NguNhuBo

Hội viên
  • Số nội dung

    36
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About NguNhuBo

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. Bạn nói đúng tôi đó!Tôi rất xem trọng cái ngộ của mình về kinh nầy, vì đã tìm trong tất cả các bài giải , giảng, sớ sao về bát nhã ba la mật đa, tất cả các bản dịch đều là :"Bơi qua! Đi qua", riêng tôi tôi cho rằng không phải có ý nghĩa nầy mà phải là " bỏ qua! bỏ đi!" và tôi cũng ngộ ra một điều là chẳng có bến bờ nào cả , con sông chỉ là huyễn, chẳng có bờ bên đây là ta bà tờ bên kia là tịnh độ , khi thân tâm thanh tịnh thì ta đang ở cỏi tịnh độ trong cỏi ta bà nầy. Cũng như nói về pháp môn niệm Phật tam muội, riêng tôi người sơ cơ chỉ nên tập trung 7 biến hay 21 biến làm một mảng không xen tạp rồi niệm tiếp, kẻ cao căn hơn có thể niệm 100 biến không xen tạp, số biến nầy gọi là mảng, nhiều mảng sẽ kết thành 1 khối, chính như vậy hiệu quả của tiếng niệm Phật mới mạnh mẽ . Còn nói về người tu theo thánh đạo và tu theo Phật đạo, thì tùy duyên, nhưng nếu người tu theo thánh đạo không có chủng tử bồ đề thì là Phật tử ta phải gieo giúp cho họ, để có lúc họ sẽ ngộ ra. Tôi có người bạn tu, ở nhà anh thắp 1 cây nhang vợ cũng không cho, anh vẫn kiên trì tụng, nghe tụng , vợ cũng không cho , thì anh niệm thầm, ròng rã suốt 7, 8 năm trời anh kiên trì và tu như thế, đến một lúc nghe bạn bè nói anh tụng kinh Phổ môn để nhờ Bồ tát cảm hóa vợ mình, anh mang về nhà dĩa thuyết pháp của các đại sự, vợ dành máy để xem phim, anh phài nghe ở giờ ai cũng ngủ hết, tới một lúc, vợ anh mở máy đột nhiên nghe vị sư thuyết về đời , thấy có lý, và nghe hết dĩa đó, xem xong thì ra đó là dĩa số 1, còn dĩa số 2 ở đâu? Chị hỏi anh, và thế là từ đó chị thích nghe, từ từ anh lại thắng nhang được và tụng kinh niệm chú thoải mái. Những người ở nước ngoài rất chú trọng về pháp môn tu niệm Phật tam muội nầy, ráng công tu tướng để lúc hấp hối tinh thần tỉnh táo mà niệm Phật, vì theo bổn nguyện thứ 18 của đức A Di Đà thì sẽ đặng vảng sanh. Hay chí ít cũng tránh được ba đường dữ. Hiện nay tôi cũng chẳng còn cầu pháp nữa, vì pháp của tôi hiện nay là vô pháp. Thân mến
  2. Từ trước tháng 9-2009 tôi chưa hề đọc qua kinh Phật , đây là sự thật, lúc khoảng U 30 tôi theo pháp vô vi, vì lúc đó nhiều bạn bè bs ,ks, kts theo pháp nầy nhiều lắm, tôi cũng nằm trong số đó, sau vài ba năm sau, tôi nhận thấy mình đã lầm đường, vì suốt ngày cứ soi căn cho người này người kia, nhìn vong nhập vào họ....lúc đó mình vẫn chưa có trạch nhãn để xem do đâu mà vong nhập, do nghiệp hay do vong lang thang...., sau đó tôi chỉ dụng tâm đi đứng nằm ngồi tâm tịnh và thiền quán thân, từ tháng 8 năm nay tôi vào các điễn đàn và tham gia luận đạo, lúc nầy tôi mới tra cứu kinh điển trên internet, và đọc các kinh hiểu rất nhanh ( xin lỗi, khi xưa tôi cầm một cuốn kinh lên, chỉ đọc chưa quá 3 dòng là buồn ngủ)Sau đây là nhận định của tôi về Phật pháp: " Vạn pháp do tâm tạo, do đó không thực có duy nhất pháp môn nào giúp cho tất cả chúng sanh chỉ dùng duy nhất nó, mà đi đến giác ngộ, Vì sao? Vì căn cơ , vì chủng tử bồ đề của mỗi người mỗi khác. Có chủng tử lớn có nhỏ có, có cái như hột mè có cái như cái nhà, Cái hay của đạo Phật là học đạo bằng TÂM chứ không phải bằng TRÍ, vì cái mà ta dùng bể suy luận đúng sai chánh tà chẳng qua đó chỉ là TƯỞNG TRÍ. Hay nói cách khác cái mà mọi người chúng ta đều gọi nó là TRÍ, vì nhờ sống lâu ngày có kinh nghiệm, suy xét kỹ lưỡng hơn người khác, vì nhờ đọc nhiều sách biết cách sắp xếp và biện luận, vì rằng chúng ta đã học qua các phương pháp quy nạp, các phương pháp