương. Giấy mật hương làm bằng lá và vỏ cây mật hương trồng ở Giao Chỉ, giấy mềm. giai và thơm, ngâm nước không bở không nát.” Điều đó chứng tỏ từ đời Hùng Vương chúng ta đã có chử viết vì làm giấy không để viết chữ hay vẽ thì để làm gì? TÌM LẠI BẢN GỐC. Kể từ thời thượng cổ các Tổ Phụ dân Lạc Việt đã biết ngửng lên nhìn trời xem sự vận chuyển của tinh tú trên giải thiên hà, lại nhìn xuống đất xem xét sự vật mà hình thành thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ. Từ đó làm ra Kinh Dịch, Lịch Pháp rồi Hồng Phạm Cửu Trù để điều hành việc nước và các sản phẩm của Âm Dương Ngũ Hành như Y Học, Thái Ất Thần Kinh, Tử Vi, Phong Thủy… Để lưu truyền hậu thế các ngài đã cụ thể hóa các lý thuyết cao siêu trong các huyền thoại, ca dao hay sự vật khi nước mất chủ quyền. Về thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Kinh Dịch các ngài đã làm ra Bánh Dầy Bánh Chưng cùng với câu tục ngữ tuyệt vời “Mẹ Tròn Con Vuông” Với Lạc Thư Hà Đồ, các ngài đã lưu truyền huyền thoại “Con Rồng Cháu Tiên”. với 100 con, 50 theo Mẹ lên núi, 50 con theo Cha xuống biển, đất nươc chia làm 15 bộ. Về việc điều hành đất nước và các đức tính người lãnh đạo phải noi theo là Hồng Phạm Cửu Trù thì đã có câu truyện “Sơn Tinh Thủy Tinh” với lời thiệu: Voi Chín Ngà, Gà Chín Cựa, Ngựa Chín Hồng Mao. Các ngài đã làm ra lịch để dân ta biết năm tháng mùa màng mưa nắng cho việc cày cấy lúa nước với câu ca dao bất hủ : Ai về nhắn họ Hy Hòa - Nhuận năm sao chẳng nhuận và trống canh”. Về chữ viết thì chính người Tàu đã công nhận dân Lạc Việt có chữ khoa đẩu (con quăng, nòng nọc) và dùng lối thắt nút để cai trị dân. Kể từ khi bộ Việt Thường đem Rùa Thần có khắc chử khoa đẩu ghi việc mở mang trời đất (Âm Dương Ngũ Hành Lạc Thư Hà Đồ, Lịch Pháp) tặng cho vua Nghiêu để xiền dương nền Văn Hiến tuyệt vời của dân Việt cho đến thời An Dương Vương bị Hoa tộc (Triệu Đà) đánh bại, đã giáng nhát gươm oan nghiệt xuống đầu Mỵ Châu rồi cầm sừng tê bảy tấc theo Rùa Thần (Kim Quy) đi xuống biển thì trang sử hào hùng chói lọi Văn Hiến Lạc Việt đã khép lại. Kẻ thống trị đã cưỡng đoạt các giá trị văn hóa của Việt tộc làm của mình. Hàng ngàn năm bị đô hộ, nền văn hóa dân tộc bị kẻ xâm lăng tước đọat. Chỉ trong vỏng 14 năm thời nhà Minh xâm lăng cai trị mà tất cả sách vở đều bị tịch thu, bắt nhân tài qua phục vụ mẫu quốc, bắt dân chúng theo phong tục tập quán Tàu, thì hàng ngàn năm bị đô hộ nền tảng văn hóa dân tộc còn gì nữa. Sĩ Nhiếp được tiếng là giáo hóa dân Việt, thực ra đã bắt dân ta học chữ Tàu, bỏ chữ khoa đẩu, bắt cưới hỏi theo lề lối Tàu, bỏ chế độ mẫu hệ, bắt ăn mặc theo Tàu cài vạt áo bên phải nghĩa là bắt theo phong tục của Hoa tộc. May mắn dân ta còn lưu truyền truyện tích mang tính chất huyền sử, còn ca dao tục ngữ, còn bánh dầy bánh chưng để chứng nhận di sản văn hóa của Tổ Tiên mà ngày nay tưởng như là của Tàu. Những chiếc chìa khóa để mở cửa vào nền Văn Hiến bất diệt của dân tộc còn nằm rải rác trong dân gian, cần nhiều khai thác. Nền Văn Hiến Việt tộc khởi đi từ thượng cổ, ít ra là từ Kinh Dương Vương, sánh ngang với các nền văn minh nhân loại như Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ… Bởi vậy khi dành được tự chủ, chậm nhất từ thời nhà Lý, ông cha ta đã hân hoan hãnh diện công bố đất nước “Bốn Ngàn Năm Văn Hiến”. Đến nay trải qua ngàn năm tự chủ, đất nước Việt Nam, dân tộc Lạc Việt đã có “Năm Ngàn Năm Văn Hiến”. Chúng ta hãnh diện là con dân của nước Việt Nam Văn Hiến.*
  10. Nhân ngày Tết, mời các ACE đọc một bài về "Cây nêu" trong văn hóa cổ người Việt. Nguồn: http://taphopdongtam.org Tác giả: Không rõ CÂY NÊU Cu kêu ba tiếng cu kêu, Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè. Ngày Tết dân ta thường trồng Cây Nêu. “Từ lúc cây nêu được dựng lên, mọi việc phải được coi như xong xuôi, nhà nào nhà nấy sẵn sàng làm lễ tống cựu nghinh tân. Trễ lắm là buổi chiều ngày 30 Tết (âm lịch tháng thiếu thì ngày 29 kể là 30) nhà nào cũng trồng nêu. “Người ta đẵn một cây tre tới gốc còn đủ ngọn lá, trồng ở trước sân với một cỗ mũ nhỏ và một tảng vàng buộc ngang thân cây trên cao, có nơi treo trên ngọn mấy chiếc khánh bằng đất nung, gió đánh chạm vào nhau kêu leng keng, Trồng nêu làm dấu hiệu là đất có chủ, ma quỷ không được dòm ngó quấy nhiễu. Trong bài thơ Tết có câu : Duyên với văn chương nên dán chữ, Sợ gì ma quỷ phải trồng nêu. là nói lên ý ấy. Cây nêu trồng trước sân như vậy đến ngày khai hạ là mồng 7 tháng giêng thì hạ xuống và đốt vàng mũ”. (Nhất Thanh, Đất Lề Quê Thói) Về nguồn gốc cây nêu có sự tích kể rằng thuở xưa vào lúc ma quỷ lộng hành phá phách, quấy nhiễu nhà cửa đất đai, hãm hại dân chúng, người dân đến xin Phật cứu giúp trừ bọn ma quỷ, Phật ra tay tế độ và bọn ma quỷ phải chịu phép. Chúng hứa sẽ không hại dân chúng nữa nhưng xin Phật cho biết chỗ nào là đất Phật chúng sẽ tránh xa. Phật dạy dân chúng trồng cây nêu và dặn chỗ nào có cây nêu ma quỷ không được bén mảng tới. Từ đó trong sân chùa và nhà dân chúng thường trồng cây nêu xua đuổi ma quỷ. Theo truyền thuyết kể trên thì cây nêu do Phật dạy dân chúng dựng lên để ma quỷ biết đất đó là của Phật, ma quỷ không được xâm nhập phá phách. Cây nêu đặc biệt chỉ nước ta mới có do dân chúng dựng lên vào dịp tết. Các nước khác theo Phất giáo kể cả nước Tàu, các nước Đông Nam Á không có tục dựng cây nêu. Vậy thì dân chúng nước ta được Phật đặc biệt ưu ái hơn các dân tộc khác chăng ? Chúng ta thử tìm hiểu nguồn gốc Cây Nêu. CHỬ ĐỒNG TỬ, Người Phật Giáo Việt Nam Đầu Tiên ? Các sự tích thời Hùng Vương của nước Văn Lang, có sự tích Chử Đồng Tử rất nổi bật vì Chử ĐồngTử là một trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng Lạc Việt. Sự tích tóm tắt như sau : Thời Hùng Vương thứ ba có con gái là Mỵ Nương Tiên Dung không chịu lấy chồng chỉ thích đi ngao du sơn thủy. Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có anh chàng tên Chử Đồng Tử nghèo đến nỗi cái khố cũng không có mà đeo, cả ngày cứ lội dưới sông bắt cá sinh sống. Một hôm Chử Đồng Tử thấy có thuyền to lớn lại nghe đàn sáo vi vu, Chử sợ quá vội lên bãi lấy cát vùi người để trốn. Thuyền Mỵ Nương Tiên Dung cũng ghé vào đó và Tiên Dung truyền lấy màn vây kín để tắm. Tiên Dung múc nước dội tắm thì cát chảy để lộ ra thân hình Chử Đồng Tử. Tiên Dung biết là cơ trời đã định nên lấy Chử Đồng Tử làm chồng. Vua Hùng Vương giận lắm, không coi Tiên Dung là con nữa. Tiên Dung và Chử Đồng Tử lập chợ mở tiệm buôn bán làm ăn. Chử Đồng Tử lại theo người đi buôn bán phương xa. Ra biển, đến đảo Chử Đồng Tử lên núi lấy nước ngọt. Tại đây, Chử Đồng Tử gặp một ông sư truyền đạo Phật cho. Đến lúc ra về, nhà sư lại cho một cái gậy và chiếc nón, bảo rằng : “Linh thông tại đây”. Về nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho Tiên Dung và hai người từ đấy đem nhau đi tìm thầy học đạo. Đi đến đâu, cắm gậy úp nón lên liền hiện ra thành quách nhà cửa, ngựa xe, người hầu hạ. Vua Hùng nghe nói, sơ vợ chồng Tiên Dung làm loạn, cho quân tới tiễu trừ thì thành quách nhà cửa nhất thời nhổ bay lên trời. Theo Lĩnh Nam Trích Quái, bản dịch của ông Lê Hữu Mục thì truyện Tiên Dung Mỵ nương lấy Chử Đồng Tử xẩy ra đời vua Hùng Vương thứ ba. Theo gia phả họ Hồng Bàng thì Đế Minh, cháu ba đời Thần Nông tuần du phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy Tiên nữ đẻ ra Lộc Tục. Đế Minh để Lôc Tục làm vua phương Nam lấy hiệu Kinh Dương Vương vào năm Nhâm Tuất (2879 tr. CN). Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh Hùng Vương thứ nhất. Như thế, Hùng Vương thứ ba là cháu năm đời Kinh Dương Vương. Từ Kinh Dương Vương dến Hùng Vương thứ ba cho là 500 năm thì niên kỷ Hùng Vương thứ ba là 2379 trước Công nguyên.(2879 – 500 = 2379). Truyện Chử Đồng Tử nói Chử Đồng Tử đi buôn gặp nhà sư truyền đạo Phật cho : “Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho ĐồngTử…Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng : “Linh thông tại đó.” (Lĩnh Nam Chích Quái, Lê Hữu Muc dịch) Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakya-Muni) sanh năm 563 trước Công nguyên, sau Hùng Vương thứ ba có đến 2000 năm. Như thế Chử Đồng Tử không thể học Phật với nhà sư Phật Quang được vì thời đó chưa có đạo Phật, Phật chưa giáng trần. Vậy thì thuyết cho Chử Đồng Tử lấy Tiên Dung và đi buôn gặp sư Phật Quang vào thời Hùng Vương thứ 3 không đúng. Có một bản khác nói truyện Chử Đồng Tử lấy Tiên Dung vào thời đầu đời Hùng Vương thứ 18. Hùng Vương thứ 18 mất ngôi vào tay An Dương Vương năm 257 tr. CN. Như thế, đầu đời Hùng Vương thứ 18 là vào khoảng năm 400 tr. CN. Vào thời này, ở Ấn Độ vua Ashoka Vardhana (A Dục) lên ngôi năm 273 tr.CN. Đế quốc của ông gồm toàn xứ Án Độ và các xứ A Phú Hãn, Belouchistan, chỉ trừ xứ Tamil ở miền nam Ấn Độ. Ashoka là ông vua độc ác giết hại nhiều người, nhưng rồi ông đổi tánh trở nên hiền lành tin vào đạo Phật, ăn chay. Ông xin quy y, bận áo vàng trong một thời gian, không đi săn, không ăn mặn nữa và theo con đường Bát Chánh. Ông cho khắc trên đá các sắc lệnh phải khoan dung về phương diện tôn giáo, trong sự tự do tín ngưỡng. Phải bố thí cho các tu sĩ Bà la môn cũng như các tăng đồ, không được mạt sát tín ngưỡng của người khác. Ông phái các cao tăng đi truyền bá đạo ở khắp Ấn Độ, Tích Lan, Trung Á, Syrie, Ai Cập tới cả Hy Lạp nữa. Sau khi ông mất thì nhiều phái đoàn khác đi truyền bá đạo Phật ở Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ… Theo ông Lê Mạnh Thác thì trong các nhóm đi truyền đạo, có một nhóm đi tới Đông Nam Á : “ Vào năm 247-232 tr.CN. vào thời của vua A Dục khi vua này ra lệnh cho phái đoàn tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất Vàng (Suvanabhumi). Vùng đất này có phải là vùng Đông Nam Á không, có phải vùng Đông Dương không ? Đây là một vấn đề còn đang tranh cải.” (Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thác, nxb Thuận Hóa, Huế 1999) Ông Lê Mạnh Thác dựa vào truyện Chử Đồng Tử đi buôn gặp nhà sư Phật Quang ở núi Quỳnh Viên và kết luận rằng Chử Đồng Tử là người Phật Tử Việt Nam đầu tiên. Có phải vậy không ? Hùng Vương thứ 18 mất ngôi vào tay An Dương Vương năm 257 tr.CN. Phái đoàn Sona đi truyền giáo ở vùng Đất Vàng (có phải là vùng Đông Nam Á hay Đông Dương không thì chưa chắc) vào năm 247-232, nghĩa là sau khi Hùng Vương mất ngôi từ 10 đến 25 năm. Mà nếu tính từ đầu đời Hùng Vương thứ 18 là vào khoảng năm 400 tr.CN. thì sự cách biệt là 153 năm. Như thế lúc Chử Đồng Tử đi buôn, đạo Phật chưa truyền bá ra ngoại quốc. Phật Thích Ca viên tịch năm 483 tr.CN. Từ khi Phật nhập niết bàn đến khi vua A Dục ngộ đạo và cho phái đoàn đi truyền đạo thì Phật giáo chỉ luẩn quẩn ở vùng sông Hằng, Ấn Độ. Nếu vậy thì sư Phật Quang là ai ? Núi Quỳnh Viên ở đâu ? Chử Đồng Tử học được pháp thuật gì ? Chử Đồng Tử Học Phép Tiên. Theo đó, dù ở thời nào, nếu Chử Đồng Tử sống ở đời Hùng Vương thứ 3 hay ở đầu đời Hùng Vương thứ 18 thì Chử Đồng Tử cũng chưa hề biết đạo Phật để có thể theo mà trở thành Phật tử Việt Nam đầu tiên. Đạo Phật truyền vào nước ta trong thời Bắc thuộc với đọan sử nói về thái thú Sĩ Nhiếp: “Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo hầu…” Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao châu vào thời Tam Quốc (222-280), thuộc về Đông Ngô. Sĩ Nhiếp hẳn là theo đạo Phật vì có Hồ nhân đốt hương đi sát xe. Hồ nhân là các nhà sư Ấn Độ hay Trung Á (Nguyệt Thị) đến truyền đạo ở Luy Lâu, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay, nơi đặt trụ sở bộ Giao Châu thời bấy giờ. Đạo Phật theo chân các Thái thú vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ 2 hoặc thứ 3 sau Công nguyên. Chử Đồng Tử đi buôn gặp nhà sư Phật Quang trên núi Quỳnh Viên thì nhà sư Phật Quang là ai, có phải là nhà sư tu đạo Phật không và núi Quỳnh Viên ở đâu ? Tiếng nhà sư không hẳn là để chỉ tu sĩ theo đạo Phật, mà tiếng nhà sư có thể chỉ là người tu hành. Trước khi đạo Phật truyền tới vùng Đông Nam Á thì đạo Bà Là Môn đã có mặt tại đây. Tiếng nhà sư ở đây có thể là tu sĩ Bà la môn, một guru, một chân sư, pháp sư, đạo sư đạo Bà la môn. Chiêm Thành ở sát nước ta, nơi các thuyền buôn Ấn Độ, Ả Rập thường ghé vào buôn bán, cho mãi đến thế kỷ thứ 8 hay thứ 9 đạo Phật mới được nói đến trước khi người Chiêm Thành rời đô về Đồ Bàn. Trên một tấm bia tại Đồng Dương vào năm 875 có ghi : “Do lòng tin vào đạo Phật, vua đã cho dựng lên một tu viện Phật giáo và đền thờ Laksmindra Lôkesvara Svabhayada”. Tuy nhiên đạo Phật không được người Chiêm Thành sung bái như đạo Bà la môn rồi đạo Hồi. Cho đến ngày nay, người Chiêm Thành 2/3 theo đạo Bà la môn, 1/3 theo đạo Hồi. Trái với Chiêm Thành, nước Cao Miên ngày nay là một nước theo Phật giáo, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 8 đạo Phật chưa được truyền vào, trước đó dân chúng theo đạo Bà la môn mà các di tích Angkor nói lên sự này. Vua Jayavarman II từ Java trở về làm vua đóng đô ở Indrapura, phía đông tỉnh Kompong Cham, nhà vua (802) dùng một nhà bác học Bà la môn tên Civakailaya làm giáo chủ trong cung. Vị này phải theo vua trong những lúc dời đô và trở nên vị lãnh đạo thứ nhất một tôn giáo mới “sự thờ cúng Đức Phật Vua” (culte du Dieu Roi). Theo ông Coedès, trường Bác cổ Viễn Đông thì vua Jayavarman II là người xây cất đền Angkor Wath đầu tiên. Như thế, hai nước ở tiếp giáp với nước ta phía nam đều theo đạo Bà la môn. Chiêm Thành về sau theo thêm đạo Hồi. Cao Miên thì theo Phật giáo Nam tông nhưng ảnh hưởng Bà la môn còn rất đậm. Còn núi Quỳnh Viên nơi Chử Đồng Tử lên múc nước gặp nhà sư Phật Quang theo ông Lê Mạnh Thác nói “xẩy ra tại cửa biển Nam Giới hay cửa Sót” thuộc lãnh thổ Chiêm Thành lúc bấy giờ. Điều này thì không lấy gì làm bằng chứng. Có lẽ đó chỉ một địa điểm thần thoại. Tên núi Quỳnh Viên phảng phất chốn tiên cảnh, cõi thiên thai. Trọng tâm câu truyện Chử Đồng Tử là ở chỗ nhà sư Phật Quang cho Chử Đồng Tử cái gậy và chiếc nón với lời dặn : “Linh thông tại đây”. Đó là phép thần thông. Thần thông thường do các đạo sĩ tu luyện. Theo truyền thuyết, có “lục thông” : 1. Thiên nhãn thông :mắt nhìn thấy xa ngàn dặm, thấy trong bóng tối. 2. Thiên nhĩ thông : tai nghe ngoài ngàn dặm, hiểu tiếng muôn loài. 3. Thần túc thông : bay như chim, đi như gió. 4. Tha tâm thông : biết ý nghĩ, lòng muốn của người ta. 5. Túc mạng thông : biết quá khứ, nghiệp chướng tiền kiếp của mọi người. 