NguNhuBo
Hội viên-
Số nội dung
36 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by NguNhuBo
-
VĂN TƯ TU Lục Căn - Lục Trần - Lục Thức (Trích bài luận của Cư sĩ Minh Tùng đã cho free download) Vì chúng ta bị si mê nên tạo ra căn nghiệp và chính những nghiệp lực nầy đã lôi kéo chúng ta đi vào vòng luân hồi sanh tử. Những nghiệp căn nầy đã dẫn dắt chúng ta trèo lên tuột xuống trong sáu nẽo luân hồi. Do đó nếu muốn hết sanh tử, thì chúng ta phải phá tan cái nghiệp nầy. Nhưng muốn dứt bỏ được cái nghiệp, thì trước hết chúng ta phải chinh phục nơi tâm mình, và phải dẹp bỏ vọng tưởng. Nhưng từ trước đến giờ chúng ta thường hay lầm vọng tưởng là tâm của mình. Chính sự lầm lẫn sai lạc này nên các vọng tưởng dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Vậy vọng tưởng phát xuất từ đâu? Khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có: ¨ Nhãn là mắt, dùng để nhìn. ¨ Nhĩ là tai, dùng để nghe. ¨ Tỷ là mũi, dùng để ngửi. ¨ Thiệt là lưỡi, dùng để nếm. ¨ Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh.. ¨ Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt. Chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu là hiện tượng, vật thể, biến đổi không ngừng cũng như chi phối từ tư tưởng đến hành động của chúng ta từng giây từng phút và chúng ta gọi nó là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là buị, mà đã là bụị thì dơ bẩn và luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật chung quanh con người. Chúng ta gom lại được 6 trần nên gọi là lục trần: v Sắc: là màu sắc, hình dáng. v Thanh: là âm thanh phát ra. v Hương: là mùi vị. v Vị: là chất vị do lưỡi nếm được. v Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh. v Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên. Khi Lục căn (six sense organs) tiếp xúc với Lục trần (six sense objects), có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoán này được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức (six sense of consciousness). Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao nhân duyên để tạo thành con người trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào? v Sắc: là thân xác của con người. v Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm. v Tưởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm . v Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm. v Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm. Ngũ uẩn tự nó không có được, mà là do nhân duyên kết thành nên tự nó không có tự tánh hay chủ thể tức là vô ngã. Nhưng một khi mà do nhân duyên kết hợp thì nó làm sao cố định cho được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó chưa có, sau khi nhân duyên ly tán thì nó cũng tiêu tan theo. Tâm thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo. Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất. Trong 49 năm hành đạo, tôn chỉ của Đức Phật là dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà mê muội là cội nguồn của tham, sân, si. Chẳng hạn như hôm nay trên đường đi làm về, chúng ta thấy (nhãn căn) một cô gái đẹp lái chiếc xe màu xanh (sắc trần) lạn qua lạn lại trước mắt của chúng ta. Khi về nhà ngồi yên tịnh thì hình ảnh cô gái hiện lên (nhãn thức) làm cho tâm tư chúng ta xao động. Khi mình nghĩ về những hình ảnh củ nầy thì tư tưởng sẽ phát sinh ra si mê. Nếu sự si mê này không được thỏa mãn thì nó sẽ biến thành căm hận và đây chính là lòng sân đã nổi dậy trong tâm của chúng ta rồi. Thật vậy, chính tham, sân, si là đại lộ kinh hoàng để đưa chúng ta vào đường ác nghiệp và làm cho chúng ta mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng: “Khi thấy,nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn”(1). Trong các phiền não, chỉ có sân hận là thô bạo nhất, bởi thế cổ nhân có nói:”Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”, tạm dịch là khi phát sinh một niềm giận hờn tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Tệ hại hơn nữa, một khi tham, sân, si phát khởi, thì dâm, sát, đạo, vọng sẽ phát sinh. Đây là bốn đại ác nghiệp mà người tu Phật phải tránh xa. Phật dạy rằng: “A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm,(2) thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”. Thật vậy, Đức Phật đã tuyệt đối ngăn cấm đệ tử của Ngài về tội gian dâm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay chúng ta hảy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng phát biểu cảm tưởng của ngài khi ngài nói chuyện với tiến sĩ tâm lý học Jack Engler và Giáo sư tâm lý Jean Shinoda Bolen. Chúng tôi xin trích dịch nguyên văn như sau: “Thứ nhất là phần lỗi thuộc về nử Phật tử: Vì họ đã dại dột coi các ông thầy như thần thánh, lầm tưởng mọi hành động của ông thầy đều cao thượng, nên tỏ ra tuân phục, cưng chìu các thầy quá đáng, làm cho họ hư hỏng. Điều quan trọng là đừng nên vội vàng coi ai là thầy của mình. Vì đó là mối liên hệ rất quan trọng. PhảI đợi một thời gian dài, có khi cần đến 10 năm, hay lâu hơn thế nữa, để quan sát cách xử sự, cách giảng dạy, khả năng tu hành của kẻ ấy cho thật chính xác. Trong thời gian đó ta chỉ nên coi họ như một người bạn thiện trí thức mà thôi. Không nên tin cậy gì nơi họ hết thảy. Nếu Phật tử thấy ông thầy nào hành động bất xứng, không hợp đạo lý, có quyền phê bình ngay những hành động đó. Trong kinh sách, Phật đã dạy rất rõ là : Ta chỉ nên theo học người thầy có tư cách đàng hoàng. Kẻ nào bất xứng , nói những điều trái đạo lý, hành động gian tà, người Phật tử