-
Số nội dung
779 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Bồng
-
Thiệt đúng nghĩa...sư huynh sư tỉ... Thiên Đồng ơi...sẵn đây...kêu thêm thùng bia nữa... Nòng Nọc này... Lỡ trên đe...dưới búa rồi... Đành thôi... Cũng liều nhắm mắt đưa chân... Thử xem con tạo xoay vần đến đâu...
-
Thiệt tình không biết trả lời sao...! Ngày mình cưới vợ... Bạn bè xuýt xoa... Trâu già...mà kiếm được cỏ non... Hay quá... Già đầu...lại dụ được con nít... (Vợ nhỏ hơn mình 9 tuổi)... Mình chỉ biết...hểnh mũi mà cười thôi... Để rồi sau đó...thật mau... Mới vỡ lẽ... Già đầu...còn bị con nít dụ... Có một câu không sai... Con gái, ai cũng dễ thương... Chỉ có vợ là dễ ghét thôi... Ngẫm xem xem...
-
Chắc không vậy!?... Sao nghe chốn giang hồ đồn rằng... "Đường đến trái tim ngắn nhất...là đường qua...bao tử..." Mà đã phải qua bao tử...là phải tốn ít "xiền" rồi...
-
TỤNG KINH Một nông dân nhờ một vị tăng phái Tendai tụng kinh cho vợ anh ta vừa mất... Sau thời kinh, anh hỏi: "Ngài có tin rằng vợ tôi hưởng được phước đức của thời kinh không?" "Chẳng những chỉ vợ của gia chủ mà tất cả chúng sanh đều được hưởng cả" vị tăng trả lời. "Nếu ngài bảo mọi chúng sanh đều được phước” người nông dân bảo, "vậy thì họ sẽ dành hết vì vợ tôi rất yếu đuối. Xin ngài chỉ tụng kinh cho vợ tôi thôi." Vị tăng giải thích rằng người Phật tử nào cũng muốn hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh. "Ðó là một giáo lý cao thượng” anh nông dân kết luận, "nhưng xin ngài dành cho một ngoại lệ. Tôi có tên láng giềng thô bạo hằng xử tệ với tôi. Xin ngài loại nó ra khỏi cái thành phần chúng sinh kia nhé." (101 CÂU CHUYỆN THIỀN - Sưu tầm)
-
NGƯỜI NGHỆ NHÂN THAM LAM Gessen là một vị tăng họa sĩ. Trước khi vẽ ngài luôn đòi hỏi phải được trả tiền trước và lệ phí rất cao. Ngài bị mang tiếng là "Nghệ nhân tham lam." Có một lần, một cô đầu geisha đặt hàng cho một bức tranh. "Cô trả được bao nhiêu?" Gessen hỏi. "Với giá ông đòi," cô gái trả lời, "nhưng tôi muốn ông vẽ trước mặt tôi." Một ngày kia cô đầu gọi Gessen đến. Nàng đang mở tiệc đãi khách. Gessen với ngòi bút tài tình hoàn tất bức tranh, và đòi cái giá cao nhất. Cô gái trả tiền và nói với khách quí: "Nghệ nhân này chỉ chú ý đến tiền. Tranh của y đẹp đấy nhưng tâm hồn của y thì nhơ bẩn; đồng tiền đã làm cho nó thành bùn lầy. Vẽ với tâm hồn nhớp nháp như vậy, tranh của y không đáng để triển lãm. Nó chỉ đáng cho cái quần lót của tôi thôi." Nói liền, nàng vén váy bảo Gessen vẽ bức khác phía sau quần lót của nàng. "Cô sẽ trả bao nhiêu?" Gessen hỏi. "Ổ, thì bất cứ giá nào," cô gái trả lời. Gessen đòi một giá thật cao, vẽ xong bức tranh theo yêu cầu, rồi bỏ đi. Về sau người ta biết được lý do vì sao Gessen tham tiền: Trận đói thường xảy ra ở vùng ngài ở. Kẻ giàu không muốn cứu giúp người nghèo, nên Gessen lập một nhà kho bí mật không ai biết, gạo lúa luôn đầy ấp để phòng cứu đói. Con đường từ làng của ngài đến ngôi Quốc tự hư hỏng quá nặng và nhiều khách thập phương khốn khổ vì nó. Ngài muốn xây một con đường tốt hơn. Sư phụ của ngài qua đời mà không biết ước nguyện của Gessen là xây cho thầy một tự viện, và Gessen quyết xây cho xong. Sau khi hoàn tất ba điều ước nguyện, ngài vứt bút cọ và vật liệu, về ở ẩn trong núi, không bao giờ vẽ lại nữa. (101 CÂU CHUYỆN THIỀN - Sưu tầm)
-
"Chị" lại chém "em" rồi... Bãi đáp nào an toàn...bằng cái "Tâm" của mình chứ... (Hơi cao giọng một chút..."chị" bỏ qua cho...) Tào Tháo là người "em" chúa ghét... "Ta thà phụ người, không để người phụ ta" Thích chăng...là vợ Tào Tháo thôi... He he...
-
Dzụ này, bả mà biết, bả "trảm đào hoa" liền á... May mà chỉ...ntpt... biết lá số này... Hèn chi... không nói chuyện thì thôi... Nói vài câu...là có người "kết" liền... Cứ tưởng...mình bị "hoang tưởng"... Ai dè...lá số mình là như vậy... Cao thủ thiệt...! Nòng Nọc ngả mũ vậy... Xin hỏi: Vậy thì... nên tới luôn bác tài... Hay nên tu đây... Tu thì hơi "tiếc" thiệt... Còn tới luôn thì..."chết" chắc... Có câu: Đừng để con cừu chết giữa hai bó cỏ non... Lại có câu: Dưới miếng mồi thơm, tất có một con cá chết... Ô hô! Thiện tai... Thiện tai... Thiên tài... Thiên tài...
