VULONG
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
511 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
26
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by VULONG
-
Chào bác CHIEUNAM chắc bác mới tham gia diễn đàn nên không để ý đến từ "Tuyệt Chiêu" mà tôi đã dùng ở đây. Tôi xin nói qua xuất sứ của từ "Tuyệt Chiêu" này. Bởi vì có một số cao thủ Tử Bình đầu đã hai thứ tóc phải nói là khá giỏi tiếng Tầu nên đã dịch và nghiên cứu hầu hết các sách đã được bán trên thị trường của đất Ðài - Cảng từ trước tới nay (chắc trừ sách của cụ Thiệu). Mà nói đến sách Tầu thì ai lại không biết các câu như "Thâm nho như Tầu", "Man thư như Tầu"... Vậy mà các cao thủ này tin ráo rọi, không hề nghi ngờ trong đó có đầy cái mà tác giả cố tình Ngụy Tạo (tức lừa đảo hay giả dối). Khi có người tìm ra bằng cách chứng minh các điều này là Ngụy Tạo thì họ nồng nên phản đối rồi thì khích một loạt các đệ tử của họ đồng thanh chửi bới,... Bởi vì những thông tin Ngụy Tạo này đều xuất phát từ các cao thủ Tử Bình có tên tuổi cả nên tôi mới gọi chúng là các "Tuyệt Chiêu" có vậy thôi. Nói ngắn gọn là các "Tuyệt Chiêu" mà tôi đưa ra đều là các điều giả dối của các tác giả đất Ðài - Cảng đã cố tình tạo ra. Các Ngụy Tạo (Tuyệt Chiêu) này hoàn hoàn đi ngược với nền tảng xây dựng nên môn Tử Bình truyền thống. Thân chào.
-
Thì tôi có đòi hỏi gì đâu mà bạn hỏi như vậy.
-
Các bài giảng cho khóa học Tứ Trụ sơ cấp Bài 1: Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Trích cuốn “Có một Ðấng Tạo Hóa quan tâm đến bạn không?“ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW: “Vào năm 1905, tức là 40 năm trước năm 1945, Einstein đã tiên đoán có một quan hệ giữa vật chất và năng lượng. Nhiều người biết phương trình E = mc² (trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng) của ông. Chẳng bao lâu sau khi quan hệ đó được Einstein công thức hóa thì các nhà bác học có thể giải thích được là làm sao mặt trời tiếp tục chiếu sáng hàng tỷ năm. Trong mặt trời có những phản ứng nhiệt hạch liên tục. Bằng cách này, mỗi giây, mặt trời biến khoảng 564 triệu tấn hyđro thành 560 triệu tấn heli. Ðiều này có nghĩa là cứ trong mỗi giây có khoảng 4 triệu tấn vật chất đã biến đổi thành năng lượng mặt trời mà một phần tỏa xuống mặt đất bảo toàn sự sống. Ðiều đáng chú ý là quá trình có thể đổi ngược lại. Cuốn The World Book Encyclopedia giải thích : “Năng lượng đổi thành vật chất khi những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở tốc độ cao tạo ra các hạt mới nặng hơn“. Các nhà khoa học đã thực nghiệm được điều này trong một phạm vi giới hạn, dùng máy khổng lồ gọi là máy gia tốc hạt, trong đó những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở vận tốc cực cao, để tạo ra vật chất. Nhà vật lý học đoạt giải thưởng Nobel, tiến sĩ Carlo Rubbia giải thích: “Chúng tôi đã tái tạo một trong các phép lạ về vũ trụ - biến năng lượng thành vật chất““. ………………………….. “Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo ra các vật này? Ấy là Ðấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thẩy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao (Ê-sai 40:26). Vâng, Kinh-thánh nói rằng một nguồn năng lượng vô biên - Ðấng Tạo Hóa – đã hình thành vũ trụ vật chất. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với kỹ thuật tân tiến“. Qua 2 đoạn trích trên cho chúng ta thấy rằng câu đầu tiên của Kinh-thánh: “Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất“ (Sáng-thế Ký 1:1) có thể được hiểu chính xác là : Ban đầu Ðức Chúa Trời đã dùng sức mạnh vô biên của mình để dựng nên vũ trụ trong đó có mặt trời và trái đất của chúng ta. Cho nên khi các ngôi sao (như mặt trời của chúng ta) cháy mãi hết nhiên liệu rồi sẽ phải tắt thì ở trong một môi trường đặc biệt nào đó như Hố Trắng chẳng hạn sẽ phun ra vật chất (tham khảo chủ đề “Những điều cần biết về Vũ Trụ học“ trong mục “Lý Học Ðông Phương“ tại trang web này), trong đó xuất hiên các ngôi sao mới. Chính điều này có thể chứng minh được vì sao trên bầu trời của chúng ta tới nay vẫn tồn tại ti tỷ các ngôi sao tỏa ánh sáng - năng lượng - vào vũ trụ rộng bao la trong khi thời gian là vô tận. “Nhà địa chất học nổi tiếng Wallac Pratt bình luận : “Nếu có ai yêu cầu tôi, với tư cách là một nhà địa chất học, giải nghĩa cách vắn tắt các tư tưởng tân thời của chúng ta về nguồn gốc của trái đất và sự phát triển của sự sống trên đó cho những người mộc mạc, quê mùa như các chi phái mà sách Sáng-thế Ký được viết cho, thì tôi không thể làm gì hay hơn là theo sát phần lớn lối diễn tả và ngôn ngữ trong chương một của Sáng-thế Ký“. Môi-se là người viết quyển đầu tiên của Kinh Thánh là Sáng-thế Ký khoảng năm 1513 TCN (vì cuốn Kinh Thánh là một bộ gồm 66 cuốn sách nhỏ được viết trong một khoảng thời gian hơn 1.500 năm từ 1513 TCN đến khoảng năm 80 SCN - có khoảng 40 người đã tham gia viết). Ông Wallac Pratt cũng nhận xét rằng thứ tự các biến cố mô tả trong sách Sáng-thế Ký: Nguồn gốc của đại dương, việc đất trồi lên, sự xuất hiện các loài sống dưới biển, chim chóc và các động vật hữu nhũ, thực chất là thứ tự của các giai đoạn chính yếu của thời đại địa chất. Chúng ta thử xem xét: Cách đây 3500 năm, làm sao Môi-se biết được thứ tự chính xác như thế nếu như tin tức đó không phải bắt nguồn từ Ðấng Thiết Kế (Ðức Chúa Trời)“. Ðể phù hợp với khoa học chúng ta thừa nhận rằng Môi-se vào thời gian đó chỉ là người “Ở Trần Ðóng Khố“ trong một xã hội còn rất lạc hậu trên trái đất của chúng ta đã ghi chép lại những tri thức mà các vị khách thuộc một nền văn minh ngoài trái đất ghé thăm chúng ta (có thể gọi họ là các sứ giả của Ðức Chúa Trời) truyền đạt cho. Chính vì vậy mà ngôn ngữ diễn đạt rất mộc mạc, đơn sơ, hầu như Môi-se và những người tham gia viết Kinh-thánh chỉ diễn đạt được các tri thức của Họ theo nghĩa đen mà thôi, vì vậy mới có nhiều sai sót. Ðó là lý do vì sao có sự kiện Galileo bị đưa lên ngọn lửa của giàn thiêu. Một điều quan trọng nữa là cuốn Kinh-thánh không những đã nói tới nguồn gốc hình thành, sự kiến tạo địa chất của trái đất và sự phát triển của sự sống trên trái đất mà cuốn Kinh-thánh còn dự đoán các sự kiện đã và chưa xẩy ra. Ðó là dự đoán sự xuất hiện của 7 cường quốc trên trái đất trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm với thiên thạch. Phần này xin mời các học viên đọc chủ đề: “Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế“ trong mục “Dự Báo và Chứng Nghiệm“ tại trang web này. Ðiều này đủ cho chúng ta nhận thấy rằng cuốn Kinh-thánh không chỉ dừng lại ở mục đích truyền bá về hệ tư tưởng, đạo đức mà nó còn dự đoán vận mệnh của trái đất của chúng ta. Vận mệnh trái đất, Họ (tức người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được, vậy thì vận mệnh của con người chúng ta Họ không dự đoán được sao? Cho nên theo tôi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý đã xuất hiện trên trái đất của chúng ta khoảng 3 đến 4 nghìn năm hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian xuất hiện cuốn Kinh-thánh cũng là món quà mà những vị khách này đã viếng thăm và tặng chúng ta. Ðây chính là lý do mà tôi đã nghiêm túc nghiên cứu môn Tử Bình qua lăng kính của Vật Lý học. Ở bài 1 này tôi không đòi hỏi mọi người phải tin rằng con người nói riêng hay vạn vật nói chung có vận mệnh và dự đoán được vận mệnh… mà tôi khuyên mọi người chưa nên tin bất cứ cái gì ngay được. Mọi cái cứ từ từ nghiên cứu xem sao đã, chỉ đến khi có được sự suy luận có lý cộng thêm các ví dụ trong thực tế kiểm nghiệm lý luận đó đúng thì mới có thể tin được mà thôi. Các câu hỏi trọng tâm: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Sau đây xin mời các học viên cùng tôi khám phá các bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý qua con mắt của các nhà Vật Lý học xem chúng thuộc lĩnh vực Duy Vật hay Duy Tâm
- 52 trả lời
-
20
-
Chào anh Thiên Sứ! Tôi cũng chỉ dựa vào các đoạn sau đây của Sấm Trạng Trình để đưa ra một ứng cử "Thánh Nhân" mà thôi: "...Tiền sinh cha mẹ đà cách trở...", ý nói Thánh Nhân ra đời khi đất nước bị chia cắt làm đôi. "....may thay trong đoạn số 5 và số 6 người xưa đã cẩn mật để thêm một mốc nữa đánh dấu thời điểm thánh xuất: Câu "Ngẫm về sau họ Lý xưa nên" được nối tiếp ở đoạn sau: "Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn". Như vậy đã khá rõ khi ta đọc liền lại hai câu là nghìn năm sau họ Lý lại thấy mọi nơi vẹn toàn. Triều Lý khởi đầu năm 1010, khoảng nghìn năm sau là 2010,...". - Thiennhan trang 7 của chủ đề "Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng?" bên tuvilyso.net. ........................... "Năm 1963, một nhà Chiêm tinh Ấn Độ sang Việt Nam và đã nhìn thấy ma khí trong dinh Độc Lập, sau ngày chính biến 11 - 1963, ký giả Phan Nghị trên báo Ngôn Luận đã tường thuật cuộc phỏng vấn bị kiểm duyệt trước đó, bài tường thuật có 2 điểm rất đáng chú ý: Một là nước Việt Nam có nhiều cơ hội để thống nhất, hai là ông (Chiêm tinh gia Ấn) nhìn thấy một vì sao rất sáng trên vòm trời Khảm phương nước Việt, báo hiệu sự giáng thế của một đại nhân.".- Thiennhan trong chủ đề "Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng?" bên tuvilyso.net. Do vậy nếu kết hợp 3 câu trên thì khả năng Thánh Nhân phải sinh sau năm 1954 và trước năm 1963 cũng như xuất hiện vào năm 2010 là cao nhất (vì Sấm đã xuất hiện được 500 năm rồi còn gì mà phải nghi ngờ - Trạng Trình sinh năm 1491 mất năm 1585). Theo tôi nghĩ nếu một ai đã đưa ra một ứng cử viên "Thánh Nhân" nào đó thì tối thiểu họ phải đưa ra Tứ Trụ của người đó (chưa kể tới phải có ít nhiều thông tin về tiểu sử) nhưng hình như những điều này đối với họ là không có giá trị mà họ lấy tiêu chuẩn phải có đủ "3 Ðời Nghèo Khổ" mới có giá trị thì phải. Nếu đúng như vậy thì theo tôi cứ truy tìm những người có 9 đến 10 đời nghèo khổ thì trúng phóc họ là "Thánh Nhân" luôn cho mà xem khỏi phải Dự với trả Ðoán nữa. Thân chào.
-
Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần Không chỉ những người mới nhập môn Tử Bình mà cho đến cả với nhiều cao thủ Tử Bình đầu đã hai thứ tóc với thâm niên nghiên cứu tới ba, bốn chục năm vẫn thấy khâu xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của môn Tử Bình là một thách đố hơn nghìn năm qua. Tôi có duyên may là tìm ra được phương pháp xác định này, nó đã giải quyết được vấn nạn nghìn năm nay của môn Tử Bình. Bởi vì bất cứ một ai đọc xong Hai Tuần đầu tiên trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi (tức 14 ngày) sẽ xác định được Thân vượng hay nhược và dụng thần (có thể nói hơi quá là gần tới trình độ của cụ Thiệu) chính xác tới 90% (trừ ngoại cách vì tôi chưa có nhiều ví dụ loại này để nghiên cứu). Trước khi trình bầy phương pháp này tôi tóm tắt nội dung của cuốn sách. Nội dung cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" được chia thành 2 phần, phần chính được chia ra thành 7 mục được gọi là "Bẩy Tuần" và phần thứ 2 là phần phụ, được gọi là "Phần Mở Rộng". Tuần thứ nhất nói về các kiến thức cơ bản của môn Tử Bình (từ trang 12 tới trang 78). Tuần thứ hai nói về Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần cũng như Phương Pháp tính điểm hạn (có 309 giả thiết nhưng chưa được coi là 309 quy tắc để tính điểm hạn bởi vì tôi chưa có đủ ví dụ để kiểm tra chúng), các cách giải hạn... (từ trang 79 tới trang 185). Tuần thứ ba đến Tuần thứ bẩy gồm 136 ví dụ mẫu (từ trang 186 đến trang 494) (thêm 11 ví dụ ở Phần Mở Rộng). Phần Mở Rộng gồm có: Lý thuyết về phát tài và phát quan cùng với 20 ví dụ mẫu. Lý thuyết về khắc người phối hôn (khắc vợ khắc chồng), con cái khắc cha mẹ và cha mẹ khắc con cái (có 38 giả thiết và 45 ví dụ). Một số mục thêm như Phong Thủy, Những điều cần biết về Vũ Trụ học, Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương, Tính Tất định và Bất định trong Tử Bình... Tóm lại chỉ có khoảng 200 trang lý thuyết quan trọng còn lại là 216 ví dụ mẫu. Nói một cách chính xác là từ các ví dụ đã xẩy ra trong thực tế tôi đã tìm ra Phương Pháp xác định Thân vương hay nhực, dụng thần và Phương Pháp tính điểm hạn của cuốn sách này. Nói một cách khác là tôi đã "Đi tìm Giày cho vừa chân" ngược với câu "Gọt chân cho vừa Giày". Xin bạn đọc xem nội dung của chủ đề này trong mục Tử Bình bên trang web "Huyền Không Lý Số". Nhân tiện tôi xin giới thiệu với bạn đọc, tôi đã nhận lời mời của anh Apollo làm giảng viên chính cho 2 khóa học Sơ Cấp và Trung Cấp về Tử Bình - Tứ Trụ bên trang web "Nhân Trắc Học" (học miễn phí), bắt đầu khai giảng ngày 27/4/2011. "Lớp sơ cấp Tứ Trụ" chính là nội dung "Tuần Thứ Nhất" và "Lớp trung cấp Tứ Trụ" chính là nội dung "Tuần Thứ Hai" của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ", trong đó "Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần" chiếm 50% nội dung của "Tuần Thứ Hai". Thân chào.
-
Sau đây là phương pháp xác định Thân vượng hay nhược TUẦN THỨ HAI Chương 9 : Thân và vùng tâm I – Thân và vùng tâm 1 - Thân Hành và vị trí của can ngày được gọi là Nhật Chủ hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ này. Can ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng của bảng sinh vượng tử tuyệt nhưng Nhật Chủ hay Thân lại có điểm vượng của hành của can ngày ở vùng tâm. 2 - Vùng tâm và vùng ngoài Sơ đồ 1 (chỉ để min họa): Qua sơ đồ này ta thấy can ngày là Kỷ mang hành Thổ nên Nhật Chủ hay Thân của người có tứ trụ này là Thổ. Muốn xem Thân của tứ trụ này là vượng hay nhược (tức là ta phải xem hành Thổ của tứ trụ ở tại vị trí của can ngày là vượng hay nhược so với 4 hành còn lại là Kim, Thủy, Mộc và Hỏa) thì đầu tiên ta phải xem trong tứ trụ này có nhiều can chi mang hành Thổ và chúng có được lệnh hay không cũng như các can chi khác sinh hay khắc với can chi mang hành Thổ này là mạnh hay yếu.... . Sau đó ta phải xét xem độ vượng còn lại của các can chi Thổ này giúp đỡ Nhật Can được nhiều hay ít, dĩ nhiên sự giúp đỡ này phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần của chúng với Nhật Can. Hoàn toàn tương tự khi ta xét độ vượng còn lại của các can chi của các hành khác tác động đến Nhật Can mạnh hay yếu cũng phụ thuộc vào khoảng cách của chúng với Nhật Can như vậy. Cuối cùng ta phải xác định được một vùng mà độ vượng còn lại của các can chi này tác động tới Nhật Can không còn phụ thuộc vào khoảng cách - vùng đó được gọi là Vùng Tâm. Trong vùng tâm ta chỉ việc cộng độ vượng của tất cả các can chi cùng hành với nhau, sau đó ta so sánh Thân (độ vượng của hành của Nhật Can) với các hành khác xem nó là mạnh hay yếu (lớn hơn hay nhỏ hơn). Do vậy nếu ta lấy Nhật Can Kỷ làm tâm điểm thì thấy gần nó nhất có can tháng, can giờ và chi ngày. Ta gọi vùng tâm là vùng hình học phẳng phía trong của chữ V chứa can tháng Canh, can ngày Kỷ, can giờ Đinh và chi ngày Sửu, còn can Nhâm trụ năm và các chi Thân, Tuất và Mão là ở ngoài chữ V (tức ở bên ngoài của vùng tâm). Qua đây chúng ta thấy các can tàng trong các chi của tứ trụ, mặc dù chúng có điểm vượng theo trạng thái của chúng tại lệnh tháng, nhưng các điểm vượng này không được tính trong vùng tâm (mặc dù các thần hay các hành mà các can tàng này đại diện vẫn có trong tứ trụ). 3 - Các quy ước trên sơ đồ : a – Tại các góc của các hình chữ nhật trên là vị trí của các can và chi trong tứ trụ. b - Các can chi trong chữ V được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V được xem là ở vùng ngoài. c – Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả. d – Hai can chi bị coi là cách một ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi. e – Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 2 can chi. f – Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 3 can chi. 4 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp bị giảm ½ đv (điểm vượng) của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can hay chi cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can hay chi khác. b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c – Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì nó bị giảm 1/5v của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. d – Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. e – Nếu can chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. (Còn tiếp) __________________
-
Ờ thì tôi cũng chỉ có ý định đưa ra một ứng cử viên thôi chứ đâu đã khẳng định người đó phải là Thánh Nhân. Rất cám ơn nếu thienvietv cho biết qua tiểu sử và Tứ Trụ của người sinh năm Bính Ngọ mà theo bạn sẽ là ứng cử viên nặng ký hơn so với ứng củ viên sinh năm 1957 của tôi. Thân chào.