6. Lậu tận thông : vượt mọi phiền não, hoàn toàn giải thoát, sống ngoài vòng sinh tử luân hồi, không bị nghiệp duyên trói buộc nữa. Đạo Phật không chủ trương tu luyện thần thông. Nếu có thì chỉ tu Lậu tận thông để dứt vòng sinh tử luân hồi.Câu truyện sau đây chứng tỏ điều đó: Phật tổ ngày kia cùng các đệ tử đi qua một khu rừng, gặp một nhà tu phép thần thông du già (yoga). Phật hỏi : - Ông đã luyện được phép thần thông nào ? Nhà tu nói : - Tôi có thể khinh thân đi trên mặt nước như đi trên bộ. Phật hỏi : - Ông đã khổ công tu luyện đã bao nhiêu năm ? Nhà tu nói : - Bốn mươi năm ròng ! Phật cười bảo : - Vậy mà phải tốn đến bốn mươi năm, thật là hoang phí quá, trong khi với một quan tiền nhỏ này trao cho bác chèo đò, chúng tôi cũng qua sông một cách dễ dàng ! Câu truyện giữa Phật tổ và nhà tu luyện yoga là để Phật khuyến cáo các đệ tử đừng bị cái tu thần thông cám dỗ. Như thế, Chử Đồng Tử được cây gậy và chiếc nón phép chỉ có thể do một pháp sư Bà la môn tu phép yoga truyền cho. Nhưng rất có thể là do một đạo sĩ tu Tiên truyền cho. Cây gậy là biểu tượng của thần thông. Các vị tiên ông tiên bà đều có gậy phép biến hóa. Phù Đổng Thiên Vương có gậy sắt giết giặc. Tản Viên Sơn Thần có gậy phép cứu sống rắn Tiểu Long. Chử Đồng Tử có gậy thần biến hóa đền đài thành quách. Thổ dân Úc cũng có gậy thần. Truyện kể : Ở vùng công viên Blue Mountain (Lam Sơn) Sydney, có 3 hòn đá trên đỉnh nom như 3 chị em. Đó là 3 cô con gái của một pháp sư. Trong vùng có con quỷ rất hung ác. Một hôm pháp sư đi vắng, con quỷ định hãm hại 3 cô gái, lúc đó pháp sư vừa về thấy vội giơ chiếc gậy thần biến 3 con gái thành 3 mỏm núi đá. Con quỷ không làm gì được bèn quay ra tấn công ông pháp sư, ông này túng quá cũng vội giơ chiếc gậy tự biến mình thành con chim (lyre bird, điểu cầm), con quỷ bỏ đi, pháp sư tìm gậy thì cây gậy thần bằng xương đã mất. Thế là cha biến thành chim đá, thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu thảm thương giữa núi rừng lồng lộng, còn 3 cô con gái ngàn đời tuyệt vọng đứng chờ cha hóa phép trở lại thành người ! Người dân Việt tin vào những nhân vật bất tử, họ có “Tứ Bất Tử”, các vị đều có phép “Tiên” cả. “Tứ Bất Tử” là Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thần, Bà Chúa Liễu Hạnh. Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương, sinh ra 3 năm không nói không cười chỉ nằm ngửa, có giặc Ân tới, Ngài bỗng nói xin vua Hùng Vương đúc cho ngựa sắt gậy sắt để đánh giặc, rồi ăn bữa ăn no, vươn vai cao hơn 2 trượng nhảy lên ngựa sắt, thúc ngựa phun ra khói đánh giặc, gậy sắt gẫy, Ngài nhổ bụi tre quật vào giặc. Giặc tan, Ngài lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ đấy rồi cưỡi ngưa bay lên trời. Rõ là thần tiên giáng trần giúp vua cứu nước. Tản Viên Sơn Thần được tiên cho cây gậy có thể chữa bệnh. Một hôm cứu được con rắn bị trẻ đánh chết. Thần Tản Viên cầm gậy gõ vào đầu rắn, rắn sống lại bò xuống sông. Rắn đó là Tiểu Long con vua Long Vương Nam Hải. Tiểu Long mời thần Tản Viên xuống Long cung. Thần cầm sừng tê giác mà đi xuống long cung. Long Vương biếu ngài quyển sách ước, ước gì cũng được. Ngài trở thành thần thông biến hóa. Ngài thấy núi Tản Viên có ba tầng, núi xòe hình như cái tán, phong cảnh trang nhã nên biến hóa thành đường lên núi lên mãi trên ngọn đỉnh cao để ở. Từ đó Ngài hay đi du sơn du thủy, đến đâu lại hiện ra đền đài cho Ngài nghỉ ngơi. Vua Hùng Vương thứ 18 có con gái tên Mỵ Nương xinh đẹp Tản Viên Sơn Thần và Thần Thủy Tinh cùng muốn hỏi làm vợ. Vua truyền ai mang đồ sính lễ tới trước thì gả Mỵ Nương cho. Đồ sinh lễ tương truyền là “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” Sơn thần Tản Viên đem đồ sính lễ tới trước được vua gả Mỵ Nương cho. Thủy thần tức giận dâng nước lên đánh Sơn thần. Sơn thần làm núi Tản cao lên, Thủy thần không làm gì được phải rút về. Liễu Hạnh tiên chúa là tiên nữ Quỳnh Hoa bị họa giáng trần vào nhà Lê thái công đời vua Lê Anh Tôn (1553), đặt tên là Giáng Tiên. Lớn lên Giáng Tiên nhan sắc lạ thường, có tài văn chương, âm nhạc. Nhà kế bên có ông Trần công có người con tên Đào lang mặt mủi khôi ngô tuấn tú. Trần công đi hỏi Giáng Tiên cho Đào lang. Cưới nhau được một năm thì sinh được một con trai. Được ba năm thì Giáng Tiên không bệnh mà mất. Sau đó Giáng Tiên lúc thì hiện về thăm gia đình, lúc thì xướng họa ngâm thơ với Phùng Khắc Khoan, lúc hiển thánh ở Đèo Ngang Phố Cát. Vua Bảo Đại viết trong cuốn hồi ký “Con Rồng Việt Nam” về bà Liễu Hạnh như sau : “…Năm 1572, quân Mạc đem một chiến thuyền hơn sáu mươi chiếc vào đánh Thanh Hóa, ông Nguyễn Hoàng đóng quân ở ven sông cầm cự. Đến đêm nằm mơ thấy một bà tiên bảo rằng: “Phải dùng mỹ nhân kế để dụ địch đến nơi có tiếng kêu vang trao, trao, ta sẽ giúp cho”. Nguyễn Hoàng theo lời chongười con gái đẹp tên là Ngô Thị đem vàng bạc đến xin cầu hòa với tướng địch, tên này mê thích và ưng thuận. Thế là không phòng bị, nên bị đánh úp và bị giết. Xong việc, ông cho xây một ngôi đền ở nơi ấy để tạ ơn bà tiên….Một kẻ thân tín một ngày kia lại mơ thấy bà tiên đứng trên đỉnh núi gần ThanhHóa, chỉ tay xuống phía dướimà bảo rằng : “Đây là huyệt đế vương, cần phải xây một ngôi đền để yểm long mạch, thì đất sẽ phát nên đế nghiệp”. Kẻ tả hữu đem lời ấy trình với Nguyễn Hoàng, Hoàng liền tuân theo lời dạy của bà tiên, và xây ở đấy một ngôi đền, đây là đền thờ bà Chúa Liễu Hạnh, thuộc Sòng Sơn tỉnh Thanh Hóa”. Trong “Tứ Bất Tử” thì ba vị đã là tiên hoặc có phép tiên, vậy chẳng lẽ Chử Đồng Tử lại chẳng là tiên? Hẳn là Chử Đồng Tử cũng là một người học được phép tiên và đã thành tiên bay lên trời với thành quách do gậy và nón thần dựng nên trong một đêm. Ông Lê Văn Siêu viết về “Đạo Tiên” như sau : “Người Giao Chỉ tin có phúc ấm truyền từ đời ông, đời cha đến đời con cháu. Chuyện An Tiêm nói rằng những cái may của mình được gặp ở đời này đã do đời trước của mình có công tu nên gặp thêm cái phúc của cha mẹ để cho thì mới được hưởng. Người Giao Chỉ lại tin có sự truỵền kiếp, không phải linh hồn vĩnh viễn ở một thế bất diệt mà luôn luôn đầu thai thành kiếp khác. Chuyện vợ chồng người họ Cao và em ruột vì nghi ngờ lòng chân thành của nhau, khi chết hóa thành cục vôi, cây trầu và cây cau là một bằng chứng. Ngoài ra người Giao Chỉ còn tin ở những nhân vật bất tử (tứ bất tử) không phải là trường sanh giữ mãi một cốt người bất di dịch…mà luôn luôn nhập thế theo những cốt người khác để phù trì cho mình. Đó là những mầm mống của một đạo giáo riêng : Đạo Tiên, nó mở lối sau này cho sự dung nạp đạo Lão của Trung Hoa và đạo Phật của Ấn Độ”. (Lê Văn Siêu, Việt Nam Văn Minh Sử Cương) Cây Gậy, Chiếc Nón và Cây Nêu. “…Chử Đồng Tử và Tiên Dung, hai vợ chồng rủ nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy, úp nón lên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son, đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng, miếu xã, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ, thị vệ la liệt đầy trước mặt. Hùng Vương nghe tin tưởng là con gái mình làm loạn mới phái binh đi dẹp. Binh phái dến chỉ cách thành quách của Chử Đồng Tử Tiên Dung chỉ có một con sông. Chừng nửa đêm trời nổi cơn dông gió lớn nhỏ, thành quách của hai người bay lên trời, chỗ đất ấy sụp xuống thành cái đầm gọi là Nhất Dạ Trạch (Đầm một đêm) nay ở phủ Khoái châu tỉnh Hưng Yên. Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã thành tiên”. Chử Đồng Tử có thể là vị sáng lập ra hay là hệ thống hoá “Đạo Tiên”. Từ thời Phục Hy đã biết nhìn trời, cúi xem đất mà vạch ra quẻ Âm, quẻ Dương. Đời Hùng Vương thứ 6, Lang Liêu đã cụ thể hóa Âm Dương trong việc gói bánh chưng vuông chỉ Đất (Âm), giã bánh ầy tròn chỉ Trời (Dương). Lại gói bánh chưng với các vật liệu, thịt, đậu xanh, gạo, lá, nấu trong nước để chỉ Ngũ Hành Tương Sinh (Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, Mộc) Cây gậy và chiếc nón của Chử Đồng Tử nói lên lẽ Âm Dương như Bánh Dầy Bánh Chưng. Bánh Chưng chỉ Âm, bánh Dầy chỉ Dương. Cũng thế cái Nón chỉ Âm, cái Gậy chỉ Dương. Cắm gậy úp nón lên nói lên việc Âm Dương hòa hợp. Trời đất giao nhau thì mọi việc đều tốt đẹp. Âm Dương hòa hợp thì biến hóa vô cùng, từ Không thành Có như từ bờ bụi lau lách trở thành đền đài thành quách ngọc ngà châu báu. Theo Dịch thì cái Nón là Âm úp trên chỉ Khôn = Địa cái Gậy là Dương cắm dưới chỉ Càn = Thiên Khôn trên là Âm nặng đi xuống, Càn dưới là Dương nhẹ đi lên. Khôn trên Càn dưới, đó là Quẻ Địa Thiên Thái. Thái : “Tiểu vãng đại lai. Cát hanh”, tức là thiên địa giao hòa, tốt đẹp thuận lợi. Đạo của trời đất sinh thành vạn vật, thích nghi với thế giới tự nhiên, phù hộ độ trì cho dân. Bởi vậy khi Chử Đồng Tử cắm gậy, úp nón thì Âm Dương giao hòa, trời đất chuyển động, thần thông biến hóa mà thành quách đền đài cung điện gia nhân được xây dựng. Được các vị đạo sư chỉ dạy, Chử Đồng Tử lãnh hội được nguyên lý của Thái cực, Âm Dương, Ngũ Hành cũng như Hà Đồ, Lạc Thư, Hồng Phạm Cửu Trù… Chử Đồng Tử trở thành giáo chủ “Đạo Tiên”. Cùng thời đó, thời Xuân Thu bên Tàu xuất hiện Lão Tử truyền bá “Đạo Đức Kinh”. Người ta ngờ rằng Lão Tử chính là Chử Đồng Tử đã vân du qua đất nhà Chu để truyền bá “Đạo Tiên” mà sách để lại là quyển Đạo Đức Kinh. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử thấy đời ô troc, xã hội tranh chấp bất công, con người lầm than khổ cực, đã khuyên “Bắt dân dùng lại lối thắt nút giây thời thượng cổ”, tức là sống lại đời sống chất phác an vui thời thượng cổ. Điều này trùng hợp với đoạn sử nói về thời Hùng Vương phong tục thuần phác “chính sự dùng lối kết nút”. Các sách Tàu không thấy nói bắt dân theo “chính sự dùng lối kết nút”. Như thế người nói ra câu “bắt dân dùng lại lối kết nút” chỉ có thể là người Lạc Việt thời Hùng Vương. Các bức tranh vẽ Lão Tử đều thấy Lão Tử ngồi trên lưng trâu đi vân du. Trâu là gia súc của vùng lúa nước. Lúa nước được người Bách Việt trồng cấy từ miền Đông Nam Á lên đến sông Trường Giang. Người Hoa ở vùng Hoàng Hà dùng bò hay ngựa để trồng lúa mạch hay kê. Lão Tử cỡi trâu, ý nói Lão Tử là người Bách Việt của vùng trồng lúa nước. Trong khi vân du hành đạo, Chử Đồng Tử và Tiên Dung hay dùng gậy cắm xuống đất rồi lấy nón úp lên để hóa phép lấy nơi trú ngụ và cứu nhân độ thế, chữa tật bệnh cho bá tánh. Khi vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung về tiên cảnh rồi, dân chúng nhớ ơn nên đã dựng nêu để tưởng nhớ. Có lẽ lúc đầu cây nêu chỉ là cái gậy cắm xuống đất rồi úp nón lên như Chử Đồng Tử đã làm. Nhưng rồi dần dà cây nêu được tăng độ cao như ngày nay. Người ta đẵn cây tre từ gốc đem về trồng ở sân. Cây nêu cao hơn 10 mét, đầu còn túm lá. Gần ngọn tre buộc một cái vành tròn để treo các thứ như chuông khánh, lá cờ, giấy vàng bạc, cổ mũ. Cây tre tượng trưng cho chiếc gậy, vòng tròn tượng trưng cho cái nón. Cây nêu được dân gian trồng trong dịp Tết để nhớ vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung, cũng như bánh dầy bánh chưng để nhớ Hùng Vương, như ông Công ông Táo nhớ Âu Cơ Lạc Long Quân Cây nêu từ miền Bắc với cây tre có vòng tròn ở đầu ngọn tre, khi đi vào miền Trung đã thay đổi ít nhiều như lời kể của vua Bảo Đại trong cuốn Con Rồng Việt Nam : “Người ta có nhiều hình thức để chiêu tài hay chế ngự sự xui xẻo này. Đó là trồng một cây nêu bằng một cây tre dài chừng 12 mét, đã tuốt hết là, chỉ còn để một dúm ở trên ngọn, rồi chôn cây nêu ngay ở cổng ra vào, vào ngày cuối năm, có treo một cái lẫng bằng tre đan, có dán giấy hồng điều viết tám chữ nho để rước tài thần, phúc thần, hỷ thần giáng lâm và trong lẫng đựng trầu cau. Phía dưới lẫng còn treo thêm mấy chiếc khánh hay con cá bằng sành nung, để khi có gió thì va chạm vào nhau mà reo vang điệu nhạc vui tươi êm ái. Phía cuối cùng lại treo một mảnh tre đan nhình vuông để cản trở không cho ma quỷ hay tà thần được xâm nhập vào nhà. Nếu mảnh tre vuông này cản trở tà ma không cho vào, thì trầu cau ở lẫng phía trên lại là phẩm vật dâng mời các phúc thần hỷ thần tài thần để rước vào mà ban ân cho gia chủ”. Cây nêu mang dấu ấn Phật giáo có lẽ vào thời kỳ Tàu đô hộ. Để bảo toàn di sản văn hóa, dân ta đã phải nhờ đến sự che chở của Phật giáo. Kẻ đô hộ thì luôn luôn muốn đồng hóa dân tộc ta, muốn dân ta phải bỏ tất cả mọi phong tục tập quán, văn hóa bản địa để theo văn hóa kẻ đô hộ. Họ muốn Hoa hóa dân tộc ta. Để chống đỡ, dân ta đã phải dùng đến tín ngưỡng Phật giáo làm bình che, mà Phật giáo thì kẻ đô hộ cũng tin theo nên dễ dàng thông qua. Người ta tin rằng cây nêu mang dấu ấn Phật giáo vào thời kỳ nhà Minh đô hộ nước ta vì thời kỳ này lịch sử ghi nhận là thời kỳ đô hộ hà khắc nhất. Cây Nêu đã trải qua hàng ngàn năm từ thời Hùng Vương qua các thời đại cho đến ngày nay, qua sự thăng trầm của lịch sử nên đã mất đi nội dung đích thực của nó, tuy nhiên dân ta vẫn còn giữ được truyền thống để phổ biến giữ gìn như một gia sản cũng như bánh Dầy bánh Chưng, như ông Công, ông Táo trong nền tảng văn hóa dân tộc.*
  11. Tình cờ trong khi tìm tư liệu về "Bà Mụ" Phoenix bắt gặp thông tin này ở trang web của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định. Ai có thêm thông tin về chi tiết bôi đậm dưới đây vui lòng chia sẻ. Trân trọng cảm ơn! ".. Quan Thánh Đế Miếu thờ ba vị: Quan Vân Trường ở giữa, mặt đỏ, râu dài. Bên trái là Châu Thương (còn gọi là Châu Xương), mặt đen, tướng dữ tợn. Bên phải là Quan Bình mặt trắng hiền từ. Đó là những nhân vật lịch sử đời Tam Quốc ở Trung Hoa (219 - 265 SCN). Người Hoa ở miền Nam Trung Quốc và người Hoa ở các nước vùng Đông Nam Á đều thờ 3 vị này. Người Hoa ở vùng Hoàng Hà không thờ...." Link: Mời xem tại đây