-
Hồi xưa, nghe kể chuyện 2000 năm trước rằng... Có một thanh niên đến hỏi nhà hiền triết Aristos (Hy Lạp thì phải)... - Con sẽ lấy vợ chứ...? Aristos im lặng... - Con sẽ không lấy vợ...? Aristos lại im lặng... Người Thanh niên bực mình quay lưng đi... Nhưng vẫn nghe loáng thoáng sau lưng... Tiếng thở dài của nhà hiền triết kèm câu nói... -Đường nào thì cuối cùng...con cũng hối hận hết... Bây giờ mới biết... Tại sao những người được cho là "ngộ"... Thường hay im lặng... Híc...
-
Đã Băm rồi thì Băm cho nhuyễn cái!Gì mà...Không-Kỵ, Liêm - Phá... Đào Hồng Hí... Thai Phục Vượng Tướng, Địa Không... Nghe như thần chú ấy... Giải thích giúp xíu xiu đi... Thanks!...
-
Nhớ mẹ...quá hà... Hồi nhỏ sống với mẹ... Nghĩ là...bị đàn áp quá... Làm gì cũng phải xin phép... Muốn mua gì, cũng phải ngửa tay...xin tiền... Mong một ngày thoát ly gia đình... Để sống tự lập... 20 tuổi... được như ý... Tung tăng được 12 năm... Chọc trời, khuấy nước mặc dầu... Dọc ngang nào biết trên đầu có ai... Ngày xưa đó... sao vội quên... Dại dột đi...cưới vợ... Để rồi trở lại... Những ngày xưa..."thân ái"... Làm gì cũng phải xin phép... Muốn mua gì, cũng phải ngửa tay...xin tiền... Nhưng khác ngày xưa ở chỗ... Tiền ngày xưa là của mẹ ta... Ta xin cho ta... Tiền bây giờ ta xin... Chính là tiền của ta làm ra và...bị "trấn lột"... Càng nghĩ...càng thương mẹ ta nhiều hơn... Híc... Ôi! mẹ ơi... Bây giờ... Mỗi lần nhận...thiệp hồng từ ai đó... Với khuôn mặt rạng rỡ của người trao... Ta chỉ biết cảm khái mà rằng... "Lại một người nữa giống như tôi... Tương lai thật đen tối... Lại một người nữa giống như tôi... Lạc vào vòng... mê muội..."
-
Sao lai quên... Chân lý đó...là do Nòng Nọc này...phát hiện... Từ khi Adam...bị dụ...cắn quả táo... Nhưng mà... Nam nhi chi chí....(nữ nhi có...chí)... Sao lại sợ nhỉ... Mình chỉ chiến thui... Đâu có...cắn... Mà rợ...như rắn chứ...
-
Mong mẹ ntpt mau mạnh khỏe... Thật lòng đấy... @ Mr. Thiên Luận... Phụ nữ là thế... Mái tóc và trí óc... Tỷ lệ nghịch...
-
Ủa, kỳ! Ai chiến trước...rồi người ta đáp trả lại...rồi kiu dừng... Trước khi...kiu dừng...đòi đè chết người ta mới chịu... Giọng điệu...sao giống Bắc Triều Tiên quá...
-
Cái hay của đuôi Nòng nọc là không cần ngưới khác ngắt...mà mình tự ngắt... Khi đuôi ngắt rồi...thì Nòng nọc không còn là Nòng nọc nữa...mà lên le-vồ (level) khác...cao hơn... Như là Cóc hay Nhái chẳng hạn... Chỉ có Thằn lằn thì không như thế... Nên ntpt (nick ngắn ngủn, như đuôi thằn lằn... :) ) chớ có hù...đồng loại như thế... Sợ quá hà... :(
-
Hú Hồn! Con gái lớn mình mới 04 tuổi... Hy vọng nó không đọc được tin này trên báo... Rùa Vàng... :D
-
Vậy mà có kẻ dám bảo mình rằng... Người đi một nửa hồn tôi chết, một nửa hồn tôi đứng... chửi thề ... Híc...
-
Đúng vậy! Bản chất đồng tiền chẳng nghĩa lý gì cả... Ý nghĩa hay không nằm ở... số lượng kìa! :D :P :(
-
Một bà góa nhờ thầy gọi hồn chồng mình... Hồn hiện về...bà ta hỏi: - Ông lúc này ra sao...cuộc sống như thế nào? Hồn trả lời: - Ơn trời!... không đến nỗi...nhưng sung sướng hơn lúc còn ở với bà nhiều lắm... - Ồ! vậy sao?....Ông đang ở trên thiên đường à...! - Không! Địa ngục...! Nói tới đây...hồn thăng...
-
Không đau vì...quá đau...!
