hoaithuong

Hội viên
  • Số nội dung

    92
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by hoaithuong

  1. KTS PHẠM THANH TÙNG Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới. Cổng một làng quê Việt Nam (Nguồn: vitinfo.com.vn) Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu..." Quê tôi là vùng đất bãi sông Hồng. Mẹ kể, tôi sinh vào một ngày đông muộn. Bà đỡ đã tắm cho tôi bằng thứ nước sông Hồng đã được đánh phèn để bớt đi cái mầu phù sa đỏ quạch. Thuở ấy, với tôi, khái niệm về quê hương cứ nhạt nhòa, xa vời vợi… bởi suốt tuổi thơ tôi lớn lên trong lòng Hà Nội. Hình ảnh về làng quê với mái đình, con đê, bến sông… đến với tôi chỉ qua những chuyện kể của bà, những bài ca dao trên ghế nhà trường mà thầy giáo già dạy tôi thường ngâm nga, tựa như: Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. Hay những câu thơ của cha tôi: Ngày Xuân trai gái trong thôn / Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh / Đò sang lặng gió không trành / Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi. (Đò chiều – Xuân Thiêm). Vậy mà, như mảnh đất phù sa bồi đắp theo tháng năm, hình ảnh về quê hương, về cái nôi tôi sinh cứ dầy lên rõ nét, sâu đậm dần cùng với vốn sống, sự hiểu biết của một người đến độ trưởng thành… Nghề kiến trúc đã cho tôi cơ hội đi nhiều, đến với nhiều vùng miền của đất nước. Để cho tôi được trở về, với niềm đau đáu, đam mê … mong tìm thấy ở làng quê nhỏ bé của mình nói riêng và của nông thôn nói chung một cái gì đấy, giản dị thôi, mà sao lại có sức hấp dẫn đến vậy. Dẫu rằng, vùng quê nơi tôi đến hay trở về vẫn còn nghèo lắm, rất nghèo so với những đổi thay đến chóng mặt nơi phồn hoa đô thị trong nền kinh tế thị trường ngiệt ngã. Dấu ấn của kiến trúc làng là gì? Giáo sư kiến trúc Đặng Thai Hoàng, một người có những kiến giải sâu sắc về kiến trúc đô thị thường trăn trở nói với tôi, đô thị của chúng ta, kể cả các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh đều thiếu những "điểm nhấn" hay "Yếu tố điểm" (Landmarks). Mà theo ông, "Landmarks" là hình ảnh gây ấn tượng cho con người với đô thị, nó tạo ra sự nhận biết về phương hướng, vị trí trong thành phố hoặc trong khu vực. Đó là một loại ký hiệu của cấu trúc đô thị như tháp Eiffel (Paris – Pháp), tháp truyền hình Tower ở Toronto (Canada), tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur (Malaysia)… Tôi đồng ý với nhận xét của ông. Đấy là về đô thị. Còn kiến trúc nông thôn, mà tôi gọi là kiến trúc làng, thì cái cột mốc hay yếu tố điểm kia là cái gì? Tôi đã dự nhiều cuộc hội thảo khoa học của các nhà quản lý, của giới quy hoạch, kiến trúc, được nghe nhiều lý luận cao siêu, chung chung có tiếng kêu gọi khi bàn về kiến trúc nông thôn của nhiều vị thức giả. Nhưng những nghiên cứu có tính thực tiễn thì vẫn hiếm hoi lắm! Trên thế giới, không quốc gia nào lại không tồn tại hai môi trường cư trú: Đô thị và Nông thôn. Mà đã có nông thôn là có làng. Nhưng có lẽ, không ở đâu có cấu trúc làng như ở nước ta - Làng Việt. Một kiểu làng đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ, sản phẩm của nền văn minh lúa nước, canh tác lạc hậu với “con trâu đi trước, cái cày theo sau". Làng Việt truyền thống có cấu trúc không lớn. Làng nằm kề cánh đồng, ruộng lúa, sở hữu của cư dân trong làng. Làng nọ cách làng kia cũng bởi cánh đồng làng. Từ hàng nghìn đời nay, mối quan hệ xã hội trong làng chủ yếu là thứ quan hệ “ Gia đình – họ hàng – làng nước". Có nhà nghiên cứu dân tộc học cho rằng, làng là sự mở rộng của huyết thống, nước thì xa hơn, nhưng cũng chung một cội nguồn. Có phải vì thế chăng mà trong lịch sử Việt Nam, các vị vua thường xưng "Tổ" hoặc "Tông" như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông… cũng bởi từ cội nguồn và huyết thống. Nói như vậy để thấy vị trí của làng quan trọng đến thế nào trong xã hội Việt Nam truyền thống. Cấu trúc không gian của làng không phức tạp, nhưng cũng không đơn giản đến mức đơn điệu. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu như làng nào cũng có lũy tre xanh bao bọc, dù làng nằm trong đê hay ngoài đê (ngoài bãi). Lũy tre ken dầy bởi lớp lớp cây tre, măng tre… như bức tường thành che chở cho làng khi có cướp, có giặc ngoại xâm, là nơi cung cấp vật liệu cho làng làm nhà, làm công trình công cộng và bao vật dụng sinh hoạt hằng ngày. Muốn vào làng phải đi qua cổng làng. Cổng làng xưa thường xây bằng gạch, nhiều làng ở vùng trung du và xứ Đoài - Hà Tây (nay đã sáp nhập với Hà Nội) thì xây bằng đá ong, liên kết bằng vôi, vữa trộn với mật mía và muối rất chắc chắn. Qua cổng làng là con đường làng lát gạch nghiêng hình mu rùa. Từ đây, ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang, ngõ tắt như xương cá, mà đường làng là xương sống. Nhưng dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng ra là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Năm này qua năm khác, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tất cả đều đi trên đường làng và đi qua cổng làng. Ai đấy đã ví, cổng làng như một nhà ga, ở đó có đợi chờ, có chia ly, có nước mắt em nhạt nhòa trong chiều muộn tiễn người yêu lên đường đi xa, có dáng mẹ gầy xiêu xiêu suốt một đời tần tảo nuôi con, chờ chồng đằng đẵng suốt cuộc chiến tranh. Giáo sư Hoàng ơi! Với tôi và có thể cả với ông, cái cổng làng bình dị ấy sao không thể là một “Cột mốc", một “Yếu tố điểm" quan trọng trong cấu trúc làng! Trong làng, ngôi Đình có vị trí tâm linh đặc biệt. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành hoàng làng, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng. Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là xã hội Việt Nam thu nhỏ thời phong kiến, thì Đình là hình ảnh của làng. Nơi đây diễn ra những cuộc họp của bô lão trong làng, trong họ tộc, từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân Đình và theo lệ của làng. Đình làng với kiến trúc đặc sắc từ kỹ thuật dựng lắp đến nghệ thuật chạm khắc trên các hệ vì, bẩy, kẻ đã trở thành tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống. Nhà trong làng hầu hết là nhà tranh vách đất, sau này đời sống khá hơn là tường gạch, mái ngói. Bố cục nhà trong làng gần như giống nhau, có nhà chính, nhà phụ. Nhà chính thường ba gian hai chái và có hiên rộng. Hiên được che bởi một lớp dại đan bằng tre có thể tháo lắp dễ dàng, vừa kín đáo trong sinh hoạt, vừa tiện mở rộng không gian khi cần thiết, ngăn gió lạnh về mùa đông, che bớt cái nắng gắt chói chang của mùa hè. Nhà chính là nơi ở, nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà, nơi tiếp khách. Hai chái nhà thường được xây kín không mở cửa sổ, là nơi để đồ, hoặc dành làm chỗ ngủ cho đàn bà con gái. Nhà phụ là bếp, chuồng lợn, gà. Nhà chính, nhà phụ thường bố cục theo hình chữ L, ôm lấy cái sân rộng. Trước sân là một ao nhỏ được tạo nên bởi quá trình vật đất tôn nền làm nhà, chung quanh bờ ao thường trồng cây lưu niên. Cấu trúc nhà trong làng giản dị, nhưng rất hài hòa với môi trường thiên nhiên trong lành, có ao cá, vườn cây… Chả thế mà nhiều vị quan khi về hưu, cởi bỏ mũ mão cân đai trở về làng vui thú điền viên là vậy. Đình làng Nông Lục (Bắc Sơn-Lạng Sơn). Ảnh nguồn: photobucket Cấu trúc làng truyền thống có nguy cơ bị phá vỡ Những năm gần đây, người ta hay nói đến cụm từ “Phát triển bền vững". Đây là một khái niệm xuất hiện vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, do ủy ban Môi trường và phát triển thế giới đề xướng. Sau Đại hội IX của Đảng, vấn đề phát triển bền vững ở nước ta đã trở thành quan điểm thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế thời kỳ 2001 – 2010. Và cũng đã có cả một Nghị quyết về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chúng ta đang trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ để theo kịp xu thế chung của thời đại và hội nhập quốc tế. Đó là quy luật tất yếu của sự phát triển. Theo số liệu điều tra gần đây, hàng năm đất nông thôn bị giảm gần ba vạn ha bởi tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và cả xói mòn, lở đất… Điều đó có nghĩa là đất canh tác ngày càng thu hẹp lại. Khoảng cách giữa làng và đô thị không còn xa nữa, thậm chí có nơi phố và làng đã tiếp cận nhau, hòa vào nhau để trở thành Phố – Làng. Cấu trúc làng truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ. Đó là một thực tế! Việc đi tìm một mô hình làng mới, cấu trúc mới phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, nâng cao đời sống của nông dân là vấn đề bức thiết, phải được quan tâm. Hiện nay, nhiều nhà quản lý, quy hoạch và cả trên báo chí hay dùng khái niệm "Đô thị hóa nông thôn". Theo tôi, cần xem lại khái niệm này. Đô thị hóa là quá trình biến một nơi nào đó thành đô thị. Nhưng không vì thế mà biến nông thôn truyền thống Việt Nam thành đô thị của thời hiện đại! Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông thôn là để nông thôn phát triển, để đời sống nông dân được cải thiện, đủ đầy theo xu thế đi lên của xã hội, chứ không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của nông thôn. Chúng ta cải thiện hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn như xây dựng hệ thống điện, nước sạch, làm đường, mương bêtông, sử dụng hầm chứa rác tạo khí bioga … là hướng đi đúng đắn mà Nghị quyết của Đảng đã từng chỉ rõ. Chúng ta bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp được xây dựng từ hàng nghìn năm nay, nhưng kiên quyết xóa bỏ những hủ tục, lệ làng lạc hậụ để xây dựng hương ước mới, phong tục mới, cuộc sống mới trong một xã hội có kỷ cương, dân chủ, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không gian kiến trúc làng truyền thống cần được tôn trọng. Sẽ ra sao khi cấu trúc làng truyền thống biến mất, thay vào đó là những dãy nhà kiểu hàng phố cao ngất ngưởng 4 – 5 tầng, kiến trúc lai căng, kệch cỡm, với đủ loại biển hiệu xanh, đỏ lòe loẹt mà ta gọi là “Đô thị hóa". Người viết bài này cứ mường tượng ra cái làng xưa yêu dấu của mình sẽ được các kiến trúc sư sắp xếp lại cho hợp lý hơn, tiện lợi hơn, để sau lũy tre làng là những ngôi nhà 1 – 2 tầng xây gạch không nung, mái lợp tôn cách nhiệt. Con đường làng được đổ bê tông, có hệ thống tiêu thoát nước… Ngày ngày, từ cái cổng làng quen thuộc, những nông dân của thời đổi mới ra cánh đồng cao sản làm việc với các nông cụ tiên tiến. Để rồi khi chiều xuống, họ lại trở về sống bình yên trong ngôi nhà ấm cúng với đầy đủ tiện nghi, có nước sạch, xem ti vi hay nghe nhạc trong một khuôn viên có ao cá, vườn cây… Rồi những đêm hội mùa xuân, trên chiếu chèo ở sân đình, các cô gái làng xinh đẹp sẽ lại hóa thân vào những Thị Mầu, Thị Kính qua làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Đó là cuộc sống của nông thôn Việt Nam trong tương lai gần mà chúng ta đang hướng tới và phấn đấu. Tôi không hiểu sâu về triết học, nhưng tôi thấy thực có lý khi đọc được ở đâu đó một phát hiện lý thú: Nếu lấy Huế làm tâm, quay một vòng ta sẽ được vòng tròn thái cực âm dương. Cái bờ biển cong hình chữ S của Tổ quốc chính là đường tiếp cận giữa âm và dương ấy. Âm là biển Đông. Còn phía đất liền có dãy Trường Sơn bao bọc là dương. Đất – Cha, Biển – Mẹ là thế. Cội nguồn của dân tộc, của văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ đó, nó bền vững, trường tồn qua cả nghìn năm thuộc Bắc, rồi sau này là gần trăm năm bị kẻ thù phương Tây đô hộ. Và, kiến trúc làng Việt là một phần của mạch nguồn văn hóa dân tộc chảy mãi khôn cùng… P.T.T Hà Nội – Hưng Yên, mùa nhãn – 2008
  2. I. TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ HÔM NAY Theo những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi Nổi… thì từ cách đây 4.000 đến 5.000 năm, con người đã có mặt ở vùng đất còn chứa nhiều nước mặn, sình lầy, cây dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để lại nhiều dấu ấn văn hóa khá đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của nền văn minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên khoảng vài trăm năm rồi bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây, với những hình ảnh hư ảo còn lại của một vương quốc Phù Nam, hay một "nước Chí Tôn" trong sử sách, bia ký cổ. Công cuộc mở đất phương Nam, khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật sự định hình từ những cuộc di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là quá trình di dân tự nhiên, quá trình di dân cơ chế và quá trình chuyển cư tại chỗ. Quá trình di dân tự nhiên là quá trình di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định hình bản sắc văn hóa của vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành những cuộc di dân cơ chế lớn từ vùng Ngũ Quảng vào, kết hợp với sự di dân cơ chế sau thất bại của nhà Minh trước triều Mãn Thanh (do Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu cầm đầu), cùng với việc di dân cơ chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ Khơme đến từ nhiều vùng trên đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa diệt tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người Chăm Hồi giáo đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá trình chuyển cư tại chỗ của cộng đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc Nam Bộ mới thật sự hình thành. Chính nhờ quá trình chuyển cư tại chỗ, mới có việc thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng dân tộc, mới làm xuất hiện những điều kiện khách quan, tạo nên những tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng người có những đặc trưng văn hóa khác nhau, làm nên tính chất địa văn hóa, địa kinh tế của một vùng đất châu thổ phương Nam rộng lớn. Đó chính là một vùng văn hóa trẻ, phong phú, đa dân tộc, đa tôn giáo và đa màu sắc (ở đây chúng tôi không có ý định đi sâu tìm hiểu vấn đề này). Muốn tìm hiểu đặc trưng vùng văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm trung tâm để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động, tác động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc, hội họa, lễ hội và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc người cùng chung sống trên nền địa địa lý tự nhiên của vùng phù sa cổ miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ, mà tâm lý tính cách bị chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý, kinh tế - xã hội và quá trình phức hợp của nó theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này. Tất nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ròi từng vùng văn hóa trên cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt nhất định, chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét. Theo đó, nhiều nhà nhân chủng học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính sau đây: hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ. Nhà trưng bày văn hoá Óc Eo ở An Giang Tính hào hiệp không phải xuất phát từ máu "làm chơi ăn thiệt" trên vùng đất giàu tôm cá, phì nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa… mà nó được thể hiện trong nhiều yếu tố tâm lý cấu thành tính cách đó. Đó là thái độ mến khách, với tình yêu thương con người, ý thức coi trọng nhân nghĩa hơn tiền tài, danh vọng. Bởi vì, cho dầu là người Việt, người Khơme, người Hoa hay người Chăm, thì họ cũng phải thường xuyên đối đầu với một vùng đất mới còn hoang hóa, với biết bao khó khăn về điều kiện thiên nhiên và địa lý khắc nghiệt trong buổi đầu khai hoang lập ấp. Hơn nữa, trước một thiên nhiên bao la kỳ bí, chằng chịt sông rạch, rậm rạp rừng sâu, tràn ngập muỗi mòng, thú dữ… con người trở nên vô cùng nhỏ bé, tất nhiên phải dựa vào nhau mà tôn tại. Trong hoàn cảnh ấy, họ không thể nghĩ đến những thể chế từng ràng buộc của quan nha, triều đình; lại càng không thể câu nệ những lề thói xa xưa của làng xã nơi họ bỏ ra đi. Trên thực tế, đồng bằng sông Cưu Long trong buổi đầu khai phá, chưa hề có một khu vực hành chính ổn định; mãi đến khi Gia Long lên ngôi mới thiết lập được bộ máy cai trị của mình. Vì lẽ đó, con người trong buổi đầu mở đất, tất phải sống với nhau trong tình yêu thương san sẻ, bình đẳng tương thân, tương trợ để đùm bọc nhau sống còn trong nỗi nhớ thương nguồn cội cố xứ của mình. Tôi chưa thấy ở đâu trẻ em lại xưng "con" với người lớn, đứa lớn hơn gọi đứa nhỏ hơn là "cưng", bằng trang phải lứa thì xưng "qua" với "bậu". Lúc thân mật cũng "qua" với "bậu", lúc giận hờn cũng "bậu" với "qua"... Ví dầu tình bậu muốn thôi Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Bậu ra cho khỏi tay qua Cái xương bậu nát cái da bậu mòn. Ít bảo thủ là một đức tính tốt của người Nam Bộ. Tôi cứ nghĩ mãi về câu thành ngữ "ăn Bắc mặc Nam". Phải chăng người miền Bắc ăn uống rất cầu kỳ. Đến như rau sống mà cũng phải chẻ, phải xắt, phải lựa, phải rửa bằng nước muối hay thuốc tím rồi rảy cho thật khô. Dân miệt đồng Nam Bộ, bẻ rau ngoài đồng, rửa quấy quá vài nước, thẩy lên mâm là xong. Rau muống cứ để nguyên cây, bắp chuối cứ để nguyên bắp. Cá chỉ cần nướng lụi. Rắn chỉ cần nướng lèo. Ăn uống cốt miếng lớn cho no. Có phải nhà hàng đâu mà cầu kỳ. Còn mặc thì phong phanh lắm. Cũng như ở vậy, chỉ cần cái nhà đá, nhà đạp để che mưa che nắng, khi không cần nữa thì đá thì đạp, dứt áo đi nơi khác dễ dàng. Trong những di cốt tìm được ở Nam Bộ, các nhà khảo cổ đều nhận ra một điều, người Nam Bộ rất ít dùng đồ trang sức. Nghĩa là người dân xứ này không coi trọng cái ăn, cái mặc lắm. Điều quan tâm của họ là những gì đang ở phía trước. Quá khứ là cần thiết, nhưng không quan trọng bằng hiện thực và tương lai. "Ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu". Đó là một câu ca dao hay về tính cách con người trên vùng đất từng một thời đầy dẫy cá sấu và hổ báo. Hướng tới tương lai thì phải mạnh dạn vứt bỏ quá khứ, nếu như xét thấy nó đã lỗi thời. Nếu nặng lòng với quá khứ thì làm sao đủ sức dấn thân để khai phá những vùng đất mới, để tiếp cận những cái mới. Có lẽ Nam Bộ là nơi tiên phong của báo chí viết bằng chữ quốc ngữ, là miền đất tiếp xúc với công nghệ hiện đại sớm nhất, là xứ có đội bóng đá nữ đầu tiên của cả nước, là nơi có người đàn bà dám lặn lội muôn vạn dặm đến quan môn triều đình dóng trống kêu oan cho chồng… Đã đành gốc gác người Nam Bộ cũng từ Bắc, từ Trung vào, nhưng trên chặng đưồng thiên lí, họ đã làm rơi rụng dần những cái gì thuộc về tính cách của nơi đã sinh ra mình, để có thể nhanh chóng hòa nhập với vùng đất mới mà họ đã chọn làm nơi "đất lành chim đậu". Nhưng từ nền văn hóa cổ đến nền văn hóa Nam Bộ đương đại là cả một tiến trình phát triển suốt 300 năm mở đất, mà nhiều vấn đề vẫn cần phải tiếp tục đặt ra để nghiên cứu đến tận ngọn nguồn của nó. Ngày nay, chúng ta vẫn phải tiếp tục nghiên cứu để khẳng định đích thực chủ nhân của những tầng văn hóa chồng chất trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long vào những thiên niên kỷ thứ nhất, trước và sau công nguyên. Tất nhiên đây là một công việc rất khó, bởi tính năng động của một địa bàn rộng lớn, có nhiều luồng tiếp xúc nên cũng có nhiều biến động về các tộc người; hơn nữa, nó lại là vùng giao thoa của nhiều trung tâm chính trị khác nhau trong thời kỳ cổ đại. Nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, cũng như nhiều văn bản của Nhà nước đô hộ Pháp, vẫn thường nói đến những Nhà nước Đông Nam Á có cương vực rộng lớn, với một thể chế rất chặt chẽ, thâu gồm những vùng đất rộng lớn, bao trùm lên cương giới nhiều quốc gia hiện nay. Nhưng trên thực tế, dưới ánh sáng tiến bộ của các ngành khoa học hiện đại, các quốc gia Đông Nam Á cổ đại chỉ là những trung tâm chính trị rất lỏng lẻo, cơ cấu thành phần tộc người và biên giới không rõ ràng và đầy biến động. Vì vậy không thể chỉ căn cứ vào các thư tịch cổ mà quy chủ nhân của những vùng đất đai cụ thể là ai, rồi từ đó gán ép cho các dân tộc khác tội chiếm đất. Lấy ví dụ như theo quan niệm của người Khơme, chúng ta không thấy có sự đối lập giữa "Thủy Chân Lạp" và "Lục Chân Lạp"; mà chỉ có sự phân biệt giữa ba vùng địa lý theo quan niệm chung của cư dân Đông Nam Á. Đó là ba vùng: Khơme Lơ (Khơme vùng cao), Khơme Kandal ( Khơme vùng giữa), và Khơme Crôm (Khơme vùng dưới). Người Pháp từng gán cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng Khơme Crôm, với lý do vùng đất này có người Khơme sinh sống, có nhiều địa danh mang tên các địa danh Khơme. Rồi họ còn dựng lên cái gọi là đế chế Phù Nam có địa bàn trải rộng qua cả Thái Lan, Lào, Việt Nam. Từ đó cho rằng, nếu không có sự hiện diện của Pháp, các nước Lào và Campuchia đều sẽ bị Việt Nam thôn tính. Với thái độ nghiên cứu văn hóa nghiêm túc và khoa học, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, ranh giới giữa các vùng Khơme Kandal và Khơme Crôm chính là đôi bờ sông Niết Lương. Tại vùng Kandal hiện nay, người Khơme lấy Chămka (bãi sông), nuôi bò là chính; trái lại vùng Xoài Riêng (nam sông Niết Lương) lại làm ruộng nước, nuôi trâu. Như vậy vùng vùng Khơme Crôm phải chăng chính là vùng Xoài Riêng ngày nay. Xét theo tâm lý đặt tên địa danh, những tên đất như Gò Công, Cà Mau… rất có thể là do cư dân Khơme đặt theo tên Kôkông, Takthmau trong bước đường di cư của họ, khi mà các tộc người Việt và người Chăm chưa đến. Tại các vùng Sóc Trăng, Trà Vinh, nơi có nhiều người Khơme cư trú lâu đời nhất, chúng ta cũng không tìm thấy ngôi chùa nào có trên 300 năm tuổi. Theo tập quán canh tác, người Khơme thích ở "giồng" còn người Việt thích ở gần sông rạch. Đó là mối quan hệ tự nhiên trong bước đường khai phá đồng bằng sông Cửu Long của hai tộc người Việt - Khơme. Như vậy, Nam Bộ chính là vùng văn hóa đất mới, vùng ngoại biên của nhiều quốc gia cổ đại, mà sau này người Khơme, người Việt và người Chăm đã chung lưng đấu cật cùng nhau khai phá. Chủ nhân của nền văn hóa, văn minh này, chính là cộng đồng những tộc người đang sống trên châu thổ của sông Tiền, sông Hậu. Trong đó chủ yếu là người Việt, người Khơme, người Chăm và người Hoa, với chung một nền văn hóa hội nhập của các tộc người trên một địa bàn rộng lớn của đồng bằng châu thổ 18 triệu người. Tất cả những điều trên đây vẫn là chưa đủ để nói về bản lĩnh và tính cách người Nam Bộ, nhưng chừng đó cũng đủ góp phần hình thành bản sắc văn hóa của một vùng đất mới, nơi hội tụ rất nhiều luồng văn hóa khác nhau của thế giới. Một trong những giá trị ấy là phương ngữ Nam Bộ, bộ phận hình thành bản sắc độc đáo của ca dao dân ca Nam Bộ. II. VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG CA DAO DÂN CA "Trắng như bông lòng anh hổng chuộng. Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương" - ảnh Gérard Grapton Phương ngữ Nam Bộ được hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển lịch sử 300 năm của vùng đất, càng ngày càng được bổ sung theo sự giao lưu mạnh mẽ của nhiều luồng văn hóa khác nhau; nó bắt đầu hình thành từ TK XVII, cùng lúc với những đoàn người Việt đầu tiên vào định cư khai khẩn vùng đất Miền Đông Nam Bộ, rồi sau đó phát triển mạnh xuống Miền Tây. Đến nay, phương ngữ Nam Bộ đã trải qua nhiều chặng đường phát triển, gắn với những sự kiện chính trị - văn hóa. Chẳng hạn như sự ra đời của chữ quốc ngữ vào nửa sau TK XIX. Nó là tiếng nói sinh động của nhân dân lao động, được sử dụng và phổ biến thông qua con đường khẩu ngữ, trong khuôn khổ một vùng văn hóa địa phương nhất định. Chúng ta cần phải công nhận nó, coi nó như một công cụ chung để tư duy tại một vùng đất văn hóa đặc thù; từng bước hòa nhập thành ngôn ngữ phổ biến chung, ngôn ngữ văn học của cả nước. Trên thực tế, chúng ta rất khó chọn ngôn ngữ một vùng miền cá biệt nào làm ngôn ngữ chuẩn cho tiếng Việt, mà chính tiếng Việt đang càng ngày càng phát triển chính từ nền tảng ngôn ngữ vùng miền trong cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, rõ ràng tiếng Việt đã trở nên phong phú hơn rất nhiều, bởi chính nhiều phương ngữ vùng miền khác nhau trong cả nước vun bồi nên. Điều đó góp phần rất to lớn trong việc hình thành tiếng Việt văn học chung của cả nước. Riêng về phương ngữ Nam Bộ, rõ ràng có sự giao lưu rất đậm nét với các phương ngữ khác trong khu vực, như phương ngữ của đồng bào Khơme, đồng bào Chăm, đồng bào Hoa… và một số luồng ngôn ngữ khác. Điều đó làm nên diện mạo và thần thái của phương ngữ Nam Bộ. Nó hình thành chính từ ngôn ngữ nói của đồng bào. Ở đây, chúng tôi xin phép không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ học, như từ vựng, tu từ và giá trị ngữ pháp văn bản của nó. Nếu trong ngôn ngữ nói, người Nam Bộ thường có thói quen chỉ sử dụng 5 dấu thanh (không dùng thanh ngã), thường nói sai phụ âm đầu (v-d, h-g), hay có sự biến đổi trong phát âm (i-iê, ng-n), hay gộp âm trong xưng hô (bả, chả, ảnh, chỉ), trong chỉ địa danh (ngoải, trỏng), hay dùng từ cổ (bể, bợ, bông, heo), thích dùng yếu tố phụ để tạo từ có sắc thái ( dơ hầy, nhọn lểu, rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hoét), thích vay mượn ngôn ngữ khác (chạp phô, tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui, cần xé, cù lao, giận lẫy, cúng dàng)… thì phương ngữ phương ngữ Nam Bộ chính là được hình thành trên nền tảng ngôn ngữ nói hàng ngày của bà con. Ví dụ: Tèm hem, tầy huầy, trớt huớt, thoi loi, tùm lum, nháu nhó, hết ý, chịu chơi, xả láng, thả giàn, hết ý, hết xảy, quá xá mấu, đẹt câm đẹt ngắt, cứng ngắt cứng còng, trẻ khô, già khú đế, ngồi chò hỏ, ngồi chành bành, ngồi chèm bẹp, ớn xương sống, sợ thấy mụ nội, trời thần đất lở, thấy mồ tổ, chèng đéc ơi… Chính từ nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng của người Nam Bộ, cũng như sự bộc trực, thẳng thắn, ít thích văn chương rào đón, mà ngôn ngữ Nam Bộ thường có lối nói rút ngắn, giàu hình tượng, thích ngoa dụ cho vui: bi dai, bi lớn, bi nhiêu, bi tuổi, bản mặt chằm vằm, đồ chằng tinh hổ lửa, đồ ba trợn, đẹp thấy ớn, xấu thấy sợ, ngon hết biết, say quắt cần câu, lười thối thây, cà rịch cà tang, tà tà ển ển, cà xích cà xẹo, bẹo dạng bẹo hình, bình bình nước nhửng… Và… cũng thường tình như vậy, phương ngữ đi vào ca dao Nam Bộ một vẻ đẹp bình dân, mộc mạc, mà phải đọc nhiều lần chúng ta mới nhận ra được nó. Trắng như bông lòng anh hổng chuộng Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương Muốn người ta người ta không muốn Xách cái dù đi