NguNhuBo

Hội viên
  • Số nội dung

    36
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by NguNhuBo

  1. Bạn nói đúng tôi đó!Tôi rất xem trọng cái ngộ của mình về kinh nầy, vì đã tìm trong tất cả các bài giải , giảng, sớ sao về bát nhã ba la mật đa, tất cả các bản dịch đều là :"Bơi qua! Đi qua", riêng tôi tôi cho rằng không phải có ý nghĩa nầy mà phải là " bỏ qua! bỏ đi!" và tôi cũng ngộ ra một điều là chẳng có bến bờ nào cả , con sông chỉ là huyễn, chẳng có bờ bên đây là ta bà tờ bên kia là tịnh độ , khi thân tâm thanh tịnh thì ta đang ở cỏi tịnh độ trong cỏi ta bà nầy. Cũng như nói về pháp môn niệm Phật tam muội, riêng tôi người sơ cơ chỉ nên tập trung 7 biến hay 21 biến làm một mảng không xen tạp rồi niệm tiếp, kẻ cao căn hơn có thể niệm 100 biến không xen tạp, số biến nầy gọi là mảng, nhiều mảng sẽ kết thành 1 khối, chính như vậy hiệu quả của tiếng niệm Phật mới mạnh mẽ . Còn nói về người tu theo thánh đạo và tu theo Phật đạo, thì tùy duyên, nhưng nếu người tu theo thánh đạo không có chủng tử bồ đề thì là Phật tử ta phải gieo giúp cho họ, để có lúc họ sẽ ngộ ra. Tôi có người bạn tu, ở nhà anh thắp 1 cây nhang vợ cũng không cho, anh vẫn kiên trì tụng, nghe tụng , vợ cũng không cho , thì anh niệm thầm, ròng rã suốt 7, 8 năm trời anh kiên trì và tu như thế, đến một lúc nghe bạn bè nói anh tụng kinh Phổ môn để nhờ Bồ tát cảm hóa vợ mình, anh mang về nhà dĩa thuyết pháp của các đại sự, vợ dành máy để xem phim, anh phài nghe ở giờ ai cũng ngủ hết, tới một lúc, vợ anh mở máy đột nhiên nghe vị sư thuyết về đời , thấy có lý, và nghe hết dĩa đó, xem xong thì ra đó là dĩa số 1, còn dĩa số 2 ở đâu? Chị hỏi anh, và thế là từ đó chị thích nghe, từ từ anh lại thắng nhang được và tụng kinh niệm chú thoải mái. Những người ở nước ngoài rất chú trọng về pháp môn tu niệm Phật tam muội nầy, ráng công tu tướng để lúc hấp hối tinh thần tỉnh táo mà niệm Phật, vì theo bổn nguyện thứ 18 của đức A Di Đà thì sẽ đặng vảng sanh. Hay chí ít cũng tránh được ba đường dữ. Hiện nay tôi cũng chẳng còn cầu pháp nữa, vì pháp của tôi hiện nay là vô pháp. Thân mến
  2. Từ trước tháng 9-2009 tôi chưa hề đọc qua kinh Phật , đây là sự thật, lúc khoảng U 30 tôi theo pháp vô vi, vì lúc đó nhiều bạn bè bs ,ks, kts theo pháp nầy nhiều lắm, tôi cũng nằm trong số đó, sau vài ba năm sau, tôi nhận thấy mình đã lầm đường, vì suốt ngày cứ soi căn cho người này người kia, nhìn vong nhập vào họ....lúc đó mình vẫn chưa có trạch nhãn để xem do đâu mà vong nhập, do nghiệp hay do vong lang thang...., sau đó tôi chỉ dụng tâm đi đứng nằm ngồi tâm tịnh và thiền quán thân, từ tháng 8 năm nay tôi vào các điễn đàn và tham gia luận đạo, lúc nầy tôi mới tra cứu kinh điển trên internet, và đọc các kinh hiểu rất nhanh ( xin lỗi, khi xưa tôi cầm một cuốn kinh lên, chỉ đọc chưa quá 3 dòng là buồn ngủ)Sau đây là nhận định của tôi về Phật pháp: " Vạn pháp do tâm tạo, do đó không thực có duy nhất pháp môn nào giúp cho tất cả chúng sanh chỉ dùng duy nhất nó, mà đi đến giác ngộ, Vì sao? Vì căn cơ , vì chủng tử bồ đề của mỗi người mỗi khác. Có chủng tử lớn có nhỏ có, có cái như hột mè có cái như cái nhà, Cái hay của đạo Phật là học đạo bằng TÂM chứ không phải bằng TRÍ, vì cái mà ta dùng bể suy luận đúng sai chánh tà chẳng qua đó chỉ là TƯỞNG TRÍ. Hay nói cách khác cái mà mọi người chúng ta đều gọi nó là TRÍ, vì nhờ sống lâu ngày có kinh nghiệm, suy xét kỹ lưỡng hơn người khác, vì nhờ đọc nhiều sách biết cách sắp xếp và biện luận, vì rằng chúng ta đã học qua các phương pháp quy nạp, các phương pháp loại suy, các phương pháp phản biện…. Tất cả những cái đó nó chỉ ra cho ta việc đó là đúng hay sai là chánh hay tà, theo các quy chuẩn mà tự ta hay nhiều người cho là đúng để làm chuẩn mực mà so sánh. Còn học đạo bằng tâm thì sao? TÂM không cần phân biệt đúng sai , chánh tà, nó là cái mà trong điện tử số (digital electronics) gọi là “trạng thái thứ ba” là trạng thái không xác định, hay “chẳng cầu xác định”, vì sao ư? Nếu ai chưa nghe bài kệ nầy, thì xin hãy nghiền ngẫm nó: "Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ. Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động. Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp." Và lời kết : "Chẳng nhận được bản tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm, thấy được bản tánh, tức gọi là Trượng phu, là Thầy cõi trời, cõi người, là Phật." Chính vì thế mà Đức Bổn sư có nói rằng ta chưa hề thuyết pháp, vì sao? Ngài nói cái tâm của chúng sanh, nó là thường hằng mà chúng sanh không biết có nó, cũng như có người kia, làm thức ăn xong giắc con dao phía sau cánh cửa, khi mở cửa ra dao bị che khuất, và đi tìm , có ai đó nói: -Tôi thấy con dao của chị sau cánh cửa đó. Vậy nếu ai nói ra sự thật đã có, đã hiện hữu ,người đó có phải là thuyết hay không? Nếu ngài nói về cái tâm nào đó thì có đúng cho mọi tâm của chúng sanh hay không? Do đó mới có vạn pháp, và tùy cái tâm chúng sinh mà Ngài thuyết, và quả thật không có duy nhất một pháp nào cả, có cái thì phải dùng hình tượng để thờ gọi là hữu vi pháp, có pháp thì chẳng thờ tượng gọi là vô vi pháp, có pháp thì nương nhờ vào Phật lực gia trì gọi là mật pháp…..Từ đó các pháp chỉ là huyễn, nhưng pháp mà tôi đang hành trì đây phù hợp với cái tâm của tôi, nên tạm gọi là pháp . Chỉ duy nhất có một pháp môn niệm Phật tam muội liên tục, không gián đoạn,pháp nầy luôn luôn phù hợp cho từ người thượng căn ,tới kẻ hạ căn, từ người thượng trí tới người ngu ngốc, tất cả đều có thể hành trì và có thể đi tới vô thượng bồ đề.Pháp nầy phù hợp với tất cả các tâm của chúng sanh, thật bất khả tư nghì trong thời mạt pháp nầy. Mấy dòng trên đây có thể không hợp với tất cả các vị, vì sự cảm nhận của tôi về đạo Phật là như thế. Mong muốn cùng với chúng sinh sớm thành Phật đạo trong hiện kiếp , không phải là ÁI -DỤC, mà là NGUYỆN, vì khi tu tập công đức thì pháp của tôi là hồi hướng tất cả các công đức đó cho chúng sanh 6 cỏi luân hồi và mong cầu cho mình và chúng sanh cùng hoàn thành Phật đạo , khi bỏ báu thân nầy thì sẽ về cỏi tịnh độ, hoặc có kết quả làm người để độ sanh tiếp tay với các vị bồ tát. Đây là hạnh NGUYỆN, không phải là ÁI-DỤC như bạn nghĩ đâu.Chưa ai thấu đạt được ý nghĩa của Bát nhã Ba La Mật đa Tâm kinh bằng tôi khi đọc câu: "Bỏ đi! bỏ đi! cho nó ở lại bờ bên nầy, còn ta phải sang bờ bên kia kìa! mới là trí tuệ, mới là giác ngộ bồ đề, lành thay!" ( Gatê ! Gatê! paragatê Parasamgate Bodhi svaha) Con người hay nương vào hiện tượng rồi chấp vào nó, thường không bỏ qua cái gì kỳ diệu hay đặc thù, thì câu nầy của Phật chính là :tất cả những gì mà nhà ngươi cho là có thì thật ra nó không có, chẳng có gì là chứng đắc và cũng không có gì là không chứng đắc, vì thế Ngài khuyên người tu hãy bỏ đi! bỏ cái phàm ngã của mình để thấy cái chơn ngã, bỏ cái phàm tâm để thấy cái tự tánh, và tất cả những thần thông, những sự chứng nghiệm cũng chẳng phải là cái mới gì, mà nó đã có hiện hữu trong ta từ vô thỷ , và nó thường hằng ,không sinh không diệt, nhưng vì tự tánh chưa hiễn lộ nên nó không thể phơi bày.Khi bạn kiến tánh thì lập tức tâm thức của bạn trở nên sáng suốt tột cùng, mà chính bản thân của bạn cũng không thể ngờ được đâu. Thân chào bạn, chúc bạn luôn tinh tấn trên con đường cầu đạo
