VULONG
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
511 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
26
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by VULONG
-
Chào bác Học Hỏi Tôi đâu có khẳng định như bác viết: ""bậc thang các điểm hạn Bác giảng là để tính cho 1 năm nào đó" bậc thang này chỉ gồm tương tác của 14 can chi của 7 trụ". Ở phần lý thuyết tôi còn muốn xác định thêm Trụ Phút nhưng chưa có ví dụ để nghiên cứu, và bây giờ tôi còn có ý định đưa thêm trụ Thai nguyên vào để dự đoán bé by còn trong bụng mẹ... Nói một cách chính xác "Phương Pháp Tính Điểm Hạn" là phải tìm ra tất cả các thông tin trong và ngoài Tứ Trụ đã gây ra tai họa, vì chỉ có như vậy chúng ta mới biết chính xác các thông tin gây ra tai họa thì mới có thể tìm ra cách để ngăn cản nó. "Trong Tứ Trụ" ở đây phải hiểu là Tứ Trụ, tuế vận, tiểu vận và tháng, ngày, giờ của năm gây ra tai họa đó. Trước tôi đã có một vài ví dụ động trạm tới ngày và tháng của lưu niên tác động tới Tứ Trụ để gây ra điểm hạn, nay có thêm 2 ví dụ nữa để nghiên cứu. Bởi vì trong thực tế rất hiếm khi có các ví dụ phải dùng đến các trụ này. Tôi rất vui mừng được trao đổi với bác và mọi người bất kể lúc nào và thời gian nào về môn Tứ Trụ trong mục Tử Bình trên diễn đàn này. kính bác.
-
Sơ đồ tính điểm hạn trên có sai sót, đó là Dần trụ tháng xung tháng Thân của lưu niên chỉ có 0,3đh và thêm 0,5đh của tháng Thân khắc lại lệnh tháng Dần, vì vậy nó chỉ có 0,8đh. Khi bị giảm 1/2 nó chỉ còn 0,4đh. Tổng số là 4,64đh, số điểm này có thể là khá thấp (vì nếu không mổ kịp thời để giải cứu thì tính mạng khó bảo toàn). Do vậy các lực tác động này không được giảm ở mức 1/2 (tức 6/12) mà chỉ được giảm ở mức 5/12. Sơ đồ tính điểm hạn được sửa lại như sau: Tổng số là 4,87đh, số điểm này mới có thể chấp nhận được.
-
Các ví dụ tham khảo : Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là quá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Kiêu Ấn đã lớn hơn Tài tinh và Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan). Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được. Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau : 5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu. 1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm. 2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có : 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật. Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa. Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục). Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim. Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết : "Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm". Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh). Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35) đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng. 3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh. Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Ví dụ này đã chứng minh rằng các can tranh hợp thật không phải hoàn toàn vô dụng như tôi đã kết luận mà nó vẫn còn khả năng quyết định được lực khắc của các nạp âm của chúng. Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon : 6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão. 1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm. 2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật. Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày. 3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). 4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh. 5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh. 6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh. Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh. Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế. Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh. 7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk). Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này): "202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật". Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh. Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?). Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy : 8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân. 1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm. 2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này. Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể «Bói» ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ? Giả thiết này có thể phát biểu như sau : "Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài". Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá. 3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh 5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh. Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung). Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh. Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót" mà "Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau : "Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với ít nhất 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động được với các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại nhưng điểm hạn của chúng bị giảm ít nhất 1/2". Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh. Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm ½ còn 1,3.1/2 đh = 0,65đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,67.1/2 đh = 0,34đh. Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau). Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh. Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh. Tổng số là 4,82đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai). ....................................... Trong chủ đề "Giải đáp các thắc mắc về khoá học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp" bác Học Hỏi đã hỏi tôi về cách tính điểm hạn của tai họa sau : "Tôi có 1 người bạn cùng tuổi. sinh ngày 31-7-1930 giờ Hợi. Ngày 7-9-2011 bạn tôi bị sốt mấy ngày, ngày 20 hết sốt thì sáng 21 khi ngủ dậy thấy bị liệt 1 tay phải, phải đi nằm viện mãi đến giữa tháng 10 mới gần bình phục hoàn toàn". Sơ đồ tính điểm hạn tháng 9/2011 : 9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Tân Mão và tiểu vận Quý Dậu. 1 – Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Kiêu Ấn sinh được 50% ddvcủa nó cho Thân, Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Đinh tàng trong Ngọ trụ năm. 2 - Trong Tứ Trụ có lục hợp của 2 Ngọ hợp với Mùi là tranh hợp giả không hóa. Đến đại vận Tân Mão và năm Tân Mão có tam hợp Hợi Mão Mùi có 4 chi không hóa phá tan lục hợp. Dậu tiểu vận tử tuyệt tại tuế vận xung 2 Mão không phá được tam hợp có 4 chi này. 3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 - Tuế vận cùng gặp có 0,25đh.(vì 2 Tân nhược ở tuế vận). Tổng số là 1,25đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Nếu như tai họa này không phải do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài gây ra thì ta bắt buộc phải sử dụng đến tháng 9 mà tai họa đã xẩy ra là tháng Đinh Dậu nó TKĐX với tuế vận. Nếu áp dụng giả thiết 179/60 thì trụ tháng của lưu niên là Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ Tân Mão đã phá tan tam hợp cục có 4 chi (bới vì 2 trụ là Mão của tam hợp không hóa đều bị TKĐX nên ta có thể coi tam hợp cớ 4 chi chỉ như có 3 chi). 6 - Ta có thêm 0,15đh của Mão đại vận xung Dậu tiểu vận và 1,3đh của Dậu tiểu vận khắc Mão thái tuế. Dậu tiểu vận có điểm hạn của 2 hung thần nhưng bị Mão đại vận xung mất hết. Tổng số là 2,7đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết : "Nếu trụ tháng của lưu niên chỉ TKĐX với 2 trụ của tuế vận cùng gặp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động tới các can, chi và nạp âm của tuế vận và ngược lại nhưng các điểm hạn của các lực này bị giảm ¼ cũng như can chi đại vận với can chi của trụ tháng này được coi như cách nhau 1 ngôi và độ vượng suy của can này được xác định tại chi của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì ta có thêm các điểm hạn sau : 7 – Mão đại vận xung Dậu trụ tháng của lưu niên có 0,3.1/2.3/4 đh = 0,11đh. Dậu trụ tháng này khắc Mão thái tuế có 1,3.3/4 đh = 0,98đh. Đinh trụ tháng này vượng ở Dậu nên có -1đh can và khắc 2 Tân có 1.4.1/2.3/4 đh = 0,53đh, trong đó lực khắc Tân đại vận bị giảm thêm ½ còn 0,53.1/2 đh = 0,27đh (vì cách 1 ngôi). Đinh có 1 cát thần có -0,25đh (điểm hạn can động và của các thần sát không bị giảm ¼ vì nó không phải là điểm hạn xung, khắc, hình, hại). 8 - Trụ tháng Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ giống nhau là Tân Mão, vì vậy mỗi lực bị giảm ¼ và bị giảm thêm ¼ do giả thiết trên còn 1.3/4.3/4 đh = 0,56đh. Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh. Tổng số là 4,56đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Trường hợp này kết hợp với trường hợp trên của Steve Jobs thì chúng ta còn thiếu trường hợp trụ tháng của lưu niên TKĐX với cả tuế vận và các trụ trong Tứ Trụ.
-
-
Ví dụ minh họa: Ví dụ 108: Nam sinh ngày 14/11/1977 lúc 21,30’. Năm 2005 không có hạn. Năm 2005 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Mậu Thân, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ . 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên lấy tài tinh là Mậu tàng trong Tị trụ năm. 2 - Vào đại vận Mậu Thân có lục hợp của Thân đại vận với Tị trụ năm không hóa bị phá bởi trụ tháng Tân Hợi TKĐX với trụ năm Đinh Tị. Tới năm Ất Dậu có bán hợp của thái tuế Dậu với Tị trụ năm hóa Kim nhưng cũng bị TKĐX này phá tan Kim cục nhưng nó còn lại tổ hợp (vì lực xung của Hợi với Tị là 5,65đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Tị là 9đv), vì vậy TKĐX có 0,5đh + 0,05đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Mậu tàng trong Tị trụ giờ bị tuế vận hợp có 1đh và tử ở lưu niên có 1đh. 5 - Nhật can Ất tuyệt ở lưu niên có 1đh. 6 – Tân trụ tháng vượng ở lưu nên khắc 2 Ất, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. Ất lưu niên có 2 cát thần có -2.0,25đh nhưng bị Tân khắc mất 70% chỉ còn -0,15đh. Thân đại vận có 4 hung thần và 1 cát thần có tổng cộng 0,75đh. 7 – Thân đại vận hại 3 Hợi nên có tổng cộng 2đh. Tổng số có 7,55đh. Nếu sử dụng giả thiết 283/108 và 303/101 thì tổng số có 3,55G (thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hại) nên tổng điểm hạn được giảm 5/12, vì vậy nó còn 7,55.7/12đh = 4,40đh. Số điểm này là cao nhất có thể chấp nhận được. Nếu mỗi lực hại chỉ có 1,0G thì tổng cộng có 3,25G, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ở giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 7,55.(2/3 + 7/12).đh = 4,72đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. ........................................................................ Chủ đề “Nhiệm lý lá số hạn nặng“ của GiáoViên trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org nói về một phụ nữ trẻ có Tứ Trụ : Nhâm Tuất – Canh Tuất – ngày Kỷ Tị - Giáp Tuất Giáo Viên đã viết: “Cô bé này, tháng 11 năm ngoái (2010) sinh con gái. Trước hôm đi sinh con 1 tuần, thì phát hiện ra bị liệt một chân, sau đó bác sỹ mổ lấy con ra, rồi nghi là mẹ bị lao xuơng, chuyển qua viện lao nằm 1 tháng. ............................................... Tháng 1 năm 2011, bác sỹ quyết định mổ cột sống. Nhưng mổ ra, mới biết không phải lao xuơng, mà là một thứ bệnh quái lạ, ung thư đốt sống cùng. Xét nghiệm là tế bào ác, kháng điều trị, và hiện đang chuyển về nhà chờ........ ........................................................... Bé Vân mất sáng nay rồi (8/10/2011), chiều GV đi Ninhbinh viếng, có gì về sẽ update với mọi người sau. Buồn quá .................“ . Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn ở tiểu vận Ất Tị (sau ngày sinh 13/10/2010) của năm 2010. 11/2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị. 1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Giáp ở trụ giờ. 2 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận và Ất tiểu vận hợp với Canh lưu niên đều không hóa. 3 - Dụng thần Giáp nhập Mộ ở đại vậnMùi có 1đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Kỷ tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Nhâm trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,5đh can và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Do vậy Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can nhưng nó bị giảm 13% (bị khắc bởi Nhâm) còn 0,5.0,67đh = 0,34đh.. Canh lưu niên cũng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Ất tiểu vận có 0,5.1/2.1/2 đh= 0,13đh (vì khắc trái dấu và khắc vào chi tiểu vận). Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần. 6 – Mùi đại vận hình 3 Tuất trong Tứ Trụ có tổng cộng max 2đh. Tị trụ ngày và Tị tiểu vận hại Dần thái tuế có 1đh và 0,5đh, vì vậy Dần thái tuế không hình và hại được 2 Tị. 7 – Nước biển ở tụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận, vì vậy nó khắc Kim trang sức, Lửa trên núi và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk). Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi có 0,75đh. Lửa trên núi có Giáp vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức có 1đh (lực khắc của Lửa đỉnh núi với các nạp âm khác không bị giảm khi nó bị khắc). Tổng số là 8,1đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 283/108 thì Mùi đại vận hình 3 Tuất có tổng cộng 3,55G (mỗi lực hình có 1,1G và thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hình), vì vậy tổng điểm hạn được giảm 5/12, nó còn 8,1.7/12 đh = 4,73đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Ở tiểu vận Bính Ngọ có Bính khắc Canh lưu niên có 1đh và Bính có 3 cát thần có -3.0,13đh. Dần thái tuế hợp với Ngọ tiểu vận có 1đh. Tổng số là 8,33đh, nó cũng được giảm 5/12 còn 8,33.7/12 đh = 4,86đh. Với số điểm cao như vậy, tại sao tai họa không xẩy ra ? Cụ Thiệu Vĩ Hoa có nói tới trong cuốn «Dự Đoán Theo Tứ Trụ» là có thai và sinh con có thể giảm được một phần hạn. Điều này có thể được giải thích đơn giản là khi đứa con còn trong bụng mẹ, nó có thể Cõng Giúp cho mẹ nó ít nhất khoảng 0,5đh, vì vậy chỉ còn 4,36đh. Với số điểm này khá thấp nên nó không thể gây ra tai họa nào cả. Đến tiểu vận Ất Tị, đáng tiếc là với 4,73đh còn khá cao nên chúng ta dự đoán : Đứa trẻ chưa ra đời, nó mới có thể Cõng Giúp hạn cho mẹ nó còn khi đứa bé đã ra đời thì nó không còn giúp được gì cho mẹ nó nữa (?). Nếu sự lý luận này là đúng thì nó là một cách giải hạn vô cùng hữu hiệu cho phái nữ, bởi vì ngày nay người ta sinh đẻ có thể chủ động qua việc thụ tinh bên ngoài ống nghiệm. Nếu mỗi lực hình có 1,2G thì tổng cộng có 3,85G, nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 5/12 và ½ còn 8,1.(7/12 + ½).1/2đh = 4,39đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó không phù hợp với thực tế). Kết hợp với ví dụ trên thì các lực hình hay hại này có 1,1G là tin cậy được. Sơ đồ tính điểm hạn ngày 8/10/2011 như sau : 8/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị. 1 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận không hóa và lục hợp của 3 Tuất trong Tứ Trụ hợp với Mão thái tuế hóa Hỏa (vì lực hợp của Mùi đại vận với Mão thái tuế có 5,87đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tuất với Mão thái tuế có 3.5,03đv). Vì trong Tứ Trụ có 3 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 4,2đv được thêm 1,5đv của Tuất trụ năm, 1,8đv của Tuất trụ tháng và 0,9đv của Tuất trụ giờ thành 8,4đv. Thổ có 11,3đv bị mất 4,2đv của 3 Tuất còn 7,1đv. Ta thấy Thân vẫn vượng nhưng Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Nhâm ở trụ năm. Vì Hỏa là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 8,4đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế và 4,8đv của Đinh đại vận thành 31,2đv. Kim có 5,28đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên thành 11,48đv. Mộc có 4,2đv được thêm 7đv của Ất tiểu vận thành 11,2đv (Tân và Ất động vì Tân khắc Ất tiểu vận). Tị tiểu vận và Mùi đại vận ở trạng thái tĩnh nên điểm vượng của chúng không được tính. Hỏa là kỵ vượng. Hỏa cục có 1đh + 0,25đh (vì Hỏa cục có chi thứ 4) và Mão thái tuế hóa Hỏa có 0,5đh kỵ vượng. 2 - Dụng thần Nhâm bị tuế vận hợp có 1đh và tử tuyệt tại lưu niên có 1đh. 3 - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên có 0đh. 4 – Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh và nếu sử dụng giả thiết 17/67a thì Đinh đại vận có 0,5đh kỵ vượng nhưng 2 điểm hạn này đều bị giảm 13% (vì bị Nhâm khắc) còn 0,25.0,65đh = 0,22đh và 0,5.0,67đh = 0,44đh. Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần. 5 - Nước biển trụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận khắc Kim trang sức và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk). Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi chỉ có 0,75đh. Lửa đỉnh núi có Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Kim trang sức có 1đh. Tổng số là 8,29đh. Nếu sử dụng giả thiết 278/38 ( - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12 (trước ví dụ này tôi đã dự đoán được giảm tới ½ nhưng nay thấy không phải như vậy)) thì tổng số các điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 8,29(2/3 + 7/12).1/2 đh = 5,18đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Vì tai họa chủ yếu do điểm hạn của 3 Tuất trong Tứ trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên tai họa dễ xẩy ra vào mùa hè và tháng Tuất. Thực tế cho thấy bệnh của người này đã phát nặng vào mùa hè và cái chết đáng nhẽ phải xẩy ra vào tháng Tuất nhưng đến 23,57' ngày 8/10/2011, tức còn ít nhất 12 tiếng nữa mới sang tháng Tuất. Tại sao lại như vậy? Phải chăng giờ giao lệnh người ta đã xác định sai? Ở đây ta thấy chỉ có Hỏa quá vượng và có sự xung khắc của Thủy (Nhâm) với Hỏa (Đinh) nên Thủy và Hỏa đều bị tổn thương, nhất là Thủy. Ta đã biết Thủy đại diện cho bệnh ung thư, vì vậy người này đã bị bệnh ung thư. Còn Hỏa đã đại diện cho xương chăng ?