phải lánh xa ngay. Tóm lại, người Phật tử có trách nhiệm không để bị lôi cuốn vào con đường tội lỗi. Còn về phía tăng sĩ thì Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói tóm tắt như sau: Về phía người thầy thì họ phải chịu trách nhiệm về những hành xử của mình. Nếu người thầy mà để cho Phật tử quyến rũ vào con đường bất chính, thì người đó đã tỏ ra thiếu nội lực, thiếu nhân cách của kẻ tu hành. Trong khi rao giảng Phật pháp và nhân danh một kẻ tu hành mà chính ông thầy lại phạm những lỗi lầm mà ông ta thường khuyên kẻ khác nên tránh, tức là ông ta đã phản bội công việc mình làm. Thật là một điều đáng xấu hổ.” Khi nói về lòng sát hại, thì Phật lại dạy rằng: “A Nan, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tu bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thật lớn, mà muốn cho mọi người không nghe thì không thể được”. Còn vấn đề trộm cướp, thì Phật dạy rằng: “A Nan, nếu không đoạn trừ trộm cướp, mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót nước vào chén bể mà muốn cho đầy, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được”. Sau cùng, Ngài thuyết giảng về vọng ngữ: “A Nan, nếu các chúng sinh, đã giữ hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi mà còn đại vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất hạt giống Phật. Đại vọng ngữ có nghĩa là chưa đặng đạo mà dám nói mình đặng đạo, chưa chứng quả mà nói mình chứng quả. Đối với người đời hay khoe: Ta đã chứng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, hay Phật, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu hạt giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Da La khi bị chặt đứt cội rồi, thì không thể mọc chồi đâm tước được”. Ngoài ra, còn mối tham nhiểm ăn sâu vi tế mà chúng ta cũng cần lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền nhỏ không làm cho tham, nhưng với số bạc lớn khiến cho người phải động tâm. Cũng như sắc đẹp tầm thường thì dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt sắc sẽ làm cho người mê lụy. Cho đến các vị tu hành mà còn ham thích chuổi tốt, tượng đẹp, hoặc cảnh lớn chùa to, thì cũng thuộc về tâm tham nhiễm. Chúng ta phải nhận thức rằng lục căn, lục thức và lục trần đều là những pháp giả dối, không thật. Thế nhưng lục căn (nội thân) vì có thói quen tiếp xúc với lục trần (ngoại cảnh) bởi vì lục trần luôn luôn có sức hấp dẫn làm lục căn bị mê hoặc. Do đó khi lục thức (ý niệm và tư tưởng) được phát sinh thì trong tâm của chúng ta chất chứa toàn là vọng tưởng, thay đổi không ngừng. Muốn cho lục căn không bị ngoại cảnh (lục trần) cám dỗ thì chúng ta phải giữ cho tâm được hoàn toàn thanh tịnh và loại bỏ mọi chấp trước thì vô minh và vọng tưởng sẽ bị tiêu diệt. Nhớ lại ngày xưa trước khi Đức Phật chứng quả Niết Bàn thì chính Ngài cũng phải chiến đấu ngày đêm với bọn Ma vương. Trong thì có ngũ uẩn ma, pháp hành ma, tứ diệt ma, còn ngoài thì có chư thiên ma. Thật vậy, chiến đấu trong nội tâm thì vạn phần khó hơn là chiến đấu ở ngoại cảnh, vì nếu mình giữ lục căn được trong sáng, thì dầu cho lục trần có quyến rũ, hấp dẫn cách mấy, cũng không thể nào thay đổi được minh tâm của chúng ta. Một trong những phương pháp để giữ tâm được trong sạch là thực tập pháp môn “bát chánh đạo”. 1) Chánh kiến: là thấy, nghe, hay biết một cách ngay thẳng. 2) Chánh tư duy: là suy nghĩ, xét nghiệm chân chính. 3) Chánh ngữ: là nói chân thật, công bình và hợp lý. 4) Chánh nghiệp: là hành động đúng với lẽ phải, có lợi ích cho chúng sinh. 5) Chánh mạng: là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện. 6) Chánh tinh tấn: là siêng năng làm những việc chánh nghĩa. 7) Chánh niệm: là nhớ các điều tội lỗi đã làm để thành tâm sám hối và làm bất cứ việc gì cũng nhớ đến hậu quả việc làm của mình. 8) Chánh định: là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng. Tóm lại, chúng ta thấy hậu quả vô cùng tai hại do vọng tưởng sinh ra, nó là cội nguồn của tất cả mọi nghiệp báo để cột chặt chúng ta vào bể khổ của luân hồi. Do đó chúng ta phải sáng suốt dùng trí tuệ để đánh tan mọi vọng tưởng, vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta. Thêm nữa, nước từ bi mát mẻ sẽ rưới tắt lửa phiền nảo. Tâm nhẫn nhục là áo giáp bền chắc chống lại tất cả mũi tên tam độc. Phật pháp là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Với những tâm niệm nầy, chúng ta nhứt quyết loại trừ tất cả dục vọng để tăng trưởng sức mạnh ngõ hầu đánh đổ bánh xe luân hồi cay nghiệt để tìm về nơi Cưc lạc. “Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đứcMuốn hạnh Bồ tát đạo, giữ thân tâm thanh tịnh”. Thế nào là thanh tịnh pháp thân? Phật dạy:”Thanh tịnh pháp thân là chơn tánh thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân. Tại chổ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong cõi trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh và tại chổ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân”. Nguyên nhân của sự đau khổ bắt nguồn từ bản ngã vì nó vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh ra các tham vọng, ái dục. Cập nhật cuối (Thứ 4, 14 Tháng 10 2009 23:35) Ghi chú của NNB: - (1) Niết bàn ở đây phải hiểu là thời điểm và không gian mà người tu đang ở và tại đó dứt phiền não, nó không phải là một cỏi nào ở đâu xa xôi, mà chính ở tại thế gian nầy. -(2) Ai tu thiền mà không đoạn được lòng dâm dục, ( giới thứ nhất của thiền sinh); thì chẳng bao giờ tới đại định, nếu lở có tới đại định cũng bị tẩu hỏa nhập ma.!