  3. @chanhta: bạn đã hiểu được thâm ý của tôi rồi đó! Mỗi một chúng sinh đều có Phật tánh, với phàm tâm họ tìm đạo nào mà có sự linh ứng thị hiện liền theo, thật ra tu theo đạo Phật không khó, cứ lần theo con đường truyền đạo của đức Thích Ca và học theo, tứ diệu đế , thiền tứ niệm xứ, hành bát chánh đạo , tu tập tánh không qua bát nhã ba la mật đa tâm kinh, sử dụng vi diệu pháp và thiền chỉ quán để chặn tâm Si phát khởi thì sẽ đoạn trừ được cả 3 tam độc và sẽ rời xa phiền não, nhưng do đâu mà ta có Tâm si , do ÁI là yêu là thích, Dục là mong muốn mong cầu cái gì đó về cho mình, chính ÁI DỤC là nguồn gốc của Vô minh (SI phần) , kinh thủ lăng nghiêm đã có nhấn mạnh hai điều nầy, dứt tham sân si là niết bàn, rời ái dục là trí tuệ bát nhã, nếu để dâm sự tồn tại mà ngồi thiền thì ví như nấu đá sỏi mà muốn thành cơm, còn nữa nếu để tâm không mà ngồi thiền như PLC thì là chiêu ma dụ quỹ chẳng được cái gì, vì không phải cái lý tâm vô trụ là tâm không nghĩ ngợi, mà là ứng với mọi cảnh , mọi thức , tâm không bị vướng vào, vô niệm không phải là không có niệm, mà là không có vọng niệm, nhưng vẫn duy trì chánh nhiệm, trong mọi cảnh thần thức đều biết nhưng tâm không vướng vào đó là chân định vậy.VẤn đề nữa ai tu Phật mà không biết phát bồ đề tâm thành tâm vô lượng, chuyển phước đức thành công đức và hồi hướng cho chúng sanh thì chỉ là kẻ tu PHƯỚC , chứ không phải tu để giải thoát, vì không giải được nghiệp quá khứ, lại còn cho vay phước để tương lai mình hưởng ( tạo phước kiếp nầy kiếp sau phải hưởng phước). Ai cũng nghĩ phải tu nhiều kiếp mới thành Phật, thật sự không phải vậy, chỉ cần tu một kiếp nầy là ta có thể thành ,hay chí ít cũng về cỏi A Di Đà, nếu ta biết cách đi đúng đường và tinh tấn . Sự thật 6 cỏi luân hồi nầy tương đương như nhau đối với nghiệp quả, ngay lúc ở cỏi người , ngay lúc cận tử nghiệp, ma nghiệp đến đòi nợ tại lúc đó , nếu tội của người chết phải bị đọa đị ngục, thì cũng phải đi theo thôi, còn nếu được lên cỏi thiên, xài hết phước lại trở xuống, tại thời điểm đó có báo nghiệp đến đòi nếu nghiệp phải làm súc sinh thì cũng phải chịu, nếu không có báo nghiệp nặng thì có thể xuống cỏi người để tu tiếp tục.Tuy vậy, nếu người tu biết quy y Phật và thân tâm thanh tịnh, tín nguyện hạnh sâu dầy, thì sẽ gặp Thầy tìm đến truyền pháp để tu, đạo Phật có điều đặc biệt là Thầy tìm trò, và khi tu theo Phật thì có hộ pháp, nếu đạt được mức độ thân tâm thanh tịnh , tinh tấn thì sẽ đạt tới cỏi tịnh độ tại ngay cỏi ta bà nầy, tức "tùy cầu tức đắc" , khi nào cần trả nghiệp thì trả, khi không cần thì thôi, có thể lấy công đức của mình để giúp "cựu nghiệp" được về cỏi người tu tiếp. Thân mền, cảm ơn đã đọc
  4. Tu như họ họ cũng chả có nhận mình là đắc cái gì đâu, vì bát nhã tâm kinh họ nhập tâm rồi! Chả có gì mà chứng đắc hết!Đối với Phật pháp do chính đức Thích Ca đã giảng , thì cỏi trời vẫn còn luân hồi Vương Cu ới ơi, do đó tôi mới nói LHC giúp học viên lên cao tầng là lên cỏi trời, mà cỏi nầy thì không thể thoát khoỉ luân hồi là ý đó đó! Đọc kinh Phật lại đi 6 cỏi luân hồi cỏi thiên , cỏi A tu la, cỏi súc sinh , cỏi người , cỏi ngạ quỹ và cỏi địa ngục, như vậy cỏi cao tầng mà LHC đề cập là cỏi thiên đó. Nhiều người tu còn mong nếu mình không thoát khỏi luân hồi thì mau trở lại kiếp người để tu tiếp , vì lên cỏi trời, xài hết phước có khi rơi xuống , muốn xuống lại làm người cũng phải tùy duyên của cái lúc rới xuống có bị nghiệp vây bủa đòi nợ hay không , có khi lại xuống địa ngục nữa kìa ...he he...
  5. Người tu theo PLC cũng có thể một chợt đốn ngộ sẽ hiểu rằng pháp nầy không thật sự đem sự giải thoát cho mình, họ sẽ lập tức thể nhập vào tâm và tìm Phật ngay trong tâm của mình, vì họ đã gìn giữ cái gốc thiện gìn giữ cái hạnh tham nhẫn , phá cái tâm chấp trước, tu theo chơn thành, họ chỉ thiếu biết rằng ta và chúng sanh bình đẳng, và tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh vì mong cầu thần thông, họ cũng có thần thông , nhưng thần thông của những linh hồn vừa mới ra khỏi xác , là ma thông không phải Thần thông của Phật, xin nói rõ ma quỹ đều có thần thông. Chỉ vì duyên của họ chưa có với Phật nên họ chưa biết, cũng có thể kiếp trước họ đã tu theo đạo Phật cũng có làm sư thầy nhưng vì giới hạnh xấu nên bị đọa và sợ tu theo Phật.Phật có nói thời mạt pháp, nếu có ai nói pháp gì hợp lý hợp với căn cơ thì cứ theo, miễn sao tu cho tâm thiện hành thiện làm lợi ích cho người cho đời và từ đó họ sẽ gặp thiện trí thức dẫn dắt đi vào chánh đạo. Rất tiếc những người theo LHC chưa hề gieo chủng tử bồ đề trên ao báu của đức A Di Đà nên sẽ khó được vô lượng Phật theo dỏi về chủng tử của đạo tâm, mà chỉ có một mình LHC phải theo dỏi cho hàng triệu học viên của mình (nếu có) Chúng sinh PLC lặn hụp trong bể mê , họ cho rằng cứ tu theo như thầy LHC dạy , thì sẽ lên thiên đàng , họ có ngờ đâu cỏi thiên đàng người tu giải thoát không bao giờ cầu tới. Pháp nhản thông của sp LHC còn chưa biết cao tầng của mình là ở đâu, ông đang là ai? Nhưng tuyệt nhiên không có ai hỏi ông điều nầy cả, vì sao? vì họ sợ nếu hỏi, ông lấy lại cái bộ khí cơ đã gắn ở bụng mình , thì không còn tu theo PLC được. Tôi chỉ xác nhận một điều rằng PLC không hề giúp con người được giải thoát khỏi luân hồi, nhưng không phải là tà pháp nếu người tu theo pháp nầy với tâm không mong cầu thần thông, chỉ có sư phụ LHC là tà nhân mà thôi vì vọng ngữ, để dụ người ta tu theo pháp của mình.Dùng sai các ý nghĩa của Phật ngữ.