-
Bài 26 - Định luật giảm và điểm G Chương 16 Định luật giảm và điểm G I - Định luật Giảm Đây là phần phức tạp nhất của Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Định luật giảm có nghĩa là tổng điểm hạn sẽ được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố giữa tứ trụ với tuế vận mà ở trên ta đã biết trong các dạng đơn giản nhất như tam hợp, tam hội, hóa cục của các chi giống nhau trong tứ trụ ... còn ở phần này bạn đọc sẽ được biết đến một dạng khác. Khi thái tuế hay các chi trong tứ trụ bị các chi khác hình, xung, khắc hay hại thì trong một số trường hợp các lực này có điểm giảm được gọi là điểm G. Tổng các điểm G này tương đương với tổng điểm hạn được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Để cho đơn giản tôi tạm thời phân ra thành 10 trường hợp tổng điểm hạn được giảm theo các điểm G như sau : Bảng G Dòng đầu tiên trong bảng là số thứ tự, dòng thứ hai là điểm G và dòng thứ ba là tỉ lệ tổng điểm hạn được giảm tương ứng theo điểm G. Nếu số điểm G ít nhất bằng điểm giữa của 2 mức giảm thì tổng điểm hạn mới được giảm ở mức trung bình của 2 mức giảm đó (vd 106; 107). Trong phần này hình và tự hình có tác dụng khác nhau II - Điểm giảm G A - Có 5 dạng chính gây ra các điểm G E1 – Các chi ở tuế vận tác động tới các chi trong tứ trụ. E2 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế E3 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế E4 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ tự hình thái tuế. E5 – Có ít nhất 3 chi giống nhau trong tứ trụ xung, khắc, tự hình, hình hay hại thái tuế. E1 - Tuế vận tác động tới các chi giống nhau trong tứ trụ 281/(101 ;102) : Các trường hợp như sau: 1 - Dần đại vận hình và hại 2 Tị trong Tứ Trụ. 2 - Sửu đại vận hình và xung 2 Mùi trong Tứ Trụ. 3 - Thân đại vận khắc và hình 2 Dần trong Tứ Trụ. 4 - Tý ở tuế vận cùng hại 2 Mùi trong Tứ Trụ. 5 - Mùi ở tuế vận cùng hại 2 Tý trong Tứ Trụ. 6 - ........ ???? Các lực này mới có các điểm G và chúng được xác định như sau : a - Thái tuế hình hay hại có 1G. b - Đại vận khắc hay xung có 1G và hình hay hại có 0,5G. 282/(105;106;107) – Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau là Thổ mà mỗi chi này chỉ có 1 lực tác động tới thái tuế hay nếu 2 chi giống nhau này không là thổ mà mỗi chi chỉ có 1 lực hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi các chi này bị tác động bởi 2 lực của đại vận, khi đó điểm G của các lực này được xác định như sau : a - Mỗi lực xung thái tuế có 0,5G. b - Mỗi lực hình hay hại thái tuế có 0,25G ? (Chú ý dấu ?, nó nghĩa là các giả thiết đó chưa có ví dụ để kiểm tra). 283/108 - Chi tuế vận tác động với ba chi giống nhau trong tứ trụ : a - Mỗi lực hình hay hại của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có 1,1G b - Mỗi lực xung hay khắc của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có ...? c - Mỗi lực hình hay hại của thái tuế với mỗi chi trong Tứ Trụ có... ? E2 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế 1 – Các chi là Thổ 284/(105;109) – 1 hay 2 chi Sửu trong tứ trụ hình và xung Mùi thái tuế có điểm G, còn nếu trong tứ trụ chỉ có 2 chi giống nhau, khi chúng chỉ có 1 lực xung thái tuế thì mỗi lực này có 0,5G chỉ khi chúng bị đại vận tác động có điểm G. 285/70 – Trong tứ trụ có 1 hay 2 chi là Mùi, Tuất hay Thìn xung thái tuế và có ít nhất 1 chi hình, tự hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G hay không (chưa có ví dụ để kiểm tra) ? 2 – Các chi không là Thổ 286/ 113 - Nếu trong Tứ Trụ chỉ có một chi xung thái tuế (không có các lực hình hay hại thái tuế, trừ lực tự hình thái tuế) thì các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận xung thái tuế. 287/112 - Nếu các tổ hợp trong tứ trụ bị phá mà chúng có ít nhất 1 chi xung và 1 chi hình hay hại thái tuế thì các lực này không có điểm G nhưng các lực khác vẫn có điểm G khi có chi đại vận tác động tới thái tuế (trừ lực tự hình). 288/111 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất một chi xung và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại thái tuế. 289/114 – Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi có ít nhất hai chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế. E3 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế 290/115 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất 1 chi khắc và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại Thái tuế. 291/(116;117;118) - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 chi khắc Thái tuế, ngoài ra không có các lực tác động khác (trừ chi Thân nếu nó hình được thái tuế và các chi trong tứ trụ tự hình thái tuế) thì tất cả các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có thêm lực của chi đại vận hay tiểu vận tác động với thái tuế (kể cả lực tự hình), còn nếu nó ở trong tổ hợp trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá thì các lực này tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận khắc thái tuế. 292/118 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có Thân khắc và hình Dần thái tuế. 293/120 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có 2 chi khắc thái tuế. 294/121 – Các lực tác động tới thái tuế không có điểm G khi 2 chi trong tứ trụ và chi đại vận hay tiểu vận giống nhau là các chi thuộc loại tự hình khắc thái tuế. E4 – Thái tuế bị tự hình bởi các chi trong tứ trụ 295/123 - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 hay 2 chi tự hình với thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi có thêm chi đại vận cũng tự hình thái tuế, khi đó điểm G của các lực được xác định như sau : Mỗi chi trong tứ trụ tự hình thái tuế có 2G. Chi đại vận tự hình thái tuế có 1G. Chi tiểu vận tự hình, hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn xung hay khắc thái tuế có 1G. Chi đại vận tự hình các chi trong tứ trụ, mỗi lực có 0,5G, trong đó mỗi lực tự hình với lệnh tháng có thêm 0,25đh.. Các chi trong tứ trụ tự hình gần với nhau, mỗi lực có 0,25G, trong đó mỗi lực tác động gần với lệnh tháng có thêm 0,13G E5 - Ba chi giống nhau trong tứ trụ tác động với thái tuế 296/125 - 3 chi trong tứ trụ tự hình thái tuế, mỗi lực có ít nhất 1.5G và mỗi lực hình, hại thái tuế có ... ? 297/211 – 3 chi giống nhau là Thổ trong tứ trụ xung thái tuế, mỗi lực có 1,25G (còn nếu 3 chi giống nhau này không là Thổ ?) và mỗi lực hình, tự hình và hại của các chi trong tứ trụ với thái tuế có 0.5G (?), khi đó : - Chi đại vận xung thái tuế có 0.5G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.25G (?). - Chi tiểu vận xung thái tuế có 0,25G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.13G. B – Nói chung E1, E2 và E3 tuân theo các giả thiết sau đây: 298/109 - Mỗi chi trong tứ trụ xung thái tuế có 1G và mỗi chi hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn chi đại vận hay chi tiểu vận xung thái tuế có 0,5G và hình hay hại thái tuế có 0,25G. 299/(116...) - Mỗi chi trong tứ trụ khắc thái tuế có 2G và hình hay hại thái tuế có 1G, khi đó chi đại vận khắc thái tuế có 2G (riêng Thân đại vận khắc thái tuế chỉ có 1G) nhưng chi tiểu vận khắc thái tuế chỉ có 1G, còn chi đại vận và chi tiểu vận hình hay hại thái tuế mỗi lực có 0,5G. Tất cả các lực này không có điểm G chỉ khi có 3 hay 4 chi giống nhau là tự hình khắc thái tuế mà ở trong tứ trụ chỉ có 2 trong 3 hay 4 chi này (vd 121 ;122). 300/ - Nếu chi đại vận xung thái tuế có điểm G thì nó xung với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G như vậy. 301/ - Nếu chi đại vận khắc thái tuế có điểm G thì nó khắc với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ điểm G như vậy (trừ lực khắc của Thân đại vận không bị giảm - ví dụ 118). 301a/ - Nếu chi trong Tứ Trụ khắc thái tuế có 2G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,5G thì chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong Tứ Trụ cũng có 0,5G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?). 301b/ - Nếu chi trong Tứ Trụ xung thái tuế có 1G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,25g thì chi đại vận hình, tự hình hay hại với mỗi chi trong Tứ Trụ có 0,13G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?). 302/103 - Nếu chi đại vận tác động với các chi trong tứ trụ có điểm G thì các chi giống với chi đại vận ở trong tứ trụ tác động với các chi này mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ . 303/101 - Nếu mỗi lực của chi đại vận tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực đó được thêm 0,25G và khi đó mỗi lực của thái tuế tác động tới lệnh tháng có điểm G, mỗi lực này mới được thêm 0,25G. 304/103 - Nếu mỗi lực của các chi trong tứ trụ tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực này cũng được thêm 0,13G. Chú ý : Các điểm G ở đây được xác định bởi các chi tác động gần với nhau, còn chúng bị giảm ½ G nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ G nếu chúng cách 2 ngôi.
-
-
Xin sửa lại giả thiết 28/ và 30/ trong Bài 24 như sau: D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. Giả thiết này không sai nhưng phải sửa lại như sau: 28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh, nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv. Nhưng nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh và Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Giả thiết 30/(18;158), tôi diễn đạt không rõ nghĩa xin sửa lại như sau: 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, 5 lần nếu....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).
-
Cám ơn anh Thiên Sứ và chị Wildlavender đã có lòng quan tâm và có ý tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc phổ biến một phương pháp dự đoán hoàn toàn mới có tên gọi là "Phương Pháp Tính Điểm Hạn" cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người muốn học, nghiên cứu và trao đổi môn Tử Bình - Tứ Trụ. Tôi không có ý định thành lập lớp học như ở tất cả các trang web vẫn tổ chức. Danh từ Lớp Học mà tôi đưa ra chỉ là hình thức, vì không có danh sách học viên, cũng không có các bài thi hay kiểm tra để chấm điểm... Tôi chỉ muốn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tất cả mọi người muốn tìm hiểu và nghiên cứu môn Tử Bình - Tứ Trụ khi họ có thời gian rảnh. Một lần nữa xin cám ơn anh chị.
-
Các ví dụ minh họa: Ví dụ 40 : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’ sáng. Năm 1963 bị liệt 2 chân vì sốt cao. 1963 là năm Quý Mão thuộc đại vận Nhâm Ngọ và Quý Mùi (tức tiểu vận). Ta xét đại vận Nhâm Ngọ (vì điểm hạn ở đại vận Quý Mùi quá thấp). 1 – Mệnh này Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Thìn trụ giờ. 2 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Ngọ đại vận hại Sửu trụ năm có 1đh, tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày mỗi lực có 1đh. Sửu trụ năm bị hại, vì vậy nó không hình hay hại được các chi khác, còn mặc dù 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận nhưng chúng vẫn hình, tự hình hay hại được với các chi khác (giả thiết 233/40). Do vậy 2 Ngọ trong tứ trụ tự hình với nhau có 0,5đh, Ngọ trụ tháng hại Sửu trụ năm có 0,5đh và Ngọ trụ ngày hại Sửu trụ năm có 0,25đh (vì cách 1 ngôi). Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế có 1đh. na 5 – Quý lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. Ngọ đại vận có 2 cát thần có -2.0,25đh. Mão lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh. 6 - Đất ven đường trụ ngày có Canh được lệnh nên khắc được kim trong cát trụ tháng có 1đh. Tổng số là 4,75đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của tự hình và hại. Vì vậy ta phải giải cứu về tự hình và hại. 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận và 3 Ngọ hại Sửu trụ năm, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ. Ví dụ 54 : Nam sinh ngày 5/8/1950 lúc 0,00’ sáng. Tháng 4/2006 mất Quan vào tù. Tháng 4/2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Kỷ Sửu và tiểu vận Bính Thân. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh/ Đinh tàng trong Mùi trụ tháng. Thủy là kỵ vượng. 2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Thân với Tý hóa Thủy. Vào đại vận Kỷ Sửu và năm Bính Tuất có đại vận Kỷ Sửu TKĐX với trụ tháng Quý Mùi có 0,25đh +0,05đh (vì Kỷ nhược ở tuế vận). 3 - Dụng thần Đin la nhập Mộ ở đại vận Sửu nên có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – Quý trụ tháng thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc Bính lưu niên có 0,25đh. Nhâm trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên có 1đh và khắc Bính lưu niên có 1đh. Sửu đại vận xung Mùi trụ tháng có 0,4đh (vì lệnh tháng Mùi bị xung bởi Mùi) Tuất lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh. 6 – Ta thấy Mùi trụ tháng hình hay không hình được Tuất lưu niên thì Tuất lưu niên vẫn hình được Sửu đại vận có 1đh, vì vậy Sửu đại vận không thể hình được Mùi trụ tháng. Nếu sử dụng giả thiết 236/(54;159) và 237a/106 thì Mùi trụ tháng bị xung gần bởi Sửu đại vận nên lực hình của nó với Tuất thái tuế bị giảm ¾ , vì vậy điểm hình của nó với Tuất thái tuế có 1đh bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh. Tổng số là 4,95đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì quá cao). Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì Không Vong không có điểm hạn (vì can của Không Vong là Bính bị Nhâm khắc một lực có 1đh), vì vậy tổng số điểm hạn chỉ còn (4,95 - 0,25)đh = 4,7đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của TKĐX, Hurt, Thủy quá vượng khắc Hỏa, trong khi dụng thần Hỏa quá nhược (vì Hỏa chỉ là can tàng tạp khí). Do vậy ta phải dùng Mộc và Hỏa, nhất là Hỏa để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình. Thủy quá vượng khắc Hỏa quá nhược, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Nhâm Thìn bởi vì nó TKĐX với lưu niên Bính Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ. Hỏa bị tổn thương mà Hỏa của tứ trụ này là Tài (tiền), vì vậy người này vì tiền mà phải vào tù. Người này mất quan và vào tù bởi vì đại vận là đại vận hình (Sửu đại vận hình Mùi trong tứ trụ), vào năm Bính Tuất giữa tứ trụ với đại vận và lưu niên có đủ tam hình Sửu Mùi Tuất. Thân vượng mà Tài (Đinh) và Quan (Kỷ) tàng trong Mùi đều vượng. Đó là mệnh của người phú quý và thường đại phát vào các vận tài hay quan. Thực tế người này đã làm đến cục trưởng. Ở đây đại vận là Quan (Kỷ) nhưng đáng tiếc đại vận Quan bị hình hại là xấu. Tổng điểm hạn ở tiểu vận Đinh Dậu là 4,92 nhưng trong thực tế người này không bị thêm tai họa nào bởi vì có thể phần lớn số điểm hạn này đã gây ra tai họa ở tiểu vận Bính Thân hay ông ta vẫn đang còn ngồi trong tù (?). Ví dụ 30 : Trương Chấn Hoàn chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật quốc phòng (TQ), sinh ngày 21/10/1915 lúc 12,00’ sáng. Năm 1993 có hạn cực nặng. 1993 là năm Quý Dậu thuộc đại vận Mậu Dần, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi. Ta xét tiểu vận Giáp Tý. 1 - Mệnh này Thân nhược mà quan sát Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có lục hợp của Mão với Tuất bị phá. Bởi vì lực xung của Dậu trụ ngày với Mão trụ năm có 8.2/3 đv = 5,33đv (vì cách 1 ngôi) là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ tháng với Mão trụ năm chỉ có 3.1/2đv = 1,5đv (vì Tuất phải hợp với Ngọ trụ giờ). Vào đại vận Mậu Dần và năm Quý Dậu có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa. Ngũ hợp của Mậu với Quý hóa Hỏa (vì chi đại vận hay lệnh tháng là Hỏa dẫn hóa). Nếu sử dụng giả thiết 3/30 thì điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Thổ có 0,96đv bị mất hết. Do vậy Kim vẫn là kỵ 1 và động (vì Mão trụ năm xung Dậu trụ ngày). Do vậy ta phải tính thêm điểm vượng tuế vận. Kim có 6,4đv được thêm 2.9đv của Dậu thái tuế thành 24,4đv. Hỏa có 4,26đv được thêm 5,75đv của Dần đại vận, 2.4,8đv của Quý và 3đv của Mậu đại vận thành 22,61đv. Kim lớn hơn hỷ dụng thần Thủy và Mộc trên 10đv nên Kim là kỵ vượng. Nếu sử dụng giả thiết 77/29 và 78/30 thì Nhâm không khắc được 2 Hỏa cục có tổng cộng 5 can chi. Vì vậy tam hợp Hỏa cục có 0,75đh và ngũ hợp Hỏa cục có 0,5đh. 3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên niên có -1đh. 4 - Nhật can Ất tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Mão trụ năm xung thái tuế Dậu có 0,8đh và Mão xung Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dậu thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh nhưng nó bị Mão xung mất hết. Tý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh. Nếu sử dụng giả thiết 15/12 thì Dậu thái tuế bị Mão xung có 0,5đh kỵ vượng. 6 – Nếu sử dụng các giả thiết 237/, 234/và 235a/ thì lực xung của Mão trụ năm với Dậu trụ ngày bị giảm 2/3 (vì Mão xung 2 Dậu không phải Thổ) còn 1/3 nhưng nó bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi), nó còn 1/3.2/3 và Mão phải sinh cho Hỏa cục động tại Tuất, nó bị giảm thêm 2/3, vì vậy lực này chỉ còn 1/3.2/3.1/3 = 0,07. Cho nên Dậu trụ ngày tự hình Dậu thái tuế có 1đh nhưng nó bị giảm 7%đh còn 1.93%.đh = 0,93đh. 7 - Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được nước suối của trụ năm có 0,75đh nhưng can chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp nên bị giảm ½ đh còn 0,38đh. Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc nước suối có 0,75đh. Tổng số có 4,62đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó quá thấp so với thực tế). Nếu sử dụng giả thiết 121/30 thì đất mái nhà của trụ tháng khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25).1/2đh = 0,5đh (vì các nạp âm này nhận được sự sinh từ Hỏa cục cùng trụ). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết: “ Khắp nơi các cao sư khí công đều kéo về cứu giúp. Thầy Thiệu Vĩ Hoa cũng dốc hết sức mình cố kéo dài tuổi thọ cho ông “. Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm, Mộc xung Kim và Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Trong tứ tự có Mão xung Dậu thái tuế và vào đại vận Mậu Dần có Hỏa quá vượng, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của mùa Xuân và mùa Hè, nhất là tháng Mão. Hỏa quá vượng, vì vậy người này bị bệnh Tim bởi vì Hỏa đặc trưng cho Tim,... Nếu Nhâm trụ giờ vượng ở lưu khắc hết tổng điểm hạn của 2 Hỏa cục có 5 can chi thì số điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được. Nếu điểm kỵ vượng ở thái tuế bị giảm 1/3 khi nó bị Mão xung còn 0,33 thì tổng số là 4,75đh, nó là quá thấp so với thực tế nên không thể chấp nhận được. Ta xét tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu: Ở tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu (bắt đầu từ ngày 21/10/1993), nếu sử dụng giả thiết 78/30 thì điểm hạn của Hỏa cục bị Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên khắc mất hết, vì vậy đất trên thành và đất mái nhà không được sinh bởi Hỏa cục. Các điểm hạn ở tiểu vận Quý Hợi được mô tả ở sơ đồ trên. 1 – Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý lưu niên và Quý tiểu vận. Điểm hạn của Hỏa cục có 3 chi bị Nhâm vượng ở lưu niên khắc mất hết. Mậu chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc 2 Quý có 0,75đh, nên mỗi lực có 0,75.1/2.1/2.đh = 0,19đh, riêng lực khắc Quý tiểu vận chỉ có 0,19/2đh = 0,1đh (vì khắc tiểu vận điểm hạn giảm một nửa). Quý lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh bị khắc mất 19% nên còn -0,5.0,81đh = -0,41đh. 2 – Nước biển ở tiểu vận có Quý vượng ở tiểu vận khắc khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh. Đất trên thành đại vận có Mậu chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0đh (vì Mậu đã dùng tất cả 0,75đh để khắc 2 Quý) Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0,75đh. .................... Tổng số là 3,51đh. Số điểm này là chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết “Ngày 24/10/1993 sau khi bệnh đỡ đã ra viện đi ăn dưỡng, trong nửa năm đó ông lại cố gắng làm việc”. Nếu điểm hạn của Hỏa cục không bị Nhâm khắc mất hết thì tổng số là 4,57đh (vì Hỏa cục có 0,75đh, đất mái nhà và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và 0,25.1/2.1/2 đh = 0,06đh)). Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì với số điểm này ông ta không thể rời khỏi bệnh viện. Ta xét điểm hạn của năm 1994: 1 – 23/3/1993 đó là năm Giáp Tuất thuộc đại vận Mậu Dần và tiểu vận Quý Hợi có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất có 4 chi hóa Hỏa, vì vậy Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý tiểu vận hóa Hỏa. Nếu sử dụng giả thiết 11/30 (Nếu các hóa cục cùng hành giữa tứ trụ với tuế vận có tổng cộng từ 6 can chi trở lên (trừ hóa cục của các địa chi trong Tứ Trụ) thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng tuế vận mặc dù kỵ 1 là tĩnh (đây là một trường hợp ngoại lệ)) thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Kim vẫn có 6,4đv, vì vậy Thân vẫn nhược và dụng thần không thay đổi. Ta phải tính tiếp các điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 4,26đv được thêm 2.3đv của Tuất thái tuế, 5,8đv của Dần đại vận, 3đv của Mậu đại vận và 10đv của Quý tiểu vận thành 29,06đv. Nếu sử dụng giả thiết 22/17 thì Hỏa đã thành kỵ 1 (vì nó lớn hơn Kim là kỵ 1 trên 10đv) và Hỏa có điểm kỵ vượng (vì lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv) nhưng các điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Hỏa không phải là kỵ 1 từ khi mới sinh). Do vậy nếu sử dụng giả thiết 101/29 thì điểm hạn chính của tam hợp Hỏa có 4 chi được tăng gấp đôi là 1.2đh + 0,25đh và Dần, Tuất và Mậu mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng còn Quý tiểu vận chỉ có 0,25đh kỵ vượng. 2 - Dụng Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Ất mộ ở lưu niên niên có 1đh. 4 – Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng nó không thể khắc được Hỏa cục có tổng cộng 6 can chi. 5 - Nước biển của tiểu vận Quý Hợi có can Quý vượng ở tiểu vận khắc lửa đỉnh núi của lưu niên có 1đh và khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh (vì khắc đại vận bị giảm ½). Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được Hỏa cục trong cùng trụ sinh cho), nhưng nó bị giảm ½ đh (vì nước biển khắc) và ½ đh (vì can và chi của nạp âm đều bị hợp ở tuế vận), nó chỉ còn 1.1/2.1/2.đh = 0,25đh. Lửa đỉnh núi của lưu niên có can Giáp chỉ vượng ở đại vận nên khắc đất mái nhà và gỗ liễu có 0,75đh, vì vậy mỗi lực có 0,38đh (chú ý lửa đỉnh núi là lửa của núi lửa nên nó không bị giảm khi nó bị khắc bởi các loại nạp âm của nước). Đất mái nhà có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được sinh bởi Hỏa cục cùng trụ), nhưng nó bị giảm 38%đh (vì lửa đỉnh núi khắc), nó còn 0,62đh. Tổng số là 7,63đh. Số điểm này chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết : “Cấp cứu nhưng không có hiệu quả, đã tạ thế ở Bắc Kinh hồi 23,30’ ngày 23 tháng 3 năm 1994 hưởng thọ 79 tuổi“ (theo Tử Bình đã sang ngày 24/3). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và do Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Thân nhược mà thực thương quá mạnh, vì vậy kiêu ấn ở đây vô cùng quan trọng bởi vì nó có chế ngự thực thương Hỏa và sinh cho Thân. Tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão của mùa Xuân. Bởi vì vào tháng Mão dụng thần Thủy bắt đầu ở trạng thái tử tuyệt nên nó không có khả năng chế ngự Hỏa và sinh cho Thân. Qua ví dụ này cho ta biết khả năng giải hạn của các cao thủ Tử Bình và khí công Trung Quốc chưa đạt tới 7,63đh (nếu số điểm này chính xác). Đây là mệnh quý hiển vì Thân nhược có Ấn vượng sinh Thân và chế ngự Thương nhược nên thực sự đúng với câu : «Thương quan mang ấn quý hết chỗ nói». Nếu không tính thêm điểm vượng của tuế vận thì Hỏa không phải là kỵ 1 nên điểm hạn của hóa cục không được tăng gấp đôi và không có các điểm kỵ vượng, vì vậy tổng số là 4,76đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.