-
Bản kinh chữ Hán Việt là kinh nhật tụng của các chùa., các sư Việt còn gọi là KINH TINH HOA TRÍ TUỆ Quán Tự tại thực hành trí tuệ Bát nhã ba la mật sáng ngời Bấy giờ Bồ tát sáng soi Thấy rằng năm uẩn ba đời đều không...O Vượt tất cả các vòng khổ ách, Hãy nghe nầy Xá -Lợi Phất ông! Sắc nào có khác gì không, Không nào khác sắc , sắc không vốn đồng. O ........... ........... Nếu chỉ tu theo tứ niệm xứ thì chẳng bao giờ đắc được quả vị Phật, vì cuối cùng của pháp tu nầy chỉ giúp người tu tới bậc A La Hán, đoạn được tham sân si, có thánh trí, mà chưa có huệ trí hoặc liễu trí.Do đó bậc A La Hán vẫn còn phải tiếp tục tu tiếp. Tâm kinh nầy giúp người ta phá mê lầm chấp vào các pháp tu như ngày xưa các sư thầy cho bùa cho phép để các đệ tử tu và sẽ thành Phật, thì ngày nay LHC của PLC công cũng nói , ai tập bộ công pháp nầy vài ba tháng sẽ có một bộ khí cơ vô hình mà pháp thân của sư phụ gắn vào cho từng đệ tử ở vị trí bụng dưới người tu, nó có hình giống như bánh xe pháp mà người đã mở nhãn sẽ thấy được, bộ khí cơ nầy nó ở không gian khác, không phải là vật chất hữu hình, giống như linh phù mà các đạo sư đã cấy vào các đệ tử ngày xưa vậy!Giống như thư ếm vào người ai đó, có linh phù nầy , khi chết họ sẽ qua được cổng Phật và trực chỉ niết bàn. Đọc tới phần nầy , tôi cho rằng thật sự chẳng có ai gắn vào cho người tu cả, mà tự thân cái luân xa của họ nó quay nhanh hơn trước mà thôi, do đó ngoại trừ thế thứ 5 ngồi thiền không nên tập, thì pháp nầy giúp người tập thể dục rất tốt cho sức khỏe, do đó người ngoại quốc rất thích , nhưng lại không tu theo tiêu chí của PLC, tức không xem PLC là một đạo để tu, mà chỉ là một phương pháp tập thể dục buổi sáng mà thôi. Đây chính là nằm ngoài mong muốn của LHC .Tất cả những điều ông nói ra thuộc về pháp thấp hơn của Phật ngàn lần, mà điều nào của LHC cũng đều là điều mà Phật nói , nhưng được đặc câu cú lại mà thôi. Phật nói con người cần phải biết Tham Nhẫn để nhận chịu quả nghiệp tiền kiếp hay hiện kiếp, thì LHC cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng Chơn Thiện Nhẫn. Phật nói người tu là phải giữ chơn tâm mà tu, tu là phải tu thật không phải tu giả, phải hành theo thập thiện xa rời ác pháp , thì LHC cho là cần phải CHƠN CHÁNH THẬT THÀ, HÀNH THIỆN. ................