  6. Tôi hỏi bạn .Cái gì mà làm lợi cho chúng sanh thì là cái gì? PLC cũng có lợi cho nhiều người bệnh tin vào và tập mà khỏi bệnh.Bên Tung Của cũng cố ghép PLC thành tà pháp để triệt hạ nhưng không thể tìm ra sơ hở, vì họ không lấy tiền ai, giúp miễn phí, cái nầy thì đụng với các sư thầy trong chùa rồi, vì thầy thấy đệ tử cúng dường cho chùa ít xín có thèm để mắt tới đâu, phải không? Tôi chỉ tiếc cho LHC vì muốn phổ biến pháp của mình, mà mượn danh từ Phật Pháp là sai, đó là vọng ngữ là một giới mà đức Thích Ca ngăn cấm các đệ tử của người . Ông ta nghĩ rằng chữ Phật có nghĩa là GIÁC , không phải Phật là Buddism , nhưng chữ Phật của Hán âm chính là dịch từ Pali là Budda ( Phật Đà, tức đấng giác giả) .Nếu ông ta nói GIÁC PHÁP thì không ai cải làm gì, vì nó cũng giúp con người thăng hoa tiến bộ, giảm ác hành thiện, lấy chơn thành đối đải lấy nhẫn nhịn làm hạnh sẽ có lúc đốn ngộ mà thành thánh nhân. Điều thứ hai tôi phản đối LHC là ông không hề cho các học viên biết sau khi chết họ có thoát khỏi luân hồi hay không? Vì mê lầm họ theo ông, bỏ cả Phật pháp họ tu đã lâu, rồi thì.....Các tầng thứ mà ông nói là cao tầng có liên quan gì tới các cỏi tịnh độ của A Di Đà, hay 10 phương cực lạc của chư Phật. Hãy vào trang Minh Huệ mà xem, tất cả học viên PLC mong cầu thần thông như thế nào, đây cũng là một điều thể hiện cái sai của LHC khi truyền pháp, do tà kiến muốn thu hút đệ tử . Ai đi tu mà tu theo thần thông thì sẽ có ngày....... Vì các học viên tu theo PLC nên không có hộ pháp của chư Phật và Bồ Tát mà chí LHC phải hộ pháp....đây là một sai lầm rất lớn, ai muốn học chỉ được phép đọc cuốn sách của sư phụ và chỉ người khác đọc theo, sp nghiêm cấm đệ tử nói pháp.....!!!! Các bạn chớ nên phân biệt chánh tà mà chỉ nên phân biệt lợi hại mà thôi, nếu tu chơn thành theo phật pháp thì được giải thoát khỏi luân hồi, pháp nào cũng là pháp, hãy chứng minh PLC giúp học viên tháot khỏi luân hồi đi, nếu được như vậy, thì tại sao đây không là chánh pháp!
  7. Sự thật PLC không hại ai cả, trái lại còn giúp cho người ta làm lành lánh giữ, có sức khỏe, chính kẻ muốn hại PLC cũng không tìm được cái tà của PLC, La người không ai mà không đau sót cho các học viên PLC bị hại cả.Chúng tôi chỉ chỉ trích một điều duy nhất là chính vọng ngữ của LHC cho là đây là Phật pháp cao thâm vi diệu nhất, đã làm cho PLC được đề cao và gây sự chú ý của đa số vì động tới tâm THAM cầu của đa số các người chưa có Huệ trí , họ hiểu lầm theo lời LHC rằng: tu pháp nầy sẽ được sức khỏe và mở thiên mục......có thần thông...v v.... Nếu ai cho rằng tu PLC mà vẫn muốn giữ đạo của mình thì hãy đọc cho kỹ cuốn chuyển pháp luân sẽ rõ. Khi đã chọn PLC thì không được theo đạo của mình.
  8. PLC giúp người ta có sức khỏe,tu tâm tính là tốt chứ không sai, chính bản thân tôi xem việc đó là có ích lợi cho quần chúng cho xã hội, nhưng LHC không thể dùng những Phật ngữ mà Phật đã dùng cho pháp nầy được, và gọi đó là Phật pháp được dễ gây hiểu lầm, vì Phật định nghĩa một đàng, LHC định nghĩa khác đi, tôi thí dụ : nhà Phật dùng từ chính niệm , thì LHC cũng dùng từ "phát chính niệm " nhưng có ý nghĩa khác, Nhà Phật dùng từ "Chuyển Pháp luân" với ý nghĩa là thuyết pháp để chuyển pháp nầy đến cho ai đó, LHC vẫn dùng từ nầy nhưng với ý nghĩa khác. Ngoài ra còn vọng ngữ cho rằng đây là Phật pháp uyên thâm nhất, ông ta có thể dùng Bụt pháp uyên thâm nhất thì OK.Nhưng nếu LHC dùng từ Phật pháp ( Buddism) thì phải xem lại con người của ông.
  9. Lục thông là họ có 6 thần thông, còn pháp thân là khi họ lên đàn, họ có thể chia pháp thân ra nhiều thân khác để quán chiếu từng đệ tử một, trong cùng một lúc . Các pháp thân nầy hoạt động độc lập với nhau . Điều nầy cũng có nghĩa là , họ đã đạt quả vị A La Hán hay Bích chi Phật là tối thiểu và có pháp thân ở cỏi trên, xuống thế với ứng hóa thân để làm Phật sự.
  10. Pháp luân tự có ở mỗi chúng sinh, chẳng qua nó không quay là vì thân tâm chưa thanh tịnh tự tánh chưa lộ diện, mê lầm vì tin rằng sư phụ lắp bộ khí cơ cho quý vị ở bụng dưới, mà chỉ có sư phụ mới được lắp thôi à nhe! và các học viên tin đó là bánh xe pháp, Sư phụ là chuyển luân pháp vương đó! vì là người chuyển cái pháp luân đó cho quý vị.Nếu tu tập như sư phụ quý vị dạy thì khi chết cũng có thể lên cỏi trời nếu tội nghiệp nhẹ, và còn phước còn không cũng ở tầng A tu la, các tầng đó sp nói là cao tầng, thì cũng đúng có 33 tầng trời dục giới.... Chẳng có ai vãng sanh ra khỏi luân hồi kể cả sp quý vị. Theo định nghĩa pháp luân thường chuyển như sau:(theo Cao đài tự điển) Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo. Luân: cái bánh xe. Thường: luôn luôn. Thường chuyển: chuyển động luôn luôn. Pháp luân là bánh xe pháp, bánh xe giáo lý của Phật. Bánh xe tượng trưng giáo lý, cũng như hoa sen tượng trưng ngôi vị của Phật. Giáo lý của Phật như cái bánh xe, lăn tới trước mãi, đưa chúng sanh tiến hóa mãi trên đường giải thoát. Bánh xe khi lăn tới đâu thì cán nát các loại gai cỏ, cũng như Giáo pháp của Phật truyền tới đâu thì nơi đó hết vô minh và phiền não. Sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo, Ngài thuyết pháp lần đầu tiên tại thành Bénarès với đề tài Tứ Diệu Đế để độ nhóm 5 anh em ông Kiều Trần Như. Đó là Đức Phật chuyển Pháp luân, tức là Đức Phật bắt đầu vận chuyển bánh xe Pháp cho lăn tới, nhờ thế mà 5 vị nầy giác ngộ, qui y theo Phật, đắc quả A-La-Hán. Đó là Phật chuyển Pháp luân lần thứ nhứt. Đức Phật chuyển Pháp luân lần sau cùng, trước khi Phật nhập Niết Bàn, tại Hội Pháp Hoa, thuyết giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo pháp thượng thừa của Phật, độ vô số chúng sanh vào Đại thừa, đắc Phật huệ. Pháp luân thường chuyển là đạo lý luôn luôn chuyển động đi tới như một bánh xe, để cứu độ chúng sanh, đưa chúng sanh lên đường tấn hóa đến bờ giải thoát. Việc đi Hoán đàn trước khi cúng Đại đàn nơi Tòa Thánh tượng trưng Pháp Luân thường chuyển. Chúng ta phải đi từ cấp 1 CTĐ (Địa Thần) lên cấp 9 CTĐ (Thiên Tiên), lên Cung Đạo (Phật vị), rồi trở xuống cấp 1 CTĐ, lại vòng lên trên rồi mới đứng vào vị trí của mình. Khi đi lên là Phàm nhập Thánh, khi đi xuống là Thánh lâm Phàm, rồi đi vòng trở lên là Phàm nhập Thánh. Đi như vậy là Pháp luân thường chuyển tức là đắc đạo -------------- Pháp luân thường chuyển của LHC có ý nghĩa khác với của Đức Thích Ca , do đó dùng danh từ Phật ngữ để dùng cho Pháp của mình, cũng như từ "Chính niệm" của LHC không phải là từ của Phật. Còn Phật pháp của LHC là của LHC không có động gì đến giáo lý của Phật Thích Ca cả. Các bạn nghiên cứu nên vào trang PLC tải về nghiên cứu . Thân mến
  11. Sẳn đây tôi xin đưa lên đây một pháp môn mà các vị thánh đã từng tu học. Ðạo Ðế (Nirodha Gamadukkha) Bát Chánh Ðạo A. Mở Ðề Trong 37 món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một. Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đều áp dụng pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại. B. Chánh Ðề I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh Ðạo Bát Chánh đạo là tám con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu. Người ta cũng có thể dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh. Cũng có khi người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó sau đây: a) Những kẻ phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh. :) Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết Bàn. Bát Chánh đạo gồm có: 1. Chánh kiến 2. Chánh tư duy 3. Chánh ngữ 4. Chánh nghiệp 5. Chánh mạng 6. Chánh tinh tấn 7. Chánh niệm 8. Chánh định II. Nội Dung Và Giá Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo 1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được. 2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải. Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người. 3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời nói. Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi: Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu? Phật dạy: Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu. Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế. 4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích co người lẫn vật. Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghền ghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác. Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh. 5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác. Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp. 6. Chánh tinh tấn: Chữu tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật. Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn). Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuấ thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh. 7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu. Chánh niệm có hai phần: a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền. :rolleyes: Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ. Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niêĩm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng. 8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người. Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây: Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ). Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh. Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp. Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp chấp. Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức. C. Kết Luận: Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau đây: 1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm me mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ. 2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày say gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo. Tổng Kết Về Ðạo Ðế Chúng ta vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau. Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng ta tùân tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ, cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế nào cũng phải đến đích. Hỡi quí vị Phật tử ! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt đích. Chúng ta, đàn con Phật , những người đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối thác ! Vậy chúng ta hãy mau mau cất bước lên đường giải thoát.
