
dichnhan07
Hội viên-
Số nội dung
125 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
dichnhan07 last won the day on Tháng 5 13 2022
dichnhan07 had the most liked content!
Danh tiếng Cộng đồng
12 GoodAbout dichnhan07
-
Rank
Hội viên mới
- Birthday
Xem hồ sơ gần đây
780 lượt xem hồ sơ
-
Trong Kinh Dịch Trọn Bộ có ghi lại 1 vd như sau: Khi Nam Khoái sắp làm phản gieo được hào 5 quẻ Khôn: “hoàng thường, nguyên cát” (Quần vàng, cả tốt), cho là tốt, nhưng sau này thất bại. Dịch lại: “Lo sợ thường xuyên, truy nguyên điều tổn hại” Ý hào là nên luôn luôn lo sợ, tìm hiểu về những điều sẽ gây ra tổn hại cho bản thân, hoặc công việc. Qua trên, ta có thể thấy việc dịch sai có ảnh hưởng lớn tới công việc như thế nào.
-
Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.
-
“Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi”. Câu này tương đương với câu “nhanh ẩu đoảng, vôi vàng hư”. Hào 1 quẻ Khôn: “sửa trị phải rộng lượng, bền chặt quá thì mất cái lớn". Câu này ứng với câu “ao trong thì không có cá, làm chính trị mà khắt khe quá thì kẻ dưới không theo”. Kinh Dịch có thể là “biến đổi theo chiều ngang” hoặc có thể là “xử lý các biến đổi”.
-
Dịch lại Hàm-Hào 1: Cứvui mãi sẽ nảy sinh điềm gở
-
Cảm ơn bác Hà Uyên đã chỉ dẫn thêm. Tuy nhiên, tôi sẽ vẫn thử cách của mình trong 1 thời gian xem sao, tại vì tôi chưa thấy mối liên hệ giữa quẻ và thời gian, và nó nhằm mục đích gì, có thể là nó giúp cho việc xác định ứng kỳ hoặc trợ giúp cho phần Thiên Văn Lịch Số, hoặc giúp quan sát cảnh vật tự nhiên ứng dụng trong sản xuất.
-
Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn. Kính Bác.
-
Địa Trạch Lâm: Hào 2: Tượng viết: Đều tới, tốt, không gì không lợi, chưa thuận mệnh vậy. (Theo Kinh Dịch Trọn Bộ). Dịch Âm: Hàm lâm, cát, vô bất lợi, vị thuận mệnh dã. Hào này, tôi thấy lời Tượng có chỗ lầm lạc nên sửa lại. Cũng chỉ khác lời Hào là thêm 4 chữ “vị thuận mệnh dã”. Truyện rằng: Năm 1513, tháng 8 mùa thu, ngày 30, có sắc chỉ rằng: Các tuấn sĩ vệ Cẩm y, người nào bị sung quân thì khai lại để đuổi về nguyên quán theo như lệ. Dựng bia ghi tên tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Hồng Thuận thứ 3. Sai Công bộ thượng thư chưởng bộ sự, tri Hiển Phúc điện Uy quận công Nguyễn Bá Lân trông coi việc dựng bia, Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư, Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung soạn bi ký; Trung thư xá nhân Ngô Ninh viết chữ chân, Tri thượng bảo giám các cục Nguyễn Huệ viết chữ triện. …………………………………………� �……. Qua 2 câu chuyện ở tháng 8 năm 1513, ta thấy nếu dùng theo bản dịch “Đều tới, tốt, không gì không lợi, chưa thuận mệnh vậy” thì chưa thật rõ ý mà lại còn bị hiểu sai về câu “chưa thuận mệnh vậy”. Làm theo sắc chỉ sao lại gọi là “chưa thuận mệnh vậy”, đã “chưa thuận” thì sao lại tốt được. Xét nghĩa 3 âm “Hàm-Lâm-Vị” -“Hàm” gồm 12 chữ, có các ý nghĩa sau: dung được (đủ chỗ dung được), ngậm (ngậm gì đó trong miệng), khắp cả, đều, hết thảy, ngu si, (hám: hại, quả quyết), vui mãi, miệt mài, nuốt. -“Lâm” gồm 5 chữ, có các ý nghĩa sau: đông đúc, ngâm nước, ở trên soi xuống, tới, kịp, mưa dầm. -“Vị” gồm 16 chữ, có các ý nghĩa sau: ngồi, nếm, bùi ngùi, trơ trọi, chưa, không, giúp, xúm xít, bề bộn lộn xộn, bình luận, nói, chăm, siêng. Tất cả những nghĩa này đều có thể dùng để luận đoán. Hiểu theo ý nghĩa của 2 câu chuyện, ta có thể sửa lại lời Tượng là: “Soi xét khắp cả, tốt, không gì không lợi, siêng năng thuận mệnh vậy”. Bài Học: Khi người xem ở vào hào này thì nên xem xét lại những gì mình đã làm, xem có lỗi sai gì không, rồi sau đó tập trung vào công việc trước mắt.