-
VÂNG LỜI Khi thiền sư Bankei thuyết pháp, thính giả không những chỉ là thiền sinh mà còn có mọi hạng người của các tông phái khác. Ngài không bao giờ trích dẫn kinh sách hoặc say sưa biện luận. Thay vào đó, lời ngài giảng đi thẳng vào tâm người nghe. Thính chúng đông đảo của ngài làm cho một vị tăng của phái Nichiren tức giận, bởi vì ngay cả đồ đệ của ông ta cũng bỏ đi nghe thiền. Vị tăng cao ngạo kia quyết định tìm đến thiền đường để tranh biện với Bankei. "Này, ông giáo thiền kia!" vị tăng gọi lớn. "Ðợi một chút. Ai kính phục ông đều nghe lời ông cả, nhưng một kẻ như ta đây không hề phục ông. Vậy ông có thể làm cho ta vâng lời ông được chăng?” "Hãy đến gần đây, ta sẽ chỉ cho" Bankei nói. Với vẻ tự đắc, vị tăng nọ vạch đám đông bước đến. Bankei mĩm cười bảo "Ông hãy sang bên trái ta." Vị tăng làm theo. "Không" Bankei nói, "Chúng ta có thể nói chuyện dễ hơn nếu ông bước sang bên phải. Hãy qua đây." Ông tăng lại vênh váo bước sang bên phải. "Ông thấy không" Bankei nhỏ nhẹ, "ông đang tuân theo lời ta và ta nghĩ ông cũng là một người rất tốt. Bây giờ hãy ngồi xuống và lắng nghe." (101 CÂU CHUYỆN THIỀN - Sưu tầm)
-
CON RUỒI Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu . Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình. Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi . Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó! Tôi ốm. Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa . Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi . Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, "đẹp" kinh khủng! Thế là mọi chuyện bắt đầu . Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm. Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi . Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn. Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi: - Sao vậy anh? Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn: - Có người chết trôi kia kìa! Vợ tôi cầm ly sữa lên: - Chết rồi! Ở đâu vậy cà? - Còn ở đâu ra nữa! - Tôi nhấm nhẳng - Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à! Vợ tôi nhăn mặt: - Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào! - Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết! Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi: - Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác. Tôi vẫn chưa nguôi giận: - Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi! Vợ tôi trố mắt: - Nó còn trong ly kia mà! - Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi . - Anh thấy sao anh còn uống? - Ai mà thấy! - Không thấy sao anh biết có hai con? Tôi tặc lưỡi: - Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền. Vợ tôi bán tính bán nghi . Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm: - Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em... Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy . Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang: - Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy ? Vợ tôi giật mình: - Anh bảo sao ? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời ? - Chứ không phải sao ? - Không phải! À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt: - Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh? - Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em! - Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả ? Cô nói với người ốm như thế hả ? Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà... Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang: - Em đâu có nói vậy! - Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay ? Cô trả lời xem! Vợ tôi nhún vai: - Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi ? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc? Tôi khoát tay: - Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy ngàn bạc cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra ? - Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi bóng đá bị mất xe đạp? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị lột mất đồng hồ? Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy . Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau . Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt radio đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v..., chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng. Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi: - Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi! Vợ tôi lạnh lùng: - Tùy anh! Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa . Tôi nghiến răng: - Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ! Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ. Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì. Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài . Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được! Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa . - Cô định làm gì đấy ? - Đem đổ đi chứ làm gì! - Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ! Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại . Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra . Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu...lá trà. (-1982- Nguyễn Nhật Ánh - Chuyện cổ tích dành cho người lớn)