  12. Tôi cũng đã muốn rời topic nầy, nhưng thấy bạn viết câu nầy tôi thật tình không hiểu. Phật và chúng sanh có khác hay không? Phật đã từng nói : "ta là Phật đã thành còn các ngươi là phật chưa thành", ai ai cũng có Phật tánh nhưng vì u mê như các bạn tin theo mấy tà sư như ông Tám , LHC, bà TH.....mong cầu xuất hồn, thần thông, phát quang linh điển, do đó dù cố tâm tu thành người tốt, nhưng không bao giờ tìm ra được con đường giải thoát khỏi luân hồi . Tại sao ta không thể lập lại các lời nói của Phật, Tổ, Thánh, như vậy các chùa không nên tụng kinh hả bạn? Vì đa số kinh là lời Phật dạy. Nếu không lập lại lời Phật dạy Ngài ANan : [i]- A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”.[/i] Thì làm gì thấy được cái chuẩn mực nào cần yếu nhất để tu Thiền đây? LHC có biết câu nầy hay không ?, và có dạy đệ tử giống đức Phật dạy Ngài A Nan hay không? Chính vì có chấp trước nên ta mới cần phải lập đi lập lại các lời nói của chư Phật mà tu học theo.Bạn đừng nghĩ rằng chỉ có một mình LHC là có pháp thân. Tại TP HCM nầy cũng có hơn vài ngàn vị đã có lục thông và pháp thân , nhưng họ vẫn đang ẩn tu và làm Phật sự , trẻ nhất 15 tuổi còn già thì cũng không phải là ít, nhưng đa phần là tu sĩ tại gia , đã đoạn được ái dục. Bạn nêu ra từ "thực chứng" như vậy là có giả chứng rồi.Sự thật cũng chẳng có Phật, tổ , bồ tát nào chứng đắc cái chi cả đâu! Phật nói mọi chúng sinh ai cũng có Phật tánh, phật tánh còn có tên gọi khác là tự tánh , nó vốn tự có không sinh không diệt, chỉ vì sự vô minh mà bị che mờ, do đó ta không thể nhìn xa trông rộng, không thể có trí tuệ để thông hiểu các pháp , không có trạch nhản pháp để biết pháp nào tà pháp nào chánh. Người tu Phật mà nói tôi đã chứng quả thì thật sự là chưa biết tu Phật. Cái kiếng mình có sẳn, không biết quét dọn lau chùi, soi mặt không thấy, sau khi tu càng ngày kiếng càng soi rõ mặt, cái đó có phải là tu chứng hay không, do đó Phật đã dùng hơn 22 năm Ngài thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh để thuyết cái Tánh Không, vì vô minh, vì chấp trước mà bạn không hề biết , những người tu theo chánh pháp không bao giờ họ đề cấp tới từ "tu chứng" họ cũng không đặt thần thông là quan trọng và xem thường các công năng đặc dị nầy, và không bao giờ dùng nó, vì nếu bạn có tâm dùng thần thông, sẽ bị ma pháp dẫn dắt ngay, Ma quỹ có thần thông hay không xin hỏi bạn? Có khi nó còn giỏi hơn cả LHC nữa đấy! Chính vì trong tâm của bạn không có chánh niệm, chánh kiến nên bạn lý luận bị vướng tà kiến quá nhiều. Câu nầy của LHC cũng nói lên cho bạn thấy LHC không hề biết luật nhân quả: " Tu là tùy vào chính ḿnh, Công là tùy vào Sư Phụ” Phật nói sao ? Tự tu tự ngộ tự độ thân Tự tìm pháp lý hợp căn thân Tám vạn pháp mầu chỉ cầu một Chớ tin ai nói cho rằng đúng Dẫu Phật hiện ra cũng chớ tin Hoằng pháp cứu đời giúp thế gian Bồ đề tâm khởi thành vô lượng Bờ giác bên kia sẽ có ngày Phật nói ai tu tự ngộ tự độ thân mình, không ai cứu được ai cả, ngay cả Phật vẫn còn phải trả nghiệp ăn thức ăn cho ngựa ba tháng để trả nghiệp một tiền kiếp Ngài đánh cá và sát cá kia mà. Hôm nay LHC là sư phụ, nhưng biết đâu trong các đệ tử của va kiếp nầy là thầy của LHC trong tiền kiếp! Tại sao tôi tu thì tùy vào tôi mà công của tôi tùy vào sư phụ vậy?Vậy sư phụ là người ban phước cho tôi nếu tôi tu theo đạo của người hay sao?Nếu sư phụ chết đi , trong thời điểm cận tử nghiệp các học viên LHC đã chết vì PLC, chợt ngộ ra rằng đây là tà pháp và mình bị dụ theo tà pháp đến đòi nợ, liệu ông ta có thoát khỏi địa ngục hay không? CÔng phu của ai, công đức của họ, không ai tu dùm ai được, đó là chánh kiến Không phải ai nói cũng tin, phải dùng trí tuệ quán xét đó là chánh tư duy Thân chào!
  13. Tôi chỉ có ý kiến thế thôi, vì thấy sái quấy mà không nói ra thì có lỗi với chư Phật, khi nói ra dù trúng hay sai thì cũng mang khẩu nghiệp. Do đó , tôi xin ngưng bàn về chủ đề nầy, tùy duyên nghiệp của các vị mà chọn cho mình pháp tu giải thoát. Thân mến
  14. Tôi chẳng phải nghe cái gì ai nói hay rồi cũng thử, mà tôi nghe họ nói PLC là tà pháp nên tôi tập thử xem nó tà ở chổ nào thôi, còn vấn đề tôi nói cho bạn là những thực nghiệm mà tôi đã thử, tôi chẳng hề thêm điều gì bậy bạ khác vào; tất cả các bài giảng tôi đều tải về và nghiên cứu , thật sự chẳng thấy Phật pháp cao thâm vi diệu nhất ở đâu cả (xin hiểu Phật pháp là pháp giác ngộ, không phải là pháp của Đức Thích ca, cứ tối ngày lên cao tầng rồi lại lên cao hơn , chê bai các pháp của người khác, ai đã tập PLC thì không được tu theo các giáo phái khác v...v..) bạn ráng tập PLC nó sẽ giúp bạn giải thoát khỏi lục đạo luân hồi đấy .Và thiền theo PLC sẽ chứng ngộ được đại định đấy.Phật đã không nói pháp là tùy căn cơ , do đó mới có 84 ngàn pháp môn đó sao? nếu ai cũng ngồi thiền được thì Phật cần chi chế ra các pháp môn khác làm chi. PLC không sai , giúp người tập khỏe mạnh , nhưng LHC quá vọng ngữ và mê hoặc người khác , dụ người tu theo , đây là một tội nghiệp rất lớn, không nhỏ.Nhất là kêu gọi học viên phát chánh niệm " pháp chánh càn khôn tà ác toàn diệt , pháp chánh thiên địa hiện thế hiện báo" do đó ai niệm cái nầy thì hiện thế hiện báo là phải thôi, vì niệm cái nầy đồng nghĩa cho tôi trả nghiệp trong một kiếp nầy.Tất cả các đạo hữu đều được pháp thân của sư phụ LHC che chở và hộ pháp. Nhưng khi sp rời khỏi thế giới ta bà nầy xuống âm phủ vì cái tội vọng ngữ thì lấy ai hộ pháp đây?