loại suy, các phương pháp phản biện…. Tất cả những cái đó nó chỉ ra cho ta việc đó là đúng hay sai là chánh hay tà, theo các quy chuẩn mà tự ta hay nhiều người cho là đúng để làm chuẩn mực mà so sánh. Còn học đạo bằng tâm thì sao? TÂM không cần phân biệt đúng sai , chánh tà, nó là cái mà trong điện tử số (digital electronics) gọi là “trạng thái thứ ba” là trạng thái không xác định, hay “chẳng cầu xác định”, vì sao ư? Nếu ai chưa nghe bài kệ nầy, thì xin hãy nghiền ngẫm nó: "Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ. Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động. Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp." Và lời kết : "Chẳng nhận được bản tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm, thấy được bản tánh, tức gọi là Trượng phu, là Thầy cõi trời, cõi người, là Phật." Chính vì thế mà Đức Bổn sư có nói rằng ta chưa hề thuyết pháp, vì sao? Ngài nói cái tâm của chúng sanh, nó là thường hằng mà chúng sanh không biết có nó, cũng như có người kia, làm thức ăn xong giắc con dao phía sau cánh cửa, khi mở cửa ra dao bị che khuất, và đi tìm , có ai đó nói: -Tôi thấy con dao của chị sau cánh cửa đó. Vậy nếu ai nói ra sự thật đã có, đã hiện hữu ,người đó có phải là thuyết hay không? Nếu ngài nói về cái tâm nào đó thì có đúng cho mọi tâm của chúng sanh hay không? Do đó mới có vạn pháp, và tùy cái tâm chúng sinh mà Ngài thuyết, và quả thật không có duy nhất một pháp nào cả, có cái thì phải dùng hình tượng để thờ gọi là hữu vi pháp, có pháp thì chẳng thờ tượng gọi là vô vi pháp, có pháp thì nương nhờ vào Phật lực gia trì gọi là mật pháp…..Từ đó các pháp chỉ là huyễn, nhưng pháp mà tôi đang hành trì đây phù hợp với cái tâm của tôi, nên tạm gọi là pháp . Chỉ duy nhất có một pháp môn niệm Phật tam muội liên tục, không gián đoạn,pháp nầy luôn luôn phù hợp cho từ người thượng căn ,tới kẻ hạ căn, từ người thượng trí tới người ngu ngốc, tất cả đều có thể hành trì và có thể đi tới vô thượng bồ đề.Pháp nầy phù hợp với tất cả các tâm của chúng sanh, thật bất khả tư nghì trong thời mạt pháp nầy. Mấy dòng trên đây có thể không hợp với tất cả các vị, vì sự cảm nhận của tôi về đạo Phật là như thế. Mong muốn cùng với chúng sinh sớm thành Phật đạo trong hiện kiếp , không phải là ÁI -DỤC, mà là NGUYỆN, vì khi tu tập công đức thì pháp của tôi là hồi hướng tất cả các công đức đó cho chúng sanh 6 cỏi luân hồi và mong cầu cho mình và chúng sanh cùng hoàn thành Phật đạo , khi bỏ báu thân nầy thì sẽ về cỏi tịnh độ, hoặc có kết quả làm người để độ sanh tiếp tay với các vị bồ tát. Đây là hạnh NGUYỆN, không phải là ÁI-DỤC như bạn nghĩ đâu.Chưa ai thấu đạt được ý nghĩa của Bát nhã Ba La Mật đa Tâm kinh bằng tôi khi đọc câu: "Bỏ đi! bỏ đi! cho nó ở lại bờ bên nầy, còn ta phải sang bờ bên kia kìa! mới là trí tuệ, mới là giác ngộ bồ đề, lành thay!" ( Gatê ! Gatê! paragatê Parasamgate Bodhi svaha) Con người hay nương vào hiện tượng rồi chấp vào nó, thường không bỏ qua cái gì kỳ diệu hay đặc thù, thì câu nầy của Phật chính là :tất cả những gì mà nhà ngươi cho là có thì thật ra nó không có, chẳng có gì là chứng đắc và cũng không có gì là không chứng đắc, vì thế Ngài khuyên người tu hãy bỏ đi! bỏ cái phàm ngã của mình để thấy cái chơn ngã, bỏ cái phàm tâm để thấy cái tự tánh, và tất cả những thần thông, những sự chứng nghiệm cũng chẳng phải là cái mới gì, mà nó đã có hiện hữu trong ta từ vô thỷ , và nó thường hằng ,không sinh không diệt, nhưng vì tự tánh chưa hiễn lộ nên nó không thể phơi bày.Khi bạn kiến tánh thì lập tức tâm thức của bạn trở nên sáng suốt tột cùng, mà chính bản thân của bạn cũng không thể ngờ được đâu. Thân chào bạn, chúc bạn luôn tinh tấn trên con đường cầu đạo