-
Tôi rất muốn tạo một phần mềm xem thời tiết mưa gió nơi địa phương tôi, nếu ai trong nhómtình nguyện chỉ dạy tôi cách tạo một phần mềm kiểu như lập quẻ thái ất thì tôi sẽ vào nhóm, khi nào làm xong tôi sẽ đưa mọi người dùng thử.
-
Bác huygenn cho tôi hỏi là bác lấy ngày đông chí của năm 2009 là vào ngày bao nhiêu vậy?
-
Cái hay của phép này không phải là giúp người học hiểu ý nghĩa của hào mà là tiết lộ mối quan hệ giữa “hào-thời gian-tình thế”. Đó mới là cái trọng đại và đồng thời cũng là cái “nguy hiểm” của phép tính này. Nếu như 3 vấn đề trên không liên quan với nhau thì phép này vô nghĩa.
-
Bác Hà Uyên đã đưa ra công thức để tính mà sao chẳng thấy ai cùng chung tay viết lại một bộ “Kinh Dịch & Lịch sử dân tộc” nhỉ ? Sơn Thuỷ Mông-Hào 1: Mở mang trẻ thơ, lợi dùng về sự hình phạt người ta để phát gông cùm, đi thì hối tiếc. Hào đầu là âm tối, ở dưới, ấy là kẻ dân mờ tối, hào này nói cách mở mang cho họ. Mở mang sự mờ tối cho kẻ dân, thì tỏ rõ hình cấm với họ, khiến họ biết sợ, rồi sau mới theo đó mà dạy bảo họ Đã dùng hình cấm dắt họ, dầu mà bụng họ chưa thể hiểu được, nhưng họ cũng phải sợ oai mà theo, không dám thả dông cái lòng ham muốn mờ mịt, rồi mới có thể dần dần hiểu biết đạo phải mà đổi cái bụng, thì mới có thể thay đổi thói tục. Nếu chỉ chuyên dùng hình phạt để làm việc, thì kẻ tối tăm tuy là có sợ, nhưng rút lại vẫn không thể mở mang, họ chỉ cẩu thả tránh cho khỏi tội mà không còn có liên sỉ, trị hoá không thể thành được. Cho nên hễ dùng kiểu đó mà đi, thì là đáng tiếc. Truyện rằng: Khi đó họ Mạc sai quân xâm lấn Nghệ An. Hoàng quận công đánh nhau nhiều lần với giặc không được, thấy quân lính nhiều kẻ bỏ trốn, bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân giặc đuổi đến, họ cũng không chịu đánh. Hoàng quận công bèn bỏ thuyền lên chạy bộ. Đến châu Bố Chính, bị tướng Mạc là Nguyễn Quyện bắt sống đem về Kinh Ấp rồi bị hại.