  15. Theo tôi thì không phải sử dụng nhiều năng lượng để nhìn, người mở nhản toàn phần có thể vừa nói chuyện với anh, mắt vẫn mở mà vẫn nghe thấy tâm ý của người đối diện , họ có thể nhìn thấy hộ pháp của huynh (người nào tu cũng có hộ pháp, nhiều vị tu nhiều năm có vài chục vị theo độ là ít) còn ở pháp đàn của họ thì không kể xiết nếu có xá lợi của Phật và chư Bồ Tát, thay vì người mới mở tâm nhản thì phải nhắm mắt và tỉnh tọa rất lâu mới thấy. Trong mật tông người ta có nói tới kính đàn, khi người tu đạt tới hàng Thanh Văn hay Bích Chi Phật và đang hành bồ tát đạo, kính đàn vô hình ở ngay trong tâm của họ, họ không cần dùng kính đàn là vật hửu hình. Khi lên đàn họ có thể quán sát sự tu tập của đệ tử từ rất xa, nếu có sai họ sẽ chỉnh ngay lập tức, vì người Thầy có nhiệm vụ rất lớn đối với đệ tử , nếu đệ tử tu không thành thì Thầy cũng bị mất công đức, vì vậy mới có cái gọi là truyền mật pháp Thân Mến
  16. Trong thiền tông , không phải muốn nhập đại định là nhập muốn ra là ra, vì khi vào đại định là xem như đã chết 80-90 % rồi, khi đó hơi thở rất nhỏ như sợi chỉ, tim đập rất chậm áp huyết cũng giảm tới mức thấp nhấp. Nếu thiền sinh chưa bao giờ nhập sơ định và trung định, thì thầy không bao giờ cho phép họ nhập đại định, vì thầy phải ở ngoài kiểm soát, khi có đột biến còn cứu đệ tử, làm nóng chân tay bằng rượu, đắp chăn ấm, hô hấp nhân tạo v.v....Người đã đạt đại định là đã qua được tứ thiền, và chứng đắc được nhiều huệ và thần thông tự có mà có khi trong giai đoạn đầu họ cũng không biết. Khi tôi nghe người tập PLC mới vài ba tháng mở huệ nhản thì tôi đã biết là vọng ngữ, thân tâm chưa thanh tịnh làm sao mở huệ được, huệ nhản muốn thấy được mở mắt ra mà thấy hay sao? muốn thấy được ở trạng thái tâm đang nhiếp lục căn mà thấy hay sao? Muốn thấy bằng tâm nhản, thiền sinh có thể thấy ở các trạng thái đi đứng nằm ngồi và tâm thiền đi vào sơ định mới thấy.Do đó ngồi thiền với hai tay cong, hai bàn tay bắt ấn tam muội giống như một vòng lúp là trao đổi khí vũ trụ.Thanh khí vào trược khí ra, cũng là một phép tịnh hóa bản thể Bạn nên đọc thật kỹ các bài giảng pháp của PLC rồi hãy bàn luận tiếp nhé!PLC cho rằng các kinh sách của các giáo phái khác giống như giòi như bọ (tôi có đọc qua bài nầy trong trang Minh Huệ , khi LHC dùng pháp thân của ông đi thăm một học viên thấy giòi bọ lúc nhút trong kệ sách nên không vào nhà, học viên nầy hỏi thầy nói ....) LHC tin rằng sẽ truyền được pháp PLC như một đạo giáo ra thế giới, nhưng ông ta đã lầm , các nước đón nhận PLC vì nó là môn thể dục buổi sáng làm cho khỏe người mà thôi, Phật giáo có bắt người Thiên chúa giáo phải bỏ đạo của mình nếu muốn áp dụng giáo lý của phật vào đời sống của mình không? LHC chủ trương vào luyện công là sẽ có cột công càng ngày càng cao , có thần thông và bạch ngọc thể, là sẽ lên cao tầng, nhưng không bao giờ dám nói có thoát khỏi luân hồi hay không? Do đó dù pháp nầy giúp con người thay đổi được tâm tánh thành người tốt hơn, nhưng lại thúc đẩy con người đi về tà kiến mê hoặc bằng thần thông, đa số giới trẻ sẽ tin và theo , đến một lúc sẽ bị các ma vương, quỹ vương dẫn dụ và lạc vào ma đạo. Những người tu theo Phật pháp ở mức độ cao đều có hộ pháp, nhưng cũng không ăn thua gì nếu người tu muốn nhận ma vương làm thầy. Do đó nhìn thật kỹ thì pháp tu nầy không phải là tà pháp, nhưng với vọng ngữ của LHC, với sự mong muốn thu hút nhiều giáo đồ của ông, ông đưa thần thông lên hàng đầu, dùng thần thông để đấu với tà ma đang trị vì đất nước ông, người học viên tu theo cảm thấy thân thể khỏe mạnh tâm tính tốt hơn còn mong gì hơn nữa, nhưng khi chết thì chỉ lên được cỏi thiên , cỏi a tu la, vì nghiệp vẫn còn mang đầy mình, thật uổng một kiếp người!!
  17. Nếu bạn muốn nghiên cứu về thiền tông thì có rất nhiều pháp thiền quán thân vipassana, thiền tứ niệm xứ , thiền vô niệm xứ, thiền làng mai.... Đối với tôi , tu Thiền phải tu cả hai pháp lúc cần quán thì quán lúc cần chỉ quán thì chỉ quán, không phải lúc nào cũng để tâm không mà ngồi thiền, thiền theo vô vi của Cụ Đổ Thuần Hậu ( ông Tám là đệ tử) là cố diệt cái vọng tâm để cho tâm trống vắng với hy vọng thu được linh điển, đây là biên kiến, nhờ bịt các mạch máu ở thái dương và mạch ở lỗ tai , người ta sẽ ở trạng thái thiếu sự trao đổi máu lên não như người sắp chết và sẽ dẫn tới trạng thái xuất hồn.Pháp nầy gọi là soi hồn. Nếu thiền mà không quán, trí tuệ sẽ không tăng trưởng thành thánh trí- huệ trí, mục đích của thiền không phải là giúp cho thân tâm an lạc, mà cứu cánh chính là đạt được trí tuệ bát nhã.Không phải cứ ngồi xếp bằng nơi yên tỉnh mà gọi là thiền, thiền có thể ở bất cứ mơi đâu ,đi đứng nằm ng62i đều có thể, kèm theo sự phân tích vi diệu pháp để áp dụng hai phép thiền quán và chỉ quán để cắt đi các ý tưởng hay vọng tâm xấu, hay khi tâm Si bắt đầu khởi . Tuy vậy nếu người tu chỉ dụng một mình pháp thiền, thì chưa đủ mà cần phải có hàmh trì các câu minh chú của Phật giúp khai mở tâm từ, như chú pháp mở bồ đề tâm thành tâm vô lượng, chú pháp nhờ tha lực Phật Thích Ca, chú pháp mở tâm từ Um Mani Pad me Hum, chú đại bi để tầm thinh, tầm đồng đạo(chú nầy rất quan trọng, người nào chí tâm trì tụng chỉ cần 5 biến mỗi ngày kèm theo lục tự đại minh chú 5000 biến /ngày, sau vài ba năm sẽ gặp thiện tri thức và sẽ gặp đường tu phù hợp với căn duyên của mình.) Nói chung nếu chỉ tu thiền mà muốn đạt đạo thì rất khó cho những người có căn cơ trung bình, do đó nếu muốn tu theo giáo lý của Phật làm cho tịnh hóa bản thể, thân tâm thanh tịnh thì cần phải triệt bỏ tham sân si, phải hành xử bằng từ bi hỹ xả, phải xóa bỏ chấp pháp hữu vi lẫn vô vi(tu tập tánh không), phải biết phương pháp trả nghiệp quá khứ theo thuyết nhân quả, ứng xữ với sự nhận quả nghiệp bằng hạnh tham nhẫn, sống với cái tâm bình thường, ăn biết mình ăn, ngủ biết mình ngủ, khi thân tâm đã thanh tịnh thì sẽ đắc lục thông, thần thông không phải là cứu cánh và mục đích của tu tập, trí tuệ và chánh giác mới là đích đến; giáo phái nào đề ra chuyện khai mở nhãn nhĩ, thần thông làm chỉ chuẩn thì đó chính là tà kiến và người tu sẽ dễ dàng bị dụ theo ma pháp (nhiều yêu ma pháp thuật còn cao hơn các bồ tát nữa!) Tâm không trong pháp thiền của Phật không phải là không có niệm, mà là không có vọng tâm, phải có ch1nh niệm, và chánh niệm nầy sẽ luôn luôn và liên tục không gián đoạn gọi là thiền quán, nghe nói tâm không ai cũng nghĩ ngồi mà mọi điều chẳng nghĩ như gổ như đá, nhưng nếu cứ chấp vào có niệm thì cũng là chấp do đó phải có lúc dùng pháp niệm để chỉ quán( cắt tư tưởng) khi có vộng tâm khởi lên tiếp một niệm nữa đề cắt vọng tâm, như vậy ta sẽ có khoảng lặng các vọng tâm, pháp chỉ quán nầy là giúp não được thư giản, và đồng thời là pháp hành khi nhận biết tâm si của mình bắt đầu phát khởi , vì tam độc tham sân si bao giờ cũng bắt đầu khởi lên từ SI, khi quán thấy có Si khởi ta