  3. @chanhta: bạn đã hiểu được thâm ý của tôi rồi đó! Mỗi một chúng sinh đều có Phật tánh, với phàm tâm họ tìm đạo nào mà có sự linh ứng thị hiện liền theo, thật ra tu theo đạo Phật không khó, cứ lần theo con đường truyền đạo của đức Thích Ca và học theo, tứ diệu đế , thiền tứ niệm xứ, hành bát chánh đạo , tu tập tánh không qua bát nhã ba la mật đa tâm kinh, sử dụng vi diệu pháp và thiền chỉ quán để chặn tâm Si phát khởi thì sẽ đoạn trừ được cả 3 tam độc và sẽ rời xa phiền não, nhưng do đâu mà ta có Tâm si , do ÁI là yêu là thích, Dục là mong muốn mong cầu cái gì đó về cho mình, chính ÁI DỤC là nguồn gốc của Vô minh (SI phần) , kinh thủ lăng nghiêm đã có nhấn mạnh hai điều nầy, dứt tham sân si là niết bàn, rời ái dục là trí tuệ bát nhã, nếu để dâm sự tồn tại mà ngồi thiền thì ví như nấu đá sỏi mà muốn thành cơm, còn nữa nếu để tâm không mà ngồi thiền như PLC thì là chiêu ma dụ quỹ chẳng được cái gì, vì không phải cái lý tâm vô trụ là tâm không nghĩ ngợi, mà là ứng với mọi cảnh , mọi thức , tâm không bị vướng vào, vô niệm không phải là không có niệm, mà là không có vọng niệm, nhưng vẫn duy trì chánh nhiệm, trong mọi cảnh thần thức đều biết nhưng tâm không vướng vào đó là chân định vậy.VẤn đề nữa ai tu Phật mà không biết phát bồ đề tâm thành tâm vô lượng, chuyển phước đức thành công đức và hồi hướng cho chúng sanh thì chỉ là kẻ tu PHƯỚC , chứ không phải tu để giải thoát, vì không giải được nghiệp quá khứ, lại còn cho vay phước để tương lai mình hưởng ( tạo phước kiếp nầy kiếp sau phải hưởng phước). Ai cũng nghĩ phải tu nhiều kiếp mới thành Phật, thật sự không phải vậy, chỉ cần tu một kiếp nầy là ta có thể thành ,hay chí ít cũng về cỏi A Di Đà, nếu ta biết cách đi đúng đường và tinh tấn . Sự thật 6 cỏi luân hồi nầy tương đương như nhau đối với nghiệp quả, ngay lúc ở cỏi người , ngay lúc cận tử nghiệp, ma nghiệp đến đòi nợ tại lúc đó , nếu tội của người chết phải bị đọa đị ngục, thì cũng phải đi theo thôi, còn nếu được lên cỏi thiên, xài hết phước lại trở xuống, tại thời điểm đó có báo nghiệp đến đòi nếu nghiệp phải làm súc sinh thì cũng phải chịu, nếu không có báo nghiệp nặng thì có thể xuống cỏi người để tu tiếp tục.Tuy vậy, nếu người tu biết quy y Phật và thân tâm thanh tịnh, tín nguyện hạnh sâu dầy, thì sẽ gặp Thầy tìm đến truyền pháp để tu, đạo Phật có điều đặc biệt là Thầy tìm trò, và khi tu theo Phật thì có hộ pháp, nếu đạt được mức độ thân tâm thanh tịnh , tinh tấn thì sẽ đạt tới cỏi tịnh độ tại ngay cỏi ta bà nầy, tức "tùy cầu tức đắc" , khi nào cần trả nghiệp thì trả, khi không cần thì thôi, có thể lấy công đức của mình để giúp "cựu nghiệp" được về cỏi người tu tiếp. Thân mền, cảm ơn đã đọc
  4. Tu như họ họ cũng chả có nhận mình là đắc cái gì đâu, vì bát nhã tâm kinh họ nhập tâm rồi! Chả có gì mà chứng đắc hết!Đối với Phật pháp do chính đức Thích Ca đã giảng , thì cỏi trời vẫn còn luân hồi Vương Cu ới ơi, do đó tôi mới nói LHC giúp học viên lên cao tầng là lên cỏi trời, mà cỏi nầy thì không thể thoát khoỉ luân hồi là ý đó đó! Đọc kinh Phật lại đi 6 cỏi luân hồi cỏi thiên , cỏi A tu la, cỏi súc sinh , cỏi người , cỏi ngạ quỹ và cỏi địa ngục, như vậy cỏi cao tầng mà LHC đề cập là cỏi thiên đó. Nhiều người tu còn mong nếu mình không thoát khỏi luân hồi thì mau trở lại kiếp người để tu tiếp , vì lên cỏi trời, xài hết phước có khi rơi xuống , muốn xuống lại làm người cũng phải tùy duyên của cái lúc rới xuống có bị nghiệp vây bủa đòi nợ hay không , có khi lại xuống địa ngục nữa kìa ...he he...