  12. Vận khí năm Kỷ Sửu 2009 « vào lúc: Tháng Giêng 21, 2009, 09:27:26 pm » Nguồn: Nickname Daihongcat - Diễn đàn: http://www.hoangthantai.com Để chia vui cùng các bạn, tôi thử dự đoán vận khí năm Kỷ Sửu 2009 Cổ nhân có câu “Muốn biết tương lai thì phải ôn lại quá khứ”, tôi mạn phép các Thầy, các huynh đệ tỷ muội điểm lại vận khí của 60 x 2 năm trước : Năm Kỷ Sửu 1889:Tháng 4/1882 Triều đình Nguyễn ký hòa ước thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp, như vậy năm 1889 VN đã là thuộc địa của Pháp. - Nhật Bản ban bố hiến pháp mới, công nhận chế độ quân chủ lập hiến, đứng đầu là Thiên Hoàng có quyền hành rất lớn và thành lập quốc hội với hai viện. - Tháng 7/1889, Pháp xây dựng tháp Eiffell ở Paris do kiến trúc sư Gustave Eiffell thực hiện, có chiều cao 300m. Ðây là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của nước Pháp từ ấy tới nay. - Năm sinh của Hít-le, tên đồ tể của nhân loại, (Adolf Hitler sinh ngày 20/4/1889) Năm Kỷ Sửu 1949: Ngày 01/10/1949 tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 8/1949 Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ. Tháng 1/1949, Pháp thỏa hiệp trước yêu cầu của Bảo Đại rằng Nam Kỳ phải nằm trong Quốc gia Việt Nam. Ngày 8/3/1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Đến năm Kỷ Sửu 2009, VN đã là một quốc gia độc lập, dù theo chính thể nào thì cũng là một quốc gia độc lập – Vì thế so với các năm trước (1889, 1949) theo vận khí nào thì năm Kỷ Sửu 2009 đất nước Việt nam vẫn là “hơn hẳn”. Bài kế tiếp tôi sẽ phân tích sâu vào năm Kỷ Sửu 2009… Vận Tích Lịch Hỏa : Hai năm Mậu Tý - Kỷ Sửu theo ngũ hành nạp âm là Tích lịch hỏa (lửa sấm sét) - Ứng với Tượng quẻ Chấn trong bát quái, mặc dù gốc vẫn là Hỏa (lửa) thuộc quẻ Ly. Sấm phát động thì vạn vật nảy nở… Chấn là động, là biến động không ngừng, hai hào âm đè trên một hào dương, điều ta cảm nhận ở đây không phải là âm thịnh dương suy, mà là sự nảy nở của âm từ dương - Ở quẻ Ly hai hào dương nằm bọc một hào âm, có cái tượng “trong dương có âm”, bên ngoài thì cứng rắn, bên trong lại mềm mại “trong cứng có mềm”. Ở bên trên tôi đã sơ lược về những biến cố lớn của hai năm Kỷ Sửu 1889 và 1949, những biến cố phải nói là có tầm quyết định cả một thời cuộc, cho thấy những năm Kỷ Sửu là những năm sẽ có những biến cố quan trọng đến vận mệnh lâu dài của cả thế giới. Đầu năm 2009, biến cố lớn nhất là sự đăng quang của tổng thống Barack Obama, tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ. Sau khi đã đặt tay lên cuốn Kinh thánh và đọc lời thề nhậm chức, ông tuyên bố nước Mỹ đang ở trong cuộc khủng hoảng và sẽ chiến thắng, với sự đoàn kết dân tộc Hoa Kỳ vẫn sẽ là lãnh đạo của thế giới. Tổng thống của một siêu cường về KHKT, về nghiên cứu vũ trụ và nguyên tử vẫn phải “đặt tay lên cuốn Kinh thánh và đọc lời thề”, vẫn phải cần đến sự “chứng thực” của “thế giới vô hình” thì cho thấy “Tâm Linh” vẫn là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Tuy nhiên cái tham vọng của người Mỹ “là lãnh đạo của thế giới” mang lại cho họ nhiều quyền lợi về chính trị, văn hóa, nhiều hợp đồng béo bở về kinh tế nhưng cũng là cội nguồn của mọi bất ổn trong thế giới hiện đại chứ không hẳn là do “chủ nghĩa khủng bố” như họ vẫn nói. Chắc chắn dưới sự lãnh đạo của tổng thống Barack Obama, thế giới năm 2009 sẽ bình yên hơn dưới thời Bush nhiều, và sự đơn phương rút quân khẩn cấp của Israel ra khỏi Gaza là một tín hiệu tốt lành. Trung Quốc có khả năng sẽ hạ thủy tàu sân bay đầu tiên vào năm 2009 này để khẳng định sức mạnh quân sự mà họ đang theo đuổi. Hugo Chavez sẽ thành công trong việc củng cố vị trí lãnh đạo “vĩnh viễn”. Có thể xảy ra cuộc mưu sát Barack Obama bởi vì ông không những là mục tiêu của các tổ chức khủng bố cực đoan mà còn là cái gai của các thế lực “khuynh hữu, phân biệt chủng tộc” đang có nhiều quyền lợi ngay trong lòng nước Mỹ. …………………….. Quan trọng nhất là VN, VN sẽ có biến động gì lớn? Mối quan hệ Việt – Mỹ chắc sẽ có những bước nhảy vọt tốt đẹp hơn. Trong nước sẽ không có biến động gì lớn vì kinh tế năm nay tuy khó khăn nhưng vẫn đầy đủ, lương hưu trí tăng và giá xăng giảm tạo một tâm lý ổn định trong xã hội. Trong khoảng giữa năm nay hào âm đã đạt đến đỉnh sức mạnh, âm vượng nhưng dương không suy vì khí dương vẫn nắm toàn cục. Như vậy suốt năm Mậu Tý bạn gái nào “bôn ba chẳng qua thời vận” thì hãy yên tâm vì giữa năm nay những cố gắng của các bạn sẽ thành hiện thực. Theo ngũ hành tương sinh thì Hỏa sinh Thổ, vậy bạn nào mạng thổ năm nay sẽ có cơ hội thành công… nhưng lại thành công không bằng những bạn có mạng Mộc... (còn tiếp) Hoả sinh Mộc là nói về Khí, nhờ có ánh dương mà vạn vật hay cây cối mới được tăng trưởng, cây cối hay xanh tươi về mùa hạ, vì thế ở vận này tuổi mộc gì (Đại lâm mộc, dương liễu mộc, tùng bá mộc, bình địa mộc…) đều tốt cả. Mạng “Đại dịch thổ” và “Bích thượng thổ” là loại đất mềm, gặp lửa mạnh luyện thành cứng nên đều có cơ may trong năm nay. Về ngũ hành tương khắc thì Hỏa khắc Kim, khắc cả với Thủy, nhưng Tích lịch hoả lại phát xuất từ Thủy nên mạng “Trường lưu thủy” năm nay lại có thành công bất ngờ. Mạng “Thiên hà thủy” thì có hỷ sự. Người mạng kim trong năm nay nên cẩn thận trong di chuyển, nhưng mạng “Sa trung kim” vì gặp lửa mạnh nên bốc cháy gọi là “Kim sinh Hỏa”, người có bổn mạng này năm nay nếu không phát tài lớn thì phải cẩn thận về bịnh tật. Hạn Lưu Thái Tuế : Trước tiên ta điểm sơ qua về “Lục thập hoa giáp”, theo chu kỳ 180 năm từ thời vua Nghiêu, Thuấn 2543 trước CN thì thời điểm 2009 nằm ở kỷ nguyên thứ 8 của vòng 180 năm chia làm ba chu kỳ nhỏ là 60 năm (lục thập) – rơi vào hạn “Bát Bạch” của kỷ nguyên gần cuối. Để xem số mệnh của một người cần phải kết hợp Kinh dịch, Tử bình, Tứ trụ, Tử vi… Nhưng cốt lõi đầu tiên vẫn là phải xem “Nhân Tướng”, xem nhân tướng thì quan trọng nhất lại là “Phương vị của tướng”. Vì thế việc xem tử vi khái quát chung chung (bán đầy ngoài chợ hay trên internet) khả năng chính xác rất thấp do bỏ sót phần nhân tướng và phương vị này. Phương vị của tướng nói nôm na là “không, thời gian” mà cái nhân tướng đó biểu hiện, là cái vị trí địa lý phong thủy mà nhân tướng đó tồn tại, vì thế nó là cái tiền đề quyết định cho việc xem số mệnh - tử vi chỉ là giai đoạn cuối cùng khẳng định lại những biểu hiện tiềm ẩn bên trong, nhưng lại có tầm kết luận về vận mạng mà chỉ nhìn nhân tướng thì không thấy rõ được. Như vậy tôi sẽ không “phán” lung tung về chi tiết vận mạng này nọ vì không thể biết được nhân tướng của từng bạn như thế nào, chi tiết về phương vị ra sao mà chỉ nói sơ lược về “hạn” của năm… Như trên đã tính thì ta đang sống vào hạn “Bát Bạch” của kỷ nguyên thứ 8 – suy ra trong khoảng 20 năm này (từ 2004 đến 2024) con số 8 là con số chủ đạo, nếu có sự lựa chọn thì số này sẽ có điểm rơi may mắn hơn… Sao Thái Tuế trong Tử Vi, an theo chi của năm, là sao đứng đầu của vòng Thái Tuế 12 sao. Thái Tuế ngoài việc thể hiện vận trình chung của lưu niên năm đó, còn ảnh hưởng đến mệnh vận của cá nhân. Đến đây thì các bạn có thể tham khảo bài “Cúng Thái Tuế giải hạn năm Kỷ Sửu” rất đầy đủ của huynh Nhược Thủy – tôi chỉ nói thêm về hạn “Xung Thái Tuế” - Ta từng thấy gia đình nào có bốn người phạm tuổi “Tứ hành xung” như “dần thân tỵ hợi” hay “tý ngọ mão dậu”,”thìn tuất sửu mùi” thì hoặc sẽ thật phát đạt, hoặc gia đình tứ tán - Tương tự năm nay bạn nào phạm “Xung Thái Tuế” hoặc thành công lớn, nếu không thì tất thất bại lớn. Bài viết đến đây là dứt, Huynh đệ tỷ muội nào có ngẫu hứng xin đóng góp thêm để topic có nhiều dự đoán mới cho năm Kỷ Sửu 2009. Năm Mới chúc GĐ HTT, GĐPTCT vạn sự CÁT TƯỜNG.