-
Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế Theo Kinh Thánh thì lịch sử loài người bị hủy diệt sau khi xuất hiện đủ 7 cường quốc. 7 cường quốc này ngày nay người ta đã xác định (?) như sau: 1 – Ê-díp-tô (thủ phủ chính là vùng Ägypt bây giờ) bắt đầu từ ? 2 – A-si-ri (…vùng Syri bây giờ) bắt đầu từ ? 3 – Ba-by-lôn (….vùng Irak bây giờ) bắt đầu từ 607 trước công nguyên (TCN) 4 – Mê-đi Phe-rơ-sơ (…vùng Iran bây giờ) bắt đầu từ 539 TCN 5 – Hy Lạp bắt đầu từ 331 TCN 6 - La-Mã (….vùng Itali bây giờ) bắt đầu từ 30 TCN 7 - Anh-Mỹ bắt đầu từ 1763 sau công nguyên. Nếu như các câu giải mã trên là đúng thì ngày nay chúng ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của cuốn Kinh Thánh. Ngày tận thế của thế giới được mô tả trong cuốn Kinh Thánh qua bức tượng trong giấc chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa (thuộc cường quốc Ba-by-ôn mặc dù ông ta không nhớ lại được giấc mơ đó) được nhà tiên tri Đa-ni-ên giải nghĩa cho chính ông vua đó như sau: “Hỡi vua, vua nhìn xem này có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường, nó đứng trước mặt vua và hình dạng dữ tợn. Đầu pho tượng bằng vàng ròng, ngực và cách tay bằng bạc, bụng và vế bằng đồng, ống chân bằng sắt và bàn chân thì một phần bằng sắt còn một phần bằng đất sét. Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải tay đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát. Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, vàng đều cùng nhau tan nát cả, trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió lùa đi, chẳng tìm nơi nào cho chúng nó, nhưng hòn đã đập vào pho tượng thì hóa ra một hòn núi lớn và đầy khắp đất“: - Đa-ni-ên 2:31-35. Và Đê-ni-ên đã giải thích…..Tóm tắt thì ngày nay chúng ta hiểu như sau: cường Cái đầu bằng vàng đại diện cho cường quốc của ông vua này (thuộc cường quốc Ba-by-lôn). Phần bạc đại diện cho cường quốc Mê-đi Phe-rơ-sơ. Phần đồng cho cường quốc Hy Lạp. Phần sắt cho cường quốc La Mã và phần sắt lẫn đất sét cho cường quốc Anh Mỹ. Đa-ni-ên giải thích tiếp cho vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia, nhưng trong nước đó có sức mạnh của sắt, theo như vua thấy sắt lộn với đất sét. Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét , nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng lộn với nhau bởi giống loài người, song không dính liền nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét“. – Đa-ni-ên 2:41-43. Điều này cho chúng ta thấy vào thời kỳ cuối cùng này thế giới bị phân chia ra thành các nước có các thể chế chính trị khác nhau và luôn luôn muốn thôn tính nhau….. như ngày nay. Còn hòn đá đập vào chân bức tượng làm cho bức tượng vỡ tan tành thì theo tôi hiểu đơn giản là đó là sự va chạm giữa thiên thạch với trái đất dẫn đến ngày tận thế của thế giới mà Kinh Thánh gọi là trận chiến Ha-ma-ghê-đôn của Đức chúa trời để lập lên một thiên đường trên trái đất chỉ cho những người tôn thờ chúa. Vậy thì khi nào trận chiến này sẽ xẩy ra. Trong các trang của Kinh Thánh còn lại mà các sự kiện chưa thấy xuất hiện trên thế giới có câu đáng chú ý là: “Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối, người sẽ giận lắm mà đi đến để tàn phá và hủy diệt nhiều người. Người sẽ đặt các trại của cung mình ở khoảng giữa biển cùng núi vinh hiển và thánh. Song người sẽ đến sự cuối cùng mình, và chẳng có ai đến giúp đỡ người cả“. – Đa-ni-ên 11:44,45. (Nói chung giải mã các câu trong Kinh Thánh cũng như các câu trong sấm Trạng Trình là giống nhau đều tùy theo ý của người giải, chỉ có khác là các bản Kinh Thánh gốc cách đây trên 2000 năm đã được tìm thấy gần đây khi so với các bản ngày nay thì các ý chính hầu như không thay đổi còn sấm Trạng Trình của ta thì chưa tìm được bản gốc hoặc gần gốc và dĩ nhiên người ta sẽ đặt ra câu hỏi nếu không có Mô Li Phê bản gốc đi để nhằm ý đồ gì đó thì cần gì phải cất dấu các bản gốc kỹ đến như vậy). Vào thời Đa-ni-ên thì “biển“ là Địa Trung Hải và “núi“ thánh là Si-ôn từng là nơi có đền thờ của Đức Chúa Trời (thuộc đất Israel bây giờ). Còn “Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối…“ là những tin tức gì và “người“ ở đây là ai? Các câu có liên quan: Đức Chúa Trời nói với Sa-tan “Ta sẽ…đặt những móc trong hàm ngươi, khiến ngươi ra“ và “Ta sẽ …khiến ngươi đến từ phía cực bắc, và đem ngươi lên trên các núi của Y-sơ-ra-ên“. –Ê-xê-chi-ên 38:4;39:2. Ở đây tôi chỉ mang máng hình dung ra các sự kiện chính có thể xẩy ra như sau: Càng ngày Nga và Trung Quốc sẽ quan tâm hơn nữa tới Iran (bởi vì họ thấy TT. Obama quá hiền mà), bằng cách bán cho Iran nhiều hệ thống tên lửa hịên đại để Iran “phòng thủ“ trước sự đe dọa của Mỹ và phương tây. Trong khi Iran tuyên bố không chế tạo vũ khí hạt nhân nhưng lại tuyên bố “xóa sổ Israel trên bản đồ thế giới“ mà rõ ràng Iran biết Israel đã có vũ khí hạt nhân từ lâu rồi. Chiến tranh giữa Israel và Iral sẽ xẩy ra và dĩ nhiên Mỹ sẽ nhảy vào giúp Israel, sự hủy diệt ở Iral là có thể và khi đó Putin sẽ bị móc sắt lôi ra từ phía cực bắc và Trung Quốc từ phương Đông quyết định cứu Iral (đã có ý đồ tuyên chiến với Mỹ từ lâu rồi). Thế là đại chiến 3 nổ ra đã hủy diệt loài người. Dĩ nhiên ở dưới nghĩa địa thì mới có Thiên Đường của Đức Chúa Trời cho những ai tôn thờ chúa và địa ngục cho những người còn lại. Vì vậy nguyên nhân tận thế của thế giới có thể không phải do sự va chạm của thiên thạch với trái đất mà là vũ khí hạt nhân. Tôi phải nói các điều này ra chỉ hy vọng Thiên Cơ đã bị lộ thì hiện tượng sẽ không xẩy ra như vậy nữa (nếu nó đúng là Thiên Cơ) bởi vì con người khi đã biết trước nó thì họ sẽ biết phải làm gì có lợi cho chính bản thân họ, nếu không chả nhẽ họ toàn là những người đánh bom “liều chết“ như các chiến binh của Binladen hay sao? Hy vọng có ai dịch giúp bài viết này ra tiếng Anh để gửi tới tất cả các trang web trên thế giới, nếu không e rằng sẽ quá muộn.
-
KHOA HỌC - VnExpress Thứ ba, 28/9/2010, 09:18 GMT+7 E-mail Bản In Cựu sĩ quan Mỹ tiết lộ bí mật về đĩa bay Khi đại úy Robert Salas trực chiến trong căn cứ của không quân Mỹ tại Malmstrom vào năm 1967, đột nhiên một vật thể lạ xuất hiện trên bầu trời và hệ thống điều khiển các tên lửa đột ngột ngừng hoạt động. Đại úy Robert Salas trong cuộc họp báo tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia Mỹ ở thủ đô Washington. Ảnh: NECN. Fox News cho biết, 6 cựu sĩ quan không quân Mỹ tiết lộ những bí mật về UFO trong một cuộc họp báo tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia ở thủ đô Washington, Mỹ hôm qua. Những câu chuyện của họ đều xoay quanh chuyện các vật thể bay không xác định (UFO) xuất hiện tại các căn cứ quân sự có vũ khí hạt nhân. Mục đích của 6 cựu quân nhân là gây sức ép để chính phủ thừa nhận những chuyến viếng thăm của sinh vật ngoài địa cầu. Theo lời kể của các cựu quân nhân, vật thể bay xuất hiện trong một số căn cứ quân sự có vũ khí hạt nhân của Mỹ từ năm 1948. Lần xuất hiện gần đây nhất của chúng xảy ra vào năm 2003. Trong một số trường hợp các tên lửa hạt nhân đột nhiên không thể vận hành ngay sau khi UFO xuất hiện. Đại úy Robert Salas, một trong 6 cựu quân nhân tham gia cuộc họp báo, kể rằng ông từng nhìn thấy một UFO khi đang theo dõi những quả tên lửa mang đầu đạn hạt nhân trong căn cứ không quân Malmstrom ở bang Montana vào ngày 16/3/1967. “Tôi đang theo dõi hệ thống điều khiển tên lửa hạt nhân thì một vật thể bay hiện ra ở ngay phía trên căn cứ. Ngay lập tức toàn bộ hệ thống điều khiển ngừng hoạt động. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra tại một căn cứ khác trong tuần sau đó”, Salas kể. Một tên lửa mang đầu đạn hạt nhân trong căn cứ không quân Malmstrom tại bang Montana, Mỹ. Ảnh: AP. Bruce Fenstermacher, một cựu quân nhân thuộc không lực Mỹ, kể ông từng thấy một UFO hình tẩu xì gà bay phía trên một căn cứu quân sự có vũ khí hạt nhân tại bang Wyoming vào năm 1976. Theo MSNBC, các cựu quân nhân khác khẳng định họ chứng kiến hoạt động của UFO tại Anh. Đại tá Charles Halt, một trong những người đó, kể rằng ông nhìn thấy nhiều tia sáng lạ phía trên khu rừng bao quanh căn cứ không quân Bentwaters gần thành phố Ipswich, Anh cách đây 30 năm. Vài tuần sau người ta lại nhìn thấy những tia sáng như thế ở phía trên khu rừng. Khi Halt cùng vài cảnh sát tới gần các tia sáng, họ nhìn thấy một vật thể có hình dạng giống mắt người. "Tôi không biết nó là cái gì, song chắc chắn nó được điều khiển bởi sinh vật có trí tuệ. Theo giả thuyết của tôi thì nó tới từ một nơi ngoài trái đất", Halt nói. Halt nhận định rằng các cơ quan an ninh của cả Mỹ và Anh đã và đang cố gắng che giấu mức độ nghiêm trọng của sự việc từng xảy ra tại căn cứ Bentwaters. Robert Hastings, một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về UFO, đã gặp hơn 120 cựu quân nhân từng nhìn thấy UFO. Dựa trên những thông tin mà họ cung cấp, ông xuất bản cuốn sách "UFOs and Nukes: Extraordinary Encounters at Nuclear Weapons Sites” (tạm dịch là UFO và vũ khí hạt nhân: Những cuộc chạm trán kỳ lạ tại các căn cứ quân sự có vũ khí hạt nhân”). Minh Long ........................................... Phải chăng trong mấy chục năm qua Họ (những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất) đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho sự "thăm viếng" của 3 phi thuyền khổng lồ này hạ cách xuống trái đất của chúng ta được "an toàn" ?
-
Ứng dụng "Phương Pháp tính Điểm Hạn" cho một ví dụ trong thực tế Đây là bài viết của tôi trong chủ đề "Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp" ở mục Trao Đổi về Tử Bình bên Lý Số Việt Nam. brightfuture101281 đã viết: VULONG đã viết: "Đã là Cách Thuỷ độc vượng thì nó là ngoại cách cho nên dụng thần phải lấy theo ngoại cách. Bạn vào đọc phần "Cách cục đặc biệt" trang 382 trong cuốn "Dự Đoán Theo Tứ Trụ" của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa tái bản năm 2002 gì đó thì sẽ rõ. Các sách Tử Bình tiếng Việt khác có tới 3; 4 cuốn ở trong các thư viện của tuvilyso.net, Huyền Không Lý Số,....bạn cứ vào mà đọc thoải mái, miễn phí ấy mà. Thân chào." Chào anh VULONG, em đọc có cuốn tứ trụ của cụ thiệu, thì có nói Thủy Độc Vượng thì dụng thần là thủy , vậy dụng thần hỏa bây giờ để làm gì vậy anh!?!?! Hơn nữa nếu giờ chuyển thành Thuy độc vượng vậy thì đoán hạn như thế nào anh VULONG, năm nay 2 mão hình 1 tý thì chủ về vô lễ mà mang họa , điều đó nói lên điều gì không anh!?!?! nếu thủy độc vượng mà chọ dụng thần là Quý thủy thì Kiếp vào hạn tài thì là bại vận rồi , sao anh nói là tốt đẹp em cũng không hiểu rõ lắm, mong anh VULONG giải đáp giùm em những thắc mắc trên!?!?! Cám ơn anh, Trân trọng" Tôi đã nói rõ là tới tháng 11/2012 mới bắt đầu đại vận Bính Thân. Nếu là cách Thuỷ độc vượng thì dĩ nhiên dụng thần từ Hoả chuyển thành Thuỷ rồi còn đâu là Hoả nữa cơ chứ. Sau đây tôi sẽ giải chi tiết tai hoạ năm Tân Mão (2011) : Sơ đồ tính điểm hạn năm Tân Mão: Năm Tân Mão (2011) thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Quý Dậu và Nhâm Thân. Ta xét tiểu vận Quý Dậu. 1 - Tứ trụ này có Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn nhiều (có 3 can-chi) vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Đinh tàng trong Tuất trụ ngày. 2 - Trong Tứ Trụ có Mão hợp với Tuất không hóa. Vào năm Tân Mão có Nhâm hợp với Đinh đại vận không hóa. Dậu đại vận xung Mão trụ giờ và Mão thái tuế phá tan lục hợp của 2 Mão với Tuất trụ ngày. Đại vận và lưu niên thiên khắc địa khắc với nhau có 0,75 đh (vì Đinh chỉ vượng ở đại vận). Trụ giờ và đại vận thiên khắc địa xung với nhau có 0,5 đh (vì Quý vượng ở lưu niên). Có 3 trụ thiên khắc địa xung với nhau có thêm 0,1 đh. 3 - Dụng thần Đinh tử tuyệt ở lệnh tháng có 0,5 đh và nhược ở lưu niên có 0 đh. 4 - Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1 đh. 5 - Nhâm trụ ngày được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận có -0,5 đh và khắc Đinh đại vận có 0,25 đh. Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận có -0,5 đh nhưng bị giảm 25% (bởi Nhâm khắc), vì vậy chỉ còn -0,38 đh. Dậu đại vận xung Mão thái tuế có 1,3 đh và xung Mão trụ giờ có 0,3 đh. Dậu trụ năm xung Mão thái tuế có 1,3 đh và xung Mão trụ giờ có 0,07 đh. Dậu tiểu vận xung Mão thái tuế có 1,3 đh. Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25 đh. Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13 đh. 6 - Dậu đại vận hại Tuất trụ ngày có 1 đh, tự hình Dậu trụ năm có 1 đh và Dậu tiểu vận có 0,25 đh (vì là lực thứ 3). Tý trụ tháng hình Mão thái tuế có 1 đh và Mão trụ giờ có 0,25 đh. 2 Mão bị Dậu đại vận khắc gần nên không có khả năng hình lại Tý trụ tháng. 7 - Nước biển có Nhâm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên khắc gỗ lựu trụ năm, đất trên tường trụ tháng có tổng cộng 1 đh và khắc gỗ tùng lưu niên có 0,25 đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,5 điểm khắc để khắc Đinh). Lửa dưới núi đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc đất trên tường trụ tháng có 0,75 đh. Tổng điểm hạn là 12,36. Ta thấy Dậu trụ năm khắc Mão thái tuế có 2G (điểm giảm) và Tý trụ tháng hình Mão thái tuế có 1G, vì vậy Dậu đại vận khắc Mão lưu niên mới có 2G và Mão trụ giờ có 1G. Dậu tiểu vận khắc Mão thái tuế có 1G. Tổng số có 7G. Số điểm này tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 7/12 và 2/3. Do vậy tổng điểm hạn còn lại là 12,38(5/12 + 1/3).1/2 đh = 4,64 đh. Số điểm này nếu chính xác và không tính đến các nguyên nhân tác động bên ngoài Tứ Trụ thì tai họa chỉ tới mức độ có thể phải cấp cứu. Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này là chủ yếu bởi các điểm hạn của Kim khắc Mộc, thiên khắc địa xung, nạp âm và Hình Hại, trong đó các điểm về Hình, Tự Hình và Hại là dễ giải cứu nhất (như nên sống ẩn dật ở một nơi an toàn, nhất là không nên tiếp xúc nhiều với con người trong xã hội…). Vì trong Tứ Trụ có Dậu xung thái tuế và Tý hình thái tuế nên tai họa dễ xẩy ra nhất vào tháng Đinh Dậu bởi vì nó thiên khắc địa xung với lưu niên, sau đó là tháng Tý (vì điểm hạn ở tiểu vận Nhâm Thân cũng khoảng 4,64) - (chú ý ngày tháng ở đây là dương dịch). Nói chung nếu giải cứu tốt thì chỉ cần giảm được 1 đh của Hình, Tự Hình và Hại là tổng điểm hạn chỉ còn 4,25 . Với số điểm này thì nó không thể gây ra tai họa nào cả. Nếu theo các sách cổ kim về Tử Bình (trừ sách của cụ Thiệu) thì các tác giả (như Đoàn Kiến Nghiệp, Thẩm Triều Hợp..... ) thường luận thêm Quý trụ ngày khắc Đinh đại vận cũng như Đinh đại vận khắc được Tân lưu niên, Tân trụ năm và Canh trụ tháng (vì họ cho rằng can-chi trong tổ hợp vẫn xung khắc được với các can-chi bên ngoài và ngược lại) cũng như Mão thái tuế và Mão trụ giờ sẽ hình được Tý trụ tháng... Dĩ nhiên sẽ tới 99% các cao thủ Tử Bình sẽ đoán là năm Tân Mão người này khó thoát được lưỡi hái của tử thần bởi vì họ không biết đến khái niệm "Tổng điểm hạn được giảm". Qua ví dụ này bạn đọc thấy một tai họa xẩy ra không thể chỉ do bởi 1 hoặc 2 nguyên nhân như các cao thủ Tử Bình cổ kim vẫn thường luận. __________________