-
Lang thang trên mạng, chộp được bài này... Thấy thật hay... Nên chia sẻ vậy...! NGƯỜI VIỆT TRUNG DUNG Tác giả: Thu Tứ Trung Quốc: tưởng vậy mà... Về cái ăn, ta đứng giữa Hoa, Nhật Về cái uống, ta đứng giữa Hoa, Nhật Về cái ở, cái... tắm, cũng thế Về cái mặc, cũng vậy Về cái chơi: vẫn Hoa-Việt-Nhật Trung dung không phải trung bình Trung Quốc: tưởng vậy mà... Xã hội Trung Quốc tổ chức theo Nho giáo hơn hai nghìn năm. Ðạo Khổng bền, hẳn có hợp với người Tàu. Khổng Tử đề cao thái độ trung dung. "Trung là không thái quá, không bất cập"(1). "Dung là bất dịch, là không thay đổi"(2). Trung dung nghĩa luôn luôn chừng mực. Vậy người Tàu ít cực đoan. Chuyện hợp lý, gần đây bỗng sinh ngờ vực. Vài quan sát ngẫu nhiên một hôm gây thắc mắc. Bèn thử đặt lại vấn đề. Về cái ăn, ta đứng giữa Hoa, Nhật Vạn sự khởi đầu vào một cuối tuần ăn uống khá lăng nhăng, sáng phở bò Tiểu Sài Gòn, trưa mì vịt tiềm phố Tàu. Dùng xong bát mì béo ngậy, loanh quanh giây lát giữa đám đông người Hoa trong khu mua sắm, chợt nhận thức có khác nhau đáng kể giữa hai món ăn cơ bản của hai láng giềng Á Ðông. Có phải cùng sợi, nước, thịt, mà phở "nhẹ", "thanh", "tươi" hơn mì? Phở chỉ là một trong nhiều món ngon của dân tộc. Tập hợp tất cả món ăn phổ thông cả nước, nêu đặc tính chung, đem so với cái ăn bên Trung Quốc, thấy gì? Rõ ràng thực đơn Việt gồm khá nhiều món thịt cá dùng tái, thậm chí sống, với gia vị tươi; trong khi người Tàu luôn nấu thật chín và thường ướp gia vị khô như bột ngũ vị hương. Trong danh phẩm My country and my people, Lâm Ngữ Ðường tiết lộ: "Bí quyết của nghệ thuật nấu nướng Trung Quốc là ở cách pha trộn hương vị."(3) Ông ví dụ món thịt heo hầm măng và món thịt gà xào cải. Nấu thành công thì hương vị thịt heo / gà ngấm vào măng / cải, hương vị măng / cải lại ngấm vào thịt heo / gà, làm cho cả thịt lẫn rau cùng trở nên "hợp khẩu" hơn. Họ Lâm viết giọng tự tin, nhiệt tình. Ngon hơn hay không, nấu như thế hẳn mọi thứ nguyên liệu đều chín kỹ. Người Việt cũng không thích ăn đơn hương, độc vị. Nhưng ta có cách pha trộn riêng của ta. Hãy nghe Ðinh Hùng, thuở ấy là một thiếu niên ngưỡng mộ Tản Ðà, tả thi sĩ tửu đồ dùng bữa: "...nhà thơ bày la liệt những đĩa, những chén nho nhỏ xinh xinh, đựng linh tinh các món gia vị: chút tương vàng óng, chút nước mắm ô long nâu thẫm, những trái ớt đỏ tươi, những quả chanh cốm xanh ngắt, và đĩa rau riếp thái nhỏ điểm lên những cánh rau thơm, rau mùi, rau ngổ hái ngay ở vườn nhà, và đĩa rau muống chẻ non bẽo thứ rau muống Sơn Tây trắng nõn như ngó cần không thiếu từ chút hạt tiêu sọ, thêm cả một con cà cuống băm, mấy củ hành hoa, đĩa lạc rang, vài chiếc bánh đa vừng..."(4) La liệt xung quanh Tản Ðà, tóm tắt, là ngồn ngộn hương vị rau cỏ tươi sống. Trong tùy bút Ăn... mùi, Võ Phiến so sánh gia vị tươi với thành phần của một ban nhạc: "Trong một dĩa rau thơm, mùi nọ lẫn với mùi kia, tôn nhau lên, chế hóa nhau: đó là một cuộc hòa tấu, một bản nhạc mùi."(5) Chỗ lý thú là người Tàu hòa nhạc trong chảo, trong nồi, còn ta tấu trong miệng, khi nhai! Chẳng cần đông đảo linh đình, miếng thịt bò nhúng giấm chấm mắm nêm kèm khế, chuối chát, hay miếng bê thui tương gừng thêm vài lá ngổ, càng nhai thịt và gia vị càng "tôn nhau", "chế hóa nhau" cách kỳ diệu, ăn ngon... mệt nghỉ. Người Việt ăn sống hơn người Tàu, vậy họ trung dung ta cực đoan chăng? Thử xem qua món sushi của người Nhật, một dân tộc Á Ðông khác. Dân xứ Phù Tang có thể ăn "tươi" gần như tất cả các loài dưới nước, kể cả tôm! Và họ ăn gần như không gia vị: miếng hải sản sống trăm phần trăm, mảnh rong nướng, chút tương cải xanh, chút xì dầu, là toàn thể "ban nhạc". So với món gỏi cá sống của ta, vốn dùng với rất nhiều rau thơm để át vị tanh, thì sushi "sống sít" hơn thấy rõ. Về cái ăn, dường như người Tàu "thái quá", người Nhật "bất cập", chính người Việt mới đích thị "trung dung"! Về cái uống, ta đứng giữa Hoa, Nhật Ai cũng biết các dân tộc Á Ðông thích uống trà. Có lẽ ít người để ý chỗ khác nhau giữa trà Tàu, trà Nhật, trà Việt Nam. Người Trung Quốc uống trà lâu đời, viết thành sách nổi tiếng: Trà kinh. Người Nhật cũng lừng danh thế giới với trà đạo. Người Việt, ở đất gốc phía bắc, tuy chẳng sách vở đạo điếc gì, cũng uống trà nhiều như ai. Trà ta tức chè Thái có bản sắc mạnh mẽ. Trà Tàu chia ba loại chính, chủ yếu phân biệt ở mức độ chế