VULONG
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
511 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
26
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by VULONG
-
Hồ sơ Tuyệt Chiêu thứ 5 bên tuvilyso.net, mục Tử Bình, chủ đề "Cách gì đây?" của PChi: Tứ trụ bạn nữ của PChi : Mậu Thân - Ất Sửu - ngày Giáp Thìn - Kỷ Tị PhieuDieu đã viết: "Chào Pchi Giáp ất mộc có đặc điểm rất khác với các hành khác là mộc có phân ra sanh mộc & tử mộc. Sanh mộc là cây còn sống, đang sanh trưởng thì rất là sợ kim vì kim sẽ chặt phá mộc, làm hư hoại mộc (giống như mình dùng cưa rìu chặt phá cây đang sống vậy). Còn tử mộc là cây đã bị chặt rồi, chỉ còn là gỗ, mà gỗ thì cần dụng kim để đẻo gọt mà thành hình như chế tạo thành bàn, ghế, tủ gỗ ... nên tử mộc rất thích dụng kim, lại rất sợ hỏa thủy vì hỏa sẽ thiêu đốt sạch tử mộc, còn thủy sẽ làm mục nát mộc. Lá số này Giáp mộc ở đây là sanh mộc, nên rất kỵ kim. Xét toàn bát tự, thì thân kim là đại kỵ thần, sửu cũng là kỵ thần vì là kim khố. Thân gặp sửu kim khố thì thân sẽ nhập khố ngay. Tiếp đó sửu gặp thìn là thủy khố thì sửu sẽ nhập thìn khố liền. Do thân + sửu đều nhập thìn khố nên mộc được bảo hộ. Nay đến vận tân dậu kim cực vượng, dậu hợp thìn bế thủy khố + khắc hoại mộc tàng trong thìn, mà mộc trong thìn là căn của giáp nên rất nguy. Dậu cũng hợp với tị sửu mà thành kim cục, nguy càng thêm nguy. Tị hỏa là địa chi thuộc dạng khó chơi thứ nhì trong 12 chi (thằng thứ nhất là tuất). Tị hỏa nếu gặp hỏa vượng thì nó theo hỏa, nếu gặp kim vượng thì nó theo kim, nó giống như con tắc kè bông vậy. Mộc hỏa đều bị hư hoại hết nên vận tân dậu phải cẩn thận lắm thay! Vận canh thân, phải đặc biệt lưu tâm canh vận. Còn thân vận thì nhẹ thôi. Các vận sau và những điều khác thì như anh đã viết trong PM cho em. Đương số không thích dụng mộc ... thì cũng đành chịu. Nhưng qua đoạn gian truân này thì sẽ ok. Mong rằng mọi việc yên bình. Thân PhieuDieu" VULONG đã viết: "Nữ mệnh: Mậu Thân - Ất Sửu - ngày Giáp Thìn - Kỷ Tị Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: Thổ.....Kim.....Thủy....Mộc.....Hỏa 6,26...1,35......#9....13,1......1,8 Các dại vận và thời gian của chúng: ..Giáp tý/ quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ ……..8.........18.............28...........38..........48........58......68 11/1976...11/86.......11/96.......11/06.......11/26.....11/36.....11/46 Tứ trụ này Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Sửu trụ tháng; hỷ thần là Hỏa và Thổ còn kỵ thần phải là Thủy và Mộc. Còn nếu tứ trụ này là cách Hóa Thổ (tức Giáp nhật can hợp với Kỷ trụ giờ hóa Thổ) thì dụng thần phải là Thổ, hỷ thần phải là Hỏa và Kim thì dĩ nhiên kỵ thần phải là thủy và Mộc. Do vậy tứ trụ này là cách Hóa Thổ hay không thì kỵ thần luôn luôn là Thủy và Mộc. Riêng đại vận Tân Dậu có Dậu đại vận hợp với Tị và Sửu trong tứ trụ hóa Kim nên tất cả các năm của đại vận này phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm để xác địch dụng thần có bị thay đổi hay không. Điều này khá khó với nhiều người nhưng vài hôm nữa có cuốn sách của tôi thì ai ai cũng làm được. Năm nay Canh Dần thì là Cách Hóa Thổ đúng 100% rồi bởi vì Canh lưu niên hợp với Ất trụ tháng hóa Kim nên trong tứ trụ không còn hành Quan Sát (Mộc) của Thổ." PChi đã viết: “Chào anh PhieuDieu, ....người này nói ghét màu xanh, đi xe ô tô, nhìn thấy màu xanh là thấy chóng mặt (để PChi hỏi lại là ghét xanh lá cây hay xanh da trời), không thích ăn rau xanh,.... ....nên PChi bỏ ý định lấy Dụng thần Mộc. Nay anh nói như thế thì PChi không nghi ngờ gì nữa, nhưng nếu anh có thời gian xin anh giải thích tại sao lại bị như vậy? Vì theo PChi biết người ta mất cân bằng ngũ hành nào sẽ tìm cách bổ sung ngũ hành đó. Anh cho PChi hỏi thêm: 1. Có phải Hỏa và Thủy là hỷ thần của tứ trụ này? Phòng trường hợp không có Mộc (màu xanh, hướng Đông, chất chua) PChi sẽ khuyên người đó chọn Hỏa hoặc Thủy để thay thế (màu đen, đỏ; hướng Nam, Bắc, chất đắng...). 2. Đại vận Canh Thân, Ất - Canh hợp hóa Kim, 2 Thân hình 1 Tị. Vậy có nguy hiểm không anh? Cảm ơn anh PhieuDieu rất nhiều!“ Vậy mà Phiêu Diêu đã viết: "Chào Pchi Nếu đương số không thích dụng mộc thì đành dụng thủy thôi. Kim là đại kỵ thần, nên dụng phép tham sinh kỵ khắc mà hóa nó, cũng tốt! Hỏa điều hậu cũng cần, nhưng không phải quá quan trọng. Chỉ do vị trí của chi Tị trong bát tự này nên mới ảnh hưởng đến sức khỏe như anh đã viết cho em. Thân PhieuDieu" Từ đây tôi mới đưa ra Tuyệt Chiêu thứ 5 như sau: “5 - Cách Hóa Thổ thì dụng thần phải là Mộc hay Thủy - Của Phiêu Diêu.“ .