dùng pháp chỉ quán để cắt tư tưởng kế của nó thì sẽ không dẫn tới THAM và SÂN, đây là một phương pháp tuyệt vời trong pháp hành.Nếu khoảng thời gian giữa hai niệm càng dài thì ta có sơ định, khi ở trạng thái định thì tim đập chậm lại nhưng các luân xa quay tốc độ cao hơn nhiều lần, và thúc đẩy con rắn khí nằm ở cột xương sống, tất cả các luân xa của con người đều nằm dọc theo cột sống, từ Bách hội cho tới Hải Để,Khi con rắn khi nầy no đủ nó sẽ mở huyệt Hải Để và đi lên Quan Nguyên - Đơn Điền...., dù có quán luồng Kundalini nầy hay không quán nó thì nó cũng thực hiện điều nầy , vì đây là điều tự nhiên.Chính LHC đã từng ám thị cho các đệ tử rằng ai mà quán luồng kundalini thì không phải tu theo pháp của ông. Do đó khi người chọn tu pháp thiền thì lòng dâm dục đột nhiên tăng lên bất thường, nếu không dùng thiền chỉ quán thì có ngày làm quỹ râu xanh, do đó Đức Phật có dạy Ngài A Nan: “A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”. Tôi dù chưa biết bạn, nhưng tôi tin chắc rằng bạn chưa hề đạt tới trạng thái sơ định của thiền.Vì sao nếu bạn tới sơ định của thiền bạn sẽ có trạng thái gần như mở tâm nhản , lúc có lúc không (nhản nầy chỉ nhắm mắt và tịnh tâm mới thấy, tâm nhản nầy có thể nhìn thấy thế giới vô hình quanh ta) Như tôi đã phân tích các thế tay đưa ra xả trược khi ngồi thiền của Pháp luân công, nếu bạn đã mở nhản thì sẽ thấy nhiều vị vô hình rất khó chịu. Khi bạn tập PLC chừng 30 ngày, nếu bạn có máy đo hồng ngoại bằng analog đơn giản , bạn tập từ thế 1 đến thế 4,bạn dùng máy thu hồng ngoại đặt cách lòng bàn tay của bạn chừng 5cm, bạn sẽ thấy máy thu hồng ngoại của bạn ở mức số 3, một tháng sau bạn sẽ thấy nó lên mức số 5, ba tháng nó sẽ ở mức số 9, lúc nầy bạn có thể đưa bàn tay của bạn đi khắp nơi trên cơ thể của bạn và thấy hơi nóng từ lòng bàn tay phóng lên da của mình , các lỗ chân lông như bị lực tỉnh điện hút lên vậy. Các búi thịt tự nhẫy, co bóp và dãn ....Tôi nói như vậy là bạn đã biết tôi tu theo PLC đã đạt tới đâu rồi, vì người nào nói pháp nào hay tôi cũng vào thử và nghiện cứu bằng định lượng, không thể nói khơi khơi được. Thân mến
  18. Ý không thuộc về Tâm như bạn nghĩ nó nằm ở ngoài Tâm và quy chiếu vào Tâm vì sao ư? V x, Vy , x--> Tâm ; y--> Tâm Cùng một lúc ta có cảm giác rằng , Tâm ta có thể nhận 2 hai nhiều ý một lúc, nhưng nếu quy chiếu thời gian cho tới sát na , thì ý có khởi lên trong sát na nầy , sau đó mất đi, ý khác mới khởi lên. Con người chúng ta thường lầm tưởng Tâm là Ý hay Ý phụ thuộc vào Tâm. Thật sự không phải vậy. Bạn hãy nghe bài kệ nầy của Lục tổ Huệ Năng "Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ. Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động. Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp." Tự tánh chính là Chơn Tâm hay Chơn ngã của ta đấy Còn Ý tức là một cửa để đi vào tâm , nó có thể trực chỉ vào Tâm, hay xuyên qua một căn khác rồi vào Tâm, Ý có thể là một tư tưởng hay một chánh niệm, thí dụ bạn đang niệm phật, thì đó chính là Tâm bạn đang niệm Phật, nhưng bất chợt vọng tâm của bạn khởi lên một niệm, (nó phát xuất từ Căn Ý chớ đâu!) : - Ngày mai phải đi thu nợ chị A rồi! Đó là vọng niệm, như vậy căn Ý đã nhiếp thọ cái vọng niệm trên vào Tâm của bạn, trong cái sát na có nó, thì bạn không còn niệm Phật nữa rồi. Lại nói về Ý có thể xuyên qua một Căn khác rồi vào Tâm , bạn nhìn thấy một cảnh sau khi ngủ gục trên xe đò đi Đà Lạt. - Ồ ! tới đèo Prenn rồi sao! KHi bạn nhìn thấy cảnh là do mắt, là do Nhản Thức, cảnh thấy được chuyển sang các kinh nghiệm từ trước đây và bạn đã biết rằng đây là đèo Prenn, chuyển thành Ý : "đây là đèo Prenn" Do đó khi đức Phật hỏi Ngài A Nan Tâm ta đang ở đâu? Ngài A Nan tìm ra 7 đáp án của Tâm, còn bạn thì sao? Tâm của ta đang ở đâu?
  19. Phật giáo hiện nay mà đa số các chùa áp dùng dần dần xa rời giáo lý của đức Phật, họ chỉ hồi hướng công đức cho tầng Thiên & Atula để được độ về vật chất, mà bỏ qua cỏi địa ngục, ngạ quỹ và cỏi ta bà. Càng ngày họ càng lún sâu vào chùa rộng cao đẹp quỹ phước điền càng nhiều, quý trọng Phật tử giàu có khinh khi kẻ nghèo hèn. Có một lần tôi in kinh đem kinh đến chùa ở TB để cúng dường, tôi cố tình ăn mặc thật bình thường, mang đôi dép da, dáng vẻ thật khúm núm.Thấy một vị sư có vẻ có quyền trong chùa, thi lễ và nói: - Mô Phật, Bạch sư, con muốn cúng dường kinh Phật. Sư liếc nhìn kinh, hất hàm hỏi: - Kinh gì? - Dạ thưa kinh...... - Để đó! ....... Chẳng có một câu nào thêm nữa.Giống như thái độ của cửa quyền . Chính vì vậy nên mới có thời mạt pháp và bên trong cửa địa ngục có nhiều người tu.Pháp Luân Công chưa hẳn là tà pháp, nhưng sp LHC thì quá vọng ngữ, LHC cho rằng pháp của ông là vô giá và lại được ban miễn phí cho học viên, nói như là ông là người ban phước cho họ vậy.PLC là Phật pháp uyên thâm nhất giúp con người tu theo được lên cao tầng mở thiên mục và các thần thông.... Trong bài giảng thứ 8 PLC, sp LHC có nói: "Tu luyện lên cao tầng một cách chân chính là vô vi, không có hoạt động ý niệm nào hết; toàn bộ đã cấp hết cho chư vị [những gì] hình thành cả rồi. Chúng đều tự động hình thành, những cơ [chế] nội tại ấy đang diễn luyện chư vị; đến thời thì chúng sẽ tự chuyển. Một hôm khi chư vị luyện công sẽ lắc đầu; nếu đầu lắc sang bên này, thì nó chuyển thế này; nếu đầu lắc sang bên kia, thì là chuyển thế kia; cần chuyển cả hai bên. Đại chu thiên, tiểu chu thiên thông rồi, thì khi ngồi đả toạ sẽ gật đầu; đó là hiện tượng năng lượng thông qua. ‘Pháp Luân chu thiên pháp’ mà chúng ta luyện cũng giống như thế, chúng ta sẽ luyện như thế; thực ra khi chư vị không luyện nó [vẫn] tự chuyển. Bình thường vĩnh viễn [vận] chuyển mãi; lúc chư vị luyện là để gia cường những [khí] cơ ấy. Chúng tôi vẫn giảng ‘Pháp luyện người’ phải không? Chư vị [sẽ] phát hiện rằng lúc bình thường thì chu thiên ấy vẫn liên tục tuần hoàn; [lúc] chư vị không luyện, thì khí cơ được gắn ở bên ngoài, tức là một tầng các mạch lớn bên ngoài đang kéo thân thể chư vị luyện theo, đều là tự động. Nó cũng [vận] chuyển ngược lại, [vận] chuyển cả hai chiều xuôi ngược, vào mọi thời khắc đều đang thông mạch cho chư vị." Và "...Tiến tiếp lên nữa, là tiến nhập vào tầng quá độ giữa thế gian pháp và xuất thế gian pháp, gọi là trạng thái ‘tịnh bạch thể’ (cũng gọi là ‘tinh bạch thể’). Bởi vì thân thể tu luyện đến hình thức cao nhất trong thế gian pháp, cũng bất quá chỉ là nhục thân đã chuyển hoá đến hình thức cao nhất. Khi thật sự tiến nhập vào hình thức ấy, thì toàn bộ thân thể đã hoàn toàn được cấu thành từ vật chất cao năng lượng rồi. Vì sao gọi là tịnh bạch thể? Là vì nó đã đạt đến thuần tịnh cao độ ở mức tuyệt đối rồi. Dùng thiên mục mà nhìn, thì toàn bộ thân thể là trong suốt, giống như pha lê trong suốt, nhìn vào không thấy gì cả; sẽ thể hiện ra trạng thái như thế; nói thẳng ra, nó đã là Phật thể rồi. Bởi vì thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng ấy đã khác với thân thể bản thể của chúng ta. Khi đến bước này, thì hết thảy những công năng và những thứ thuật loại đã xuất hiện trên thân thể sẽ lập tức phải toàn bộ vứt bỏ xuống, gỡ chúng xuống cho vào một không gian rất thâm sâu; [chúng] không còn [tác] dụng gì nữa, từ đó trở đi là vô dụng. Chỉ bất quá vào một hôm nào đó sau này khi chư vị đã tu thành đắc Đạo rồi, chư vị quay đầu xem xem quá trình tu luyện của mình, bèn lấy chúng ra xem xem một chút. Lúc này chỉ có hai thứ tồn tại: công trụ vẫn còn, nguyên anh tu luyện được cũng đã trở nên rất lớn. Tuy nhiên hai thứ ấy đều ở một không gian rất thâm sâu, người bình thường thiên mục không cao sẽ không nhìn thấy được, họ chỉ thấy được thân thể cá nhân ấy là một [thân] thể trong suốt. Bởi vì trạng thái tịnh bạch thể là tầng quá độ, khi tu luyện tiếp nữa, thì thật sự đã tiến nhập sang tu luyện xuất thế gian pháp, cũng gọi là ‘tu luyện Phật thể’. Toàn bộ thân thể là do công cấu thành; khi ấy tâm tính người ta đã ổn định rồi. Bắt đầu tu luyện lại từ đầu, công năng bắt đầu xuất hiện lại từ đầu; cũng không gọi là công năng nữa, [mà] gọi là “Phật Pháp thần thông”, chúng ước chế tất cả các không gian, uy lực vô tỷ. Tương lai thuận theo việc bản thân chư vị không ngừng tu luyện, thì [về] những thứ ở tầng cao hơn nữa, tự [chư vị] sẽ biết được tu luyện như thế nào và hình thức tồn tại của tu luyện..." Tu theo Phật có luyện nguyên anh không các vị?, nguyên anh là một loại thánh thai, là một pháp tu của tiên gia, của các đạo sĩ lấy tiếng niệm Vô lượng thọ Phật làm tiếng chào, tu theo tinh -khi- thần hợp nhất, nhâm mạch đốc mạch đả thông, ở đây LHC lại đưa ra trăm mạch nhâm đốc! hàng trăm hàng ngàn vòng chu thiên đựợc đả thông, trong khi chúng ta ai cũng biết mỗi người chỉ có một cột xương sống, luồng hỏa hầu Kundalini chạy theo dọc xương sống. nếu luồng hỏa hầu nầy đi theo cột xương sống đủ mạnh , nó có thể thông từ mạch nhâm sang mạch đốc.Từ cột cuối xương sống sẽ có luồng khí đả thông huyệt hải để và đi lên Quang Nguyên, đây là thời điểm quan trọng của các Du Già, họ có thể tẩu hỏa nhập ma nếu luyện mà không có thầy, các vị thầy phải dặn đệ tử lấy gót chân của chính đệ tử chặn lấy ngay vị trí của huyệt này ở dưới hai hòn bi....... Nhưng dù sao cũng phải khen LHC một phát , ông chế ra hàng trăm hàng ngàn vòng chu thiên, để tránh cái đại họa của duy nhất một con rắn kundalini chỉ chạy trong một vòng chu thiên nhâm -đốc duy nhất. Hàng trăm hàng ngàn vòng chu thiên Mão Dậu sẽ giúp hành giả đả thông được hàng trăm hàng ngàn mạch Nhâm và hàng trăm hàng ngàn mạch đốc, điều nầy làm sáng mắt các vị sư tổ về khí công từ Thiếu Lâm cho tới Nga Mi, từ Trương Tam Phong cho tới Chí Thiện thiền sư , họ phải sống lại mà tẩy não và tu tập lại rồi! Nếu lý luận như LHC có pháp luyện người thì đức Phật, Ngài là người mà cả nhân loại cho là đấng toàn giác là bậc liễu tri, đã thuyết suốt 49 năm ròng rã để lại bao nhiêu bài giảng được các đệ tử ghi chép lại trong tam tạng và vun trồng 84 vạn pháp môn cho chúng sinh, quả thật là vô tích sự. Những điều tôi nêu lên đây, với tin thần học hỏi tra cứu , không nhằm mục đích chê bai hay bêu xấu giáo pháp nào cả, vì dù cho bạn có tu thì đối với đời cũng cần phải phân biện đâu là có lý đâu là sai, để giúp người khác hiểu rõ chớ co mê lầm mà thôi. Khi bạn tu thấy người sai mà bạn chỉ cười và không nói ra cái sai của họ, đó là tinh thần hoằng pháp và poổ độ của Phật hay sao? Khi bạn tu thấy con cháu mình, vợ con mình , bạn bè mình làm sai , mà vẫn im lìm không nói ra cái sai của họ , như vậy là bạn tu theo Phật tánh hay sao? Phật không bao giờ nói ai đó cần phải nghe theo Ngài, Ngài nhấn mạnh tự tu tự ngộ, có trí huệ sẽ có chánh giác. Thân mến
  20. @Thienlongbatbo: Cảm ơn bạn đã nói trại đi tôi là Ngu Như Bò không phải Ngu Như Bộ. Theo cái Thức của tôi thì nhân là hạt giống coàn quả thì là trái có từ cây do hạt giống đó sinh ra.Nhân quả có nhiều loại có loại nhân quả do chính mình gây ra , có nhân quả do sự cộng sinh giữa những người trong cùng gia đình xa hơn nữa là quốc gia. Đới nghiệp vãng sanh là mang theo nghiệp mà lên cỏi tịnh độ tùy theo nghiệp nhiều hay ít mà ở tầng thứ cao hay thấp nếu còn nặng nghiệp thì ở tầng Hạ-Hạ, Hạ- Trung , Hạ- thượng....cho tới Thương thượng cỏi này có 9 tầng cả thảy.Theo 48 lời nguyện của pháp Tạng TỲ Kheo, tức đức A Di Đà, người niệm được 10 niệm liên tục trước khi chết, họ có thể đã tịnh hóa được tất cả nghiệp chướng của mình trong tho82i hiện tại và vị lai , nhưng chưa chắc đã tiêu hết các nghiệp đã tạo trong vô lượng kiếp quá khứ.Do đó sau khi thành Phật dù ở cỏi Thương - Thượng họ cảm thấy mình chưa bình đẳng với chúng sanh lắm, những người mình hại còn bơi trong bể khổ, họ tiếp tục về cỏi ta bà để độ cho họ.Do đó khi hoa sen nở ra thì không còn thấy họ nữa. Đây là lời chỉ dạy của các thầy tổ tu đã có pháp thân ở cỏi trên ,nhưng vẫn trở lại làm người ở thế gian để hoằng pháp và phổ độ chúng sanh, hiện nay ở VN cũng có rất nhiều vị tuổi đời còn rất trẻ nhưng công đức vô lượng, đã có thần thông nhưng không bao giờ hé lộ.Tính tình điềm đạm, ăn nói nhẹ nhàng , ai đến gần cũng cảm thấy an vui.Nếu các vị tu tâm thật thanh tịnh, chắc chắn sẽ gặp được họ.Hàng đêm họ cũng lên pháp đàn để dò xét người tu hành .
  21. Ngunhubo tôi nào dám chê bai giáo pháp của ai , tôi chỉ nói lên cái mà người khác nói sai mà tự cho mình nói đúng, "PLC là Phật pháp uyên thâm nhất" Đây là tiêu đề in trên trang bìa đề của cuốn Pháp luân đại pháp. Và tôi cố tìm xem tu càng ngày càng lên cao tầng của sư phụ LHC là ở đâu, tìm mõi cả mắt cũng chẳng thấy. Đức Phật nói có nhiều pháp môn tu tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh, Ngài không bắt buộc ai cũng phải tu theo như Ngài cả, Phật giáo cũng có nhiều dòng truyền thừa khác nhau . Có ba hệ giáo chính là kim cang thừa ( gọi là Mật Tông) , Đại thừa và Tiểu thừa . Mật Tông cũng có nhiều dòng như dòng Kim Cang, dòng Chuẩn Đề , dòng Quán Thế Âm, dòng Liên Hoa Sanh, dòng Dược Sư.... Đức Phật chủ trương tu tập lấy quán chiếu tâm làm chính, dùng bát chánh đạo làm chỉ chuẩn, lấy giới định huệ làm cơ bản, dùng thiền chỉ quán để đoạn Tam độc, dùng thiền quán tưởng để nâng trí bát nhã thành thánh trí,huệ trí rồi liễu trí.Mục đích chính là để có chánh giác Tu tập tánh không để không chấp có cũng không chấp không có, vì tột cùng của có là không, và tột cùng của không là có. Ứng với mọi cảnh giới tâm không bị lôi cuốn vào , chủ trương thân tâm thanh tịnh làm cứu cánh, hỹ xả làm phương tiện để phá chấp rời mê .Pháp Hành luôn luôn hồi hướng về chúng sinh hữu hình và vô hình , tu tâm sao cho thật chơn thành và bình đẳng với mọi chúng sinh.Phải biết phát bồ để tâm thành tâm vô lượng để làm lợi lạc cho chúng sanh.Tâm từ dàn trải không phân biệt người hay vật. Người nào đạt được như vậy lập túc thành Phật.