biến, gồm hai giai đoạn ủ và sao. Chế biến kỹ nhất là "trà đen", nước pha màu nâu đậm; chế biến vừa là loại trà Ô Long như Thiết Quan Âm, nước màu vàng sẫm; chỉ sao, không ủ, là "trà xanh", như Long Tỉnh, nước pha vàng nhạt (6). Dù có thuộc loại chế biến nhẹ nhàng nhất, chén trà Tàu vẫn không còn giữ bao nhiêu hương vị của lá trà tươi. Nhất là vị, tuyệt đối không còn chát. Trà Nhật, ngược lại, hương vị tươi sống gần như... sushi! Nhớ đôi lần dự trà đạo, nâng chén trà, ngắm nghía mà... ngần ngại. Vì loại trà quý của Nhật có màu xanh lè, xanh như ten đồng, như nước Hồ Gươm! Nhớ trong Trà đạo, Okakura Kakuzo có tả "cái chén đựng chất nước xanh lục"(7) mà đệ nhất trà nhân Rikyu dâng lên cho chúa Taiko Hideyoshi. Ôi, màu xanh... rùng rợn! Các loại trà phổ thông màu sắc bình thường hơn, xanh vàng. Trà Nhật gần như không hương, vị chát đậm, hơi tanh (?). Trà Thái Nguyên của ta, nếu giống tốt, hái đúng lứa, chọn toàn búp và hai lá non sát búp (gọi là hái "một tôm hai lá"), xong đem "xao suốt", tức sao liên tục, một hơi, trên lửa than củi đượm, thì kết quả sẽ... vô cùng rực rỡ. Màu "xanh anh ánh", vị vừa "chát khiêu khích" vừa "ngọt sâu thẳm", hương "hết sức dịu dàng"(8). Cái hương quái lạ, "lúc chén trà đang bốc khói, nâng lên ngang tầm mũi, cứ tưởng như nhà ai vừa mới mở cái nắp vung của một chõ xôi gạo nếp cái hoa vàng"(9). Cái hương ấy có thể thưởng thức cách hoàn toàn không tốn kém là mở nắp lọ chè đưa lên mũi ngửi. A, hương chè, hay chính mộc mạc hương quê! Xét về độ tươi sống, hiển nhiên trà Việt Nam đứng giữa hai thứ "trà đạo" và "trà kinh". Về cái ở, cái... tắm, cũng thế Ăn, uống, tuy chuyện "phàm tục", thường tình, vẫn thỉnh thoảng được nhắc đến cách đặc biệt trong văn học. Cái "ở" kém thế hơn một chút, hiếm khi chiếm địa vị chủ đề. Mặt khác, nhà cửa lại là khung cảnh sinh hoạt chính của đa số, nên viết gì thì viết, lắm lúc văn gia không khỏi mất đôi dòng về... cái nhà. Trần Trọng Kim, nhân bôn ba hải ngoại, có dịp quan sát kỹ kiến trúc và lối trang trí nhà cửa bên Trung Quốc. Ông phát biểu minh bạch: "Nhà cửa ở các làng (...) tối tăm (...) Người Tàu thường ưa ở những cái buồng nhỏ hẹp, khi thấy cái buồng nào rộng, thì họ lấy gỗ ngăn làm mấy phòng nhỏ để mấy người hay mấy gia đình ở chứ không thích những buồng rộng rãi và thoáng đãng. Tôi gặp những người đã sang ở bên ta, (cho) ta làm nhà để buồng là phí đất. (...) Nhà cửa hay (...) có những kiểu trang sức rậm rạp."(10) Okakura Kakuzo, trong lúc say sưa thuyết giảng về lý tưởng của trà đạo, cũng "lạc đề" qua chuyện... khác: "những cảnh bên trong nhà của người Nhật ngày nay vì quá đơn giản và thuần khiết về lối trang trí, nên có vẻ gần như trống trải đối với người ngoại quốc."(11) Thế là rõ ràng. Nhà Tàu chật chội, tối tăm, trang trí rườm rà hơn nhà ta. Nhà Nhật lại "trống trải", "thuần khiết" hơn tất cả (có ta). Thế là về cái ở, lạ thay, cũng vẫn người Tàu thái quá, người Nhật bất cập, mà người Việt trung dung. Bàn nơi ăn chốn ở, tự nhiên nghĩ chuyện vệ sinh. Trần Trọng Kim nhận xét: "Người Tàu gọi tắm là lấy khăn dúng vào nước rồi lau mình chứ không phải là dúng mình vào nước hay là lấy nước dội lên mình."(12) Nước Nhật nổi tiếng có những nhà tắm công cộng sạch sẽ, nam thanh nữ tú tha hồ "dúng mình vào nước" kỳ cọ kỹ càngỳ. Người Việt xưa kia sở trường tắm giếng, kéo gàu, "dội lên mình". Tắm dúng, tắm dội, tắm lau, ô hay, sao trong cái tắm dường vẫn đó đây phân biệt, mà người Việt ta lại cứ tiếp tục chen vào giữa người Nhật, người Hoa! Về cái mặc, cũng vậy Tiếng Việt có nhiều từ kép bắt đầu bằng chữ "ăn". Ðã nói chuyện ăn uống, ăn ở, hãy thử xem qua chuyện ăn mặc. Chiếc kimono của Nhật, ai cũng biết, chẳng những dài sát đất mà còn gồm mấy lớp, quấn kín, che phủ hoàn toàn thân thể. Áo dài của ta tuy mỏng manh, làm rõ lồ lộ bán thân trên, nhưng gần như không phơi bày da thịt. Xường xám của Trung Quốc may rất bó, nửa trên hoặc cộc tay hoặc sát nách, nửa dưới xẻ cao một bên, phô gần trọn đùi: mặc xường xám như thể mặc áo dài không tay không quần! Tùy bút Võ Phiến có đôi bài về áo dài (13). Theo lối viết miên man quen thuộc, ông bình phẩm cả về trang phục các nước khác; và như vô tình, giới thiệu một định nghĩa của văn hóa. "Trang phục là văn hóa, văn hóa là một cố gắng cải biến thiên nhiên." Từ góc nhìn này, chiếc kimono tượng trưng cho cố gắng cực đoan, vì "thiên nhiên" đã hoàn toàn bị che đậy, vì "Thân người chỉ còn như là cái cớ cho sự xây dựng một công trình mỹ thuật." Về cố gắng cực đoan đối nghịch, Võ Phiến chú ý chiếc váy ngắn thời trang nóng bỏng của Tây phương gần bốn mươi năm trước. Ông gọi hiện tượng mini-jupe là "cuộc phi nước đại trở về tự nhiên". Thiết tưởng xường xám dù chưa hẳn ngon trớn "lồng" lên như thế, cũng vẫn đã bỏ xa lắm cái phong thái "rùa bò" của "công trình mỹ thuật". Ðặt giữa hai thứ trang phục Á Ðông chống đối nhau kịch liệt, chiếc áo dài Việt Nam, không tránh được, trở thành tiêu biểu cho "sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa". Mặc ai nhanh ai chậm, trên đường về nguyên thủy, chiếc áo đơn sơ kỳ diệu của ta cứ ung dung, thủng thỉnh vó câu. Trường hợp cái mặc, người Nhật chủ trương nhiều, người Tàu thiên vị ít, người Việt lại cố ý lửng lơ. Về cái chơi, vẫn Hoa-Việt-Nhật Ăn, uống, ở, mặc đều ít nhiều thiết thực, liên hệ với nhu cầu thể xác. Ăn chơi nhằm đáp ứng đòi hỏi tinh thần. Chơi, biết bao nhiêu lối. Nhạc là chơi. Có ai để ý tiếng sáo Nhật nó não nùng, thê lương, ma quái, kỳ dị không sao tả nổi? Tiếng sáo Tàu dường như tương phản, dường như điển hình nghe rộn ràng, ríu rít, tưng bừng, đầy sinh khí (chẳng biết xưa Trương Lương thổi cho quân Hạng Vũ tan hàng là thổi thế nào?). Người Việt Nam thổi sáo khác cả người Nhật lẫn người Hoa: giọng sáo ta khoan thai, bình thản, không buồn... phi lý, không vui bồng bột. Thơ cũng là chơi. Luật thơ Ðường rắc rối, cầu kỳ, luật thơ tanka của Nhật đặc biệt đơn giản (14), luật thơ lục bát của ta không dễ không khó. Có thơ, thường có rượu. Cùng làm bằng ngũ cốc, rượu trắng Việt Nam nặng hơn sake của Nhật, nhẹ hơn Mao Ðài của Trung Quốc. (15) Về cái nhạc, cái thơ, cái... rượu, dường như ta lại vẫn duy trì thế đứng trung dung? Trung dung không phải trung bình Vừa rồi, ngon trớn ví dụ liên miên. Tạm nghỉ bút, xem lại, không khỏi giật mình. Băn khoăn e có chỗ lý lẽ chưa đủ thuyết phục. Ðắn đo còn những so sánh khác có thể giá trị hơn, liệu nên tiếp tục đưa ra? Ngẫm nghĩ, tự nhắc nên tránh cầu toàn, nên vui nếu may ra chỗ nhận xét của mình cơ bản không đi chệch hướng. Bấy nhiêu "bằng chứng", dù chưa hoàn hảo, có lẽ đủ cho thấy khuynh hướng đứng giữa của phong cách sinh hoạt Việt Nam. Ðứng cách ý nghĩa, không phải vu vơ, ngẫu nhiên. Ðứng bền, không thay đổi qua bao nhiêu dâu bể thăng trầm. Lạ chứ. Kẻ đa nghi mỉa mai: Trung Quốc và Nhật Bản là hai đỉnh cao của thế giới Á Ðông. Họ tượng trưng cho hai thái cực. Ta thấp hơn họ, chẳng đứng giữa thì còn đứng đâu? Chẳng riêng ta, các dân tộc khác ở Ðông Nam Á đều thế. Lạ gì. Ða nghi như thế dễ dãi. Từ đầu đến đây, mới nêu cái khác, là cái tuy vậy tương đối dễ nêu. Giờ, chẳng đừng được, phải nói qua chuyện thấp cao, hơn kém. Giàu mạnh hơn không có nghĩa văn hóa cao hơn. Ðứng giữa vẫn có năm bảy đường. Có cái đứng ngơ ngẩn, tình cờ; có cái đứng đầy biểu lộ, phản ánh nội dung riêng biệt, sâu sắc. Nên đặt vấn đề cách cụ thể, chú trọng đánh giá sản phẩm cuối cùng: Phở, bún bò, chè Thái, rượu Vân, áo dài, tiếng sáo trúc, tiếng đàn bầu, lục bát Kiều v.v. có thấp hơn món ăn thức uống, y phục, âm nhạc, thi ca của Hoa, Nhật chăng? Có cao hơn văn hóa của các anh em Ðông Nam Á chăng? Câu trả lời nằm trong lời tựa My country and my people. Vào sách, tác giả cho biết ngay sẽ không bận tâm chứng minh những nhận định rất thuận lợi của mình về nước Tàu, dân Tàu. Ông nhắc nhở: "... sự thực không chứng minh được, mà chỉ có thể cảm thấy."(16) Ông vung bút liệt kê, giảng giải những điều ông cảm thấy về Ngô thổ dữ ngô dân, rồi dõng dạc... chấm hết. Lâm Ngữ Ðường luận chí lý về bản chất của sự thực, và ông hành xử đích đáng. Có điều, ông được hưởng lợi thế. Trung Quốc, dù đôi khi sa cơ nhục nhã, vẫn đường đường nền văn minh cổ duy nhất còn tồn tại trên thế giới. Làm người Tàu, ông thừa tư cách để hùng hổ. Lạ, văn hóa Việt Nam chưa mấy ai biết đến, vậy mà kẻ làm người Việt sao cũng nhất định hùng hổ như ông! 1 - 2003 (In trong Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) ----------------------------------------- Chú thích: (1) Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Ðại cương triết học Trung Quốc, quyển hạ, nxb. Xuân Thu, Mỹ, tr. 383. (2) GC & NHL, sđd, tr. 394. (3) Lâm Ngữ Ðường, My country and my people, nxb. John Day, Mỹ, in lần thứ bảy, 1935, tr. 340. (4) Ðinh Hùng, Ðốt lò hương cũ, nxb. Lửa Thiêng, SG, 1971, tr. 27. (5) Võ Phiến, “Ăn... mùi”, Tùy bút I, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1986, tr. 82. (6) Theo tài liệu của công ty trà Thiên Nhân, Ðài Loan. (7) Okakura Kakuzo, Trà đạo (Bảo Sơn dịch), Xuân Thu, Mỹ, tr. 136. (8) Lê Minh Hà, Thương thế,... ngày xưa, Văn Mới, Mỹ, 2001, tr. 90. (9) Nguyễn Hà, Hà thành hương và vị, nxb. Văn Hóa Thông Tin, Việt Nam, 1999, tr. 145. (10) Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Vĩnh Sơn, SG, 1969, tr. 153. (11) OK, sđd., tr. 73. (12) TTK, sđd., tr. 154. (13) VP, sđd., tr. 24, 30. (14) Basil Hall Chamberlain, Japanese things, nxb. Tuttle, Mỹ và Nhật, in lần thứ 20, 1994, tr. 374. (15) Rượu sake hiệu Hakutsuru: khoảng 30 độ. Rượu Nếp Mới: khoảng 60 độ. Rượu Mao Ðài: 106 độ. (16) LNÐ, sđd., tr. xiii.