  13. Năm 2009 qua dự đoán của nhà chiêm tinh Nguồn:http://vnexpress.net Người đi chào mừng năm mới ở New York. Ảnh: AFP. Những nghề nghiệp hoặc sự kiện nào gắn với gỗ hoặc cây cối sẽ phát triển mạnh trong năm tới, bởi mộc sinh sôi nhờ thổ. Năm 2009 cũng là thời điểm tốt cho những người làm về giấy và thời trang, báo chí, ép dầu. > Tình yêu thăng hoa trong năm Tý Năm con chuột 2008 đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sẽ nhường chỗ cho một năm ổn định hơn nhiều, năm con trâu và mạng thổ. "Thổ thường được thể hiện bằng hình ảnh vườn hoặc đồng cỏ, trong phong thủy đó là biểu tượng của sự hòa hợp, thư giãn và hồi phục", Raymond Lo, chuyên gia phong thủy Hong Kong, nói. Trên bình diện rộng, thế giới có thể trông đợi hòa bình và yên ổn trong năm 2009, nhưng con đường trở lại sự hồi phục kinh tế sẽ lâu dài và chông gai, các nhà chiêm tinh và phong thủy học Trung Hoa cảnh báo. Các nhà chiêm tinh nghiên cứu vũ trụ trong sự cân bằng của 5 yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa và thổ. Theo đó, số mạng của một người có thể được tính toán và biết trước dựa vào ngày giờ sinh của người đó. Mỗi mạng đó lại phân chia ra thành hai loại: âm và dương, thể hiện bản tính tĩnh hay động. Theo Lo, điều trùng hợp là một số lãnh đạo thế giơi trong năm 2009 lại có mệnh "âm thổ", trong đó có tổng thống đắc cử Mỹ Barack Obama và Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy. "Người thuộc mạng âm thổ có xu hướng nhân từ. Họ yêu hòa bình hơn chiến tranh. Họ thường là những người theo đuổi khoa học và nhân văn", Lo nói. Những vĩ nhân thuộc âm thổ có thể kể đến Leonardo da Vinci, Charles Darwin, Abraham Lincoln, và Sigmund Freud. Tuy nhiên, chuyên gia phong thủy này nói ông không hy vọng Obama hay các nhà lãnh đạo khác có thể xoay chuyển tình hình kinh tế toàn cầu trong năm 2009, bởi yếu tố hỏa - động lực của các hoạt động tài chính - hầu như vắng bóng trong năm nay. "Thị trường tài chính sẽ lên điểm chút ít trong vài tháng đầu năm, nhưng không tồn tại lâu. Các nhà đầu tư sẽ nhanh chóng thất vọng", Lo tiên đoán. Bởi năm nay tượng trưng bằng thổ, các nghề liên quan đến gỗ, giấy, ép dầu sẽ phất. Cũng sẽ phát triển khá là thời trang, giải trí, môi trường và hàng không. Lo dự đoán cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore - người đoạt giải Nobel môi trường - sẽ có những thành tựu lớn trong nỗ lực đấu tranh chống sự nóng lên của trái đất. Mak Ling-ling, một nhà chiêm tinh và phong thủy nổi tiếng khác, đoán rằng thị trường chứng khoán năm tới sẽ trầm lắng, và các vấn đề kinh tế ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn ở phương tây. "Việc làm ăn sẽ khó khăn hơn bây giờ. Trật tự xã hội đảo lộn, các vụ lừa đảo tăng lên", bà dự đoán, nhưng thêm rằng tình hình có thể sẽ khá lên vào năm 2010. T. Huyền (theo AFP)
  14. Trong các vị thần linh cần thờ cúng ở gia đình có ông Thổ Công và Táo Quân. Phoenix có thắc mắc không biết ông Công đây là ông nào? Là một trong 3 vị Táo quân (Thổ công - Thổ Địa - Thổ Kỳ) hay là một vị riêng? Mà Thổ công - Thổ Địa - Thổ Kỳ có phải là ông Táo (2 ông + 1 bà) không?
  15. Phoenix thấy ngày Tết ở MB có tục để cây mía bên bàn thờ. Không rõ tập tục này bắt nguồn từ đâu. Có ai biết xin chỉ giùm. Trân trọng!
  16. Không biết ngày xưa có sử dụng đơn vị đo mm không nhỉ?
  17. Buồn tình thành ma quái có khi là ta là ma chẳng phải là người. Định vị cuộc đời khó đấy chứ!
  18. “Cận chết” - hiện tượng bí ẩn và những lý giải của khoa học Thế giới hiện có khoảng 10% bệnh nhân từng bị rơi vào trạng thái “cận chết”, và hầu hết họ đều là những bệnh nhân từng ở trong tình trạng bị thiếu ôxy lên não do đó các chức năng gần như không còn hoạt động. Hiện tượng “cận chết” hay trạng thái con người bị hôn mê khi cận kề cái chết là một trong những hiện tượng kỳ lạ mà từ lâu con người luôn cho là thần bí và không thể giải thích. Tuy nhiên, đó không phải là một điều bí ẩn hoặc siêu nhiên như nhiều người vẫn nghĩ. Bởi từ gần chục năm qua, nó đã là vấn đề được các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, và cuối cùng họ cũng tìm ra những lý giải ban đầu cho vấn đề tưởng như vô cùng siêu nhiên này. Tháng 11/2006, sau khi tiến hành nhiều công trình nghiên cứu khoa học và các thí nghiệm liên quan, nhóm các nhà khoa học người Mỹ đã thông báo rằng, họ đã đạt được thành công trong việc thử tạo ra trạng thái “cận chết” cho những người tình nguyện tham gia thử nghiệm. Bằng cách tạo ra cái chết lâm sàng, 55 người trong số 100 người tham gia thử nghiệm đã rơi vào trạng thái “cận chết” và hiện tượng này được chứng minh là một hiện tượng sinh học rất tự nhiên của con người. Những người từng trải qua hiện tượng cận chết kể lại rằng, họ thấy mình được bao quanh bởi một luồng ánh sáng chói chang và nhìn thấy chính bản thân họ đang được các bác sĩ tiến hành phẫu thuật trong phòng mổ. Tuy nhiên, theo lý giải của các nhà khoa học, sự thực đây là một hiện tượng sinh học xảy ra khi con người đang ở trong trạng thái nửa tỉnh, nửa mơ. Một trong những hiện tượng phổ biến mà con người thường hay gặp phải tương đối gần với trạng thái này đó là hiện tượng “bóng đè”. Tức là khi con người bất chợt tỉnh dậy trong lúc ngủ, và nhận thức được những gì xảy ra xung quanh mình, song lại không thể cử động hay lên tiếng, giống như họ không thể kiểm soát được cơ thể của chính mình. Theo Tiến sĩ Kevin Nelson và các đồng nghiệp của ông tại Trường đại học Kentucky - Lexington, hiện tượng cận chết giống như một kiểu mơ trong lúc thức của con người. Ông cũng cho biết: các nhà khoa học hiện nay chỉ mới giải thích được bằng cách nào mà hiện tượng này xảy ra cho con người, song lại không thể giải thích lý do vì sao. Một số trường hợp bệnh nhân đã trải qua hiện tượng cận chết: Patrick Tierney là một bệnh nhân bị mắc bệnh tim. Tim của anh đã một lần bị ngừng đập từ 17 năm trước. Và Tierney không thể nhớ được mạch của anh đã ngừng đập trong bao lâu, song tất cả những gì đã xảy ra trong thời gian anh không thể nhận thức được thế giới xung quanh lại đều được anh kể lại một cách chính xác y như Tierney chưa từng nằm trên giường bệnh. Mọi chuyện bắt đầu khi các bác sĩ phát hiện thấy bệnh nhân của mình rơi vào trạng thái chết lâm sàng. Tim và mạch của Tierney ngừng đập, hơi thở ngừng hẳn và não không còn hoạt động. Nhưng theo lời kể của bệnh nhân thì thực ra trong lúc đó, anh cảm giác như có một vết nhói trên ngực và giây phút tiếp theo anh thấy mình lạc vào trong một đường hầm tối đen. “Tôi như đã bay bồng bềnh hoặc là đang bước đi vào đường hầm đó, nói chung là tôi không rõ song con đường đó rất dài, ở cuối con đường là một khoảng sáng rực rỡ, có thể là đường hầm thông ra một khu vườn rất đẹp. Tôi nghĩ là tôi đã chết, song dường như vì một lý do gì đó, tôi bỗng nhiên lại được trở lại với cuộc sống”. Tierney cho biết, cũng trong thời gian đó, anh đã gặp bố mẹ của mình - những người vừa mới mất cách đó không lâu. “Tôi đã cố bước tới gần để ôm hôn bố, song cả bố và mẹ đều ngăn cản tôi làm điều đó và vì thế tôi đã tỉnh lại”. Tierney cũng cho biết, trước đó anh hoàn toàn không tin vào việc có tồn tại một thế giới sau khi con người chết đi. Nhiều bệnh nhân khác từng trải qua tình trạng như Tierney cũng đã kể lại câu chuyện tương tự. Bác sĩ Pamia - người trực tiếp điều trị cho Tierney - cho biết ông đã từng gặp ít nhất 4 bệnh nhân rơi vào trạng thái cận chết mặc dù họ đều là những người thần kinh bình thường và hoàn toàn không theo một tôn giáo hay tín ngưỡng nào. Điều này chỉ có thể giải thích là những gì diễn ra với các bệnh nhân là một trạng thái rất tự nhiên mà khoa học chưa lý giải được hết. Người bệnh ở trong trạng thái “cận chết”, thường mắc phải một hiện tượng mà khoa học gọi là REM (remove eyes moment). Khi đó mắt của người bệnh không còn nhìn thấy gì nữa (chức năng thị lực thông thường không hoạt động). Thời điểm diễn ra điều này cũng chính là lúc người bệnh cảm giác như bị rơi vào một đường hầm tối đen. Những gì diễn ra tiếp theo đó, các nhà khoa học vẫn chưa hiểu rõ, song theo một số người thì nó gần như là do tưởng tượng của người bệnh. Việc người rơi vào trạng thái cận chết thường gặp lại hình ảnh người thân yêu đã qua đời chẳng qua là bởi họ đã dành quá nhiều tình cảm yêu thương và thường xuyên nhớ tới người đó. Và vì một lý do nào đó, bỗng nhiên, những hình ảnh chợt hiện về trong ký ức khi họ gần rơi vào trạng thái não ngừng hoạt động. Thế giới hiện có khoảng 10% bệnh nhân từng bị rơi vào trạng thái “cận chết”, và hầu hết họ đều là những bệnh nhân từng ở trong tình trạng bị thiếu ôxy lên não do đó các chức năng gần như không còn hoạt động. Mới đây nhất, một nữ y tá làm việc tại Bệnh viện Morriston-Swansea, vừa cho công bố một cuốn sách về hiện tượng “cận chết” mà cô đã mất gần 10 năm theo đuổi và nghiên cứu. Nữ y tá Penney Sartori từng phục vụ và tận mắt chứng kiến 15 trường hợp bệnh nhân mắc bệnh tim rơi vào trạng thái cận chết. Và dù chưa ai kể cho họ nghe về hiện tượng này, song tất cả những bệnh nhân, sau khi trải qua tình trạng cận chết đều kể lại một câu chuyện tương tự nhau đó là việc họ thấy mình lạc vào một đường hầm tối đen và gặp lại những người thân yêu đã qua đời của mình. Cô quyết định ghi chép lại những câu chuyện này từ năm 1990, sau khi nghe một bệnh nhân tỉnh dậy và kể lại chính xác những gì đã xảy ra trong phòng bệnh trong thời gian người này bị hôn mê, não ngừng hoạt động và mắt nhắm nghiền. Hiện các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về hiện tượng “cận chết” của con người. Còn rất nhiều điều chúng ta chưa thể lý giải hết về thế giới, song “cận chết” chắc chắn không phải là một điều thần bí đơn thuần mà là một hiện tượng khoa học phức tạp cần thời gian để giải đáp CAND.COM.VN
  19. Thế là Đại sư phụ "đi Tây". :lol: Chuyến đi này là cái mốc đầu tiên thật quan trọng. Hy vọng nó mở đâu cho chuỗi những sự kiện để chúng ta gỡ dần cảm giác ngậm ngùi: Chúc mừng chú Thiên Sứ!