-
@Rubi: Vấn đề nầy cũng chẳng phải là quảng cáo, vì quảng cáo thì người PR sẽ thu được lợi ích mà người dùng có thể có lợi hay có hại. Còn vấn đề tôi nêu lên thì người nghe kinh nầy thập phần có lợi,mà chẳng có hại gì.Vì kinh nầy nó là nền tảng của khoa Phật học tránh sự mê tín , cầu sự chánh giác để giác ngộ vô thượng bồ đề. Tuy vậy, kinh nầy không dễ hiểu nếu không có người giải nghĩa bằng sự không thiên vị, bằng tinh thần dựa vào sự nhiệm mầu của Phật pháp nhưng không huyền bí không mê tín, bằng sự minh triết và không phải ai cũng có thể chỉ ra được, kể các các đại sư thời xưa vì thời nay đã khác xa rồi, dù rằng trong 49 năm Phật thuyết pháp thì Đức Thích Ca để ra 22 năm đầu tiên thuyết kinh nầy và chính lục tổ Huệ Năng cũng tiếp tục dùng cho phái thiền của Người. Do đâu mà con người đau khổ, do ÁI (có nghĩa là thích, yêu) từ đó mong muốn chiếm hữu ( DỤC, muốn thỏa ước vọng, muốn chiếm lấy làm của riêng), Nếu ÁI quá mạnh bất chấp ý kiến của những người có kinh nghiệm góp ý khuyên bảo thì đó là SI khởi, đa số tâm THAM tâm SÂN đều có SI khởi hay còn gọi là có căn SI, nếu rời bỏ ÁI DỤC, con người sẽ thoát khỏi phiết não tức niết bàn tại thế giới ta bà. Hãy sáng suốt trí tuệ mà bơi sang bờ bên kia. ________________________________________ Bản tụng Hán Việt:Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. -ooOoo- Bản dịch nghĩa: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!) -ooOoo- Bản phổ thơ: -ooOoo- Phổ thơ lục bát: (Ðây là một bài phổ thơ từ một vị tu sĩ thuộc hệ phái Khất Sĩ) Khi hành Bát Nhã Ba La Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng Thấy ra năm uẩn đều Không Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua Nầy Xá Lợi Tử xét ra Không là sắc đó, sắc là không đây Sắc cùng không chẳng khác sai Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào, Cũng như sắc uẩn ,một màu không không Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng Không không tướng ấy, đều không tướng hình Không tăng giảm, không trược thanh Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng Vậy nên trong cái chơn không Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh Từ không giới hạn mắt nhìn Ðến không ý thức, vô minh cũng đồng Hết vô minh, cũng vẫn không Hết già, hết chết, cũng không có gì Không khổ, tập, diệt, đạo kia Trí huệ chứng đắc cũng là không không Sở thành, sở đắc bởi không Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng Tâm không còn chút ngại ngăn Nên không còn chút băng khoăng sợ gì Ðảo điên mộng tưởng xa lìa Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ Ba đời chư Phật sau, xưa Ðắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng Trí huệ năng lực vô ngần Ðại Minh vô thượng, Ðại Thần cao siêu Trí huệ năng lực có nhiều Thật là thần chú trừ tiêu não phiền Trí huệ năng lực vô biên Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn Liền theo lời chú thuyết rằng: Ðộ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh. Yết đế, yết đế Ba la yết đế Ba la tăng yết đế Bồ đề Tát bà ha -ooOoo- Bản dịch Việt: (Thích Tâm Thiện, Sài Gòn, 1998) Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng 1. Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng (1), Người Tỉnh Thức Bình Yên (2) soi sáng như thật rằng tự tịnh của năm hợp thể (3) đều là Không (4), liền thoát ly mọi khổ ách. 2. Này người con dòng Sari (5), hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể. Hình thể là chân không, chân không là hình thể. Cảm xúc (6), niệm tự (7) và tư duy (8) và ý thức (9) đều là như vậy. 3. Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không, nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm. 4. Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức (10); không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, xúc chạm (11) và hiện hữu (12). Không có đối đượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh (13), không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau và không có con đuuờng đưa đến sự chấm dứt khổ đau (14); không có tri giác (15) cũng không có sự thành tựu tri giác, vì chăng có quả vị của tri giác nào để thành tựu. 5. Người Tỉnh Thức Bình Yên, do sống an lành trong Tuệ giác vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. 6. Tất cả chư Phật trong ba đời (16) đều nương tựa vào Tuệ giác vô thượng mà thành tựu (17) chánh giác. 7. Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần (18) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng: "Ði qua, đi qua Ði qua bờ bên kia, Ðã đi qua đến bờ bên kia, lành thay!" Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha (Theo tôi câu nầy có nghĩa, đi qua đi qua qua nữa đi! Hãy qua nữa cho tới bờ chánh giác bồ đề lành thay!) Thân
-
Các bạn có bao giờ nghe "bát nhã ba la mật đa tâm kinh " chưa?
-
Tâm thanh tịnh sẽ có tha tâm thông.Tha tâm thông đơn giản nhất là biết tâm ý của họ bắt đầu khởi, dù cho họ là người nước nào dùng tiếng nước nào mình cũng có thể nắm được tâm ý c3ua họ qua cái ngôn ngữ của bản thể. Có hai loại, loại đối diện cận tha tâm thông và loại ở xa loại ở xa gọi là viễn tha tâm thông .