-
"Bát Tự Khẩu Ứng" của Thẩm Triều Hợp được dịch bởi Phieu Dieu trong mục Từ Bình bên Huyền Không Lý Số. com . Ví dụ 6. Đặc tính tòng tài cách Càn tạo. Dân quốc năm thứ 56 (năm 1967) ngày 10/6 giờ dần. Bát tự: Đinh mùi đinh mùi nhâm ngọ nhâm dần Đại vận : Bính ngọ (4)/ ất tị (14)/ giáp thìn (24)/ quý mão (34)/ nhâm dần (44)/ tân sửu (54) Khẩu ứng diễn ra tại phía nam tỉnh Quảng Đông, Ngô tiểu thư quan tâm đến ca ca của cô ta, hỏi về sự nghiệp, sức khỏe, hôn nhân của ca ca. Lúc này Ngô tiên sinh 31 tuổi (năm đinh sửu) đã kết hôn. - “Mệnh cục lệnh huynh nguyên thần cực nhược, nguyên mệnh thuộc nhâm thủy, sanh vào tháng mùi nhâm thủy đã quá khô, năm tháng tài tinh lộ ra, thuộc bát tự “Chánh tài cách” tài đa thân nhược, thân nhược ắt không thể đảm nhận tài, thái độ đối với mọi sự lười biếng, không tích cực. Xét vận đã qua, năm nhâm thân 26 tuổi, năm quý dậu 27 tuổi, năm ất hợi 29 tuổi đều là những năm không kém, sự nghiệp phát triển khá thuận lợi, năm giáp tuất 28 tuổi do địa chi lưu niên tuất cùng chi năm, chi tháng mùi tương hình, sanh ra nhiều trở ngại, thất bại, thân thể gặp nhiều thương tích, bệnh tật. Năm đinh sửu 31 tuổi, sửu mùi xung, ngũ hành cách cục phùng xung, dễ bị té ngã, có đổ máu” (Đường lão sư thuyết mệnh cục là tài đa thân nhược). - Ngô tiểu thư hỏi: Những năm sắp tới sự nghiệp có tiến triển, gia huynh theo nghề nghiệp gì thích hợp? Về sau tài vận có chuyển biến tốt không? - “Bát tự mệnh cục của lệnh huynh, có thể không luận chánh cách mà có thể luận tòng tài cách, nguyên thần cực nhược. Lệnh tháng chánh quan đại biểu đám đông nhiều người, nhật nguyên nhâm thủy vô căn, gần như tòng tài cách, tòng cách chính là đi theo người khác, cho nên tốt nhất làm nghề phục vụ, làm công ăn lương đếu rất thích hợp, không nên tự mình làm chủ, không thể tự mình lập nghiệp. Nếu làm chủ dễ dàng phá sản. Về phương diện hành vận, nguyên nhân đại vận nhâm quý thủy hỉ thần thiên can hư phù (vận quý mão, nhâm dần), cho nên hành vận không như ý, muốn gặp vận tốt, có thể phải đợi thật lâu” (Đường lão sư thuyết). - Ngô tiểu thư: Gia huynh cùng tẩu tẩu tình cảm vợ chồng có bách niên giai lão không? - “Thê cung tọa chánh tài, phải biết vợ rất đẹp, tình cảm rất tốt. Nhưng sự nghiệp người vợ không nổi bật. Tình cảm vợ chồng tại năm bính tý không tốt, hay cãi nhau, nguyên nhân là trụ ngày cùng lưu niên can chi bính tý thiên khắc địa xung” (Đường lão sư thuyết). - Ngô tiểu thư hỏi: Cuối cùng xin hỏi lão sư, huynh đệ tỉ muội tôi có trợ giúp cho ca ca hay không? Gia huynh nên bố trí nhà cửa như thế nào để tốt hơn? - “Nhật nguyên cực nhược, tỉ kiếp là hỉ dụng thần, huynh đệ tỉ muội trợ giúp nhiều, nhưng ngược lại bạn bè không trợ giúp gì, thậm chí còn tốn tiền. Về phương hướng phong thủy nhà cửa cũng không quan trọng. Mệnh vận tuy là cố định, nhưng chúng ta không nên bị vận mệnh bó buộc, phải biết ứng dụng thành thạo dương trạch bổ túc, về phương diện tâm lý, nhất định cần bồi dưỡng tri mệnh, thuận theo thiên mệnh, nếu không sẽ bị kích động nghiêm trọng, tinh thần rất dễ dàng bị sụp đỗ” (Đường lão sư thuyết). Xem phần Đường lão sư luận, khiến chúng ta phải xem lại mệnh cục Ngô tiên sinh. Nhật nguyên nhâm thủy sanh tháng mùi, sau tiết tiểu thử 10 ngày, kỷ thổ nắm lệnh, ất mộc đương quyền, nhật nguyên tọa ngọ hỏa tài tinh. Giờ phùng dần mộc, thủy lâm tuyệt địa, chi năm mùi thổ cùng lệnh tháng đồng khí. Năm tháng hai tụ tài tinh song thấu, chỉ có trụ giờ thiên can nhâm thuỷ trợ nhật nguyên, nhưng nhâm thủy vô khí tại địa chi là “Thiên phúc địa không tái”, tượng nhật nguyên nhâm thủy cực khô kiệt. Nhật nguyên nhâm thủy khô kiệt, cực nhược. Nhật nguyên sanh vào lúc ất mộc đương quyền thì đinh nhâm hợp có hóa mộc hay không? Theo Tích Thiên Tủy viết: Luận hóa khí cách nhất định cần hóa thần thừa vượng nắm lệnh hoặc hóa thần thành phương thành cục. Nhật can khí thế suy kiệt, Mệnh cục thiên can đinh nhâm hợp hóa mộc, sanh vào tháng mùi cũng không phải xuân lệnh, địa chi cũng không có hợi mão mùi tam hợp mộc cục hoặc dần mão thìn tam hội mộc phương. Thiên can 2 đinh tranh hợp 2 nhâm. Cho nên tuy nhật can khí thế suy kiệt cũng không có khả năng thành “Hóa khí cách”. Vậy thì luận theo cách cục phổ thông “Chánh tài cách” tài đa thân nhược hay là cách cục đặc biệt “Tòng tài cách”? Theo Tích Thiên Tủy: “Tòng đắc chân giả chích luận tòng. Tòng thần lại có cát cùng hung”. Về tòng, cần phân biệt can dương can âm. Can dương tòng khí không tòng thế, can âm tòng thế vô nghĩa tình. Nhật nguyên can dương lâm tuyệt địa, cô lập vô khí, không có ấn sanh phù, lại có khắc tiết, mà có thần lâm trường sanh lộc vượng, ắt can dương dễ dàng luận tòng theo thần đó. Can âm nếu không có ấn thụ sanh phù, tuy không có thần nắm lệnh, chỉ thành phương thành cục, kỳ thế cực lớn, ắt can âm dễ dàng luận tòng. Mệnh cục Ngô tiên sinh, địa chi ngọ mùi hợp hóa hỏa, dần ngọ bán hợp hỏa, can năm can tháng đinh hỏa dẫn thấu, đinh hỏa thông căn lệnh tháng mùi thổ. Tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng vi quý”. Đinh hỏa chánh tài tinh thâm căn cố đế. Tứ trụ không thấy ấn tinh kim sanh phù nhật nguyên, cho nên mệnh cục Ngô tiên sinh thật phù hợp luận “Tòng tài cách”. Luận “Tòng tài cách” cùng với “Chánh tài cách” tài đa thân nhược làm sao luận giống nhau, khác nhau như thế nào đây? Theo lý tòng tài cách kỵ gặp vận tỉ kiếp ấn thụ sanh phù; mừng gặp vận thực thương, tài vận. Tài đa thân nhược lại mừng gặp vận ti kiếp ấn thụ sanh phù; kỵ gặp vận thực thương tài sát. Đặc biệt thích gặp vận tỉ, kiếp. Vì vậy dụng thần sẽ có nhiều khác biệt. Ta (Thẩm Triều Hợp) nhận định bát tự này thuộc “Tòng cách”, bất luận tòng cường hay tòng nhược đều thuộc loại mệnh thiên khô, cũng chính là trong mệnh cục ngũ hành mộc, hỏa, thổ, kim, thủy trong đó có 1 hành đặc biệt cường vượng mới thành tòng cách. Nếu trong mệnh cục có 1 hành đặc biệt vượng thì các hành khác tất nhiên sẽ có khuyết tổn, như vậy nhất định là trái với đạo lý “Bát tự lấy trung hóa là quý”, mà thành tượng thiên khô. Theo Tích Thiên Tủy: “Đạo có thể dụng, không thể luận phiến diện, quan trọng cần phù cần ức. Nhân sinh có tinh thần, không thể thiên lệch, cần tổn đắc tổn cần ích đắc ích”. Chính là nhấn mạnh tầm quan trọng của trung hòa trong bát tự. Cho nên về lý “tòng cách” cũng cần phải cân bằng trung hòa ngũ hành mệnh cục. Ví như về lý tòng tài cách cũng mừng được tỉ kiếp ấn thụ bang phù, vậy thì vì sao gặp vận tỉ kiếp, ấn thụ tại sao lại hung? Đáp án không ngoài mệnh cục bị phạm điều cấm kỵ “Vượng thần xung suy, suy thần xung vượng, vượng thần phát”. Can chi gàn dỡ, hỗn loạn. Mà bát tự tài đa thân nhược, nhật chủ vốn đã có căn cơ, đến tỉ kiếp ấn địa, can chi dễ dàng thuận toại mà tinh túy cô đọng, cho nên phùng tỉ kiếp ấn thụ mà phát phúc. Vậy thật sự trong luận mệnh, tòng cách rốt cục có đặc thù gì? Chính là đặc tính “Tòng thần” được phát huy đến mức tột đỉnh. Ví như tòng tài cách, đặc tính tài tinh biểu hiện đặc biệt xuất sắc nổi bật, nhưng tài tinh xuất sắc nổi bật không có nghĩa là những việc khác đều đẹp, tốt như ý. Trong quá trình nghiên cứu mệnh lý, những ví dụ cổ về tòng tài cách đến vận thực thương, tài địa, tức “Thành vi cự phú, an phú tôn vinh” mà không đề cập đến chuyện hung họa. Cho nên chúng ta nghiên cứu mệnh lý không được để sách cổ làm ngộ nhận. Căn cứ vào những điểm phân tích cách cục (sự thật chỉ là thiển kiến của bút giả, không biết các đọc giả có đồng cảm hay không?) Ngô tiên sinh thì luận là tòng tài cách, ắt đặc tính tài tinh đặc biệt xuất sắc nổi bậc. Cá tính Ngô tiên sinh hướng ngoại mạnh, quan hệ bên ngoài rất tốt, khảng khái hào sảng, tiêu tiền hào phóng, giao tế rất tốt, thích kiếm tiền để du hí, thường là bôn ba vì sự nghiệp mà quên cuộc sống gia đình. Tình cảm với nữ nhân rất tốt, khó tránh dễ bị dính vào sắc dục, thái độ làm việc tích cực, sẽ không làm biếng, nhưng dễ thay đổi, đầu hổ đuôi rắn. Uyên Hải tử bình viết: “Tài đa phục hành tài vượng chi hương, tất thứ xuất minh linh, khắc phụ mẫu” lại viết: “Khí mệnh tòng tài, chủ kỳ nhân bình sanh cụ nội, vi điền phòng chuế chi nhân, tài đa thê dã, thân vô sở thác, ỷ thê thành lập”. Phụ thân tài vận không tốt, mệnh bạch thủ thành gia, mẫu thân nhiều bệnh. Vợ cá tính quật cường, trong nhà nắm quyền, giao tế không tốt, cùng Ngô tiên sinh cá tính trái ngược, cho nên tình cảm vợ chồng khó hòa hợp, đối với vợ đặc biệt ”tôn trọng”, nhưng bản tính ở bên ngoài “Chỉ thích không yêu vợ”. Huynh đệ tỉ muội tuy có ý giúp đỡ Ngô tiên sinh, nhưng lực bất tòng tâm, bên ngoài càng ít bạn bè. Năm nhâm thân, quý dậu nghề nghiệp dễ có biến động, làm việc bảo thủ, nên trưởng bối hoặc bạn bè tương trợ, nhưng dễ có tài bất nghĩa. Năm giáp tuất nhiều bệnh tật không nghi ngờ. Năm ất hợi có khác, bên ngoài tốt bên trong xấu. Năm bính tý vợ chồng bất hòa. Đinh sửu dễ có họa đào hoa. Sức khỏe dễ có bệnh thận, bí hệ thống tiết niệu. Về ứng dụng dương trạch bổ trợ bát tự mệnh cục không đủ, ta tán đồng Đường lão sư, bát tự tòng tài cách (hoặc tài đa thân nhược), bí quyết cải biến mệnh vận tốt nhất là “tu thân dưỡng tính”. PhieuDieu __________________ “Ví dụ 6. Đặc tính tòng tài cách Càn tạo. Dân quốc năm thứ 56 (năm 1967) ngày 10/6 giờ dần. Bát tự: Đinh mùi đinh mùi nhâm ngọ nhâm dần Đại vận : Bính ngọ (4)/ ất tị (14)/ giáp thìn (24)/ quý mão (34)/ nhâm dần (44)/ tân sửu (54)“ Đường lão sư luận như sau : - “Bát tự mệnh cục của lệnh huynh, có thể không luận chánh cách mà có thể luận tòng tài cách, nguyên thần cực nhược. Lệnh tháng chánh quan đại biểu đám đông nhiều người, nhật nguyên nhâm thủy vô căn, gần như tòng tài cách, tòng cách chính là đi theo người khác, cho nên tốt nhất làm nghề phục vụ, làm công ăn lương đếu rất thích hợp, không nên tự mình làm chủ, không thể tự mình lập nghiệp. Nếu làm chủ dễ dàng phá sản. Về phương diện hành vận, nguyên nhân đại vận nhâm quý thủy hỉ thần thiên can hư phù (vận quý mão, nhâm dần), cho nên hành vận không như ý, muốn gặp vận tốt, có thể phải đợi thật lâu” (Đường lão sư thuyết). Ở đây Đường lão sư vẫn còn do dự không dám khẳng định Tứ Trụ này thuộc Tòng Tài cách nên mới nói "có thể không luận chánh cách mà có thể luận tòng tài cách" hay "gần như tòng tài cách". Đoạn sau Đường lão sư đã khẳng định "...đại vận nhâm quý thủy hỉ thần thiên can hư phù (vận quý mão, nhâm dần), cho nên hành vận không như ý,..." hay “Nhật nguyên cực nhược, tỉ kiếp là hỉ dụng thần“. Điều này chứng tỏ Đường lão sư xác định đại vận Nhâm, Quý Thủy… tỉ kiếp là hỷ dụng thần, nghĩa là Đường lão sư vẫn khẳng định Tứ Trụ này thuộc cách thông thường là Chính quan cách. Còn Thẩm Triều Hợp luận như sau: “Vậy thì luận theo cách cục phổ thông “Chánh tài cách” tài đa thân nhược hay là cách cục đặc biệt “Tòng tài cách”?“ ……..Mệnh cục Ngô tiên sinh, địa chi ngọ mùi hợp hóa hỏa, dần ngọ bán hợp hỏa, can năm can tháng đinh hỏa dẫn thấu, đinh hỏa thông căn lệnh tháng mùi thổ. Tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng vi quý”. Đinh hỏa chánh tài tinh thâm căn cố đế.“ Ở đây làm gì có " địa chi ngọ mùi hợp hóa hỏa", sách nào dậy như vậy ? Tôi chỉ biết có lục hợp của Mùi với Ngọ có thể hóa Thổ mà thôi. Hơn nữa Mùi nắm lệnh nên lực hợp của Mùi với Ngọ chắc chắn phải lớn hơn lực hợp của Mão với Ngọ (ở đây chưa kể tới lực trợ giúp của Mùi trụ năm với Ngọ) nên làm sao mà Mão có thể hợp được với Ngọ để hóa Hỏa, cũng như lục hợp của Mùi với Ngọ không thể hóa Thổ (vì ở đây làm gì có thần dẫn). Tác giả Thẩm Triều Hợp kết luận: “Tứ trụ không thấy ấn tinh kim sanh phù nhật nguyên, cho nên mệnh cục Ngô tiên sinh thật phù hợp luận “Tòng tài cách”. “ Tác giả chỉ nhắc đến “Tứ trụ không thấy ấn tinh kim sanh phù nhật nguyên,“ thế còn "…không có Tỷ Kiếp trợ Thân" nữa, sao tác giả không nhắc tới ở đây ? Phải chăng tác giả cũng phải dùng đến Tuyệt Chiêu "Gọt Chân cho vừa dầy" ? Bởi vì rõ ràng ở đây có Tỷ Kiếp là Nhâm ở trụ giờ (cho dù “Nhâm hư phù không gốc") vẫn được tính là có Tỷ Kiếp trợ Thân nên Tứ trụ này không thể là Tòng Tài cách được (và mặc dù Nhâm hưu tù nhưng không bị khắc gần hay trực tiếp nên Tứ Trụ này cũng không thể là "Cách bị ép buộc theo Tài" mà tôi đã "phát minh" ra gần đây). Tác giả đã nhắc lại định nghĩa/ tính chất của Cách cục phổ thông là Chính quan Cách và Cách cục đặc biệt (Ngoại Cách) là Tòng Tài cách theo Tử Bình truyền thống như sau: “Luận “Tòng tài cách” cùng với “Chánh tài cách” tài đa thân nhược làm sao luận giống nhau, khác nhau như thế nào đây? Theo lý tòng tài cách kỵ gặp vận tỉ kiếp ấn thụ sanh phù; mừng gặp vận thực thương, tài vận. Tài đa thân nhược lại mừng gặp vận ti kiếp ấn thụ sanh phù; kỵ gặp vận thực thương tài sát. Đặc biệt thích gặp vận tỉ, kiếp. Vì vậy dụng thần sẽ có nhiều khác biệt.“ Tác giả nhận định : “Ta (Thẩm Triều Hợp) nhận định bát tự này thuộc “Tòng cách”,… ……Theo Tích Thiên Tủy: “Đạo có thể dụng, không thể luận phiến diện, quan trọng cần phù cần ức. Nhân sinh có tinh thần, không thể thiên lệch, cần tổn đắc tổn cần ích đắc ích”. Chính là nhấn mạnh tầm quan trọng của trung hòa trong bát tự. Cho nên về lý “tòng cách” cũng cần phải cân bằng trung hòa ngũ hành mệnh cục. Ví như về lý tòng tài cách cũng mừng được tỉ kiếp ấn thụ bang phù, vậy thì vì sao gặp vận tỉ kiếp, ấn thụ tại sao lại hung?“. Ở đây tác giả đã “nhầm lẫn“ lấy định nghĩa/ tính chất của Chính Tài Cách chuyển sang cho Tòng Tài cách. Vì vậy mà Tác giả đã khẳng định : “Cho nên về lý “tòng cách” cũng cần phải cân bằng trung hòa ngũ hành mệnh cục.“ Tác giả suy luận tiếp : “…đến tỉ kiếp ấn địa, can chi dễ dàng thuận toại mà tinh túy cô đọng, cho nên phùng tỉ kiếp ấn thụ mà phát phúc.“ . Điều này chứng tỏ tác giả cho rằng Tỷ, Kiếp, Kiêu, Ấn là hỷ dụng thần của Tòng Tài cách, mặc dù phía trên tác giả cho rằng “Theo lý tòng tài cách kỵ gặp vận tỉ kiếp ấn thụ sanh phù; mừng gặp vận thực thương, tài vận.“. Vậy thì ở đây phải hiểu ra sao về Tòng Tài cách theo quan điểm của tác giả ? Chả nhẽ tác giả cho rằng với Tòng Tài Cách thì tỷ, kiếp, kiêu, ấn, thược, thương, tài, quan, sát đều là hỷ dụng thần cả hay sao ? Để kết thúc tác giả khuyên độc giả : “Cho nên chúng ta nghiên cứu mệnh lý không được để sách cổ làm ngộ nhận.“ (mà sao cũng kỳ thật đến giờ vẫn không thấy nhà "Thông Thái" nào phản đối Thẩm Triều Hợp dám khuyên mọi người như vậy, trong khi VULONG này mới tìm được một vài cái sai trong các sách Cổ Kim, tức “không được để sách cổ làm ngộ nhận“ thì họ lại giẫy nẩy lên như "Đỉa Phải Vôi" vậy). Có nghĩa tác giả muốn mọi người phải xác định hỷ dụng thần của Tòng Tài cách là “tỷ, kiếp, kiêu, ấn, thực, thương, tài, quan, sát“. Không biết tôi có phải bị "Tầu hỏa nhập ma" không mà sau một hồi vòng vo suy luận thấy tác giả khuyên mọi người không nên Ngộ Nhận theo sách Cổ mà nên theo suy luận của tác giả như vậy thì mới đúng hay sao đấy. Hy vọng có cao nhân nào giải cứu giúp tôi khỏi bùa mê này thì tôi xin cám ơn vô cùng.