  20. BaoLam có thể sinh bé gái nhưng đừng quá coi trọng công việc. Dẫu có không được trọn vẹn thì cũng không nên buồn hay suy nghĩ vì cũng đáng hy sinh công việc cho một thiên thần nhỏ. :(
  21. Bạn nên kiếm cái la bàn, đo cụ thể và chính xác hướng nhà. Kiếm lại bản vẽ hoàn công. Nếu không phải đến tận nơi kiểm tra mất.
  22. Nhà tiên tri Juselino sanh năm 1960 tại nước Ba Tây. Ông từng dự đoán nhiều sự kiện và các thảm họa đã xảy ra trên thế giới bao gồm sự kiện 911, chiến tranh Iraq và sự bại trận của Tổng thống Saddam Hussein cùng sự bị bắt giữ và xử tội của ông ta, trận động đất cùng sóng thần (tsunami) tại quần đảo Indonesia, và sự tạ thế của đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ nhị. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1997, Juselino đã gửi đến cho tổng thống nước Indonesia một lá thư về sự dự đoán của ông là vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, vào lúc 7 giờ, sẽ có một trận động đất với cường độ 8.9 và nó sẽ tạo nên một cơn sóng thần cao đến 10 mét. Juselino nhận được thư phúc đáp của vị Tổng thống này là: “……. có rất nhiều sự việc mà chúng tôi không thể không đi làm nhưng chúng tôi không thể giải quyết những việc chưa phát sinh. “ Juselino cũng có rất nhiều dự đoán rất kinh hồn và đồng thời cũng đang sắp sửa tới trước mắt của chúng ta. Năm 2008: vào tháng 7, tại Nhật Bản, sẽ có một trận động đất và cơn sóng thần với chiều cao 30 mét. Vào ngày 17 tháng 12, tại Mỹ, sẽ có khủng bố xảy ra. Vào ngày 18 tháng 9, tại Trung Quốc, sẽ có một cuộc động đất với cường độ trên 9.1 Địa điểm xảy ra động đất là Nam Kinh (Linh ?) và đảo du lịch Hải Nam là trung tâm địa chấn. Cơn sóng thần cao của nó cao đến 30 mét, sẽ mang đến sự tử vong cho hàng triệu người. Tuy rằng sau Thế Vận Hội Olympic mới có động đất này, trước Thế Vận Hội đã có các triệu chứng báo hiệu là các cơn động đất nhỏ. Vì chính phủ Trung Quốc đang đổ dồn hết sức lực để lo cho việc tổ chức Thế Vận Hội nên sẽ lờ đi các cơn tiền chấn này, không chuẩn bị trước các sách lược để đối phó. Chính phủ Trung Quốc cũng có ý muốn ém nhẹm sự kiện này. Những hành động này của chính phủ Trung Quốc, nếu có, thì sẽ mang đến tai họa thảm khốc và trùng hợp với câu trích dẫn của Mr. “Time Traveler” John Titor rằng “Thế Vận Hội Olympic 2004 tại Hy Lạp sẽ là cái cuối cùng của thế giới. Năm 2010: tại nhiều quốc gia ở Phi Châu, nhiệt độ sẽ lên cao đến 58 độ Celcius và đồng thời có sự khan hiếm nước nghiêm trọng. Vào ngày 15 tháng 6, thị trường Stock Dow Jones của NewYork sẽ bị sụp đổ và kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm. Năm 2011: phương pháp trị liệu ung thư thành công, nhưng đồng thời có một loại bệnh độc lạ xuất hiện. Người nào bị nhiễm cơn bệnh này thì sẽ chết ngay sau đó 4 tiếng đồng hồ. Năm 2013: ngoài bệnh ung thư bướu não, phương cách trị liệu các bệnh ung thư khác đều thành công. Tại vùng quần đảo Canary của Tây Ban Nha, từ ngày 1 cho đến ngày 25 tháng 11, vì sự bộc phát của núi lửa, địa chấn phát sanh ra. Tiếp sau đó sẽ có một cơn sóng thần với độ cao 150 mét. Khi dồn vào đến quần đảo Canary, nó còn cao đến 80 mét. Tại Mỹ và Ba Tây cũng chịu ảnh hưởng của cơn sóng thần, nước biển sẽ tràn sâu vào đất liền khoảng từ 15 đến 20 dặm Anh. Ngoài biển, trước cơn sóng thần này, nước biển sẽ rút xuống 6 mét và các loài chim bay đầy trên bầu trời. Năm 2014: có một tiểu hành tinh đến gần và sẽ có sự va chạm với địa cầu. Sự va chạm này có thể mang đến sự diệt vong nhân loại. Năm 2015: trong tháng 11, nhiệt độ trung bình của trái đất sẽ đạt đến 59 độ Celcius và thế giới đại loạn sẽ phát sinh. Năm 2016: vào trung tuần tháng 4, Typhoon sẽ phát sinh tại Trung Quốc; một số thành phố lớn bị phá hoại. Tổng thống Mỹ George W. Bush sẽ khẩn cấp nhập viện về bệnh trạng ảnh hưởng đến tính mạng. Năm 2026: vào tháng 7, tại San Francisco sẽ xảy ra một cuộc động đất kinh thiên động địa (The Big One) vô tiền khoáng hậu. Đất tại lằn nứt Saint Antonio bị phá và làm tiểu bang California bị sụp đổ. Rất nhiều núi lửa sẽ phát sinh và các cơn sóng thần cao trên 150 mét. Từ những dự đoán của Juselino, nhiệt độ của địa cầu đến năm 2012 tại Phi Châu sẽ đạt đến 58 độ Celcius và nạn thiếu nước trầm trọng sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhiệt độ tiếp tục gia tăng đến năm 2015 sẽ đạt tới 59 độ Celcius; nhiều người bị nóng chết và nhân loại trên toàn cầu bị rơi vào khủng hoảng. Bất luận như thế nào, sự gia tăng nhiệt độ của địa cầu thì nhanh chóng hơn là sự suy đoán của các khoa học gia trên thế giới đã cho là rất chậm. Những sự kiện này nếu đúng thì thời gian cho nhân loại không còn lai bao nhiêu ! Năm 2007: những thời gian cuối của năm 2007 là thời gian cảnh tỉnh cho nhân loại. Mr Juselino kỳ vọng rằng trên thế giới có sự biến chuyển ý thức hệ rất là lớn. Người Chiêm Tinh Đoán Biết Tương lai của Nhân Loại và Địa Cầu Juselino sanh năm 1960 chức nghiệp hiện tại là giáo sư. Đang sống với 1 vợ và 4 con gái, sinh hoạt rất là thanh đạm. Ông là người rất thẳng thắn, công minh. Tất cả những lờì tiên đoán về những đại nạn phát sinh của ông đều ghi đầy đủ rõ ràng ngày tháng năm. Để cho bất cứ nhũng người nào muốn xác thực tính chân thực của các dự đoán này, Juselino đã đem đăng ký các lời giải đoán này trong Bưu Điện Ba Tây để làm phương tiện xác định. Những dự đoán của Juselino đã liên tục phát sinh. Nếu trong mộng của thấy được những chuyện mà đối tượng là một cá nhân thì ông sẽ chỉ nói với riêng biệt với cá nhân đó thôi. Nhưng nếu đối phương là một vị nguyên thủ quốc gia hoặc là người có địa vị trong xã hội có sức ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, thì ngoài cá nhân của người đó ra, Juselino cũng thông báo cho các sơ quan sở tại như các cơ quan thông tin của nhà nước và quần chúng. Juselino và những người tiên đoán khác có chỗ không giống nhau là những gì Juselino thấy được trong mộng thì hoàn toàn được bộc lộ và trực tiếp truyền đạt đến đương sự. Ngoài ra, như đã tường thuật như trên, những sự kiện được tiên đoán đều được đăng bộ và có những chỉ dẫn rõ ràng cho những người nào muốn đến sao lục tìm tòi các lời tiên đoán này. Juselino cũng bỏ vào các điện tín mà ông đã gửi đến cho các đương sự. Thường thường Juselino phải mất từ 3 đến 4 giờ mỗi ngày để giải quyết việc sắp xếp các hồ sơ tiên tri này. Có khi Juselino cũng phải chi trả nhiều tiền cho các dịch vụ đăng ký, đăng bộ, gửi thư, đánh fax mà tất cả tiền bạc đều chỉ từ bản thân cá nhân của Juselino, từ sự tiết kiệm tiền bạc trong cuộc sống thanh bần dạy học của ông. Có người hỏi Juselino từ tuổi nào thì ông đã bắt đầu có sự tiên tri từ giấc mộng của ông. Juselino đáp rằng việc này đã khởi sự từ lúc năm ông lên 9 tuổi (năm 1969). Trong 1 giấc mộng, ông có thể thường trông thấy được 3 sự kiện và có lúc nhiều nhất lên đến 9 sự kiện. Juselino nói rằng những giấc