  5. Người tu theo PLC cũng có thể một chợt đốn ngộ sẽ hiểu rằng pháp nầy không thật sự đem sự giải thoát cho mình, họ sẽ lập tức thể nhập vào tâm và tìm Phật ngay trong tâm của mình, vì họ đã gìn giữ cái gốc thiện gìn giữ cái hạnh tham nhẫn , phá cái tâm chấp trước, tu theo chơn thành, họ chỉ thiếu biết rằng ta và chúng sanh bình đẳng, và tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh vì mong cầu thần thông, họ cũng có thần thông , nhưng thần thông của những linh hồn vừa mới ra khỏi xác , là ma thông không phải Thần thông của Phật, xin nói rõ ma quỹ đều có thần thông. Chỉ vì duyên của họ chưa có với Phật nên họ chưa biết, cũng có thể kiếp trước họ đã tu theo đạo Phật cũng có làm sư thầy nhưng vì giới hạnh xấu nên bị đọa và sợ tu theo Phật.Phật có nói thời mạt pháp, nếu có ai nói pháp gì hợp lý hợp với căn cơ thì cứ theo, miễn sao tu cho tâm thiện hành thiện làm lợi ích cho người cho đời và từ đó họ sẽ gặp thiện trí thức dẫn dắt đi vào chánh đạo. Rất tiếc những người theo LHC chưa hề gieo chủng tử bồ đề trên ao báu của đức A Di Đà nên sẽ khó được vô lượng Phật theo dỏi về chủng tử của đạo tâm, mà chỉ có một mình LHC phải theo dỏi cho hàng triệu học viên của mình (nếu có) Chúng sinh PLC lặn hụp trong bể mê , họ cho rằng cứ tu theo như thầy LHC dạy , thì sẽ lên thiên đàng , họ có ngờ đâu cỏi thiên đàng người tu giải thoát không bao giờ cầu tới. Pháp nhản thông của sp LHC còn chưa biết cao tầng của mình là ở đâu, ông đang là ai? Nhưng tuyệt nhiên không có ai hỏi ông điều nầy cả, vì sao? vì họ sợ nếu hỏi, ông lấy lại cái bộ khí cơ đã gắn ở bụng mình , thì không còn tu theo PLC được. Tôi chỉ xác nhận một điều rằng PLC không hề giúp con người được giải thoát khỏi luân hồi, nhưng không phải là tà pháp nếu người tu theo pháp nầy với tâm không mong cầu thần thông, chỉ có sư phụ LHC là tà nhân mà thôi vì vọng ngữ, để dụ người ta tu theo pháp của mình.Dùng sai các ý nghĩa của Phật ngữ.