-
khoahoc icon Khoa học » Bí ẩn thế giới Lời tự thú của nhân chứng UFO Roswell ( 4:10 PM | 17/02/2011 ) Sáng ngày 8/7/1947 dưới sự chỉ đạo của Tổng tư lệnh Căn cứ không quân Fort Worth, trung úy Walter Haut đã viết bản thông cáo báo chí làm chấn động dư luận thế giới: bắt được đĩa bay rơi ở Roswell. Vậy mà chưa đầy một ngày sau, thông cáo này đột nhiên bị tuyên bố “là một sự nhầm lẫn đáng tiếc”. >> Bí ẩn đĩa bay UFO và người ngoài hành tinh (kỳ 2) >> Hồ sơ nhân chứng đĩa bay UFO và người ngoài trái đất (Kỳ 1) >> Hồ sơ nhân chứng đĩa bay UFO và người ngoài trái đất (kỳ 2) >> Tổng thống Mỹ từng gặp đĩa bay UFO Có lẽ người ta sẽ mãi tin đó là nhầm lẫn thật, nếu như không có bản cam đoan tuyên thệ do Walter Haut để lại trước khi qua đời. Lời tự thú của nhân chứng UFO Roswell - Tin180.com (Ảnh 1) Walter Haut và Julie Shuster tại Viện bảo tàng UFO Quốc tế Walter Haut trút hơi thở cuối cùng vào mùa hè năm 2005 nhưng tới năm 2007, bản tuyên thệ mới được hé mở theo đúng lời dặn dò của ông trước lúc lâm chung. Với lời tuyên thệ nghiêm trang, Trung úy Walter Haut từng một thời phục vụ trong Căn cứ không quân Fort Worth hé lộ bí mật mà ông đã giấu cả đời: quả cầu khí tượng bằng nhôm và gỗ balsa – “thủ phạm” gây nên nhầm lẫn đáng tiếc trong sự kiện UFO rùm beng ở Roswell năm 1947 – thực chất chỉ là một che đậy bịa đặt của quân đội Mỹ. Thực chất, chiếc đĩa bay “nguyên gốc” trước đó đã được Lực lượng không quân Roswell thu hồi và cất giấu tại một kho chứa tuyệt mật. Và không chỉ thu lượm được đĩa bay, họ còn phát hiện cả thi thể người ngoài hành tinh. Và Walter Haut không phải nhân chứng duy nhất nói về sự xuất hiện của người ngoài hành tinh trong kỳ án Roswell năm nào. Lời tự thú của nhân chứng UFO Roswell - Tin180.com (Ảnh 2) Walter Haut và Glenn Dennis Glenn Dennis – người chuyên cung cấp dịch vụ tang lễ trong vùng – không biết bao lần đã kể câu chuyện: sau vụ chạm trán UFO năm 1947, một quan chức chính quyền đã liên tục tới tìm ông để đặt đóng liền mấy cỗ quan tài cỡ trẻ nhỏ. Khi Dennis tới Căn cứ quân sự giao hàng, một nữ y tá cho ông hay những chiếc hòm sẽ được dùng vào việc cất giấu thi thể sinh vật ngoài trái đất, hình dáng gần giống người nhưng kích thước nhỏ hơn. Nữ y tá này không lâu sau đã biến mất không để lại tung tích. Tuy nhiên chỉ có Haut là người duy nhất khẳng định đã tận mắt nhìn thấy người ngoài hành tinh. Lời tự thú của nhân chứng UFO Roswell - Tin180.com (Ảnh 3) Bức ảnh này được cung cấp bởi một người bí ẩn trong khi làn sóng quan tâm UFO đang dâng cao, không kèm theo bất kỳ chú thích gì Trong chúc thư của Haut có kể về cuộc hội đàm tuyệt mật giữa Đại tá William Blanchard – chỉ huy căn cứ quân sự và Tướng Roger Ramey, nguyên Tổng tư lệnh Lực lượng không quân số 8, trong đó ông là một trong số rất ít người trực tiếp tham dự. Họ đã truyền tay nhau mảnh vỡ đĩa bay thu lượm ở trang trại Foster ngoại ô Corona, New Mexico. Không ai “dám” có bất cứ bình luận gì về chất liệu làm nên mảnh vỡ. Theo giải thích của Haut, quân đội Mỹ buộc phải phát đi thông cáo báo chí vào sáng hôm 8/7 là vì câu chuyện “UFO rơi ở trang trại Foster” đã trở nên quá rùm beng, có muốn giấu dân địa phương cũng không nổi. Vả lại trang trại Foster cũng không phải là nơi duy nhất có mảnh vỡ đĩa bay rơi. Trên thực tế còn có một địa điểm khác quan trọng hơn nhiều, và để đánh lạc hướng sự chú ý của người dân, quan chức quân đội dự tính sẽ “hy sinh” việc tiết lộ địa điểm thứ nhất. Công việc xóa dấu vết không chỉ đơn thuần là việc đính chính bản thông cáo và đưa ra tang chứng “quả cầu khí tượng”. Liên tục trong nhiều tháng tiếp đó, quân cảnh sục sạo từng ngõ ngách ở hai điểm rơi với mục đích không bỏ sót bất cứ mảnh vỡ nào, đồng thời xóa mọi dấu vết được coi là “bất thường” khi UFO xuất hiện gây ra. Chi tiết này trùng khớp với lời kể của nhiều người dân địa phương, rằng những mảnh vỡ họ nhặt được đem về nhà làm kỷ niệm sau đó đã bị quân cảnh đến thu hồi sạch. Lời tự thú của nhân chứng UFO Roswell - Tin180.com (Ảnh 4) Bức hình chụp đĩa bay này được Căn cứ không quân giải thích rằng chúng chỉ là một “thử nghiệm của quân đội” Phần tiếp theo của bản chúc thư mới gây sửng sốt tột độ: ấy là khi Haut kể về việc đích thân cùng Đại tá Blanchard đến “Tòa nhà 84” – một trong những kho chứa máy bay tuyệt mật ở Roswell – để chiêm ngưỡng chiếc đĩa bay đã sứt mẻ nhiều phần. Đó là một vật thể bằng kim loại có hình tròn như quả trứng, dài khoảng 3,6 – 4,5 mét, rộng khoảng 1,8 mét, không cửa sổ, không đuôi máy, không cánh, thậm chí không thiết bị tiếp đất… Và cũng chính tại đây, Haut nhìn thấy “sinh vật ngoài trái đất”: hai thi thể nằm trên mặt đất được phủ tấm vải dầu, chiều dài ước chừng 1,2 mét và đặc biệt có cái đầu lớn quá khổ. Cuối bản tuyên thệ, Haut một lần nữa tuyên bố: “Tôi tin tưởng tuyệt đối rằng, chính mắt tôi đã trong thấy đĩa bay và phi hành đoàn đến từ ngoài trái đất”. Điều đáng nói là, khẳng định này trái ngược hẳn với những gì Walter Haut phát biểu trong những cuộc phỏng vấn trên truyền hình, trước báo giới hồi ông còn sống trước đây. Nếu như muốn kiếm tìm sự nổi tiếng, chắc hẳn ông sẽ không chờ cho đến lúc gần qua đời mới tiết lộ. Nhiều nhân vật rất tên tuổi, trong đó có cả anh hùng phi hành gia vũ trụ Edgar Mitchel – người từng đặt chân lên Mặt Trăng, cũng khẳng định UFO và người ngoài hành tinh là có thật, và chính phủ Hoa Kỳ đã bưng bít vụ việc Roswell suốt hàng chục năm qua vì những nguyên do bí mật. Minh Trí (Theo News.com.au)
-
Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp Sau đây là các đoạn dịch cuốn "Bát Tự Trân bảo – tác giả Đoàn Kiến Nghiệp" của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên Huyên Không Lý Số. “Kỳ 5/1. Thương quan khứ quan cách Ví dụ. Đại tham quan Hòa Thân. Canh ngọ ất dậu canh tý nhâm ngọ Đại vận: bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần Mệnh này thương quan kiến quan, tài tinh cực nhược lại bị hợp, vì sao lại làm quan chức cực cao, lại tham đắc tài nhiều nhất? Mệnh này kim thủy thương quan, chứng tỏ thông minh tuyệt đỉnh, tài hoa hơn người, có quan tinh, tài tinh hỗn cục là bệnh thần, phùng thương quan khứ quan, tỉ kiếp khử tài. Gọi là khử kỵ thần thì đắc kỵ thần, là hỉ, cho nên có thể được làm quan lại đắc tài. Đến vận hợi tý sửu phương bắc thủy địa, thương quan khử quan, thăng làm trung đường. Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng. Mùa xuân năm kỷ mùi bị xử tử. Kết cấu mệnh cục loại này nếu không thấy tài thì sẽ là quan thanh liêm, nếu không thấy quan tinh, sẽ có tài khí mà không làm quan, nếu tài thấu rõ ràng không hợp, lòng tham không đáy mà lại phung phí vô độ, nếu quan tinh cùng thương quan không kề sát, thì chức quan sẽ không lớn.” Đoàn Kiến Nghiệp đã viết "Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng." nghĩa là ông ta đã khẳng định Tứ Trụ này có Thân nhược nên Tài (Mộc) và Quan (Hỏa) là kỵ thần mới dẫn đến tử vong. Tôi sẽ chứng minh Tứ Trụ này Thân vượng bởi vì chỉ có Thân vượng mới có thể giải thích được cái chết này. Sơ đồ mô tả tai họa năm Kỷ Mùi như sau: Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: -1............-0,5..........0,5............1.............-0,5 Mộc.........Hỏa.........Thổ..........Kim...........Thủy 1,38.........1,74.........#3..........16,6…... ......14 Các đại vận : Bính Tuất/Đinh Hợi/Mậu Tý/Kỷ Sửu/Canh Dần/Tân Mão Mùa Xuân năm Kỷ Mùi thuộc đại vận Canh Dần và tiểu vận Tân Mùi. 1 - Tứ Trụ này có Thân vượng, Kiêu Ấn ít mà Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất ở trụ tháng. 2 - Có Canh đại vận và 2 Canh trong tứ trụ cùng hợp với Ất trụ tháng. Ta thấy lực hợp của Dần đại vận với mỗi Ngọ trong Tứ Trụ là 5.1/2 = 2,5 đv nhỏ hơn lực hợp của Mùi thái tuế với mỗi Ngọ là 8.1/2 = 4 đv. Do vậy Mùi hợp được với 2 Ngọ nhưng lực hợp của Mùi thái tuế với Ngọ trụ giờ bị phá vì có Tý xung gần (Tý, Ngọ, Mão, Dậu xung gần không cần phải tính lực xung) còn lực xung của Tý với Ngọ trụ năm là 5,05.2/3 = 3,37 đv (vì xung cách 1 ngôi) nhỏ hơn lực hợp của Mùi thái tuế với Ngọ trụ năm là 8.1/2 = 4 đv. Do vậy Ngọ trụ năm hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ có 0,5 đv. 3 - Dụng thần Ất hợp với tuế vận có 1 đh và nhược ở lưu niên có 0 đh. 4 - Nhật can Canh vượng ở lưu niên có -1 đh. 5 - Canh đại vận vượng ở lưu niên có 1 đh can động và khắc Ất trụ tháng có 0,5 đh. Mỗi Canh trong tứ trụ khắc Ất trụ tháng có 0,5 đh (2 Canh này được lệnh và vượng ở lưu niên nên không có điểm hạn can động). Ất thất lệnh chỉ vượng ở đại vận có -0,5 đh can động nhưng nó chỉ còn -0,5.1/2.1/2.1/2 đh = -0,06 đh (vì bị khắc bởi 3 Canh). Kỷ lưu niên vượng ở lưu niên có 0,5 đh can động và khắc Nhâm trụ giờ có 0,5 đh. Nhâm trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tế vận có -0,5 đh (điểm này không bị giảm khi bị khắc). Tân tiểu vận có 1 cát thần có -0,13 đh. Dần đại vận có 3 cát thần có -3.0,25 đh. 6 - Lửa mặt trời lưu niên có Kỷ vượng ở lưu niên khắc gỗ liễu trụ giờ và đất trên tường trụ ngày có tổng cộng 1,5 đh (vì Kỷ đã sử dụng 1 điểm khắc để khắc Nhâm). Tổng điểm hạn là 5,06. Số điểm này có thể chấp nhận được. Nguyên nhân chính gây ra tai họa là Thân vượng có nhiều Tỉ Kiếp, Tài lại ít nên "vào vận Tỉ Kiếp nên án binh bất động" hay dễ bị "Tỉ Kiếp tranh đoạt Tài với Thân"... như sách của cụ Thiệu đã viết. Còn nếu Thân nhược theo Đoàn gia thì dĩ nhiên Thân Kim nhược do Thủy vượng, vì vậy phải lấy Kiêu Ấn Thổ làm dụng thần. Vậy mà vào vận Canh, lưu niên Kỷ đều là hỷ dụng lại còn Thổ cục là cục dụng thần nữa có thấy kỵ thần Mộc, Hỏa ở đâu. 1 Ngọ đã hóa Thổ còn Dần đại vận làm được trò trống gì mà có thể gây ra tử vong ? Thật đáng buồn cho Đoàn Kiến Nghiệp một cao thủ Tử Bình "lẫy lừng thiên hạ" mà không xác định được đúng Thân của Tứ Trụ này là vượng hay nhược. Nguyên nhân chính là ông ta không biết xác định khả năng tranh phá hợp của các địa chi (vì từ gốc ông ta đã sai căn bản cho rằng lực của lục hợp lớn hơn cả lực hợp của tam hợp, tam hội…. ấy mà).
-
Xin mời mọi người quan tâm tới Tử Bình sang bên Huyền Không Lý Số trong mục Tử Bình để đọc và thảo luận bởi vì ... tôi không chuyển các bài viết của tôi ở bên đó sang đây nữa.