-
Bài 25 - Điểm hạn của hình, tự hình và hại..... Y9 - Kiêu ấn và điểm hạn của nó 190/ – Xem giả thiết 27/12 (27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.) 192/ - Xem giả thiết 28/100 và 29/(98;99 (28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv, trừ trường hợp nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh. Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).) Y11 – Điểm hạn của hình, tự hình và hại B - Các chi không bị xung hay bị khắc hình, tự hình hay hại các chi khác Như trên đã nói ở trên chi đại vận phải được xem là động đầu tiên, sau mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới đến thái tuế (chi của lưu niên) và ở đây nói về Hình thường bao hàm cả Tự hình. 222/124 - Mỗi chi hình hay tự hình nhiều chi, mỗi loại có tổng cộng max 2 đh. 223/108 - Mỗi chi hại nhiều chi có tổng cộng max 2 đh. 224/4 - Chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 1đh. 225/40 – Chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh và khi đó các chi trong tứ trụ giống chi đại vận mới có thể hình, tự hình hay hại được với các chi trong tứ trụ này, nhưng số điểm hạn của mỗi lực chỉ có 0,5đh nếu là chi gần, 0,25đh nếu cách 1 ngôi và 0,13đh nếu cách 2 ngôi (nó nghĩa là các lực hình, tự hình hay hại với chi cách 1 ngôi bị giảm ½ đh và ¾ đh nếu cách 2 ngôi). 226/2 – Các chi trong tứ trụ hình, tự hình hay hại thái tuế mỗi lực có 1đh và khi đó các chi này mới hình, tự hình hay hại được các chi giống chi thái tuế ở trong tứ trụ có điểm hạn giống như câu trên nhưng nó không hình hay hại được với chi đại vận và tiểu vận. 227/20 – Chi tiểu vận hình hay hại chi đại vận hay thái tuế, mỗi lực có 0,5đh nhưng nó không hình hay hại được các chi trong tứ trụ. 228/66 - Thái tuế hình hay hại chi đại vận hay chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh. 229/(15;38;109) - Thái tuế hay chi đại vận hình hay hại chi tiểu vận có 0,5đh chỉ khi lực tác động này không phải là lực thứ 3 trở nên (riêng Dần ở tuế vận hình và hại Tị tiểu vận chỉ được tính là 1 lực), riêng Thân thái tuế hay đại vận hình Dần tiểu vận có 0,5đh nếu lực này mới là lực thứ 5, ngoài ra các lực này chỉ có 0,25đh, và riêng mỗi lực hợp được tính là 0,5 lực và nếu chi tuế vận hình hay hại chi tiểu vận mới là 2,5 lực thì mỗi điểm hình hay hại này chỉ bị giảm 1/3 đh. 230/39 - Các chi trong một tổ hợp giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận không hóa vẫn hình hay hại được với nhau và có điểm hạn như bình thường. 231/40 – Chi bị hại không hình và hại được các chi khác. 232/40 – Chi bị hình không hình được chi khác (trừ Thái tuế) nhưng chúng vẫn hại được các chi khác và có điểm hạn như bình thường. 233/40 – Chi bị tự hình vẫn hình, tự hình hay hại các chi khác có điểm hạn như bình thường. B – Các chi bị xung hay bị khắc hình hay hại các chi khác Chú ý : Ở đây, các lực xung hay khắc các chi này phải có điểm hạn. 234/ - Lực hình, tự hình hay hại của các chi bị xung hay bị khắc với các chi khác bị giảm tỉ lệ thuận theo lực xung hay khắc chúng, các lực này chỉ xét về ngũ hành và nếu chúng ta quy ước các lực xung hay khắc này là 1 (nghĩa là các lực này không liên quan tới điểm vượng của các chi của chúng) thì các lực này bị giảm giống như giả thiết 95/ nhưng chúng không có điểm vượng. 235/ - Mỗi lực xung hay khắc với mỗi chi của giả thiết 95/ còn bị giảm thêm giống như giả thiết 96/ nhưng không có điểm vượng. 236/(54;159) - Nếu 1 chi xung gần với 1 chi thì lực này bị giảm ¼ với các chi Thổ (vd 54) và ½ với các chi không phải Thổ (ví dụ 159), các lực này bị giảm thêm ...nếu nó xung 1 chi cách 1 hay 2 ngôi như các giả thiết 234/ và 235/. 237/(30;106) - Nếu 1 chi xung với 2 chi thì mỗi lực xung này bị giảm ½ khi nó xung với các chi là Thổ (ví dụ 106) và 2/3 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 237a/106 - Nếu lực hình hay tự hình của một chi với một chi bị giảm x% đh thì lực hình của chi bị hình này với các chi khác bị giảm (100-x)% đh, 238/(43;113) - Nếu 1 chi xung với 3 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 7/8 khi nó xung gần với các chi là Thổ (ví dụ 43) và 15/16 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 238a/104 - Nếu 1 chi xung với 4 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 15/16 khi nó xung gần với các chi là Thổ và 31/32 đv với các chi không phải là Thổ, nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 239/(50;68) - Nếu từ 2 chi trở lên chỉ xung với 1 chi thì chi bị xung này không hình hay hại được các chi khác chỉ khi chúng xung gần với nhau (riêng chi Tý cũng được coi là bị xung bởi Thìn nếu nó bị xung bởi TKĐX* có điểm hạn - ví dụ 68), các lực này bị giảm thêm... như câu 234/30 và 235/30. 240/(115;131) - Nếu 1 chi khắc với 1; 2; 3; 4 chi thì các chi bị khắc gần không hình hay hại được các chi khác, nhưng lực hình hay hại của chi bị khắc cách 1 ngôi với các chi khác bị giảm ...?, và cách 2 ngôi.... bị giảm....? Nếu 1 chi khắc ít nhất 5 chi thì....(?). Hy vọng bạn đọc giúp tôi trả lời các câu hỏi này. Y12 - Điểm hạn của Tứ hình 241/ Tứ hình là phải có đủ 4 chi của tự hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi 242/41 – Nếu trong tứ trụ có ít nhất 3 chi khác nhau và chỉ khi có thêm chi lưu niên (thái tuế) mới đủ tứ hình thì nó mới có 1đh (kể cả khi chúng hóa cục), sau đó mới tính đến các chi thứ 5 trở đi của tứ hình ở trong tứ trụ, đại vận và tiểu vận, mỗi chi được thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được thêm 0,13đh). Y13 – Điểm hạn của Thương quan gặp Quan 245/ – Thương quan lộ gặp được Quan cũng lộ thì mới có điểm hạn và điểm hạn này được gọi là điểm hạn của thương quan gặp quan. Nếu Quan hay Thương quan ở trong hợp thì chúng được xem như không gặp được nhau. Các điểm hạn của thương quan gặp quan không bị giảm khi Thương quan bị khắc. Điểm Thương quan gặp Quan phụ thuộc vào các trạng thái vượng hay suy của thương quan như sau : 245a/ - Thương quan ở tuế vận mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nó nhược ở tuế vận có 0đh. 245b/ - Thương quan ở trong tứ trụ mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nếu nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, nếu nó được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,25đh, còn nếu nó thất lệnh và nhược ở tuế vận có 0đh. 246/120 - Thương quan ở tiểu vận gặp Quan ở tuế vận không có điểm hạn. Y14 – Điểm hạn của các thần sát 248a/ - Mỗi cát thần ở can hay chi của đại vận hay lưu niên có -0,25đh (ở tiểu vận chỉ có -0,13đh), còn mỗi hung thần có 0,25đh (nó chỉ có 0,13đh ở can hay chi của tiểu vận). 248b/ - Thần sát của các can và chi trong các tổ hợp và trong tứ trụ không có điểm hạn (trừ Tứ Phế hay Kình Dương). 248c/ - Điểm hạn của các thần sát ở thiên can bị giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc chúng, còn điểm hạn của các thần sát ở địa chi mất hết khi chúng bị xung hay bị khắc. 249/(2;109) - Nếu can tiểu vận ở trạng thái tử, mộ hay tuyệt ở tiểu vận và nhược ở cả lưu niên và đại vận cũng như can đại vận hay can lưu niên mà ở tử, mộ hay tuyệt ở cả lưu niên và đại vận thì các thần sát của chúng không có điểm hạn. Nếu can đại vận hay can lưu niên nhược ở cả đại vận và lưu niên mà bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0.7 đh thì tất cả điểm hạn của các cát thần của nó bị mất hết. 250/(7;11) – Kình dương ở đại vận hay lưu niên không bị hợp mới có 1đh, khi đó Kình dương ở các vị trí khác không bị hợp mới có 1đh và điểm hạn của Kình Dương không bị giảm khi nó bị khắc. 250a/(28;149) - Ðiểm hạn của Kình Dương tại lưu niên bị giảm ít nhất 50% nếu thái tuế bị xung hay khắc bởi TKÐX, trừ khi chi xung thái tuế bị xung hay bị khắc bởi chi đại vận (tức chi đại vận cũng là Kình Dương).) 251/133 - Tại năm sinh, Kình dương ở chi của các tháng của lưu niên cũng có điểm hạn (nếu nó không bị hợp). 252/2 - Trụ ngày là tứ phế có 1đh. Nếu trụ ngày là Tứ Phế thiên khắc địa khắc với trụ tháng (tức can và chi trụ ngày đều là chủ khắc) thì điểm Tứ Phế được tăng ít nhất 0,25đh. 253/ - Nếu không sống ở phương (so với nơi sinh của người có tứ trụ) của Nguyên thần (theo hành của Nguyên Thần) thì Nguyên Thần có thể không có điểm hạn (?). . 254/27 - Nếu can và chi của Không Vong ở tuế vận (hay tiểu vận) không bị hợp thì Không Vong mới có 0,25đh (0,13đh với tiểu vận), điểm hạn này bị giảm tỉ lệ thuận theo lực khắc can của nó và nó không có điểm hạn khi chi của nó bị xung hay bị khắc. 255/(147;150) - Nếu trong tứ trụ có kim thần thì Hỏa cục luôn luôn có điểm hạn âm, trừ khi có Mộc cục sinh cho nó hay Hỏa cục có ít nhất có 4 chi có điểm hạn (trừ Hỏa cục của các chi trong tứ trụ (?)) bởi vì khi Hỏa quá mạnh, nó sẽ làm kim thần ra tro). Y15 - Điểm hạn của thiên la và địa võng 256/73 - Nếu thiên la (TL) hay địa võng (ĐV) ở trụ ngày trong tứ trụ thì khi nó gặp thái tuế cũng là TL hay ĐV có ít nhất 0,3đh (vì theo các sách cổ thì TL và ĐV là 2 hung thần). 257/75 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên có 0,15đh. 258/76 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên mà có Kình dương ở trong tứ trụ hợp với thái tuế và chi giống với thái tuế trong tứ trụ hóa thành cục có hành giống với hành của Kình dương thì thiên la hay địa võng có 0,38đh. 259/75 – Nếu trong tứ trụ có Thiên La hay Địa Võng, tới năm Thiên La hay Địa Võng thì tất cả điểm hạn của các thần sát tại thái tuế sẽ bị mất. Y16 - Tuế vận gặp nhau 260/ - Tuế vận gặp nhau (can và chi của đại vận và lưu niên giống nhau) mà can của chúng vượng ở lưu niên có 1đh, nếu chúng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nếu chúng nhược ở tuế vận có 0,25đh 261/(62;105) - Nếu tuế vận cùng gặp mà các can của nó là Quan Sát của dụng thần (nghĩa là hành của các can này khắc hành của dụng thần) không bị hợp thì điểm hạn của tuế vận cùng gặp được tăng thêm 50%.
-
Lại một lần nữa xin sửa lại khái niệm về Ít, Nhiều và Đủ như sau: Nói chung sau khi ứng dụng vào các ví dụ trong thực tế thì khái niệm này phải sửa đổi sao cho nó càng phù hợp với càng nhiều ví dụ thì càng tốt. Ý sửa đổi lần này hiểu đơn giản là các can chi phải có ít nhất 6đv trong vùng tâm khi xét chúng không bị xung, khắc, sinh, hợp... bởi các can chi khác. Hy vọng khái niệm đưa ra lần này là đúng theo bản chất khách quan của "Phương Pháp Tính Điểm Hạn" này.