  6. Tôi hỏi bạn .Cái gì mà làm lợi cho chúng sanh thì là cái gì? PLC cũng có lợi cho nhiều người bệnh tin vào và tập mà khỏi bệnh.Bên Tung Của cũng cố ghép PLC thành tà pháp để triệt hạ nhưng không thể tìm ra sơ hở, vì họ không lấy tiền ai, giúp miễn phí, cái nầy thì đụng với các sư thầy trong chùa rồi, vì thầy thấy đệ tử cúng dường cho chùa ít xín có thèm để mắt tới đâu, phải không? Tôi chỉ tiếc cho LHC vì muốn phổ biến pháp của mình, mà mượn danh từ Phật Pháp là sai, đó là vọng ngữ là một giới mà đức Thích Ca ngăn cấm các đệ tử của người . Ông ta nghĩ rằng chữ Phật có nghĩa là GIÁC , không phải Phật là Buddism , nhưng chữ Phật của Hán âm chính là dịch từ Pali là Budda ( Phật Đà, tức đấng giác giả) .Nếu ông ta nói GIÁC PHÁP thì không ai cải làm gì, vì nó cũng giúp con người thăng hoa tiến bộ, giảm ác hành thiện, lấy chơn thành đối đải lấy nhẫn nhịn làm hạnh sẽ có lúc đốn ngộ mà thành thánh nhân. Điều thứ hai tôi phản đối LHC là ông không hề cho các học viên biết sau khi chết họ có thoát khỏi luân hồi hay không? Vì mê lầm họ theo ông, bỏ cả Phật pháp họ tu đã lâu, rồi thì.....Các tầng thứ mà ông nói là cao tầng có liên quan gì tới các cỏi tịnh độ của A Di Đà, hay 10 phương cực lạc của chư Phật. Hãy vào trang Minh Huệ mà xem, tất cả học viên PLC mong cầu thần thông như thế nào, đây cũng là một điều thể hiện cái sai của LHC khi truyền pháp, do tà kiến muốn thu hút đệ tử . Ai đi tu mà tu theo thần thông thì sẽ có ngày....... Vì các học viên tu theo PLC nên không có hộ pháp của chư Phật và Bồ Tát mà chí LHC phải hộ pháp....đây là một sai lầm rất lớn, ai muốn học chỉ được phép đọc cuốn sách của sư phụ và chỉ người khác đọc theo, sp nghiêm cấm đệ tử nói pháp.....!!!! Các bạn chớ nên phân biệt chánh tà mà chỉ nên phân biệt lợi hại mà thôi, nếu tu chơn thành theo phật pháp thì được giải thoát khỏi luân hồi, pháp nào cũng là pháp, hãy chứng minh PLC giúp học viên tháot khỏi luân hồi đi, nếu được như vậy, thì tại sao đây không là chánh pháp!
  7. Sự thật PLC không hại ai cả, trái lại còn giúp cho người ta làm lành lánh giữ, có sức khỏe, chính kẻ muốn hại PLC cũng không tìm được cái tà của PLC, La người không ai mà không đau sót cho các học viên PLC bị hại cả.Chúng tôi chỉ chỉ trích một điều duy nhất là chính vọng ngữ của LHC cho là đây là Phật pháp cao thâm vi diệu nhất, đã làm cho PLC được đề cao và gây sự chú ý của đa số vì động tới tâm THAM cầu của đa số các người chưa có Huệ trí , họ hiểu lầm theo lời LHC rằng: tu pháp nầy sẽ được sức khỏe và mở thiên mục......có thần thông...v v.... Nếu ai cho rằng tu PLC mà vẫn muốn giữ đạo của mình thì hãy đọc cho kỹ cuốn chuyển pháp luân sẽ rõ. Khi đã chọn PLC thì không được theo đạo của mình.
  8. PLC giúp người ta có sức khỏe,tu tâm tính là tốt chứ không sai, chính bản thân tôi xem việc đó là có ích lợi cho quần chúng cho xã hội, nhưng LHC không thể dùng những Phật ngữ mà Phật đã dùng cho pháp nầy được, và gọi đó là Phật pháp được dễ gây hiểu lầm, vì Phật định nghĩa một đàng, LHC định nghĩa khác đi, tôi thí dụ : nhà Phật dùng từ chính niệm , thì LHC cũng dùng từ "phát chính niệm " nhưng có ý nghĩa khác, Nhà Phật dùng từ "Chuyển Pháp luân" với ý nghĩa là thuyết pháp để chuyển pháp nầy đến cho ai đó, LHC vẫn dùng từ nầy nhưng với ý nghĩa khác. Ngoài ra còn vọng ngữ cho rằng đây là Phật pháp uyên thâm nhất, ông ta có thể dùng Bụt pháp uyên thâm nhất thì OK.Nhưng nếu LHC dùng từ Phật pháp ( Buddism) thì phải xem lại con người của ông.
  9. Lục thông là họ có 6 thần thông, còn pháp thân là khi họ lên đàn, họ có thể chia pháp thân ra nhiều thân khác để quán chiếu từng đệ tử một, trong cùng một lúc . Các pháp thân nầy hoạt động độc lập với nhau . Điều nầy cũng có nghĩa là , họ đã đạt quả vị A La Hán hay Bích chi Phật là tối thiểu và có pháp thân ở cỏi trên, xuống thế với ứng hóa thân để làm Phật sự.