-
Đây là ví dụ thứ 3 trong "Kỳ 4. Lấy lộc là tài" cuốn "Bát Tự Trân Bảo" của Đoàn Kiến Nghiệp được dịch bởi Phiêu Diêu trong mục Tử Bình bên Huyền Không Lý Số. "Ví dụ. Khôn tạo Đinh mùi kỷ dậu tân sửu tân mão Mệnh này rất nhiều người lấy tài làm dụng thần, mão mộc cực suy, không có nguyên thần sanh trợ, về lý không thể làm dụng thần. Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thần. Vận quý sửu, năm canh thìn, cùng với người khác hợp tác đầu tư sản xuất dụng cụ chữa bệnh, kiếm rất nhiều tiền. Sửu thổ sanh kim, thìn thổ sanh kim, canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm, là hợp tác với nhiều người đa phần về tiền bạc mà thôi." Qua đoạn dịch này tôi không hiểu khi ông Đoàn Kiến Nghiệp đã "Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thân" thì dĩ nhiên ta phải hiểu Kiêu Ấn (Thổ) và Tỷ Kiếp (Kim) phải là hỷ dụng nhưng câu sau ông ta lại viết "canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm" . Vậy thì ở đây phải hiểu như thế nào khi lấy Dậu là Lộc làm dụng thần thì Canh không phải là Kim (dụng thần) hay sao ? Sau đây tôi sẽ chứng minh điều ông ta luận " Sửu thổ sanh kim, Thìn thổ sanh kim" nên phát Tài xem có đúng hay không ? Sơ đồ minh họa "Vận quý sửu, năm canh thìn" như sau: Trong tứ trụ có bán hợp của Sửu trụ ngày với Dậu trụ tháng hóa Kim nhưng trụ ngày bị trụ năm thiên khắc địa xung nên Kim cục bị phá chỉ còn tổ hợp. Do vậy điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như sau: -1.........0,5.......0,5.........1.........-0,5 Mộc.....Hỏa......Thổ.......Kim......Thủy 0,74.......3,6.......15.......22,5......#4,8 Năm Canh Thìn thuộc đại vận Quý Sửu, tiểu vận Giáp Tý và Ất Sửu. Ta xét tiểu vận Giáp Tý. 1 - Tứ trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn lại nhiều nhưng không thể là cách Kim độc vượng bởi vì có Đinh trụ năm được lệnh là Quan Sát của Thân Kim, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Mão trụ giờ. 2 - Theo sơ đồ trên ta thấy lực hợp của Sửu đại vận với Tý tiểu vận là (3 (của Sửu đại vận tại Sửu đại vận) + 2.5,1 (2 lần tại Thìn lưu niên)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Sửu phải hợp với Dậu trụ tháng) = 2,2 đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn thái tuế với Tý tiểu vận là 8 (của Thìn tại Thìn thái tuế).1/2 đv (vì Thìn cũng phải hợp với Dậu trụ tháng) = 4 đv. Ta xét tiếp lực hợp của Tý tiểu vận với Thìn lưu niên là (5,1 (của Tý tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Tý phải hợp với Sửu đại vận) = 1,85 đv là lớn hơn lực hợp của Dậu trụ tháng với Thìn thái tuế là (9 (của Dậu tại lệnh tháng) + 4,2 (tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế).1/4 (lấy điểm trung bình). 1/3 (vì Dậu hợp với 2 Sửu và Thìn thái tuế) đv = 1,6 đv. Do vậy Thìn thái tuế hợp được với Tý tiểu vận hóa Thủy còn Dậu trụ tháng hợp với 2 Sửu không hóa được Kim vì trụ năm Đinh Mùi thiên khắc địa xung với trụ ngày Tân Sửu và đại vận Quý Sửu nhưng nó vẫn còn bán hợp (vì 2 Sửu trong 2 trụ của bán hợp bị thiên khắc địa xung giống nhau). Từ đây ta thấy chính Thủy cục này có tác dụng xì hợi Thân vượng để sinh cho Tài mộc, vì vậy mà người này đã phát tài (Kỷ trụ tháng mặc dù được lệnh nhưng suy nhược ở tuế vận nên lực khắc của nó với Quý đại vận và Thủy cục không mạnh, vì vậy Quý vẫn khắc được Đinh trụ tháng và sinh cho Tài mộc). Còn dĩ nhiên bán hợp trong tứ trụ hợp với tuế vận và có thêm bán hợp ở tuế vận tức có nhiều bán hợp (các tổ chức, hội, đoàn...) chứng tỏ người này quan hệ với nhiều người trong xã hội để làm ăn.... Qua ví dụ này chứng tỏ ông Đoàn Kiến Nghiệp không hề biết đến cách tính các lực tranh phá hợp của các địa chi nên mới ngộ nhận lấy Lộc (Kim) làm dụng thần cho Tứ Trụ này mà Thân kim đã quá vượng còn thêm "Sửu thổ sinh Kim, Thìn thổ Sinh Kim", Kim cực vượng thì phát tài kiểu gì ? __________________
-
-
Hồ Sơ Tuyệt Chiêu thứ 2 : "Không có khái niện Dụng thần thay đổi - của Đoàn Kiến Nghiệp" (trước tôi viết nhầm là Đoàn Viết Hoạt), Chủ đề: “Tạp lục về tử bình” của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net Đoàn Kiến Nghiệp đã viết: “Hắn sanh vào ngày AL 23/8/1964 giờ thân, bát tự là: Giáp Thìn - Quý Dậu - Canh Thìn - Giáp Thân Đại vận: Giáp tuất (3)/ ất hợi (13)/ bính tý (23)/ đinh sửu (33) Ta đối với mệnh này nghiệm lý hơn 5 năm, vẫn không tìm ra được giải thích. Lúc đầu ta mê hoặc hiểu lầm là: Mệnh này thân cường, có thủy tiết, nên xem là thân vượng có tiết, dụng thần ắt là thủy. Đến vận Bính Tý, chi tý quản 5 năm; thân tý thìn hợp thủy cục, ứng là đại cát, thực tế vận này hắn ta không kiếm được tiền mà còn bị ngồi tù vài lần. Vì vậy, ta hỏi qua các cao thủ “mệnh lý” khác, xong có 2 lời giải thích sau: 1. Thân dậu không vong, kim không vô lực, mệnh này xem là thân nhược, sợ thủy tiết, cho nên vận tý hung. 2. Trong mệnh cục có quý thủy thương quan, sợ kiến quan tinh, vận bính tý, thương quan kiến quan hung. Ta nghe bọn họ giải thích liền biết là xằng bậy, nhưng ta lại không dễ phản bác bọn họ được. Bởi vì mệnh lý học là một môn huyền học, “nhìn không thấy sờ không được”, cho nên cực khó phản bác. Biện pháp tốt nhất là tìm ra những dẫn chứng ngược lại, tức là mệnh khác cũng giống như vậy, nhưng không xảy ra kết quả giống vậy, chỗ này chỉ khi tích lũy nhiều ví dụ thực tiễn mới có thể làm được. ............................................................. Đoàn tiên sinh cùng Vương Hổ Ứng tiên sinh, một cao thủ về dịch lý. 2 ông này hợp thành 1 bộ song kiếm hợp bích lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ. ” VULONG đã viết: “Nếu quả thực Đoàn Kiến Nghiệp “…lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ.” thì đoạn viết trên là một ngụy tạo bởi vì không một ai khi được phong là cao thủ Tử Bình…. lẫy lừng như vậy mà lại không biết một điều đơn giản là vào đại vận Bính Tý có tam hợp Thân Tý Thìn hóa thành Thủy cục thì làm sao Nhật Chủ Kim còn vượng được nữa khi mà Nhật Chủ Kim mất điểm vượng của chi Thân và điểm vượng Lộc ở Thân còn Thủy được thêm điểm vượng của 2 Thìn và Thân.” Sau đây là sơ đồ của Tứ Trụ trên: Theo sơ đồ trên thì trong Tứ Trụ có Thìn trụ năm và Thìn trụ ngày tranh hợp với Dậu trụ tháng, vì vậy tổ hợp này không thể hóa Kim. Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như sau: -0,5.........-0,5...........1.............0,5............-1 Mộc..........Hỏa.........Thổ...........Kim..........Thủy 3,24...........#...........3,75.........23,83.........9,3 Ta thấy Tứ Trụ này Thân Kim quá vượng mà Kiêu Ấn (Thổ) đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương (Thủy) là Nhâm tàng trong Thân trụ tháng. Vào đại vận Bính Tý có tam hợp Thân Tý Thìn phá tan lục hợp Thìn Dậu trong tứ trụ để hóa Thủy thành công (theo quy tắc ưu tiên hợp hóa). Vì trong Tứ Trụ có ít nhất 2 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng (theo giả thiết...) nên điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Kim có 23,83 đv mất 8,43 đv của Thân trụ giờ (hóa Thủy) còn lại 23,83 đv - 8,43 đv = 15,4 đv. Thủy có 9,3 đv được thêm 8,43 đv của Thân trụ giờ, 3 đv của Thìn trụ ngày và 0,75 đv của Thìn trụ năm thành (9,3 + 8,43 + 3 + 0,75) đv = 22,23 đv. Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm được tính lại như sau: ..1.............0,5...........-1............-0,5............0,5 Mộc...........Hỏa..........Thổ..........Kim...........Thủy 3,24............#............#3...........15,4..........22,23 Ta thấy Thân đã trở thành nhược mà Thực Thương là kỵ thần số 1 (kỵ thần có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất so với các kỵ thần), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn (Thổ) Mậu tàng trong Thìn trụ năm. Thân nhược khi vào vận Quan Sát có Thực Thương quá mạnh thì dĩ nhiên có sự tương tranh của Thực Thương với Quan Sát, vì vậy người đó dễ dính dáng đến phạm pháp, lao tù là chuyện bình thường. Thân đã nhược lại còn bị xì hơi mạnh bởi Thực Thương (quá vượng) thì là sao có thể phát tài cơ chứ. Vậy mà Đoàn Gia ta đã phải thừa nhận "Ta đối với mệnh này nghiệm lý hơn 5 năm, vẫn không tìm ra được giải thích" chắc vì ông ta không biết dụng thần đã thay đổi (?). Nghe không thể chấp nhận được bởi vì Đoàn gia cũng chỉ là hậu sinh như chúng ta chả nhẽ ông ta không đọc được một cuốn sách cổ, kim nào về Tử Bình hay không nghe ai nói gì về khái niệm dụng thần thay đổi hay sao ? Để mà rồi cố ép cho Tứ Trụ này Thân phải nhược từ khi mới sinh cho phù hợp với thực tế đã diễn ra trong đại vận Bính Tý của người này. Chả nhẽ điều này đã làm cho tên tuổi ông ta “…lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ. " hay sao ? (nói vậy cho vui tí thôi chứ tôi đã khẳng định ngay từ đầu là ông ta cũng như cụ Thiệu thỉnh thoảng Ngụy Tạo vài chiêu cho vui cửa vui nhà mà thôi).
-
........................................................................ Hôm nay vào đọc mục Tử Bình bên tuvilyso.net lại thấy chủ đề: "Tạp lục về tử bình" của PhieuDieu xuất hiện lại (chắc bác Dinhvantan nhã ý muốn tôi hoàn tất Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng thứ 2 trong Tử Bình đã bị gián đoạn). Trước khi tiếp tục Tuyệt Chiêu thứ 2 : "Không có khái niện Dụng thần thay đổi - của Đoàn Kiến Nghiệp" (trước tôi viết nhầm là Đoàn Viết Hoạt), tôi xin trích một số đoạn của các cao thủ Tử Bình bên tuvilyso.net trong chủ đề này tôn thờ các cao thủ sứ Đài Cảng, Hồng Công gì đó mà Đoàn Kiến Nghiệp đang là một Thần Tượng của họ. Platinum đã viết: "Bó tay với mấy người! người ta đã có lòng phổ biến kinh nghiệm, mình là người đi sau, đã không cảm ơn thì chớ, lại còn vào chê trách này nọ...thời nay đúng là cao thủ nhiều quá! mà toàn xuất thân từ mấy cuốn sách dịch Tứ Trụ Dự Đoán Học hiện đại của tàu không hà. Cứ lấy đó mà đi ra ngoài thiên hạ luận đoán, xem có ngày bị rượt cong cả vòng 3 lên chạy không mới là lạ...:D) Sửa lại bởi platinum : 23 July 2010 lúc 7:23pm" Platinum đã viết: "Phieu Dieu đã viết: "Trước đây nhìn 1 lá số tôi cứ lay hoay đi tìm dụng thần, rồi kỵ thần, rồi cách cục. Thật ra dụng thần là cái gì, làm sao đo được, khoảng cách giữa thân nhược, thân vượng hay tòng cách nó mong manh làm sao. Vậy mà có người còn đo độ vượng suy nhật can, rồi cộng trừ nhân chia ... hehe, sao giống như môn toán học quá!" Cái này quá chuẩn luôn, thú thật tôi chưa nói chuyện với bác Phieu Dieu lần nào, mà thấy các bạn trẻ thời nay cứ đem Khoa học huyền bí ra cân đo đong đếm số lượng, giống y như khoa học hiện đại. Trong lĩnh vực này, chỉ nên lấy cái TÂM mà định, đừng có nhờ cậy vào IQ. Vậy nên chỉ dám chốt lại một câu: ngàn năm cũng không tiến xa được... Sửa lại bởi platinum : 23 July 2010 lúc 7:43pm" tvvb đã viết: "Platinum đã viết: “Bó tay với mấy người! người ta đã có lòng phổ biến kinh nghiệm, mình là người đi sau, đã không cảm ơn thì chớ, lại còn vào chê trách này nọ...thời nay đúng là cao thủ nhiều quá! mà toàn xuất thân từ mấy cuốn sách dịch Tứ Trụ Dự Đoán Học hiện đại của tàu không hà. Cứ lấy đó mà đi ra ngoài thiên hạ luận đoán, xem có ngày bị rượt cong cả vòng 3 lên chạy không mới là lạ...:D)” Đúng ! PD có công phổ biến , dù ít dù nhiều đều phải trân trọng . Đại Lục bây giờ rất nhiều người giỏi , anh em nhà TVH và Thiệu vỹ Trung không đánh bóng tên tuổi của mình sao có thể bì kịp mấy người kia. Danh gia mệnh lý Cảng Đài thì nhiều như rừng , có mấy người tép riêu cũng có viết sách đả kích , chỉ rõ sai lầm của TVH trong Tứ trụ dự đoán học và Chu dịch dự đoán học, trang nào ,trang nào , sao lại sai đều rất có lý..." Điều này là một chuyện bình thường bởi vì ai mà chả muốn có một Thần Tượng để Tôn Thờ để phấn đấu trong học tập và nghiên cứu nhưng Tôn Thờ quá dễ trở thành mù quáng không thể phân biệt được tốt xấu hay chân lý đâu là đúng hay sai... và họ thường trở thành "Người Đẽo Cày Giữa Đường" lúc nào mà không hề biết. Những người "Người Đẽo Cày Giữa Đường" này khi đó họ hay dậy người khác những câu như "Biết thì hãy thơn thớt, không biết thì hãy dựa cột mà nghe"…. y như là một con Vẹt hay bọn trẻ con bắt trước giọng người lớn ấy (nếu tôi trích một số đoạn của các Lùn Thủ thì còn "Khủng" hơn). Tôi mượn những đoạn trích này để nói chính tôi bởi vì tôi cũng đã là "Người Đẽo Cày Giữa Đường" mất 2 năm khi Tôn Thờ cụ Thiệu mà không nghĩ rằng cụ Thiệu có thể ngụy tạo đưa ra Tuyệt Chiêu số 1 "Tất cả các giờ sinh trên thế giới phải đổi về giờ Bắc Kinh thì mới đúng". Sau đây tôi bắt đầu hoàn tất Hồ sơ Tuyệt Chiêu thứ 2 :
-
Bài viết của Bảo Châu bên Vietnam.net: Khoa học Tàu khổng lồ' tấn công Trái đất năm 2012? Cập nhật lúc 30/12/2010 10:30:00 AM (GMT+7) Lời “sấm truyền” về ngày tận thế vào năm 2012 sẽ ứng với cuộc tấn công Trái đất của 3 'con tàu' vũ trụ khổng lồ? Việc săn đuổi UFO trở thành câu chuyện thường ngày từ giữa thế kỷ 20, khi người ta nhận thấy không thể coi thường sự thăm viếng Trái đất của các vật thể lạ nữa. Nhiểu Tổ chức đã thành lập một bộ phận chuyên trách vấn đề này thuộc không quân và các phòng nghiên cứu bí mật. Chắc chắn các tổ chức ấy đã từng thu được mảnh vỡ của những con tàu không gian lạ, thậm chí những sinh vật lạ, quen gọi là “người ngoài hành tinh”. 3 tàu vũ trụ khổng lồ sẽ tấn công Trái đất vào năm 2012. Ảnh minh họa. Sắp đến lúc các nhà khoa học phải nói rằng mình đã biết được những gì về những vật thể lạ bay đến Trái đất, mạng SETI (viết tắt của Search for Extraterrestrial Intelligence – Tìm kiếm trí tuệ ngoài Trái đất), một tổ chức độc lập phi thương mại đưa ra những thông cáo khiến mọi người phải sửng sốt. Bởi vì không thể không quan tâm một cách nghiêm túc đến ba vật thể tựa như ba con tàu không gian khổng lồ đang bay về phía Trái đất. Con tàu lớn nhất có chiều ngang 240km. Hai con tàu khác nhỏ hơn. Hiện nay ba vật thể này đang bay trên quỹ đạo của Diêm vương tinh. Những con tàu này được HAARP (viết tắt của High Frequency Active Auroral Research Program – Chương trình nghiên cứu cực quang hoạt động cao tần - một chương trình nghiên cứu tầng ion của nhiều tổ chức phối hợp là Hải quân Mỹ, Không quân Mỹ, Trường ĐH Alaska và Cục các dự án nghiên cứu quốc phòng Mỹ) đặt tại Alaska phát hiện. Theo các nhà nghiên cứu của SETI, đối tượng họ nhân biết không thể là gì khác ngoài những con tàu đến từ hành tinh xa xôi. Khi chúng bay đến quỹ đạo của sao Hoả thì Trái đất có thể trông thấy bằng những ính thiên văn quang học. Chính phủ Mỹ đã ra thông báo về sự kiện này. Những con tàu khổng lồ ấy theo tính toán sẽ đến Trái đất vào tháng 12 năm 2012. Ngày tiếp xúc với nền văn minh ngoài Trái đất ấy buộc người ta phải nhớ đến những lời “sấm ký” trong Lịch Maya cổ, là Ngày tận thế sẽ xảy ra vào nhày 21 Tháng 12 năm 2012. Liệu hai sự kiện đó có trùng nhau không? Các nhà nghiên cứu của SETI đã lầm lẫn ý muốn với thực tế. 50 năm họ không ngừng theo dõi không gian mà chẳng mang lại một kết quả nào. Việc thám hiểm không gian dù đã trên nửa thế kỷ chỉ được coi là mới bắt đầu. Chúng ta chỉ là những sinh vật sinh sau đẻ muộn trong cái thế giới rộng lớn và chưa được khai phá này. Đa số người đều tin rằng có nhiều nền văn minh khác trong vũ trụ ngài nền văn minh của chúng ta. Người ta đồn rằng chính người Mỹ đã che gíâu thông tin về những phát hiện của họ trên Mặt trăng. Năm 1888, một chuyên gia cao cấp người Mỹ gốc Hoa, thành viên Chương trình không gian quốc gia của Mỹ tiết lộ một bức ảnh có những dấu chân người trên Mặt trăng. Ông cho biết ông nhận được bức ảnh này từ một nguồn đáng tin cậy và lên án Mỹ đã giấu nhẹm thông tin này. Bức ảnh ghi ngày 3-8-3969, hai tuần sau khi Amstrong và Aldrin đặt chân lên Mặt trăng. Có nghĩa là các tài liệu về cuộc thám hiểm Mặt trăng sau khi đã nghiên cứu, NASA chỉ lưu trữ trong ngăn tủ mà không công bố. Ngày 15-3-2009, tờ báo New York Times đã để lộ một tin giật gân khác. Cũng vẫn chuyên gia người Hoa nói trên là Mao Kan tuyên bố ông có trong tay trên 1.000 bức ảnh bí mật của NASA chụp lại không chỉ vết chân người mà còn cả một xác người trên bề mặt Mặt trăng. Chuyên gia nọ cho biết một số xương trong xác đó bị mất. Có nghĩa là thi hài người đá đã bị một con tàu của người ngoài hành tinh vứt lại trên Mặt trăng sau khi họ đã lấy đi các mô để đem về nghiên cứu. Những tấm ảnh được chụp trên Mặt trăng từ hồi đó (1969). Do trên Mặt trăng không có không khí nên tất cả các bức ảnh hết sức rõ nét, chụp khi con tàu đang bay trên quỹ đạo. Hình xác người rõ đến từng chi tiết. Tiến sĩ Ken Johnston, cựu lãnh đạo Bộ phân Kiểm tra ảnh và dữ liệu thuôc Phòng thí nghiệm Mặt trăng của NASA nói rằng các nhà du hành vũ trụ Mỹ đã nhìn thấy và ghi lại hình ảnh những đống đổ nát phi tự nhiên trên Mặt trăng. Tất cả những tại liệu đó đều được chính phủ Mỹ bảo vệ cẩn mật một cách cố tình. Đó là chuyện bịa đặt hay sự thật? Bao giờ câu hỏi đó mới được giải đáp. Bảo Châu (Theo Pravda.ru)
-