xuống đi lên Thương sao thương quá bất nhơn Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào Khen cho con nhỏ cả gan Ghe không bánh lái dám chèo ngang giữa dòng Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm Thuyền chài thuyền lưới thuyền câu Biết thuyền nhơn ngãi nơi đâu mà tìm Nước chảy liu riu lục bình trôi quắn quíu Anh mãng thương nàng lịu địu xuống lên Mái dầm anh đong đưa Cùng với em dạo mát Đặt em ngồi đằng trước Hay em ngồi đằng sau Ôi em ngồi chỗ nào Anh cũng không ưng bụng Mái dầm anh lúng túng Đặt em lên đùi anh (Dân ca Khơme) Chiều xuống anh đưa em đi chơi Xóm làng mình sông sâu nước chảy Để em ngồi trên thuyền sao lòng anh áy náy Sợ sóng đánh làm ướt đôi chân em Để em ngồi đằng trước thì sợ trúng mái dầm Ngồi ở giữa thuyền thì xa lơ xa lắc Em ngồi ở đâu thật khó lòng tính được Chỉ có cách là bồng em đặt lên đùi anh (Dân ca Khơme) ..... Và từ những câu ca dao dân dã ấy, khi được lợp lên mình nó những tầng lớp giai điệu và tiết tấu, phương ngữ Nam Bộ vụt hiện những vẻ đẹp bình dân tới lịm người. Đố ai kiếm được cái vẩy con cá trê vàng Cái gan con tép bạc mấy vàng tôi cũng mua Ô là ô áo vá quàng (Lý áo vá quàng) Chim quyên ăn trái nhãn lồng Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi (Lý chim quyên) Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn Bao nhiêu lá rụng em thương chàng bấy nhiêu (Hát đưa em) Ba xa kéo chỉ trên chòi Xa kêu vòi vọi anh đòi chuyện chi (Lý ba xa kéo chỉ) Chiều chiều gọt mướp nấu canh Thấy anh qua lợi bỏ hành cho thơm (Lý trái mướp) Lỡ tay rớt bể bình vôi Chủ gia bắt được đọa đày xứ xa (Lý bình vôi) Chú chim sẻ ơi Ơ ơ ớ hùi Ăn lúa nhà người Vừa thơm vừa ngọt Đừng ăn lúa mót Trên đồng nhà tao Lúa của nhà nghèo Vừa cay vừa đắng (Choôlchap- dân ca Khơme) Trên cành đơm boong vui quá Sáo con nhảy múa tối ngày Cánh thì xòe ra bay bay Chân thì lia thia nhảy nhảy Ơi đàn sáo con bé tí Chẳng biết nhờ ai đệm đàn Đành lấy chiếc mỏ ra ràng Mổ cành đơm boong khe khẽ (Xarikakkeo- dân ca Khơme) Đừng nhìn tao bớ chim ơi Hai đứa tao yêu nhau rồi Mà biết nói gì Chỉ biết nhìn chim bay đi (Chim Môhôri- dân ca Khơme) Phiền muộn chi em làm héo cánh hoa Luyến tiếc chi em làm héo nụ cười Hay là em đã say đắm nơi nào Ta càng tha thiết mãi không thôi (Xaccrova chhlơơi chhloong- dân ca Khơme) Chim cu kêu cúc cu Nó đậu trên ngọn tre Anh gặp rồi anh thương Em đây còn nhỏ Em ơi anh chờ em Em đi lấy chồng Sao đành bỏ anh (dân ca Chăm) Kiếp này lắm ngang trái Để kiếp sau ta gặp nhau Anh ơi số trời định ước Anh đừng giận vô cớ (dân ca Chăm) Con chim trao trảo Nó rất dạn Đã bay khắp nơi Được sống sung sướng Sanh con đẻ cháu Được ở khắp bụi bờ (dân ca Chăm) Con ơi Ở với mẹ có áo mặc Ra lấy vợ Áo không kip cài nút. Con ơi Đừng buôn lá bài Của cải của người ta Đừng lừa gạt. (dân ca Chăm) III. HÃY ĐẾN VỚI CUỘC SỐNG ĐỂ TÌM VẺ ĐẸP CỦA CA DAO DÂN CA NAM BỘ Chợ nổi: sinh hoạt thường nhật của người dân ĐBSCL - ảnh Thomas Primault Ca dao dân ca Nam Bộ là bộ phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc người chung sống trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng, giao lưu và hội nhập lẫn nhau rất lớn; chính vì vậy, theo thời gian, nó càng ngày càng phát triển với một diện mạo đặc trưng, tương đối khu biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau trong cả nước. Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại, tiết tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát xòe hoa...; dân ca Tây Nguyên thường có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn dập...; dân ca Trung Bộ thường chậm, buồn, thiết tha, man mác với các điệu hò hụi, hò khoan, lý hoài nam.... Dân ca Nam Bộ là tổng hòa của nhiều tính cách, tạo thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu cũng như trong ca từ - mà chỉ riêng hát lý đã chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng tận, từ lý con cóc, lý con nhái, lý con cá trê, lý con chuột, lý con mèo, lý đương đệm, lý cái phảng, lý cây ổi, lý cây bần, lý chim quyên, lý bình vôi, lý bờ đắp, lý hố mơi, lý bốn cửa quyền, lý cá ông, lý con kiến, lý con cua, lý con khỉ, lý bánh canh, lý bánh bò, lý ba xa kéo chỉ, lý trái mướp, lý lựu lê, lý con sáo, lý con ngựa, lý lu là, lý tú lý tiên, lý úp lá khoai, lý cây khế, lý kêu đò… và… độc đáo tới mức… có luôn cả lý chun mùng (lý cánh cửa). Rồi thì hò Nam Bộ. Có hò trên cạn, hò dưới nước, hò đối đáp, hò huê tình. Rồi lại còn hát ru, hát đưa linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp. Tất cả vẫn đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dân gian. Muốn đến được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng ta nhất thiết phải đi sâu vào thâm nhập cuộc sống của nhân dân, của cộng đồng các tộc người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ tiếp cận và lợi ích của từng ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu sưu tầm là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu. Vì vậy chúng ta cần phải đề ra một số phương hướng như sau: 1. Phân vùng và tìm kiếm sự hình thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian địa phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa phương, tính chất vùng và tộc người, in rõ dấu ấn các thời đại, giai đoạn lịch sử. 2. Tìm hiểu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian không phải là một lĩnh vực đơn nhất mà tồn tại ở những loại hình cụ thể, với những tác phẩm cụ thể của nó. Loại hình và sự biểu hiện của loại hình qua những tác phẩm của nó là những cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian địa phương. 