  10. Pháp luân tự có ở mỗi chúng sinh, chẳng qua nó không quay là vì thân tâm chưa thanh tịnh tự tánh chưa lộ diện, mê lầm vì tin rằng sư phụ lắp bộ khí cơ cho quý vị ở bụng dưới, mà chỉ có sư phụ mới được lắp thôi à nhe! và các học viên tin đó là bánh xe pháp, Sư phụ là chuyển luân pháp vương đó! vì là người chuyển cái pháp luân đó cho quý vị.Nếu tu tập như sư phụ quý vị dạy thì khi chết cũng có thể lên cỏi trời nếu tội nghiệp nhẹ, và còn phước còn không cũng ở tầng A tu la, các tầng đó sp nói là cao tầng, thì cũng đúng có 33 tầng trời dục giới.... Chẳng có ai vãng sanh ra khỏi luân hồi kể cả sp quý vị. Theo định nghĩa pháp luân thường chuyển như sau:(theo Cao đài tự điển) Pháp: Giáo lý, giáo thuyết của một nền tôn giáo. Luân: cái bánh xe. Thường: luôn luôn. Thường chuyển: chuyển động luôn luôn. Pháp luân là bánh xe pháp, bánh xe giáo lý của Phật. Bánh xe tượng trưng giáo lý, cũng như hoa sen tượng trưng ngôi vị của Phật. Giáo lý của Phật như cái bánh xe, lăn tới trước mãi, đưa chúng sanh tiến hóa mãi trên đường giải thoát. Bánh xe khi lăn tới đâu thì cán nát các loại gai cỏ, cũng như Giáo pháp của Phật truyền tới đâu thì nơi đó hết vô minh và phiền não. Sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo, Ngài thuyết pháp lần đầu tiên tại thành Bénarès với đề tài Tứ Diệu Đế để độ nhóm 5 anh em ông Kiều Trần Như. Đó là Đức Phật chuyển Pháp luân, tức là Đức Phật bắt đầu vận chuyển bánh xe Pháp cho lăn tới, nhờ thế mà 5 vị nầy giác ngộ, qui y theo Phật, đắc quả A-La-Hán. Đó là Phật chuyển Pháp luân lần thứ nhứt. Đức Phật chuyển Pháp luân lần sau cùng, trước khi Phật nhập Niết Bàn, tại Hội Pháp Hoa, thuyết giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo pháp thượng thừa của Phật, độ vô số chúng sanh vào Đại thừa, đắc Phật huệ. Pháp luân thường chuyển là đạo lý luôn luôn chuyển động đi tới như một bánh xe, để cứu độ chúng sanh, đưa chúng sanh lên đường tấn hóa đến bờ giải thoát. Việc đi Hoán đàn trước khi cúng Đại đàn nơi Tòa Thánh tượng trưng Pháp Luân thường chuyển. Chúng ta phải đi từ cấp 1 CTĐ (Địa Thần) lên cấp 9 CTĐ (Thiên Tiên), lên Cung Đạo (Phật vị), rồi trở xuống cấp 1 CTĐ, lại vòng lên trên rồi mới đứng vào vị trí của mình. Khi đi lên là Phàm nhập Thánh, khi đi xuống là Thánh lâm Phàm, rồi đi vòng trở lên là Phàm nhập Thánh. Đi như vậy là Pháp luân thường chuyển tức là đắc đạo -------------- Pháp luân thường chuyển của LHC có ý nghĩa khác với của Đức Thích Ca , do đó dùng danh từ Phật ngữ để dùng cho Pháp của mình, cũng như từ "Chính niệm" của LHC không phải là từ của Phật. Còn Phật pháp của LHC là của LHC không có động gì đến giáo lý của Phật Thích Ca cả. Các bạn nghiên cứu nên vào trang PLC tải về nghiên cứu . Thân mến
  11. Sẳn đây tôi xin đưa lên đây một pháp môn mà các vị thánh đã từng tu học. Ðạo Ðế (Nirodha Gamadukkha) Bát Chánh Ðạo A. Mở Ðề Trong 37 món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một. Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đều áp dụng pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại. B. Chánh Ðề I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh Ðạo Bát Chánh đạo là tám con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu. Người ta cũng có thể dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh. Cũng có khi người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó sau đây: a) Những kẻ phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh. :) Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết Bàn. Bát Chánh đạo gồm có: 1. Chánh kiến 2. Chánh tư duy 3. Chánh ngữ 4. Chánh nghiệp 5. Chánh mạng 6. Chánh tinh tấn 7. Chánh niệm 8. Chánh định II. Nội Dung Và Giá Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo 1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được. 2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải. Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người. 3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời nói. Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi: Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu? Phật dạy: Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu. Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế. 4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích co người lẫn vật. Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghền ghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác. Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh. 5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác. Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp. 6. Chánh tinh tấn: Chữu tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật. Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn). Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuấ thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh. 7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu. Chánh niệm có hai phần: a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền. :rolleyes: Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ. Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niêĩm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng. 8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người. Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây: Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ). Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh. Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp. Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp chấp. Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức. C. Kết Luận: Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau đây: 1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm me mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ. 2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày say gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo. Tổng Kết Về Ðạo Ðế Chúng ta vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau. Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng ta tùân tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ, cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế nào cũng phải đến đích. Hỡi quí vị Phật tử ! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt đích. Chúng ta, đàn con Phật , những người đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối thác ! Vậy chúng ta hãy mau mau cất bước lên đường giải thoát.
  12. Tôi cũng đã muốn rời topic nầy, nhưng thấy bạn viết câu nầy tôi thật tình không hiểu. Phật và chúng sanh có khác hay không? Phật đã từng nói : "ta là Phật đã thành còn các ngươi là phật chưa thành", ai ai cũng có Phật tánh nhưng vì u mê như các bạn tin theo mấy tà sư như ông Tám , LHC, bà TH.....mong cầu xuất hồn, thần thông, phát quang linh điển, do đó dù cố tâm tu thành người tốt, nhưng không bao giờ tìm ra được con đường giải thoát khỏi luân hồi . Tại sao ta không thể lập lại các lời nói của Phật, Tổ, Thánh, như vậy các chùa không nên tụng kinh hả bạn? Vì đa số kinh là lời Phật dạy. Nếu không lập lại lời Phật dạy Ngài ANan : [i]- A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”.[/i] Thì làm gì thấy được cái chuẩn mực nào cần yếu nhất để tu Thiền đây? LHC có biết câu nầy hay không ?, và có dạy đệ tử giống đức Phật dạy Ngài A Nan hay không? Chính vì có chấp trước nên ta mới cần phải lập đi lập lại các lời nói của chư Phật mà tu học theo.Bạn đừng nghĩ rằng chỉ có một mình LHC là có pháp thân. Tại TP HCM nầy cũng có hơn vài ngàn vị đã có lục thông và pháp thân , nhưng họ vẫn đang ẩn tu và làm Phật sự , trẻ nhất 15 tuổi còn già thì cũng không phải là ít, nhưng đa phần là tu sĩ tại gia , đã đoạn được ái dục. Bạn nêu ra từ "thực chứng" như vậy là có giả chứng rồi.Sự thật cũng chẳng có Phật, tổ , bồ tát nào chứng đắc cái chi cả đâu! Phật nói mọi chúng sinh ai cũng có Phật tánh, phật tánh còn có tên gọi khác là tự tánh , nó vốn tự có không sinh không diệt, chỉ vì sự vô minh mà bị che mờ, do đó ta không thể nhìn xa trông rộng, không thể có trí tuệ để thông hiểu các pháp , không có trạch nhản pháp để biết pháp nào tà pháp nào chánh. Người tu Phật mà nói tôi đã chứng quả thì thật sự là chưa biết tu Phật. Cái kiếng mình có sẳn, không biết quét dọn lau chùi, soi mặt không thấy, sau khi tu càng ngày kiếng càng soi rõ mặt, cái đó có phải là tu chứng hay không, do đó Phật đã dùng hơn 22 năm Ngài thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh để thuyết cái Tánh Không, vì vô minh, vì chấp trước mà bạn không hề biết , những người tu theo chánh pháp không bao giờ họ đề cấp tới từ "tu chứng" họ cũng không đặt thần thông là quan trọng và xem thường các công năng đặc dị nầy, và không bao giờ dùng nó, vì nếu bạn có tâm dùng thần thông, sẽ bị ma pháp dẫn dắt ngay, Ma quỹ có thần thông hay không xin hỏi bạn? Có khi nó còn giỏi hơn cả LHC nữa đấy! Chính vì trong tâm của bạn không có chánh niệm, chánh kiến nên bạn lý luận bị vướng tà kiến quá nhiều. Câu nầy của LHC cũng nói lên cho bạn thấy LHC không hề biết luật nhân quả: " Tu là tùy vào chính ḿnh, Công là tùy vào Sư Phụ” Phật nói sao ? Tự tu tự ngộ tự độ thân Tự tìm pháp lý hợp căn thân Tám vạn pháp mầu chỉ cầu một Chớ tin ai nói cho rằng đúng Dẫu Phật hiện ra cũng chớ tin Hoằng pháp cứu đời giúp thế gian Bồ đề tâm khởi thành vô lượng Bờ giác bên kia sẽ có ngày Phật nói ai tu tự ngộ tự độ thân mình, không ai cứu được ai cả, ngay cả Phật vẫn còn phải trả nghiệp ăn thức ăn cho ngựa ba tháng để trả nghiệp một tiền kiếp Ngài đánh cá và sát cá kia mà. Hôm nay LHC là sư phụ, nhưng biết đâu trong các đệ tử của va kiếp nầy là thầy của LHC trong tiền kiếp! Tại sao tôi tu thì tùy vào tôi mà công của tôi tùy vào sư phụ vậy?Vậy sư phụ là người ban phước cho tôi nếu tôi tu theo đạo của người hay sao?Nếu sư phụ chết đi , trong thời điểm cận tử nghiệp các học viên LHC đã chết vì PLC, chợt ngộ ra rằng đây là tà pháp và mình bị dụ theo tà pháp đến đòi nợ, liệu ông ta có thoát khỏi địa ngục hay không? CÔng phu của ai, công đức của họ, không ai tu dùm ai được, đó là chánh kiến Không phải ai nói cũng tin, phải dùng trí tuệ quán xét đó là chánh tư duy Thân chào!