-
Sợ Vợ Lợi Hay Hại? Phàm ở đời, không nhất thiết người chồng nào cũng sợ vợ. Nhưng thôi, chúng ta chẳng nhắc đến bọn người vô lương tâm, chỉ nhìn vợ bằng nửa con mắt đó làm gì. Ta chỉ nói đến chúng ta thôi, những người chồng luôn luôn nhìn đắm đuối vợ mình bằng hai con mắt đầy đủ. Và hai con mắt đó lúc nào cũng ánh lên vẻ tha thiết biết lỗi khi vợ cật vấn bằng một giọng nanh nọc: "Sao, đi đâu mà giờ này anh mới vác mặt về?". Tất nhiên là ta biết ta đi đâu . Những người chồng đứng đắn như chúng ta thì chẳng bao giờ về trễ vì một lý do bậy bạ . Rõ ràng là ta đi họp về muộn. Nhưng lẽ nào lại nói điều đó ra khi vợ mình đang giận. Nói ra, có nghĩa là ta thét vào mặt vợ: "Cô là kẻ chuyên nghi ngờ bậy bạ, không hề biết tí gì về công việc của tôi!". Ôi, lẽ nào ta lại nhẫn tâm đến như thế! Và nếu ta lỡ mồm nói ra, vợ ta cảm thấy bị mất mặt, nổi cơn lôi đình lên thì sao? Tai họa ai chịu? Thì còn ai nữa ngoài đôi tai sưng tấy lên vì bị véo của chúng ta, những người quen chịu trận. Vì vậy, lỡ rơi vào tình huống nan giải đó, tốt nhất là chúng ta im lặng ra vẻ biết lỗi . Chẳng có gì xấu hổ hết! Ông cha ta chẳng đã nói "Im lặng là vàng" sau bao năm quen nhẫn nại trước các bà, các mẹ của ta đó sao! Vâng, ta im lặng và âm thầm xuống bếp, lục cơm nguội ra ăn, bởi vì sẽ chẳng có cô vợ giàu nguyên tắc nào lại đợi cơm khi chồng về muộn. Vả lại, vợ ta đã đứng chờ ngồi đợi mỏi mòn con mắt vì ta rồi, lẽ nào ta còn hành hạ cô ta nữa . Những người chồng biết điều hãy cùng ta lặng lẽ xuống bếp xới cơm ăn một mình, vừa ăn vừa gặm nhấm khuyết điểm của mình. Ăn xong thì hãy lo mà rửa chén, không phải cái chén ta vừa ăn mà cả một đống chén ngỗn nghện từ sáng tới giờ. Gặp thằng chồng khốn nạn thì chắc chắn nó sẽ mặt nhăn mày nhó, nhưng ta thì không, thậm chí ta còn nở một nụ cười hạnh phúc. Bởi vì ta đã quen những thử thách này rồi . Từ hồi lấy nhau đến giờ, ngày nào cũng thế, vợ ta cứ sợ ta bớt yêu nàng nên luôn luôn tạo điều kiện cho ta chứng minh tình cảm trước sau như một của mình. Cái đống chén này là một ví dụ . Vợ ta cứ tưởng ta không biết nên thử thách ta hoài! Ta xắn gối ngồi xuống (bởi ta đã kịp thay đồ đâu!), tay cầm nùi giẻ lên mà trong lòng cứ tội nghiệp vợ: Ôi, nàng phải nhọc lòng thử thách ta biết bao, chứng tỏ nàng yêu ta lắm! Một người chồng mẫu mực phải biết cách rửa chén không gây tiếng động. Lúc này im lặng vẫn cứ còn là vàng! Bởi lúc ta ngồi rửa chén thì vợ ta đang ngủ. Nàng không đủ sắt đá để chứng kiến sự thử thách của mình và vì không nỡ nhìn chồng cặm cụi ngồi rửa một núi chén nên nàng đành phải đi ngủ. Và vì vợ ta đi ngủ, ta phải rửa chén bát êm thắm, lặng lẽ như một nghệ sĩ kịch câm chính cống. Dù sao thì trong chuyện này, tay nghề ta cũng cao lắm rồi . Bình tĩnh nhé, đừng sẩy tay! Ta dặn ta như thế, bởi vì một tiếng động vang lên vào lúc này có khác gì một quả bom nguyên tử nổ. Ai sẽ bảo vệ ta trước cơn thịnh nộ chính đáng của vợ? Không ai cả! Và cái tai tội nghiệp của ta một lần nữa lại chứng minh rằng "tai không chỉ dùng để nghe mà còn dùng để cho người khác trút sự phẫn nộ". Rửa chén bát, úp vào chạn xong, ta nhón gót đi lên nhà trên, nhón gót thay đồ, nhón gót đi ... vệ sinh và cuối cùng nhón gót mò vào giường. Ô kìa, vợ ta đâu rồi ? Cô ta không có trong giường! Sau một thoáng bất ngờ, ta giận tím cả mặt. Không phải giận vì đêm nay ta lại ngủ một mình mà giận