Có thể nói cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" đã kết hợp được phương pháp dự đoán của Tử Bình truyền thống dựa vào Thân vượng hay nhược và dụng thần với một trường phái mới nổi lên không dựa vào Thân Vượng hay nhược và dụng thần do ông Đoàn Kiến Nghiệp khởi xướng sau khi học được qua "Manh Phái" của những người mù. Trước khi chứng minh điều khẳng định này tôi sẽ giới thiệu và trích dẫn một số đoạn quan trọng trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" (bác nào muốn nhanh thì sang đọc chủ đề "Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và Dụng thần" trong mục Tử Bình bên trang web "Huyền Không Lý Số" hay chủ đề "Tuvilyso.net sợ "Các Tyệt Chiêu Nổi Tiếng Trong Tử Bình"" trong mục Tử Vi - Tử Bình bên trang web lyso.vn). Sau đây là bìa và Lời Nói Đầu của cuốn sách. Giải mã tứ trụ Lời nói đầu Những ai đọc qua quyển Kinh Thánh đều nhận thấy rằng đây là quyển sách cổ duy nhất trên thế giới nói đến sự hình thành Trái Đất như thế nào (còn tất cả các cuốn sách cổ khác chỉ đề cập tới những sự kiện khi đã có trái đất và con người). Sau đó cuốn sách mới nói đến sự phát triển của nó qua các thời kỳ kiến tạo địa chất, rồi xuất hiện thực, động vật …và con người. Cuối cùng cuốn sách mới nói đến sự phát triển của lịch sử loài người qua các mốc quan trọng là có bao nhiêu cường quốc sẽ xuất hiện trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm của thiên thạch với trái đất Vậy thì cách đây ba bốn nghìn năm ai lại có thể hiểu biết về vũ trụ để dự đoán vận mệnh trái đất của chúng ta chính xác đến như vậy khi mà con người sống trong thời kỳ đó chỉ là những người "Cởi trần đóng khố"? Nếu không phải là Đức Chúa Trời người đã sáng tạo ra con người và vạn vận thì chỉ có một câu trả lời duy nhất cho nghi vấn này là một số người của một nền văn minh bên ngoài trái đất (hay họ chính là các sứ giả của đức chúa trời) đã viếng thăm và gửi tặng chúng ta cuốn Kinh Thánh. Và dĩ nhiên những người "Cởi trần đóng khố" diễn đạt lại các tri thức của họ vào cuốn Kinh Thánh đã không thể tránh được những sai sót. Đó có thể là lý do để giải thích tại sao có sự kiện Galile bị đưa nên giàn lửa thiêu (?). Dựa vào nền tảng kiến thức hay học thuyết nào mà những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất có thể dự đoán vận mệnh trái đất chúng ta chính xác đến như vậy ? Chắc chắn là phải có, chúng ta tạm gọi nó là Thuyết Vũ Trụ Rộng để dự đoán vận mệnh của các vật thể lớn như các hành tinh, thiên thể, thiên hà hay vũ trụ chẳng hạn. Đó là câu hỏi mà đến nay vẫn chưa có ai giải đáp được. Ngoài cuốn sách này họ còn gửi tặng chúng ta rất nhiều cái khác nữa, đó chính là các hiện vật rải rác khắp mọi nơi trên trái đất mà đến nay chúng ta vẫn không thể xác định được nguồn gốc của chúng. Một trong các hiện vật quan trọng đó là bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý cùng với học thuyết Ngũ Hành và Âm Dương mà ngày nay nó được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Một trong các ứng dụng đó là dự đoán vận mệnh của con người. Qua đó con người có thể biết trước được nhiều cái để chủ động phòng tránh các điều xấu như tai nạn, ốm đau, phá tài, bại quan, chết trẻ… và đón nhận những cái tốt như phát tài, phát quan … Người Trung Quốc cổ đại đã dùng bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý để làm lịch xác định giờ, ngày, tháng, năm trong sinh hoạt hàng ngày. Lịch đó được gọi là lịch Can Chi. Không biết người ta đã sử dụng lịch can chi này vào dự đoán vận mệnh cho con người từ bao giờ ? Chỉ biết rằng trải qua mấy nghìn năm nghiên cứu và đúc kết kinh nghiệm, đến nay chúng ta đã có rất nhiều bộ môn khác nhau để dự đoán vận mệnh con người, mà gốc của nó vẫn dựa vào học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý. Trong đó chỉ có môn Tứ Trụ, nó dựa vào 4 thông tin là ngày, tháng, năm sinh và giờ sinh của người đó là không biến dạng và nó sử dụng chính các từ gốc có từ khi nó xuất hiện trên trái đất của chúng ta. Các từ gốc như tổ hợp can chi Giáp Tý đã tìm thấy cách đây 3 nghìn 6 trăm năm, vào thời nhà Ân, nhà Thương (Trung Quốc). Bình thường một người có thầy dậy sau 3 đến 5 năm mới có thể nắm được môn Tứ Trụ để dự đoán được vận mệnh của con người. Đó là một điều khó khăn cho đa số người muốn biết nhưng không có điều kiện. Phải chăng môn dự đoán theo Tứ Trụ là Thuyết Vũ Trụ Hẹp để dự đoán vận mệnh của con người và các vật thể nhỏ bé ? Để giải quyết khó khăn này, tôi đã tìm ra được một phương pháp hoàn toàn mới để tính các điểm hạn đã gây ra tai họa và nó được gọi là Phương Pháp Tính Điểm Tai Họa. Tôi đã cố gắng tìm một cách ngắn nhất và đơn giản nhất để đưa bạn đọc từ không biết gì về môn này có thể chỉ sau khoảng 7 tuần tới 7 tháng là nhiều nhất, bạn đọc sẽ hiểu được các phần cơ bản của phương pháp dự đoán này. Phương pháp dự đoán của tôi chỉ nhằm xác định năm nào mình có hạn, hạn nặng đến đâu và hạn về cái gì (tai nạn, ốm đau, bại quan, lao tù hay phá sản....), để biết trước mà phòng tránh. Rất nhiều người đến giờ vẫn còn nghĩ rằng hạn không thể phòng tránh được, nên cho rằng biết trước làm gì cho càng thêm lo sợ. Đó là một sai lầm cần phải loại bỏ. Còn các lĩnh vực dự đoán vận mệnh khác của môn Tứ Trụ chỉ giới thiệu qua (như phát tài, phát quan...). Tôi chỉ là người đầu tiên tìm ra phương pháp dự đoán này, nhưng để hoàn thiện nó cần phải có nhiều thời gian và sự đóng góp của nhiều người trên thế giới. Mục đích chính của tôi khi viết cuốn sách này là muốn bạn đọc tự dự đoán được các hạn của chính mình, sau đó tôi mong muốn bạn đọc tham gia với tôi vào công cuộc giải cứu các hạn đó. Trọng tâm của cuốn sách này là giải cứu các hạn đe dọa tính mạng của con người, đó mới là điều quan trọng nhất mà cuốn sách này mong muốn. Chỉ có như vậy thì con người mới kéo dài được tuổi thọ, dần dần chúng ta chỉ có thể phải đầu hàng bởi cái chết do sự lão hóa mà thôi. Đến lúc đó muốn tăng tuổi thọ hơn nữa lại thuộc về các nhà Sinh Học, họ phải tìm cách chống được sự lão hóa. Để hoàn thành cuốn sách này, tôi vô cùng cảm ơn các bạn Nguyễn Đắc Dũng, Nguyễn thị Nở, Nguyễn Quang Du, Nguyễn thị Liên,….. cũng như các bút danh của Đinh Văn Tân, Hoa Cái, Minh Quang-mz trên trang web tuvilyso.net của người Việt Nam đã tìm kiếm và sưu tầm rất nhiều ví dụ quan trọng và qua các ví dụ này tôi đã tìm thấy nhiều quy tắc để tính các điểm hạn. Các quy này chính là các chìa khóa để giải mã các Tứ Trụ. Để tiến đến có được một bộ chìa khóa hay có chiếc chìa khóa vạn năng giải được 52 vạn tứ trụ của con người thì theo tôi nghĩ cần tới vài triệu người cùng nghiên cứu ít nhất trong một vài năm. Sau một năm tôi vừa tự học tiếng Anh và vừa tự dịch hầu như tất cả cuốn sách này và có sự giúp đỡ của con gái tôi mới bắt đầu học lớp 11 tại Đức, vì vậy mong bạn đọc coi đây chỉ là bản dịch tạm thời trước khi có bản dịch chính thức. Tôi hy vọng trong thời gian tới tôi sẽ tìm được một thông dịch viên từ tiếng Việt sang tiếng Anh có đủ trình độ hiểu biết về môn Tứ Trụ này. (Các nhà xuất bản của các nước trên thế giới muốn mua bản quyền cuốn sách này cho riêng nước mình hay những cá nhân nào - với tất cả các nước trên thế giới - muốn mua cuốn sách này hãy liên hệ với tôi qua E-Mail : vulongpublisher@yahoo.de (cá nhân mua sách phải mất tiền vận chuyển bưu điện)). Hà Nội - Berlin, mùa Thu 2010 Vu Long __________________ Foreword Anyone who has read the Bible must have realized that it is a unique ancient book which describes how the Earth was created. All other ancient books only mention those events which took place afterwards, i.e. when the Earth and human beings had already come into existence. The Biblethen explains the development of the Earth through the ages of the geological tectonics of the continents, then the appearance of vegetation, of animals and human beings. Ultimately, it describes the history of mankind through the significant milestones of how many powers will arisbefore the Earth will be destroyed through the collision with a meteorite. At that time, i.e. three or four thousand years ago, who could understand about the universe to predict the destiny of the Earth so exactly when our people who lived in that period were only people "Toplessness and wearing dhoti"? If that was not God who created human beings and everythings then the only possible answer is: Some intellectuals from a civilization outside our Earth (or they were the very messengers of God) had visited the Earth and given us the Bible. And of course people "Toplessness and wearing dhoti" who reworded their knowledges into the Bible were unable to avoid errors. That could be reason to interpret why had the event of Galileo who was put on the fire of the pyre (?). On the basis of what knowledge or theory were these people from a civilization outside our Earth able to predict the destiny of the Earth so exactly?It was sure to have, and we can temporarily call it the Wide Universe Theory to predict the destiny of the large objects as the planets, the heavenly bodies, the galaxies or the Universe. That was a question that until now nobody could answer. Beside the Bible, these people also gave us many other things. Those are objects that have been found in various areas of the Earth and the origin of which we have not yet been able to determine. One of those objects is the yin (negative) input tableof Giap Ty Sexagenarytogether with the Yin (negative) Yang (positive) and Five Elements Theories.Today, they are applied in various fields, one of which is the prediction of the destiny of human beings. Thanks to this theory, people can foresee what is going to happen in their lifes, so that somebody who wants to be master of his life can try to avoid bad things like accidents, sickness, bankruptcy, losing mandarin, the young death...and to get the good things like wealth and promotion. People in ancient China used the Giap Ty Sexagenary’s yin input table as the official calendar to determine the hour, date, month and year of everything they did in daily life. That calendar was called the “Wing Leg Calendar”. Neither know ever since, did people use this calendar to predict the destiny of human being? It is only known that after some thousands of years of research and experience based on observation in reality, until now, we have had many different subjects to predict human being’s destiny that their origins are based still on the Yin Yang and Five Elements Theories together with the Giap Ty Sexagenary's yin input table. Among them there is only the four pillars subject which is based on 4 information : Hour, day, month and year of a person’s birth to be notdeformed. This subject has used exactly original words which have appeared on our Earth some thousands of years ago. Some of these words are the combination of the Wing Leg Calendar like Giap Ty which was found3600 years ago at the time of the An and Thuong dynasty in China. Usually, with the help of a tutor, a person needs between 3 and 5 years to understand the basic rules of the four pillars subject to be able to predict destiny of human beings. That is a difficulty for most of people who desire to know about this subject but are not in a condition to devote so much time for it.Could the four pillars subject be the Narrow Universe Theory to predict destiny of people and all small things. To solve this difficulty, I have found an entirely new method and it was called the Method of Calculating Disaster Points to calculate the disaster points which cause the disaster. I have tried to find the shortest and simplest way to help the readers with no background on the four pillars to understand the basic rules of this predictive method between 7 weeks to not more than 7 months. My predictive method only aims to determine which year you will meet a disaster, how serious that disaster will be and what kind of disaster it will be (accident, illness, lawsuits, prison or bankruptcy...), so that you can know in advance to find a way to prevent it. Many people still think that misfortune cannot be avoided, so there is no need to foresee it, because that knowledge will only scare and worry them. That, however, is wrong thinking. Other prediction fields of the four pillars subject such as when one will become wealthy or be promoted… , I am just going to introduce briefly. I am only the first person who have found this predictive method, to perfect it, however, it requires more time and contributions of many people all over the world. My main purpose in writing this book is to help the readers self-predicting disasters in your own lifes. Then I desire the readers to participate with me in the task of preventing these disasters. The main aim of this book is to prevent disasters which threaten the lifes of human beings. Only that, human beings can prolong their age and gradually we only have to surrender natural death through ravages of old age. And if human beings want to live longer life then, this task belongs to biologists, they must find a way to overcome aging process. For completing this book, I would like to express my sincere thanks to my friends: Nguyen Dac Dung, Nguyen Thi No, Nguyen Quang Du, Nguyen Thi Lien… also as pseudonyms of Dinh Van Tan, Hoa Cai, Ming Quang-cz... in the Vietnamese web tuvilyso.net, who have searched and collected many important examples and through these cases I have found the rules to calculate the disaster points. These rules themselves are the keys to decode the four pillars. To obtain a set of keys or a master key which can decode the 520,000 four pillars of human being, I think it requires the works of some million people to research together at least for several years. For about one year, I've learned English by myself and translated most of the book with the aid of my daughter, who has just started her eleventh grade in Germany. So I do hope that the reader may accept it temporarily as an unofficial draft until the official version is released. It is hopeful that in the near future, I can find a Vietnamese-English interpreter who is knowlegible about the four Pillar. (Publishers of countries in the world want to buy the copyright of this book for your own countries or individuals who are in all countries in the world want to buy this book relating with me over E-Mail: vulongpublisher@yahoo.de , (individuals buy this book having to pay transporting postal)). Hanoi-Berlin, in Autumn 2010 Vu Long __________________
-
Sau đây là lời giải chi tiết tai họa này. Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm : …….. Điểm hạn của cát / hung thần : -1……...-0,5…....0,5……...1……....-0,5………. -0,25: Bính,bính,đinh,quý,mậu, Hỏa…....Thổ…....Kim…...Thủy…....Mộ c...................bính. Mão,tị,mão,mão,tị,mão. #4,2…...3,0….....#8…...12,25…....9,5…… ….+0,25: Dần,mão,thân,thân,dần, ………………................................ ..........................thân,thìn,tuất,thìn ,tị. Các đại vận và thời gian của chúng: Quý Hợi.......Giáp Tý.......Ất Sửu........Bính Dần.......Đinh Mão ......2..............12.............22............ ...32.................42 5/1975.........5/85..........5/95............5/05.............5/15 Năm Canh Dần thuộc đại vận Bính Dần, tiểu vận Nhâm Thìn và Quý Tị. 1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài Đinh tàng trong Tuất trụ tháng (vì Thực Thương nhiều thì Quan Sát coi như vô dụng còn Thực Thương nhiều thì không cần phải thêm). 2 - Trong Tứ Trụ có Mão trụ ngày hợp với Tuất trụ tháng không hóa. Vào đại vận Bính Dần lục hợp của Mão với Tuất hóa Hỏa cục nhưng không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. 3 - Dụng thần Đinh tử tuyệt ở lưu niên (Dần) nên có 1 đh (điểm hạn). 4 - Nhật can Quý vượng ở lưu niên nên có -1 đh. 5 - Quý trụ năm và Quý trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên nên mỗi Can có 1 đh (do can động) và khắc Bính đại vận nên mỗi lực có 0,5 đh. Nhâm trụ tháng được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có -1 đh (do can động) và khắc Bính có 0,25 đh. Bính đại vận vượng ở lưu niên nên có -1 đh nhưng nó bị khắc bởi 2 Quý và 1 Nhâm chỉ còn lại -1.0,5.0,5.0,75 đh = -0,19 đh. Bính còn có 3 cát thần có -3.0,25 đh nhưng nó cũng bị giảm bởi 2 Quý và 1 Nhâm khắc còn lại -3.0,25.0,5.0,5.0,75 đh = -0,14 đh. Dần tuế vận mỗi chi có 2 hung thần có 2.0,25 đh. Thìn tiểu vận có 2 hung thần có 2.0,13 đh. 6 - Nước biển trụ tháng có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc gỗ tùng lưu niên có 0,25 đh. Lửa trong lò đại vận có Bính vượng ở lưu niên nên khắc gỗ tùng lưu niên có 1 đh. Tổng điểm hạn là 3,93. Số điểm này chứng tỏ đương số không thể chết ở tiểu vận Nhâm Thìn (trước ngày 3/11/2010). Ở tiểu vận Quý Tị (từ 3/11/2010) mặc dù không có 2.0,13 đh của 2 hung thần ở Thìn tiểu vận và mỗi can chi tiểu vận Quý Tị có 1 cát thần có -0,13 đh nhưng có thêm 2 đh do 2 Dần tuế vận hình và hại Tị tiểu vận (Dần đại vận hại Tị tiểu vận nên Tị tiểu vận không thể hại Dần lưu niên nên Dần lưu niên mới có thể hình và hại Tị tiểu vận - các điểm hình và hại được mô tả trên sơ đồ). Tổng điểm hạn là 5,41. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Qua ví dụ này cho ta thấy Thân vượng mà có nhiều Tỷ Kiếp nên vào vận Tài dễ có Tỷ Kiếp tranh đoạt tài với Thân. Tai họa dễ xẩy ra vào ngày Kỷ Mùi (5/11) vì nó thiên khắc địa xung với trụ năm Quý Sửu. Các nguyên nhân chủ yếu gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của Thủy khắc Hỏa, Hình Hại và nạp âm. Trong đó chỉ có điểm hạn về Hình và Hại là dễ giải cứu nhất (như sống ẩn dật trong rừng sâu hay núi cao....không tiếp xúc với con người trong xã hội…) Nếu theo "Manh Phái" của những người mù mà Đoàn Viết Hoạt đề xướng thì chỉ cần trừ đi các điểm hạn có liên quan tới dụng thần và các can động thì tổng số điểm hạn ở tiểu vận Quý Tị chỉ là 4,5. Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì nó không thể gây ra tử vong. Nếu theo trường phái Tử Bình truyền thống thì hình như chỉ nói tới các can khắc nhau mà không thấy nói tới điểm hạn của các can động, vì vậy điểm hạn cao nhất cũng chỉ là 4,5. __________________