-
Trước khi trả lời , Ngu như Bò tôi xin trích hai tin sau đây: -Vào năm 1980, tai Phúc Kiến có một cậu bé chăn trâu nói với con trâu rằng: “Ngày mai mày sẽ bị bán cho người làm thịt.” Con trâu lập tức chảy nước mắt và quỳ hai chân trước xuống. Cậu bé chăn trâu nói cho cha mẹ và mấy người quan chức địa phương đến xem, sau đó trâu quỳ xuống và xin được tha mạng. Mọi người đều thương xót, quyên góp một số tiền để mua con trâu đó và đưa trâu đến một tu viện để phóng sanh. Sau khi trâu đến tu viện, trâu rất thích nghe giảng kinh và lạy Phật. Mỗi khi thấy những người tại gia đến tu viện, trâu thường lạy cảm ơn họ. Vào cuối cuộc đời, trâu biết trước giờ mất, nó đi chậm chạp ra đồng và nằm xuống. Sau nữa ngày thì trâu vãng sanh. Đó là vào ngày 13 tháng 10 âm lịch năm 1993. Trâu được chôn tại chỗ nó mất. Vào năm 1987, một con két lông xanh, mỏ đỏ tử Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên được mang đến Chùa Bảo Đậu ở Nội Mông. Bởi vì con két này ngu si không nói tiếng người được, và mổ cắn vào những người tìm cách huấn luyện nó, nên là con két này ít được ai ưa thích. Cuối cùng con két được đem cho Lão Cư Sĩ họ Vương để nuôi. Cả nhà Cư Sĩ họ Vương đều là Phật tử thuần thành, ưa thích đủ loại động vật và thú vật nhỏ. Họ nuôi trong nhà nhiều chó, mèo, dê, bồ câu bị người ta ruồng bỏ. Sau khi con két vào gia đình này, nó nghe băng niệm danh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bỏ Tát được mở suốt ngày, và tánh tình của nó trở nên dịu hiền hơn. Nhiều tháng sau, con két mà trước đây không học nói được gì cả, nay bắt đầu niệm danh hiệu Phật! Nó niệm “Nam Mô A Di Đà Phật! A Di Đà Phật, Phật, Phật! Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Quán Âm Phật!” v.v… Giọng của nó rất rõ ràng và dễ nghe.Thường nó nói thêm “Niệm Phật lẹ lên! Anh niệm Phật! (Anh là tên riêng của nó), A, Niệm Phật đi!” Mỗi ngày khi chủ của nó tụng kinh sáng và tối, con két thường đi theo. Bất cứ khi nào có người tụng kinh hay niệm Phật trong Phật đường của nhà họ Vương, nó đều tham gia. Ngay cả khi chủ của nó niệm thầm trong tâm, con két cũng biết và niệm lâu giống như chủ. Điều kỳ lạ nhất là ngoài việc niệm danh hiệu Phật, không ai có thể dạy nó nói điều gì khác. Gia đình họ Vương đón tiếp nhiều người đến nhà cùng tụ tập với nhau, và hàng ngày có nhiều tiếng nói chuyện trong nhà. Tuy nhiên con két không bao giờ học những câu thông thường như “Ông khỏe không? Xin mời ngồi.” Là những câu người ta cố gắng dạy nó. Nó chỉ nói “Niệm Phật đi! Nam Mô A Di Đà Phật!” Một ngày nọ vào tháng 5 năm 1998, con két bị cái gì đó làm cho sợ sệt và sau đó ngừng ăn. Nó bị tiêu chảy liên tục cho đến ngày hôm sau. Khi gần cuối cuộc đời, nó cùng niệm danh hiệu Phật với chủ, và người ta có thể nghe tiếng niệm yếu ớt “Nam Mô A Di Đà Phật” từ trong cổ họng của nó. Sau khi vãng sanh, cơ thể nó vẫn mềm mại và lông vẫn sáng giống như đang còn sống. Cư sĩ họ Vương và cả gia đình ông niệm cho nó suốt 12 giờ đồng hồ. Họ mời một vị Lão Pháp sư từ Ngũ Đài Sơn đến chủ trì lễ hỏa táng, hơn một trăm người cư sĩ nghe biết và đến tham dự. Đó là một buổi lễ trang trọng. Sau khi hỏa thiêu, người ta tìm thấy lưỡi của con két vẫn còn nguyên vẹn và hơn 20 xá lợi trắng như ngọc với những đốm đỏ li ti, cùng nhiều chục xá lợi tử. Câu chuyện này, cùng với nhiều câu chuyện khác về những con vật trong Phật giáo, cho thấy rằng từ sinh vật khôn ngoan nhất đến sinh vật ngu si nhất tất cả đều có thể được lợi ích của việc niệm danh hiệu Phật. Câu chuyện này cũng cho thấy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể trở thành Phật. __________________________________________ Gần đây tại VN cũng có nhiều cư sĩ , phật tử được vãng sanh, số nầy còn nhiều hơn cả sư các chùa nữa.Có một số vị chuyên đi hộ niệm, đang lúc hộ niệm cho người sắp hấp hối, họ cũng cho người quan sát , và đo đạt nhiệt độ bằng hồng ngoại, thấy có dấu hiệu hơi nóng chuyển từ bụng lên ngực và lên đầu của người chết, sau đó có nhiều ánh sáng lạ chiếu vào chổ nằm mà không thấy nguồn sáng phát ra từ đâu, có mùi thơm của hoa,hoặ trầm hương, người chết kỵ giờ liệm để tới 30tiếng đồng hồ sau khi chết mới liệm , tay chân dẽo quẹo, khiến mấy đạo tỳ hết hồn. --------------------- @Liêm trinh: con gà là con gà, con bò là con bò, con gà tu chưa cao nên còn ăn sâu bọ kiến nên nghiệp nhiều hơn con bò ăn cỏ, con gà chỉ có đi xuống, còn con bò có khả năng đilên thành người . Không có giới nào chết thì vào cỏi nào, chỉ có người có phước nhiều hay phước ít, có thân tâm thanh tịnh hay chưa thanh tịnh, nếu thật sự thanh tịnh thì về cỏi tịnh độ , nếu chưa thật sự thanh tịnh, nhưng đức A Di Đà thấy