  13. Tôi chỉ có ý kiến thế thôi, vì thấy sái quấy mà không nói ra thì có lỗi với chư Phật, khi nói ra dù trúng hay sai thì cũng mang khẩu nghiệp. Do đó , tôi xin ngưng bàn về chủ đề nầy, tùy duyên nghiệp của các vị mà chọn cho mình pháp tu giải thoát. Thân mến
  14. Tôi chẳng phải nghe cái gì ai nói hay rồi cũng thử, mà tôi nghe họ nói PLC là tà pháp nên tôi tập thử xem nó tà ở chổ nào thôi, còn vấn đề tôi nói cho bạn là những thực nghiệm mà tôi đã thử, tôi chẳng hề thêm điều gì bậy bạ khác vào; tất cả các bài giảng tôi đều tải về và nghiên cứu , thật sự chẳng thấy Phật pháp cao thâm vi diệu nhất ở đâu cả (xin hiểu Phật pháp là pháp giác ngộ, không phải là pháp của Đức Thích ca, cứ tối ngày lên cao tầng rồi lại lên cao hơn , chê bai các pháp của người khác, ai đã tập PLC thì không được tu theo các giáo phái khác v...v..) bạn ráng tập PLC nó sẽ giúp bạn giải thoát khỏi lục đạo luân hồi đấy .Và thiền theo PLC sẽ chứng ngộ được đại định đấy.Phật đã không nói pháp là tùy căn cơ , do đó mới có 84 ngàn pháp môn đó sao? nếu ai cũng ngồi thiền được thì Phật cần chi chế ra các pháp môn khác làm chi. PLC không sai , giúp người tập khỏe mạnh , nhưng LHC quá vọng ngữ và mê hoặc người khác , dụ người tu theo , đây là một tội nghiệp rất lớn, không nhỏ.Nhất là kêu gọi học viên phát chánh niệm " pháp chánh càn khôn tà ác toàn diệt , pháp chánh thiên địa hiện thế hiện báo" do đó ai niệm cái nầy thì hiện thế hiện báo là phải thôi, vì niệm cái nầy đồng nghĩa cho tôi trả nghiệp trong một kiếp nầy.Tất cả các đạo hữu đều được pháp thân của sư phụ LHC che chở và hộ pháp. Nhưng khi sp rời khỏi thế giới ta bà nầy xuống âm phủ vì cái tội vọng ngữ thì lấy ai hộ pháp đây?
  15. Theo tôi thì không phải sử dụng nhiều năng lượng để nhìn, người mở nhản toàn phần có thể vừa nói chuyện với anh, mắt vẫn mở mà vẫn nghe thấy tâm ý của người đối diện , họ có thể nhìn thấy hộ pháp của huynh (người nào tu cũng có hộ pháp, nhiều vị tu nhiều năm có vài chục vị theo độ là ít) còn ở pháp đàn của họ thì không kể xiết nếu có xá lợi của Phật và chư Bồ Tát, thay vì người mới mở tâm nhản thì phải nhắm mắt và tỉnh tọa rất lâu mới thấy. Trong mật tông người ta có nói tới kính đàn, khi người tu đạt tới hàng Thanh Văn hay Bích Chi Phật và đang hành bồ tát đạo, kính đàn vô hình ở ngay trong tâm của họ, họ không cần dùng kính đàn là vật hửu hình. Khi lên đàn họ có thể quán sát sự tu tập của đệ tử từ rất xa, nếu có sai họ sẽ chỉnh ngay lập tức, vì người Thầy có nhiệm vụ rất lớn đối với đệ tử , nếu đệ tử tu không thành thì Thầy cũng bị mất công đức, vì vậy mới có cái gọi là truyền mật pháp Thân Mến