-
VDTT viết tiếp bên tuvilyso.net như sau: “Kế tiếp ông Nghiệp đi vào chi tiết về sự khác biệt giữa manh phái và Tử Bình truyền thống. Khác biệt giữa manh phái và mệnh lý truyền thống (tiếp theo message 6) Nguyên tác (bạch thoại): Đoàn Kiến Nghiệp Dịch: VDTT “Hệ thống manh phái không dùng một số công cụ của mệnh lý truyền thống, lại phế bỏ nhật chủ vượng suy và dụng thần, cách cục bản lai cũng không dùng. Đương nhiên, nói phế bỏ thì không chính xác lắm, vì trong hệ thống manh phái, không có những quan niệm nhật chủ vượng suy và dụng thần, đó là đặc điểm lớn nhất của phái này. “Vậy manh phái làm sao xem mệnh? Đầu tiên phải khẳng định rằng manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng, bởi vì thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác. Học với thầy Hác một thời gian tôi mới biết, rất nhiều thứ trong mệnh lý là do thầy tự phân tích ra, còn khẩu quyết chỉ là một số khái niệm cơ bản; phần hơn là dựa vào “ngộ tính” của thầy. Cái mà hệ thống này giảng là “ngộ tính”. Ở đây (dgc: Ý nói trong sách “Manh phái mệnh lý: Tu đính bản”) chỉ giảng một số lý luận căn bản và phương pháp, những gì thâm sâu hơn ở tầng sau đòi hỏi “ngộ tính” của chúng ta, mỗi người tự mình lần hồi hiểu ra thôi. “Nhưng tại sao không tìm dụng thần, không xét nhật chủ suy vượng mà có thể đoán được mệnh? Điểm này liên hệ đến vấn đề cơ bản của mệnh lý. Bản chất của mệnh lý là gì? Bản chất của mệnh lý là biểu thuật đời sống. Cái lý đằng sau mệnh lý và đời sống của chúng ta như nhau, là cái bóng thu nhỏ rồi lại hiện ra của đời sống chúng ta. Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?” (dgc: Đến đây là hết phần so sánh manh phái với cách xem Tử Bình truyền thống. Kế tiếp là phần giới thiệu các kỹ thuật xem số của manh phái).“ Đại khái ông Nghiệp muốn nói: "...manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng,..." do vậy muốn đoán đúng, chính xác cần phải có khả năng “ngộ tính” cao hay thấp của mỗi người. Điều này chứng tỏ "Manh Phái" này vẫn chưa đạt tới trình độ "Khoa Học" là lý thuyết hoàn chỉnh thì không còn phụ thuộc vào trình độ người sử dụng nó. Ông Nghiệp viết: “Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?” Ông Nghiệp đã phải thừa nhận: "…thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác…". Có nghĩa là thầy Hác được sư phụ của ông ta truyền cho hết các Bí Kíp còn các thầy khác (cũng mù) không được truyền. Vậy thì ông Nghiệp không mù mà hy vọng có được các bí kiếp này thì thật là hão huyền. Ông Nghiệp phát biểu như trên chứng tỏ ông ta thật sự thất vọng về Tử Bình truyền thống cũng như đang hy vọng vào "Manh Phái" mới này. Vậy thì thử hỏi "Manh Phái" này đã đạt tới trình độ chính xác như tôi đã viết ra từ ngày 17/12/2006 như sau hay chưa ? “Chủ đề: Uyen Hai TU BINH-THIEU VI HOA trang 5 trong mục Tử Bình cũng trang 5 bên tuvilyso.net (Vào Đọc Bài Trong Diễn Đàn Cũ). VU LONG Hội viên Đã tham gia: 29 November 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam Hiện giờ: Offline Bài gửi: 182 Msg 82 of 156: Đã gửi: 17 December 2006 lúc 11:40am | Đã lưu IP Giải mã tứ trụ Qua trang web Uyên Hải Tử Binh - Thiệu Vĩ Hoa tôi thấy đa số các bạn hỏi về thân nhược thân vượng và tìm dụng thần. Điều đó nói lên tinh phức tạp của môn Tử Bình này. Tôi may mắn đã tìm ra được một cách dễ dàng cho mọi người. Hiện giờ tôi đang gặp khó khăn cần có vài trăm ví dụ thực tế để kiểm nghiệm phương pháp tiếp theo là xác định từng năm hạn nặng nhẹ đến mức độ nào bằng con số cụ thể như sau ( qua tứ trụ - đại vận - tiểu vận - lưu niên của năm đó để tính): Nếu điểm từ 4 đến 4,4 là có hạn nhẹ. Từ 4,4 đến 4,6 hạn nặng phải nằm viện, phá tài hay lao tù. (phụ thuộc vào thông tin trong mệnh cục). Từ 4,6 đến 4,8 hạn khá nặng có thể phải cấp cứu, phá sản hay lao tù nặng. Từ 4,8 đến 4,9 hạn rất nặng có thể ngất. Từ 4,9 đến 4,99 hạn cực nặng tim có thể ngừng đập chốc nát (chết lâm sàng). Từ 5,0 trở đi tim ngừng đập vĩnh viễn nếu không được giải cứu? (Tu đắc đạo?). Tôi có ý định kiểm tra xong phương pháp này (định luật sống và chết) sẽ công bố nó vào khoảng tháng 8 năm 2007. Vì vậy tôi mong muốn tất cả hội viên cũng như bạn đọc giúp đỡ cung cấp cho tôi những ví dụ thực tế chính xác.“ Theo tôi thì "Manh Phái" này cũng như phương pháp của tôi nếu tôi không nói tới "Điểm vượng trong vùng tâm của ngũ hành và xác định dụng thần" mà chỉ nói tới các thông tin xấu 1 -; 2 -; 3 -... đã gây ra tai họa mà thôi. Do vậy tôi đang hy vọng qua "Manh Phái" này tôi sẽ bổ xung được rất nhiều cái mà tôi thường gọi là các thông tin xấu giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận đã gây ra các điểm hạn.
-
Ta xét hạn của Hàn Bình Nguyên vào năm Bính Dần và Đinh Mão. Nam mệnh: Nhâm Thân - Tân Hợi - ngày Kỷ Tị - Bính Dần Điểm vượng trong vùng tâm của ngũ hành như sau: Thuỷ........Mộc.........Hoả........Thổ.........Kim 10,8........2,92........4,97........3,28.......7,88 Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Tý/Quý Sửu/Giáp Dần/Ất Mão/Bính Thìn/Đinh Tị/Mậu Ngọ.... ......5...........15...........25.........35..........45..........55.........65 Theo sự phỏng đoán thời gian của các đại vận ở trên thì năm Bính Dần và Đinh Mão sẽ thuộc vào đại vận Bính Thìn hay Đinh Tị. Tiểu vận của năm Bính Dần là Canh Thân và Tân Dậu còn năm Đinh Mão là Tân Dậu và Nhâm Tuất. Mệnh này Thân nhược mà Tài tinh Thuỷ là kỵ thần số 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Mậu tàng trong Thân trụ năm. Các thông tin chính gây ra điểm hạn ở năm Bính Dần thuộc đại vận Bính Thìn như sau: 1 - 2 Bính tuế vận hợp với Tân trụ tháng (và Tân tiểu vận ở tiểu vận Tân Dậu) là tranh hợp thật nên các can này coi như không xuất hiện. Do vậy không có thiên khắc địa xung giữa lưu niên Bính Dần và trụ năm Nhâm Thân. 2 - Thân trụ năm khắc và hình thái tuế Dần và Tị trụ ngày hại Dần thái tuế, vì vậy tổng điểm hạn được giảm 1/2. 3 - Lửa trong lò trụ giở và lưu niên khắc Kim lưỡi kiếm trụ năm và Kim trang sức trụ tháng. Tổng điểm hạn khoảng 7 đến 8. Tổng điểm hạn được giảm 1/2 còn lại khoảng 3 đến 4 đh, vì vậy năm Bính Dần người này không có hạn Nếu đại vận là Đinh Tị thì có Nhâm hợp Đinh đại vận không hoá còn Bính hợp Tân trụ tháng hoá Thuỷ (còn ở tiểu vận Tân Dậu thì Bính hợp với 2 Tân không hoá). Tị đại vận hợp với Thân hoá Thuỷ và Hợi hợp với Dần không hoá, vì vậy tổng điểm hạn quá thấp (chủ yếu của nạp âm) mặc dù tổng điểm hạn không được giảm. Do vậy ở đại vận này cũng không có tai hoạ. Xét tai hoạ năm Đinh Mão thuộc đại vận Bính Thìn. Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh lưu niên hoá Mộc, vì vậy tam hội Dần Mão Thìn mới hoá được Mộc. Điểm hạn của 2 nạp âm khắc 2 nạp âm không thay đổi mà Mộc là hung thần khắc dụng thần Thổ. Ở đây lại thêm 2 Mộc cục trong khi tổng điểm hạn không được giảm nên đã gây ra tử vong cho Hàn Bình Nguyên. Nếu ở đại vận Đinh Tị thì Nhâm hợp với 2 Đinh và Hợi hợp với Mão không hoá nhưng có Tị đại vận hợp với Thân hoá Thuỷ.... mặc dù không được giảm nhưng tổng điểm hạn quá thấp (chủ yếu của nạp âm) nên không có hạn ở đại vận này. Điều này khẳng định năm Đinh Mão không thể thuộc đại vận Đinh Tị. Qua đây tôi có nhận xét : Như Dương Cấn nói: "Điều này những người đoán mệnh đều biết. Song họ cho rằng ông ta sẽ bị chết vào năm Bính Dần, thì lại chưa đúng." chứng tỏ vào thời đó nhiều cao thủ Tử Bình không biết đến khả năng Tổng điểm hạn được giảm còn dĩ nhiên Dương Cấn biết rất rõ điều này nhưng không cho thiên hạ biết để.... kiếm ăn, giống như tuvilyso.net đã xoá chủ đề "Các Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng trong Tử Bình" thì có gì là lạ.
-
Intenso bên tuvilyso.net (cùng chủ đề) đã viết: "Theo như lời trích của ông Nghiệp như trên, không cần suy vượng của nhật chủ, chẳng cần dụng hỉ của tứ trụ, thì tất nhiên phải lấy sinh khắc chế hóa của ngũ hành mà luận, vì không còn lí lẽ nào khác trong môn Tử bình này... Có thể gọi là luận "chay" , nghĩa là cứ mộc sinh hỏa, mộc không có gốc thì sinh kém, hỏa không gốc hay bị xung mất thì hỏa cũng mất phần hưởng thụ... Suy vượng của nhật chủ, dụng hỉ kị của tứ trụ... theo như truyền thống đã gọi là "mệnh" , mệnh tốt thì cuộc đời tối đa là tốt, mệnh kém thì làm gì cũng kém, có lên chăng rồi cũng suy. Nếu không có "mệnh" thì đúng là người ta giống nhau, chỉ cần suy ra hành nào chế ngự hành nào, nó là thập thần gì thì suy ra mà luận. Vậy thì sẽ giống hệt như Bói dịch mà thôi, hôm nay hành nào chủ đạo thì hành đó thắng! Con người có thể chỉ sống và hành động theo ngày giờ hiện tại được không? đấy là vấn đề... Tuy nhiên, những gì vừa suy đoán chỉ là dựa vào hai trọng điểm của Manh Phái mà thôi (bất luận vượng nhược và dụng thần của tứ trụ), tôi chưa đọc kĩ lí thuyết này nên đoán vậy, bởi vì môn Tử Bình nói gì thì nói, rốt ráo chỉ là ngũ hành của thiên can và địa chi, ngoài ra, nếu không luận sinh khắc của ngũ hành thì còn điểm nào mà dùng để lí luận? Tóm lại, tôi nghĩ rằng Manh Phái có lẽ cũng dễ học, mà cũng phải là một áp dụng từ truyền thống, nhưng đơn giản hóa, bỏ được vấn nạn tìm dụng thần cho tứ trụ mà bao lâu nay đã làm nhức đầu nhiều người..." Sau đây là một ví dụ chứng minh cho nhận định của Intenso ở trên là đúng. Trang 121 trong cuốn "Đàm Thiên - Thuyết Địa - Luận Nhân" của Ngô Bách có viết: "Sách "Đông Ba chí lâm" có ghi: Tứ Xuyên có một vị tên là Dương Cấn, giỏi về đoán mệnh, tuy mù loà nhưng rất uyên bác, giao du rộng rãi với các vị công khanh ở phương nam. Dương Cấn chỉ dựa vào Ngũ Hành mà đoán cát hung, lời lẽ vô cùng sắc bén. Năm Tân Dậu đời Hỷ Thái, Dương Cấn đến Cửu Giang, thái thú Dịch Văn Xương lưu ông lại khoản đãi, đưa các vị quan trong quận đến gặp ông. Vừa hay ta cũng gặp Chương Mộng Dư ở đó. Bấy giờ Hàn Bình Nguyên đang được nhà vua sùng bái, quyền lực chấn động thiên hạ. Chu Mộng Dư bèn hỏi Dương Cấn về mệnh của Hàn Bình Nguyên. Dương Cấn bảo những người khác ra ngoài, rồi lo ngại đáp: "Người này sẽ gặp nạn. Năm sinh Nhâm Thân thuộc Kim, Thân cũng là Kim, có Khôn thổ ở đó bồi đắp, nên Kim trở nên cứng rắn vô tỉ. Do đó người này là Kiếm Phong Kim. Kim này không sợ lửa (Hoả), chỉ có Bính Dần mới khắc chế được nó. Bởi vì can chi Bính Dần khi nạp âm sẽ là Hoả, mà là Hoả mạnh nhờ có Dần mộc sinh cho Bính Hoả, thành thử Hoả bốc rất mạnh, không thể bị tắt, đủ nung chẩy mọi thứ Kim. Giờ sinh của người này chủ về văn niên (lúc tuổi già), hiện tại đã ứng vào tuổi của Hàn Bình Nguyên. Huống hồ ông ta sinh vào tháng Tân Hợi, ngày Kỷ Tị, tương hợp với giờ sinh Bính Dần và năm sinh Nhâm Thân, có đủ Tứ mạnh (Tứ mạnh là tên của bốn tháng đầu mỗi quý, như Mạnh Xuân là tháng Giêng (Dần), Mạnh Hạ là tháng Tư (Tị), Mạnh Thu là tháng Bẩy (Thân), Mạnh Đông là tháng Mười (Hợi)), nhị khí giao chiến, tuy nhờ đó mà thành Đại Phúc nhưng cũng nhờ đó mà thành đại hoạ. Điều này những người đoán mệnh đều biết. Song họ cho rằng ông ta sẽ bị chết vào năm Bính Dần, thì lại chưa đúng. Bởi vì Hoả viêm, Kim bị nung chẩy, ngoài cương trong khô, cương gặp liệt, cả thiên địa thành một chiếv lò rừng rực, vạn vật đều tiêu rụi, còn ai dám đến gần? Đến năm Mão, Hoả là Mộc Dục, khí nhỏ mà bại, tro bụi tan hoà, không thể thừa thụ được nữa. Những vật thừa tải (Mệnh) quá lớn, không thể không tận dụng. Nhất dương sẽ nảy sinh (chỉ tháng 12) chắc là thời gian ông ta qua đời". Chu Mộng Dư nghe vậy thì thất sắc, đem lời nói của Dương Cấn ghi lại thành sách, không dám nói ra. Sau quả đúng như vậy." Đây đích thực là một ví dụ điển hình về "Manh Phái" này.
-
Chủ đề: "Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)?" của VDTT trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net có viết như sau: "Thiết nghĩ giới nghiên cứu cần nắm vững các trào lưu. Khoảng mười năm trở lại đây ở Hoa Lục nảy ra một phái Tử Bình mới gọi là “manh phái” do ông Đoàn Kiến Nghiệp, sinh năm 1967, chủ xướng. Theo lời ông Nghiệp tự thuật thì “manh phái” thực ra đã có từ rất nhiều đời, là phái của các ông thầy mù học để làm kế mưu sinh. Cũng theo lời kể của ông Nghiệp, thì mặc dù luật của “manh phái” là không truyền cho người sáng mắt, nhờ một đại cơ duyên ông đã được thầy mù Hác Kim Dương phá luật nhận làm đệ tử. Trước khi theo học thầy Hác ông Nghiệp cũng đã tương đối có tên tuổi trong làng Tử Bình, từng mở lớp dạy Tử Bình, và đã viết hai quyển sách có khả năng gây tranh luận, tối thiểu là có tính thách đố. Nguyên ông Tống Anh Thành, một cao thủ Tử Bình có tiếng của Đài Loan, trong thập niên 90’s có viết bộ “Mệnh lý chân quyết khải thị lục” gồm bốn tập mang tên Phong, Hỏa, Lôi, Điện (nxb Vũ Lăng, Đài Bắc) phân tích những lá số người thật việc thật. Ông Nghiệp dựa theo đó viết hai tập “Mệnh lý chân quyết đạo độc” mang tên Phong, Hỏa nội dung nhằm “sửa sai” các bài luận trong hai tập Phong, Hỏa của ông Tống Anh Thành và đề xướng cách luận của riêng mình cho các lá số trong hai sách đó. Ông Nghiệp viết lại: “Ông Tống Anh Thành là bậc sư trưởng tôn kính. Quyển ‘Phong tập đạo độc’ của tôi đến tay ông ấy qua một học viên. Ông ấy biểu thị cái lòng đại độ và khoan dung hoan ngưỡng giao lưu…” (trích lời tựa: Mệnh lý chân quyết đạo độc: Phong-Hỏa hợp đính bản). Dĩ nhiên cái học của ông Nghiệp trước khi thành đệ tử thầy Hác là khoa Tử Bình truyền thống, phương pháp là luận tứ trụ cường nhược, định hỉ kị dụng thần v.v… Những gì ông viết trong hai tập “Mệnh lý chân quyết đạo độc” đã kể trên phản ảnh sự thật ấy. Vậy thì lý do gì khiến ông Nghiệp học “manh phái Tử Bình” của thầy Hác. Hãy nghe ông tự thuật (trích chương 5, Manh phái tử bình, tu đính bản, hoa Lục, 2009): “Ở nước Trung Hoa có truyền lại hai hệ mệnh lý là hệ manh phái và hệ truyền thống. Mệnh lý truyền thống chủ yếu giảng dụng thần và cách cục, tư tưởng cơ bản là đạt sự bình hành của nhật chủ, tìm dụng thần và kị thần. Vậy là đặt vấn đề mệnh chủ vượng suy vào vị trí tối trọng yếu, thành thử làm mất đi rất nhiều yếu tố của mệnh lý, chẳng hạn “tượng”; mệnh lý truyền thống rất ít khi đoán được chi tiết của các sự việc cụ thể. “Không phải là nói mệnh lý truyền thống hoàn toàn không đúng, nó có thể giải thích chân tướng mệnh lý ở cấp bộ phận, nhưng không phải là sự lý giải tối chính xác hoàn chỉnh của mệnh lý. Từ sự hiểu biết của cá nhân tôi mà nói, học mệnh lý truyền thống đã lâu, đã đọc hầu như hết cả thư tịch cổ truyền, nhưng khi đoán mệnh thực tế thì toàn toàn chẳng như thầy tôi Hác Kim Dương đoán đặc biệt chi li, đặc biệt “thần” (dgc: Lời khen ở cấp cao nhất, ta có thể nói đoán như thần), thậm chí những lời đoán như đinh đóng cột của thầy tôi chẳng hiểu do đâu mà có. Nếu những lời đoán của người khác lý do tại sao bạn đều không biết, thì bạn không thể nào đoán như họ được. “Về sau tôi tìm ra nguyên nhân, thì ra cái mệnh lý mà tôi đã học nhiều năm là một thứ rất nông cạn, hệ thống không đúng, công cụ xử dụng cũng không đúng.” Đến đây là hết lời phân giải của ông Đoàn Kiến Nghiệp về lý do tại sao ông bỏ cách luận truyền thống của Tử Bình mà học theo cách luận của thầy ông là cụ Hác Kim Dương (đã quá cố). Vài dòng đóng góp." Quả thực là bất ngờ khi một cao thủ về Tử Bình đã bỏ phương pháp luận truyền thống để chuyển sang một phương pháp luận hoàn toàn khác để dự đoán vận mệnh bởi lý do như ông ta viết : “Về sau tôi tìm ra nguyên nhân, thì ra cái mệnh lý mà tôi đã học nhiều năm là một thứ rất nông cạn, hệ thống không đúng, công cụ xử dụng cũng không đúng.” Tôi chỉ cần có khoảng vài ba ví dụ của ông ta luận về các tai hoạ nặng theo "Manh Phái" này là có thể hình dung được nền tảng của phương pháp này dựa trên nguyên lý gì. Không biết có ai giúp tôi được không?
-
Hồ sơ Tuyệt Chiêu thứ 6 và 8 : "PhieuDieu đã viết: Theo đề nghị của bạn Vulong, tôi đăng tiếp 2 ví dụ trích từ "Bát tự khí số" để mọi người nghiên cứu thêm. Ví dụ 11. Đoan Mộc Khải. Đã từng làm giảng viên đại học Đông Ngô Sanh trước dân quốc 9 năm, ngày 18 tháng 4 giờ dần. Công lịch năm 87 ngày 30 tháng 5 giờ thìn, bệnh từ trần tại bệnh viện Bắc Trung Sơn, Đài Loan. Quý mão đinh tị nhâm dần nhâm dần Đại vận: Bính thìn (3)/ ất mão (13)/ giáp dần (23)/ quý sửu (33)/ nhâm tý (43)/ tân hợi (53)/ canh tuất (63)/ kỷ dậu (73)/ mậu thân (83) Lưu niên: Ất sửu (83)-bính dần (84)-đinh mão (85). Mất năm đinh mão, tháng ất tị, ngày kỷ mão, giờ mậu thìn. Tứ trụ lấy kim thủy là thọ tinh. Đại vận kim thủy bị khắc (kim thủy tại can chi của vận bị lưu niên khắc, hoặc nguyên cục khắc) hoặc vận khắc kim thủy thì lâm chung. Vận thìn mão dần, thân cực nhược; mệnh cục nhâm quý sống thọ (chỗ này sống thọ do vận không phải kim thủy + vận cũng không khắc kim thủy trong mệnh cục). Vận sửu tý hợi, thân vượng tốt. Tuất vận địa chi sanh thiên can canh (ấn tinh) cũng thọ. Vận kỷ dậu, can kỷ không khắc tuyệt nhật nguyên nhâm; nguyên cục chi tháng tị không khắc tuyệt dậu vận, cũng thọ. Vận mậu thân nhất định không giống như vậy, mậu thổ khắc chết nhật nguyên nhâm thủy, nguyên cục chi tháng tị khắc chết thân vận. Cho nên vận mậu thân là vận chết. Xem xét vận mậu thân; xét năm mậu không thọ, tiếp theo xét năm đinh. Lúc này mậu khắc nhâm, nhâm dẫn hóa kim bảo vệ mộc. Sau khi nhập vận mậu thân, lưu niên ất sửu-bính dần-đinh mão-mậu thìn; ất dần mão vệ thổ, cũng thọ. Năm đinh mão, tháng nhâm dần-quý mão, thủy mộc cũng thọ; tháng giáp thìn-ất tị, giáp ất mộc cũng thọ. Đến tị hỏa, nhập khí khắc thân kim, lập tức chi mộc không còn bảo hộ. Khoảng nửa cuối tháng ất tị, tìm ngày thủy mộc lộ ra là lúc lâm chung. Quốc lịch ngày 16 tháng 5 tức ngày ất sửu, thiên can mộc lộ ra; ngày 18 tháng 5 tức ngày đinh mão, địa chi mộc lộ ra; ngày 20 tháng 5 tị nhập khí, tị hỏa nhập khí giảm thọ, đến ngày 26 tháng 5 tức ngày ất hợi; ngày 30 tháng 5 tức ngày kỷ mão, thiên can kỷ khắc mất nhâm quý, địa chi mão mộc hoàn toàn lộ ra, số mệnh lâm tuyệt. Mà ngày kỷ mão, gồm có giờ giáp tý-ất sửu-bính dần-đinh mão cùng là thủy mộc nên còn thọ, giờ mậu thìn khắc thủy chính là kết thúc số mệnh. Đây chính là chân số mệnh, chân toán pháp, tuyệt đối không sai chút nào. Các người nắm được số mệnh, mới thấy âm đức ảnh hưởng vậy. Sau này nên sống lương thiện, lấy đó trợ thiện chúng sanh. Không được đồng ý, không thể tùy tiện in tặng. PhieuDieu" VULONG phản biện như sau: “Luận tầm bậy tầm bạ không thể chấp nhận được. 1 - Chả nhẽ ông ta không nhìn thấy vào đại vận Mậu Thân có Mậu hợp với Quý hóa Hỏa rồi sao mà còn cho là Mậu khắc chết Nhâm. 2 - Cả 2 Nhâm trong tứ trụ hợp với Đinh lưu niên còn Quý đã hóa Hỏa thì làm sao vào tháng Kỷ Mão mà Kỷ có thể khắc được Nhâm và Quý cớ chứ. 3 - Tị khắc chết Thân mà lại không khắc chết Dậu mới lạ chứ. Có đời nào khắc cùng dấu lại yếu hơn khắc khác dấu, hơn nữa làm gì chi trong tứ trụ lại có thể khắc hay xung được chi đại vận (bởi vì chi đại vận ở trạng thái động đầu tiên, nó xung hay khắc vào thằng nào trong tứ trụ thì thằng ấy mới Tỉnh Ngủ). Nói chung đến giờ tôi cảm thấy may mắn là được đọc cuốn sách của thầy trò cụ Thiệu đầu tiên và điều đầu tiên tôi đã đồng ý với cụ là Cách Lộc hay Kình Dương chỉ là các cách bình thường, do vậy Thân vẫn có thể nhược như các cách phổ thông khác. Điều thứ 2 là các can chi đã hợp thì chúng không có khả năng tác động tới các can chi bên ngoài và ngược lại còn nếu chúng hóa cục thì phải dùng hành mới hóa này để luận .... “. Từ đây tôi đưa ra Tuyệt Chiêu thứ 6 và thứ 8 như sau: 6 - Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa vẫn khắc được các can hay chi ngoài tổ hợp và ngược lại - của ông Quang Liên cư sĩ. Ở đây chỉ đề cập tới các trường hợp mà tổ hợp không bị phá bởi vì ông Quang Liên cư sĩ không nói tới các tổ hợp này bị phá. Tuyệt chiêu này thì mọi sách về Tử Bình đều nói tới vì vậy tôi không cần phải chứng minh. Còn khi nào các tổ hợp của các Can Chi này bị phá thì khá phức tạp, vì vậy tôi không trình bầy ở đây (cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi đã trình bầy chi tiết nó rồi). 8 - Chi đại vận không bị hợp vẫn bị các chi trong Tứ Trụ xung hay khắc - của ông Quang Liên cư sĩ. Tuyệt Chiêu này chắc là quá mới lạ với đa số mọi người. Với tôi chỉ sau khi nghiên cứu các tai họa có Chi đại vận là Tị hại Dần trong tứ trụ thì tôi mới phát hiện ra là chỉ có một điểm của Tị đại vận hại Dần trong tứ trụ. Bởi vì nếu Dần trong tứ trụ hình và hại được Tị đại vận thì sẽ có 2 điểm hạn của 2 lực này dẫn đến tổng điểm hạn sẽ quá cao là không thể chấp nhận được (với ví dụ mà tôi đang xét). Từ đó tôi đã xác định được quy tắc Chi đại vận động đầu tiên nên nó tác động tới các chi trong tứ trụ đầu tiên, sau đó các chi trong tứ trụ bị tác động này mới ở trong trạng thái động để tác động tới các chi khác, trừ chi đại vận. Còn nếu chi đại vận bị hợp thì các chi trong tứ trụ hay thái tuế mới có khả năng xung nó, còn lực này có phá được hợp này hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào lực xung phải không nhỏ hơn lực hợp. Khi hợp bị phá thì vẫn phải ưu tiên Chi đại vận tác động tới các chi khác trước. Tuyệt Chiêu này không thể chứng minh được ở đây vì nó liên quan đến rất nhiều quy tắc khác khi tính điểm hạn. Cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi đã chứng minh Tuyệt Chiêu này.
-
Nói một cách dân dã thì những người theo tôn giáo họ tin vào chúa và mọi cái họ cho rằng chỉ có Chúa tạo ra. Vậy thì thử hỏi Chúa thì do cái gì tạo ra ? Thì họ tịt luôn. Còn với những người tin vào lý học Đông Phương họ tin mọi cái đều bắt đầu từ "Khí". Vậy thì thử hỏi cái gì sinh ra "Khí" ? Thì họ trả lời ra sao nhỉ ? Còn các nhà Vật Lý họ đang đi tìm hạt Higgs, nó là cái cầu bắc để từ năng lượng chuyển thành khối lượng, chỉ có vậy thôi chứ nó không phải là hạt nhỏ nhất mà nhiều người đã hiểu lầm. Cho nên có hỏi cái gì tạo nên hạt Higgs chỉ là vô nghĩa. Còn vì sao các nhà Vật Lý gọi hạt Higgs là “hạt của Chúa” bởi vì nó xuất phát từ câu đầu tiên của Kinh Thánh mà tôi đã viết trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" như sau: "Ví dụ : Trong thực tế có thể coi năng lượng và khối lượng là hai trạng thái âm và dương của vật chất (tương tự như nước dưới sự tác động của nhiệt độ nó ở 3 trạng thái là rắn, lỏng và hơi, trong đó trạng thái rắn và lỏng được xem là 1 trạng thái) mà ngày nay các nhà vật lý đã biến được khối lượng thành năng lượng và trong thời gian tới nhờ cỗ máy LHC ở Thụy Sĩ các nhà vật lý sẽ thành công trong việc biến năng lượng thành khối lượng theo đúng phương trình mà năng lượng và khối lượng chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Chính có phương trình nổi tiếng này mà câu đầu tiên của Kinh Thánh “Ban đầu Đức Chúa Trời đã (dùng sức mạnh vô biên của mình) dựng nên trời đất (vũ trụ trong đó có trái đất) “ (Sáng - thế Ký 1 : 1) đã đúng trên quan điểm khoa học. Vậy đã có cuốn sách nào cổ hơn cuốn Kinh Thánh nói đến sự hình thành vũ trụ và trái đất của chúng ta từ năng lượng như vậy." Do vậy nếu các nhà Vật Lý tìm ra được hạt Higgs, nó cũng có nghĩa là con người sẽ chẳng kém gì Đức Chúa Trời cũng có thể biến năng lượng thành vạn vật còn nếu các nhà Vật Lý không thể tìm thấy hạt Higgs thì có nghĩa là chỉ có Đức Chúa Trời mới có khả năng này. Đó là lý do xuất hiện cụm từ "Hạt Của Chúa". Qua phương trình biến đổi năng lượng và khối lượng của nhà bác học thiên tài Albert Einstein thì theo thiển nghĩ của tôi nếu trong vũ trụ mà năng lượng chỉ có di chuyển một chiều từ chỗ cao đến chỗ thấp (như Mặt Trời của chúng ta hiện giờ luôn luôn sưởi ấm Trái Đất chẳng hạn) mà không có chiều ngược lại thì Vũ Trụ đã cân bằng năng lượng từ lâu rồi (như Mặt Trời rồi sẽ hết nhiên liệu để cháy, khi đó Hệ mặt trời trong đó có trái đất của chúng ta sẽ cân bằng năng lượng - chắc là sự sống trên trái đất sẽ chấm dứt vì lạnh). Cho nên phải có chiều ngược lại, đó là trong một điều kiện nào đó Năng Lượng sẽ tạo ra Khối Lượng là một điều hoàn toàn hợp lý có logic, nó cùng nghĩa với sự tồn tại hạt Higgs là không thể chối cãi (nó đồng nghĩa với việc tạo ra các vật chất có thể cháy như Mặt Trời). Sự tìm ra hạt này chỉ còn là vấn đề thời gian và trình độ của các nhà Vật Lý mà thôi.
-
Xin lỗi bạn đọc, bài luận trên tôi đã nhầm khi xác định dụng thần. Phải sửa lại là Thân cực kỳ vượng mà Kiêu Ấn đủ (chứ không phải là nhiều) nên dụng thần đầu tiên phải lấy Thực Thương là Canh ở trụ tháng và điểm kỵ vượng của Thổ được tăng gấp đôi. Do vậy điểm kỵ vượng của Kỷ và 2 Mậu ở đây được tăng gấp đôi. Tổng điểm hạn là 12,43. Sau khi được giảm nó còn lại 5,7 đh. Số điểm này thừa sức gây ra tử vong. Theo cuốn "Dự Đoán Theo Tứ Trụ" của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa có viết "Nhật chủ mạnh, Thực Thương là dụng thần. Thực Thương càng mạnh càng thọ" (trang 183 - sách in lần thứ 2 năm 2002). Ở đây Thân cực vượng hay Nhật Chủ Kỷ mạnh có Thực Thương Canh cũng mạnh nhưng tại sao vẫn chết. Bởi vì dụng Canh mặc dù vượng ở lưu niên Ngọ có -1 đh nhưng chả thể cứu vãn được tình thế bi đát này. Hay câu 4 trang 181 có viết " Tứ trụ không bị xung, hoặc có xung nhưng hội về cho dụng thần, hỷ thần không bị xung phá". Ở đây thì lại ngược lại dụng thần Canh không bị xung còn hỷ thần Nhâm lại bị xung (điều này chỉ là tương đối bởi vì thằng nào bị xung hay không mà tổng số điểm hạn cao vẫn cứ Toi). Hay câu 5 cùng trang có viết "Ngũ hành đồng đều là tốt, trung hòa, thuần túy càng thọ" thì rõ ràng tứ trụ này ngũ hành không trung hòa mà quá thiên lệch. Tóm lại dụng thần hay hỷ thần chỉ có tác dụng một phần nào giảm được tai họa (vì chúng có điểm hạn Âm) còn nếu như tổng điểm hạn quá cao thì cái chết vẫn có thể đến ở bất cứ lúc nào cho dù người đó đang ở vận Đế Vương.... Điều này khẳng định không có một hành nào được coi là Thọ Tinh ngoài Dụng Thần (vì nó có điểm hạn âm cao nhất).
-
Chào anh Thiên Sứ! Tôi đã thử nhưng không thấy cỡ chữ thay đổi hay mầu xuất hiện gì cả, không biết tại sao, các ô khác cũng vậy. Anh chỉ giúp tôi với. Cám ơn anh.
-
Tôi không biết cách tô mầu, mà hình như ở đây không cho tô mầu và viết các cỡ chữa khác nhau thì phải.
-
Phieu Dieu đã đưa ra ví dụ sau đây để chứng minh Thuyết Thọ Tinh của ông ta là đúng (ở chủ đề "Cách bị ép buộc" trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net) như sau : "Chào các bạn Tôi dẫn chứng 1 ví dụ khác về thọ tinh, để nghiệm lý. Càn tạo: Kỷ mùi canh ngọ mậu tuất nhâm tý Đại vận: Kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão/ bính dần/ ất sửu/ giáp tý Mệnh này là Trình Bích Quang. Xem mệnh này mặc dù nhật chủ rất vượng, nhưng thọ hay yểu không quan hệ với vượng suy của nhật chủ. Lấy lệnh tháng ngọ hỏa ấn thụ là thọ tinh. Ấn tuy nắm lệnh, nhưng không có nguyên thần, rất dễ dàng bị diệt tắt. Đến vận giáp tý, giáp kỷ tương hợp, giáp không sanh ngọ, tý thủy xung ngọ hỏa, thọ tinh bị phá, chết tại vận này. Lưu niên mậu ngọ, ấn tinh xuất hiện, bị ám sát mất mạng. Chỗ này ứng kỳ là đại vận khắc phá, phùng lưu niên xuất hiện (thật phá)." PhieuDieu" Còn theo phương pháp tính điểm hạn của tôi như sau: Nam mệnh: Kỷ Mùi - Canh Ngọ - ngày Mậu Tuất - Nhâm Tý Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: Thủy......Mộc......Hỏa......Thổ.......Kim 3,39.......#7.........7........35,9......3,5 Năm Mậu Ngọ (1978) thuộc đại vận Giáp Tý, tiểu vận Quý Sửu và Nhâm Tý. 1 - Mệnh này cực kỳ vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh/Nhâm ở trụ giờ. 2 - Giáp đại vận hợp với Kỷ trụ năm không hóa. 3 - Mậu lưu niên khắc Nhâm tiểu vận và Nhâm trụ giờ và Mậu trụ ngày khắc Nhâm trụ giờ. 4 - 3 Tý hội tụ khắc Ngọ thái tuế. Tý đại vận và Tý trụ giờ còn khắc lệnh tháng Ngọ. 5 - Trụ tháng Canh Ngọ thiên khắc địa xung với đại vận Giáp Tý. Lưu niên Mậu Ngọ thiên khắc địa xung với tiểu vận và trụ giờ Nhâm tý. Đại vận Giáp Tý thiên khắc địa xung với lưu niên Mậu Ngọ. Tổng điểm hạn là 11,18. Có 3 Tý khắc thái tuế Ngọ nên tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/2 và 7/12. Do vậy tổng điểm hạn còn lại là 11,18(1/2 + 5/12).1/2 = 5,12. Số điểm này đủ sức gây ra tử vong. Năm Ngọ còn có 2 Mậu đế vượng ở lưu niên khắc dụng thần Nhâm. Ngọ đã nắm lệnh thì dĩ nhiên Tý, Nhâm phải hưu tù hay tử tuyệt, lại còn vào năm Ngọ nữa thì Ngọ Hỏa chắc yếu không thể làm gì được 3 Tý chắc ? Ví như một thằng lực sĩ không đánh nổi 3 thằng ốm nặng sao ? Cái chết ở đây là do Hỏa và Thổ quá vượng khắc dụng thần Thủy cộng thêm có quá nhiều cặp thiên khắc địa xung nên sự tương tranh của Thủy và Hỏa quá mạnh làm cho dụng thần Thủy bị tổn thương nặng. .
-
"Các Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng Trong Tử Bình Theo yêu cầu của ban điều hành diễn đàn (tuvilyso.net) và một số người đã không công nhận đã đưa ra các Tuyệt Chiêu này hoặc họ không muốn mất uy tín..., vì vậy ở đây tôi viết lại và chỉ đưa nội dung của các Tuyệt Chiêu để mọi người suy ngẫm và cảnh giác trước những Phát Minh, Sáng Tạo mới mà nội dung của chúng đi ngược lại với nền móng xây dựng lên môn Tử Bình. Hy vọng mọi người cùng tôi sưu tầm tiếp các Tuyệt Chiêu mới để bổ xung vào danh sách này, mục đích nhằm giúp mọi người tránh được những sai lầm khi học và nghiên cứu Tử Bình. 1 - Các trạng thái của 5 Can âm được xác định giống như 5 Can dương và Can Chi trong cùng trụ không thể sinh được cho nhau. 2 - Không có khái niệm "Dụng thần thay đổi". 3 - Tất cả các giờ sinh trên thế giới phải đổi sang giờ Bắc Kinh thì mới đúng. 4 - Địa chi có thể dẫn hóa cho tổ hợp của các địa chi hóa cục. 5 - Cách hóa Thổ dụng thần phải là Mộc hay Thủy... 6 - Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa vẫn khắc được các can hay chi ngoài tổ hợp và ngược lại. 7 - Chi đại vận không bị hợp vẫn bị các chi trong Tứ Trụ xung hay khắc. 8 - Thân nhược phải lấy Thực Thương, Tài hay Quan Sát làm Thọ Tinh cũng như Thân Vượng phải lấy Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp làm Thọ Tinh thì người đó mới sống Thọ được. 9 - ....." Tôi đã viết lại nội dung bài này để tránh "những vấn đề nhậy cảm...." mà tôi nghĩ là uy tín hay danh dự của những người đưa ra các Tuyệt Chiêu này nhưng bây giờ thì tôi mới biết điều suy nghĩ này là không phải bởi vì bài viết này và nick của tôi ở tuvilyso.net đã bị xóa. Điều này chứng tỏ ban điều hành của tuvilyso.net cự kỳ sợ tên của chủ đề này chứ không phải sợ tên của các Cao Thủ được nêu ra ở đây mất uy tín. Tại sao lại như vậy? Chả nhẽ họ sợ nội dung của các Tuyệt Chiêu này tới được những người yêu thích Tử Bình hay sao? Nếu đúng như vậy thì mục đích của trang web tuvilyso.net là gì ? Các câu hỏi này dành cho bạn đọc tự trả lời.
-
Chào anh Thên Sứ! Thôi thì tùy anh nhưng tôi thấy anh quá thận trọng bởi vì tôi đã nói đích danh tôi ở bên tuvilyso.net bị xóa bài và nick chứ không phải tôi là ban điều hành của Lý Học Đông Phương. Để cho chủ đề chính xác và đỡ "Nặng" như tôi đã đưa ra, nếu được mong anh sửa lại thành chủ đề "HueThien khiếp sợ chủ đề "Các Tuyệt Chiêu nổi tiếng trong Tử Bình"". Bởi vì chính cá nhân HueThien chứ không phải "ban điều hành của tuvilyso.net" xóa bài và nick của tôi. Chào anh.
-
Đến giờ phút này thì có thêm 2 Tuyệt Chiêu nổi tiếng thứ 8 và 9 trong Tử Bình (xem các chủ đề "Cách gì đây?" và "Cách bị ép buộc" trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net) như sau : 1 - Các trạng thái của 5 Can âm được xác định giống như 5 Can dương và Can Chi trong cùng trụ không thể sinh được cho nhau - Của bố con nhà họ Nhâm Thị. 2 - Không có khái niệm "Dụng thần thay đổi" - Của Đoàn Viết Hoạt. 4 - Tất cả các giờ sinh trên thế giới phải đổi sang giờ Bắc Kinh thì mới đúng - Của Thiệu Vĩ Hoa. 5 - Địa chi có thể dẫn hóa cho tổ hợp của các địa chi hóa cục - Của Giang*Hai*Thien (tuyệt chiêu này chắc chắn cụ Thiệu Khang Tiết và cháu nội đời thứ 20, 30 gì đấy là cụ Thiệu Vĩ Hoa không hề biết). 6 - "Cách Ép Buộc" và "Cách Lưỡng Vượng" ????? - Của VULONG. 7 - Cách hóa Thổ dụng thần phải là Mộc hay Thủy - Của Phiêu Diêu. 8 - Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa vẫn khắc được các can hay chi ngoài tổ hợp và ngược lại - của ông Quang Liên cư sĩ. 9 - Chi đại vận không bị hợp vẫn bị các chi trong Tứ Trụ xung hay khắc - của ông Quang Liên cư sĩ.
-
"Cách bị ép buộc" A - Tứ trụ của một tỷ phú do An-quang cung cấp trong chủ đề "Lá số của một đại gia khác" trong mục Tử Vi bên tuvilyso.net. .............Kỷ Dậu - Bính Tý - ngày Đinh Tị - Quý Mão Các đại vận và thời gian của chúng: Ất Họi/Giáp Tuất/Quý Dậu/Nhâm Thân/Tân Mùi/Canh Ngọ/Kỷ Tị ...1..........11..........21.............31............41...........51...... 61 2/1970...2/80.......2/90.........2/00.........2/10........2/20....2/30 Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: .........Kim.......Thủy......Mộc......Hỏa.....Thổ .........3.78......12.9......2.59.....7.24.....1.77 Tứ trụ này Thân nhược, Quan Sát là kỵ thần số 1 (có số điểm vượng lớn nhất trong vùng tâm của các kỵ thần) mà người này trở thành tỷ phú trong các đại vận Quan Sát (là Quý và Nhâm) còn có chi là Tài (Dậu và Thân) cùng trụ sinh cho. Theo Tử Bình truyền thống thì Thân quá nhược không thể thắng được Tài Quan thì không thể trở thành Triệu phú được. B - Tứ trụ của một tỷ phú do Polaris cung cấp trong chủ đề "Tỷ phú Nguyễn Tấn Đời" trong mục Tử Vi bên tuvilyso.net. Quý Hợi - Ất Sửu - ngày Kỷ Hợi - Canh Ngọ Các đại vận và thời gian của chúng: Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân/Kỷ Mùi/Mậu Ngọ .....5..........15...........25...........35............45..........55........65 2/1970.....2/80........2/90........2/00.........2/10.....2/20......2/30 Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: ...............Thủy....Mộc.....Hỏa....Thổ....Kim ...............16,8....4,08....1.44....5,33.....3 Tứ trụ này Thân nhược, Thủy (Tài) là kỵ thần quá vượng mà người này trở thành triệu phú trong các đại vận có các can chi đều là Thực Thương (Tân Dậu và Canh Thân). Điều này hoàn toàn ngược với Tử Bình truyền thống bởi vì Thân đã nhược còn bị Thực Thương quá mạnh xì hơi để sinh cho Tài thì Thân càng suy nhược làm sao có thể thắng được Tài mà trở thành triệu phú. Do vậy để phù hợp với thực tế của 2 tứ trụ này ta phải đưa ra "Cách bị ép buộc". Cách này khác với cách tòng theo (hay phụ thuộc) vì nó không phải quá nhược mà nó chỉ bị ép buộc (bị khắc) mà phải theo mà thôi. Do vậy cách này hoàn toàn ngược với "Cách lưỡng vượng" được phát biểu như sau: Nếu Thân nhược mà tất cả các can và chi của Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (kể cả can ngày) bị khắc trực tiếp (cùng trụ như Bính bị Tý khắc, Sửu bị Ất khắc...), gần (như Đinh trụ ngày bị Quý trụ giờ khắc hay Tị trụ ngày bị Tý trụ tháng khắc...) hay xa bởi thiên khắc địa xung (như Mão trụ giờ bị khắc xa bởi Dậu trụ năm thông qua trụ năm Kỷ Dậu thiên khắc địa xung với trụ giờ Quý Mão) thì tứ trụ đó thuộc "Cách bị ép buộc", khi đó dụng thần là Tài hay Quan Sát nếu hành nào có điểm vượng lớn hơn.
-
Qua sự bật mí của bachtuyet tôi đã hiểu rõ cách TÒNG VƯỢNG và TÒNG CƯỜNG (xem cùng chủ đề ở mục Tử Bình bên tuvilyso.net). Xét tiếp tứ trụ của bà Sara Palin: Giáp thìn bính dần canh dần giáp thân Ất sửu/giáp tí/quí hợi/nhâm tuất/tân dậu/canh thân/... Đểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: .....Mộc..... Hỏa.....Thổ......Kim.......Thủy ...13,66.......9.........1......5,93.......#7 Theo thực tế của bà này thì vào các vận Quý Hợi và Nhâm Tuất phải là hỷ dụng thần bởi vì bà ta được thăng quan tiến chức vù vù. Sang vận Tân Dậu thì bắt đầu xấu. Vậy thì rõ ràng tứ trụ này phải là cách tòng Mộc thì mới có thể giải thích được sự thăng quan này. Qua ví dụ này và kết hợp với 2 tứ trụ của các tỷ phú ở trên tôi phải sửa lại định nghĩa "Cách bị ép buộc" như sau: Nếu Thân nhược mà Nhật can ở Tử, Mộ hay Tuyệt ở lệnh tháng còn bị khắc trực tiếp (cùng trụ) hay gần (bị can trụ tháng hay trụ giờ khắc) thì tứ trụ đó thuộc "Cách bị ép buộc", khi đó dụng thần là Tài hay Quan Sát nếu hành nào có điểm vượng lớn hơn (hành này phải lớn hơn Thực Thương) và nó phải lớn hơn Thân ít nhất 5 điểm vượng nếu nó nắm lệnh, 10 điểm vượng nếu nó không nắm lệnh. Cách "Cách bị ép buộc" (Tòng Vượng) này khác với các cách tòng bình thường là trong tứ trụ vẫn có các can chi là Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp sinh phù cho Thân cũng như vẫn có thể có các can chi mang hành Quan Sát của hành phải tòng theo này.
-
Theo phương pháp của tôi Thân phải lớn hơn Thực Thương, Tài hay Quan Sát ít nhất 1 điểm vượng mới được gọi là Thân vượng. Ở đây Thân Mộc nhược không phải do Tài Thổ hay Quan Sát Kim mà nhược do Thực Thương Hỏa (9,22 nhỏ hơn 11,1).
-
1. Nam : Giáp Tuất____ Quí Dậu _____ Đinh Tỵ (Nhật chủ)______ Quí Mão Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: Kim.....Thủy.....Mộc......Hỏa.....Thổ 3,6......9,6.......4,32.....1197....0.68 Tứ trụ này Thân vượng mà Kiêu Ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/Mậu tàng trong Tuất trụ năm. 2. Nữ : Tân Mùi ____Ất Mùi _____ Giáp Ngọ ( Nhật chủ) _____ Bính Dần Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: Thổ.....Kim.....Thủy......Mộc.....Hỏa 8.04....4,19......#........9,22....11,2 Tứ trụ này Thân nhược mà Thực Thương Hỏa là mạnh nhất nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn nhưng trong tứ trụ không có nên dụng thần thứ 2 phải là Tỷ Kiếp/Ất ở trụ tháng.
-
Điểm vượng của các hành trong vùng tâm của Tứ Trụ này như sau: Thủy......Mộc......Hỏa.......Thổ........Kim 7,11......#6.........#4.......9,61.......7,68 Tứ trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/Giáp tàng trong Hợi trụ tháng. Vì vậy vào các năm hỷ dụng thần Canh, Tân, Nhâm và Quý phát tài và các năm Bính Đinh kỵ thần xấu là đúng như các cách cục bình thường.
-
Mặ dù câu chuyện trên tôi nói là để "...giải trí...." nhưng chắc người đọc sẽ cảm thấy hình như không một từ nào có ý đồ Mô Li Phê cả. Đúng như vậy, câu truyện trên có thực 100% và nó chính là của tôi chứ không phải tôi nghe người khác kể lại. Mặc dù lúc đó trong đầu tôi cái chủ nghĩa Duy Vật của các thầy cô dưới mái trường XHCN dậy tôi vẫn đang còn đầy ắp không có chỗ chứa cho các vị Thánh Thần gì cả nhưng lúc đó tôi cũng phải rùng mình nghi hặc hình như có một thế giới Thần Linh đang hiện hĩu thì phải. Dần dà thời gian trôi đi thực tế có thêm một vài hiện tượng tương tự xẩy ra và tôi đã đi đến khẳng định quả thực có một thế giới về các Thần Linh đang tồn tại cùng thế giới của chúng ta. Năm 2004 khi biết đến Tử Bình qua cuốn sách của thầy trò cụ Thiệu tôi đã chú ý tới yếu tố Thần Linh mà môn Tử Bình có đề cập tới được gọi là các Thấn Sát trong Tứ Trụ. Ngay từ đầu tôi đã nghĩ có thể có một vị Thần Linh nào đó đã chiều theo ý muốn của tôi chứ không phải là tôi có khả năng này như bao Dị Nhân mà ông Khanh đã liệt kê. Qua đây tôi cũng nghĩ anh Thiên Sứ chắc cũng được một vị Thần nào đó giúp đỡ trong một vài trường hợp mà vị Thần Linh đó đồng ý chứ không phải là anh Thiên Sứ có khả năng thay đổi được thời tiết như anh ta đã ngộ nhận. Tuần sau tôi sẽ ký hợp đồng để in cuốn sách của tôi với tựa đề: "Giải Mã Tứ Trụ" và khoảng từ 1/10 tới 5/10 sách sẽ được đưa tới các đại lý ở Berlin để kịp thời chào mừng 1000 năm văn hiến Thăng Long - Hà Nội. Qua cuốn sách này bạn đọc sẽ biết thêm những Tứ Trụ nào có thể có các Thần Linh hộ mệnh (như tứ trụ của Thiệu Ung - Thiệu Khang Tiết mà linglingling đã thách đố tôi trước đây, nó chính là ví dụ mà tôi đã tìm ra thông tin của vị Thần Linh này là Tam Hội Cục có trong Tứ Trụ của ông ta - tất nhiên nếu Tam hội cục bị phá hay nó ... thì khả năng hộ mệnh không còn và nó cũng chỉ giả được max. 50% tổng số điểm hạn còn Tam Quý hay Tứ Quý - 3 hay 4 chi giống nhau trong tứ trụ trong một vài trường hợp có thể giảm tới 2/3 tổng số điểm hạn). Cuốn sách này dài tới 672 trang chủ yếu diễn tả chi tiết của 216 ví dụ có thực đã xẩy ra trong thực tế.
-
Trung Vũ phải nói cụ thể hơn nữa là mọi người vào đọc bên tuvilyso.net (Vào Đọc Bài Trong Diễn Đàn Cũ) trong mục Tử Vi (trang 31) tìm chủ đề "Phi thường cách" của anh VuiVui và hãy trả lời 4 câu hỏi của tôi ở trang 19 cũng như giúp Tranthanhala hãy phản biện lại bài phản biện của tôi với bài viết của Tranthanhala (trang 20) thì sẽ biết tôi là Dị Nhân hay Thánh Nhân gì đó ngay thôi mà. Nếu thế thì tôi đã hiểu nhầm câu mà tôi vừa trích dẫn của anh chỉ là để minh họa. Vậy tôi thành thật xin lõi anh. (Còn bài viết của tôi mà anh vừa xóa, tôi chỉ phản biện bài viết của Tran Anh chứ không động chạm gì tới anh cả. Bằng chứng là bài viết của Tran Anh không khác gì của một Dị Nhân mà ông Khanh đã dẫn chứng có lẽ tới 10 vị chưa tính đến Dị Nhân Nhiêu đang nổi đình nổi đám)
-
1 - Vậy thì anh cũng đừng mang cái câu "Hạt Của Chúa" vào topic này cho nó công bằng để những người như tôi không phải đọc những lời nói về nó cho đúng topic mà anh muốn. Bằng chứng anh đã viết: "Bản thân tôi theo quan niệm của Lý học Đông phương không cho rằng hạt cơ bản là cấu trúc cuối cùng có thuộc tính vật chất (bởi vậy tôi xác định “Không có hạt của Chúa”). 2 - Tôi chỉ nói theo sấm Trạng Trình thì Thánh Nhân (tức "Siêu nhân" như anh nói) sẽ xuất hiện trong năm nay chứ tôi không nói như anh là sẽ tạo ra mưa hay nắng (tức tôi sẽ ĐẺ RA) vào dịp Đại Lễ này (tức THÁNH NHÂN TRONG NĂM NAY).
-
"Hạt của Chúa" và câu hỏi của tôi: " Tóm lại có đúng là anh khẳng định con người không thể biến năng lượng thành khối lượng phải không?" có gì khác nhau, vậy thì tôi đành phải kết luận anh không hiểu nghĩa của câu "Hạt của Chúa" mà các nhà Vật Lý muốn nói là gì cả.
-
Chào anh Thiên Sứ! Ngày nay người ta đã biến khối lượng thành năng lượng theo đúng phương trình của nhà bác học thiên tài Albert Einstein. Vậy thì theo anh con người có khả năng biến năng lượng thành khối lượng hay không hay khả năng này chỉ có Đức Chúa Trời mới có ? Ở đây theo tôi "Hạt Của Chúa" chỉ là hạt để Chuyển Đổi từ dạng năng lượng sang dạng khối lượng mà thôi chứ không phải là một hạt huyền bí của thần thánh nào cả, hiểu đơn giản có thể gọi nó là "Hạt Của Vũ Long" chẳng hạn..... Tóm lại có đúng là anh khẳng định con người không thể biến năng lượng thành khối lượng phải không?
-
Anh Thiên Sứ đã hiểu sai câu nói này. Câu này chỉ muốn nói lên phải có một loại hạt làm trung gian để chuyển từ dạng năng lượng sang dạng khối lượng (vật chất) chứ nó không có nghĩa là loại hạt nhỏ nhất "có thuộc tính vật chất" như anh nghĩ. Ví dụ đơn giản nước được tạo thành từ hydro và oxy. Vậy thì năng lượng làm cách nào biến thành hydro và oxy để rồi 2 loại hạt này mới tạo thành nước. Ở đây hydro và oxy đóng vai trò là các "Hạt Của Chúa" và người ta đang tìm các hạt này. Vừa rồi các nhà khoa học đã dự đoán có thể có 5 loại hạt cơ bản này. Nếu đúng như vậy thì 5 hạt này đúng là 5 hành mà chúng ta đã biết là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Dĩ nhiên chúng ta nói 5 hành này được tạo thành từ khí và khí được tạo lên từ loại siêu khí và cứ thế mà tìm tùy theo trình độ hiểu biết của người đời. Tương tự các nhà khoa học cũng vậy họ phải tìm được các hạt này sau đó mới có thể "mổ" được nó ra thì mới có thể biết được bên trong của nó có gì...