  22. @rubi: có nhiều người khi chết liền bị rơi vào đị ngục vì trong lúc ở thân trung ấm các sinh linh mà họ mang nghiệp kéo đến đòi nợ, nhưng người nầy là người tu hành tinh tấn, họ cũng phải xuống địa ngục để trả nợ 1 thời gian rồi lên cỏi tịnh độ. Cũng có người tu hành đắc quả nhưng muốn cứu độ chúng sinh và quyết tâm ở tại địa ngục mà thuyết pháp và phổ độ. Do đó không phải ở cỏi Trời là cao, ở cỏi ngạ quỹ là thấp , khi xài hết phước cũng tái sinh về cỏi người trở lại. Do đó mới có chuyện con két (súc sinh) vãng sanh (thoát khỏi luân hồi) lưu xá lợi.
  23. Có nhiều người tu với tâm mong cầu thần thông để độ cho chúng sinh . Điều nầy cũng rất tốt cho việc hành đạo với bồ đề tâm, nhưng cần nhất là phải có tận lậu thông để biết oan khiêng tiền kiếp của người , thì mới có thể độ được, không phải thấy ai bị tà nhập hay bị bệnh nặng cũng dều nhảy vô giúp hết, nếu đây là sự trả nghiệp hay giải nghiệp của các oan gia với nhau thì sao? Anh ỹ có thần thông nhào vô cứu, oan hồn kia đâu có chịu, họ sẽ kiện và cuối cùng anh cũng phải chuyển kiếp để sang kiếp mới tu học trở lại. Nhiều vị sư và cư sĩ vì không hiểu lý nầy, họ rất giỏi có thể giúp người ta uống nước lọc mà khỏi bệnh, nhưng cuối cùng lại bị chết trước 50 tuổi. Do đó đạo Phật có ít nhất là ba điều mà nhiều người tranh cải - Một là "Có vay phải có trả" theo luật nhân quả - Hai là có thể phá giải được nghiệp dữ của mình nếu làm điều phước đức cực lớn, hay chuyển nghiệp lực thành nguyện lực. - Ba là đới nghiệp sãng sanh (mang theo nghiệp mà thành Phật) Mời các bạn tham gia đàm đạo!
  24. Đó là cỏi địa ngục. Tu là học sửa để giải thoát. Là thoát ra khỏi lục đạo. Nên nhớ dùm rằng đã nằm trong lục đạo thì Lục đạo không có cao thấp mà xuống dưới hay lên trên. Địa ngục với chữ địa không phải là lòng đất. Địa chỉ sự đen tối, ngục nói đến giam cầm. Tại thế giới của con người cũng có rất nhiều địa ngục, hai vợ chồng quánh lộn, thì nhà là địa ngục rồi. Trong giáo lý Phật Giáo không có sự ham muốn là giải thoát, là hoán chuyển cảnh giới tâm linh hoặc thích đi đâu ngồi đâu. Sự chuyển hóa này cần căn cơ, duyên khởi và định lực tu tập mà có. Mẹ của đức Mục Kiền Liên khi gặp ngài mới có được định lực để tu tập và được thêm tha lực của ngài mà giải thoát ra khỏi địa ngục. Đến đây chợt đặt ra câu hỏi. Thế thì nếu không có anh chị em chồng vợ cha mẹ là đức Mục Kiền Liên thì chẳng thể thoát khỏi địa ngục chăng ? Không phải như thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát sở dĩ nguyện không thành Phật khi còn địa ngục chính vì sự này. Quyết tâm tu tập, kiên trì muốn giải thoát, thì sẽ có sự hỗ trợ của ngài ở địa ngục.Và các chư bồ tát chư Phật khác cũng đang ở đây để giáo hóa và độ chúng sinh Trong duy thức học, 6 cảnh giới lục đạo có thể là vạn pháp (trăm nghìn cảnh tượng ta thấy và cảm được trong thân tứ đại ở cảnh giới Nhân loại), và vạn pháp quy tâm, nghĩa là do tâm sinh. Trong từng sát na (1 phần 10 lũy thừa 9 của giây, tức là 1 nano second) tâm ta biến chuyển theo ý thức. Do đó những biểu hiện của Vô thường như sinh lão bệnh tử, những cảm nhận tùy duyên khởi tương tác của lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), lục thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm, biết), lục trần (sáu hoàn cảnh nhận biết qua sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) và lục dục (ham muốn từ lục trần) mà thấy được 6 cảnh giới mà diễn đạt. Duy thức học nói đến lục đạo là nói đến sự hiển nhiên mà có, diễn tả cái nhìn toàn diện trong đời sống nhân loại dưới lăng kính Bất nhị nguyên lý trong cuộc sống Nhị nguyên lý nếu nhìn theo triết học Tây phương duy lý. Duy thức học Phật giáo giải thích lục đạo để hỗ trợ thêm các luận cứ các thuyết Vô Ngã, vô thường, bát chánh đạo, tứ niệm xứ chứ không phải đặt ra ranh giới lục đạo là vô vi. Nói như vậy để các học viên PLC phân biệt được khi nào người ta nói lục đạo tùy tâm; lúc đó là khái luận duy thức. Khi người nói lục đạo có sáu cảnh giới không gian và những giai đoạn luân hồi của thân trung ấm vất vưởng chưa đầu thai vào cảnh giới nào thì lúc đó người ta muốn nói đến định - nghiệp, nhân quả và luân hồi. Sau cùng, tóm gọn lại câu trả lời, là có lục đạo, dùng duy thức học Phật Giáo để giải thích biểu hiện trong đời sống hằng ngày của thân tứ đại, dùng thuyết luân hồi nhân quả để diễn tả những cảnh giới sau khi chấm dứt thân tứ đại, và tâm thức đang trong trạng thái biến chuyển. Phương pháp tự giải thoát khỏi các cảnh giới ở các lục đạo (còn gọi là trong thế giới Ta Bà) theo Phật Giáo duy nhất là tu. Hi vọng giải thích được phần nào thắc mắc của Vương Chu. Nừười tu theo Phật pháp , họ tu tập công đức để phát bồ đề tâm dùng công đức cứu giúp chúng sanh , chư Phật chư Bồ tất sẽ dùng tha lực của mình để độ cho những quả nghiệp có thể lấy đi mạng của người tu để trả nghiệp tiền khiêng và tiếp dẫn chúng sanh là chủ nợ của người tu có được kiếp người để tiếp tục tu giải thoát. Có nhiều người nghĩ rằng tôi tu là hết trả nghiệp trả nợ, không phải vậy đâu, hiểu như vậy là tà kiến là mê tín , và xem thường giáo lý của Đức Phật.Tất cả nghiệp quả ai cũng phải trả nếu nó đã thành quả, nhưng khi người tu hành tinh tấn xa rời tham sân si, thì nhân duyên ( ví như đất+nước +thời tiết +phân bón)không còn nên khó bị chiệu dụ để trả nghiệp. Thí dụ kiếp trước ta vì tham dâm mà chiếm hữu vợ người, bây giờ oan gia đang làm thân ngạ quỹ sẽ đòi nợ xưa, nhưng vì tham sân si của người tu không còn nên không có khởi lên cái duyên nghiệp dâm để tay nầy đòi nợ được, khi đó chư bồ tát sẽ đến và giảng cho hắn nghe, hắn thấy cái sự chứng đạo của người kia là kết quả trước mắt và sẳn sàng nhận một ít phước báu để đầu thai làm người và kiếp sau có chủ ý tìm đầu thai vào gia đình Phật tử....
  25. Từ những lời dạy sâu xa như trên , Đức Phật còn nói đến tánh không là tánh cần phải tu luyện của người tu, nếu đạt được thần thông hay chứng ngộ điều gì, thì cũng xem như chẳng có gì!vì nó chỉ là huyễn ảo , và vạn pháp đều là không thật có. Ở đây LHC dạy cho đệ tử phát chính niệm để tiêu diệt ác tà, phát chánh niệm để làm mờ mắt quan chức....xem thần thông như là một cảnh giới, mà người tu cần phải đạt tới và xem nó là cứu cách là mục đích của sự tu tập. Các tầng cao tầng mà ông nói nó có nhưng nằm ở đâu trong 33 cỏi trời dục giới ? không biết ông có biết hay không? Ông chỉ nói người tu sẽ lên cao tầng, tu theo ông có giải thoát khỏi luân hồi hay không? ông không hề đề cập.Muốn phá nghiệp hay chuyển nghiệp quá khứ bằng cách nào , ông cũng không nói. Đức Phật có nói , người tu có thể dùng công đức của mình để trừ những nghiệp quả nhỏ, do vô ý hay vô minh phạm phải từ nhiều kiệp, nhưng những nghiệp lớn mà đã kết thành quả thì không thể né tránh được, như A La Hán Mục Kiền Liên thần thông đầy mình vẫn bị trả quả tiền khiêng bị đánh chết giữa chợ. ...............