mộng từ sự bất tri bất giác của ông. Ông không có khả năng tự chủ với các giấc mộng này. Vào lúc ông 19 tuổi, Juselino đã có dịp gặp nhà tiên tri nổi tiếng. Francisco Shabiz. Ông Francisco đã 2 lần được đề nghị cho giải Nobel. Ông này là một người có đặc dị công năng (phép thần thông) đồng thời cũng là một nhà từ thiện. Từ sau sự gặp gỡ này, cho đến ngày nay, tổng số các sự kiện mà Juselino dự đoán đã lên đến hơn 80 ngàn. Hồi tưởng lại một sự kiện Juselino đã dự đoán trên thế giới và đã trở thành thực tế là việc ám sát công nương Dianna: Vào ngày 4 tháng 3 năm 1997, từ sở Bưu điện Bazil, một thư cảnh cáo đã gửi cho Dianna. Trong thư, Juselino nói: “Tôi nhận được tin tức từ Thượng Đế cho biết rằng có người ác ý thiết kế mưu sát Ngài bằng một tai nạn xe cộ. Bảy vị Thiên sứ đã nói với tôi rằng, trong viêc xe cộ này, sanh mạng của Ngài cũng bị mất đi. Các chuyên gia sẽ cho là một tai nạn bình thường, không phải là sư ám sát nhưng mà họ hoàn toàn trật lất hết. Người hung thủ sát nhân là người thân cận Ngài. Việc này sẽ xảy ra trước năm 2000.” Juselino cũng đem sự cảnh cáo này đến cho các tờ báo lớn nhất của nước Anh như là Times, Daily Telegrah và Gardian. Nhưng tin tức này bị ém nhẹm không được đăng tải, Đến 5 tháng sau đó, vào tháng 8 năm 1997, khi tai nạn xe cộ này đã xảy ra như lời Juselino, báo chí Anh mới làm rùm beng việc này lên. Và đúng như Juselino nói, chính quyền Anh đã xem việc này như là một tai nạn xe cộ không cần lưu ý. Sự chính xác của lời tiên tri không chỉ làm cho thế giới chấn động mà còn là sự chấn động rằng sự âm mưu ám sát từ Hoàng Gia Anh. Mặc dầu Juselino dự đoán rằng là việc này phát sinh ra trước năm 2000 nhưng ông đã có gửi cho tổng thống Ba Tây Cardodo 2 năm trước đó (thư này có đóng mộc đăng ký) đề cập từ khoảng từ 1997 và 1998 Vương phi Dianna sẽ bị tử nạn. Trung Tâm Mậu dịch Thế giới (trung tâm 2 tầng lầu ở New York): Năm 1989, Juselino gửi tổng thống Mỹ và lãnh sự quán Anh ở Mỹ cũng nhận được thư cảnh cáo (ngày 26 tháng 10 năm 1989). Lá thư cảnh cáo này có đăng ký tại Panama trong văn phòng thị thực của ông Klicheeba. Trong thư cảnh cáo này, Juselino nói rằng, vào năm 1993, trung tâm mậu dịch thế giới sẽ bị một sự công kích lần thứ nhất, nhưng không xác định ngày tháng rõ ràng. Tuy nhiên, ông đã cho biết sự công kích lần thứ 2 vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cũng như sự dự đoán của Juselino, 3 năm sau đó, vào ngày 26 tháng 2 năm 1993, có một vụ nổ ở bãi đậu xe làm khá nhiều người chết. Và lần thứ hai, 12 năm sau, sự kiện 911 đã làm kinh động toàn thế giới. Những sự việc làm cho mọi người kinh ngạc hơn là, sau 911, sự bùng nổ chiến tranh giữa A Phú Hãn và Iraq. Iraq bị thua trận và tổng thống Saddam Hussein sẽ chạy đến trung bộ của thành phố Dawool để lẫn trốn trong đó. Như các vị đã biết, tất cả mọi việc Juselino đoán đều đã phát sinh. Thư cảnh cáo này cũng có gửi cho Tổng thống Mỹ Bush cha ngày 28 tháng 10 năm 1989. Dự báo thư này cũng gửi cho Bill Clinton. Trong thư cho Bill Clinton, Juselino trình bày sự quan tâm đến sự khủng bố tại Manhantan, “Hai toà nhà sẽ bị một quả cầu bao vây. Có thể có người sẽ xem đó là một việc giỡn chơi, không cho đó là 1 việc thành thực vì thế tôi mới gửi thư đến các tờ báo Mỹ để hy vọng được đăng tải.” Như trên tường thuật, với tất cả sự kiện phát sinh trong xã hội như vậy, Juselino đều công khai thông báo. Ông không chỉ thông báo mà vẫn còn đem nội dung công hàm đến cho các nhà báo. Nhưng cho đến nay, hầu như không có một đài truyền thông nào tiếp nhận một cách công khai và loan báo các sự kiện này cho thế giới biết. Cũng như ở Miami, nhà báo Helleroot có gửi thư trả lời cho Juselino như thế này: “Cơ quan thông tin của chúng tôi có nhận thư của ông vào ngày 26 htháng 10 năm 1989 là ông có đoán Trung Tâm Mậu dịch ở Manhantan sẽ bị khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, chúng tôi đánh giá cao sự tiên đoán này sau đó ông cũng có ** đoán Mỹ sẽ có chiến tranh với Iraq và Saddam Hussein sẽ bỏ chạy vào Trung bộ của Iraq tên là Dawool. Những tình tiết xảy ra rất chính xác nhưng chúng tôi không dám tiết lộ vì sợ rằng mang đến sự khủng hoảng trong quần chúng…” Đối với sự trốn chạy của Saddam Hussein phát sinh vào ngày 13 tháng 9 năm 2001. trong thư Juselino gửi thư đến tổng thống Bush mô tả về chỗ hầm núp của Juselino. Ông có cho biết ngoài hầm trú ẩn, nằm sát bên con song Chigulus, có một tờ báo viêt về Noah’s Ark. Trên hầm này có một miếng gỗ đậy và chỗ ra vào của miệng hầm có những rác rưởi che để che mắt thiên hạ. Sau này, người ta đọc lại tất cả chi tiết tường thuật về chỗ này thì thấy đúng tất cả. Thực tế, những dự đoán kinh thiên động địa của Juselino vẫn không ngừng. Về vấn đề Saddam Hussein bị bắt thì chúng ta biết là ông bị kết tội và bị kết án tử hình vào ngày 30 tháng 12 năm 2006 sẽ bị tử hình. Và sau đó, quốc hội Iraq và Shiai đối nghịch với nhau rất kịch liệt, nhất thời mở ra cuộc nội loạn. Ngày đêm đều làm chết rất nhiều người. Sự phán tội cho Saddam Hussein và nội chiến của Iraq tất cả đều đúng với sự tiên đoán Juselino. Trong lá thư 3 mà ông đã gửi đến đài phát thanh Pass FM của vào ngày 29 tháng 5 năm 2006: “Quốc hội Iraq phán Saddam Hussein có tội có thể bị tử hình vào ngày 30 tháng 12 năm 2006. Toàn quốc Iraq vì việc này trở thành sự đấu tranh và cướp đi nhiều sanh mạng”. Ngoài những việc này ra, trong mộng Juselino cũng thấy được thiên tai nhân họa của thế giới. Với khả năng nhìn thấu tương lai nhân loại, ông không phải là người bình thường. Về cơn sóng thần ở Indonesia, tại đảo Sumatra, Juselino có gửi thư cảnh cáo đến đại sứ quán Ấn Độ tại Ba Tây 8 năm trước. Thư cảnh cáo này có nôi dung “vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, ở Indonesia đảo Sumatra tỉnh Ache sẽ phát sinh động đất với cường độ 8.9 Soeharto. Nguồn: www.hihihehe.com
  23. Crescent đã thông tin như vậy thì phù hợp thôi, không có phiền chi cả. Chúc Tú Thư chóng khỏi bệnh!
  24. Chida thân mến, Theo Phoenix được biết thì việc học cảm xạ có lợi mà có hại, nhất là khi không ý thức và kiểm soát được việc học, không giải thích được các hiện tượng lạ. Vì vậy Chida hãy chịu khó quan sát và nếu tiện thì tìm hiểu xem các học cảm xạ và hiện tượng phát sinh kể từ khi mẹ học thế nào. Năng lượng sóng từ trường có thể gây sóng âm thu hút đàn ong nhưng năng lượng quá lớn gây cho ong bị sốc và chết. Điều quan trọng nhất là phải kiểm tra luồng năng lượng đó có ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm tính của con người trong gia đình hay không. Chida có thể dùng con vật nuôi khác để kiểm nghiệm phản ứng với sóng năng lượng này. Nên thận trọng và tốt nhất tạm lánh sang phòng khác trước khi xác minh cho rõ ràng hơn.
  25. Nếu anh chị thực tình muốn nuôi cháu bé như con thì cứ nhận nuôi. Nhưng "nuôi như con" không có dễ đâu nhé.