tâm bất thối chuyển , thì chiếu theo 48 bổn nguyện của Ngài, ngài cho về cỏi tịnh độ ở phẩm thấp nhất là HẠ-HẠ, họ sẽ có cuộc sống ngủ mãi ngàn năm trong hoa sen chủng tử, cho tới khi hoa sen nở ra thì đã quên sạch chuyện luyến ai trần lụy rồi, sau đó nghe chư Phật thuyết pháp mà tiếp tục tu, nhưng lúc đó thì họ cũng vẫn còn mang theo nghiệp mà vãng sanh, theo luật trời thì không thể được, anh không thể giết người ở kiếp trước,rồi đi tu bỏ trốn trả nghiệp được, do đó họ lại tiếp tục xin xuống thế để trả nghiệp và độ chúng sinh,độ cho những người mà họ đã gây nghiệp giúp họ pháp tu để họ vãng sanh thì có thể họ sẽ quên báo thù, những người nầy vẫn có pháp thân ở cỏi tịnh độ, nhưng ứng hóa thân thì là người.....và người ta gọi những đứa trẻ nầy là có căn tu..... @Rubi: mình đã gọi mình Ngu như bò thì còn sợ ai chê mình ngu nữa, chỉ sợ họ khen thôi, vì Phật đã không nói ai khen ta là kẻ đó hại ta hay sao?Ai cũng nghĩ đã tu là nghiệp không thể tới được, không phải đâu! bạn có thể tịnh hóa nghiệp nhỏ của quá khứ, nhưng nghiệp mà đã kết thành cây thành trái, thì chỉ có nước chờ hưởng quả thôi.Nhiều vị tu mật tông hiểu được điều nầy nhất, vì tu mật tông ít nhiều chi cũng có thể thông thiên địa được, có thể lập đàn để xin cho người mà mình quý mến giản nghiệp, các vong hồn muốn báo nghiệp bị ngăn cản, họ kiện tới trời, rốt cuộc nhiều thầy chết rất trẻ chưa tới 50 đã viên tịch, công đức của các Thầy thật vô lượng cho chúng sinh, nhưng vì thiếu cái huệ trí nên đành phải trở lại kiếp khác làm lại. ======================== Tại sao tôi nói PLC không thể đưa người tu lên cỏi tịnh độ? vì họ tập cho học viên mong cầu thần thông, và phát chánh niệm đối phó với đời thường, như vậy thân tâm có thanh tịnh hay không? Khi không thanh tịnh tham sân si còn đầy thì lên cỏi tịnh độ ai chịu! Do đó họ chỉ có thể ở tầng atula hay ở tầng trời của cửu huyền hay chư thiên phạm thiên mà thôi, sài hết phước cũng rớt về cỏi người trở lại ....
-
Mục đích của tu theo Phật là gì? Vì sao phải học Phật? Nếu không phải với mục đích muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi thì chẳng cần phải tu theo Phật. Ai đã từng đặt câu hỏi ta là ai? khi chết ta đi về đâu?Nếu ăn ở hiếu để với cha mẹ làm phước lành tránh dữ , sau khi chết chết có thể tránh được 3 đường ác đạo là thú- quỷ - địa ngục có khả năng lên cỏi trời- atula hoặc trở lại làm người. chỉ có thân tâm thanh tịnh. tịnh hóa nghiệp chướng, tiêu trừ ác nghiệp tu theo phước tu theo huệ , thì mới vãng sanh về cỏi tịnh độ A Di đà, nhưng những người nầy lên đó cũng cảm thấy mình vẫn còn mang theo nghiệp chướng (đới nghiệp vãng sanh)mà vãng sanh, hàng ngày nghe Phật giảng pháp tự cảm thấy mình chưa đặng bình đẳng với chúng sanh mà mình đã gây nghiệp với họ, họ cũng xin được trở lại làm người với pháp thân ở cỏi Phật, và làm bồ tát để độ chúng sinh, đồng thời trả nghiệp hay tịnh hóa nghiệp của mình. Để tiện cho các học viên PLC tham khảo tôi xin trích dẫn 6 cỏi luân hồi như sau: LỤC ĐẠO Trời Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật : Tu phước nghiệp chi đặng sanh thiên đường? Đức Phật nói : Nếu có chúng sanh tin theo nhân quả, thọ tam qui, ngũ giới, tu mười việc lành, hiếu dưỡng cha mẹ , dứt đoạn tà dâm, thường giữ chánh đạo, trai tăng cúng dường, tạo lập tịnh xá dâng cúng cho các vị chân thật tu hành giới đức trang nghiêm, bố thí phóng sanh, ấn tống kinh đại thừa, sơn phết hình tượng Phật rực rỡ, ủng hộ người lành, ngăn ngừa việc ác, gieo trồng ruộng phước, đến chừng mạng chung được sanh về ba mươi ba cõi trời, thọ hưởng phước trời năm dục vui đẹp, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, đều là tự nhiên hóa ra , chẳng dụng sức người tạo tác. Trên trời một ngày, nhơn gian trăm năm, đầy đủ năm pháp thần thông, đặng khoái lạc tiêu diêu thong thả. Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng :Trong thế gian có người tà sư ngoại đạo, chẳng biết việc lành, việc dữ nhơn quả ra sao, chẳng hiểu được sự ứng hiện của luân hồi quả báo, tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến, tôn thờ thần, quỉ , làm theo pháp tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao nhiêu thân mạng, sanh linh: heo, dê, trâu, ngựa v v… tham ăn rượu thịt, bày đặt gọi là cúng tế trời đất, quỉ thần đặng cầu phước, cầu thọ , trấn giữ nhà cửa thân mạng, lấy cớ dâng cúng quỉ thần , lường ăn của người, lại thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng : Bùa chú này có năng lực độ người sanh về cõi trời, bởi ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân sống đều do tà kiến sanh ra. Như giết mạng mà cứu được mạng thì vương hầu thường sống