3. Tìm hiểu đặc thù của từng loại hình văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù của các loại hình văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu hiệu đề tài, hình thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có sự liên quan chặt chẽ với nhau. 4. Tìm hiểu sự giao lưu văn hóa của các địa phương. Vì trong quá trình vận động trên hai trục không gian và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động qua lại lẫn nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh hoa của văn hóa dân gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá trình giao lưu văn hóa của các địa phương chịu sự tác động của những quy luật lịch sử - xã hội cơ bản. Xuất phát từ nền văn minh sông nước, tìm hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải tìm hiểu nền văn minh nông nghiệp theo kiểu "làm nương rẫy". Dấu ấn của nền văn minh này để lại dấu ấn rất đậm nét trong ca dao dân ca. Gió đưa gió đẩy Về rẫy ăn còng Về sông ăn cá Về đồng ăn cua Bắt cua làm mắm cho chua Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn tiền Mẹ mong gả thiếp về vườn Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh Trên đất giồng mình trồng khoai lang Trên đất giồng mình trồng dưa gang Hỡi cô gánh nước đường xa Còn bao gánh nữa để qua gánh giùm Hoa trong vườn nhà ai Đưa làn hương ngược gió Lẫn trong mùi cây cỏ Anh biết tìm em đâu (Phaka Kroong- dân ca Khơme) Bên kia sông có một vườn dâu Em biết đâu chính tay anh trồng Đưa em đi con nước xuôi dòng Em biết không, lòng anh xôn xao? Anh cùng em qua sông hái dâu Em nuôi tằm cái áo viền bâu Áo em mặc kín đáo bít bòng Mọi việc phải do mình yêu nhau (Oum tuk- dân ca Khơme) ….. Từ nền văn minh miệt vườn này, ta thấy xuất hiện chiếc đòn gánh của đồng bào Khơme có hai mấu ở hai đầu. Nó không chỉ để gánh, nó còn là thứ vũ khí để chống đỡ khi cần; và khi mệt mỏi vì công việc, nó còn là chiếc ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính cộng đồng các tộc người cùng chung lưng mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy thành nền văn minh miệt vườn miệt ruộng, đã nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đã biến cả một vùng đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên cơ sở nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác. Thâm nhập thực tế, phải bắt đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi dân cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, là lực lượng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tiến hành những đổi mới trong tất cả các quá trình sản xuất, là lực lượng đấu tranh xã hội và cải tạo thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và hình thành những tư tưởng và lối sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng dân cư của khu vực, chúng ta cần phải ý thức rằng, chính dân cư là bộ phận chứa đựng nhiều đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán, những thói quen và đặc điểm về sản xuất, phụ thuộc vào những nhân tố xã hội, tộc người và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh thái cụ thể. Về góc độ dân cư, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn hợp, với nhiều nguồn gốc địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng và tôn giáo, chênh lệch cách xa nhau về lối sống và phong tục tập quán, trình độ phát triển xã hội và văn hóa, cũng như thói quen canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để tìm vẻ đẹp của ca dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Yếu tố tộc người và văn hóa Chăm và Mã Lai - đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu tố văn hóa và tộc người cổ xưa nhất, đã hình thành ở đồng bằng sông Cửu Long từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau, yếu tố tộc người Việt và văn hóa Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn, bên cạnh sự hòa hợp những yếu tố của tộc người vùng ven biển nam Trung Hoa. Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ mà xét, thì tính chất bao trùm và phổ cập, chính là sự hòa hợp và phát triển của những yếu tố văn hóa của các tộc người, mà yếu tố văn hóa của tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng văn hóa của các tộc người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng- đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Vì vậy, châu thổ sông Cửu Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước ta, về mặt dân cư và dân tộc, có những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ý trong quá trình cải cách nói chung, và quá trình cải cách văn hóa nói riêng. Tính chất hỗn hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình xích lại gần nhau, hòa hợp giữa các dân tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật, bắt nguồn từ lịch sử di dân và sự hình thành những vùng sinh thái nhân văn của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn. Nó góp phần hình thành các loại hình dân cư, mà dân cư nông nghiệp là lại hình dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những nhóm dân cư chuyên canh ruộng nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy. Bên cạnh đó, còn có loại hình dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm dân cư thành phố, thị tứ và nhóm dân cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi sống bằng nghề cá bè, buôn bán thương hồ để xác định loại hình dân cư của họ). Loại hình dân cư thứ ba là cộng đồng dân cư, dân tộc và tôn giáo, là một đặc điểm lớn khó có vùng nào ở nước ta tồn tại trong thực tế và lịch sử. Ở Nam Bộ, dân số Khơme chiếm tuyệt đại đa số ở huyện Trà Cú - Trà Vinh và một số huyện Khác ở Sóc Trăng, Hậu Giang; người Hoa có số dân đa số tuyệt đối trong một số xã ấp ở ở Kiên Giang, Hậu Giang và Cà Mau; người Chăm có dân số tuyệt đối ở một số xã thuộc vùng Châu Đốc - An Giang. Về góc độ tôn giáo, đạo Phật tiểu thừa hầu như là tôn giáo toàn dân của người Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc; đạo Hòa Hảo chiếm khoảng 78% tổng số dân tỉnh An Giang; đạo Cao Đài thì phát triển mạnh ở Bến Tre, Long An và Tiền Giang. Phân loại dân cư và dân tộc là hai đối tượng tổng hòa của nhiều hiện tượng xã hội, là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội, mà khi thâm nhập thực tế, chúng ta cần phải hướng tới, để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt nhất. Điều cần xác định là việc nhìn nhận vị trí đặc biệt của cả vùng châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của những nền văn hóa cổ rực rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người trong lịch sử. Đó là nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đã cùng cư trú bên nhau, khai thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đây cũng chính là những nét văn hóa chung của các cư dân Nam Á tập trung rõ nét ở châu thổ sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên tư duy thần thoại và truyện cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật chất nhị nguyên tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục địa và biển, loài có cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên cạnh đó là các tục thờ đá trong các miếu thổ thần của người Việt, miếu Ông Bổn của người Hoa và miếu Néak- Tà của người Khơme; những ngày hội nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu vết nhà sàn trong các Sala chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức thủy lợi cổ đào ao chứa nước, như ao Bà Om của người Khơme ở Trà Vinh, ao chứa