-
Trong tập 6 của bộ sách này có nói tới phương pháp tính số Thái Ất Niên Vận. Cũng giống như mọi sách và trên các diễn đàn khác đề cập, con số được dùng là 10153917. Đây được coi là thời điểm 7 hành tinh cùng với Nhật-Nguyệt thẳng hàng. Cũng là mốc chuyển dịch của những ngôi sao được nhắc tới trong môn Thái Ất, nhưng lại có những ngôi sao không xuất phát vào thời điểm đó, với chúng, ta lại cần một dãy số khác để tính riêng. Trên diễn đàn này, bác Hà Uyên có giới thiệu với mọi người một phương pháp tính khác mà chẳng có sách nào dạy như thế cả. Đó là việc dùng con số 30. Số này ở đâu ra? Thực ra đó là con số rút gọn của một dãy số. Nay tôi giới thiệu thêm cho những ai đam mê môn Thái Ất, nghiên cứu cả đời mà không biết thì cũng tội. Số 30 có nguồn gốc từ dãy số 10155358. Còn nguồn gốc của dãy số này như thế nào thì mọi người cứ nghiên cứu nếu thích. Nhưng chỉ có dãy số này hoặc con số 30 mới giúp tính đúng Thái Ất Niên Vận. Tôi đã có nhiều ví dụ chứng minh rồi nên cũng không cần phải chứng minh là nó sai nữa, còn ai thích thì cứ tự nhiên. Giá như tôi xuất hiện sớm hơn có thể bộ sách này đã có nhiều câu hỏi được trả lời (Ví như “liệu ý nghĩa của Quẻ Dịch có thay đổi không?”). Tiếc quá!
-
Từ khi Thuyết Đồng Nhất của Dịch được nêu ra, vấn đề ý nghĩa của mỗi quẻ càng trở nên phức tạp hơn trước đây, sự tập trung vào ý nghĩa được đẩy cao, và vấn đề về Tượng quẻ bị phai nhạt. Nhưng nếu ý nghĩa mới thực sự quan trọng thì đã chẳng cần thiết phải vạch Tượng, cần truyền miệng rộng rãi thôi cũng được rồi. Vậy nhiệm vụ của Tượng quẻ là gì? Phải chăng là nguồn gốc của cái nguyên lý “Lấy thứ cố định để chế ngự thứ vô định” (Lấy Tĩnh Chế Động). Đây chính là cái nguyên lý trong Bốc Dịch Lục Hào, thấy Động thì tìm Hợp, thấy Tĩnh thì tìm Xung. Tượng được lập lên để giúp xác định ý nghĩa của Quẻ. Ví như 2 quẻ Đại Súc và Tiểu Xúc, đều cùng âm “Súc” cả, phân biệt ra sao? Sơn Thiên Đại Súc là tượng “Sao ở trên Trời”, nên ta sẽ thấy với ý nghĩa “đứng sững-nổi cao”, còn Phong Thiên Tiểu Xúc là tượng “Gió thổi trên Trời”, nên ta sẽ thấy với ý nghĩa “tiếp xúc-húc đâm-thúc giục-vội gấp”. Chính là theo nguyên lý “nước nhảy chỗ ướt, lửa tới chỗ khô, mây theo rồng, gió theo hổ”. Hay chính là cái được gọi là Định Luật Tương Đồng. Chuyển sang vấn đề khác, nếu so sánh với Số Học thì Dịch Học còn dễ hơn vì có Tượng để định, còn số thì chỉ có số và số. Ví như “Chẵn” hay “Lẻ” thì cũng là số 8, “Được” và “Mất” cùng là số 7, “Thêm” hay “Bớt” đều là số 1. Lấy gì để mà xác định. Trong Triết Học có dạy, vật sẽ bộc lộ đặc tính khi có những va chạm, và từ chỗ biết trước sự va chạm ta sẽ biết sự bộc lộ đặc tính của vật. Ví như con người, khi gặp hoàn cảnh thuận lợi thì sẽ vui vẻ, lạc quan, còn gặp hoàn cảnh bất lợi thì sẽ chán nản, buồn bã. Đó là nguyên lý xác định. Người học Dịch nên để Tâm mình rộng và cao.