-
Đoạn trích trên có thể chứng minh nội dung cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" đã kết hợp được phương pháp dự đoán cổ truyền của Tử Bình là dựa vào Thân vượng hay nhược và Dụng thần với phượng pháp dự đoán không dựa vào Thân vượng hay nhược và Dụng thần do ông Đoàn Kiến Nghiệp mới khởi xướng sau khi học được qua "Manh Phái" của những người mù. Thật vậy qua đoạn trích trên chúng ta thấy với "Phương Pháp Tính Điểm Tai Họa" của cuốn sách này muốn xác định một tai họa nặng hay nhẹ tại thời điểm của một năm nào đó ta phải xét tất cả các nguyên nhân giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có thể gây ra các điểm Tai Họa. Theo như phần B đã liệt kê thì có 8 nguyên nhân chính nhưng không phải tất cả 8 nguyên nhân này đều xuất hiện trong một Tai Họa (trừ câu 2 và 3). Theo Tử Bình truyền thống chủ yếu chỉ dựa vào câu 2 và một vài câu khác trừ câu 3 và 8. Còn theo "Manh Phái" của những người mù mà Đoàn Viết Hoạt đã khởi xướng lại không hề dựa vào các câu 2; 3 và 8. Điều này đã chứng minh điều khẳng định của tôi phía trên là đúng. Tôi sẽ lấy ví dụ của chủ đề "Mất Tích?" của Thông Giám trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net để chứng minh cho điều khẳng định này. Thông Giám đã viết: "Gia đình của một người bạn đang có chị gái bị mất tích. Có trò chuyện vài lần qua Yahoo với mấy bạn ở TVLS, nhưng vì chưa thấy có kết quả nên chưa dám mở topic. Báo có đăng tại đây. Có nhiều chuyện nội bộ mà bài báo trên chưa nói đến: 1. Gia đình nghi ngờ người chồng, vốn là một cựu quân nhân. 2. Gần đây ông chồng có bồ, bà chị ấy rất buồn, quyết tâm ly dị, nên gia đình rất xào sáo, tài sản riêng đứng tên bà chị, nếu chia tay, coi như ông chồng mất trắng. 3. Thói quen nhắn tin luôn dùng chữ thường, hôm nhắn tin lại toàn chữ hoa. 4. Gia đình có đi coi bói (dạng ngoại cảm), người thầy cũng có tiếng, thì cho biết là bà chị đã chết cách đây 2 tuần rồi, đưa hình , tư liệu cho coi thì có nói ông chồng sau dính hình pháp nặng lắm... Bà này còn khẳng định, trong vòng 15 ngày nữa, bả sẽ chỉ chổ tìm xác. 5. Người dân vớt được cặp chân (đã thối rửa) ở Quận 7, người nhà có đi nhận diện nhưng ko biết có phải hay không. 6. Có thuê luật sư nhờ xúc tiến các thủ tục can thiệp, như khám nghiệm ADN để coi có phải cặp chân trôi sông có tương đồng gien hay không, xúc tiến cơ quan điều tra,... Hiện nay chỉ có lá số của em ruột. Khi nào có lá số của bà chị sẽ đưa lên nhờ mấy bác coi giúp." Polaris đã viết: KHỦNG KHIẾP THẬT ! CÔNG AN ĐÃ THÔNG BÁO CHO GIA ĐÌNH BIẾT LÀ : Thông Giám đã viết: 5. Người dân vớt được cặp chân (đã thối rửa) ở Quận 7, người nhà có đi nhận diện nhưng ko biết có phải hay không. 6. Có thuê luật sư nhờ xúc tiến các thủ tục can thiệp, như khám nghiệm ADN để coi có phải cặp chân trôi sông có tương đồng gien hay không, xúc tiến cơ quan điều tra,... ĐÚNG LÀ CÓ QUAN HỆ HUYẾT THỐNG VỚI GIA ĐÌNH. VÀ ĐÂY LÀ LÁ SỐ CỦA NẠN NHÂN (xem bên tuvilyso.net):..." Còn đây là Tứ Trụ của đương số: Theo phương pháp của tôi thì điểm vượng trong vùng tâm của Tứ Trụ trên như sau: Hoả..................Thổ................Kim... ...........Thuỷ...............Mộc #4,12................3,0................#8........ .......12,52..............9,5 Từ đây dễ dàng biết được Tứ Trụ này có Thân vượng mà Thực Thương (Mộc) nhiều (có 3 can chi), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Đinh (Hỏa) tàng trong Tuất trụ tháng. (Còn tiếp) __________________
-
Để đỡ mất thì giờ không cần thiết cũng như ở mục này theo tôi biết thì hầu như không mấy hội viên trong trang web này được vào đây để trao đổi kinh nghiệm (chưa nói đến những người chưa đăng ký được nick ở đây). Do vậy tôi không làm công việc vô ích là dời các bài viết của chủ đề "Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và Dụng thần" bên trang web Huyền Không Lý Số sang đây. Các bài viết ở đây chỉ mang tính chất Thông Báo còn trao đổi kinh nghiệm xin mọi người sang bên Huyền Không Lý Số đăng ký nick tự đo để tham gia trao đổi kinh nghiệm Tử Bình nói riêng và các môn Lý Số nói chung. Để chứng minh nội dung cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" đã kết hợp được phương pháp dự đoán cổ truyền của Tử Bình là dựa vào Thân vượng hay nhực và Dụng thần với phượng pháp dự đoán không dựa vào Thân vượng hay nhược và Dụng thần do ông Đoàn Kiến Nghiệp mới khởi xướng sau khi học được qua "Manh Phái" của những người mù thì tôi coi như mọi người đã đọc xong các bài viết của tôi bên trang web Huyền Không Lý Số mà tôi đã nói. Bây giờ tôi bắt đầu từ đoạn trích trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" như sau: "Chương 19 Lý thuyết và thực tế I - Tóm tắt các bước giải mã một tai họa A - Chuẩn bị 1 – Xác định Tứ Trụ, điểm vượng và điểm hạn của các hành trong vùng tâm cũng như hành kỵ vựợng. 2 – Xác định Thân vượng hay nhược, dụng thần chính và vị trí của nó trong Tứ Trụ. 3 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng. 4 - Xác định lưu niên và 2 tiểu vận của năm đó. 5 – Xác định các cát thần và hung thần có khả năng gây ra điểm hạn của Tứ Trụ. 6 – Xác định các tổ hợp và các hóa cục cũng như các thiên khắc địa xung : a - Trong tứ trụ. b - Giữa Tứ Trụ với đại vận. c - Giữa Tứ Trụ với đại vận và lưu niên (kể cả tiểu vận). 7 - Xác định xem có phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay không. B - Điểm hạn 1 - Xác định điểm hạn của các thiên khắc địa xung, các hóa cục và các Đại Chiến (nếu có). 2 – Xác định điểm hạn của dụng thần trong Tứ Trụ, tại đại vận, lưu niên và tại tháng cần giải mã nếu tháng đó ở trong năm sinh. 3 – Xác định điểm hạn của Nhật Can tại đại vận, lưu niên và tại tháng cần giải mã nếu tháng đó ở trong năm sinh. 4 – Xác định điểm hạn của các can cũng như các chi xung khắc với nhau, các can động, các thần sát của các can chi. 5 - Xác định điểm hạn của các lực hình, tự hình và hại. 6 - Xác định điểm hạn của các nạp âm khắc nhau. 7 - Xác định điểm hạn của Thương gặp Quan, Tuế vận cùng gặp, Kình Dương....(nếu có). 8 - Xác định tổng số của các điểm hạn và xem nó có được giảm hay không ? 9 – Xác định các yếu tố gây ra tai họa và tìm cách giải cứu. ............................................ III - Điểm hạn với thực tế Qua nhiều ví dụ tai họa đã xẩy ra trong thực tế nếu thừa nhận các điểm hạn chuẩn theo dự kiến của tôi như các điểm hạn của dụng thần, ngũ hành... cũng như các điểm hạn của hình, xung, khắc, hợp, hại, …., thì tổng điểm hạn tại một thời điểm của một năm có thể sẽ diễn tả được mức độ nặng hay nhẹ của tai họa đó như sau : 1 - Từ 4đh (điểm hạn) đến 4,4đh, chỉ có hạn nhẹ, có thể phải đến bệnh viện nhưng không phải nằm lại bệnh viện để điều trị. 2 - Từ 4,4đh đến 4,6đh, có hạn nặng, phải nằm điều trị ở bệnh viện, hoặc bị phá tài hay lao tù (dựa theo các thông tin của tứ trụ với tuế vận). 3 - Từ 4,6đh đến 4,8đh, hạn khá nặng có thể phải cấp cứu, hoặc bị phá sản hay lao tù nặng. 4 - Từ 4,8đh đến 4,9đh , hạn rất nặng có thể bị ngất. 5 - Từ 4,9đh đến 4,99đh, hạn cực nặng có thể tới mức chết lâm sàng. 6 - Từ 5,0đh trở lên có thể dẫn tới tử vong nếu không có cách nào giải cứu được. Theo phương pháp này sai số có thể từ - 0,1đh tới + 0,1đh. (Chú ý: Số điểm này hoàn toàn được gây ra bởi các nguyên nhân trong Tứ Trụ, tuế vận và tiểu vận (tức là các yếu tố Tất Định), chưa xét đến các yếu tố bên ngoài Tứ Trụ, tuế vận và tiểu vận (tức các yếu tố Bất Định).)" __________________ Qua đoạn trích này chúng ta thấy với "Phương Pháp Tính Điểm Tai Họa" của cuốn sách này thì muốn xác định một tai họa nặng hay nhẹ tại thời điểm của một năm nào đó ta phải xét tất cả các nguyên nhân giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có thể gây ra các điểm Tai Họa. Theo như phần B đã liệt kê thì có 8 nguyên nhân chính nhưng không phải tất cả 8 nguyên nhân này đều xuất hiện trong một Tai Họa (trừ câu 2 và 3). Theo Tử Bình truyền thống chủ yếu chỉ dựa vào câu 2 và một vài câu khác trừ câu 3. Còn theo "Manh Phái" của những người mù mà Đoàn Viết Hoạt đã khởi xướng lại không hề dựa vào các câu 2 và 3. Điều này đã chứng minh điều khẳng định của tôi phía trên là đúng. (Tiếp theo tôi sẽ lấy ví dụ của chủ đề "Mất Tích?" của Thông Giám trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net để chứng minh cho điều khẳng định này)
-
Bài viết của Tuấn Hà bên Vietnam.net: Khoa học Công nghệ Môi trường Sức khỏe Giới tính Khoa học Năm 2012 tất cả núi lửa đồng loạt thức giấc? Cập nhật lúc 17/12/2010 11:57:47 AM (GMT+7) Nhân loại dường như chưa yên tâm khi chưa thoát khỏi những lời “sấm truyền” về ngày tận thế mà những người da đỏ Maya từ ngàn xưa để lại. Từ Mặt trời thứ năm đến Mặt trời thứ sáu Các núi lửa sẽ đồng loạt thức giấc vào năm 2012. Ảnh minh họa. Các nhà nghiên cứu văn hoá cổ đại đã mệt mỏi để giải thích cho công chúng rằng người Maya không hề đưa ra những lời sấm ký, tiên đoán ngày tận thế trong lịch cổ của mình vào ngày 21-12-2012 như đồn đại. Họ chỉ nói vào ngày này là kết thúc một chu kỳ kéo dài 5126 năm của họ, hoặc Mặt trời thứ năm theo thuật ngữ của những người Anhđiêng sẽ bị thay thế bằng Mặt trời thứ sáu.. Thế nhưng nhiều người vẫn tin rằng vào đúng thời gian này một đại thảm hoạ sẽ xảy ra giết chết mọi sự sống trên Trái đất. Niềm tin ấy được củng cố bằng một phát hiện động trời mới: Vừa đây, hai nhà nghiên cứu thuộc Trường ĐH Sydney (Australia) là Bergen và Gavaiev thông báo rằng họ đã phát hiện ra những xung lực bất thường trong lòng đất. Dường như trong Lịch sử Trái đất đã có những thời kỳ tất cả các núi lửa cùng lúc phun trào và khi ấy là địa ngục đích thực. Đó là ngày tận thế của tất mọi loài sống trên Trái đất. Mặc dù có thể vài loài nào đó sống sót nhưng sẽ tiếp tục dưới một hình thức khác. Người ta có thể đưa ra các dẫn chứng về những hoá thạch khủng long đã từng làm chúa tể hành tinh đã bị diệt chủng hoàn toàn và cuộc sống đa dạng hiện nay trong đó có loài người là cuộc sống sau thảm họa. Xung lực trong lòng đất Hàng chục triệu năm về trước, rất nhiều núi lửa trên lớp vỏ Trái đất phun trào và hiện vẫn còn những điểm nóng từ các đảo từ Hawaii đến đảo Kuril, từ Iceland đến Bắc Mỹ. Người ta cũng xác định được núi lửa hoạt động mạnh vào 10, 22, 30, 40, 49 và 60 triệu năm về trước. Trung bình cứ sau 10 triệu năm chúng lại đồng loạt phun trào rất mãnh liệt. Giữa chu kỳ đó, có những đợt hoạt động mạnh vào 4, 15, 34, 45 và 65 triệu năm về trước, trung bình 5 triệu năm lại một lần hành tinh không yên ổn. Sự tuyệt chủng của khủng long cách nay 65 triệu năm, đúng vào đợt núi lửa nhất loạt phun. Những số liệu đó được ghi nhận trong lịch sử địa chất. Liệu có phải đã 10 triệu năm lại trôi qua và giờ G ấy đã đến vào năm 2012, lại rơi vào đợt núi lửa hoạt động. Đương nhiên có một giả thuyết cạnh tranh khác về hiện tượng này. Nó cho rằng khủng long bị tuyệt chủng là do sự va chạm khủng khiếp giữa Trái đất và các thiên thạch, nhưng những người phản đối thuyết này lại cố chứng minh rằng sự việc “va chạm với thiên thạch” xảy ra sau vụ núi lửa nhất loạt phun tới 200 triệu năm. Lúc đó loài bị diệt chủng là khủng long cổ (archodinaure), tiền thân của khủng long chứ không phải các loài khủng long người ta thường đào được hoá thạch. Những dung nham của núi lửa tràn khắp lãnh thổ của Siberia và Ấn Độ ngày nay. Cùng với sự diệt chủng của khủng long cổ, trên 60% thực vật cũng biến mất. Nguyên nhân của sự phun trào cùng lúc của tất cả các núi lửa chưa rõ và không thể đoán trước. Nhưng sự nguy hiểm của nó là cực kỳ khủng khiếp. Thí dụ tồi tệ từ Hoả tinh Ngọn núi lửa Olympus Mons, ngọn núi lửa lớn nhất trong hệ mặt trời. Ảnh minh họa. Ngọn Santa Helena nằm ở phía Tây nước Mỹ là một núi lửa đang hoạt động. Lần phun trào mới nhất của nó vào năm 2004. Năm 1980 nó cũng phun mạnh làm 57 người chết, một số thành phố bị bao phủ bởi một lớp tro dày. Năm 1980 ấy các nhà khoa học cũng đã đưa ra dự báo khi họ phát hiện những thành tạo dẫn diện rộng lớn và bất thường trong lòng đất ở độ sâu 15km và cho là một hốc nước lớn. Graham Hill, Viện nghiên cứu Trái đất và hạt nhân New Zealand đã dùng những thiết bị hiện đại hơn để thăm dò và kết luận đó không phải là nước mà dưới chân núi Santa Helena là một khối đất đá ở trạng thái nóng chảy kéo dài theo 2 nhánh, một nhánh 50km và nhánh kia 70km. Một kênh ngầm hẹp chạy từ đây đến lòng các núi lửa. Không loại trừ là hệ thống ấy còn kéo dài tới một vùng rất rộng bị bao phủ bởi nham thạch của Vườn quốc gia Yellowstone (bang Wyoming, Montana, Idaho - Mỹ), nơi nằm trên ngọn núi lửa lớn nhất đã nguội của lục địa gọi là miệng núi lửa Yellowstone. Nếu như tất cả những đường kênh ngầm dung nham đồng thời phun trào thì sẽ xuất hiện một miệng núi lớn khủng khiếp có đường kính vài chục kilomet và sức phụt phi thường. Hill lo sợ nói: Nó tương tự như thảm họa đã xảy ra trên sao Hoả - hiện là núi lửa lớn nhất trong Hệ Mặt trời được đặt tên là Olympus Mons. Chiều cao của “con quỷ” trên sao Hoả này là 27 km, gấp 3 lần ngọn Everest và đường kính đến 550km. Cách xa đấy một chút là 3 ngọn núi lửa khác mang tên Arsia Mons, Pavonis Mons và Ascraeus Mons, tập hợp thành một hệ. Nếu cùng phun một lúc chúng sẽ gây hại lớn cho hành tinh của chúng ta, thậm chí tiêu diệt sự sống nơi này. Điều phải cảnh giác nữa là những ngọn núi lửa khổng lồ này trên sao Hoả nằm ở cùng vĩ độ với một hệ núi lửa trên Trái đất, nằm kề bên nhau, tạo ra một siêu núi lửa. Hội địa chất London chia sẻ sự sợ hãi này. Họ đã dự báo sự phun trào của 2 siêu núi lửa ở châu Âu: trên các cánh đồng Flegrei không xa Napoli (Italia), bên cạnh đảo Kos ở Địa trung hải (thuộc Hy Lạp). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các khu vực bị nguy hiểm là Indonesia, New Zealand, Nhật, Kamchatka, Trung Mỹ. Dưới lòng đất ở những vùng này đều che giấu những bể chứa magma khổng lồ. Một trong các núi lửa ở Iceland сó cái tên rất khó phát âm khi hoạt động sẽ làm tê liệt nền văn minh nhân loại ở mức khó hình dung. Trái đất cần có thiên tai Tiến sĩ Donald DePaolo, Trường ĐH California cho rằng sự phun đồng loạt không hẳn là tai hoạ đồi với thế giới đã quá tải về dân số này, Những gì sẽ xảy ra cứ để chúng xảy ra để Thiên nhiên “lập lại trật tự” cho biết bao nhiêu vấn đề lộn xộn của hành tinh này mà loài người không tự giải quyết được. Những thiên tai không đến nỗi khủng khiếp như ta hình dung và chắc chắn không sớm như dự đoán. Kết quả cũng không bi đát đến mức gây ra ngày tận thế. Thậm chí chúng còn có ích trên quy mô toàn cầu, vì chúng sẽ điều chỉnh các điều kiện và môi trường sinh sống của chúng ta. Điều đáng quan tâm nhất là nhiệt độ. Về thực chất theo ý kiến các nhà địa hoá học, do chu trình khí cacbonic mà xuất hiện hiệu ứng nhà kính làm Trái đất nóng lên. Dường như sau 1 triệu năm khi khí cacbonic tích luỹ đến mức Trái đất sẽ “chết” vì bị ngạt thở. Nhưng nó sẽ không bị chết ngạt. Vì những trận mưa rào và bão tố đã chuyển khí cacbonic vào trong dung dịch. Hoà tan trong nước, khí cacbonic sẽ phản ứng với các chất khoáng, tạo ra vôi, bị rửa trôi ra biển và lắng đọng xuống đáy đại dương, Như vậy chính khí quyển đã đóng vai trò thu hồi khí cacbonic. Tiếp đó do sự chuyển động của các mảng kiến tạo, các lớp kết lắng này sẽ thâm nhập vào lòng đất và tại đây, ở nhiệt độ cao, chúng lại bị chảy ra. Khí cacbonic được giải phóng và lại bị “bơm” vào khí quyển khi núi lửa phun trào, làm thành một vòng tuần hoàn khép kín. DePaolo còn cho rằng, nếu các núi lửa ngừng bổ sung vào khí quyển khí cacbonic thì Trái đất sẽ biến thành một khối băng tuyết đông cứng. Tuấn Hà (Theo Pravda.ru)
-