nước trong rẫy của người Hoa ở Vĩnh Châu - Bạc Liêu, cách xẻ mương, lên liếp ở các miệt vườn. Ngoài ra, châu thổ sông Cửu Long còn là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng của thủy triều và các sông rạch, con nước lớn ròng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa Mã Lai, Inđônôdiên khá rõ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất giỏi nghề đóng ghe xuồng và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh cá trên sông… Các miếu Ông Bổn Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác khắp cả vùng châu thổ đã minh chứng cho nền văn hóa biển của cả vùng đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc trong cộng đồng vẫn có những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc mình, phản ánh bản sắc văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên là những người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư vào khai thác đất đai, xây dựng làng xóm, đình chùa, để lại dấu ấn của nền văn minh cây lúa nước, bằng việc đào đắp kinh mương, làm sống dậy sự trú phú của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt với những nổ lực của mình trước thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đã sáng tạo nên những cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật chất phong phú. Như bưởi Năm Roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, cam Cái Bè, vú sữa Lò Rèn, thuốc rê Cao Lãnh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An, mắm tôm chua, mắm tôm chà Gò Công, nem Lai Vung… Đó còn là kỹ thuật dùng phảng phát cỏ, đốt rồi cấy lúa rất hợp với thiên nhiên ngập tràn cỏ năng của vùng đất. Cũng chính người Việt đã du nhập ca nhạc cung đình Huế, chế ra loại hình văn nghệ dân gian quý báu là cải lương; rồi lại còn các loại hình nói thơ Lục Vân Tiên, thơ Thầy Thông Chánh, nói tuồng, nói vè, hô lô tô, ca ra bộ, hò đối đáp, hát huê tình… Người Việt ở đây còn có chiếc áo bà ba, chiếc khăn rằn và các loại mắm rất đặc trưng. Đây là những nét văn hóa Việt đã được đổi mới một phần cho thích nghi với cách ứng xử trước thiên nhiên kỳ bí của vùng đất mơi. Bên cạnh người Việt, cư trú xem kẽ trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn là đồng bào Khơme anh em. Người Khơme quần tụ trong các phum sóc được thiết lập lâu đời, trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa, giữa những hàng cây sao, cây dầu cao vút. Theo truyền thuyết, khởi nguyên người Khơme là con cháu của chim thần Garuda, có sức điều động lửa, sấm sét, có khả năng thống lãnh nước, mưa, sông rạch của giòng dõi cá thần và rắn thần Nagar. Họ có một lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ chức xã hội và chữ viết Pali, mang ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn Độ, cũng như sức sáng tạo phong phú của bản thân dân tộc mình. Từ thế giới quan Phật giáo tiểu thừa, và từ tư duy lưỡng nguyên, người Khơme đã tạo nên một nền văn hóa cá biệt với những kiến trúc chùa nguy nga, với mô típ Rìa hu, tượng tròn, tượng bốn mặt, chim thần, rắn thần, với các dạng thức phù điêu mang cá tính và phong cách riêng. Vốn là một dân tộc có truyền thống văn nghệ, người Khơme đã sáng tạo ra nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ điệu múa trống Xà zăm, múa vui Krap, múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum- rông, đến các điệu hát A-yay trữ tình, hát đối đáp Prop-kay, Chằm riêng-chàpay, ca đàn kể truyện cổ, và vươn tới những hình thức sân khấu hoàn chỉnh như kịch múa Robăm và kịch hát Yu-kê. Người Hoa Nam Bộ trong quá trình di trú đã giản dị hóa phong tục và tín ngưỡng của mình, chỉ giữ lại tục thờ thần và lệ chiêm bái. Người Hoa còn mang đến những nghề nghiệp thủ công truyền thống, nghề làm vườn trên giồng cát, và làm thông thương xích gần các cộng đồng địa phương lại với nhau, bằng việc cung cấp các dịch vụ bán lẻ hàng hóa nông sản. Ngoài ra họ còn mang đến đồng bằng châu thổ tục thờ Quan Công, Quan Âm, các tuồng Tàu, các điệu hát Tiều, hát Quảng… cùng chuẩn mực đạo đức, cách sống là những âm hưởng tàn dư những giáo điều Khổng Mạnh. Người Chăm xuất phát từ một bộ phận người Chăm ở miền Trung di cư đến, theo chương trình "tận dân vi binh" lập đồn điền của triều đình nhà Nguyễn. Do những quan hệ nhiều đời với người Khơme bên cạnh người Java mà người Chăm Nam Bộ có những nét văn hóa riêng, tuy vẫn giữ lại truyền thống xây gạch, tổ chức xã hội theo Hồi giáo với ông HaKim (như xã trưởng), thánh đường, tháng ăn chay Ramadan và đọc kinh Coran. Người Chăm sống ở Châu Đốc theo đạo Islam. Đạo Islam chi phối toàn bộ sinh hoạt, phong tục, cho đến cách phân bố phòng ở, cách trang phục. Trang phục của người Chăm Châu Đốc rất kín đáo, hầu như che phủ, giấu kín cơ thể càng nhiều càng tốt. Với truyền thống văn hóa lâu đời của mình, người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng văn nghệ rất phong phú về nội dung, về cấu trúc, hình tượng. Đó là ca dao (Pa nược - Pa dít), hát giao duyên (Ađtọh Atăm, Tàrà), hát trữ tình ân ái (Ađtọh Mưzút), hát ống (Ađtọh Đing), hát đố (Ađtọh Padao), vè (Ariya),gia huấn ca (Ariya Patoa Pakay), ngâm (Harí Ariya), xướng trường ca, anh hùng ca (Ămpăm), các điệu hò xay lúa, giã gạo (Ađtọh Raxunxa), hò đám ma (Ađtọh Tămmưtờri- Ađtọh Kamưrơ), hát ru em (Ađtọh Ru Anứk), đồng dao (Ađtọh Raneh)… Tuy nhiên, theo giáo lý kinh Coran, người Chăm vẫn cho rằng âm nhạc và lời ca tiếng hát làm mê hoặc tâm linh con người, làm con người sa ngã theo dục vọng, không còn đủ trí sáng suốt để suy gẫm lời kinh. Bởi vậy họ ngăn cấm hát xướng, nhất là các loại hát hò huê tình của nam nữ. Vì giới luật của Hồi giáo ngăn cấm, nên sinh hoạt văn nghệ dân gian của người Chăm Châu Đốc không phát triển hơn được nữa. Để bù đắp vào chỗ sinh hoạt văn nghệ bị gò bó, người Chăm ở Châu Đốc đã cố công xây dựng một hệ thống văn học dân gian với đủ loại truyện kể. Đây là công đóng góp của người Chăm Châu Đốc vào kho tàng văn học dân gian của châu thổ phù sa mới Nam Bộ. H.T.T
  3. Do năm nay không hiểu sau em đi làm rồi mà gia đình vẫn thiếu trước hụt sau,có người hứa cho tiền mà đợi hoài không thấy,xin anh xem giúp em coi sau này em ra sao nha anh. Đây là tử vi của em :http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=Ng%F4+Nguy%3Fn+Tr%FAc+H%E0&date=1987,5,8,2,0&year=1987&gender=f&view=screen&size=2
  4. :( HT biết tử vi là tham khảo,nhưng nếu biết 1 số điều thì cũng tốt chứ.Mình coi nhưng không có nghĩa là mình phụ thuộc vào nó,giống như Lão Nông đã nói lá số là do mình quyết định mà.