vì ta biết cô ta ở đâu rồi! Cô ta chơi bài tứ sắc ở nhà bên cạnh, các ông bạn đứng đắn của ta ạ! Đêm nào cũng thế, cô ta lỉnh đi chơi bài suốt đêm, có khi một, hai giờ sáng mới về. Nhiều đồ đạc trong nhà đã bắt đầu biến mất một cách kỳ quặc mà ta chưa dám hỏi . Hừ, sớm muộn gì ta cũng hỏi thôi (tất nhiên là muộn)! Sức khỏe cô ta thì sa sút thấy rõ (tai ta độ rày ít đau hơn). Cái hại của cờ bạc rành rành như thế mà cứ đâm đầu vào . Ta là chồng, ta biết phải làm gì trong lúc này chứ! Thế là ta xăm xăm bước qua nhà hàng xóm quyết kêu vợ ta về, mắng nhiếc cho một trận nên thân! Cái gì chứ việc này thì rõ ràng ta đúng. Ta ló đầu vào tìm kiếm. Kia, vợ ta kia rồi, cô ta đang xòe bài. Ta cố trấn tĩnh hắng giọng: - Em ơi ... - Anh làm cái trò gì đó? Vợ ta lạnh lùng hỏi, đầu không quay lại . Tim ta tự dưng chơi điệu disco, mặc dù ta không thích nhạc trẻ. Đầu ta lỡ thò vào cửa, giờ không biết làm sao . Tự dưng rút ra mà không trả lời nghiêm chỉnh câu hỏi của vợ thì bất lịch sự quá. Mà để cái đầu trong nhà trong khi cái thân ngoài hiên thì coi không được. Tự nhiên, ta giận ta ghê, đâm đầu vô đây chi không biết! Vợ ta giải trí một chút mà ta cũng quấy rầy, thật là đồ vô lương tâm! Cuối cùng, ta cũng nghĩ ra được một câu đáng điểm mười: - Anh tính qua hỏi em cần tiền không, anh đưa thêm! Tất nhiên là vợ ta không từ chối, sợ ta buồn. Còn ta thì dùng mấy trăm bạc mà chuộc được tính mạng, kể cũng hên! Thế là vợ ta ngồi thức bên đó, ta nằm thức bên đây. Cách nhau một bước, xa nhau nghìn trùng. Chuyện đó, đến nay vẫn còn! Ta nhờ tài học vấn uyên bác nên sợ vợ cũng có dựa trên cơ sở lý luận, nay muốn tìm người trao đổi kinh nghiệm hầu nâng lên thành một học thuyết triết học. Ta bắt chước Lỗ Tấn: "Liếc mắt coi khinh nghìn lực sĩ. Cúi đầu làm ngựa cho vợ ta". Lỗ Tấn nói là "trẻ con" nhưng không có "vợ ta" làm sao có "trẻ con"? Ta sợ vợ ta chứ có sợ vợ ai đâu mà xấu! Cũng từ Lỗ Tấn ta suy ra: "Vợ nhờ chồng sợ mà thành hùm" (từ câu "Rừng nhờ người đi mà thành đường"). Nghe chí lý thay! Ta vốn người hào kiệt, coi khinh nghìn lực sĩ, bình sinh chưa biết sợ ai, nhưng sở học lộn xộn nhớ lầm câu "nếu không có cái mình thích thì hãy thích cái mình có" thành câu "nếu không có cái mình sợ thì hãy sợ cái mình có". Gia tài ta chẳng có gì ngoài vợ nên từ đó đâm ra sợ vợ mà thành tật. Nay, tính can vợ bỏ bài bạc hoài mà không được, ta lại ngẫm ra "nếu cứ sợ cái không đáng sợ ắt sẽ hại cái không đáng hại". Ôi, phải chăng vì yêu vợ mà ta hại vợ? Hỡi các ông chồng đứng đắn giống như ta, hãy trả lời! Sợ vợ, lợi hay hại ? (-1982- Nguyễn Nhật Ánh - Chuyện cổ tích dành cho người lớn)
-
Bạo phát...Bạo tàn...
-
HẠNH PHÚC THỰC SỰ Một phú hộ đến nhờ thiền sư Sengai viết cho một câu hoành phi nói đến sự giàu có của gia đình y để truyền lại cho các thế hệ sau. Sengai lấy một tờ giấy thật lớn rồi viết: "Cha chết, con chết, cháu chết." Người phú hộ nổi giận. "Tôi nhờ ngài viết cho câu gì nói đến hạnh phúc của gia đình tôi! Sao ngài lại giễu cợt thế này?" "Chẳng có ý giễu cợt đâu" Sengai giải thích. "Này nhé, nếu con của ông chết trước ông, thật là một điều bất hạnh. Nếu cháu của ông chết trước con ông, có phải là cả hai cha con đau khổ lắm không? Nếu mỗi thế hệ trong gia đình ông đều theo tuần tự mà qua đời thì đó mới đúng là giòng đời tự nhiên. Ta gọi đó là hạnh phúc thực sự." (101 CÂU CHUYỆN THIỀN - Sưu tầm)