Phu lỗ
Thành viên diễn đàn-
Số nội dung
8 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Danh tiếng Cộng đồng
0 NeutralAbout Phu lỗ
-
Rank
Mới gia nhập
- Birthday
-
Trung Quốc có hơn 3000 năm lịch sử. Tạm tính từ thời Ân Thương vì có chữ viết từ thời này. Đến nay cũng chưa có bản phả hệ chi tiết như bản này. Các hạ không nghĩ, người ta đã dùng cách gì mà lưu trữ từ 5000 năm trước được. Rõ là bịa xạo.
-
Theo "Đại Việt sử kí toàn thư" chép năm khai sinh nước Văn Lang là năm Nhâm tuất. Chú: 7 Theo Mục lục kỷ niên của Đại Việt Sử Ký và câu kết của Kỷ Hồng Bàng thị (NK1, 5b) thì từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão (258 TCN) cộng 2622 năm. Vậy năm Nhâm Tuất là năm 2879 TCN. Đó chỉ là một niên đại suy đoán trên cơ sở - như trong Phàm lệ đã nói rõ - muốn đặt Kinh Dương Vương ngang với Đế Nghi. Tất cả các sách sử trước đó như "Việt sử lược", "An Nam Chí lược" cũng không biết năm được năm khởi năm mất của nước Văn Lang. Và năm mất là năm Chu Noãn Vương thứ 57 cũng là bịa. Có lẽ là muốn ngang với nhà Chu, thời Chu Noãn Vương, bị Tần diệt sau đó 2 năm [năm 256 trước Công Nguyên]. Năm An Dương Vương bị Úy Đà diệt vào năm 207 trước Công nguyên cũng bịa. Có lẽ là muốn ngang với nhà Tần. Sở Vương Hạng Vũ diệt Tần Đế Tử Anh cũng vào năm 207 trước Công nguyên! Giới sử học Giao Chỉ ngày nay xác định Đà diệt An Dương Vương là năm 179 trước Công nguyên cũng bịa! Dù biết rằng Úy Đà nhân lúc Cao Hậu mất [năm 180 trước Công nguyên], Hán bãi binh rồi đánh An Dương Vương. Đã không rõ năm nào thì đừng có nói bừa. Chỉ viết là sau Cao Hậu mất thì Úy Đà đánh An Dương Vương là đủ. Điều này có lẽ là có cơ sở. Sau khi Hiệu úy Đồ Tuy thua chết, năm thứ 33 [năm 214 trước Công nguyên] Tần Thủy Hoàng sai Úy Đà cùng Nhậm Hiêu đem người ở rể, nhà buôn, tội nhân đến đánh đất Lục Lương đặt ra 3 quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng. Nhà Tần diệt thì Úy Đà chiếm 3 quận rồi xưng Vương [năm 203 trước Công nguyên] thì lấy vợ, lập Hậu sinh con là Triệu Thủy, đến năm Cao Hậu mất thì Thì khoảng ngoài 20 tuổi, làm tin ở Giao Chỉ thông giao với Mị Châu là vừa.
-
Các ngươi phải biết phân biệt giữa vải [nói chung] và lụa. Người Nam lúc đầu chưa biết dệt lụa, vả lại ăn mặc xông xênh, ít vải, cởi trần đóng khố. "Âu Lạc lõa quốc" là cách viết bao biếm, kẻ nào hiểu sai mới trách.
-
Ngươi có biết bản ngọc phả ngụy thư này do ai bịa ra không? Là bọn phản động trí thức giả thời Hậu Lê, theo lệnh Lê Tư Thành đấy. Chính hắn reo rắc chất độc này lên người Giao Chỉ đến nay còn đeo đẳng chưa dứt được. À, chưa hết, còn bọn phản động thời Trần là bè lũ Trần Thế Pháp.
-
Nước Văn Lang kinh đô Phong Châu, 15 bộ, Hùng Vương, đều là ngụy thư từ sách Lĩnh Nam trích quái thời Trần hết. Rõ là sách truyện ngoài lề. Thế mà đời sau vì nguyên nhân bịa lịch sử tự hào mà tin theo, xào nấu tứ tung loạn xạ cả lên. Lĩnh Nam trích quái chép từ truyền thuyết, nhưng kì thực ngụy tạo nên những tích truyện dựa vào các sách, sử, truyện Trung Quốc rồi xào nấu ra. Hùng Vương: là nhầm lẫn của Lạc Vương trong "Giao Châu ngoại vực kí". Đường thư dẫn Nam Việt chí chép sai. Bởi vì chữ Lạc 雒 và Hùng 雄 mặt chữ giống nhau ở bộ Chuy 隹, đây là lầm lẫn thường gặp trong đọc viết chữ Hán. Đúng là Giao Chỉ trước khi người Hán đến thôn tính thì có quân trưởng cai trị dân Lạc, vì ruộng gọi là Lạc, cho nên dân cày ruộng là dân Lạc. Quân trưởng của dân Lạc gọi là Lạc Vương [Vua của dân Lạc]. Vết tích cũ ở vùng Phong Châu thời Đường, ngày nay thuộc phía tây Bắc bộ là đúng. Đường thư gọi tên là Văn Lang. - 15 bộ lạc là ngụy tạo, tên gọi Giao Chỉ, Cửu Chân, Hàm Hoan từ thời Hán, Cửu Đức thời Ngô, Gia Ninh thời Tấn, Tùy,... Lãnh thổ từ sông Hồng đến sông Mã cũng bịa, sai. Đó là đất 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời Hán. Cửu Chân và Giao Chỉ về cơ bản xa nhau, dân cũng khác nhau, không cùng một nước chịu theo Lạc Vương thống trị. Lạc Vương cai trị ở Phong Châu và một phần phía tây Giao Chỉ mà thôi. Chính là huyện Tây Vu, Mi Linh thời Hán vậy. Cửu Chân xa về phía nam, cuộc sống thiên và đánh cá. Đền thờ Lạc Vương do Lê Tư Thành thời Hậu Lê xây dựng nên, ngụy tạo ngày giỗ 10/3.
-
越 Yue/Việt nghĩa là vượt qua, gồm chữ tẩu 走 và việt 戉 . Tẩu 走 à chạy. Việt 戉 là cái búa. Việt chỉ âm, tẩu chỉ ý. Nước Việt thời Xuân Thu ở Chiết Giang Trung Quốc