-
Coi như đã xếp đúng đi, ta sẽ làm gì tiếp?
-
Thuyết Hỗ Quái Sau khi Thuyết Đồng Nhất Của Dịch được đưa ra, một vấn đề khó khác lại được nêu lên. Đó là làm thế nào để biết được khi nào thì quẻ có ý nghĩa này và khi nào thì quẻ có ý nghĩa kia? Tuy rằng trong một quẻ có vô số nghĩa, nhưng chúng vẫn cố định trong phạm vi của mình. Để cố định được những ý nghĩa khác biệt nhau, thuyết Hỗ Quái được phát hiện. Một vấn đề khác lại được đặt ra. Đó là tại sao không dùng luôn Chính Quái mà phải dùng Hỗ Quái để biết nghĩa? Trong Chính Dịch Tâm Pháp chỉ nói một cách mơ hồ rằng: “Thể của Càn Khôn đều ở ngoài, sáu con đều bao trong đó. Đây là cái mà tượng tự nhiên có không thể lấy mà dụng tâm được”. Cách dùng Hỗ Quái để luận nghĩa như thế nào? Trong di thư, cổ nhân có nhắn lại rằng: “Tiên Thiên Đồ là Thể của Dịch, Hậu Thiên Đồ là Dụng của Dịch”. Vấn đề nằm ở đó. Trước tiên, ta nên tìm hiểu qua về Nhị Đồ này: -Trong Tiên Thiên đồ, Kiền là trời, Đoài là đầm (mây), Ly là lửa (mặt trời), Chấn là Sấm,Tốn là gió, Khảm là mưa (mặt trăng), Cấn là núi (sao), Khôn là đất, -Trong Hậu Thiên đồ, đề xuất ở Chấn, gọn gàng ở Tốn, gặp gỡ ở Ly, làm việc ở Khôn, vui mừng ở Đoài, đánh nhau ở Kiền, khó nhọc ở Khảm, hoàn thành ở Cấn. Làm sao để vận dụng được ý cổ nhân? Để hiểu được, ta cần biết được tên gọi đầu tiên của Mai Hoa Dịch Số. Tên đầy đủ là “Hội Đồ Tiên Thiên Hậu Tiên Mai Hoa Quan Chiết Tự Số Toàn Tập” (theo Mai Hoa Dịch Số của Ông Văn Tùng dịch). Tại sao lại gọi là “Hội Đồ Tiên Thiên Hậu Tiên”? Có phải là gộp 2 đồ hình lại mà dùng không? Gộp thế nào? Cũng như trong sách có dạy, Hỗ Quái chỉ dùng Đơn Quái chứ không dùng Trùng Quái. Trong một Trùng Quái có chia làm Thượng Quái và Hạ Quái. Khi một Trùng Quái đã được vạch thì từ trong đó, Hỗ Quái cùng lúc hiện ra. Xét từ dưới lên trên, một Trùng Quái có 6 hào, hào 2-3-4 sẽ làm Hỗ Quái cho Hạ Quái, hào 3-4-5 sẽ làm Hỗ Quái cho Thượng Quái. Sau khi vạch xong Chính Quái và Hỗ Quái, ta sẽ có từng cặp Thượng Quái-Hỗ Thượng Quái, Hạ Quái và Hỗ Hạ Quái. Như thế, ta đã có hai cặp Thể-Dụng. Và khi xét lại ý cổ nhân, ta sẽ lấy Chính Quái làm Thể còn Hỗ Quái làm Dụng. ……….. “Manh mối đã được đưa ra và người có Tâm sẽ thấy được”