Trước khi cuốn sách “Giải Mã Tứ Trụ” được in tôi đưa thêm phần sau vào cuốn sách. Tôi chỉ hy vọng mỗi người sửa giúp tôi một chữ sai về ngữ pháp hay nghĩa là quý báu lắm rồi. Xin chân thành cám ơn trước. Những điều cần biết về Vũ Trụ Học I - Lỗ đen và sự hình thành của nó Things need to know about the universe I - Black hole and its formation Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành. The quantitative analysis led to predict a star (like the sun) has mass at least three times the mass of our sun, at the last moment in the evolution (i.e. when the sun no longer capable of fire) then it will almost probably shrink to a critical size necessary to happen attractive decline, and a black hole is formed. Lỗ đen là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó (Chân Trời Sự Kiện, tức ranh giới mà mọi vật, kể cả ánh sáng không thể thắng được lực hấp dẫn của Lỗ Đen để có thể quay trở lại vũ trụ). Black hole is a regions in space there is big gravitational field to the level of its gravitational force not to give any material form, including light to escape its bounding surface (Event Horizon, it is the boundary that everything, including flight could not beat a black hole's gravity to be able to return to the universe). Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Chúng có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn. The supermassive black holes can have masses millions to billions times the mass of the Sun. They can be formed when a large number of stars are tightly packed in a relatively small region of space or when a large number of stars fall into a black hole initial, or upon the merger of smaller black holes. II - Hệ mặt trời, thiên hà và siêu thiên hà II - Solar System, Galaxy and Super Galaxy 1 - Một hệ mặt trời thường chỉ có một mặt trời và các vệ tinh bay xung quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau (như hệ mặt trời của chúng ta có 8 hành tinh). 2 – Các mặt trời (tức hệ mặt trời) trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám được gọi là các thiên hà (như hệ mặt trời của chúng ta nằm trong thiên hà Miky Way - còn gọi là Ngân Hà - có khoảng 300 tỷ mặi trời). 1 - A solar systems usually has only one sun and the satellites turn around it with different orbits (like our solar system has eight planets). 2 - The suns (i.e. the solar systems) in cosmos usually clustered near together creating crowds which are called galaxies (like our solar system lies in Miky Way galaxy which has about 300 billion suns). 3 - Các kính thiên văn hiện đại ngày nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ. Trong đó các thiên hà cũng quần tụ gần nhau tạo thành những đám có số lượng khác nhau (khoảng vài chục hay vài trăm và thậm trí tới vài nghìn) và người ta đã gọi chúng là các siêu thiên hà. 4 - Tại tâm của mỗi thiên hà hay mỗi siêu thiên hà có một lỗ đen siêu lớn, cùng với thời gian nó dần tiêu diệt (hút) các mặt trời và các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều (?) và cướp lấy khối lượng của chúng. 3 - Modern telescopes now provided evidence shown having about one hundred and seventy billion galaxies in the universe. Among them galaxies clustered near together creating crowds having number of difference (about a few dozen, a few hundred or even to several thousand) and people call them the super galaxy. 4 - At the center of each galaxies or each super galaxies have a supermassive black hole, along with time it gradually destroies (suck) suns and the surrounding satellite galaxies by tidal forces (?) and seizes their masses. III - Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?) III - Yin yang and the five elements are the axioms in Oriental Theology (?) Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau: Trong vật lý thiên văn, một Lỗ Trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược lại với nó là một Lỗ Đen vốn hút mọi vật chất kể cả ánh sáng. Oriental Theology which is also similar like in mathematics must be built on of some axioms. Consequently via physics prism, I admit yin yang and the five elements are the axioms derived from two basic concepts in modern physics being a white hole and black hole as follows: In astrophysics, a white hole which is a hypothetical object gushs matter and opposed to it to be a black hole which sucks all matter including light. Tôi xin trình bầy từng bước quan điểm này như sau: 1 – Qua định luật vạn vật hấp dẫn cổ điển của Newton mà loài người đã biết đến sự tồn tại của hệ mặt trời bởi sự tương tác hấp dẫn của mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không thể tách rời nhau qua vài tỷ năm. I would like to present gradually of this view as follows: 1 - Through the law of classical universal gravitation of Newton that humans have known the existence of the solar system by the gravitational interaction of the sun with 8 planets in our solar system can not be separated by some billion of years. 2 – Các mặt trời ở gần nhau đã tạo thành Thiên Hà (hay Ngân Hà khoảng nhiều tỷ mặt trời). Vậy thì chắc chắn phải có một lực hấp dẫn nào đó đã giữ chúng tồn tại gần với nhau qua bao tỷ năm như vậy, nếu không thì chúng đã trôi nổi trong vũ trụ giống như nếu không có lực hấp dẫn giữa mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta thì hệ mặt trời của chúng ta đã không thể tồn tại tới ngày nay. 2 - The suns which are near each other create the galaxy (many billion solars). So surely there must be a gravitational force that has kept them close to each other surviving through so many billion of years, if not they would be dispersed in the universe same as if no gravity between the sun with the eight planets in our solar system then our solar system could not exist to today. Qua sự giúp đỡ của các kính thiên văn hiện đại người ta dự đoán có vật thể bí ẩn đã hấp dẫn giữ các mặt trời lại để tạo thành Thiên Hà và vật thể bí ẩn này người ta gọi là Lỗ Đen. Từ đây chúng ta có thể suy ra trong mỗi trung tâm của mọi Thiên Hà phải có một Lỗ Đen là một điều hợp lý. Through the help of modern telescopes, humans predicted having a mystery object which are intriguing to keep the suns creating a galaxie and this mystery object which is called a black hole. From this we can deduce in each center of each galaxy having a black hole is a logical thing. 3 – Người ta còn nhận thấy các Thiên Hà trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám có số lượng khác nhau và người ta gọi chúng là các siêu Thiên Hà. Dĩ nhiên chúng cũng giống như các Thiên Hà, tâm của mỗi siêu Thiên Hà cũng phải tồn tại một Lỗ Đen rất lớn để giữ các Thiên Hà không bị tản mát trong vũ trụ bao la. 3 - People still realize galaxies in the universe usually clustered near together creating crowds having number of difference and people call them super galaxies. Of course they are like galaxies, the center of each the super galaxy must also have a great black hole to keep galaxies not to be dispersed in the vast universe. Vậy thì các Lỗ Đen chỉ có một nhiệm vụ hút mọi vật, kể cả ánh sáng khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“. Nếu chỉ có các Lỗ Đen thì vũ trụ ngày nay chắc rằng chỉ còn là một mầu đen bởi vì tất cả mọi vật đều bị Lỗ Đen nuốt hết nếu chúng ta thừa nhận thời gian là vô tận. So black holes have only one task sucking all things, including light if them unfortunately go into "Event Horizon". If there are only black holes then the universe today is only still a black because all things were swallowed by a black hole if we recognize time is infinite. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta bắt buộc phải đưa ra khái niệm về Lỗ Trắng. Mặc dù người ta không thể nhìn thấy các Lỗ Đen mà chỉ dự đoán được sự tồn tại chúng qua lực tương tác của chúng với các vật xung quanh còn các Lỗ trắng thì người ta có thể nhìn thấy được chúng nhưng tại sao người ta lại chưa phát hiện được chúng trong vũ trụ? Theo tôi bởi vì các Lỗ Trắng chỉ xuất hiện trong một thời gian cực ngắn (khoảng một vài giây?). To resolve this contradiction, people compel having to give out concept about a white hole. Although people can not see black holes that they only could predict existence of them through their interaction forces with objects in surroundings, while people can see white holes but why do people have not yet discovered them in the universe? In my opinion because white holes appear only in a very short time (about a few seconds?). Vậy thì Lỗ Đen và Lỗ Trắng là hai vật thể khác nhau hay không? Theo tôi chúng chỉ là một bởi vì chả có vật nào như Lỗ Đen cứ hút mãi và cũng chả có vật nào như Lỗ Trắng cứ phun mãi. Điều này có thể giải thích là khi Lỗ Đen hút mãi tới một mực độ nào đó thì nó sẽ bị bội thực và thế là nó phải phun ra để trở về trạng thái (Lỗ Đen) bình thường của nó. Các vật bị nó phun ra không thể bay theo chiều đó vào vũ trụ mãi được mà chúng chỉ bay tới một giới hạn nào đó thì chúng phải dừng lại bởi lực hấp dẫn của Lỗ Đen đã khống chế chúng (?). Therefore a white hole and black hole are two different objects or not. In my opinion they are just an object because there is not anything as black holes which forever suck all matters as well as there is not anything as white holes which forever gush matters. This may explain when the black hole sucks until a certain level, then it will suffer from indigestion and that it must gush to return to its normal state (a black hole). Any materials which are gushed by it can not fly forever according to that direction in space that they only fly to a certain extent then they must stop by gravitational force of the black hole which has controlled them. Lỗ Đen, Lỗ Trắng và các vật thể bị Lỗ Đen đó khống chế đã tạo thành một Vũ Trụ Nhỏ tồn tại với thời gian vô tận. Các Vũ Trụ Nhỏ này liệu có bị các vật thể lạ trong vũ trụ bao la bén mảng tới gây phiền phức hay không? Điều này tôi chưa được biết. A white hole, a black hole and objects which are restrained by a back hole have created a Small Universe existing for infinite time. This Small Universe is whether there were strange objects in the vast universe coming to cause trouble or not. This I do not yet know. Từ mô hình Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi đã suy luận rằng Thái Cực chỉ là một khái niệm để mô tả tại thời điểm khi mà Lỗ Đen bắt đầu trở thành Lỗ Trắng. Còn Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương của Vũ Trụ Nhỏ này, trong đó Âm và Dương là nói đến cặp phạm trù đối lập, theo cách hiểu đơn giản nhất. From model of this Small Universe I have deduced that Primary Primciple is only a concept to describe at point of time when a black hole starting to become a white hole. While yin yang and the five elements are the axioms in Oriental Theology of this Small Universe, among that Yin and Yang talk about pair of opposite categories, according to the most simple understanding way. I – Tiên đề Âm Dương Người ta có thể ứng dụng các tiên đề Âm và Dương để giải thích các khái niệm cơ bản trong cái Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi tạm thời phân chúng thành 3 dạng : Đơn tính, lưỡng tính và vô tính. I - The Yin-Yang axiom People can apply the Yin and Yang axioms to explain the basic concepts in this Small Universe that I am temporary dividing them into 3 forms : Unisexuality, hermaphrodism and non-sexual. 1 - Đơn tính (có nghĩa là chỉ cần một trong 2 phạm trù đối lập của Âm và Dương có thể sinh sản được). Đây chính là các trường hợp mà Âm và Dương đại diện cho các cặp phạm trù đối lập có thể chuyển hóa cho nhau mà thực tế đã được chứng minh qua phương trình năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). 1 - Unisexuality (i.e. only needs one in two of opposite categories of yin and yang, then it can breed). This is cases that Yin and Yang represent pairs of opposite categories which can convert each other that in practice it has been proven through the energy and mass equation can transform each other of the genius scientist Albert Einstein : E = mc² (in which E is energy, m is mass, c is speed of light). Trong thực tế người ta đã biến khối lượng thành năng lượng (bom nguyên tử) thì không có lý do nào mà năng lượng lại không thể biến thành khối lượng, cái mà ngày nay người ta đang gọi nó là “Hạt của Chúa”. In practice people have turned mass into energy (atomic bomb) then there is no reason that energy can not be turned into mass what today people are calling it "The Particle of God". Ngay cả khái niệm bên phải và bên trái cũng có thể xếp vào loại này bởi vì nếu một người khi đi mãi về phía tay phải thì sau khi đi vòng quanh quanh trái đất, người đó dĩ nhiên sẽ tới bên trái của đối tượng làm mốc xuất phát lúc trước. Even concepts of on right and on left can also be arranged in this form because if a person going forever on the right side then after walking around the earth. Of course that person will go to on the left of object which is made landmark to start departure before. Tương tự như bên trên và bên dưới cũng có tính chất này nếu chúng ta thừa nhận mọi điểm trên mặt đất đều có một trục từ trường ảo như trục từ trường bắc nam của trái đất. Nếu như vậy thì bất kỳ vật nào đi lên phía trên mãi mãi rồi sẽ phải trở về mặt đất ở một điểm bên đối diện của trái đất và rồi nó nó đi theo trục của trái đất tại điểm đó sẽ đến bên dưới của đối tượng làm mốc mà từ đó nó đã bắt đầu đi lên phía trên. Same as above and below also have this property if we admit every point on the earth having a virtual magnetic axis same as the south north magnetic axis of the earth. If so then anything going up the upper side forever will have to go back to the ground at a point of opposite side of the earth, and then it goes according to the earth's axis at that point to underneath of a object which is made landmark, that from which it started going up the upper side. Lỗ Đen và Lỗ Trắng cũng là một cặp phạm trù đối lập của Âm và Dương. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, đó chính là cuộc đời của các Vũ Trụ Nhỏ đang tồn tại mà ngày nay chúng ta vẫn đang nhìn thấy bằng mắt thường. A white hole and a black hole are also a pair of opposite categories of Yin and Yang. They can convert each other, those are the life of the Small Universes which are existing that today we still see them with the naked eye. 2 – Lưỡng tính (có nghĩa là phải có sự kết hợp cả hai phạm trù đối lập của Âm và Dương mới sinh sản được). Đây chính là các trường hợp Âm và Dương được áp dụng cho các phạm trù đối lập không thể chuyển hóa được cho nhau mà muốn tồn tại phải có sự tác động của cả hai phạm trù đối lập này. Một trong các ví dụ hiển nhiên là con người cũng như động vật. Âm và Dương ở đây được đại diện cho giống đực và giống cái. Chính có sự tác động giữa hai đối tượng này mà con người và động vật còn tồn tại và phát triển tới ngày nay. 2 - Hermaphrodism (i.e. there must be combination both opposite categories of yin and yang then they can newly breed). This is cases that Yin and Yang which are applied for airs of opposite categories which can’t convert each other that want to exist there must be impact of both opposite categories. One obvious example is human as well as animals. Yin and Yang here represent male and female. Main has impact between two these objects that human being and animal newly exist to today. Âm và Dương còn có thể đại diện cho cả động vật và thực vật bởi vì phải có sự tác động của cả 2 đối tượng này thì chúng mới có thể cùng tồn tại và phát triển tới ngày nay (xem giải thích ở dưới). Yin and Yang can still represent for animals and plants because there must be impact of both these objects then they can newly exist and develop to today (look at explanation below). 3 - Vô tính (có nghĩa đây là các dạng phạm trù đối lập của Âm và Dương không có khả năng sinh sản) : Đây là các trường hợp mà Âm và Dương không thể chuyển hóa và tác động được với nhau. Một trong các ví dụ này là các khái niệm như đen và trắng; tốt và xấu; …… 3 - Non-sexual (i.e. this is cases that Yin and Yang represent pairs of opposite categories don’t have the ability to breed). This is cases that Yin and Yang represent pairs of opposite categories which can’t convert and impact each other. One of these examples are concepts like black and white, good and bad; ... II – Tiên đề Ngũ Hành Ngũ hành là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ và Kim. Chúng có các tính chất tương sinh như Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và rồi Thủy lại sinh cho Mộc… .Và tính chất tương khắc như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy và rồi Thủy lại khắc Hỏa….. Người ta đã ứng dụng các tiên đề này để mô tả gần như mọi quy luật phát triển của thế giới tự nhiên đều tuân theo quy luật của một vòng tròn khép kín. II - The five-element axiom The five elements is Water, Wood, Fire, Earth and Metal. They have The reciprocal generating property as : Water can generate Wood, Wood can generate Fire, Fire can generate Earth, Earth can generate Metal, Metal can generate Water and Water can generate Wood agant.... And the the reciprocal ruinous property as : Water can ruin Fire, Fire can ruin Metal, Metal can ruin Wood, Wood can ruin Earth, Earth can ruin Water and Water can ruin Fire again... People applied these axioms to describe almost all the rules of the development of the natural world complying with the rule of a closed circle. 1 - Các ví dụ về quy luật của vòng tròn khép kín : a - Chu kỳ Sinh Thành Lão Tử của con người và động thực vật (chúng đều được sinh ra, trưởng thành, suy yếu, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra…). b - Chu kỳ của động vật và thực vật (động vật ăn rau, hoa quả, thu O2 và thải ra phân, khí CO2 , còn thực vật thì ngược lại. Rõ ràng chúng đã tạo ra quy luật của một vòng tròn khép kín). c – Chu kỳ của nước biển nóng do mặt trời chiếu đã bốc hơi lên cao, được gió thổi vào đất liền, khi tới độ cao đủ lạnh, hơi nước ngưng tụ thành nước rơi xuống chẩy thành các dòng sông ra biển và rồi chúng lại bốc hơi….. 1 – Examples of the rule of a closed circle: a – The Birth Maturity Aging Death Cycle of humans, animals and plants (they are born, then maturity, aging, death and reincarnation to be born ...). b – Cycle of animals and plants (animals eat vegetables, fruits, inhaling O2 and eliminate gas co2 and excrement while plants are contrary to animals. Clearly they have created a rule of a closed circle). c – Cycle sea water is warmed by sunlight to rise high, it is blown by winds into mainland when to altitude enough cold, water vapour condenses into droplets and fall forming rivers that flow into the sea and then they rise high again....