dời dời không chết. Như vẽ bùa niệm chú mà cứu độ đặng người thành đạo thời thầy tà đặng lên trời, có lẽ đâu như vậy? Trong đời người mê tin những tà mị, đồng dẫn nhau vào địa ngục. hễ mất thân người, muôn kiếp khó trở lại. Cớ sao vậy? Cầu phước chẳng qua trai giới, bố thí. Cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh. Cầu huệ chẳng qua học rông, nghe nhiều. Cầu an chẳng qua xét ngăn những việc phải quấy. Cho nên muốn cầu đạo chánh thì đừng tin thầy tà, muốn ra khỏi luân hồi thì đừng có phạm luật nhân quả. Bởi sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà với chánh khác nhau, khổ và vui cách biệt. Ngạ quỉ Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì chịu quả báo làm ngạ quỉ? Thế Tôn nói: Những chúng sinh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng, có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí, lại thêm mắng chửi , cứ lo cho mình ấm no, không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trong đường ngã quỉ, chịu đói khổ mãi, cuống hong nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống , cái bụng lớn như cái trống, lớn như hòn núi. Thỉnh thoảng gặp đồ ăn uống , thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi, sắt nóng, đói cho đến nỗi trong miệng ra lửa, lỗ mũi ra khói , hình thể ốm đen, đền đủ tội rồi mới hết nghiệp khổ. Súc sanh: Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh? Thế Tôn nói: Những chúng sinh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi, đờn ca vui sướng, nên phải trả quả làm súc sinh đền, thường mạng trước. Lại có người vay mượn tiền bạc của người, đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật, trả cái nợ cho người, trả hết cái nghiệp đó rồi mới hết nghiệp khổ. Người Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tu những phước nghiệp gì mà đặng làm người đàn ông? Thế Tôn nói: Người biết cung kính Tam Bảo, thảo nuôi cha mẹ , thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở công chánh (công bằng, chánh trực) quí mến người hiền lương. Tu những căn lành như vậy thời đặng làm đàn ông, nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà trong năm trăm năm được làm thân đàn ông một lần. Hoặc khi chuyển dổi cái thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo ngiệp chẳng lành, quên mất thân đàn ông, muôn kiếp khó trở lại. Lại nữa Văn Thù Sư Lợi, thân người đàn ông có đầy đủ bảy báu, thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu ? Một là cái báu có chí khí: đi dạo chơi chỗ nào cúng không lo sợ Hai là cái báu làm chủ: Làm việc gì cũng được nắm giữ quyền hành. Ba là cái báu Tạo thành: tự mình hay sanh tài, lập nghiệp. Bốn là cái báu an thân: Giúp vua, quan an thiên hạ, nuôi dưỡng cha mẹ. Năm là cái báu Thánh Trí: xét đoán việc phải quấy. Sáu là cái báu an bang:khắp cả sự lý dung hòa. Bảy là cái báu Định Tánh: gần gũi người hiền, tôn thờ vị thánh. Cho nên goi là người đàn ông trong mình có bảy báu. Còn sao gọi là năm thứ lậu? Một là chẳng đặng làm chủ cái thân Hai là chẳng đặng làm chủ trong nhà Ba là chẳng đặng làm chủ người khác. Bốn là chẳng đặng làm chủ vật nuôi. Năm là chẳng đặng làm vị thánh. Đây gọi là năm thứ lậu của người đàn bà. A Tu La Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa a-Tu-La ác đạo. Bực trên là A-Tu-La vương, bực giữa là A Tu La dân, bậc dưới là a Tu La nữ. Loài này thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi, một khi phước khí tiêu hết, tùy theo nghiệp luân hồi trả quả. Hễ một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại CÁc vị cứ từ từ mà đọc
-
@ vuong chu: Tôi đã đọc hết kể cả hồng ngâm, tinh tân yếu chỉ I & II, các trang web minhhue và nhiều web liên quan. Tất cả các bài pháp chỉ là dè bỉu các pháp khác xuống , để nâng cái pháp đáng ngàn vàng của mình lên, nhưng trong ruột rổng tuếch. Nó cũng giống như căn nhà xây dựng mà không cần móng, không cần cột vậy, bạn có hiểu điều tôi nói không?Dựa vào đâu mà nói chân thiện nhẫn là sự khai thiên vũ trụ? Dựa vào đâu mà nói đây là thuyết chánh giác (Phật pháp uyên thâm cao diệu nhất )? Tất cả các học viên đều phải nhờ pháp thân của LHC để hộ pháp và che chở, LHC sống được bao nhiêu năm? Khi chết rồi chưa chắc nghiệp mà ông gây ra có bị níu vào cỏi Ngạ Quỹ hay không, đừng nói là tiếp tục hộ pháp.Bạn nên tỉnh lại đi, ngày xưa ở VN cũng có ông Tám Vô vi, rất nhiều trí thức đã tin và theo, rốt cuộc hãy hỏi bạn bè đi, ai đã đạt đạo, tôi nói đạt đạo không nói đắc đạo. Ngu Như Bò tôi đây mà còn biết pháp nầy không giúp con người giải thoát khỏi luân hồi. Muốn thoát khỏi luân hồi mà không muốn vào chùa thì các huynh nên tu theo Duy Ma Cật, 1 kiếp là thành Phật.