  5. Cám ơn Bác đã giúp cháu .Và cháu cũng xin nhờ Bác coi năm sau nếu cháu đổi chỗ làm có tốt không???Mong tin của Bác.
  6. Chào mọi người! Cháu có một vài thắc mắc về sự nghiệp trong tương lai của bản thân. Mong mọi người xem giúp! Nữ, 8 tháng 5 năm 1987, giờ 2h30'.Cháu xin hỏi : + Liệu đầu năm sau chaú có thể đổi chỗ làm?Do công việc hiện tại không phù hợp. + Công việc của cháu sau này liệu có ổn định và phát triển được? +Gia đình của cháu có đỡ khó khăn hơn năm sau không?? Cảm ơn sự quan tâm của cô bác! Cháu cám ơn nhiều
  7. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Xin nhờ Lão Nông xem giúp dùm cháu lá số tử vi này.Cháu cám ơn Lão Nông.
  8. Cháu cám ơn Lão Nông,nhưng hiện nay cháu chưa quen 1 ai cả?Nên liệu năm sau có lấy chồng hay không cháu cũng không chắc.Dù vậy Cháu cũng cám ơn Lão rất nhiều.Sau này có điều kiện cháu sẽ đóng góp vào Quỹ Tấm Lòng Vàng của Bác Thiên Sứ với tên của Lão Nông.
  9. Chào chị Laviedt! Nhờ Chị xem giúp dùm em là năm sau em đổi chỗ làm có tốt không??Gia đình em năm sau có đỡ bi đát hơn năm nay không??? Nữ,sinh ngày 8/5/1987 (dương lịch ),giờ sinh là 2h30'. Cám ơn Chị nhiều.
  10. Cám ơn Cô Wildlavender về bài viết này!Cháu cảm thấy nó rất đúng với mình.
  11. Chị Laviedt ơi! XIn Chị xem giúp coi em có khắc tuổi Ba mẹ không?Em sinh năm 1987 còn Ba Mẹ em sinh năm 1953,nhiều thầy nói là em nên sống xa gia đình do tuổi của em không hợp với Ba mẹ,nên gia đình làm ăn không lên được?Liệu có đúng không Chị?Nếu đúng thì em phải làm sao? Cám ơn Chị.
  12. Chị Laviedt ơi! Em là con gái lớn trong gia đình liệu có giảm bớt phần nào sự khắc kỵ với mẹ không???Năm sau có cách nào giải hạn bớt cho ba mẹ em không??Nếu năm sau em sống xa gia đình thì có đỡ không Chị???Mong chị giúp dùm em.Cám ơn Chị.
  13. Lão Nông cho cháu hỏi về vấn đề hôn nhân,nếu năm sau lấy chồng liệu lấy người cùng tuổi có được không? Cháu cũng xin nhờ Lão Nông xem giúp cháu lá số này,liệu năm sau cháu đổi chỗ làm được không ạ? http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2
  14. [/img] Kính nhờ Chú Thiên Sứ,anh Hùng và mọi người thiết kế nhà dùm Gđ con. Chồng sinh năm 1963 Vợ sinh năm 1970.Dtích nhà con là 3-14m.Hiện nhà con nằm ở hướng Đông Nam,con muốn dành 3m làm nhà để xe,3m tiếp theo là phòng khách,phần còn lại là bếp và nhà vệ sinh.Con muốn làm gác lửng có 2 phòng. Do nhà làm bánh nên phần bếp rất quan trọng đối với con.Mong Chú Thiên Sứ và Anh Hùng và mọi người giúp dùm con.Con xin cám ơn.
  15. Do Hoài Thương có chút chuyện nên giờ mới trả lời,Hoài Thương xin lỗi Bác Thiên Sứ và Anh Mạnh Hùng. Hoài Thương xin trả lời anh Hùng là mảnh đất đối diện nhà Hoài Thương bây giờ đang xây công viên và nó không liên thông với nhà của HT.Còn phía trước nhà HT có 1 đám cây lớn giờ đã xây nhà và cửa hông của nhà đó nằm đối diện với nhà của HT. Từ đường lớn vào nhà HT có 2 ngõ,không xa,nhưng hẻm hẹp. Màu đỏ là đường vô nhà HT,màu xanh là nhà hàng xóm mới [/img] Ht sẽ chụp hình và gửi cho Bác và Anh sau.Cám ơn Bác và Anh.
  16. [/img] Con xin đưa vị trí nhà con từ Google Earth.Xin Bác Thiên Sứ và anh Hùng giúp dùm.
  17. Anh Hà Mạnh Hùng ơi ! Hoài Thương biết là anh bận nhưng xin anh dành chút giúp Hoài Thương với.Cám ơn Anh nhiều
  18. Chào chú Phúc Anh! Cháu tên là Ngô Nguyễn Trúc Hà sinh ngày 08/05/1987(dương lịch). Kính mong chú có thể dành chút thời gian chỉ bảo cho cháu. Cháu xin cảm ơn.Chúc Chú luôn hạnh phúc trong cuộc sống.
  19. Chú Phúc Anh ơi ! Cháu còn có 1 tên gọi ở nhà là Ngô Hoài Thương.Liệu tên đó có tốt hơn tên hiện tại không Chú??? Chú xem giúp dùm Chị cháu tên là Từ Thị Hoàng Yến sinh ngày 22-10-1976 và Tô Thị Hồng Yến không nhớ ngày sinh ngày nào chỉ biết sinh năm 1970. Ngô Nguyễn Diễm Hà sinh ngày 24-12-1988. Nguyễn Hoàng Nhật Tiến sinh ngày 6-4-2007 ( Dương Lịch). Cháu cám ơn Chú rất nhiều
  20. Cám ơn Bác đã giúp cháu hiểu.Và cháu cũng xin nhờ Bác coi năm sau nếu cháu đổi chỗ làm có tốt không???Mong tin của Bác.
  21. Bác Lão Nông ơi!Cho phép Cháu hỏi đôi điều,theo như Bác nói kết quả trong 1 lá số tử vi do thân chủ của nó quyết định ra sao phải không ạ?Liệu nếu cháu quyết định năm sau sẽ chuyển chỗ làm có tốt hay không Bác?Và nhờ Bác coi dùm cháu trong gia đình cho sự chia tay của ai không(ly hôn chẳng hạn)? Cháu cám ơn Bác
  22. Nhà em bây giờ định giữ lại 4 bức tường chính mà thôi,và nhà em còn tính xây gác suốt có 2 phòng chứ không phải gác lửng như bây giờ.Mong anh dành chút thời gian xem và giúp dùm em.Cám ơn anh.
  23. Cháu xin chào Bác Lão Nông!Cháu xin phép trả lời những câu hỏi của Bác. Cháu đang làm công nhân tạm thời cho 1 công ty may nhưng đó không phải là ngành cháu học.Cháu học ngành đồ họa.Cháu dự tính năm sau sẽ đổi chỗ làm,liệu có được không Bác? Dạ theo đúng như lời bác nói đời ông nội và ba của cháu đều có 2 vợ,còn bên ngoại thì chỉ có dì Hai của cháu là có 2 chồng,những việc đó có liên quan gì nhiều đến cháu không ạ? Cháu xin cám ơn Bác Lão Nông tư vấn cho cháu.
  24. cám ơn anh rất nhiều.