-
Bài viết để tham khảo LamPhong đã viết trong chủ đề “Tổng kết các case đoán“ trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org): “Case 1: - Chủ thớt: Thienkyquy - Đề: Đây là số của người cầm tù vợ trong nhà vì tính ghen và tính chiếm hữu, khi vợ trốn về nhà mẹ ở miền Tây, đã rượt theo và bắn 5 phát vào ngực và đầu ngày 13 tháng 9 năm 1947 lúc 9:30 sáng. Sau đó bắn vào đầu mình tự sát lúc 9:30 sáng và đến chiều lúc 16:03 thì chết. Nam sinh năm tháng ngày giờ Âm Lịch Bính Ngọ (1906) ngày 26 tháng 9 giơ gì???? (lá số lập từ giấy khai sinh). Chúng ta thử tìm xem có thể tìm đúng giờ sinh này không? Kết quả: Giờ Hợi“ Và đây là chủ đề “Chồng giết vợ“ của ThienPhucThienQuan (cũng trong mục Tử Vi bên tuvilysso.org): “Hồ sơ Chồng giết Vợ xong rồi tự sát quả thật lý thú vì tôi truy cập thêm tin tức và biết ngày giờ tháng năm sinh của người vợ. Lập lá số thấy rùng mình vì lá số của người vợ quá trùng khớp với lá số chồng, càng xác định chồng sinh giờ Thân. Tôi sẽ trình làng sự luận giải dùng phép Lưu Cung và Thái Tuế Nhập Quái để cho thấy biến cố dữ dội xãy ra không phải là vô cớ, nhất là sự trùng cung và sự truyền tinh thể hiện quá sắc nét qua cặp hồ sơ hi hữu này. Vợ người Mỹ, sinh ngày 16 tháng 11 DL, 1912, giờ Mão Chồng nguời Mỹ, sinh ngày 12 tháng 11 DL, 1906, giờ Thân Lá số vợ: http://www.lyso.vn/d...47/Vobigiet.jpg Trích: American homicide victim who was shot five times in the head and chest by her jealous husband at her mom's home where she had taken refuge on 9/13/1947, 9:30 PST, Los Angeles, CA. The husband then turned the gun on himself; he died later that day. Born on 16 November 1912 at 05:30 (= 05:30 AM ) Sửa bởi ThienPhucThienQuan: 14/09/2011 - 07:40 AM“ Vậy thì trong 2 giờ, Hợi và Thân thì giờ nào đúng? Theo phương pháp tính điểm hạn của tôi thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi (1947) theo giờ Hợi như sau: Ngày 13/9/1947, đó là năm Đinh Hợi thuộc đại vận Quý Mão và tiểu vận Mậu Thìn. 1 - Ta thấy Thân vượng mà Thực Thương Thủy nhiều (có 2 Hợi được lệnh), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Mộc tàng trong Hợi trụ tháng. 2 – Ta thấy Nhâm đại vận hợp với 2 Đinh và Dần đại vận hợp với 3 Hợi đều không hóa (vì lực hợp của Ngọ trụ năm với Dần đại vận cũng như lực xung của Thân trụ ngày với Dần đại vận nhỏ hơn lực hợp của 3 Hợi với Dần). 3 - Dụng thần Giáp tàng trong Hợi trụ tháng hợp với tuế vận có 1đh, và nó vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Nhâm đại vận vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc 2 Đinh, vì vậy mỗi lực khắc có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh. 3 Hợi trong tổ hợp không hóa nên chúnh tự hình với nhau như bình thường. Hợi trụ tháng và Hợi trụ giờ tự hình Hợi thái tuế, mỗi lực có 1đh. Do vậy Hợi trụ tháng tự hình Hợi trụ giờ có 0,5.1/2 đh = 0,25đh (vì cách 1 ngôi). 6 - Đất mái nhà ở trụ giờ và lưu niên có Đinh thất lệnh (với Đinh trong Tứ Trụ) và nhược ở tuế vận nên không khắc được nước mưa ở trụ năm. Tổng điểm hạn chỉ có 2,45đh. Nếu không xét đến các yếu tố tác động từ bên ngoài thì với số điểm này không thể gây ra bất kỳ một tai họa nào cả. Và với sơ đồ trên thì tôi không thể “BÓI“ ra được 1 giả thiết nào để cho số điểm hạn tăng thêm. Còn theo giờ Thân thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi như sau: Theo giờ Thân thì tai họa xẩy ra ở tiểu vận Ất Sửu. 1 - Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát Đinh tàng trong Ngọ trụ năm. 2 - Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Dần đại vận hợp với Hợi trụ tháng và Hợi lưu niên hóa Mộc có -0,75đh. Nhâm đại vận hợp với Đinh lưu niên hóa Mộc có -0,5đh. 3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. Tổng điểm hạn là -1,25đh. Số điểm này càng không thể gây ra bất kỳ 1 tai họa nào cả (nếu không tính đến các tác động ở bên ngoài). Nếu chúng ta đưa ra giả thiết là phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì sau khi tính lại, ta thấy chỉ có Thực Thương (Thủy) mất 3đv còn điểm của Tài Mộc tăng từ 1,6đv thành 4,6đv. Số điểm này không làm cho Thân và dụng thần thay đổi. Đến đây nếu ta đưa tiếp ra giả thiết là phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận thì Mộc có 4,6đv được thêm (9 + 2.6).1/3 đv = 7đv; 2.10đv của Hợi thái tuế; 9đv của Nhâm đại vận và 2.4,1đv của Đinh lưu niên, vì vậy Mộc có tới 48,8đv. Theo như bình thường thì sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của ngũ hành không thay đổi. Nhưng nếu như vậy thì hành Mộc vẫn có điểm hạn âm thì tổng điểm hạn vẫn là số âm nên cũng không thể chấp nhận được. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải “BÓI“ ra giả thiết : “2/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận, và nếu sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà Thân mới bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như bình thường“. (Tôi đã sửa lại giả thiết số 2/ trong Bài 24 cho ngắn gọn và chính xác hơn). Nếu sử dụng giả thiết này thì Thân sẽ là nhược mà Tài tinh Mộc là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Canh tàng trong Thân ở trụ ngày. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì nó lớn hơn hỷ dụng trên 20đv). Bán hợp Mộc có 0,75đh. Lục hợp Mộc có 0,5đh. Các can chi Nhâm, Đinh, Dần và Hợi ở tuế vận, mỗi can chi có 2.0,5đh kỵ vượng. Dụng thần Canh và Nhật can Canh đều nhược ở lưu niên nên đều có 0đh. Tổng điểm hạn là 5,25đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Từ ví dụ này tôi mới đưa ra giả thiết số 2/ này, vì vậy nó chưa có gì là chắc chắn cả, cần phải có nhiều ví dụ tương tự để kiểm tra. Nhưng về lý thì giả thiết này có thể đúng vì theo Tử Bình, Mộc của Tứ Trụ này là Tài mà Tài đại diện cho Tiền, Vợ và Cha. Mà rõ ràng tai họa này gây ra bởi số điểm hạn toàn là của hành Mộc và thực tế đúng là ông ta chết vì gen tuông vợ. Do vậy Tài gây ra tai họa ở đây không phải Tiền hay Cha mà chính là liên quan tới Vợ của ông ta. Nếu như không tính đến các điểm hạn do bên ngoài gây ra thì dĩ nhiên sinh giờ Thân mới có thể giải thích được tai họa này.
-
Các ví dụ minh họa : Ví dụ 18: Bé trai sinh ngày 6/1/1983 lúc 0,00’ sáng. Chết vào tháng 7 năm 1983. Tháng 7/1983 là năm Quý Hợi thuộc đại vận Quý Sửu (tiểu vận Quý Sửu). 1 - Tứ trụ này có Thân vượng và kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Mậu tàng trong Tuất trụ năm. Thủy là kỵ vượng. 2 - Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158), 105/18 và 123/6 thì vào đại vận Quý Sửu và năm Quý Hợi, giữa tứ trụ với tuế vận có tam hội Hợi Tý Sửu hóa Thủy cục có 4 chi có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đva, Sửu và Hợi ở tuế vận, mỗi chi có 0,5.5/4đh = 0,63đh kỵ vượng (bởi vì Ngọ trụ ngày xung gần 2 Tý trong tứ trụ không thể phá được tam hội có 4 chi, cũng như điểm hạn của Thủy cục được tăng gấp đôi và điểm kỵ vượng được tăng 1/4) 3 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – 2 Quý ở tuế vận, mỗi Quý có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nước biển ở trụ năm và lưu niên có Nhâm và Quý vượng ở lưu niên khắc kim trong cát, mỗi lực có 1đh. Tổng số là 5,01đh. Số điểm này là chấp nhận được. Từ ví dụ này chúng ta khẳng định tam hội cục ngoài tứ trụ chỉ có 2 chi trong tứ trụ mà 2 chi này giống nhau thì điểm hạn không được giảm (giả thiết 267/(26;18). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thủy là quá vượng. Do vậy ta phải dùng Hỏa và Thổ, nhất là Thổ để giải cứu (năm 1983, đứa bé này phải được đưa về phương nam và sống trong....như câu 2 phần II ở chương 18). Năm Quý Hợi là năm mà Thủy vượng còn có thêm tam hội Thủy, Thủy là quá vượng, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Thân bởi vì nó là tháng mà Hỏa và Thổ bắt đầu suy yếu còn Thủy bắt đầu vượng khắc Hỏa và sinh cho Thân (Mộc). Thân (Mộc) càng thêm vượng khắc dụng thần Thổ. Chị của bé trai đã kể : “Trước đây rất nhiều người bảo phải bán khoán đứa em này cho nhà chùa thì mới nuôi được. Tuy nhiên bố mẹ tôi không tin nên hậu quả là khi bị bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Em của tôi bị bệnh mà các bác sỹ không chuẩn đoán ra bệnh gì. Nó khóc 23 hôm thì mất”. Nếu theo tứ trụ này thì chúng ta nhận thấy vào năm Quý Hợi xuất hiện tam hội Hợi Tý Sửu, nó đại diện cho các vị thần linh, vì vậy nó thường là tốt. Nhưng ở đây nó hóa Thủy mà trong tứ trụ Thủy là kỵ thần đã quá vượng và không có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ nên điểm hạn không được giảm, vì vậy nó trở thành cực kỳ xấu cho cháu bé (nghĩa là các vị thần đã xuất hiện nhưng lại muốn mang cháu bé đi theo họ chăng ?). Ví dụ 158 : Ngày 15/4/1912 Tầu Titanic bị tai nạn. Nghĩa của từ Titanic là khổng lồ, vĩ đại, vì vậy nó mang tính của phái mạnh tức đàn ông. Ngày 15 tháng 4 năm 1912 là năm Nhâm Tý thuộc đại vận Mậu Tuất (tiểu vận đầu tiên). 1 - Mệnh này Thân vượng kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Giáp tàng trong Hợi trụ năm. 2 – Vào đại vận Mậu Tuất và năm Nhâm Tý có. Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý trụ tháng hóa Hỏa (xuất hiện trước, năm 1911) và tam hội Hợi Tý Sửu có 4 chi hóa Thủy (xuất hiện sau, năm 1912), vì vậy Hỏa cục và Thủy cục đã gây ra đại chiến. Vì có Quý ở trụ tháng hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Thổ có 20đv bị mất 10đv của Sửu còn 10đv. Thủy có 5đv được thêm 10đv của Sửu thành 15đv. Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm đã thay đổi như sau : 1............0,5..........-1.........-0,5............0,5 Mộc......Hỏa........Thổ..........Kim............Thủy #4,8.........2.........10............9,8.............15 Thân trở thành nhược và thực thương Thủy là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn Kỷ ở trụ giờ. Thủy là kỵ 1 (động) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 2đv được thêm 2,62đv của Quý trụ tháng và 4,1đv của Mậu đại vận, thành 8,72đv. Thủy có 15đv bị mất 2,62đv của Quý trụ tháng, thêm 2.10đv của Tý thái tuế và 2.10đv của Nhâm lưu niên thành 52,38đv. Do vậy Thủy lớn hơn hỷ dụng thần Thổ và Kim trên 40đv. Điểm hạn của tam hội Thủy cục có 4 chi có 1.2đh +0,25đh (vì Thủy là kỵ 1). Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng của Tý thái tuế được tăng gấp 4 lần có 4.0,5đh = 2đh. Hỏa cục có 0,5đh và điểm hạn của ĐC có 6.0,4đh = 2,4đh. 3 - Trụ tháng Quý Tị TKĐK với trụ giờ Kỷ Hợi có (0,25 + 0,05)đh = 0,3đh (vì Kỷ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). 4 - Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên nên có 1đh. 5 - Nhật can Tân vượng ở lưu nên có -1đh. 6 - Kỷ trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có 1đh và khắc Nhâm lưu niên có 0đh (vì Thủy cục có 4 chi có điểm hạn và điểm hạn được tăng gấp đôi - giả thiết 80/(32;36;55) - “Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi”. 7 - Đất trên tường trụ ngày có Tân vượng ở lưu nên khắc nước sông trụ tháng có 1đh, vì vậy nước sông không khắc được kim trang sức ở trụ năm. Gỗ đồng bằng trụ giờ có Kỷ được lệnh nên khắc được gỗ dâu lưu niên có 0,25đh. Tổng số là 10,2đh. Tam hội 4 chi ngoài tứ trụ mà trong tứ trụ có 3 chi mà có 2 chi khác nhau nên điểm hạn được giảm 1,25đh và 2 trong 3 chi này là Hợi cùng hành với Thủy cục. Do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn (10,2 -1,25).1/2.đh = 4,48đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 149/158: “Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến có 0,5đh nếu hóa cục chủ khắc có 1 can chi nhiều hơn so với can chi của hóa cục bị khắc, 0,6đh nếu nó có 2 can chi nhiều hơn, 0,7đh nếu nó có 3 can chi nhiều hơn,...” (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). (Chú ý: Tôi vừa mới sửa lại giả thiết này nên nó có khác một chút với Bài 22). Nếu áp dụng giả thiết này thì tam hội Thủy cục là chủ khắc có nhiều hơn Hỏa cục 2 chi nên điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,6đh. Vì vậy điểm hạn của ĐC này là 6.0,6đh = 3,6đh. Tổng số là (11,4 -1,25).1/2.đh = 5,08đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Có Thủy khắc Hỏa và trong tứ trụ có Hợi và Sửu hợp với thái tuế hóa Thủy gây ra ĐC, do vậy vào các tháng Hợi và Sửu của mùa Đông tai họa dễ xẩy ra. Nhưng đại vận Mậu Tuất của năm Nhâm Tý (từ 4/2/1912 tới 31/5/1912) chỉ có các tháng Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Tị. Trong đó chỉ có tháng Ất Tị là xấu nhất bởi vì nó TKĐX với trụ giờ Kỷ Hợi và nó là tháng và mùa mà Hỏa vượng còn Thủy ở tử tuyệt. Nhưng ở đây tai họa đã xẩy ra vào tháng Giáp Thìn. Tại sao như vậy ? Có thể tháng Giáp Thìn TKĐX với đại vận Mậu Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ. Các nguyên nhân chính gây ra hạn ở đây là các điểm hạn của ĐC và nạp âm thì hiện giờ Tôi chưa có cách nào để ngăn chặn. Hy vọng thời gian tới, tôi hoặc ai đó sẽ tìm được giờ sinh khác hoặc cách chứng minh khác cho tai họa của con tầu Titanic có tính thuyết phục hơn cách chứng minh này.
-
Bài 24 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Y1 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Đây là phần quan trọng nhất của phương pháp tính điểm hạn này. Thường thì các can chi trong tứ trụ không thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm của chúng không thay đổi, nhưng vào một năm nào đó can chi trong tứ trụ có sự hợp hóa thành hành khác thì điểm vượng vùng tâm của chúng có thể bị thay đổi. Trong một số trường hợp can chi trong tứ trụ thay đổi hành của chúng thì điểm vượng vùng tâm của các hành phải được tính lại. Sau đó ta phải xác định lại dụng thần và điểm hạn của các hành. Tiếp theo có thể ta phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận và tiểu vận để xác định chính xác độ lớn của các hành ở năm đó (điểm vượng tính thêm ở tuế vận này không có khả năng làm thay đổi dụng thần cũng như điểm hạn của các hành, trừ một vài trường hợp ngoại lệ). A – Hành kỵ 1 và hành kỵ vượng Nếu 1 hành là kỵ thần có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại hoặc tính thêm các can và chi động ở tuế vận) lớn hơn các kỵ thần khác thì nó được gọi là hành kỵ 1 và nếu nó lớn hơn các hành là hỷ dụng thần từ 10đv trở lên thì nó được gọi là hành kỵ vượng và can hay chi của nó trong một số trường hợp có điểm hạn và các điểm hạn này được gọi là các điểm kỵ vượng. B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó. 1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau : 1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm. 2/ - Tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận (?). Riêng trường hợp này thì sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh (nghĩa là các can chi ở tuế vận hóa cục được xem như ở trong Tứ Trụ từ khi mới sinh). 3/30 - Nếu các can của tuế vận và can tiểu vận hóa cục mà có thêm hóa cục của các địa chi có cùng hành liên kết giữa tứ trụ với tuế vận. 4/13 - Trong tứ trụ có hóa cục từ khi mới sinh nếu nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành. 5/6 - Giữa tứ trụ với tuế vận có các hóa cục, trong đó có ít nhất 2 chi ở trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành của chúng. 6/29 - Hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá mà có ít nhất 1 chi của nó hợp với tuế vận hóa cục. 7/9 – Các chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết tứ trụ với tuế vận. 2B - Điểm vượng vùng tâm không phải tính lại 8/28 - Nếu các chi trong tứ trụ ở trong hay ở ngoài các tổ hợp không hóa thì khi chúng hợp với tuế vận hóa cục mà trong chúng chỉ có 1 chi trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành. 9/53 - Các tổ hợp của các địa chi trong tứ trụ không hợp với tuế vận hóa cục (khi có thần dẫn ở tuế vận) hoặc chúng bị phá (kể cả chúng hóa cục từ khi mới sinh). 3B – Tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (Các can chi ở tuế vận và tiểu vận được xem là động khi nó xung, khắc hay hợp với các can chi khác) 10/6 – Sau khi tính lại các điểm vượng trong vùng tâm (chỉ xét các can chi trong tứ trụ và các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục) nếu hành kỵ thần 1 ở trạng thái động thì phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (viết tắt là tính thêm điểm vượng ở tuế vận), nếu hành kỵ 1 là tĩnh thì không phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận (trừ một vài trường hợp ngoại lệ như câu 11/30...). 11/30 - Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nếu một hành là kỵ thần nhưng không phải là kỵ 1 hay hành kỵ 1 là tĩnh, mà các hóa cục của nó có tổng cộng từ 6 can chi trở lên thì phải tính thêm điểm vượng tuế vận (đây là một trường hợp ngoại lệ). 11a/ - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân vượng thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, quan sát không bao giờ là kỵ 1 hay kỵ vượng cho dù nó lớn hơn các hành khác từ 10đv trở lên. 12/50 - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân thay đổi hay không thay đổi thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của các hành sẽ không thay đổi (trừ các trường hợp ngoại lệ: 2/ ; 12a/215; 29/(98;99) ;...), nói chung hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần, nhưng nếu nó có tam hợp hay tam hội cục trong Tứ Trụ thì các điểm kỵ vượng của nó chỉ bị giảm 50% nếu điểm vượng của hành kỵ vượng này không nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần 10đv (?). 12a/215 - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà cách "Lưỡng Vượng" (kể cả các cách độc vượng (?)) bị phá thì sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận điểm hạn của ngũ hành mới có thể được thay đổi như bình thường. 4B - Cách tính thêm điểm vượng ở tuế vận 13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, nhưng với chi của lưu niên thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197), còn với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212). 13b/ - Điểm vượng của can tiểu vận chính là điểm vượng của nó tại tiểu vận (nghĩa là tại chi của tiểu vận và xem chi tiểu vận như lệnh tháng). 13c/ – Điểm vượng của chi đại vận và chi tiểu vận là điểm vượng trung bình của chúng tại đại vận (nghĩa là tại chi của đại vận và xem chi đại vận như lệnh tháng) và 2 lần điểm vượng của chúng tại lưu niên (thái tuế). 13d/208 - Nếu Nhật can hợp với tuế vận hóa thành cục nhưng điểm hạn của hóa cục này bị các can khắc mất hết hoặc chúng hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can thì điểm vượng trong vùng tâm từ khi mới sinh của Nhật can không bị mất và hành mới hóa cục không được thêm số điểm này. . 13e/ - Nếu các can là tranh hợp thật thì các can này không có điểm vượng (?). 13f/10 - Nếu điểm hạn của hóa cục bị khắc mất x% thì chỉ có các điểm vượng của các can (hay các chi ?) có điểm hạn của hóa cục này mới bị giảm x%, nhưng các điểm kỵ vượng của chúng (nếu có) không bị giảm. Ví dụ : Nếu đại vận là Bính Thân, tiểu vận là Kỷ Dậu và năm Nhâm Ngọ thì điểm vượng của các can chi này ở năm Nhâm Ngọ được tính như sau: 1 - Kỷ tiểu vận có 6đv tại Dậu tiểu vận . 2 - Bính đại vận có 10đv tại Ngọ của lưu niên (thái tuế). 3 - Nhâm lưu niên có 4,1đv tại Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 4,1.2đv, nếu Nhâm hợp với can trong tứ trụ hóa cục thì điểm vượng này không được gấp đôi. 4 - Ngọ lưu niên có 10đv tại chi Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 10.2đv 5 - Dậu tiểu vận có 10đv tại Thân của đại vận và 4,8đv tại Ngọ của lưu niên nhưng nó được gấp đôi thành 2.4,8đv, vì vậy điểm vượng của Dậu ở lưu niên là (10đv + 4,8.2đv).1/3 đv = 6,53đv. 6 – Thân đại vận có 9đv tại Thân của đại vận và 7.2đv = 1,4đv tại Ngọ của lưu niên, vì vậy điểm vượng của Thân ở lưu niên là (9đv + 7.2đv).1/3 = 7,67đv. C – Hành và điểm kỵ vượng 14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng của vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...).. 14a/135 - Nếu dưới 12 tháng tuổi thì điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi mặc dù hành kỵ vượng lớn hơn hỷ dụng thần 20đv trở lên. 15/9 - Nếu can đại vận là kỵ vượng khi khắc được can trong tứ trụ mới có điểm kỵ vượng (kể cả khi nó bị hợp), khi đó các can kỵ vượng ở các vị chí khác có điểm kỵ vượng chỉ khi chúng ở trong các trạng thái động. 16/(12;176) - Các can trong tứ trụ là kỵ vượng bị can đại vận khắc thì chúng mới có điểm kỵ vượng, khi đó các can kỵ vượng khác ở trong trạng thái động mới có điểm kỵ vượng. Điểm kỵ vượng của các can bị khắc giảm tỷ lệ thuận theo các lực khắc chúng. 17/67a - Nếu can đại vận là kỵ vượng hợp với can trong tứ trụ thì nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó bị khắc bởi can trong tứ trụ có hành của dụng thần, khi đó các can khác trong tổ hợp này là kỵ vượng mới có điểm kỵ vượng. 18/12 - Nếu các chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận là kỵ vượng xung khắc nhau thì chỉ có các chi ở tuế vận, tiểu vận mới có điểm kỵ vượng. Các điểm kỵ vượng của các chi không bị giảm khi chúng bị xung hay bị khắc. 19/10 - Nếu các can ở trong các hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa tuế vận và tiểu vận mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 20/8 - Nếu các chi ở tuế vận hay tiểu vận ở trong các hóa cục mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 21/(10;101) - Điểm kỵ vượng của các can hay các chi trong hóa cục không bị giảm khi điểm hạn hóa cục của chúng bị khắc. 22/17 - Một hành sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mới là kỵ 1 và nếu nó là kỵ vượng thì các điểm kỵ vượng này không được tăng gấp đôi mặc dù nó có 20đv nhiều hơn hỷ dụng thần 23/8 - Nếu sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà một hành mới là kỵ 1 và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, các điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 24/11 - Nếu điểm vượng vùng tâm của kỵ 1 từ khi mới sinh không lớn hơn điểm vượng vùng tâm của hỷ dụng thần và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 25/210a – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của các hành là hỷ dụng thần hoặc nó nhỏ hơn hành kỵ thần mới (sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận) ít nhất 10đv. 26/15 - Nếu điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi cả khi tính lại điểm vượng vùng tâm thì khi tính thêm điểm vượng tuế vận nếu điểm vượng của hỷ dụng thần không lớn hơn điểm vượng của kỵ vượng thì điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi. D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Ví dụ minh họa. Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. Tháng 8/1991 là năm Tân Mùi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Kỷ Mùi. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Quan Sát Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Canh ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có Tị hợp với Dậu và Ất hợp với Canh đều hóa Kim. Vào đại vận Kỷ Mùi và năm Tân Mùi, 2 Mùi hợp với 2 Ngọ hóa Thổ (bởi vì bán hợp Kim của Tị với Dậu trong tứ trụ không bị phá nên tam hội Tị Ngọ Mùi không thể được tạo thành). Nếu sử dụng giả thiết 5/6 thì trong Thổ cục có 2 chi Ngọ ở trong tứ trụ thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 4đv được thêm 1,5đv của Ngọ trụ năm và 1,8đv của Ngọ trụ giờ thành 7,3đv. Hỏa có 3,3đv, nó bị mất hết (vì hóa thành Thổ). Vì vậy Thổ vẫn là kỵ 1. Bán hợp Thổ cục có 1đh và có thêm 0,25đh (vì Thổ cục có chi thứ 4). Nếu sử dụng giả thiết 114/6 thì Thổ cục là kỵ thần không sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần. 3 - Dụng thần Canh vượng ở lưu nên có -1đh. 4 - Nếu sử dụng giả thiết 61/6 thì Nhật can Quý mộ ở đại vận có 1đh (vì Thân nhược) và Quý mộ ở lưu niên có 1đh. 5 – Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì đất ven đường của trụ năm có Canh được lệnh nên khắc nước sông của trụ ngày có 1đh (không bị giảm ¼ đh, vì mặc dù can và chi của nạp âm này đều bị hợp nhưng có chi Ngọ của nó hợp với tuế vận hóa Thổ có hành giống với hành của nạp âm). Đất trên tường đại vận có Kỷ vượng ở lưu niên khắc nước sông có 1đh. Tổng số là 4,00đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng giả thiết 10/6 thì sau khi tính lại điểm vượng vùng tâm Thổ vẫn là kỵ 1 và động nên phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Thổ có 7,43đv được thêm 8đv của Mùi đại vận và 8.2đv của Mùi lưu niên, vì vậy (hành) Thổ tại năm Tân Mùi có 7,43đv +24đv = 31,43đv (can Tân và Kỷ ở tuế vận không động nên điểm vượng của chúng không được tính). Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng tiếp các giả thiết 13a/ và 14/6 thì Thổ là kỵ vượng, vì vậy mỗi chi Mùi ở tuế vận có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Nếu điểm vượng tại lưu niên của Mùi thái tuế không được tăng gấp đôi thì Thổ không phải là kỵ vượng). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì phương pháp này có sai số từ -0,1đh đến +0,1đh). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thổ quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu, bởi vì Thủy là hành của Thân và nó có thể hóa Kim (Kim khá mạnh đủ để hóa Thổ để sinh cho Thủy, vì vậy nó không cần thêm) để sinh cho Mộc, Mộc trở thành vượng mới có thể chế ngự được kỵ thần Thổ (bởi vì Mộc là kỵ thần nhưng nó quá yếu mà Thổ thì quá vượng). Trong tứ trụ có Ngọ hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ gây ra hạn cho nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ nhưng ở đây nó đã xẩy ra vào tháng Mùi bởi vì tháng Mùi là tháng mà Mộc nhập Mộ và nó đã tác động với 2 Ngọ trong tứ trụ làm cho tai họa xẩy ra. Ất (Mộc) trong tứ trụ ở trạng thái tử tuyệt và nó bị hóa thành Kim mà Kim là quá vượng còn được Thổ cục sinh cho, vì vậy nó cực vượng còn Mộc nhập mộ 3 lần (ở đại vận, lưu niên và tháng Mùi). Do vậy người này bị khối u ở não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...). Qua ví dụ này chúng ta nhận thấy nếu một hành quá nhược thì nó không cần phải bị khắc hay bị phản khắc bởi một hành khác, nó vẫn có thể gây ra tai họa liên quan tới hành đó. - Nếu không có điểm kỵ vượng thì điểm hạn quá thấp nên không thể chấp nhận được. - Nếu tam hội Tị Ngọ Mùi phá được Kim cục thì cũng không hóa được Hỏa (vì không có thần dẫn) thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu Thổ cục là kỵ thần sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu lực khắc của nạp âm vẫn bị giảm ¼ thì tổng điểm hạn là 4,75 có thể là hơi thấp.
-
-
Ví dụ mẫu về tranh hợp thật hay giả Sau đây là ví dụ trong chủ đề “Giải đoán tb nhiều pháp….vui học làm chính…“ của Tyty trong mục Tử Bình bên trang web tuvilyso.org. Tyty đã viết: “Có ai thích giải vài tứ trụ mẫu... theo pp của mình...? sao cũng được, miễn là ... đoán trúng ! :Thumb Up (đoán sai càng tốt, học hỏi là chính...) (1) Nam nhân bị xử án tử hình trong vận Sát/Kiêu! Hỏi: Năm nào trong đại vận này bị thọ án (xử bắn)? Tứ trụ: Đinh Mùi - Ất Tị - Bính Tý - Quí Tị đại vận: 2 tuổi Giáp Thìn, 12 tuổi Quí Mão, 22 tuổi Nhâm Dần lưu niên trong vận Nhâm Dần: 89 Kỉ Tị, 90 Canh Ngọ, 91 Tân mùi, 92 Nhâm Thân, 93 Quí Dậu, 94 Giáp Tuất, 95 Ất hợi, 96 Bính Tí, 97 Đinh sửu, 98 Mậu Dần. Luận theo Manh phái: "Nhật chủ quá vượng, cùng Quan Sát đối kháng, nhất định là mệnh phạm quan. Tòng thế mạnh của Quan Sát là bệnh, mục đích của nhật chủ là muốn chế phục Quan Sát thành ra cường lực của mình, vì Tý nằm ở chũ vị (trụ ngày). Vì vậy mà năm ??? xung khứ quan tinh mà phạm án, năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp sau khi phạm tội giết người. Đến năm ??? thì bị xử bắn." mấy chỗ " ??? " là câu hỏi... điền vào chỗ trống! nào nào, mời các chư huynh đệ... leo núi, xuống đèo, ra khơi...đi thôi... :D (cùng các bạn Tử Vi ghé qua đây chơi...: người này sinh ngày âm lịch: 4 tháng 4 năm Đinh mùi 1967). Sửa bởi tyty: 22/09/2011 - 09:20 PM Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org Sau đây là đáp án của Tyty: “ tyty thấy giải cho rồi... vì chắc kô còn ai thích chơi với mình...hihi himama đoán trúng năm bị chích chết: là năm Nhâm Thân! như thế này, trong bài thí dụ đó có 1 điểm chính yếu khi luận chết... đó là ở câu: "năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp.." MP coi Lộc là thọ tinh, nếu Lộc bị phạm thì coi chừng tính mạng!“ tên gian ác kia bắt đầu vận Nhâm Dần đã thấy có mòi phạm tội... vì Nhâm Sát tinh ló ra, là quyền lực bắt đầu manh nha... Sát là Khách đến khắc Chủ là Bính... Dần hình Tị là động lộc vị của nhật chủ (Bính lâm quan ở Tị, đó là lộc vị)... Thường là đại vận có xung động thì mấy năm đầu động rất nhanh... năm Kỉ Tị thì nhờ Kỉ thương quan chế quan mà chắc là chỉ tính toán trong bóng tối... năm Canh Ngọ thì hành động... vì NGỌ xung TÝ, Ngọ lại hợp Mùi mà Đinh trong Mùi thông lộc ở Ngọ ... (thông lộc là kô phải chủ vị mà chỉ rằng 1 thiên can đi thông gốc lâm quan ở 1 địa chi) mấy cái này mâu thuẩn nhau... gây ra án mạng. trốn chui nhủi được ở năm Tân Mùi... tới năm Nhâm Thân thì bị chộp, vì thêm 1 Sát tinh cùng Thân hợp Tị (bán hợp Lộc)... hết đường chạy thoát...cùng trong năm đó bị xử chết luôn! ban đầu bao giờ cũng phải có gốc có nguồn...như có lửa có khói... mệnh muốn xung quan sát, mà lại quá vượng...thì khi ứng kỳ (quan sát lên), nội tình đầu óc xáo trộn...mà phạm quan. nhưng kô phải ai cũng giết người... có thể người khác thì thụt két, hay ẩu đả với xếp văng luôn cái ghế ngồi ... hihi bài học: khi động Lộc vị hoặc thọ tinh nào khác : nên ăn chay ngồi thiền là rất phải a! :Thumb Up Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org“ Đây là ví dụ mẫu trong một cuốn sách của “Manh Phái“ mà tyty đang dịch. Ở đây tôi không quan tâm tới cách luận của “Manh Phái“ mà tôi chỉ cần lấy thông tin của ví dụ này là người này bị tử hình vào năm Nhâm Thân để hoàn thiện lý thuyết của tôi. Sơ đồ điểm hạn năm 1992 khi giả thiết về tranh hợp thật đã được sửa đổi theo phương pháp của tôi như sau: Năm 1992 là năm Nhâm Thân thuộc đại vận Nhâm Dần, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà kiêu ấn ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Quý ở trụ giờ. 2 – Nếu theo giả thiết về tranh hợp thật thì vào vận Nhâm Dần và năm Nhâm Thân có 2 Nhâm ở tuế vận là can chủ khắc hợp với Đinh trụ năm ở tiểu vận Mậu Thìn và hợp thêm với Đinh tiểu vận ở tiểu vận Đinh Mão đều là tranh hợp thật cũng như 2 Tị trong Tứ trụ là chi chủ khắc hợp với Thân thái tuế cũng là tranh hợp thật. Các can chi tranh hợp thật đều là vô dụng hay coi như chúng không xuất hiện. Ta thấy chỉ có nước khởc trụ ngày khắc nước sông trụ giờ có 0,25đh và Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Số điểm này quá thấp không thể gây ra một tai họa nào cả. Vậy thì tại sao người này bị chết? Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải sửa lại giả thiết về tranh hợp thật như sau: Tranh hợp thật của thiên can và địa chi: 1 - Nếu chỉ có 2 can dương giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong Tứ Trụ hợp với can đại vận hay can lưu niên thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này được xem như vô dụng. 2 - Nếu 2 can tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với can tiểu vận hay với một can trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này cũng được xem như vô dụng. 3 - Nếu chỉ có 2 chi dương giống nhau mang hành chủ khắc ở trong Tứ Trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các chi này được xem như vô dụng. 4 - Nếu 2 chi tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một chi trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên các chi này cũng được xem như vô dụng (?) (câu này có thể sai bởi vì điểm vượng (tức thế lực) của chúng ở lưu niên không bằng nhau). Nếu chúng ta áp dụng giả thiết mới sửa đổi này thì ở tiểu vận Mậu Thìn tổng điểm hạn rất thấp vì 2 Nhâm ở tuế vận hợp với Đinh trụ năm là tranh hợp thật. Còn ở tiểu vận Đinh Mão, 2 Nhâm hợp với 2 Đinh nên không phải là tranh hợp thật, cũng như 2 Tị là chi mang dấu âm nên mặc dù là chủ khắc hợp với Thân thái tuế nhưng không phải là tranh hợp thật. (Giải thích: 2 Tị là chi mang dấu âm (đại diện cho phái nữ) là chủ khắc, tức nó đại diện cho những bà thống trị chồng mà chúng ta thường gọi họ là “Sư Tử Hà Đông“). Qua sơ đồ chúng ta thấy lực hợp của 2 Tị với Thân thái tuế có 2.6,75đv là lớn hơn lực xung của Dần đại vận với Thân thái tuế chỉ có 5,07đv và lực hợp của Tý trụ ngày với Thân thái tuế chỉ có 4,98đv. Do vậy 2 Tị hợp với Thân hóa Thủy. Vì trong Tứ Trụ có 2 chi hớp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 2 chi này nên phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Hỏa có 14,27đv bị mất 2,81đv của Tị trụ giờ và mất 3,6đv của Tị trụ tháng, vì vậy nó còn 7,86đv. Thủy có 6,38đv được thêm 2,81đv và 5,6đv của 2 Tị thành 12,79đv. Thân trở thành nhược mà Quan sát là kỵ thần số 1 nên dụng thần đầu tiên lúc này phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ tháng. Vì Thủy là kỵ thần số 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Thủy có 12,79đv được thêm 2.9đv của Thân thái tuế, 2.6đv của Nhâm lưu niên và 6đv của Nhâm đại vận thành 48,79đv. Hỏa có 7,86đv được thêm 4,8đv của Đinh tiểu vận thành 12,66đv. Thủy lớn hơn Hỏa trên 20đv nên Thủy là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Thủy không phải là kỵ thần số 1 từ khi mới sinh). Thủy cục có 0,75đ h và Thân thái tuế hóa Thủy có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm đại vận là kỵ vượng hợp và khắc Đinh trong Tứ Trụ nên có 0,5đh kỵ vượng, khi đó Nhâm lưu niên động (khắc Đinh) nên mới có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm ở tuế vận vượng ở lưu niên nên mỗi Nhâm có 0,5đh can động và khắc 2 Đinh nên mỗi lực có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh nhưng mỗi lực khắc Đinh tiểu vận bị giảm thêm ½ còn 0,35.1/2 đh = 0,18đh.. Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Nước khe trụ ngày có Bính được lệnh nên khắc nước Sông trụ giờ có 0,25đh. Tổng cộng có 4,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp một giả thiết nữa là: “Nước mưa khắc nước sông có ít nhất là 0,25đv khi can của nó được lệnh hay vượng ở đại vận hoặc lưu niên (vì nước khe núi còn khắc được nước sông có 0,25đh). Nếu sử dụng giả thết này thì tổng điểm hạn là 5,06đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Vì trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân thái tuế hóa Thủy là nguyên nhân chính gây ra tai họa nên có thể vào tháng Tị người này bị tóm cổ, tháng Thân bị tuyên án tử hình và vào mùa Đông là mùa mà Thủy vượng thì bị tử hình (?). Các giả thiết tính điểm hạn hoàn toàn được đưa ra từ các ví dụ trong thực tế và chúng sẽ được kiểm tra, sửa đổi sao cho càng ngày càng phù hợp với càng nhiều ví dụ trong thực tế càng tốt. Trên đây chỉ là 1 ví dụ để chứng minh “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi được xây dựng lên như thế nào. Qua đây tôi hy vọng có nhiều người sẽ hiểu rõ và cùng tôi nghiên cứu để nhanh chóng hoàn thiện phương pháp tính điểm hạn này.
-
Bài 23 - Điểm hạn và các tính chất của nạp âm Nói chung phần nạp âm này hầu như tôi chỉ dựa vào các ví dụ trong thực tế để xác định điểm hạn của chúng, mặc dù có giải thích một vài trường hợp nhưng chắc cũng chỉ là gượng ép, chưa có tính thuyết phục. Nhiều cái đến giờ tôi vẫn không hiểu được nó là cái gì như Lửa Dưới Núi chẳng hạn cũng như tại sao sách cổ viết về nạp âm của gỗ Lựu là “Gỗ Lựu gặp Lửa Mặt Trời có thể tốt mà cũng có thể xấu” ? Các ví dụ thực tế đã chứng minh chúng đúng là phức tạp như vậy.... Một điều mà ai ai cũng cảm thấy vô lý là sách cổ chỉ nói “Gỗ Đồng Bằng sợ Kim Lưỡi Kiếm” còn các loại gỗ khác không hề sợ, trong khi thực tế thì dao, kiếm, rìu, máy cưa...có ngán loại gỗ nào đâu... Y10 - Điểm hạn và tính chất của các nạp âm Chúng ta quy ước gọi nạp âm B có can hay chi C, can hay chi C của nạp âm B, nó có nghĩa là can hay chi C và nạp âm B ở trong cùng trụ. Điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng hay suy theo can của nó như sau : 195/5 - Nếu can của nạp âm vượng ở lưu niên thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 2,5đk để có thể gây ra max 2,5đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 2đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng. 196/16 - Nếu can của nạp âm ở tuế vận chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác có max 0,75đk để có thể gây ra max 0,75đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,75đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng 197/58 - Nếu can của nạp âm được lệnh (tức nó ở trong tứ trụ) nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 1,75đk để có thể gây ra max 1,75đh. Mặc dù nạp âm này chỉ được sử dụng max 1,5đk để có thể gây ra 1,5đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần còn lại của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 198/1 - Nếu can của nạp âm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 1đk để có thể gây ra max 1đh. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng 1đk để có thể gây ra 1đh, nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 199/(11;30) - Nếu can của nạp âm thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 0,75đk. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng max 0,75đk để có thể gây ra 0,75đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 200/ - Nếu can của nạp âm thất lệnh và nhược ở tuế vận hay can của nạp âm ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nạp âm này không có khả năng khắc các nạp âm khác. 201/(93;95,157) – Nạp âm là vô dụng (nó không khắc được các nạp âm khác) chỉ khi chi của nạp âm là Ngọ hay Mão bị khắc, trừ lực khắc của lửa mặt trời với các nạp âm khác chỉ bị giảm 50%đh (hay nó không bị giảm ?) 202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc trừ giả thiết 201/. 202a/91– Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ ...(tương tự như giả thiết 202 /30). 202b/30- - Hóa cục của các chi có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 203/(8;42) – Nếu can của nạp âm bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh thì nạp âm trở thành vô dụng còn nếu can của nó bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0,7đh thì điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác bị giảm ít nhất 3/4. 204/78 – Nạp âm là vô dụng khi can của nó bị khắc bởi 4 can, nếu mỗi lực này có ít nhất 0,5đh. 205/60 - Nếu lửa đỉnh núi không khắc được nước khe núi thì nước khe núi mới khắc được lửa đỉnh núi, các lực này có max 0,5đh. 206/(47;53;62) - Gỗ lựu gặp Lửa mặt trời có khoảng từ -1đh tới +1đh (vì theo sách cổ để lại thì gỗ lựu gặp lửa mặt trời có thể tốt nhưng cũng có thể xấu). Điểm hạn này phụ thuộc vào hành Kim là hành của can chi của nạp âm gỗ lựu (Canh Thân, Tân Dậu) : a - Nếu Kim là hỷ dụng thần thì điểm hạn của gỗ lựu gặp lửa mặt trời có dấu dương, nó là xấu (bởi vì nó giúp lửa mặt trời mạnh thêm để khống chế hỷ dụng thần Kim). b - Nếu Kim khắc hành của hỷ dụng thần thì điểm hạn này có dấu âm, nó là tốt (bởi vì Kim bị khống chế là tốt cho hỷ dụng thần). c - Nếu can và chi của gỗ lựu ở trạng thái tĩnh hay can của gỗ lựu thất lệnh và nhược ở tuế vận hay gỗ lựu bị khắc bởi một lực có 1 đh thì điểm hạn này có thể là 0đh (?). 207/1 - Mặt trời khắc đất trên tường, lửa đèn, gỗ liễu, kim trang sức, mỗi lực có max 1đh. Lửa sấm sét khắc Kim lưỡi kiếm, đất trên thành....mỗi lực có max 1đh (xem bảng phía dưới). 208/37 - Gỗ đồng bằng khắc gỗ dâu có max 0,25đh. 209/13 - Đất ven đường, đất dịch chuyển, đất trên thành, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước mưa, mỗi lực có max 1đh. 210/38 - Mỗi nạp âm khắc các nạp âm khác có max 2đh. 211/7 – Các loại nạp âm có hành là Thủy không khắc được lửa dưới núi. Lửa dưới núi không khắc được kim trang sức. Nước khe và nước suối khắc nước sông, mỗi lực có 0,25đh, còn nước mưa và nước sông khắc nước sông, mỗi lực có ... ? 212/11 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước khe núi, mỗi lực có max 0,5đh, riêng đất dịch chuyển khắc nước khe núi có max 0,75đh Giải thích: Nước khe núi thực chất bởi 2 phần, phần ở phía trên vẫn còn là xương mù, còn phần ở dưới là phần xương mù đã ngưng tụ thành các hạt nước rơi xuống tạo thành các dòng nước nhỏ chẩy ở vách đá và dưới khe núi. Cho nên đất trên thành, đất trên tường, đất ven đường hay đất mái nhà chỉ khắc được phần nước chẩy ở vách núi và khe núi còn phần xương mù phía trên không khắc được, do vậy chỉ gây ra 0,5đh là hợp lý. Chỉ có đất dịch chuyển (có thể coi như là bụi và dung nham của núi lửa (?)) khắc nước khe có 0,75đh (vì là bụi và dung nham của núi lửa dịch chuyển, nên phần bụi khắc được một phần sương mù phía trên nên có thêm 0,25đh). 213/30 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà đất, trên tường và đất dịch chuyển khắc nước sông và suối, mỗi lực có max 1đh. 214/47a - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can của nạp âm hợp với tuế vận mà nó có hành giống với hành của nạp âm và nó không bị khắc bởi chi cùng trụ thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm 1/2 đh (?). 215/127 - Tại năm sinh, nạp âm của trụ năm và lưu niên khắc các nạp âm khác bị giảm ½ đh. 216/(6;46) - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can hay chi của nó hợp với tuế vận và tổ hợp này phải hóa cục thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác mới bị giảm ¼ đh, nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành với nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 217/(9;24) – Nếu can và chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm ½ điểm hạn nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 218/(4;31;16) – Nạp âm tiểu vận khắc nạp âm đại vận bị giảm ½ đh và nạp âm đại vận hay lưu niên khắc nạp âm tiểu vận bị giảm ¾ đh 219/46 - Nếu các nạp âm của nước sông và nước suối trong tứ trụ có các can của chúng được lệnh và vượng ở lưu niên hay chúng ở tuế vận mà vượng ở tuế vận thì lực khắc của chúng với các nạp âm khác không bị giảm mặc dù chúng bị khắc bởi các nạp âm khác. Giải thích: Nếu can của các nạp âm là nước suối hay nước sông thất lệnh hay không vượng ở lưu niên nên chúng có ít nước, khi chúng bị các con đê chặn lại (bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ) thì chúng không thể tràn qua các con đê để khắc được các nạp âm khác như lửa đỉnh núi. 220/50 - Nếu nạp âm của 1 trụ bị khắc nhưng không có điểm hạn thì trụ đó được xem như nó không bị khắc. 221/(33;105) – Nếu không có lửa đèn tác động tới các nạp âm là gỗ thì khi các nạp âm là gỗ khắc kim giá đèn có 0,5đh chỉ khi can của chúng ở các trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lưu niên (trừ gỗ lựu, có thể lực khắc của gỗ lựu bị giảm bởi vì can chi của gỗ lựu cùng có hành kim), còn nếu các nạp âm này ở trong tứ trụ mà các can của chúng nhược ở tuế vận thì chúng khắc kim giá đèn ở trong tứ trụ có 0,5đh chỉ khi các can của chúng phải ở trạng thái Lộc hay Kình Dương của lệnh tháng (trừ gỗ lựu). Ngoài 2 trường hợp này chúng khắc kim giá đèn chỉ có max 0,25đh. Bảng điểm hạn của các nạp âm khắc nhau Chú ý : 1 – Kim giá đèn * xem giả thiết 221/(33;105). 2 - Dấu * của Gỗ Lựu có thể từ -1đh tới +1đh. 3 - Các điểm hạn trong bảng này là lớn nhất khi chúng khắc nhau (tức can của chúng vượng ở lưu niên) mà tôi đã tìm ra được từ trong các ví dụ đã xẩy ra trong thực tế, tuy nhiên số ví dụ để kiểm tra chúng là quá ít, vì vậy các điểm hạn này có thể chưa chính xác. 4 - Ở đây tôi mới tìm được 1 trường hợp của nạp âm gỗ lựu gặp lửa mặt trời trong một vài trường hợp có điểm hạn âm. Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi tìm thêm các điểm hạn mang dấu âm và dương mới cũng như kiểm tra lại tất cả các điểm hạn trong cuốn sách này. Ví dụ minh họa Ví dụ 46 - trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ": Tứ trụ của minh tinh màn bạc Hollywood Christopher Reeve (thủ vai Superman). Ngày 27/5/1995 là năm Ất Hợi thuộc đại vận Quý Sửu và tiểu vận Quý Sửu. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa, lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim và bán hợp của Ngọ với Tuất không hóa (với nam, trong tứ trụ có 3 tổ hợp thường là người nổi tiếng). Vào đại vận Quý Sửu và đến năm Ất Hợi có ngũ hợp của Ất trụ giờ với Canh ở lưu niên hóa Kim nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 18,1đv, còn các hành khác không thay đổi. Do vậy Kim là kỵ vượng, vì vậy Kim cục có 0,5đh, Ất và Canh mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng. 3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh . 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh . 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp vượng ở lưu niên khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 1đh, vì vậy đất dịch chuyển thành vô dụng (vì sao thì tôi chưa giải thích được, chỉ thấy áp dụng như vậy thì mới đúng cho các ví dụ tương tự khác). Lửa đỉnh núi của lưu niên có Ất nhược ở tuế vận nên thành vô dụng. Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh nên khắc được nước sông có 1đh nhưng vì can chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có Canh hợp với tuế vận hóa Kim, nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì lực khắc này chỉ bị giảm ¼ đh còn 1.3/4.đh = 0,75đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông có Nhâm được lệnh và vượng ở lưu niên khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày và lưu niên mỗi lực có 1đh 6 – Trong tứ trụ đã có Thìn, Dậu và Ngọ đến năm Hợi có đủ tứ tự hình nên có 1đh. Tổng số có 5đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì các bác sĩ giỏi cấp cứu kịp thời, sự giải cứu này tương đương với khoảng -0,1đh, vì vậy anh ta mới thoát chết). Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm, tứ hình và do Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu (vì Thân Mộc là nhược) và kết hợp với giải cứu về tứ hình (giống như hình và hại). Hạn đã xẩy ra vào tháng Tân Tị bởi vì nó TKĐK với lưu niên Ất Hợi và nó là tháng và mùa mà dụng thần Thủy ở tử tuyệt, còn Kim bắt đầu vượng, vì vậy Thủy không có khả năng làm dụng thần thông quan để hóa Kim sinh cho Thân (Mộc). Christopher Reeve mất ngày 10/10/2004, đó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Giáp Dần, tiểu vận Quý Hợi. 1 – Trong tứ trụ có: Lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim: Ngũ hợp của Giáp với Kỷ và bán hợp của Ngọ với tuất là không hóa. Vào đại vận Giáp Dần có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất không hóa. Ngũ hợp của Giáp đại vận và Giáp trụ ngày với Kỷ trụ tháng. Đến năm Giáp Thân có: Tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim (vì theo quy tắc ưu tiên lục hợp Kim bị phá bởi tam hội Kim là cùng hành và tam hợp Dần Ngọ Tuất bị phá vì nó không hóa cục). Lục hợp của Hợi tiểu vận với Dần đại vận không hóa bởi vì Kim cục có trước đã ngăn cản. Bởi vì Kim cục trong tứ trụ bị phá và chi Dậu của nó hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 29,9đv, còn hỷ thần Mộc có 18,47đv. Do vậy Kim có điểm kỵ vượng. Tam hợp Kim cục có 0,75đv và Thân thái tuế có 0,5đh kỵ vượng. Lục hợp Kim cục có 2 chi trong tứ trụ bị phá có -0,5đh, chi Thìn có 1đh và chi Dậu có 0,5đh. 2 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 4 – Giáp đại vận và Giáp lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên mỗi Giáp có -0,25đh can động và khắc Kỷ, vì vậy mỗi lực khắc có 0,25đh. Giáp trụ ngày thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Kỷ có 0,25đh. 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 0,25.1/2.đh = 0,13đh (bởi vì Giáp đã dùng mất 0,5đh và can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận). Nếu sử dụng giả thiết 213/30 thì đất dịch chuyển của trụ tháng có Kỷ được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông của trụ năm và nước suối của đại vận, mỗi lực có 1.1/2.87%đh = 0,44đh (vì can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận và bị lửa đỉnh núi khắc mất 13%đh). Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông và nước suối, vì vậy mỗi lực có 1đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông của trụ năm có can Nhâm được lệnh lại vượng ở lưu khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày có 1đh (mặc dù nó bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ). Nước suối của đại vận có Giáp chỉ vượng ở đại vận nên nó không thể khắc được lửa đỉnh núi (vì nó bị khắc 1đp bởi đất ven đường). Tổng số có 6,26đh. Tam hội kim cục ngoài tứ trụ có 2 chi khác nhau trong tứ trụ, vì vậy điểm hạn được giảm 1đh. Do vậy tổng số chỉ còn 5,26đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm và Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Trong tứ trụ có Dậu và Tuất hợp với Thân thái tuế hóa Kim cục đã gây ra tai họa, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng Dậu hay Tuất. Ở đây, tại sao tai họa không xẩy ra vào tháng Quý Dậu mà lại xẩy ra vào tháng Giáp Tuất ? Có thể giữa tứ trụ với tuế vận có 3 Giáp hợp với Kỷ trụ tháng, vì vậy vào tháng Giáp Tuất, có thêm Giáp đã tác động tới Kỷ thì tai họa mới xẩy ra (?)
-
Trong “Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ“ ở câu : “12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận“. Xin bỏ câu 3 trong phần “f – Địa chi tranh hợp thật“ có nội dung như sau : “3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155).“ . Bởi vì trong bản tiếng Anh đã in nó là ví dụ số 165 và tôi đã bỏ phần 2 của ví dụ này (vì sai) nhưng ở đây (bản tiếng Việt) tôi lại ghi "ví dụ 155" nên sơ xuất không phát hiện ra để xóa nó. Thành thật xin lỗi mọi người.
-
Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục Y7 – Điểm hạn và khả năng của hóa cục 1 - Điểm hạn và các tính chất của hóa cục của các can chi 111/ – Trạng thái hành của hóa cục được xác định như 5 can dương. 112/ - Chỉ có 2 can hợp với nhau mới có khả năng hóa cục nếu có thần dẫn (xem câu 4 và 5 của phần II trong chương 6 hay xem giả thiết 108/(8;114)). 113/ - Các tổ hợp của các địa chi chỉ có thể hóa cục khi có thiên can dẫn hóa (xem câu 9 của phần III trong chương 6). 114/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). 115/6 - Hóa cục là kỵ thần không sinh được cho hóa cục là hỷ dụng thần. 116/ - Hóa cục là hỷ dụng thần sinh cho hóa cục cũng là hỷ dụng thần như bình thường nhưng chúng có điểm hạn âm ? 117/24 - Mỗi can chi của hóa cục A sinh được cho hóa cục B ít nhất là 0,6đh chỉ khi hóa cục B là kỵ thần và hành của hóa cục B có 1đh và 0,3đh khi hành của hóa cục B có 0,5đh (can chi tiểu vận chỉ sinh được bằng ½). 118/25 - Thủy cục ở phía trên sinh cho Mộc cục là kỵ thần ở các địa chi trong tứ trụ, vì vậy Thủy cục này cũng có thể khắc Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ để gây ra đại chiến (ĐC). Giải thích: Thủy ở trên trời là những đám mây mang hơi nước, khi gặp lạnh chúng ngưng tụ thành những hạt nước rơi xuống đất và nuôi cho cây cối phát triển, vì vậy nó cũng có thể dập tắt được lửa. 119/10 - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 120/91 - Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ, vì vậy tổng số lực khắc của lửa sấm sét này với các nạp âm khác được thêm 0,25đh chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không nhiều hơn tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 121/30 - Hóa cục của các chi (trừ hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (?)) có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 122/13 - Giữa tứ trụ với tuế vận có hóa cục, nếu các chi trong tứ trụ của hóa cục mới này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của hóa cục mới này thì chúng không có điểm hạn. 123/8 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hợp cục hay tam hội cục từ 4 chi trở lên mà hành của nó là kỵ 1 (hoặc sau khi tính lại hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận) thì điểm hạn chính của hóa cục này được tăng gấp đôi và từ chi thứ 4 trở đi có điểm hạn, mỗi chi được thêm 0,25đh. 124/55 – Hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận có 4 chi có điểm hạn, nếu điểm hạn của hóa cục này không được tăng gấp đôi thì nó không bị khắc bởi các can nhưng các can cùng hành với nó vẫn bị khắc như bình thường. 125/81 – Nếu hai hóa cục khắc nhau thì chúng có thể được tạo thành trong cùng một lúc nhưng hóa cục bị khắc không thể được tạo thành nếu nó có sau so với hóa cục là chủ khắc (vì nó bị cản phá bởi hóa cục là chủ khắc, trừ khi hóa cục chủ khắc quá yếu, xem ví dụ 86 và ĐC-1). 126/85 - Hóa cục ở can hay chi tiểu vận với can hay chi đại vận hay lưu niên chỉ có 1,5 chi (ở đây ta quy ước can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay 0,5 chi) mặc dù là chủ khắc và có trước nhưng nó quá yếu không thể cản phá được các hóa cục bị khắc có ít nhất 2 can chi mặc dù chúng có sau. 2 – Khả năng phá hợp của các tổ hợp a – Các quy tắc ưu tiên hợp và hóa của các địa chi 127/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hội, tam hợp, bán hợp hay lục hợp không hóa thì tam hội sẽ được ưu tiên trước nhất sau đó mới đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu lực hợp của lục hợp không lớn hơn lực hợp của bán hợp) và cuối cùng mới đến lục hợp. 128/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có lục hợp, bán hợp, tam hợp hay tam hội có khả năng hóa thành cùng một hành thì tam hội được ưu tiên trước sau đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu bán hợp có lực hợp bằng hay lớn hơn lực hợp của lục hợp) và cuối cùng mới là lục hợp (kể cả các hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh). 129/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có các tam hợp cục hay các tam hội cục, khi các hóa cục này bị phá bởi các chi hay các thiên khắc địa xung... thì các quy tắc ưu tiên hợp và hóa với các chi của tam hợp hay tam hội này mới có hiệu lực. b – Khả năng phá hợp của các tổ hợp 130/ – Lục hợp cục hay bán hợp cục trong tứ trụ từ khi mới sinh chỉ bị phá khi : a/ – Chi của nó bị xung hay bị khắc bởi chi có lực xung hay lực khắc lớn hơn lực hợp với chi bị xung hay bị khắc (riêng với lực xung hay lực khắc của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). Riêng các chi Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần nhau thì luôn luôn phá được, không cần tính lực xung. b/ - Theo quy tắc ưu tiên, đầu tiên là tam hội, sau đến tam hợp, cuối cùng mới đến bán hợp nếu hóa cục của chúng cùng một hành (riêng với bán hợp phải tính lực xung hay lực khắc và lực này chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). c/88 – Tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận và tiểu vận nếu nó hợp được với ít nhất 1 chi trong hóa cục này. d/ – TKĐX với hóa cục này nếu 2 chi của nó không phải là Thổ. e/ - Nếu TKĐX và các hóa cục cùng xuất hiện từ khi mới sinh thì TKĐX có 2 chi là Thổ có thể không phá được các hóa cục này ? 131/(25;197) - Các bán hợp cục hay lục hợp cục bị phá khi lực hợp của các bán hợp hay lục hợp mới lớn hơn lực hợp của các bán hợp cục hay lục hợp cục cũ (riêng lực hợp của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp), nhưng nếu chúng là các hóa cục của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh thì điều này chỉ đúng khi các tổ hợp mới này có thể hóa được cục có cùng hành với chúng. 132/ - Nếu hóa cục của can hay chi tiểu vận với tuế vận là chủ khắc chỉ có 1,5 can hay chi (vì can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay chi) thì nó không có khả năng cản được các hóa cục là bị khắc có ít nhất 2 can hay chi được tạo thành sau. 133/88 - Hóa cục chỉ có 2 can là chủ khắc có trước không cản phá được tam hợp cục hay tam hội hóa cục có ít nhất 4 chi là bị khắc có sau (xem thêm giả thiết 126/85). 3 - Các hóa cục khắc nhau 134/79 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 2 hóa cục khắc nhau được gọi là Ðại Chiến (ÐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn có dấu dương. 134a/(147;212) – Nếu có 3 hóa cục là A, B và C mà A có thể sinh được cho B và B có thể sinh được cho C thì chúng không có khả năng gây ra ÐC nhưng nếu A phải ngăn cản (khắc) sự tạo thành của C (tức A phải được tạo thành trước C) thì nó không có khả năng sinh cho B và khi đó C vẫn được tạo ra nhưng không có điểm hạn và C không có khả năng nhận được sự sinh từ B (?). 134b/91 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 3 hóa cục A, B và C mà A có thể khắc B và B có thể khắc C thì chỉ có A và B gây ra ÐC còn B có thể khắc C nhưng không có điểm hạn, vì vậy C không thể sinh được cho A (?). 135/ - Điểm hạn của can hay chi ở tiểu vận tham chiến (nó được gọi là can hay chi phụ tham chiến) chỉ bằng ½ đh của các can chi khác tham chiến. a - Đại chiến 136/79 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có ít nhất 2 hóa cục khắc nhau thì chúng được gọi là Đại Chiến (ĐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn dương. b - Điểm hạn của Đại chiến 137/91 - Nếu hóa cục có 1,5 can chi khắc hóa cục cũng chỉ có 1,5 can chi (tức 2 hóa cục này cùng ở tiểu vận) thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh và hóa cục bị khắc vẫn khắc được các hóa cục khác nhưng lực khắc này không thể gây ra được các loại Ðại Chiến nhưng nó vẫn đủ khả năng khống chế các hóa cục đó không sinh được cho hóa cục khắc nó (?). 138/84 – Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là kỵ thần khắc hóa cục có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can hay chi tham chiến là 0,15đh 139/85 - Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là hỷ dụng thần khắc hóa cục cũng là hỷ dụng thần có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn của mỗi can chi tham chiến là 0,15đh. 140/ – Nếu hóa cục có từ 2 can chi trở nên khắc hóa cục chỉ có 1,5 can chi thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là ...0,4đh (?). 141/79 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà ít hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,2đh. 142/80 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà nhiều hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc cũng có từ 2 can chi trở lên thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,4đh. 143/81 - Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà bằng tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh. 144/81 - Nếu một hóa cục của ĐC là chủ khắc khi nó bị khắc mà điểm hạn của nó không bị mất hết thì điểm hạn của ĐC không thay đổi (?). 145/(61;84;87) - Nếu các chi trong tứ trụ của các hóa cục tham gia ĐC đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành thì chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó và chúng cũng không có điểm hạn trong đại chiến, trừ trường hợp nếu các hóa cục này không hợp với tuế vận thì mặc dù các chi của chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó nhưng chúng vẫn có điểm hạn trong Đại Chến. (Chú ý : Tất cả can chi trong các hóa cục tham gia đại chiến đều được tính để xác định tổng số can chi tham chiến của mỗi bên). 146/87 - Các hóa cục của các chi trong tứ trụ không có khả năng khắc các hóa cục ở phía trên và ngược lại, trừ Thủy cục ở phía trên khắc được Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được thêm ít nhất 0,01đh (vì nước mưa rơi xuống đất có thể dập tắt lửa và đại chiến ở đây là nước với lửa không phải là hơi nước với lửa). 147/88 - Nếu cung phối hôn hợp với tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận với tiểu vận gây ra đại chiến thì điểm hạn của đại chiến này có thêm ít nhất 0,25đh (trừ cung phối hôn đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh?). 148/(114;206) - Các hóa cục của các can trong tứ trụ có từ khi mới sinh không bị mất khi hành của lệnh tháng thay đổi cũng như chúng không có khả năng cản được các hóa cục được tạo thành sau nhưng chúng vẫn có khả năng gây ra Đại Chiến và mặc dù các hóa cục này không có điểm hạn nhưng các can của chúng vẫn có điểm hạn trong ĐC như bìng thường. 149/158 - Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được tăng thêm 0,2đh nếu hóa cục chủ khắc có số can chi nhiều hơn 1 can chi so với tổng số can chi của hóa cục bị khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can chi, 0,6đh nếu nó nhiều hơn 3 can chi,... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). c - Đại chiến 1 và điểm hạn của nó 150/89 - Nếu hóa cục của tiểu vận là hỷ dụng thần có 1,5 can chi khắc hóa cục là kỵ thần có từ 2 can chi trở lên thì nó được gọi là đại chiến 1 (ĐC-1). Nếu hành của hóa cục bị khắc có 0,5đh thì điểm hạn của ĐC-1 là tổng số của các can chi tham gia ĐC-1 nhân với : 0,65 nếu các hóa cục bị khắc có tổng số 2 can chi. 0,7 ......................................................3 ............ 0,75.....................................................4 ............ 0,8 ......................................................5 ............ 0,85.....................................................6 ............ 0,9 ......................................................7 ........... (Chú ý : Điểm hạn của can hay chi tiểu vận tham chiến chỉ bằng ½). 151/90 - Nếu hành của hóa cục bị khắc có 1đh thì điểm hạn của ĐC-1 giống như giả thiết 150/89 ở trên nhưng các trường hợp tương tự được thêm 0,05đh. 152/92 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 25%đh của nó thì điểm hạn của mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,25đh. 153/93 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,38đh. d - Đại chiến 2 và điểm hạn của nó 154/94 - Nếu hóa cục bị khắc trong ĐC là hỷ dụng thần, khi nó bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì ĐC trở thành đại chiến 2 (ĐC-2) và điểm hạn của ĐC-2 bằng tổng điểm hạn của ĐC và ĐC-1 khi 2 hóa cục này có số can chi bằng nhau, trong đó điểm hạn của ĐC-1 được xác định bởi số can chi của hóa cục chủ khắc. 155/ - Nếu tổng «số can chi tham chiến của các hóa cục bị khắc và chủ khắc trong ĐC-2 là khác nhau hay điểm hạn của hóa cục là hỷ dụng thần chỉ bị khắc mất 25%đh thì điểm hạn của ĐC-2 là …? Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời các câu hỏi này Ví dụ minh họa : Ví dụ 90 : Tháng 3/1967 là năm Đinh Mùi thuộc đại vận Tân Tị và tiểu vận Đinh Dậu. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát Canh tàng trong Thân trụ ngày (vì quan sát chỉ có 3 can chi, còn tỷ kiếp có 4 can chi và nắm lệnh). Mộc là kỵ vượng 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ và tam hội Thân Dậu Tuất đều không hóa. Vào đại vận Tân Tị và năm Đinh Mùi có: Bán hợp của Tị đại vận với Dậu tiểu vận hóa Kim. Tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ hóa Kim. Bán hợp của Mão trụ tháng với Mùi thái tuế hóa Mộc (vì mặc dù Mộc cục có sau nhưng Kim cục của tiểu vận chỉ có 1,5 chi và tam hội Kim trong tứ trụ đều không có khả năng ngăn cản được nó). Do vậy Kim cục ở tiểu vận và Mộc cục đã tạo thành ĐC-1 (vì Kim cục là hỷ dụng thần có 1,5 chi còn Mộc cục là kỵ thần có 2 chi). Vì vậy bán hợp Kim có 1đh và tam hội Kim có 1,5đh, Mộc cục có 0,5đh và Mùi thái tuế hóa Mộc có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Hóa cục của các chi trong Tứ Trụ không có khả năng tham gia Đại Chiến, trừ khi nó là Hỏa cục bị Thủy cục phía trên khắc). Nếu sử dụng giả thiết 150/89 thì điểm hạn của ĐC-1 là (3.0,65 + 0,33)đh = 2,28đh (vì Mộc cục là hóa cục bị khắc có 2 chi và hành của nó có 0,5đh). 3 - Dụng thần Canh tàng trong Thân của tam hội cục Kim trong tứ trụ không hóa có 0đh (vì khi tam hội Thân Dậu Tuất hợp với tuế vận hóa Kim có hành giống với hành của dụng thần Canh) và Canh vượng ở lưu niên có -1đh (xem giả thiết 38/1). 4 - Nhật can Giáp mộ ở lưu niên có 1 đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc Tân đại vận có 1đh. Đinh có 1 cát thần có -0,25đh Đinh tiểu vận vượng ở tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh và Tân có 1 cát thần có -0,13đh. Ất trụ năm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). Giáp trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có -0,5đh và Giáp có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). 6 – Tân của lưu niên là Thương quan vượng ở lưu niên, vì vậy nó gặp Ất của đại vận là Quan có 1đh (theo lý thuyết của tôi - cũng như của cụ Thiệu - thì các ví dụ thực tế đã chứng minh rằng Thương và Quan không ở trong hợp thì mới có thể gặp nhau và khi đó mới có thể có điểm hạn Thương gặp Quan. Điều này khác hẳn với các sách từ Cổ tới Kim là họ cho chúng gặp nhau tuốt kể cả khi chúng đã hóa thành cục, thật là "Khủng" ...). 7 - Đất trên thành trụ tháng có Kỷ thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên khắc nước mưa lưu niên có 1đh nhưng can chi của nạp âm đều bị hợp trong đó chỉ có Mão hợp với tuế vận hóa cục nên bị giảm 25%đh còn 0,75đh. Nước mưa lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được lửa đỉnh núi trụ giờ có 1đh nhưng bị đất trên thành khắc mất 75%đh còn 0,25đh. Tổng số có 9,15đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 269/48 (nay đã thành quy tắc chính thức) thì tam hội cục trong tứ trụ không có 3 chi liền nhau nhưng có 2 trụ động nên tổng điểm hạn được giảm 1/3 còn 9,15.2/3.đh = 6,10đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của ĐC-1, nạp âm, Hỏa khắc Kim và Mộc quá vượng đã chống lại Kim. Do vậy ta phải dùng Kim để giải cứu. Trong tứ trụ có Mão hợp với Mùi thái tuế hóa Mộc gây ra ĐC- 1 và Kim (Tân) bị Hỏa (2 Đinh) khắc, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão và nó thuộc mùa Xuân là mùa mà Hỏa và Mộc vượng, còn Kim ở tử tuyệt. Tai họa này dễ liên quan tới 2 hành là Kim và Mộc.
-
1 - Theo Tử Bình thì ông bạn dựa vào đâu để khẳng định ngày 1/3/1011 là ngày Giáp Thìn theo dương lịch (vì lời giải trong gia phả mà linglingling đưa ra là luận theo Tử Bình có nghĩa là Tứ Trụ đó lấy theo Tử Bình chứ không phải lấy theo Tử Vi). 2 - Nếu là một người biết Tử Bình (chỉ cần trình độ ABC) là có thể hiểu được muốn xác định năm khởi của đại vận thì phải biết ngày 1/3 của năm sinh của người đó thuộc can chi gì, sau đó tính đến ngày sinh của người đó là ngày bao nhêu (mùng 5/7, hay 23/10....chẳng hạn) tiếp theo là cần phải biết giao lệnh của tháng sinh đó (tháng trước hoặc sau tháng sinh tùy vào nam hay nữ và năm sinh đó là dương hay âm) thì mới có thể tinh được sau bao nhiêu ngày, tháng, giờ mới bắt đầu đại vận. 3 - Tại sao ông bạn dám nói tôi là "Gọt Chân Cho Vừa Dầy" ? Khi mà bọn con nít đọc các bài luận này của tôi cũng thừa hiểu là tôi phải đưa ra các lý thuyết mới thì mới có thể giải thích được ví dụ này. Đó chính là phương pháp "Tìm Dầy Cho Vừa Chân". Tức từ các ví dụ trong thực tế xây dựng lên lý thuyết (đó chính là nội dung cuốn sách của tôi). Qua đây đủ chứng minh ông bạn không biết tý gì về Tử Bình cả mà dám lên mặt dậy người khác. Đúng là loại "Ngọng" thì hay nói có khác. Tôi chỉ có thể khuyên ông bạn là : Muốn lên mặt dậy người khác thì hãy nhờ các Viện Sĩ của "Học viện Sài Đồng Sổng VanQuyTang" tư vấn trước đi rồi hãy phát ngôn ở mục này của tôi. Bye....bye....
-
"Mai Hoa Dịch số – Wikipedia tiếng Việt - [ Diese Seite übersetzen ] vi.wikipedia.org/wiki/Mai_Hoa_Dịch_số - Im Cache Thiệu Ung (1011 - 1071) hiệu là Khang Tiết tức Thiệu Tử, người đời Bắc Tống (Trung Quốc) đã nghiên cứu và phát triển Dịch học và đã có những đóng góp to ... Đối tượng bói - Nguồn gốc - Các nguyên tắc, nguyên lý - Cách lập quẻ.... ►" Tôi cứ tưởng ông bạn đã lần mò tính Can Chi các ngày 1/3 của từng năm ngược lại 1000 năm về trước để biết ngày 1/3 của năm 1012 có Can Chi là gì thì từ đó kết hợp với ngày giờ giao lệnh của tháng Sửu năm 1011 mới biết được đại vận khởi khi nào. Nay thấy ông bạn viết như vậy tôi thật là thất vọng. Trang web "Ngày giờ Sóc và các Tiết khí" 1011 Ngày giờ Sóc Ngày giờ các Tiết khí 07/01 11:16 14/01 22:29 - Đại hàn 29/01 18:30 - Lập xuân 06/02 05:18 13/02 16:43 - Vũ Thủy 28/02 17:58 - Kinh trập 07/03 23:39 15/03 22:13 - Xuân phân 31/03 05:53 - Thanh minh 06/04 16:42 15/04 16:31 - Cốc vũ 01/05 06:04 - Lập hạ 06/05 07:20 16/05 21:42 - Tiểu mãn 01/06 14:56 - Mang chủng 04/06 19:22 17/06 08:44 - Hạ chí 03/07 02:21 - Tiểu thử 04/07 05:24 18/07 18:51 - Đại thử 02/08 14:20 03/08 09:27 - Lập thu 18/08 21:34 - Xử thử 31/08 23:01 03/09 06:37 - Bạch lộ 18/09 12:32 - Thu phân 30/09 08:03 03/10 15:06 - Hàn lộ 18/10 14:45 - Sương giáng 29/10 17:52 02/11 11:39 - Lập đông 17/11 06:36 - Tiểu tuyết 28/11 04:54 02/12 00:03 - Đại tuyết 16/12 17:02 - Đông chí 27/12 17:37 31/12 10:07 - Tiểu hàn 1012 Ngày giờ Sóc Ngày giờ các Tiết khí 15/01 04:20 - Đại hàn 26/01 08:10 30/01 00:11 - Lập xuân 13/02 22:32 - Vũ Thủy 25/02 00:14 28/02 23:39 - Kinh trập 15/03 04:03 - Xuân phân 25/03 16:54 30/03 11:34 - Thanh minh 14/04 22:22 - Cốc vũ 24/04 09:08 30/04 11:48 - Lập hạ 16/05 03:36 - Tiểu mãn 24/05 00:14 31/05 20:43 - Mang chủng 16/06 14:40 - Hạ chí 22/06 13:57 02/07 08:12 - Tiểu thử 18/07 00:47 - Đại thử 22/07 02:20 02/08 15:20 - Lập thu 18/08 03:27 - Xử thử 20/08 13:32 02/09 12:30 - Bạch lộ 17/09 18:23 - Thu phân 18/09 23:52 02/10 21:00 - Hàn lộ 17/10 20:37 - Sương giáng 18/10 09:47 01/11 17:34 - Lập đông 16/11 12:29 - Tiểu tuyết 16/11 19:50 01/12 06:01 - Đại tuyết 15/12 22:57 - Đông chí 16/12 06:33 30/12 16:06 - Tiểu hàn Nhưng cần gì phải tra cứu, tính toán mất nhiều thời gian như vậy khi mà không có khả năng dự đoán được các tai họa đó thuộc đại vận nào. Nếu biết dự đoán thì cứ tính các tai họa đó thuộc cả 2 đại vận thì sẽ biết ngay thôi không cần phải mất thì giờ vô ích như vậy. Sau đây là đáp án của Linhlingling đưa ra: Linglingling đã viết: trang 5 của chủ đề "Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa" trong mục Tử Bình (cũng trang 5) bên trang web “tuvilyso.com“. "giải lá số theo tứ trụ : năm tân hợi-tháng tân sửu-ngày giáp tí-giờ giáp tuất (cung mệnh :quí tỵ)- 7tuổi vào đại vận : canh tí. 2tân-2giáp rõ ràng : cách taọ thành 2can không lẫn lộn. xét bề ngoài là người phú quí. sinh sau tiết đại hàn tuyết lạnh giáp mộc 2hàng không chế được 2tân. hợi,tí không nuôi mà còn làm suy mộc. may có bính hoả tàng trong chi giờ (tuất)& trong chi tỵ (cung mệnh) kiềm chế tân kim, đẩy lui bớt hàn khí làm tan hàn khí nơi tí -hợi mà dưỡng sinh cho giáp mộc. cũng 2 hoả này sưởi ấm cho giáp mộc. nên giáp mộc có thể có ích vô cùng. tháng có quí nhân nên là người có ý chí tự phấn đấu. dụng thần lấy hoả xua tan hàn khí. 38 tuổi vào vận đinh dậu đến năm 47 tuổi là năm đinh dậu bước ra làm quan đến 58 tuổi từ quan về nhà để toàn tâm nghiên cứu học thuật. dù được vời làm quan nhưng từ chối. vậy 3 đại vận : đinh dậu, bính thân, ất mùi là đều tốt cả. năm 67 tuổi trực vận MÙI-tuế trực ĐINH TỴ-tiểu hạn ĐINH HỢI-vừa khi SỬU TUẤT tam hình -lại gặp tỵ-hợi là lục hãm nên đã mất do già yếu. Với danh "ẩn dật cư sĩ ": danh tiếng cuộc đời trước sau hoàn hảo không hề bị bôi nhọ. Triều đình khen thưởng χ phí tiền tang tuất. truy tặng tên thụỵ cho ông-càng về sau tên tuổi ông càng vẻ vang. (trích ) -đây là mệnh phả của nhà dịch học thiệu ung. " Chắc người dịch đoạn gia phả này đã "Đãng Trí" nhầm từ "...qua năm Đinh Dậu..." thì lại dịch là "...đến năm Đinh Dậu..."
-
Chào Thieukim! Thôi thì cho đơn giản xin bạn cho biết bạn tính như thế nào để khẳng định đại vận khởi từ lức 5 tuổi. Cám ơn nhiều
-
Vừa qua tôi mới biết tới lịch vạn niên tính tới trước đây mấy trăm năm trên Intenet. Do vậy lúc trước vì chỉ có lịch vạn niên tính đến năm 1889 nên tôi đã phải tính 2 hạn lớm này ở cả 2 đại vận thì thấy đại vận khởi từ 7 tuổi mới phù hợp với thực tế của ví dụ này. Bây giờ tôi sẽ tìm lại trang web tính ngày giao tiết nếu sai tôi sẽ nghiên cứu lại. Thân chào.
-
Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX) Y8 - Điểm hạn và khả năng của TKĐX A - Điểm hạn của TKĐX hoàn toàn phụ thuộc vào can chủ khắc của nó như sau : 156a/ - 1 trụ TKĐK (có can và chi của nó đều là chủ khắc) với 1 trụ khác: Nếu can chủ khắc của nó vượng ở lưu niên thì nó có 1đh. Nếu can chủ khắc của nó chỉ vượng ở đại vận thì nó chỉ có 0,75đh. Nếu can chủ khắc của nó ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì nó có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ mà thất lệnh và nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,25đh. 156b/(42;53a;70) - Điểm hạn của TKĐX bị giảm 2/3 nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh (vd 42 ;157c) và TKĐX là vô dụng nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 2 lực cùng có 1đh (vd 70). Ðiểm hạn của TKĐX bị giảm 1/4 nếu can chủ khắc của nó bị khắc it nhất bởi 2 lực cùng có 0,7đh (vd 53a). 157/ – Nếu 1 trụ TKĐX (có can của nó là chủ khắc nhưng chi của nó chỉ là chủ xung hay các chi của nó là Thổ (hành của nó là Thổ)) với 1 trụ khác thì điểm hạn của nó hoàn toàn tương tự như các trường hợp TKĐK nhưng nó bị giảm ½ . 158/(68;161) – TKĐX* (có chi là Thìn và Tý) chỉ có khi các chi của nó ở gần nhau và các chi này không cùng ở trong tam hợp, khi đó điểm hạn của TKĐX* chỉ bằng 2/3 điểm hạn của TKĐX. 159/(12...) - Giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận nếu có các TKĐX (kể cả TKĐX*) thì ngoài điểm hạn chính của chúng, chúng còn được thêm điểm hạn phụ như sau: Nếu chúng có 2 trụ TKĐX với nhau thì chúng có thêm 0,05đh. Nếu .............. 3 ................. .............................................0,1đh. Nếu................4 .............................................................. 0,3đh. Nếu................5 .............................................................. 0,3.2đh. Nếu................6 .............................................................. 0,3.5đh Nếu ...............7 ...............................................................0,3.8đh ? B - Các tính chất của TKĐX 159a/ Một trụ TKĐX (là nói chung cho cả TKĐK, TKĐX* và TKĐK*) với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này. 160/(12) - Nếu đại vận hay lưu niên TKĐX với tiểu vận thì điểm hạn của nó bị giảm ¾. 160a/27 - Nếu tiểu vận TKĐX với đại vận hay lưu niên thì điểm hạn của nó được tính như bình thường. 160b/7 – 1 trụ có khả năng TKĐX với các bán hợp và ngũ hợp (ví dụ 125) hay các tam hợp và tam hội không hóa có từ 3 chi trở lên (ví dụ 53a) nhưng nó không có khả năng TKĐX với tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi. (Chú ý : TKĐX với bán hợp hay tam hợp là chỉ tính chi của trụ TKĐX với các chi hợp với nó, còn TKĐX với tam hợp hay tam hội là tính tất cả các chi có trong tổ hợp đó). 161/55 – Nếu có it nhất 2 trụ giống nhau mà chúng chỉ TKĐX với 1 trụ khác thì điểm hạn của mỗi TKĐX được tăng ¼ . 162/(55;113;157a) – Một trụ (hay nhiều trụ giống nhau) TKĐX với ít nhất 2 trụ giống nhau thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm ¼ và nếu can chủ khắc khắc được 2 can của 2 trụ giống nhau này có điểm hạn thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm thêm ít nhất ¼ đh.. 163/62 - Nếu tuế vận cùng gặp hay 2 trụ giống nhau ở trong tứ trụ TKĐK với các trụ khác giống nhau thì điểm hạn chính của mỗi TKĐK này được tăng gấp đôi, khi đó các trụ khác giống với hai trụ này TKĐK với các trụ đó điểm hạn cũng được tăng gấp đôi (hay 25% , 50% ?). 164/ - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 165/55 – Nếu 1 trụ TKĐX với các trụ có các chi giống nhau của một tam hợp hay tam hội thì chúng chỉ được coi là TKĐX với 1 trụ của tam hợp hay tam hội đó. 166/(55;60;115) - Nếu lưu niên và trụ trong tứ trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực xung hay khắc tới trụ này đều được tăng gấp đôi (riêng với lực của TKĐX được tính cả 2 chiều), nhưng nếu can của lưu niên là chủ khắc mà nhược ở tuế vận thì điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này không được tăng gấp đôi (trừ khi có thêm ít nhất 1 trụ giống với lưu niên TKĐX với trụ đang mang vận hạn (?)). 167/ - (bỏ vì sai). 168/ – Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX* với nhau thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này được tăng gấp đôi ? (chưa có ví dụ để chứng minh). 169/128 - Tại năm sinh nếu trụ năm và lưu niên TKĐX với 1 trụ thì điểm hạn của các TKĐX này không được tăng ¼ (nhưng 1 trụ TKĐX với trụ năm và lưu niên vẫn bị giảm ¼ ?) 170/129 – Nếu tại năm sinh có một trụ trong tứ trụ và trụ năm (là trụ đang mang vận hạn) TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực tác động vào trụ năm được tăng gấp đôi (kể cả các lực hình, tự hình và hại) 171/134 - Dưới 12 tháng tuổi nhưng khác năm sinh nếu trụ năm bị 1 trụ trong tu tru TKĐX thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ năm chỉ được tăng ½. 172/59 - TKĐX là vô dụng khi nó có ít nhất 1 can của nó là tranh hợp thật hay can chủ khắc của nó hóa cục. C – Các chi của TKĐX hóa cục 173/(74;157b) - Nếu 4 trụ tạo thành hai cặp TKĐX khác nhau mà 4 chi của chúng hợp với nhau hóa thành 2 cục cùng một lúc và khắc nhau thì các TKĐX này chỉ phá được các hóa cục (trừ tam hội cục) nhưng vẫn còn các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn, trừ trường hợp 2 cặp TKĐX này có ít nhất 1 chi của chúng là Thổ thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hội cục) và các TKĐX vẫn có các điểm hạn như bình thường (riêng tam hợp cục vẫn còn tổ hợp nếu nó chỉ bị TKĐX bởi 2 cặp TKĐX này). 174/146 - 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục có hành giống hành của chi của chúng, nếu TKĐX và 2 hóa cục này cùng xuất hiện một lúc thì các cục bị phá (trừ tam hợp cục và tam hội cục) nhưng còn lại các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn. 175/57 - Nếu 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục nhưng ít nhất có một hóa cục có hành không giống hành của chi của nó thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hợp và tam hội) và điểm hạn của TKĐX vẫn có như bình thường. 176/61 - Nếu hai chi của TKĐK không là Thổ hóa thành 2 cục có hành giống hành của các chi của chúng thì TKĐX thành vô dụng khi trong chúng có ít nhất 1 hóa cục có trước TKĐX này. 177/89 – Nếu 2 chi của TKĐK không phải Thổ hóa cục có hành giống hành của các chi của chúng thì các hóa cục này không bị phá mà điểm hạn TKĐX được tăng gấp đôi chỉ khi TKĐX xuất hiện trước 2 hóa cục này hay cùng với một hóa cục nhưng trước hóa cục kia. D - Khả năng phá hợp của TKĐX 177a/ - Nếu các tổ hợp và các thiên khắc địa xung cùng xuất hiện thì các tổ hợp luôn luôn được tạo thành trước, sau đó chúng mới bị thiên khắc địa xung bởi các trụ. 178/(37;42) – 1 trụ TKĐX với bán hợp cục hay lục hợp cục có thể phá được cục nhưng vẫn còn tổ hợp của nó và phá được tổ hợp nếu nó không hóa cục nhưng nó không thể phá được các hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh nếu 2 chi của TKĐX này là Thổ. 179/60 – 2 trụ thiên khắc địa xung giữa tuế vận với Tứ trụ hay giữa tuế vận (kể cả tiểu vận) với nhau chỉ có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi giữa Tứ trụ với tuế vận nếu 2 chi của thiên khắc địa xung này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu còn nếu 2 chi này là Dần với Thân hay Tị với Hợi hoặc 2 chi này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu xung cách ngôi trong Tứ Trụ thì lực xung này phải không nhỏ hơn lực hợp. 180/(64;125) - Nếu 1 trụ TKĐK với 1 trụ mà chi của nó hợp với 3 chi giống nhau hóa cục thì TKĐX phá được cục này nhưng vẫn còn hợp và TKĐX phá được tổ hợp nếu chi này hợp với ít nhất 4 chi giống nhau không hóa. 181/136 - Nếu can của ngũ hợp ở tuế vận là chủ khắc hợp với can ở tuế vận và can trong tứ trụ thì liên kết của can chủ khắc với can ở tuế vận bị phá khi trụ của can bị khắc ở tuế vận TKĐX với trụ khác 182/ - (bỏ vì sai) 183/66 - Tam hợp cục bị phá cả cục lẫn hợp của nó khi có ít nhất 3 trụ TKĐX với nó. 184/55 – Nếu 2 trụ TKĐX với 1 trụ của tam hợp cục có 3 hay 4 chi (còn 5, 6...chi ?) thì chúng chỉ phá được cục nhưng vẫn còn hợp của nó và phá được hợp nếu nó không hóa cục. 185/157 - 2 trụ TKĐX với 2 trụ của tam hợp cục phá được cả cục và tổ hợp của nó. 186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó. 187/146– Từ 3 trụ trở lên TKĐX với ít nhất 2 trụ của tam hội cục trong tứ trụ mới có thể phá được cả cục và hợp của nó. 188/(69;113) - Chỉ có 2 trụ TKĐX* với nhau không phá được bán hợp của Tý với Thìn tại các chi của TKĐX* và TKĐX* này không có điểm hạn nếu 2 chi của nó hóa Thủy nhưng nếu có 2 trụ TKĐX* (hoặc 1 trụ TKĐX và 1 trụ TKĐX*) với 1 trụ của bán hợp này thì chúng phá được cả cục và hợp tại chi của trụ đó. Ví dụ minh họa Ví dụ 49 (Giải Mã Tứ Trụ): Đây là Tứ Trụ của cụ Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) một đại sư lừng danh của Trung Quốc (mà cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29) do nick LingLingLing đã đưa ra thách đố tôi dự đoán trong chủ đề “Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa” tại mục Tử Bình bên trang web tuvilso.com (nay là tuvilyso.org) vào khoảng đầu năm 2007. Xét hạn năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu tức tuế vận gặp nhau. Sơ đồ mô tả các điểm hạn như sau: Năm cụ Thiệu Ung 46 tuổi là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Đinh Hợi và Bính Tuất. Ta xét tiểu vận Bính Tuất. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ, quan sát cũng đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương Đinh tàng trong Tuất ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 – Năm Đinh Dậu và đại vận Đinh Dậu tức tuế vận cùng gặp có 1đh (vì đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 5 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh đại vận và Đinh lưu niên đều vượng ở lưu niên có -1đh và khắc 2 Tân, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. 2 Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên, vì vậy mỗi Tân có -0,5đh nhưng bị 2 Đinh khắc còn -0,5.0,3.0,3đh = .0,05đh. Dậu thái tuế và Dậu đại vận, mỗi Dậu có 1 hung thần có 0,25đh. Tuất tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh. 7 - Dậu đại vận tự hình Dậu thái tuế có 1đh, hại Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì nó là lực thứ 3). Dậu thái tuế bị hình nên vẫn hại được Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3 bởi Dậu thái tuế và Dậu đại vận tự hình với nhau). 8 - Nạp âm Lửa dưới núi ở tuế vận có can Đinh vượng ở lưu niên nên khắc kim trang sức trụ năm, đất trên tường trụ tháng và đất mái nhà tiểu vận, vì vậy mỗi lực khắc có 1.1/3đh = 0,33đh (vì Đinh đã sử dụng 1,5đk), riêng lực khắc nạp âm tiểu vận chỉ có 0,33.1/4đh = 0,08đh (khắc nạp âm tiểu vận bị giảm 3/4 đh). Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc đất trên tường và kim trang sức, vì vậy mỗi lực chỉ có 0,5đh . 9 – 2 Đinh ở tuế vận là Thương quan gặp Quan là Tân trụ năm nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số là 9,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : “270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong Tứ Trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ chỉ khi có ít nhất 2 trụ của nó động”. Nếu sử dụng giả thiết này thì ở đây trụ năm và trụ tháng động (vì có 2 can Tân hay 2 nạp âm của nó bị khắc, còn trụ ngày tĩnh vì can, chi và nạp âm của nó không tác động với bên ngoài), do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,81.1/2dp = 4,91đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Cụ Thiệu Ung là một nhà dịch học nổi tiếng nên biết cách giải cứu. Thực tế gia phả của nhà cụ có viết “Mặc dù được vua mời ra làm quan trong triều đình nhưng cụ đã khước từ. Mãi đến khi qua năm Đinh Dậu cụ mới nhận lời và ra làm quan“. Qua đây chúng ta thấy đại vận Đinh Dậu là đại vận Thương quan (Đinh) gặp Quan (Tân ở trụ năm và tháng) và lại là đại vận có hình và hại (bởi vì có Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ và tự hình Dậu thái tuế). Do vậy cụ biết đến năm Đinh Dậu tuế vận cùng gặp là năm hạn rất nặng, nên cụ vẫn chưa ra làm quan mà ở nhà để giải hạn (có thể cụ đã vào chùa hay sống ẩn dật trên núi cao hay rừng sâu để giải hạn). Ta xét năm Đinh Tị Cụ Thiệu Ung mất khi 66 tuổi, đó là năm Đinh Tị thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. Vào đại vận Ất Mùi và năm Đinh Tị có Tị thái tuế xung hợi trụ năm và thêm Mùi đại vận xung Sửu trụ tháng cũng như giả sử đại vận Ất Mùi TKĐX với trụ tháng Tân Sửu và lưu niên ĐinhTị TKĐX với trụ năm Tân Hợi cũng không thể phá được tam hội này. 2 – Ta đã biết từ 65 tuổi đến 85 tuổi trụ mang vận hạn lại trở về trụ năm, nên tất cả các lực xung hay khắc vào trụ năm đều được tăng gấp đôi. Do vậy Lưu niên Đinh Tị TKĐK trụ năm Tân Hợi có 2.0,5đh (vì Đinh vượng ở lưu). Trụ tháng Tân Sửu TKĐX với đại vận Ất Mùi có 0,13đh (vì can Tân thất lệnh lại còn nhược ở tuế vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 3 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu nên có -1đh can động và khắc 2 Tân nên mỗi lực có 0,7đh, nhưng lực khắc Tân trụ năm được tăng gấp đôi thành 1,4đh. Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu tiểu vận có 1.1/2.1/2 đh = 0,25đh (vì khắc trái dấu và khắc vào can tiểu vận). Ất còn có 1 cát thần có -0,25đh. 6 – Mùi đại vận hình Tuất trụ giờ có 1đh. 7 - Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên chỉ khắc được đất trên tường trụ tháng và kim trang sức trụ năm có 1đh, vì vậy mỗi lực có 0,5đh, riêng lực khắc kim trang sức của trụ năm được tăng gấp đôi thành 1đh. Cát trong đất lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được kim trong cát của đại vận có 1đh. 8 – Đinh lưu niên là Thương quan gặp Quan là Tân ở trụ năm và trụ tháng nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số có 6,91.1/2đh = 3,96đh (vì tam hội trong tứ trụ có 2 trụ của nó động). Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dị này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : "186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì tam hội Hợi Tý Sửu trong tứ trụ bị phá. Tổng số là 8,61đh (số điểm hạn được mô tả ở sơ đồ trên) và nó không được giảm ½ (vì tam hội cục đã bị phá). Vì số điểm hạn quá cao nên cách đây vài trăm năm nhà mệnh học Thiệu Ung đã không tự giải cứu được.