-
Tất cả các bài giảng pháp của sp LHC và kể cả tất cả những bài viết của học viên tôi đều đọc qua, thật sự mê tín quá độ!,sở dĩ PLC được nhiều người tập giống như tập thể dục, hơn là tu luyện như môt pháp tu thân cái gì mà tu luyện rồi không tu luyện, thân cũng tự luyện, thật là huyễn hoặc người tu. Tất cả các pháp của thầy LHC chỉ có một mình thầy được nói không ai được nói pháp, đầy là một chuyện buồn cười, thầy tu nhưng chưa chắc bằng trò chưa tu, làm sao biết họ chưa tu? Trong đời nầy không có các vị bồ tát hóa thân hay sao? không có chư Phật hóa thân hay sao? Tôi đã thâm nhập PLC rồi và thấy tất cả tà kiến ! , 4 thế đầu tiên chỉ là dẫn thông khí huyết ,thế thứ 5 là thiền thì chỉ chiêu dụ ma điện vào người mà thôi! Trong bài giảng có đề cập dùng thiền để tạo thánh thai đó các huynh có biết thánh thai là gì không? Buồn cho cái sự vô minh của học viên PLC quá đi!
-
Chủ trương của PLC là thần thông, ma quỹ , phạm thiên, atula cũng có thần thông, nên PLC tương ưng với cỏi ngạ quỹ và cỏi atula (cỏi trời) nhiều hơn cảm ứng với cỏi Phật.Có nhiều người tu sĩ Phật giáo cũng tập theo PLC , sau nầy bỏ tu đạo Phật luôn, vì cho rằng thầy của mình sai, PLC mới là đạo chính đạo, đạo của vũ trụ do ông Lý Hồng Chí sáng lập năm 1994, các vị nghe có buồn cười không? Khi các nhà yoga và các phương pháp thiền cổ xưa nhất cho rằng hai bàn tay của người ngồi thiền cần phải lúp lại thì PLC cho rằng phải chìa ra, rồi đưa hai bàn tay ngang ngực, tất cả những tư thế nầy sẽ giúp "điện ma" vào người , vì "mạch hở", có một thời gian tôi nghiên cứu pháp nầy và tập thử đủ cả 5 thế và ngồi thiền chỉ ba ngày sau là thấy khó chịu , không còn thấy thanh điển của mình từ vũ trụ xuống cột xương sống nữa, và từ đó tôi biết tại sau khi đưa hai bàn tay ra , LHC lý luận là cho trược ra, ông không ngờ rằng, không phải chỉ có trược và còn có thanh khí của mình đi ra theo , và nhân điện của mình bắn ra gây hấn với các ngạ quỹ và các atula đầy sân hận xung quanh, khiến họ phải né và tìm cách chơi lại......, có nhiều khi gặp atula vương đầy sân hận, họ hét 1 phát quý vị chỉ có nước vỡ tim mà nghẽo! Trong các pháp thiền chân truyền người ta phải để gót chân vào ngay huyệt hải để để giữ tinh không cho chạy ngược thẳng lên Quang Nguyên, dù rằng các pháp nầy không hề điều động luồng hỏa hầu, nhưng tới một lúc vô thức nào đó , sự đại định sẽ làm luồng hỏa hầu thức dậy nếu không phòng ngừa như trên thì chỉ có nước tầu hoả ....Do đó các pháp thiền phải có thầy gần bên và phải thiền trong thiền đường để được bảo vệ là vậy Tóm lại một người thầy mới truyền pháp 15 năm có đáng tin bằng vị thầy đã truyền pháp 2500 năm không? Các pháp của ông, chỉ toàn là đả phá pháp của người khác một cách sai lệch, như nhân điện , trường sinh học, khí công, ông nầy chỉ nói về các pháp mà các tà sư luyện còn chính sư thì không nói, chính bản thân PLC là luyện thánh thai đấy, mà thánh thai thì có khả năng chánh nhiều hơn sao? Tỉnh lại đi, có ai chứng đắc PLC sau khi tu 15 năm chưa? Có ai chứng minh được tu PLC là vãnh sanh chưa? Các cao tầng mà LHC nói ở đâu có phải là cỏi tịnh độ hay không, lên đó rồi có còn luân hồi hay không? Chư Phật chắc chăn không ở các tầng mà ông ta nói rồi, vì cỏi thanh tịnh thì có thần thông nhưng không bao giờ phô diễn
-
Thiền của PLC chủ yếu là để tâm trống vắng mà thiền, giống như phái Vovi của ông Tám . .......... Lục tổ nói thiền mà để tâm trống là tà kiến . Ai đúng? LHC đúng hay lục tổ Huệ Năng đúng.? "....Tuy Lục Tổ thấy cái "Không" nhưng không chấp Không, vì cũng còn thấy Tự tánh diệu dụng với năm câu "đâu ngờ ... ". Thấy được Tự tánh mới là mục đích của Thiền tông, chứ không phải chỉ thâm hiểu chữ "Không" là đủ. Trong một bài giảng, Tổ cũng nhắc nhở: "Chớ nghe ta nói 'Không' mà liền chấp 'Không'. Nếu để tâm trống không mà tĩnh tọa là chấp cái Vô ký không.".......... " Năm cái đâu ngờ: "Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ. Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động. Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp."