hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Tất cả những hình ảnh trong các bài viết không xuất hiện khi đọc, nhờ bác Vô Trước hoặc trung tâm đưa lên lại giùm. Đặc biệt, rất cần những hình ảnh minh họa trong phần Độn Giáp của bác Vô Trước, phần Độn giáp được trình diễn một cách rất rõ ràng và khoa học (nhiều lúc động não thành "lát cả lão"). Trên thiên bàn của Độn Giáp, có sai số về phương vị của hai cung Tốn, Khôn và độ số 7, 9 của hai cung Ly, Đoài trên Hậu Thiên Bát Quái. Khi phi tinh thuận/ nữ hay nghịch/ nam đều bắt đầu bằng sao Nhất Bạch thủy tinh/ 1 nhập trung cung nhằm xác định phi cung của một "Người" sinh năm nào đó!. Khi phi tinh gặp cung Thổ (5) dùng nguyên lý Dương độn/ gửi cung Tốn/ 4 (đã chuyển vị trí Tốn - Khôn) - Tử môn và Âm độn/ gửi cung Cấn/ 8 - Sinh môn (đối xứng qua Trung cung). Trong Độn giáp, tùy Dương độn (cung Khảm, Cấn, Chấn, Khôn) hay Âm độn (cung Ly, Tốn, Đoài, Càn) thì dùng phi tinh thuận hay nghịch. Khi tiên tri cho toàn cục thế giới trên Địa cầu, hiện chưa rõ dùng phương pháp phi tinh thuận hay nghịch -> khi phi tinh trên địa bàn của một ngôi gia cho một năm nào đó thì chọn phương án thuận/ nghịch? Trong sách Tam Nguyên Cửu Vận của tác giả Hoàng Tuấn, phi tinh năm và tháng là nghịch?. Theo nghiên cứu của cố giáo sư Hoàng Phương thì Phi tinh năm hiện đang thuộc chu kỳ phi nghịch. Chúng ta chưa thấy lý giải về vấn đề này, tuy nhiên có thể hiểu là trong thời gian qua đã sử dụng phi tinh nghịch là phổ biến, ví dụ cho năm 2015: Trong Độn giáp, cần xem xét lại các quy ước của Cục theo tiết khí. 20 Trân trọng cảm ơn.
-
Tôi trích lại bài viết quý giá về trống đồng mới phát hiện tại Timor Leste có thêm hoa văn mặt và thân trống, hai địa điểm khác của Timor Leste cũng đã phát hiện ra 2 mặt trống đồng từ trước đó, rất lạ có một mặt trống không thấy mặt trời tâm trống nhưng có 3 vòng tròn đồng tâm lớn và 1 chữ V. Chiếc trống mới phát hiện với hoa văn trên mặt và thân trống trông rất đơn giản nhưng lại rất đặc biệt, nếu không hiểu các bộ môn ứng dụng thuật toán cao cấp, về mặt tổng quát thì sẽ không thể phân tích được ý nghĩa và bản chất nội dung của chúng. Thông thường, trống đồng có một đôi gọi trống Cha Mẹ. Riêng Philippine chưa thấy khám phá ra trống đồng, nếu có thông tin quý bạn nào đó có thể đưa lên đây để cùng tham khảo. Bản đồ Timor Leste gần Úc Phát hiện trống đồng Đông Sơn tại Timor Leste Quốc gia nhỏ bé ở Đông Nam Á Timor Leste vừa có phát hiện khảo cổ đáng chú ý khi tìm thấy một chiếc trống đồng Đông Sơn rất lớn còn khá nguyên vẹn. Chiếc trống đồng với đường kính 1,03m, cao 78cm, nặng 80kg này được phát hiện tình cờ tại một địa điểm xây dựng ở Baucau, thành phố lớn thứ hai của Timor Leste. Chiếc trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở Timor Leste còn khá nguyên vẹn. Chiếc trống đồng với đường kính 1,03 mét, cao 78 cm, nặng 80 kg được phát hiện tình cờ tại một địa điểm xây dựng ở Baucau, thành phố lớn thứ hai của Timor Leste, vào cuối năm ngoái. Tuy nhiên, thông tin chính thức mới chỉ được công bố cuối tháng 11 vừa qua, sau khi các nhà nghiên cứu có những đánh giá sơ bộ. Theo nhà khảo cổ Nuno Vasco Oliveira thuộc Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật thuộc Chính phủ Timor Leste, người đã bỏ nhiều công sức vào công trình nghiên cứu này, có thể khẳng định 99,99% đây là trống đồng Đông Sơn, vốn là một biểu tượng cho văn hóa Đông Sơn (700 trước Công nguyên – 100) của người Việt cổ. Đây không phải lần đầu tiên trống đồng Đông Sơn được phát hiện tại Timor Leste. Tuy nhiên, hai lần trước đây chỉ có phần mặt trống và hư hại nhiều, trong khi chiếc trống đồng được phát hiện lần này ở nguyên trạng khá tốt. Nhà khảo cổ Oliveira đánh giá đây là một trong những chiếc trống đồng Đông Sơn còn nguyên vẹn nhất được tìm thấy ở Đông Nam Á. Theo quan sát của, trên mặt chiếc trống vừa được phát hiện có 4 khối tượng cóc trong khi giữa mặt trống là ngôi sao 12 cánh. Do công tác phục chế mới được tiến hành không lâu, nhiều họa tiết ở mặt trống và thân trống chưa được làm rõ. Như vậy, chiếc trống đồng này nhiều khả năng thuộc nhóm C (phân loại theo sự phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống). Hiện chiếc trống đồng này đang được bảo quản tại Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật Timor Leste. Những công tác tiếp theo được dự kiến tiến hành từ đầu năm tới là tiếp tục phục chế, mở rộng tìm kiếm, khảo cổ ở khu vực xung quanh địa điểm tìm thấy trống đồng; gửi mẫu phẩm tới Pháp để đánh giá chính xác về chất liệu và niên đại (theo các chuyên gia ở Timor Leste, chiếc trống đồng Đông Sơn này có niên đại ít nhất 2.000 năm). Đây sẽ là một hiện vật trưng bày tiêu biểu tại Bảo tàng Quốc gia Timor Leste đang được xây dựng. Hoa văn mặt trống, tia sáng mặt trời không bị giới hạn trong vòng tròn Ông Oliveira nhấn mạnh phát hiện này mang ý nghĩa rất lớn với Timor Leste, một quốc gia còn non trẻ. Trước đó, các nhà khảo cổ từng tìm thấy nhiều hoa văn, họa tiết, hình khắc trên đá tương tự như trên trống đồng Đông Sơn ở các tỉnh phía Đông nước này. Việc phát hiện trống đồng Đông Sơn càng khẳng định rõ nét hơn về sự hiện diện từ hàng nghìn năm trước của văn hóa Đông Sơn tại đây. Thông qua những nghiên cứu, lịch sử mảnh đất này sẽ được hiểu rõ hơn đồng thời cũng cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về văn hóa thời cổ ở khu vực Đông Nam Á. Ông Oliveira cũng bày tỏ hy vọng sẽ có thể cùng các chuyên gia khảo cổ Việt Nam chia sẻ thông tin, nghiên cứu về chiếc trống đồng này. rống đồng Đông Sơn là một loại trống tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ, thường có kích thước đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hòa thể hiện trình độ cao về kỹ năng và nghệ thuật, hoa văn phong phú miêu tả sinh hoạt con người thời đại đó. Hình ảnh hai mặt trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở Timor Leste trước đó. Những họa tiết văn hóa Đông Sơn trên đá cũng xuất hiện tại một số địa điểm ở Timor Leste. Vị trí tìm thấy 3 trống đồng Đông Sơn ở Timor Leste (điểm đánh dấu vàng). Tôi bổ sung thêm tại Timor Leste: Một bức tranh trên vách đá khả năng tượng trưng cho Hà đồ - Lạc thư: Những giải mã bất ngờ về trống đồng Việt Nam Thần Đồng (trống đồng) của Việt Nam khởi nguyên là vật linh (ấn tín) hay nhạc khí? Thần Đồng (trống đồng) của Việt Nam khởi nguyên là vật linh (ấn tín) hay nhạc khí? Để trả lời được câu hỏi này, cần làm rõ một số vấn đề sau: Về nguyên tắc thì hợp kim của một loại nhạc khí là phải có 17% kim loại thiếc và không có kim loại chì: Thiếc có âm thanh đẹp, trong cứng, còn chì sẽ làm câm tiếng. Do đó, hợp kim đồng thau đúc Thần Đồng của Việt Nam kim loại thiếc chỉ có 0,5% tạo độ cứng, còn kim loại chì đến 25% - chì làm câm tiếng lại, nhưng chì mềm điền đầy các họa tiết hoa văn. Vậy Thần Đồng của Việt Nam không phải loại nhạc khí mà là Ấn tín của thời đại Hùng Vương. Vật linh ấn tín biểu tượng vương quyền Mỗi dân tộc trong thời tiền sử thường có một vật linh biểu tượng quyền uy của vị đứng đầu một tôn giáo hoặc tù trưởng: Có tộc, vật linh là chiếc gậy, có tộc vật linh là chiếc mũ. Vật linh ấy nếu kèm theo một câu Thần chú thì tạo nên sự linh nghiệm vô song như chiếc “Gậy”, cái “Nón” của Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Về sau chiếc gậy, cái nón ấy là cây Vương trượng và chiếc mũ Niệm: Khi bị lột mũ Niệm, cất cây Vương trượng thì người đó không còn uy quyền gì nữa. Đó là giá trị của vật linh biểu chương Vương quyền. Đến thời cổ đại, có tổ chức Nhà nước thì xuất hiện loại vật linh Ấn tín của nhà vua như Đỉnh đồng của nhà Thương Trung Quốc và Thần Đồng - Ngọc Lũ của vua Hùng nhà nước Văn Lang. Đến thời đại có chữ viết thì vật linh của các tôn giáo là Sử thi nói về lịch sử của tôn giáo đó, như đạo Phật có Kinh Phật, đạo Cơ Đốc có Kinh Thánh, đạo Hồi có Kinh Koran... Sự ra đời của mỗi loại vật linh ấy là kết tinh – hệ quy chiếu về nền văn hóa tư tưởng của mỗi Tôn giáo và Nhà nước đó. Đặc biệt, hoa văn Thần Đồng - Ngọc Lũ từ thời chưa có chữ viết, bằng những ký hiệu mật mã tạo nên bản Sử thi của dân tộc Kinh - Giao Chỉ biểu đạt về khởi nguyên và tiến trình vòng đời của con người: Đồng thời qua đó, mà hình dung về lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc từ khởi thủy cho đến ngày vua Hùng tuyên bố thành lập nước Văn Lang (xem bài Ý nghĩa hoa văn “Thần Đồng” Ngọc Lũ Báo KH&ĐS số 122 - Thứ 6 (10/10/2014). Vào thời đại Hùng Vương, khi đội ngũ các “nhà khoa học”: Phù thủy, chiêm tinh, thầy bói phục vụ trong triều đình Văn Lang đã hoàn thành sứ mệnh, đúc vật linh Ngọc Lũ: Một hiện vật biểu tượng văn hóa mang tính quốc gia - kiệt tác có một không hai của nhân loại – hiện vật tâm linh, gọi là hèm. Hèm là từ khóa; kiêng dè, cấm kỵ, húy tiếng quốc tế gọi là Tapu, tiếng Thái ở Tây Bắc gọi là căm dam: linh thiêng, huyền bí, bí hiểm, điều không được nói ra động đến thánh thần, không phải dễ, ai cũng biết, muốn biết phải thông qua thần chú của thầy mo - khi đúc xong vật linh thì có lễ “hô thần nhập tượng” nên vật linh đã trở thành “thần”. Vì thế, vật hèm Thần Đồng Ngọc Lũ đó là biểu tượng quyền uy, Ấn tín và là báu vật truyền ngôi của thời đại Hùng Vương. Tương truyền, trong những lần Vua Hùng cầm quân đi dẹp loạn bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của nước Văn Lang, Thần Đồng đã hiện hình giúp nhà Vua thắng trận. Vì vậy, vua Hùng đã phong cho Thần là Đại vương, và lập đền thờ Ngài trên núi Khả Lao, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa - còn gọi là “núi Thần Đồng” - nơi tìm ra kim loại đồng đầu tiên. Kẻ thù thay đổi tên của ấn tín Người xưa cho rằng, cống nạp Ấn tín là tỏ lòng thuần phục, dùng sức mạnh đánh cướp Ấn tín là nước đó không còn Vua – mất Chủ, hoặc thay đổi tên của Ấn tín thì dù cư dân của nước đó có chôn giấu Ấn tín thì cũng không còn giá trị nữa. Vì thế, Mã Viện trong lần đưa quân sang Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43) biết giá trị của Ấn tín cho nên y gọi là “đồng cổ” – (trống đồng) thứ nhạc cụ. Chủ trương thâm hiểm đó của kẻ thù đã được chúng thực hiện thành công. Về sau này, khi chúng ta đào được Thần Đồng thì đều gọi là “đồng cổ” (trống đồng) thứ nhạc cụ, chứ không ai nghĩ đó là Ấn tín của thời đại Hùng Vương nữa. Tuy nhiên, để thực hiện được ý đồ xóa tinh thần Ấn tín, kẻ thù còn phải dùng một loạt biện pháp tiến hành triệt để nữa - tức là trong một ngàn năm Bắc thuộc, giới thống trị đã cho viết trên 40 đầu sách rêu rao, quảng bá thứ đồng cổ - trống đồng, và cho dân vùng Lưỡng Quảng biểu diễn tiết mục đánh trống đồng, nhưng phải kiên trì, lâu dài. Bởi lẽ, khi gọi hiện vật “đồng cổ” - (trống đồng) của Giao Chỉ là thứ nhạc cụ là mới mẻ quá, chưa đi vào nhận thức của cư dân ở vùng đó, cho nên nhà hào trưởng khi đúc trống đồng xong không dùng dùi đánh thử, để nghe tiếng kêu mà đặt trống đồng giữa sân, mở tiệc rượu mời đồng loại đến mừng. Người đến chật nhà, con trai con gái nhà hào phú dùng vàng bạc đúc thành thoa (hoa tai) dùng thoa gõ vào trống đồng rồi để lại cho nhà chủ - chỉ dùng thoa “gõ” thôi chứ không dùng dùi đánh thử (sách Quảng Châu ký của Bùi Thị khoảng năm 420 - 488). Phải đến sách Cựu Đường thư (940 - 946) mới xuất hiện việc đánh trống đồng và coi đó là một nhạc cụ. Từ giữa thế kỷ thứ X trở đi vùng Lưỡng Quảng mới chính thức đánh trống đồng thành tiết mục biểu diễn. Nghĩa là kể từ khi Mã Viện gọi thứ vật linh hèm Ấn tín của người Kinh - Giao Chỉ là “đồng cổ” thứ nhạc cụ thì sau 900 năm, sử của Trung Quốc mới chính thức gọi thứ vật linh hèm ấy là thứ nhạc cụ, đưa ra hai tiêu chí về đánh trống đồng cho vùng Lưỡng Quảng thực hiện. GS H.Loofs - Wwiosowa người Australia, gốc Đức, từng ở trong đội quân viễn chinh Pháp có nhiều hiểu biết về văn hoá Việt Nam, với thuyết Biểu chương vương quyền coi Trống Đồng là vật tượng trưng cho quyền lực hợp pháp. Ông cho rằng, có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở Bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của giáo hoàng phương Tây. Theo ông các tù trưởng bộ lạc ở nhiều vùng Đông Nam Á đã cử sứ bộ đến Bắc Việt Nam để xin ban các Trống Đồng mà với chúng, họ có thể làm vua hợp pháp. theo http://kienthuc.net....nam-407875.html
-
Quả núi trấn trước mặt, lộn ngược dòng địa khí. Cửa chính bị tường/cột kẹt ngay mặt giữa, trạng thái tương tự thiên trảm sát "cửa chính". Mở quá nhiều cửa chính, loạn dòng thiên khí.
-
Nhận thức sự bắt đầu và kết thúc của Vũ trụ vô biên như đã được phân tích trong Mục: Những giới hạn về mặt triết học của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, tuy nhiên muốn nhận biết và mô tả được các quá trình cần dựa trên một số điều kiện biên như dưới đây: - Bản thể của Vũ trụ được mô tả như thế nào. - Vũ trụ là vô cùng vô tận hay hữu hạn về mặt Bản thể và không gian. - Sự tồn tại của không gian và thời gian. - Trạng thái Bản thể ban đầu cân bằng "tuyệt đối" và "khởi động" như thế nào, có sự kiện bigbang hay không. - Sự phát triển cực hạn của Vũ trụ là như thế nào, hiện tại nó đang phát triển hay tan rã. - Khi dùng ý nghĩa "tuyệt đối" thì nó được hiểu và dựa trên thực tại và những quy luật nào. - Bản thể và Tuyệt đối có thể hiểu như thế nào và được mô tả ra sao. - Sự tiến hóa của muôn loài theo thuyết Đác-uyn. - Nguồn gốc của nhận thức, của nhìn, nghe, cảm giác, tưởng tượng, Ngũ Uẩn!... - Bắt buộc: Dựa trên học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các khái niệm cốt tủy trong Tam Giáo (hệ thống quy luật của thực tại để tham chiếu, có thể từ nhận biết và từ suy luận hợp lý). - Ứng dụng bài toán xác suất và giới hạn, quy nạp, tổ hợp... - Chủ thể và khách thể là! hay các đối tượng quan sát nào, nhưng quan trọng nhất chúng phải thuộc về cùng một hệ quy chiếu hay các tổ hợp hệ quy chiếu nào. - Trong lịch sử và văn hóa Việt: thời gian mô tả bằng con lịch sống dưới bùn sông hồ, tương tác theo quy luật hay Dòng Khí mô tả bằng con rắn hổ mang trên đất liền, không gian mô tả bằng con rùa sống dưới biển. - Biểu tượng sự sống là Cây Đời Sống - cây sung, cây si. Biểu tượng sự giác ngộ là cây đề, cây đa. Biểu tượng cho sự đắc đạo (đạt ngộ) là con rồng, con phượng. - Từ đó, chung kết nhận thức và chứng minh là có linh hồn hay không? Nếu có, sinh tồn như thế nào và hạnh phúc ra sao? - Chu kỳ Vũ trụ: sinh, thành, hoại, không. Vạn vật: sinh, thành, suy, hủy. - ... Nếu cho rằng Vũ trụ 13.7 tỷ năm quan sát được bằng kính viễn vọng đặt trên tàu vũ trụ và vệ tinh, còn ngoài đó biên giới thì tối đen, sự tối đen này giống như sự tối đen của Lỗ đen, tuy nhiên chỉ nhận thấy Lỗ đen hút vật chất mà không gian tối đen trên không như vậy. Chúng ta giả sử rằng Vũ trụ 13.7 tỷ năm này như một Hệ mặt trời, thì khoảng cách giữa các Vũ trụ đã quá lớn để ánh sáng đi tới giúp chúng ta nhìn thấy chúng. Thực ta, thời cổ đại, người ta đã cho rằng thời gian Vũ trụ gần như vô cùng rồi! Nhà bác học Newton dựa trên lực hấp dẫn giữa các thiên thể đã viết rằng Vũ trụ vô cùng vô tận, rõ ràng ý nghĩa này đã mâu thuẫn một cách đơn giản và đễ nhận thấy về sự vô lý của thuyết Bigbang: với điểm khởi nguyên đông đặc cực độ và nóng khủng khiếp của Vũ trụ, và phải kèm theo hai tiền đề đi cùng đó là sự "không có thời gian và không gian". Qua đó, mới nhận thấy khoa học đang còn mơ hồ về khái niệm không gian và thời gian ngay từ thời điểm bắt đầu của Vũ trụ rồi.
-
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ CÚ NHẢY VĨ ĐẠI "VƯỢT THOÁT" RA KHỎI VŨ TRỤ QUAN SÁT ĐƯỢC - 13.7 TỶ NĂM ÁNH SÁNG (1) Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang? Quay ngược thời gian lại 13,7 tỷ năm trước đây, khi tất cả vũ trụ chưa được hình thành và chỉ tồn tại như một điểm kỳ dị và bắt đầu với vụ nổ Big Bang. Big Bang là lý thuyết được nhiều nhà thiên văn học tin tưởng là nguyên nhân hình thành vũ trụ. Tuy nhiên nếu lý thuyết đó là thật, thì có những gì tồn tại ngay trước khi vụ nổ xảy ra, nguyên nhân của vụ nổ là gì? Một câu hỏi đã khiến không ít các nhà thiên văn học phải đau đầu. Câu hỏi này được đặt ra trước thời kỳ thiên văn học và vũ trụ học hiện đại khoảng 1600 năm. Vào thế kỷ thứ 4, nhà thần học St. Augustine vật lộn nghiên cứu khái niệm bản chất của Chúa trời trước khi tạo dựng nên vũ trụ. Và câu trả lời của ông là không có gì tồn tại trước khi Chúa tạo nên vạn vật. Tuy nhiên câu trả lời này có vẻ không phù hợp với thiên văn học và vũ trụ học hiện đại. Vật lý học thế kỷ 21 đã được trang bị nhiều kiến thức hơn, trong đó phải kể đến thuyết tương đối của Albert Einstein với khái niệm tương quan giữa khối lượng và thời gian đã cho chúng ta cái nhìn mới hơn về vũ trụ thời kỳ tiền Big Bang. Giải thích đơn giản là các hành tinh có khối lượng càng lớn thì chúng ta sẽ cảm nhận thời gian trôi qua chậm hơn khi đứng trên bề mặt, so với các hành tinh có khối lượng nhẹ hơn mặc dù sự chênh lệch là rất nhỏ. Do đó, trước vụ nổ Big Bang, điểm kỳ dị là điểm tập trung tất cả khối lượng của vũ trụ, nên nó khiến thời gian bị bế tắc hay có thể coi như không có khái niệm thời gian và cũng đồng nghĩa với việc không có khái niệm thời kỳ trước Big Bang. Nếu chỉ xét lý thuyết tương đối của Einstein thì khái niệm thời gian chỉ tồn tại khi điểm kỳ dị nguyên thủy mở rộng với kích thước và hình dạng của nó. Tức là không tồn tại khoảng thời gian trước vụ nổ Big Bang, cũng đồng nghĩa với câu hỏi ở tiêu đề là vô nghĩa. Tuy nhiên thuyết tương đối của Einstein vẫn chưa phải là đầy đủ, có rất nhiều hiện tượng mà nó không thể giải thích, lúc này chúng ta mới xét đến lý thuyết vật lý lượng tử. Sự ra đời của vật lý lượng tử cùng hàng loạt lý thuyết mới đã làm thay đổi những suy nghĩ và khái niệm trước đây, đồng thời làm hồi sinh câu hỏi trên 'Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ?'. Vật lý lượng tử đặt ra một giả thuyết rằng vũ trụ của chúng ta có thể chỉ là một vũ trụ con trong một vũ trụ lớn hơn. Lý thuyết này được hình thành từ việc quan sát các bức xạ nền vũ trụ (CMB) cón sót lại sau vụ nổ Big Bang. Các nhà thiên văn học quan sát CMB lần đầu tiên vào năm 1965, và nó nhanh chóng gây ra một vấn đề khúc mắc trong lý thuyết Big Bang. Tuy nhiên đến năm 1981 nó đã được giải thích nhờ lý thuyết lạm phát vũ trụ. Lý thuyết này chỉ ra rằng vũ trụ mở rộng rất nhanh, chỉ trong vài phút vào giai đoạn đầu tiên của thời kỳ tồn tại của vũ trụ. Nó gây ra biến động về nhiệt độ mà mật độ của CMB, tuy nhiên những biến động này phải được thống nhất. Những nỗ lực lập bản đồ vũ trụ gần đây cho thấy rằng vũ trụ có khá nhiều sai lệch, một số khu vực có nhiều biến động hơn các khu vực khác. Một số nhà thiên văn học cho rằng điều này chứng tỏ không phải hình thành từ chính nó, mà nó được hình thành từ một vũ trụ lớn hơn. Một giả thuyết khác đề cập đến lỗ đen khổng lồ trong vũ trụ khác. Lỗ đen giống như một máy ép khổng lồ trong vũ trụ và theo lý thuyết các vật chất sau khi bị hút và nén sẽ được giải thoát ra ngoài qua lỗ trắng. Lỗ trắng là đối lập với lỗ đen, nó giống một van xả vật chất, không những vậy nó còn cung cấp năng lượng cho vật chất. Do đó các nhà thiên văn học giả thuyết rằng vũ trụ của chúng ta đã từng được hình thành trong một lỗ đen khổng lồ, và mỗi lỗ đen trong vũ trụ có thể ẩn chứa những vũ trụ chưa tồn tại và chúng ta chưa biết đến. Các nhà khoa học khác lại tin vào lý thuyết chu kỳ, trong đó sự hình thành của điểm kỳ dị là do chính vũ trụ trước đó tự sụp đổ trong một sự kiện được gọi là Big Crunch. Nó tạo ra điểm kỳ dị một lần nữa, các vật chật bị dồn ép vào điểm kỳ dị và tạo ra một vụ nổ lớn mà chúng ta gọi là Big Bang tái tạo vũ trụ, sau đó quá trình Big Bang và Big Crunch lặp lại theo lý thuyết chu kỳ. Tuy nhiên giả thuyết này lại đặt ra câu hỏi tương tự như trường hợp 'quả trứng có trước hay con gà có trước'. Vậy để trả lời câu hỏi tiêu đề "Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ?" ngay cả các nhà khoa học cũng đang đau đầu tìm câu trả lời, có thể trước vũ trụ không tồn tại gì, có thể hình thành từ vũ trụ lớn hơn hay theo lý thuyết chu kỳ. Tuy nhiên cho dù câu trả lời là như thế nào đi nữa, tạo hóa vẫn luôn là bí ẩn lớn nhất mà có lẽ với những kiến thức hiện tại, chúng ta vẫn nên tin vào bàn tay của đấng tối cao đã tạo nên mọi thứ (tác giả Endy Hoàng). "Chúng ta vẫn nên tin vào bàn tay của 'Đấng Tối Cao' đã tạo nên mọi thứ": Chính vì cái tư duy chỉ ngồi dùng ngôn từ phi thực tế này nên lịch sử văn minh nhân loại 3.000 năm gần đây là cuộc hành trình đầy xương máu, đặc biệt đó là "thành quả" của một số tôn giáo chẳng hạn thời đại trung cổ còn được gọi là "thời đại đen tối", "thời đại man rợ" mà Cơ Đốc giáo gây ra, thực ra nó cũng chỉ là trò chơi quyền lợi của con người mà thôi. Giờ này mà còn lẩm cẩm với mớ thần học Augustine, vẫn đang mải miết vật lộn "vạn vật biến hóa vô cùng" để đi tìm cái trước đó, lại tự đặt tên và gán cho thuộc tính "Trúa" như thuộc tính con người, rồi lại đi tìm định nghĩa và bản chất trở lại, rồi lại gán cho một người cụ thể trở lại thành chính ông đó. Hơn 3.000 năm trước thời khi Augustine đang còn loay hoay và lẩm cẩm, thì người ta đã biết Học thuyết thống nhất vũ trụ và có pháp môn ứng dụng từ lâu rồi! Cho tới thế kỷ IV TCN Pajantali đã có cuốn sách viết cụ thể về các trạng thái kinh qua Yoga của cá nhân hòa nhập với các tầng thứ vũ trụ. Gần 1.000 năm sau, hình như chính cái ông Augustine ni "chế" ra "tội tổ tông" thì phải. Cái này rất tinh vi, bởi những người đang sống có làm được điều gì ý nghĩa thì cũng không phải từ tổ tiên, cha mẹ, anh chị tu nhân tích đức mà là từ các "Vị" (được cho là... ông này bà nọ) bởi vì có Tội Tổ Tông -> cấm thờ Tổ Tiên, kinh thật. Tổ tiên đã cảnh báo gần 1.000 năm trước: "Chẳng qua cũng chỉ trò chơi thôi mà"! Bống bống bang bang! Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Cá chép sống trong biển, sông, hồ vượt Vũ môn đã khó, huống chi cá lại sống ở dưới giếng (ghi nhận: Giếng Việt biểu tượng cho đạo Tổ Tông, Suối Nguồn Thánh triết)! Vũ trụ là một "động cơ vĩnh cửu vận động theo quy luật của chính nó" thì cầu xin cái gì ở đấy!
-
TỪ TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ "HẬU THIÊN BÁT QUÁI PHỐI HÀ ĐỒ CỦA ĐỊA CẦU" NHẬN THỨC LẠI MỐI QUAN HỆ ÂM DƯƠNG & NGŨ HÀNH Từ nội dung phân tích có thể thấy sự khác nhau giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái, rồi công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của Địa cầu, tuy nhiên trong Vũ Trụ vô biên dưới sự nghiên cứu của khoa học thì có nhiều thiên thể đang hình thành hoặc đang tan rã, đồng thời trên Địa cầu đã có sự tiến hóa từ hợp chất vô cơ, hữu cơ, cây xanh, con khỉ... con người cho phép đặt câu hỏi mối quan hệ Âm Dương và Ngũ Hành như thế nào? Phải chăng đối với Vũ Trụ vạn vận trong nó được nhận biết chỉ qua Âm Dương! Ngân hà thể hiện rõ 4 cánh tay dài tương ứng trường khí Tứ Tượng "Nỗ đen" mang hành Dương Thổ -> sao Tử vi trong môn Tử vi đẩu số mang hành Dương Thổ! Nếu Địa cầu thuộc Hệ mặt trời, Hệ mặt trời thuộc những hệ thiên văn lớn khác ví dụ Ngân hà, và cứ như vậy chúng ta có một hệ tiệm cận vô cùng, trong khí đó cấu trúc thuộc tính vạn vật trên Địa cầu đều quy chiếu tới quy luật Âm Dương Ngũ Hành do vậy mọi hệ thiên văn khác trong Vũ trụ đều phải tương ứng nhằm đảm bảo sự thống nhất của Vụ trụ. Thực tế, chúng ta có 12 cung Hoàng đạo của Thiên cầu với thuộc tính tương tự 12 cung của Địa chi, lúc này một quy luật khác xuất hiện và vận động: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu". Chúng ta có thể hiểu, khi đạt những trạng thái giới hạn tích tụ khí để hình hình nên thuộc tính Ngũ Hành thì đồng thời, vạn vật trong Vũ trụ cũng tự thân nó đều có thuộc tính tương ứng ngay lập tức, đây là sự liên kết tức thời thuộc bản chất của Vũ Trụ. Ví dụ, qua Kinh Dịch có thể "đoán" được tương lai không ngoài quy luật đã qua và sự liên kết tức thời của Vũ trụ trong một trạng thái không thời gian nhất định. Một ví dụ khác, Giáp Tý khởi nguyên với Vận khí hành Kim, tương khắc là đầu trong Lục thập hoa giáp, nếu chúng ta hỏi tại sao là hành Kim này đầu thì sẽ lý giải thông quan một số quy luật nhưng "tại sao là là chính hành Kim này" thì đó là bản chất tự nhiên của Hệ mặt trời - Địa cầu - Con người vừa sinh ra chứ không thể nào khác. Những vấn đề như thế có thể gọi là "chân lý" hay sự thật là như vậy, chẳng do ai và vì ai cả, Vũ trụ không quan tâm bất kỳ cái gì kể cả "Thượng Đế" (các tổ chức, cá nhân trong nhân loại đang nhầm lẫn ở khái niệm này, cũng không chắc chắn là họ đang nhầm lẫn hay có lẽ phản nhấn mạnh là "đang khai thác và lợi dụng" Thần hiệu này -> được chứng minh qua tiến trình lịch sử văn minh nhân loại. Do vậy, chúng ta không nên lạm dụng từ ngữ "Thượng Đế", còn danh xưng đúng trong văn hóa Việt đó là "Ngọc Hoàng Thượng Đế" chứ không phải "Thượng Đế"), trong nó chỉ là "Quy Luật, Quy luật và Quy Luật Bao Trùm". Thậm chí, Vũ trụ cũng chẳng cần nhận biết nó là gì, nó cũng chẳng thèm quan tâm đến "Cái" chẳng phải Âm chẳng phải Dương nữa. Quay trở lại hình chiếu thiên đỉnh của Ngân hà và Mặt trời như dưới đây. Ngân hà và Mặt trời nhìn từ đỉnh (bắc) chiếu xuống Hệ mặt trời nằm ở 1 trong 4 cánh tay của Ngân hà, dựa trên cấu trúc của Hệ mặt trời và Địa cầu, chúng ta sẽ biết được trường khí cánh tay này có thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành là...?.
-
Từ Tiên Thiên Bát Quái nhận thức lại về phương vị Hà đồ và quy ước xây dựng bản đồ thiên văn, địa lý... thời Hùng Vương Qua phân tích về cấu trúc Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái, cùng nhận định về Hà đồ - Lạc thư, thì chúng ta sẽ nhận ra: 1. Đối với Tiên Thiên Bát Quái thì quái Càn sẽ ứng với phương bắc, quái Khôn ứng phương nam, trục bắc - nam này tương ứng trục thẳng đứng vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo chứ không phải trục từ trường bắc - nam của Địa cầu, có thể hình dung đây là trục bắc - nam của Ngân hà... Bản gốc Tiên Thiên Bát Quái không trình bày phối hợp theo phương vị nào cả, sau này một số sách phối theo phương vị của tám hướng nhưng chọn Càn là phương nam. Tiên Thiên Bát Quái phối phương vị (Càn - bắc và Khôn - nam của trục Ngân hà) Ngân hà và Thiên cầu (Figure 23.2 Seen from within, the flattened disk of our Galaxy appears as a band of light across the heavens, known as the Milky Way. When we gaze at the Milky Way, we are looking in the plane of our Galaxy's disk; in other directions, our line of sight is out of the plane. The plane of the celestial equator is inclined at an angle of about 60 to the Galactic plane. The inset is (mostly) the Milky Way's plane as detected by IRAS, the Infrared Astronomy Satellite.) (The outline of the Milky Way viewed edge-on is shown in gray. The yellow box includes the summer portion of the Milky Way from Cassiopeia to Scorpius with a red dot marking the galaxy’s center. This is the section we see crossing the eastern sky in June. Click to enlarge. Credit: Richard Powell with additions by the author) 2. Đối với Hậu Thiên Bát Quái thì khi xem xét mọi môn học thuật cổ như phong thủy, độn giáp, thái ất... đều phải lấy Hà đồ của Địa cầu làm chuẩn, phương bắc ở trên, nam ở dưới theo định vị của từ trường Địa cầu. Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của Địa cầu 3. Đối với quy tắc cũ Hậu Thiên Bát Quái với phương nam ở trên, bắc ở dưới theo từ trường của Địa cầu thì đây là cấu trúc tuân theo Hà đồ của Con người. Quy tắc này áp dụng cho mọi loại bản đồ thời cổ đại và xem xét cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành trong bộ môn Đông y (bên trong con người: đầu đội trời, chân đạp đất). Lạc thư phối đầu, thân, chân, đuôi Rùa Hậu Thiên Bát Quái với nam trên, bắc dưới của Con Người (đổi Tốn Khôn) Khi nhận thức được 3 cách bài trí phương vị này thì chúng ta sẽ hiểu được nội dung câu truyện huyền thoại Việt Nữ Oa vá trời nói về mối "liên quan" giữa Tiên Thiên Bát Quái và "Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của Địa cầu": Trời (Càn - Tiên Thiên Bát Quái) nghiêng về phía tây bắc (Càn - Hậu Thiên Bát Quái), Đất (Khôn - Tiên Thiên Bát Quái) lệch về phía đông nam (Khôn - Hậu Thiên Bát Quái) chính xác về mặt bản chất của nó. Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu (có trục địa lý 23.5 độ) "Càn nghiêng tây bắc Khôn lệch đông nam" Từ quy tắc bài trí ở trên, người xưa đã tính quy luật tương tác của Mặt trăng theo 1 tháng như thế nào? Quỹ đạo Mặt trăng lệch một góc so với mặt phẳng Hoàng đạo khoảng 5. 0 độ. Không có bộ môn chuyên biệt về thiên văn hay Lý học cho riêng Mặt trăng? Hình như nó được tích hợp cụ thể một phần trong môn Độn Giáp, rồi từ đó đưa vào Tử vi. Nhật nguyệt đồng tranh qua trục Sửu - Mùi
-
ĐI TÌM CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI Đỗ Xuân Thọ Hẵn là cháu nội 12 đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm…thông minh tuyệt đỉnh…Từ năm lớp 1 đến năm lớp 12, hắn toàn đứng đầu lớp trong các lớp chuyên toán của các trường Kim Đồng, Giảng Võ, và chuyên toán A0 của trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội…Năm lớp 11 và 12 hắn ở trong đội tuyển thi toán quốc tế của VN…Hắn đều đạt huy chương Vàng Riêng năm lớp 12 hắn đã được Nữ Hoàng Anh mời dự tiệc bởi hắn đạt điểm tuyệt đối và có một cách giải xuất sắc ngoài dự kiến của ban giám khảo… Hắn học tại một trường nổi tiếng của Đức. Tại đây năm thứ 3 hắn đã bảo vệ thành công luận án Tiên sỹ Ha-bin về Toán Học với luận văn có tựa đề:” Bàn về nguyên lý bất định của Gơ-đen”…Chính cái luận văn TS này làm cho hắn lao vào Triết Học….Ba năm sau hắn sang Ha-vớt Mỹ làm giảng viên Toán nhưng đồng thời nghiền ngẫm…Hắn đã bảo vệ thành công luận ánTiến sỹ triết học Phương Đông về phật học. Đề tài có tên: “Đại Thừa tuyệt đối luận dưới góc nhìn của toán học”. Về nước, lấy một cô hoa hậu trường đại học Y Hà Nội cực kỳ thông minh , con một ông Phó Thủ Tướng đẻ được một đứa con gái và một đứa con trai xinh đẹp… …. Thế rồi hắn bỏ hết !!! Tất cả mấy cái luận án TS đó không làm cho hắn tìm được chân lý tuyệt đối!!! Hắn học đánh cờ tướng và quyết tâm tìm được chân lý tuyệt đối trong Cờ Tướng… Huấn luyện viên hàng đầu VN được bố vợ của hắn mời đến dạy cho con rể của mình chỉ một tuần sau đã không thắng được ván nào với hắn nên đã lẩn mất sau khi nhận 500 tr VNĐ… Hắn đọc Quất Trung Bí, Mai Hoa Phổ, Phản Mai Hoa, Tượng Cục, …. Hắn đặt luôn tạp chí Tượng Kỳ….Trên mạng hắn là thành viên tích cực của Thăng Long Kỳ Đạo … Hắn đánh với chương trình cờ mạnh nhất Hành Tinh, phần mêm Itella luôn thắng với tỷ số 7-3. Hắn đánh với các kỳ thủ hàng đầu của VN và thu về hàng tỷ VNĐ… Chưa hết, hắn nghĩ rằng đánh với bọn vận động viên “mậu dịch” này sẽ cùn cờ nên quyết định đi đánh cờ phủi, tức là đánh cờ giang hồ trên bờ hồ Hoàn Kiếm, vỉa hè Quốc Tử Giám v.v…Tóm lại ở bất cứ chỗ nào mà nghe thấy có một cao thủ cờ tướng ở Việt Nam là hắn phi đến ngay. Đánh và chiến thắng… Chưa hết, hắn quyết định đi Trung Quốc để gập Hồ Vinh Hoa, Từ Thiên Hồng và những kỳ thủ hàng đầu Trung Hoa… Hắn mang đi 20 triệu USD ....Hắn bôn ba khắp Trung Quốc.... Đánh chính thức, đánh bí mật với Hồ Vinh Hoa, Từ Thiên Hồng và tất cả các kỳ thủ hàng đâu Trung Quốc và chiến thắng tuyệt đôi thu về hàng tỷ Nhân dân tệ....Hắn lê la ở các quán cờ ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Ma Cao, Hồng Kông... Hắn đánh và thắng hết… Hang ngày hắn luyện đánh cờ “mù” với Intella… Sau khi có số vốn khủng khiếp, hẵn mở một quán trà với một cái tên: “Thiên Hạ Đệ Nhất Kỳ” và thách đấu với tất cả các cao thủ trên Trái Đất…Hắn luôn thắng và kiếm được không biết bao nhiêu là tiền…Nhưng hắn vẫn buồn bởi chưa tìm được chân lý tuyệt đối mặc dù vẫn tự an ủi: "Ta là người đánh cờ tướng giỏi nhất hành tinh này và đó là chân lý tuyệt đối !!!" ….. Một buổi chiều mùa Thu hắn gọi cho tôi : - A lô, anh có phải là TS. Đỗ Xuân Thọ, tác giả thuyết Tâm Vũ Trụ vừa đánh thắng ván cờ 10 tỷ VNĐ với thằng Lãng , phó chủ tịch Hà Nội không ạ ??? - Vâng, tôi đây, tôi đã ủng hộ hết số tiền đó cho trẻ em mổ tim rồi anh ạ - Trời ơi, em đọc hai câu thơ của anh ở bìa quyển Tâm Vũ Trụ mà em muốn đánh cờ với anh quá. Khoảng bao giờ anh dỗi - Ngay bây giờ !!! …… Chiếc xe Cam-ry của Long chở tôi đến một biệt thự ở ngoại thành Hà Nội… …. Bàn cờ đã được bầy ra…Tôi nhớ như in những điều ghi trong bản giao kèo của ván cờ này mà tôi đồng ý ký: 1) Nếu tôi thắng hắn tôi sẽ được sở hữu 1 biệt thự ở Trung tâm Hà Nội, 1 biệt thự ở Nha Trang, 1 biệt thự ở Đà Lạt và 1 căn hộ cao cấp ở thung lũng Si-li-con ở Hoa Kỳ 2) Nếu tôi thua tôi phải nhượng bản quyền Bộ Lọc Sóng Ý Thức (BLSYT) cho hắn -Thưa anh, em nghe thiên hạ đồn là anh đã tiếp cận được với chân lý tuyệt đối nên hôm nay em quyết đánh cờ với anh, hắn nói một cách buồn buồn. Em cực kỳ khiêm tốn nhưng thấy không ai là đối thủ của mình trên trái đất này - Hôm nay ông sẽ thua tôi tuyệt đối ……. Pháo 2 bình 5 , hắn bốc thăm và được đi trước Pháo 8 bình 5, tôi quyết định đánh trận thuận pháo mà tôi cực kỳ cảm hứng với Quất Trung Bí …. Hắn đã đánh như một thằng mới biết chơi cờ…Tôi đã thắng hắn bằng nước tiền mã hậu pháo rất đơn giản …. Hắn như phát rồ, ngửa mặt lên trời gào lên từng tiếng: - Sao hôm nay, kẻ bất bại trong mọi cuộc cờ tướng trên trái đất này lại thua đỗ xuân thọ chỉ vì đi toàn những nước “dở hơi” .... Hắn đập đầu vào tường rồi lăn lộn trên nền nhà rồi hộc lên từng tiếng: - Chân lý tuyệt đối đâu???? - Hãy nghe đây, tôi thong thả nói, ông sai lầm là ở chỗ : ông xem cái Vũ trụ này chỉ có mỗi loài người ở trái đất là thông minh nhất. Ông nên nhớ trong Vũ trụ này, tôi đã chứng minh chặt chẽ bằng Toán học rằng: có vô hạn nền văn minh mạnh hơn trái đất và cũng có vô hạn nền văn minh yếu hơn trái đât. Lúc đánh cờ với ông vừa rồi, tôi đã dùng sóng ý thức (SYT) mở một số huyệt đạo của ông cho các SYT từ các nền văn minh yếu hơn trái đất 100 lần ùa vào đầu ông trong chốc lát làm ông đi lỗi nước rất nhiều và thua thôi chứ tôi cũng chẳng giỏi cờ tướng đâu ….. Vợ hắn quỳ dưới chân tôi xin tha…hắn quát vợ : “Đứng lên Lê ! Thế là nhục!!!” (Hệt như “Phát súng” của Puskin) …. Hắn đưa cho tôi tất cả các giấy tờ sở hữu 4 biệt thự trên ….Rồi quỳ xuống và nói: - Con xin thầy nhận con làm học trò. bây giờ con mới biết con còn rất nhỏ bé trong cái vũ trụ bao la này...con có cần tiền đâu thầy ...con cần chân lý tuyệt đối !!!! - Cả hai con hãy đứng dạy đi, ta không lấy của các con cái gì. Chồng con mê lẫn nên ta phải dạy cho một bài học thôi. Còn ta không thể nhận thêm con vì con chưa đủ độ điên rồ để làm học trò của ta. Ta đã có 24 học trò bố trí khắp trái đất. tên lửa syt là bí mật tuyệt đối của dân tộc việt nam nên không thể tiết lộ được.... con hãy quay lai với toán học, bởi đó là công cụ duy nhất của tâm vũ trụ ban cho loài người để tìm thấy người mà không lạc lối. Toán học sẽ dẫn con đến chân lý tuyệt đối – Tâm Vũ Trụ!!! Nói rồi tôi bước ra cửa. Long đã đỗ chiếc Cam-ry ngay trước cửa nhà hăn… Qua cửa kính tôi vẫn nhìn thấy hắn và vợ vái theo xe của chúng tôi như tế sao. Hà Nội, 11/12/2013
-
HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ MỐI QUAN HỆ CỦA PHƯƠNG VỊ QUÁI TRONG TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI (Một vấn đề cực kỳ nan giải từ cổ chí kim) Đồ hình Tiên Thiên Bát Quái với trục định vị Càn Khôn (Trời Đất). Trên cấu trúc tượng trưng này, ghi nhận có "hành" thủy tượng nước (Khảm), "hành" mộc tượng cây xanh (Chấn)... nhưng không có "hành" Thổ trung tâm. Sơ đồ hoạch quái Tiên Thiên Phục Hy Tiên Thiên Bát Quái với trục Định Vị Hậu Thiên Bát Quái tương tác tới Địa cầu sau khi điều chỉnh cấu trúc Hà đồ với hành Thủy ở trên. Đây là vị trí chuẩn nguyên thủy của Hà đồ Địa cầu nếu lấy Địa cầu là chủ thể quán xét mọi tương tác. Hà đồ của Địa cầu Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của Địa cầu (Trục N - S là trục địa lý) Thiên can phối Hà đồ của Địa cầu Nhật nguyệt đồng tranh trên trục vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo Chúng ta ghi nhận thực tế độ lệch của trục quay Địa cầu (trục địa lý) so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo là 23.5 độ, trục từ trường lệch so với trục vuông góc này là khoảng 11.2 độ. Trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo so với trục mặt phẳng quay của Ngân hà gần như song song nhau. Thiên Cầu quy ước (có thể xem là một vũ trụ thu nhỏ) Tham khảo trục Ngân hà Mặt trời và Ngân hà nhìn từ trên đỉnh (bắc) xuống 1> Hoạch quái phối hợp: Trong sơ đồ hoạch quái Tiên Thiên, thì Tứ Tượng đối ứng nhau qua trục Định Vị: "Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến hóa vô cùng": Tứ Tượng Tiên Thiên: Thái Dương đối ứng Thiếu Âm. Thái Âm đối ứng Thiếu Dương. Khi phân hoạch bước tiếp theo ra Bát Quái, thì sự tương hợp Âm Dương theo quy trình hoạch quái chuẩn như "Dương trước Âm sau", "Dương dưới Âm trên", "Âm thuận tùng Dương", "Cực Dương phối Cực Âm", để từ Tứ Tượng Tiên Thiên định hình nên Bát Quái Tiên Thiên rồi cấu trúc lại theo Bát Quái Hậu Thiên: Bát Quái Hậu Thiên từ hoạch quái của Bát Quái Tiên Thiên: - Thái Dương đối ứng Thiếu Âm -> kết hợp Quái trong Hậu Thiên Bát Quái: Thái Dương (CÀN) hợp với "Cực Âm của Thiếu Âm" chính là Quái KHẢM và phần còn lại. - Thái Âm đối ứng Thiếu Dương -> kết hợp Quái trong Hậu Thiên Bát Quái: Thái Âm (KHÔN) hợp với "Cực Dương của Thiếu Dương" chính là Quái LY và phần còn lại. 2> Nhận thức Hà đồ - Lạc thư và từ trường Địa cầu: Từ nhận biết trục quay Địa cầu, quỹ tích Địa cầu, từ trường Địa cầu và công thức Hà đồ, mặt phẳng Hoàng đạo, quy luật vận động tương sinh... qua các đồ hình ở trên, để định hình phương từ trường Bắc - Nam, rồi xác định trục CÀN KHÔN của giai đoạn Hậu Thiên: - ĐỊNH VỊ: Cực đại từ trường (+) ứng quái CÀN và cực đại từ trường (-) ứng với quái KHÔN, hình thành nên trục định vị CÀN - KHÔN. - Nhận thức hành THỦY là "Cực Dương" trong Tứ Tượng, - RỒI SẮP XẾP: an vị cấu trúc phối hợp từ cặp của Bát Quái như phân tích ở trên dựa trên trục định vị CÀN - KHÔN và cùng dựa trên chiều vận động tương sinh của Ngũ Hành. Mà người xưa đã hình thành nên: HẬU THIÊN BÁT QUÁI. Các vấn đề khác: - Quy luật của các con số: Ở đây, chúng ta cũng chưa xác định quy luật của độ số Hà đồ - Lạc thư và Hậu Thiên Bát Quái, Thiên can phối Hà đồ... - Khái niệm Khí và Khí hóa. - Hành Thủy cực dương, quy luật đảo nghịch (chuyển hóa đối ngược lại): từ đó định hình Thái Cực tiểu - Cây xanh (Mộc, hình thành đầy đủ cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành) -> động vật -> con người -> rồi: "nhận thức về "Người" + hòa hợp Vũ Trụ = Thần tiên". Người xưa lấy biểu tượng cây xanh làm biểu tượng của sự sống: Cây Đời Sống - đó là cây Sung (Sống) trong văn hóa Văn Lang, rễ bám vào cả đất (hữu hình) và không gian (vô hình), lại sinh ra vô số quả. - Mặt trăng là vệ tinh của Địa cầu thuộc hành? Ảnh hưởng chu kỳ sống, sinh sản... thủy triều. Thường gọi là sao Thái Âm! Cây sung, tượng của Thái Âm
-
QUY TRÌNH HOẠCH QUÁI Tham khảo sơ đồ hoạch quái dưới đây, dựa trên quy tắc: "Dương trước Âm sau", "Dương dưới Âm trên", rồi mới "Vạch dương nhiều - Vạch dương ít". Sự biến đổi sự vật, hiện tượng thông qua biểu tượng Quái mà do vậy phải bắt đầu từng bước từ "Hào dưới lên Hào trên". Sơ đồ hoạch quái của Bát Quái Phục Hy " Nhận thức được trục Định Vị của thiên thể "Trái đất" khi chưa hình thành nên Ngũ Hành, định hình nên cấu trúc phân bố Bát Quái Tiên Thiên. Điều này có thể hiểu là Trái đất gần sát tới ngưỡng "cực đại tụ khí" hay Trái đất không thể tích tụ gì thêm từ Vũ Trụ nữa, mà chỉ đang vận động "rất" tự nhiên. Trục Định Vị của trạng thái Lưỡng Nghi (tiềng năng của sự hình thành Tứ Tượng) Khi tới điểm giới hạn này, ngay lập tức thiên thể Trái đất phải hình thành nên trạng thái Ngũ Hành để cân bằng tương tác, vấn đề này có thể hiểu là do tình trạng cô đặc không thể tích tụ vật chất nữa, trạng thái trọng lực, quán tính, từ tính đã "cản trở" sự vận động tự nhiên -> Bắt buộc hình thành Ngũ Hành. Ngũ hành sinh khắc Tính đối ứng của các Quái, tính Dương Âm của các Quái đều cân bằng, trên dưới qua trục Định Vị trong trạng thái vận động xoay tròn. Trục quay của Mặt trời so với mặt phẳng Hoàng đạo, hay so với trục quay của mặt phẳng Ngân hà (song song) Khi xuất hiện Ngũ Hành, tương ứng Hệ mặt trời hoàn thành cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành, lúc này sự định hình nên sự cân bằng trạng thái của các hành tinh với từ trường của chúng là tự nhiên. Hệ mặt trời tự thân nó cũng sẽ tạo một sự cân bằng với mọi hệ thiên văn trong Vũ Trụ, tất nhiên trục Định Vị ban đầu cũng sẽ có đôi chút thay đổi một góc độ (cực bé, không đáng kể, tiệm cận '0") để ứng với trạng thái Ngũ Hành. Do vậy, quy luật tương tác của Hậu Thiên Bát Quái tới Địa cầu cũng hình thành. Quỹ đạo các hành tinh trong Hệ mặt trời cũng đồng thời xảy ra tương ứng Trục Địa cầu "ngay lập tức dịch chuyển" sau trạng thái xuất hiện Ngũ Hành - Do trạng thái tới hạn đó, khả năng Hệ mặt trời có Địa cầu đang ở "rìa" Vũ Trụ vô biên này? Không thể như vậy, bởi động năng ban đầu của các vị trí Bản thể trong không gian vô cùng là khác nhau, do vậy Địa cẫu vẫn có khả năng nằm "bên trong" Vũ Trụ, do vô biên nên không thể xác định với một hệ quy chiếu bất kỳ. - Như vậy, Bát Quái Tiên Thiên nên hiểu cũng chính là sự vận động của thiên thể trước trạng thái tới hạn như đã mô tả ở trên (Trạng thái Khí Âm đang tụ/ thiên thể và Khí Dương/ vận động trong không gian quanh thiên thể tương tác lẫn nhau và đang chứa đựng tiềm năng hình thành nên cấu trúc Ngũ Hành). - Những dấu hiệu chỉ ra sự tới hạn, đó là xuất hiện nước, hành thủy và là mầm mống của sự sống đơn giản nhất, thực vật - hành mộc, mang đặc tính phát triển theo chu kỳ sinh - thành - suy - hủy. Như vậy, chỉ dấu cơ bản chính là Địa cầu có nước. - Sự khác biệt phương vị của các Quái trên Bát Quái Tiên Thiên và Bát Quái Hậu Thiên có thể hiểu như thế nào? Tất nhiên thiên thể có khả năng nghịch đảo trục quay hay không? Không, đây là quá trình tích tụ. - Đã có sự giới hạn tích tụ khí, đồng thời mối quan hệ thống nhất của vũ trụ là liên tục, vậy khả năng Vũ Trụ đã vận động tới hạn tức đã bắt đầu phân rã khi hành mộc xuất hiện trên địa cầu. Chữ "Thái Âm" trong Tứ Tượng có lẽ cũng mang ý nghĩa này. - Mối quan hệ Âm Dương Ngũ Hành với một hệ nào đó trong Vũ Trụ là như thế nào? Mặt trăng hành gì? Mối tương quan với Địa cầu và Hệ mặt trời?
-
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI Mô phỏng và quy ước sự vật, hiện tượng Thuyết quái trong Kinh Dịch viết: Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, chấn phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, Bát quái tương thố. Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị cố Dịch nghịch số dã. Trời đất định ngôi, núi đầm thông khí, sấm gió kích động nhau, nước lửa chẳng diệt nhau, tám quẻ giao nhau. Đếm cái đi vào quá khứ tùy theo chiều thuận, biết cái sẽ đến tùy theo chiều nghịch, cho nên Kinh Dịch đếm ngược vậy. Trên cơ sở đoạn kinh văn đã dẫn (xuất hiện vào đời Hán, hoặc trước đó), một số nhà nghiên cứu cho rằng: Những nhà Lý học đời Tống (ngót 1000 năm sau thời Hán), đã căn cứ vào đó để vạch ra Tiên thiên Bát quái và kết hợp độ số như sau: Mô phỏng các hiện tượng tự nhiên trên Địa cầu tương ứng với Bát Quái Tiên Thiên, chúng nằm trong mối quan hệ rất tự nhiên phối hợp lẫn nhau ở trên không và dưới đất, ý nghĩa này hàm ý không chịu tác động của "hiện tượng có tư duy" tức động vật, con người. Do vậy, khả năng trình bày tình trạng Địa cầu trong Hệ mặt trời khi chưa xuất hiện động thực vật và con người. "Trời Đất định vị": Khả năng mang ý nghĩa Vũ Trụ vô biên đã định vị. Nội dụng ngụ ý chỉ có sự tự nhiên vận động của sự vật, hiện tượng (trạng thái Khí), chưa có "tương khắc". Hàm ý chưa định hỉnh nên Ngũ Hành mặc dù Quái được tượng trưng bằng sự vật, hiện tượng trên Địa cầu. Cũng có thể nhận định đã có Mặt trời, Địa cầu... nhưng chưa hình thành nên Hệ mặt trời theo nghĩa cấu trúc đầy đủ của Âm Dương Ngũ Hành. Bát Quái Hậu Thiên thể hiện quy luật tương tác vậy Bát Quái Tiên Thiên cũng có ý nghĩa như vậy? Khả năng tích tụ của thiên thể, đến ngưỡng không thể tích thêm được nữa, xảy ra tình trạng đối nghịch lại lực tương tác hay "trọng lượng" hay "quán tính", do vậy phải xuất hiện Ngũ Hành với hành Thổ trung tâm để cân bằng mọi tương tác. Hệ mặt trời Cũng nên xem xét thêm chu kỳ: "Vòng tuần hoàn nước". Quy trình hoạch quái gốc Đồ hình Tiên thiên Bát quái và hệ thống Hy Dịch được coi của do vua Phục Hy (nhưng chỉ phát hiện và lưu truyền từ đời Tống), bắt đầu bằng hai ký hiệu căn bản sau đây: Từ hai ký hiệu này, cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Phục Hy đã vạch ra 8 quái gọi là Tiên thiên Bát quái, mỗi quái gồm 3 vạch (liền hoặc đứt ) có một trình tự phát triển từ dưới lên, được trình bày theo đồ hình sau đây trong Chu Dịch và dự đoán học (sách đã dẫn, trang 15). Đồ hình kết cấu trình tự Bát quái trên đây được phổ biến trong các sách kinh Dịch nói chung. Đồ hình Tiên Thiên Bát Quái của vua Phục Hy Tám quái này lần lượt có tên gọi là: 1-Càn, 2-Đoài, 3-Ly, 4- Chấn, 5-Tốn, 6-Khảm, 7-Cấn, 8-Khôn, được sắp xếp theo đồ hình có thứ tự như trên. Truyền thuyết và huyền thoại liên quan Truyện Nữ Oa vá trời: thườ Qua đồ hình trên nhận thấy rằng nửa phần trên của hình Tiên thiên Bát quái: số hào Dương trội hơn hào Âm, mà cao nhất là quẻ Càn và thấp nhất là quẻ Khôn. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, biểu tượng Âm Dương được diễn họa trong một vòng tròn, gọi là Lưỡng Nghi, tuy nhiên trên đồ hình của Thái cực đồ thuyết của Thiệu Khang Tiết lại trình diễn 3 lớp Âm Dương. Thái cực đồ thuyết và Âm Dương đồ trên tranh Đông Hồ Trên đồ hình Thái cực đồ thuyết, Âm Dương đồ chia làm 3 lớp Âm Dương đối ứng nhau, tương tự hoạch quái của Tiên Thiên Bát Quái. Trục phân chia của mỗi lớp thẳng đứng. Con lợn nọc (Dương) tượng trưng cung Khảm, độ số 1, hành thủy trên Hậu Thiên Bát Quái nhưng quán xét riêng một bức tranh liên hệ Âm Dương đồ thì đó là cấu trúc: "Thái cực sinh Lưỡng Nghi". Thái cực là Dương khi so sánh với Lưỡng Nghi: "Dương trước Âm sau", có thể hiểu Thái cực - 1, Âm Dương - 2. Phân tích các cấc vấn đề liên quan các giai đoạn Vũ Trụ Qua đấy, chắn chắn rằng: Vạch liền và đứt là biểu tượng cho trạng thái Âm Dương của Vũ Trụ, tức trạng thái sau Thái Cực (Thái Cực là trạng thái cân bằng tuyệt đối của Bản Thể trong một không gian vô cùng, hoàn toàn tối đen, chí tịnh, một cách dễ hiểu là mênh mông như một biển nước vô cùng vô tận ở mọi phương, cấu trúc không gian đơn vị quy ước có 6 phương, lục hợp, gồm 4 phương và trên dưới, trong hình tượng của khối lập phương), do hiện tượng "vi động" bất kỳ vị trí của đơn vị "Bản Thể" ở một vị trí không gian nào đó, để từ đó gây nên trạng thái phân cực của Vũ Trụ và gây nên hiện tượng Bigbang, truyền thuyết Bàn Cổ khai thiên lập địa có nói về vụ nổ kinh khủng này. Sau đó, Vũ Trụ vận động xoay tròn nhằm đảm bảo cho sự liên kết, tương tác lẫn nhau là thích hợp nhất. Đây chính là tình trạng Lưỡng Nghi tượng trưng bằng hai vạch liền và đứt. Liên kết tinh thể nước trong không gian Minh họa Bigbang Về mặt quy ước, những quy tắc "Dương trước Âm sau", "Dương tịnh Âm động", "Dương trong Âm ngoài", "Dương trên Âm dưới", "Âm thuận tùng Dương" được sử dụng là do khám phá từ tự nhiên của vạn vật mà ra. Chẳng hạn, về mặt tiềm năng thì quả trứng của con gà mái là một biểu tượng cho "Dương trong Âm ngoài", Vũ Trụ nguyên thủy chứa đựng tiềm năng sẽ sinh sôi vạn vật như một quả trứng. Trứng gà sau khi "nuộc" Chúng ta chú ý ở trình trạng ban đầu "vi động", khi nó xảy ra thì tình trạng mất cân bằng cho toàn thể Vũ Trụ và có sự khác nhau "tương đối" của Mọi Bản Thể khi so với Bản Thể tại vị trí "vi động", đấy chính là nguyên nhân của những sự thăng giáng Âm Dương (động năng khác nhau nhưng liên kết và hòa hợp trong một chỉnh thể thống nhất). Khi đó, Âm Dương phân biệt và chúng tương tác lẫn nhau theo dạng vận động xoay tròn, tất nhiên từ quan sát thì Bản Thể tích tụ lại thành nhóm khác nhau, do vậy nên dùng từ "Khí tụ thành hình" cho thuận tiện, hay thường gọi tụ khí. Bắc cực của Mặt Trăng Nam cực của Mặt Trăng Lúc này, "Bản Thể động nhất" sẽ tích tụ bên ngoài cùng trong mỗi nhóm tổ hợp trong các chu trình vận động tương tác Âm Dương của toàn thể Vũ Trụ theo dạng xoay tròn cùng một hướng, với tổng động năng ban đầu của Vũ Trụ là vô cùng tại thời điểm ngay sau sự kiện Bigbang. Hình tượng vận động xoay tròn của Vũ Trụ trên mặt trống đồng (mặt trời tâm trống mang tính tượng trưng) Ngân hà vận động xoay tròn trong không gian Sau một khoảng thời không rõ, Vũ Trụ vận động xoay tròn và định vị ổn định (chúng ta chưa chắc chắn Vũ Trụ chỉ vận động 1 vòng hay vô số vòng quay, qua quan sát các thiên hà càng lớn chu kỳ tự quay càng lớn), tạm gọi là trục Thiên Địa. Nếu chúng ta xem Vũ Trụ là một hệ quy chiếu, thì trong nó, cấu trúc vạn vật đã không còn ở trạng thái giống như "Bản Thể" nguyên khởi do sự tích tụ, có cái nhìn thấy bằng mắt như thiên thể, có cái không thấy được... có những cái vô cùng nhỏ, và khi so sánh, đối đãi lẫn nhau trong hệ quy chiếu toàn Vũ Trụ này chỉ là hai mặt Âm Dương? Tại sao vậy!. Đồ hình minh họa sự hình thành vũ trụ qua Tiên Thiến Bát quái Trong cái cõi bao la đó, đã hình thành nên Hệ mặt trời và các hành tinh trong nó, chúng ta cần xem xét khoảng thời gian chưa xuất hiện động thực vật và con người hoặc chưa định hình nên Ngũ Hành. Trước đó, chúng ta cần xem xét lại quy trình hoạch quái. Một hệ quả tất yếu, khi Âm Dương vận động và định vị, thì bước tiếp theo Ngũ Hành xuất hiện thì chắn chắn trục định vị đó đã hoàn toàn rõ ràng, vấn đề này rất quan trọng về mặt thiên văn, địa lý và mọi thứ khác. Xem xét quy trình hoạch quái Tham khảo đồ hình. Bát Quái Tiên Thiên Cao Đài Đại Đạo
-
BÍ ẨN CỦA BÁT QUÁI Như đã biết, 64 quẻ Dịch dựa trên sự thành lập của Bát Quái. Cố giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã viết: "Dịch là bài toán hiểm trở nhất" tức cách thành lập nội dung của quẻ Dịch. Tuy nhiên, có 2 loại Dịch là Tiên Thiên Dịch - Phục Hy Dịch và Hậu Thiên Dịch - Chu Dịch, trong đó cái Quái của Tiên Thiên Bát Quái cũng là của Hậu Thiên Bát Quái, nhưng khác phương vị... Do vậy, khi tìm hiểu Tiên Thiên Bát Quái thì không thể không quay lại Hậu Thiên Bát Quái. Kinh Dịch tạo ra bởi các bậc Thánh nhân, nội dung là Thánh triết. Bát Quái Tiên Thiên theo một vị trong Cao Đài (tham khảo: "Trước cửa Không rồi mối Đạo thông") Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng Hậu Thiên Bát Quái Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác từ Mặt trời (trong mối tương quan với các hành tinh) tới Địa cầu và vạn vật sinh sống trên đó trong quá trình vận động trong cùng một Hệ quy chiếu (một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành). Cách dễ hiểu nhất đấy chính là quy luật xuân, hạ, thu, đông trên Địa cầu. Địa cầu lúc này như một "Điểm" chịu tương tác có quy luật từ "Mặt trời to lớn" phát ra. Trong khi đó, Địa cầu với từ tường của mình, định hình nên quy luật vận động Hà đồ - Lạc thư, để từ đó chúng ta có công thức Hậu Thiên Bát Quái phối "Hà đồ của Địa Cầu". Tương tác từ Mặt trời (mặt) tới Địa cầu (điểm) Bốn mùa trên Địa cầu Riêng đối với Dương lịch, cách trình bày trên so với Âm lịch là không tương đương, do hiện tượng tuế sai 25.920 năm, cho nên ngày xưa cần xác định ngày Đông Chí theo Âm lịch để xây dựng lịch hàng năm, với điều chỉnh "canh khắc" theo hiện tượng tuế sai. Lịch sử tôn giáo phương Tây và một số nước phương Đông thì ngày 25 tháng 12 hàng năm là ngày giáng sinh của thần Mặt Trời Vạn Thắng. Ai về nhắn họ Hy Hòa Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh. "Hậu Thiên Bát Quái" phối "Hà đồ của Địa cầu" Cũng do nhận thức quy luật của thực vật (Cây Đời Sống) trên Địa cầu tuân thủ rõ ràng quy luật tương tác của Hậu Thiên Bát Quái: xuân, hạ, thu, đông, do vậy người xưa đã xây dựng được công thức Địa chi tương ứng, ở đây cũng tuân thủ nguyên lý sinh - vượng - mộ và mộ -> là hành Thổ đặc trưng (Sửu - Mùi, Thìn - Tuất), hành Thổ này có mục đích chuyển tiếp từ hành này sang hành khác. Địa Chi (phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái và quy luật sinh sống của thực vật: xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng) Ở đây, điểm chuyển tiếp là điểm đầu của các cung Sửu, Mùi, Thìn, Tuất. Vấn đề này dựa trên vùng tương tác trên mặt Địa cầu từ ánh sáng mặt trời. Địa cầu tự thân vận động quay quanh trục hướng về điểm Cực bắc tạo một góc 23.5 độ so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo, đồng thời cũng di chuyển trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời trên mặt phẳng Hoàng đạo. Tuy nhiên, từ trường bắc - nam của Địa cầu lại lệch so với trục quay Địa cầu 12.3 độ, do vậy trục từ trường chỉ còn lệch so với trục vuông góc Hoàng đạo 11.2 độ. Qua hình ảnh Nhật Nguyệt đồng tranh chúng ta sẽ nhận ra bốn điểm chuyển tiếp đầu của hành Thổ chính là trục ngang Hoàng đạo (điểm đầu cung Thìn - Tuất) và trục đứng vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo (điểm đầu cung Sửu - Mùi). Đối với La kinh, do định phương vị từ trường để xác định tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái tới vị trí trên mặt Địa cầu, cho nên chỉ dùng Bát Quái chứ không phải phân chi tiết theo Địa chi. Địa chi là khi áp dụng cho cây xanh, động vật, con người thôi, cần có vùng đệm hành Thổ, chống "Shock", sau này thiên bàn Tử vi dùng từ Địa chi, ngay cả trong Đông y cũng vậy. La kinh phong thủy Từ trường nam châm bên cạnh la bàn có kim chỉ Nam Độ lệch trục từ trường Địa cầu so trục quay Địa cầu (trục địa lý) Nhật nguyệt đồng tranh qua trục vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo Đối với đường Bạch đạo - quỹ đạo của Mặt trăng, thì có độ lệch so với mặt phẳng Hoàng đạo khoảng 5.0 độ. Hoàng Đạo (năm) - Quỹ đạo Mặt trời: Đạo là Rồng tức Rồng Vàng. Bạch Đạo (tháng) - Quỹ đạo Mặt trăng: Rồng Trắng. Kinh đô Bạch Long tại bộ Phong Châu của nước Văn Lang. Xích Đạo (ngày) - Quỹ đạo Địa cầu: Rồng Đỏ. Thần Đạo, Nhân Đạo (giờ) - Quỹ đạo của Con Người: Rồng Đen. Từ đó, khi chúng ta phối hợp Hậu Thiên Bát Quái với Hà đồ - Lạc thư của Địa cầu và công trình trên mặt Địa cầu thì phải đặt phương Bắc lên trên, còn đối với Hậu Thiên Bát Quái với Hà đồ của cây xanh, động vật, con người thì phải đảo ngược lại tức phương Nam ở trên (đây là công thức áp dụng từ trước tới nay) dựa trên La kinh phong thủy như đã viết ở các bài trên. La kinh phong thủy 24 sơn hướng và Bát Trạch Các trục quy ước tên gọi Trục Khảm - Ly gọi là trục Định Vị (từ trường), trục Chấn - Đoài gọi là trục Sinh - Tử. Mặt khác, chúng ta cũng đã biết Địa cầu di chuyển trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời không phải là một đường liên tục, mà là một đường dích dắc như hình Sin, thực trạng này là hiện tượng Chương Động trong thiên văn, ngoài thực trạng trục Trái đất quay một góc nhỏ sau 25.920 năm (tuế sai) lại trở về vị trí cũ, đây là hiện tượng Tiến Động. Do hiện tượng Tiến Động mà thời xưa, có lúc quốc gia này lễ hội mùa xuân lại rơi vào mùa hè, lễ hội mùa thu lại rơi vào mùa đông mà không biết tại sao. Từ hiện tượng này, mà người xưa xác định được quy luật tương tác Huyền không phi tinh trên Hà đồ của Địa cầu. Hiện tượng Chương Động Theo Huyền không phi tinh: quy tắc nam phi nghịch, nữ phi thuận để xác định Cung phi của cá nhân. Tuy nhiên, khi dùng Huyền không phi tinh cho Công trình trên Địa cầu hay chính là cho Địa cầu thì phi tinh thuận hay nghịch? Trường khí Huyền không phi tinh này bao trùm Hệ mặt trời, thì Mặt trời là Dương còn Địa cầu là Âm, do vậy khi quán xét tương tác này cho một "ngôi gia" hay đánh giá một châu lục trong một năm thì dùng quy tắc Phi Thuận. Chúng ta cần nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề này, tất nhiên Phi tinh trên công thức Hà đồ chứ không phải Lạc thư. Cũng từ quy luật của Huyền không phi tinh theo năm mà người xưa xác định được Cung Phi mỗi cá nhân, từ đó xác định được sự tương ứng của bộ môn từ trường Địa cầu - Bát Trạch. Cung Phi theo Huyền không phi tinh là quy luật lớn ngoài Hệ mặt trời, vượt ra khỏi thuộc tính theo bảng Lục thập hoa giáp quy ước tương tác trong Hệ mặt trời trên Địa cầu theo các nguyên tắc: "ngũ vận lục khí", "sinh - vượng - mộ", "khởi mốc Giáp Tý hành Kim - Vận khí khắc Thiên can trong quy tắc chủ thể nhận tương tác từ khách thể: "khắc - sinh - hòa - bị sinh - bị khắc". Chu kỳ Vận khí (mệnh người) theo Lục thập hoa giáp (đổi Tốn Khôn) Gia đình cũng là một đơn vị quy ước nhận tương tác theo công thức Hậu Thiên Bát Quái. Chú ý, Hậu Thiên Bát Quái là công thức tính tương tác từ Mặt trời, và ngay cả những tác tác có quy luật lớn khác, nhưng vì quá lớn nên không tính vì Hệ mặt trời hay Địa cầu đã nằm ngay trong một "Hành" trong thời gian dài rồi (gọi là bị "nhúng", chẳng hạn Hệ mặt trời trước 2013 bị "nhúng" trong trường khí của cung Song Ngư). Quy ước 8 thành viên của một gia đình này "giống" hoạch quái của Tiên Thiên Bát Quái nhưng quy ước theo Hậu Thiên Bát Quái, hoặc theo Huyền không phi tinh như định hình cung phi của một con người để quan xét theo Bát Trạch căn nhà, do vậy cần phản quán xét kỹ ý nghĩa hơn nữa. ĐẾN ĐÂY THÌ Ý NGHĨA CỦA CÔNG THỨC HẬU THIÊN BÁT QUÁI ĐÃ RÕ, TUY NHIÊN CHÚNG TA CHƯA BÀN ĐẾN "HOẠCH QUÁI" (tùy theo hệ quy chiếu thiên văn lớn dần trong quy ước Chủ thể và Khách thể để cùng có quy luật Hậu Thiên Bát Quái nữa, "Đồng thanh tương ứng, đồng Khí lương cầu"). BÍ ẨN CỦA 4 HÀNH MỘ SỬU, MÙI, THÌN, TUẤT TRÊN 12 CUNG ĐỊA CHI CHỨNG TỎ 12 CUNG HOÀNG ĐẠO THIÊN VĂN TÂY PHƯƠNG BỊ "KHÓA" HAY "BÍ" Ở ĐIỂM NÀY. KHI ĐÃ RÕ, THÌ CÁCH VẬN DỤNG NGÔN TỪ RẤT CHÍNH XÁC ĐỐI VỚI SỰ PHỐI HỢP QUÁN XÉT CÁC TỔ HỢP TƯƠNG TÁC TRONG HOẶC NGOÀI HỆ QUY CHIẾU, CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ... - Từ đó, chúng ta nhận định Vũ Trụ Vô Cùng có từ trường không??? Đây là câu hỏi tối quan trọng! Nếu có, nó sẽ bắt buộc mọi thứ trong nó tuân thủ từ trường nay! - Vũ Trụ đã quay hết một vòng của chính nó? Hay đạt cực đỉnh 1/2 vòng rồi tan rã. - Sự phân biệt, đối đãi Âm Dương (Dương)/ Ngũ Hành (Âm) luôn phải có quy ước về chủ thể và khách thể, thuộc hệ quy chiếu tương tác nào chẳng hạn Hệ mặt trời đối với chủ thể con người, hệ quy chiếu sinh lý nội tại của con người đối với chính "con người đó"... - Thể phách (khi sống và sau khi chết) mô phỏng Con người vẫn tuân theo Hà đồ của Con người đó. - Hệ quy chiếu có thể là Vũ trụ toàn thể.
-
Về mặt thiên văn, cần phân biệt được mặt phẳng Hoàng đạo và "trục quay nghiêng một góc so với trục vuông góc của mặt phẳng Hoàng đạo" của các hành tinh trong Hệ mặt trời là rất quan trọng. Dưới đây là Bảng tóm tắt các thông số thiên văn của Hệ mặt trời: Bảng tóm tắt các thông số thiên văn của các hành tinh trong Hệ mặt trời: Mặt phẳng Hoàng đạo là mặt phẳng trùng vào quỹ tích của Trái đất di chuyển xung quanh Mặt trời, hình Elip. Ở đây, độ nghiêng của trục quay Mặt trời so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo < 7.0 độ nếu so với trục quay của sao Kim cổ (tức sao Thủy hiện đại), điều đó chứng tỏ rằng: Mặt trời hay Hệ mặt trời đang quay quay một trục gần trùng với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo, tức gần trục với trục Vũ trụ thu nhỏ quy ước - gọi là Thiên Cầu. Điều này có thể hình dung trục bắc - nam địa lý của Mặt trời gần trùng vào trục từ trường bắc - nam của chính nó. Để từ đó, định hình được công thức Hà đồ - Lạc thư cho Mặt trời hay cả Hệ mặt trời, ở đồ hình dưới đây chúng ta chỉ cần xoay ký hiệu N - S về trùng trục Sửu - Mùi là trở thành cấu trúc Hà đồ của Mặt trời hay chính Hệ mặt trời (thay tên Địa cầu bằng tên Mặt trời) Và đấy chính là lý do người xưa bài trí Nhị thập bát tú hay 12 cung Hoàng đạo xung quanh chòm sao Bắc Đẩu (kiểm tra chòm Thiên Long) chứ không phải Bắc Cực trong chòm Tiểu Hùng, nó lệch với chòm Tiểu Hùng một khoảng cách nhìn bằng mặt thường. Điều này có nghĩa chòm sao Bắc Đẩu được xem là trung tâm của bầu trời phương Bắc, nằm trên trục Vũ trụ bắc - nam của Thiên cầu. Thiên văn Đông phương Trên bản đồ thiên văn cổ Ai Cập, chòm sao Bắc Đẩu là hình chiếc đùi con bò (mành xanh da trời nhạt) và xung quanh nó là 12 chòm sao tượng trưng 12 cung Hoàng đạo. Thực ra, 12 chòm sao này bài trí xung quanh chòm sao Thiên cực bắc Thiên Long mới là chính trong thời cổ đại, do vậy chòm sao này gần trung tâm Hoàng đạo hơn chòm Bắc Đẩu. Chòm sao Thiên Long tượng trưng cho con tê giác cái, đang mang thai. Thiên Long là chòm sao Thiên cực bắc tượng trưng cho một "Người Phụ Nữ". Thiên văn Ai Cập Thiên văn hiện đại Vị trí tương đối của các chòm sao trên vòng Hoàng đạo và Bắc Đẩu, Tiểu Hùng, các chòm Thiên cực bắc. Đây là toàn cảnh cái nhìn thiên văn trước khi phân tích Bát Quái.
-
Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần I - 2 Hệ thống ký hiệu của kinh Dịch Hệ thống ký hiệu của kinh Dịch được truyền cho tới nay gồm hai hệ thống chính là: 1) Hệ thống Hy Dịch tức kinh Dịch của Phục Hy có nguồn gốc từ đồ hình Tiên thiên Bát quái. 2) Hệ thống Chu Dịch, có nguồn gốc từ đồ hình Hậu thiên Bát quái. Đồ hình ký hiệu của hai hệ thống ký hiệu này như sau: Tiên thiên Bát quái và ký hiệu 64 quẻ Hy Dịch Đồ hình Tiên thiên Bát quái và hệ thống Hy Dịch được coi của do vua Phục Hy (nhưng chỉ phát hiện và lưu truyền từ đời Tống), bắt đầu bằng hai ký hiệu căn bản sau đây: Từ hai ký hiệu này, cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Phục Hy đã vạch ra 8 quái gọi là Tiên thiên Bát quái, mỗi quái gồm 3 vạch (liền hoặc đứt ) có một trình tự phát triển từ dưới lên, được trình bày theo đồ hình sau đây trong Chu Dịch và dự đoán học (sách đã dẫn, trang 15). Đồ hình kết cấu trình tự Bát quái trên đây được phổ biến trong các sách kinh Dịch nói chung. Đồ hình Tiên Thiên bát quái của vua Phục Hy Tám quái này lần lượt có tên gọi là: 1-Càn, 2-Đoài, 3-Ly, 4- Chấn, 5-Tốn, 6-Khảm, 7-Cấn, 8-Khôn, được sắp xếp theo đồ hình có thứ tự như trên. Cổ thư chữ Hán cho rằng: vua Phục Hy đã dựa theo Hà đồ phát hiện trên sông Hoàng Hà để sắp xếp Tiên thiên Bát quái, như đã trình bày ở trên. Chúng ta tham khảo một số nhận định khác nữa về Tiên Thiên Bát Quái và truyền thuyết Bà Nữ Oa: Thuyết Quái viết: Thái cực đồ thuyết của Thiệu Khang Tiết: Chu Đôn Di: Công thức theo Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ: Vòng dịch Âm Dương: Tiên Thiên Bát Quái phối Hậu Thiên Bát Quái: Hoạch quái có liên quan đến Thái cực và Tịnh Động: Chiết Khải điền Ly trong mối tương quan Hậu Thiên Bát Quái -> Tiên Thiên Bát Quái: Cao Đài: Tôi ghi chú các vấn đề: - Quan sát cáu trúc "Dương trong Âm ngoài", "Dương trước Âm sau", quan sát Mặt trời và hành tinh không có sự sống hoặc trái đất khi chưa có sự sống. - "Vạch" tạo "Quái" là biểu tượng quy ước cho đối tượng "thực" hay trình bày một hiện thực khách quan và chủ quan nào đó. - Nhận thức sau Thái cực với vụ nổ Bigbang hay nhát rìu của ông Bàn Cổ do hiện tượng "vi động". Vị trí không gian của "vi động" này là bất kỳ và không thể xác định được trong một Vũ Trụ vô cùng, vô tận. Vụ nổ Biabang này tạo ra bởi phân cực Âm Dương của chính bản thân Vũ Trụ khi đạt "trạng thái tới hạn như thế nào đó" sau "vi động" kích hoạt và ?, rồi sau đó vận động xoay (nghiên cứu lại hoa văn mặt trống đồng). - Khi phân biệt Âm Dương thì trạng thái Vũ Trụ Vận Động không còn như trạng thái của Thái cực - tức Vũ Trụ Nguyên Thủy được nữa. - Nhận thức mối tương quan giữa "Quái" của Hậu Thiên Bát Quái và "Quái" của Tiên Thiên Bát Quái. Nhận thức về trạng thái Trái đất quay quanh trục và quanh trên Xích đạo xung quanh Mặt trời, Hệ Mặt Trời vận động... nằm trong mối tương quan của cái "Vũ Trụ Vận Động". Diễn tiến của trạng thái tụ khí của một thiên thể: "khi nhẹ thành trời, khí nặng đục tụ xuống thành đất". - Ứng dụng Phục Hy Dịch - Tiên Thiên Bát Quái hay Chu Dịch - Hậu Thiên Bát Quái? - Vũ Trụ vô cùng, vô tận và vận động theo quy luật của Âm Dương (một Âm một Dương gọi là Đạo), Đạo ở đây còn có nghĩa bao hàm trạng thái vô cùng, vô tận vậy!.
-
Trước khi nói về hoạch quái - quy tắc xây dựng cấu trúc Quái của Tiên Thiên Bát Quái, cần phải quay trở lại tranh dân gian Việt Nam để nhận biết lại ý đồ của người xưa. Bộ tranh ngũ Hổ tượng trưng cho Hà đồ và Lạc thư, trên đó hổ vàng - hành thổ đè lên hộp ấn có chữ "Pháp đại uy nỗ" - Uy lực của pháp lớn hay Uy lực quy luật bao trùm. Hà đồ (bên trái từ trong nhìn ra) - Lạc thư Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội, Việt Nam Trên tranh có 5 thanh kiếm và 5 cờ lệnh, mang ý nghĩa vòng vận động quy luật áp đặt tương sinh của Hà đồ, ở đây chúng ta không thấy trình bày Hậu Thiên Bát Quái. Như đã phân tích, công thức Hà đồ - Lạc thư chính là công thức mô tả quy luật vận động Âm Dương Ngũ Hành của hệ mặt trời, trái đất, con người... hay bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong vũ trụ, cho nên nó mới gọi là quy luật bao trùm. Hà đồ - Lạc thư được diễn họa dưới một hình thức khác (vòng lửa vũ trụ của thần sáng tạo Shiva) Qua cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời, chúng ta cũng nhận thấy Hà đồ (Dương) là lý tương sinh ở bên trong, còn Lạc thư (Âm) là lý tương khắc bên ngoài. Cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời Ở đây không có Hậu Thiên Bát Quái, bởi vì nó mô tả một quy luật tương tác đặc trưng tới một chủ thể trái đất hoặc con người... Ví dụ, quy luật của Huyền không phi tinh là dòng vận động của trường khí trên công thức Hà đồ chứ không liên quan đến Hậu Thiên Bát Quái. Cho nên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ không thể nói là công thức bao trùm được. Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ Còn đối với công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu, vì trục từ trường trái đất lệch 11.3 độ so với trục quay trái đất cho nên trục Sửu - Mùi khả năng chưa chắc là vuông góc hoàn toàn với mặt phẳng Hoàng đạo như trình bày dưới đây. Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu Dưới đây là biểu tượng của đường Hoàng đạo. Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng hình học chứa quỹ đạo Kepler chuyển động củaTrái Đất quanh Mặt Trời. Đa số các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều có quỹ đạo nằm gần mặt phẳng này. Lý do là chúng đều được hình thành cùng Mặt Trời từ một đĩa bụi Mặt Trời dẹt quay tròn trong một mặt phẳng gần trùng với mặt phẳng hoàng đạo. Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng hình học chứa quỹ đạo Kepler chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Đa số các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều có quỹ đạo nằm gần mặt phẳng này. Lý do là chúng đều được hình thành cùng Mặt Trời từ một đĩa bụi Mặt Trời dẹt quay tròn trong một mặt phẳng gần trùng với mặt phẳng hoàng đạo. Nhìn từ Trái Đất, mặt phẳng này cắt thiên cầu tạo nên vòng tròn lớn, chứa các vị trí của Mặt Trời, so với nền sao, trong một năm. Chính vì vậy nên mặt phẳng này có tên hoàng đạo (đường đi của Mặt Trời). Vì một năm có khoảng 365,25 ngày (cụ thể là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút, 16giây), nên mỗi ngày Mặt Trời di chuyển trên hoàng đạo khoảng 1°, theo chiều từ tây sang đông, ngược với chiều quay đông-tây của bầu trời trong 1 ngày. Vấn đề thiên văn cổ Đông phương là ở đường Xích Đạo Trời của Thiên Cầu, đường di chuyển của mặt trời trên Thiên Cầu. tức hệ mặt trời quay xung quanh 12 cung Hoàng Đạo với chu kỳ 25.920 năm (Nhị thập bát tú và chòm sao Bắc Đẩu ở giữa). Trục thẳng đứng của Thiên cầu gọi là Trục Vũ trụ (Vũ trụ thu nhỏ là Thiên Cầu). Trục này cũng chính là trục Định vị trong Tiên Thiên Bát Quái vậy. Như vậy, Hà đồ cũng là công thức trình diễn sự vận động của Âm Dương Ngũ Hành của Thiên Cầu? Trên đồ hình, Trái đất vận động trên đường Elip màu tím - Xích đạo trời với chu kỳ 25.920 năm và quay trục Vũ trụ thu nhỏ Thiên Cầu (PP'), cần kiểm tra lại chặt chẽ? Trục quay trái đất nghiêng một góc 23.5 so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo. Độ nghiêng trục Mặt trời so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo rất nhỏ, < 2 độ -> điều này chứng tỏ Hệ mặt trời đang quay quanh trục vuông góc Hoàng đạo! Độ nghiêng trục tự quay Chu kỳ Milankovitch là tên gọi cho hiệu ứng tổ hợp của các thay đổi trong chuyển động của Trái Đất lên khí hậu của nó. Độ lệch tâm, độ nghiêng trục và tuế sai của quỹ đạo Trái Đất biến đổi theo một số mô hình, tạo ra các chu kỳ 100.000 năm của thời kỳ băng hà trong sự đóng băng thuộc kỷ Đệ tứ thuộc vài triệu năm gần đây. Trục tự quay của Trái Đất hoàn thành một chu kỳ tuế sai trong khoảng 26.000 năm. Cùng thời gian đó, quỹ đạo elíp cũng tự quay (chậm hơn), dẫn đến chu kỳ 22.000 năm của các điểm phân. Ngoài ra độ nghiêng của trục Trái Đất tương đối so với Mặt Trời cũng dao động trong khoảng 21,5 đến 24,5 ° và hoàn thành một chu kỳ sau 41.000 năm. Hiện nay, trục Trái Đất nghiêng khoảng 23,5 ° so với đường trực giao của mặt phẳng quỹ đạo. Chúng ta cần biết, khi đặt la bàn gần xích đạo thì nó sẽ chỉ gần đúng trục từ trường trái đất bắc - nam. Tại hòn đảo lớn Borneo thuộc Malaysia và INdonesia, nó nằm ngay trên đường Xích đạo trái đất, nơi đây có chiếc trống đồng Sabah tượng trưng cho thủy triều lớn nhất, trống Sabah tượng trưng cho Mặt trăng, thủy triều, gọi là Trống Trăng, chắc chắn rằng: "Quả Trống" này được "thửa" riêng cho hòn đảo Borneo. Mặt trời tâm trống có 12 cánh chính là 12 tháng trong một năm, và cũng thật rõ ràng, khi chế tạo trống người ta đã biết về la bàn khi định hướng trên hòn đảo này rồi. Trống Trăng Sabah Vùng Sabah, đảo Borneo, trực thuộc Malaysia (Trống biểu tượng cho Lý, chuông cho Pháp môn áp dụng) Thời vua Nghiêu Thuấn, Trung Quốc (khoảng 2350 TCN), con rùa cũng được xem như là một chiếc la bàn, cổ vật rùa ngọc khai quật được ở Liêu Ninh còn cho thấy cấu trúc Hà đồ, Hà đồ - Lạc thư. Rùa ngọc Hà đồ - Lạc thư Từ đó, chúng ta rút ra ý nghĩa: - Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành được diễn họa qua công thức bao trùm của sự vật, hiện tượng là Hà đồ (Lạc thư ẩn). Riêng đối Vũ Trụ chứ không phải sự vật, hiện tượng trong Vũ Trụ thì là công thức gì??? Do Vũ Trụ vô cùng, vô tận nên nó nhận thức Vạn Vật trong nó chỉ qua Âm Dương chứ không phải Âm Dương Ngũ Hành, do vậy cần phải nghiên cứu tới Tiên Thiên Bát Quái. - "Dương sinh, Âm khắc", "Dương sinh Âm dưỡng", Dương là động lực làm cho sự vật, hiện tượng chuyển đổi, thay cũ đổi mới. Đặc biệt, từ nguyên lý "Dương tịnh Âm động" lại thấy có vẻ "nghịch" với ý nghĩa Dương là động lực làm cho sự vật, hiện tượng thay cũ đổi mới, nhưng đây chỉ là sự so sánh, đối đãi tương đối giữa trạng thái tịnh, động mà thôi. - Liên quan đến Huyền không phi tinh, đấy là bộ môn có hệ quả từ hiện tượng thiên văn lớn Chương Động mà ra, từ xưa cha ông đã biết hiện tượng này cùng với hiện tượng Tiến Động (Tuế Sai 25.920 năm) rồi.
-
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI (vấn đề cực kỳ nan giải) Nội dung đồ hình ký hiệu Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái (Trích từ: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, NVTA) Với định nghĩa như trên, thì Tứ tượng chỉ là hình thức vận động của Ngũ hành trong sự chi phối của Âm dương. Điều này giải thích vì sao tượng của Ngũ hành nằm trong bánh chưng – thuộc Âm. Hiên tượng phát sinh này bắt đầu từ hành Thủy; như cổ thư đã ghi lại – được các nhà lý học thời Tống phát hiện công bố “Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi …”. Do ảnh hưởng của Dương đã hình thành Âm – Ngũ hành và Dương – Ngũ hành. Do đó, với câu “Tứ tượng sinh Bát quái” thì Bát quái chính là đồ hình ký hiệu cho sự vận động, tương tác của Ngũ hành (Sự tương quan giữa Quái vị và Ngũ hành đã được trình bày ở phần trên trong đồ hình Hà đồ và Hậu thiên Bát quái nguyên thủy). Đến đây một vấn đề được đặt ra là: Ngũ hành gồm 5 dạng tồn tại mà Bát quái lại chỉ thể hiện có 4 hành phân Âm dương là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa? Vấn đề này xin được lý giải như sau: Thuyết Âm dương Ngũ hành quan niệm: hành Thổ là nơi qui tàng của 4 Hành còn lại. Khi sự vận động đến hành Thổ thì mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, trong sự vận động của Ngũ hành thì chu kỳ kết thúc sẽ là dạng tồn tại của hành Thổ (Phải chăng hành Thổ trong dạng cấu tạo nguyên thủy có thể tìm thấy trong lỗ đen của vũ trụ?). Do đó, chỉ cần thể hiện sự vận động của 4 hành khí còn lại và phân Âm dương qua ký hiệu Bát quái, chu kỳ kết thúc ở Khôn (Thổ). Sách “Tam mệnh thông hội” nói: “Ngũ hành không nói đến Thổ mà tứ hành đều thành Thổ cục. Vạn vật đều tàng trong đất”. (*) * Chú thích: Dự đoán theo Tứ trụ, sách đã dẫn Trên cơ sở phân tích những mâu thuẫn về khoảng cách xuất hiện vô lý giữa Tiên thiên và Hậu thiên đã trình bày ở phần II. Người viết xin được trình bày một giả thuyết và minh chứng về sự xuất hiện đồng thời của Bát quái Tiên thiên và Hậu thiên như sau: Thuyết quái - Tiết 3 viết: Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, chấn phong tương bạc thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thố. Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị cố Dịch nghịch số dã. Khi Âm dương đã phân biệt (thiên địa định vị) , sự vận động nguyên thủy của Ngũ hành chính là trạng thái khởi nguyên hỗn mang của vũ trụ. Hình ảnh hỗn mang này được khoa Thiên văn học hiện đại mô tả, trùng khớp với đồ hình ký hiệu của Tiên thiên Bát quái như sau: Đồ hình minh họa sự hình thành vũ trụ qua Tiên Thiến Bát quái Hình elip ở giữa được vẽ lại từ cuốn Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại (Nguyễn Quang Riệu – Nxb Giáo Dục 1995) miêu tả “phông vũ trụ” do nhóm thiên văn COBE thực hiện, tái tạo lại sự hình thành vũ trụ giai đoạn đầu. Sự kết hợp với đồ hình Tiên thiên Bát quái cho chúng ta một hình ảnh trong truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” là: “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất”. Trong đồ hình Tiên thiên Bát quái trên đây: chúng ta thấy rằng: toàn bộ những quái có số hào Dương nhiều hơn đều ở phía trên, mà ở phần cao nhất là quẻ Càn (Càn tượng trời, trong kinh văn của kinh Dịch chưa bao giờ coi Càn là Thuần dương); những quái có số hào Âm nhiều hơn đều ở phía dưới, mà ở phần thấp nhất là quái Khôn (tượng đất). Trục Càn Khôn là trục thẳng đứng. Trên cơ sở này, chúng ta có thể hiểu sự “tụ xuống thành đất” chính là sự tụ lại hình thành các thiên thể (Trong vũ trụ không có sự phân biệt ở trên, ở dưới). Nội dung của đồ hình Tiên thiên không chỉ cho thấy một hình ảnh tĩnh trong sự hình thành vũ trụ mà còn là sự vận động tiếp theo của nó: “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất”; thứ tự của các quái dù tính thuận hay nghịch đều cho thấy sự chuyển hóa từ Âm sang Dương và ngược lại. Đồ hình Tiên thiên còn cho thấy tính cân bằng động của các quái cùng tính chất đối xứng qua trục Càn Khôn (theo quan niệm về đặc tính Ngũ hành của Bát quái nguyên thủy, đã chứng minh ở trên). Chấn (Dương Mộc) Cấn (Âm Mộc). Đoài (Dương Kim) Tốn (Âm Kim) Khi vũ trụ đã hình thành, thì sự vận động của trái đất trong ảnh hưởng của những sự tương tác từ vũ trụ – mà sự tương tác gần gũi là do vị trí và sự vận động của trái đất trong Thái dương hệ – chính là cơ sở để hình thành Bát quái Hậu thiên. Điều này giải thích vì sao Bát quái Hậu thiên đã lý giải tất cả mọi hiện tượng liên quan đến thiên nhiên và cuộc sống trên trái đất; trong đó có con người. Khoa học hiện đại đã chứng tỏ rằng: chính độ nghiêng của trái đất (23o5’) là nguyên nhân của hình thành 4 mùa. Trong đó theo thuyết Âm dương Ngũ hành thì: mùa Xuân thuộc Mộc, mùa Hạ thuộc Hỏa, mùa Thu thuộc Kim, mùa Đông thuộc Thủy, tuần hoàn theo lý tương sinh của Ngũ hành. Chúng ta sẽ thấy sự trùng khớp hoàn toàn giữa độ nghiêng của trục trái đất và sự vận động của 4 mùa và cấu trúc đồ hình Hậu thiên nguyên thủy với Hà đồ dưới đây: Tất cả những sự trùng khớp của đồ hình Tiên thiên với hình trạng vận động hỗn mang đầu tiên của vũ trụ và đồ hình Hậu thiên Bát quái với sự vận động của trái đất trong sự tương tác của vũ trụ, đã lý giải đồ hình Tiên thiên và Hậu thiên phải xuất hiện đồng thời. Bởi vì, chỉ khi có con người trên trái đất mới có sự tìm hiểu vũ trụ. Từ sự tìm hiểu này đã dẫn tới một học thuyết vũ trụ quan cổ đại là thuyết Âm dương Ngũ hành và Bát quái chỉ là đồ hình ký hiệu thể hiện cho nội dung của học thuyết này. Đồ hình minh họa sự hình thành Hậu Thiên bát quái Luận điểm về nội dung đồ hình Tiên thiên và Hậu thiên tiếp tục lý giải những vấn đề sau đây: @ Sự liên quan chặt chẽ giữa hệ thống ký hiệu 64 quẻ Tiên thiên Bát quái với những nội dung của hệ thống ký hiệu 64 quẻ Hậu thiên Bát quái; sự liên hệ này được chứng tỏ bằng phương pháp dự đoán mà ông Thiệu Khang Tiết công bố vào thời Tống. Phủ nhận luận điểm cho rằng có những hệ thống ký hiệu Dịch ngoài Tiên thiên và Hậu thiên như: Liên Sơn Dịch, Qui tàng Dịch, Trung Dịch… Cho dù có thể tìm thấy những bản văn cổ ghi nhận những hiện tượng này thì cũng chỉ là những sản phẩm hoặc do hiểu sai, hoặc do ngụy tạo, khi kinh Dịch đã mất đi hệ thống lý thuyết căn bản của nó. @ Sự lý giải trên cũng chứng tỏ rằng Kinh Phòng, Mạnh Hỷ (*) hoàn toàn không phải là người đề xướng thuyết Quái khí, dùng “Quái” của Chu Dịch phối ghép với khí hậu 4 mùa. Họ chỉ công bố một di sản văn hóa đã có từ trước đó của một nền văn minh bị tàn phá. Người ta không thể phát minh ra một cái mà – cho đến tận ngày hôm nay – người ta vẫn không hiểu gì về nó. Tính phát hiện và công bố càng được chứng tỏ, khi hầu như những yếu tố căn bản của học thuyết Âm dương Ngũ hành chỉ được coi là “phát minh” vào đời Tống, như: Hà đồ, Lạc thư, đồ hình ký hiệu và hệ thống 64 quẻ Tiên thiên… Chúng ta nên quan sát mặt trời và hành tinh không có sự sống.
-
Do từ trường trái đất lệch 11 độ 3 so với trục quay của trái đất hướng về sao Bắc cực, cho nên chúng ta cần xem lại công thức Hà đồ - Lạc thư. Đối với trái đất, hướng từ trường này chính là định vị trục bắc - nam từ tính của trái đất, đây chính là Hà đồ - Lạc thư của trái đất. Tuy nhiên, khi xem xét đồ hình Hậu Thiên bát Quái - Hà đồ phối địa cầu dưới đây, chúng ta sẽ thấy quan hệ mặt phẳng Hoàng đạo và phương từ trường bắc - nam. Nếu căn cứ góc lệch trục quay trái đất so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo 23 độ 5 và độ lệch giữa trục từ trường trái đất với trục quay trái đất 11 độ 3, thì góc lệch còn lại giữa trục từ trường trái đất và trục vuông góc Hoàng đạo (Sửu Mùi) là (23.5 - 11.3) = 12.2 độ. Nhưng trục bắc - nam trên đồ hình là 23.5 độ, chính là độ lệch giữa trục quay trái đất và Hoàng đạo, cần xem xét. Hậu Thiên bát Quái - Hà đồ phối địa cầu Xem xét tiếp La kinh định vị 24 sơn hướng, trục Tý - Ngọ định vị hướng bắc - nam (trong Tiên Thiên Bát Quái gọi là trục Định Vị) thì có mối quan hệ với Hà đồ phối địa cầu như thế nào! la kinh dùng định vị bắc - nam cho một vị trí nào đó trên Trái đất mà thôi, tùy vị trí và có độ lệch lẫn nhau gọi là Từ thiên. Nếu chúng ta quan sát La kinh, trục Tý - Ngọ là trục bắc - nam từ tính thì cách trình bày phải có độ lệch tương ứng với mặt phẳng Hoàng đạo, nếu trình bày có mặt phẳng Hoàng đạo. Tuy nhiên, chúng ta thấy Bát Quái trên La kinh với trục Tý - Ngọ vuông góc với Hoàng đạo: vì vậy, cách trình bày La kinh này hàm nghĩa Hà đồ - Lạc thư này không phải của Trái đất mà là của chính Mặt trời trung tâm. Vậy thì, Hà đồ - Lạc thư đang diễn họa của Mặt trời???. Ở đây, nếu Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu phải chăng có xuất hiện bốn cung hành thổ là Sửu - Mùi, Thìn - Tuất? Mặt khác, tại sao người xưa lại đặt quái Ly trên Khảm dưới trên Hậu Thiên Bát Quái, đảo ngược lại so với Tiên Thiên Bát Quái? Vấn đề này cần xét chủ thể Con người trên trái đất. Trước tiên, xét chiếc kim chỉ Nam quy ước khi đặt bất kỳ trên mặt địa cầu. Do trái đất là một nam châm vĩnh cửu định vị hướng bắc - nam từ như đã viết, cho nên chiếc kim chỉ Nam sẽ phải đảo ngược hướng, tức nó định hướng nam - bắc. Điều này chỉ ra hướng Bắc của Trái đất là hướng Nam của kim la bàn, do vậy kim la bàn có màu đỏ khi chỉ hướng Bắc địa cầu. Chính vì vậy, quy ước này được dùng trình bày trên bản đồ cổ đại Văn Lang và các nước Ả Rập, Ấn Độ... Con người chân đạp đất đầu đội trời nhưng cũng có vai trò như một nam châm, mặt khác như đã nói về Hà đồ - Lạc thư ở trên của mặt trời, từ đó cũng thấy công thức này cũng hoàn toàn là của Con người. Khi đó, Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác tới tương ứng với công thức của Hà đồ là Ly trên Khảm dưới dùng cho Con Người. Hậu Thiên Bát Quái chưa đổi Tốn Khôn Nếu chúng ta nhận thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ dùng cho con người thì rõ ràng, khác với Mặt trời bởi la bàn hay con người là "nam châm" khác so với trái "đất nam châm" so với "mặt trời nam châm", điều này khẳng định lại công thức Hà đồ với Ly trên Khảm dưới là công thức của "Con người" trên trái đất???. Ở đây, chúng ta chú ý mặc dù gọi kim chỉ Nam nhưng trên thực địa vẫn gọi là hướng Bắc, do vậy khi áp dụng vào các môn phong thủy vẫn không có gì thay đổi, cho dù xoay Hậu thiên Bát Quái - Hà đồ kiểu gì kết quả chỉ là một, chỉ khác mỗi cái tên "chỉ Nam". Ngầm hiểu trục Tý - Ngọ hướng về chòm sao Bắc đẩu và thiên văn là thuộc phương Nam. Như vậy, để thuận tiện và chính xác với trục từ tính địa cầu, chỉ cần xoay Hậu Thiên Bát Quái với quái Khảm trên Ly dưới là chuẩn xác trong các bộ môn phong thủy. Còn ngược lại thì phải quan sát dữ liệu của Đông y về cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành và Hà đồ - Lạc thư tiếp! Từ các vấn đề trên, có thể hiểu là khi không cần dùng la bàn, tức khi xét tương tác có quy luật tới 1 Con người thì tuân theo Hậu Thiên Bát Quái đặt Ly trên Khảm dưới (đầu - chân). Đấy cũng là lý do có phương pháp tu luyện "Chiết Khảm điền Ly" cho mỗi con người!
-
"Tôi lại về" là Cụ Trạng Trình hiển hiện, giáng hạ về thật. Bởi cơ duyên đã định, tôi (Ngọc) đã gặp Cụ lần đầu tại ban của Cụ, đền Thác Bạc (Thạch Thất, Hà Tây). Khi đó Cụ ban chữ Gia Phong cho gia đình tôi. Năm 2014, Cụ truyền về Sấm Trạng Trình cho 500 năm tiếp theo. Hiện tôi đang giữ. Tôi sẽ biên tập và xuất bản, thông tin cho quý vị trong một ngày đẹp. Sấm là lĩnh vực Tâm linh nên rất khó nói. Việc này xin quý vị chờ đợi để chiêm nghiệm. Anh nên đưa lên diễn đàn, viết thế này không ai hiểu và luận giải cả! Trân trọng.
-
Về mặt tổng thể, chúng ta phải hiểu rõ quy ước về trái đất trong Lý học Đông phương, không khác gì hơn chính là về sự định vị trên trái đất bằng La kinh (kim chỉ Nam), để từ đó định vị được phương vị của Hà đồ - Lạc thư. Dựa vào kim la bàn, ta hoàn toàn xác định Trái Đất như một nam châm khổng lồ có từ cực Nam nằm ở địa cực Bắc và từ cực Bắc nằm ở địa cực Nam. Thực tế, từ cực và địa cực không trùng nhau. Trục quay của Trái Đất và trục của "nam châm khổng lồ" hợp với nhau một góc 11 độ. Trục từ trường và trục quay Trái đất xung quanh ngôi sao Thiên cực bắc (nay là sao Bắc Cực của chòm Tiểu Hùng) tạo một góc 11 độ ở đây là do Trái đất tự quay quanh trục và quanh xung quang Mặt trời là đường Xích đạo. Có một chú ý ở đây, đường sức "ra Bắc vào Nam". Khoa học viết: Khác với một thỏi nam châm, từ trường Trái Đất thay đổi theo thời gian, do sự thay đổi trong chuyển động của hợp kim sắt nóng chảy ở lõi ngoài của Trái Đất. Trái Đất cũng như các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời, ngay cả Mặt Trời và các ngôi sao khác cũng vậy, tất cả tạo ra từ trường thông qua chất lỏng dẫn điện cao. Từ trường của Trái Đất bắt nguồn từ bên trong lõi của nó. Đây là khu vực có chứa hợp kim sắt với bán kính lên đến khoảng 3400 km. Lõi của Trái Đất gồm 2 lớp: lõi rắn ở bên trong (bán kính 1220 km) và lõi lỏng ở bên ngoài. Sự di chuyển của chất lỏng lõi ngoài được thúc đẩy bởi dòng nhiệt đi từ lõi bên trong, khoảng 6000 K, đến ranh giới giữa lõi bên ngoài và lớp phủ. Phân mảnh kinh tuyến và vĩ tuyến Trái đất, Việt Nam ở kinh độ khoảng 105 - 108 (kinh, vĩ là các khái niệm trong Lý học có từ thời cổ đại rồi) Lý luận ở đây là mặt phẳng Kinh tuyến chuẩn dựa trên nguyên tắc gì để được chọn làm mặt trục "0". Kinh độ là các đường tròn chạy xung quanh Trái Đất và phải đi qua Bắc Cực và Nam Cực. Tổng cộng, có 360 đường kinh tuyến, một đường cho một độ. Chúng bao gồm từ -180 đến 180 độ, trong đó 0 độ là đường chạy qua Greenwich, Anh. Đường -180 và 180 có thể thấy ở Thái Bình Dương tại một địa điểm nổi tiếng được biết đến như Đường đổi ngày quốc tế. Do vậy, việc định vị Hà đồ - Lạc thư vẫn tuân thủ hoàn toàn theo phương hướng trên La kinh tức định vị trục từ trường Trái đất theo kim chỉ Nam của la bàn. Thời cổ đại, văn hóa Việt xem con rùa như là một biểu tượng của chiếc chiếc la bàn do loài rùa dùng cảm ứng từ trường địa cầu để di trú và sinh sản. La bàn "rùa" trên biển cả mênh mông Thủy triều ảnh hưởng bởi Mặt trăng Rất độc đáo, chiếc trống đồng Đông Sơn trên đảo Borneo ở Sabah - thuộc Malaysia, với bề mặt trống nhô ra hai phía tượng trưng cho thủy triều trên mặt trái đất, đây là chiếc trống đồng được "thửa" riêng cho hòn đảo to lớn này và là chiếc trống duy nhất có hình bề mặt như vậy trên thế giới. Trống Sabah có tên gọi chính là "trống thủy triều" hay "Trống Trăng". Đây chính là chiếc trống đồng gốc gác của tên gọi Trống Trăng sau này của vùng biển đảo Indonnesia. Trống Trăng Sabah (Thật linh dị và độc đáo) Mô hình ánh sáng và tương tác từ Mặt trời Các điểm định vị mùa theo Dương lịch ở đồ hình trên là không chính xác, phải tuân thủ theo Âm lịch. Hiện tượng tiến động (tuế sai) của trục Trái đất sau 25.920 năm trở lại vị trí ban đầu. Ngoài hiện tượng tiến động của trục trái đất, chúng ta nên nhớ Trái đất di chuyển quay quanh Mặt trời không phải trên đường Xích đạo dạng Elip trơn, mà là một đường dạng hình "Sin" gọi là hiện tượng Chương động. Hiện tượng chương động Đây là những đặc trưng toán học trong Lý học Đông phương đối với các bài toán tương tác tới Trái đất. Ghi chú: - Khi một con người sinh ra thì đã thuộc vào người mệnh Đông tứ trạch hoặc Tây tứ trạch rồi!: Hệ mặt trời -> Trái đất -> Sinh ra một Nhân tại một thời điểm nào đó của Lục thập hoa giáp. Đây là bài toán của bộ môn phong thủy Bát Trạch. - Riêng Con người, có một đặc điểm là đầu đội trời chân đạp đất, đầu nhận Thiên khí giáng xuống, chân hay đốt xương sống cuối nhận Địa khí thăng lên. - Mỗi con người cũng là một tổ hợp của Hà đồ - Lạc thư. Khi ở một căn nhà nào đó (ngôi gia), tức đã xác định được phương vị của ngôi gia tại nơi đó thông qua La kinh, đây là định vị "khu vực quy ước" theo La kinh nhằm xác định chính xác cấu trúc Hà đồ - Lạc thư đặc trưng tại nơi đó, tức định hình được trạng thái "phương vị ứng với từ trường Trái đất" tại đó vậy. - Người chủ gia đình với đặc trưng của thuộc tính Đông hoặc Tây tứ trạch thì phải hợp một ngôi gia có phương vị bát Trạch tương ứng, nhằm hòa hợp với địa từ trường trái đất tại ngôi nhà đó. - Việc chia kinh độ và vĩ độ ngày xưa, được lấy Kinh tuyến gốc "0" đi qua tâm của kinh đô (kinh độ) Văn Lang, Bạch Long thành, gọi là "Giao Chỉ" - tức nơi giao của kinh tuyến và vĩ tuyến, mặc dù vĩ tuyến gốc không đi qua Bắc Việt Nam (đảo Borneo thuộc Indonesia và Malaysia là các bộ thuộc Văn Lang). Nội hàm rất sâu xa, Giao Chỉ trên địa cầu cũng tương ứng vị trí thiên văn của chòm sao Đại Hùng - trung tâm của Nhị thập bát tú trên bầu trời phương bắc. Trong chiếu dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ cho rằng: Nơi đây là trung tâm của trời đất, được thế rồng bay hổ ngồi, đúng điểm kết tụ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Phương pháp luận nào để có Đông - Tây tứ trạch vậy? Chúng ta cũng lưu ý: trong Lạc thư hoa giáp thì Giáp Tý khởi đầu là từ hành Kim, thuộc trạng thái Vận Khí khắc Thiên Can, nguyên tắc nào lại như vậy, đây là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết phục. - Thiên (Thiên Can) -> Địa (Địa Chi) -> Nhân (Lục thập hoa giáp) Thiên -> Nhân: Vận khí khắc Thiên Can - Vận khí sinh Thiên Can - Vận khí hòa Thiên Can - Thiên Can sinh Vận khí - Thiên Can khắc Vận khí. Địa -> Nhân? trong mối tương quan như thế nào khi mà Thiên Can điều động Hà đồ - Lạc thư của Nhân đó (Vận khí)! TÍNH CHẤT 8 CUNG GIỮA VIỆT VÀ HÁN 1 - Vấn đề. Đồ hình dưới đây được một Phong thủy gia Đài Loan công bố vào khoảng những năm 60 của thế kỷ 20. Trên đồ hình này - căn cứ theo Lạc Thư phối Hậu Thiên Văn Vương - quan niệm rằng: Cung Khảm - chính Bắc = Sự Nghiệp. Cung Cấn - Đông Bắc = Tri Thức. Cung Chấn - Chính Đông = Sức Khỏe. Cung Tốn - Đông Nam = Hôn Nhân. Cung Ly - Chính Nam = Danh tiếng - Địa vị. Cung Khôn - Tây Nam = Phú Quý. Cung Đoài - Chính Tây = Con cái. Cung Càn - Tây Bắc = Quí Nhân. Phương pháp ứng dụng của đồ hình này nhanh chóng được phổ biến và được các phong thủy gia ứng dụng và quả là có tác dụng ở mức độ nào đó. Lưu ý rằng trên đồ hình này, những phương vị thuộc Tây trạch màu đỏ và Đông trạch màu vàng - theo cổ thư chữ Hán. ĐỒ HÌNH TƯƠNG QUAN BẢN MỆNH VÀ BÁT QUÁI Theo bản văn chữ Hán Nhưng cũng với tính chất đó, theo sự nghiên cứu của tôi sau khi đổi chỗ Tốn Khôn và phối Hà Đồ ứng dụng trong trường hợp này, chúng ta sẽ có một đồ hình như dưới đây và lưu ý là Tây Tứ trạch hiển thị màu vàng và Đông Tứ trạch màu đỏ: ĐỒ HÌNH TƯƠNG QUAN BẢN MỆNH VÀ BÁT QUÁI Theo Phong Thủy Lạc Việt. Chúng ta có thể có nhận xét: - Một người Đông hoặc Tây tứ trạch (Âm Dương) chỉ có 4 cung hợp, 4 cung còn lại bị khuyết dành cho đối tác vợ hoặc chồng. Đã viết rồi, lại quên, hình như theo Huyền Không phi tinh để xác định? Tại một thời điểm ra đời, Cá nhân thuộc một trong Lục thập hoa giáp, tuy nhiên ngay trong năm đó thì Trái đất được bao phủ bởi trường khí của Huyền không phi tinh - đây là một trường khí lớn di chuyển theo quy luật của Hà đồ. Lúc này Cá nhân vừa sinh ra sẽ chịu tương tác Cửu khí trên Hà đồ của chính họ, Do vậy 9 trường khí hay 8 trường khí Bát Quái của Huyền không phi tinh sẽ ứng với Bát trạch của bản mệnh cá nhân này để tạo ra cấu trúc khắc/ sinh/ hòa/ bị sinh/ bị khắc của Âm Dương Ngũ Hành. Như vậy, chắn chắn dựa trên năm sinh hàng loạt cá nhân liên tục để tìm ra phương pháp tính Đông Tây tứ trạch, và chắn chắn là Huyền không phi tinh ở cấp độ lớn. Con người Nam và Nữ sinh cùng ngày, tháng, năm chẳng hạn, làm ví dụ. - Giống như "Ngũ vận lục khí" nếu có người con trai đầu mang mệnh "kim" là chính vị OK? Cho nên, các vua chúa truyền ngôi cho con trưởng. Con trưởng chịu trách nhiệm cúng tế tổ tiên trong văn hóa Việt.
-
Do có liên quan tôi trích lại các bài viết bên mục Ý nghĩa của biểu tượng thần thánh Linga - Yoni, nhằm có cái nhìn liên tục. Để giả quyết các vấn đề đã nêu ví dụ Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái, cũng cần quay trở lại cấu trúc của hệ mặt trời. Hệ mặt trời theo thiên văn hiện đại Hệ mặt trời theo quy ước Âm Dương Ngũ Hành Thông số của các hành tinh Căn cứ vào sao Kim ở vành đai trong hệ mặt trời có thuộc tính quy ước là dương kim, do vậy tồn tại sao Diêm Vương thuộc tính quy ước âm kim, vấn đề này cũng giống như địa cầu - dương mộc và sao Mộc - âm mộc vậy. Cho nên, chắn chắn phải tồn tại trên thực tế sao Diêm Vương nhằm đảm bảo tính đầy đủ của một hệ Âm Dương Ngũ Hành - tức Hệ mặt trời sẽ có 10 hành tinh. Từ đó, chúng ta rút ra một số vấn đề: - Nguyên lý: "Dương trong Âm ngoài". "Dương tịnh Âm động": Mặt trời là tịnh tương đối so với các hành tinh quay chung quanh nó. "Âm thuận tùng Dương". - Mặt trời: dương thổ. - Địa cầu: dương mộc, chu kỳ 1 năm quanh chung quanh mặt trời - dương thổ (nhấn mạnh ở đây: chỉ có hành dương mộc mới sinh ra sự sống). Mặt trăng là một vệ tinh riêng của Địa cầu, ảnh hưởng tới quy luật lên xuống của thủy triều, chu kỳ sinh sản... - Sao Mộc (Thái Tuế): âm mộc, chu kỳ 12 năm. Bộ đôi sao Mộc và Địa cầu hành mộc có chu kỳ chung 12 năm, tạo nên cấu trúc Địa chi, kết hợp quy tắc "sinh - vượng - mộ" (chú ý dựa trên sự tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái) của vạn vật hữu tình. - Tương tự, sự kết hợp giữa Mặt trời - dương thổ và sao Thổ - âm thổ tạo nên cấu trúc độ số 5, 10 của hành thổ trung tâm Hà đồ. Điều này không có nghĩa là Mặt trời - độ số 5 và sao Thổ - độ số 10, mà ở đây thể hiện bản chất tương sinh của thuộc tính sự vật, hiện tượng và tính quy luật các con số tương ứng được khám phá ra. Đây là vấn đề mà khi nhìn vào Hà đồ hành thổ trung tâm độ số 5, 10 dễ "nhầm" cho rằng Mặt trời là hành thổ nhưng không phân ra âm/ dương. Như ở trên, Mặt trời có thuộc tính quy ước là dương thổ. - Vành đai hành tinh bên trong: Dương. - Vành đai hành tinh bên ngoài: Âm. - Vành đai thiên thạch: vùng đệm phân cách Âm Dương (hiệu chỉnh và tự cân bằng cho Âm / Dương). - Bội số chung chu kỳ cho Vành đai hành tinh bên trong, dương và Vành đai hành tinh ngoài gồm sao Mộc, Thổ: 60 năm - Lục thập hoa giáp: tích hợp giữa Thiên can (Lý tương sinh của Hệ mặt trời) và Địa chi (Lý tương tác theo dòng tương sinh mang tính quy luật tới Địa cầu và sao Mộc, trong đó Địa cầu có vạn vật hữu tình được lấy làm chủ thể nhận tương tác đó, thậm chí ngay cả một bộ phận hoặc cả Địa cầu cũng được lấy làm chủ thể). - Nguyên lý: "Dương trước Âm sau". - nguyên lý: "sinh - vượng - mộ" được xem xét đối với vạn vật hữu tình. - Lịch pháp: Âm lịch và Dương lịch. Tuế sai Năm mặt trời (khởi đầu mùa xuân phải tuân theo Âm lịch tức xác định điểm Đông Chí) Chu kỳ mặt trăng Góc nghiêng quỹ đạo mặt trăng Đây là những kết luận để có thể hiểu sâu hơn về các quy ước, khái niệm liên quan như Hà đồ, Lạc thư, Lục thập hoa giáp, Thiên can, Địa chi, Ngũ vận lục khí... chẳng hạn, có quý vị hỏi: Hà đồ và Lạc thư là cái gì? Đây là một câu hỏi đã quá xưa cũ nhưng cực khó đấy! Qua nhận định phối hợp giữa thiên văn Đông phương và những khám phá về hệ mặt trời của thiên văn hiện đại đã cho chúng ta thấy có sự chính xác về mặt số lượng hành tinh, đó là 10 hành tinh. Đối với mặt trời, theo Lý học Đông phương, được phân loại Âm Dương Ngũ Hành với thuộc tính quy ước "dương thổ", điều này cho thấy tính tự thân của thành phần trung tâm cũng phải phân ra Âm/ Dương. Sự đầy đủ cấu trúc hành tinh Âm Dương Ngũ Hành ở đây cho chúng ta thấy rõ về 1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, tổ hợp này sẽ vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là công thức Hà đồ đã được bàn từ cổ chí kim, ngay trên các diễn đàn liên quan đến Lý học cũng thường xuyên đề cập, tuy nhiên thực sự là vẫn chưa rõ bản chất của nó là gì! Hà đồ thể hiện lý tương sinh của quy luật tổng thể sau khi đổi Tốn Khôn Lạc thư thể hiện lý tương khắc nhằm điều chỉnh các mối tương quan với Hà đồ Một cách tương ứng về bản chất, thì bất kỳ một hành tinh nào trong hệ mặt trời cũng sẽ vận động theo Hà đồ - Lạc thư, chúng ta lấy đối tượng chủ thể là trái đất. Hà đồ của địa cầu (nếu xét chưa được phối hợp với Hậu Thiên Bát Quái) Đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ cấu trúc Hà đồ - Lạc thư rồi. Tuy nhiên, khi chúng ta định vị trên trái đất, tức chọn trái đất là chủ thể nhận tương tác, thì sẽ xảy ra những nhận định: Trái đất (Hà đồ - Lạc thư)/con đang vận động trong một hệ mặt trời (Hà đồ - Lạc thư)/mẹ sẽ nhận những chủng loại tương tác có quy luật từ hệ mặt trời - khách thể. Đồng thời, cũng có nhận định chi tiết hơn về sự sinh trưởng của các loài thực vật (được lấy làm biểu tượng Cây Đời Sống chứ không phải con người hay động vật nào đó) trải qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đối với hệ mặt trời là khách thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư mẹ, thì quy luật tương sinh này bao trùm, tức quy luật của Thiên Can như chúng ta thấy. Dòng khí tương tác Thiên Can vận động Đối với trái đất là chủ thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư con, trên nó có thực vật sinh sống, trải qua chu kỳ bắt buộc của Hà đồ con trong một năm trái đất quay quanh mặt trời, nhưng dòng vận động chịu tương tác theo quy luật xuân - hạ - thu - đông tức mộc - hỏa - kim - thủy. Cùng với các dữ kiện khác như: sao Mộc vận động chu kỳ 12 năm, trái đất chu kỳ 1 năm, mặt trăng quay xung quanh trái đất 12 vòng... mà các nhà Lý học cổ xưa khám phá ra Địa Chi (với sự chú ý dặc biệt về sự sống trên trái đất - dương mộc có cây xanh, chu kỳ 1 năm và sao Mộc - âm mộc, chu kỳ 12 năm, không có thực vật). Dòng khí tương tác Địa Chi vận động Địa Chi chính là quy luật tương tác tới trái đất quay quanh Mặt trời trong sự phối hợp đầy đủ Âm Dương giữa Trái đất (1 năm) - dương mộc và sao Mộc (12 năm) - âm mộc (với sự nhận biết thông qua chu kỳ Mặt trăng, cũng là một điểm tham chiếu). Điểm hay ở đây là chu kỳ sinh - vượng - mộ và 4 cung hành thổ chuyển tiếp từ các hành khác nhau trong quá trình tương sinh của quy luật tương tác, ở đây quy luật này chính là Hậu Thiên Bát Quái và chỉ với chủ thể là trái đất, cây xanh, động vật, con người mà thôi. Hậu Thiên Bát Quái sau khi điều chỉnh Tốn Khôn Không chỉ vậy, Địa chi ngoài nhận thức về vạn vật như cây xanh, mà còn chính là tương tác tới trái đất theo Hậu Thiên Bát Quái. Hậu Thiên Bát Quái này khi xét trong hệ mặt trời thì là từ toàn hệ mặt trời đi tới chủ thể Trái đất, và khi xét trong hệ thiên văn lớn hơn cũng vẫn là chính nó, tuy nhiên sẽ có những công thức khác nữa như Huyền không phi tinh chẳng hạn, tất nhiên Huyền không phi tinh sẽ vận động tuân thủ quy luật Hà đồ. Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu La kinh sau khi chỉnh Tốn Khôn Huyền không phi tinh phối Hà đồ (dùng tên gọi phối công thức) Sau khi nhận xét tổng quát như vậy, chúng ta quay trở lại Bảng lục thập hoa giáp. Địa cầu chủ thể nhận tương tác theo quy luật Địa Chi với sự quay quanh mặt trời chu kỳ một năm và nhận tương tác từ toàn thể hệ mặt trời theo quy luật khách thể Thiên Can, ở đây Thiên Can là quy luật chính và quy tắc sinh - vượng - mộ của một hành nào đó đã được nhận biết. Đồng thời, giữa khách thể hệ mặt trời (Thiên Can) và chủ thể Nhân trên trái đất luôn tạo nên 5 trạng thái tương quan lẫn nhau: sinh, khắc, hòa, bị sinh, bị khắc. Mặt khác, điểm bắt đầu liên kết khởi thủy giữa 5 trạng thái trên là từ "mốc" Giáp Tý cũng đã khám phá (sẽ phân tích sau) để từ đó có Bảng lục thập hoa giáp (30 năm Dương, 30 Âm). "Vận khí" ở đây là "trường khí được tạo ra" trên trái đất tại thời điểm "giao" giữa Thiên Can và Địa Chi, tức khi một con người, động vật, thực vật được sinh ra trong thời điểm này sẽ nhận "thuộc tính" riêng dựa trên Thiên Can làm chủ (hệ mặt trời là mẹ của trái đất). Điều này có thể hiểu như sau: - Hệ mặt trời: khách thể mẹ. - Trái đất: chủ thể con, nhưng trái đất tại một thời điểm trên nó có "con người..." được sinh ra, tức "Con người" đã trở thành chủ thể và lúc này, Hệ mặt trời và trái đất là khách thể liên hợp. Ý nghĩa này mang mật mã rõ ràng về Thiên - Địa - Nhân hợp nhất. Từ đó, chúng ta sẽ thấy: Thiên Can (Gốc) -> Địa chi (Cành) -> Lục thập hoa giáp (Hoa của cây) và động vật, Nhân (động vật, con người) là Quả đậu ra từ Hoa. Tuy nhiên, khi chúng ta quan sát một công thức đặc biệt khác là bộ môn Huyền không phi tinh ở trên, nó tuân thủ chiều phi tinh trên Hà đồ (nghịch hoặc thuận) nhưng không tuân thủy công thức tương tác Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tại sao vậy? Bởi đây là quy luật ở một hệ thiên văn khác, nhưng nó vẫn phải tuân thủy quy luật tương sinh như của Thiên Can với chủ thể nhận tương tác vẫn là Trái đất. Qua bảng Lục thập hoa giáp, khi xét đến Bát Trạch phong thủy về các hướng hợp với cá nhân, thì chỉ có hai loại người Âm/ Dương phù hợp với 8 hướng của Hậu Thiên Bát Quái, vấn đề này ở đây sẽ được hiểu như thế nào? Bản chất chính là trái đất tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường trái đất, đây phải chăng chính là nguyên nhân! Điều này cho thấy, cần xem xét phương pháp phong thủy mang tính lý thuyết thống nhất cao là Bát Trạch và Huyền Không phi tinh, rồi mới đến Loan Đầu và Dương trạch. La kinh chỉnh Tốn Khôn Cũng như hệ mặt trời, trái đất vận động theo quy luật Hà đồ - Lạc thư, thì quy luật dòng trường khí vận động theo Thiên Can vẫn đang phát huy và ảnh hưởng toàn diện đến quy luật vận động của trái đất, và ngay cả con người sinh sống trên nó, chưa kể Hệ mặt trời đang vận động dựa trên công thức Hà đồ - Lạc thư, vì vậy phải chăng ta có sự phối hợp: Thiên Can phối Hà đồ (được phối Hậu Thiên Bát Quái để nhận thức thêm về tổ hợp tương tác tại một thời điểm lên cùng một sự vật, hiện tượng) Ở đây, chúng ta chưa xét về mặt quy ước Độ Số! Qua đó, có thể thấy các công thức ở trên mô phỏng những tổ hợp tương tác từ các khách thể tới các chủ thể đã chọn: - Hệ mặt trời tự quay quay chính nó, cấu trúc trường khí vận động trong nó theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Dòng khí vận động theo lý tương sinh của Hà đồ là Thiên Can. - Trái đất tự quay quanh mình nó, tạo nên từ trường và trường khí vận động trong nó vẫn chính là công thức ở trên Hà đồ - Lạc thư. Trường khí vận động tương tác mà trái đất nhận được theo Địa Chi (sự phát triển của Hậu Thiên Bát Quái). - Động thực vật, con người trên Trái đất chịu tương tác theo quy luật phối hợp giữa Thiên Can (sinh) -> Địa Chi (sinh) -> Vạn vật với thuộc tính tuân thủ Lục thập hoa giáp. Vạn vật vẫn tuân thủ công thức Hà đồ - Lạc thư và nhận quy luật tương tác của dòng khí vận động theo Địa Chi tức Hậu Thiên Bát Quái, để từ đó chúng ta thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ. - Riêng cho trái đất ở trạng thái tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường, thì mỗi cá nhân ngay khi sinh ra có thuộc tính trong bảng Lục thập hoa giáp sẽ tương ứng Tây hoặc Đông tứ trạch của bộ môn Bát Trạch nữa. - Không chỉ vậy, còn phải xem xét tiếp công thức Thiên Can phối Hà đồ là như thế nào? Và như đã biết, trong Lục thập hoa giáp thì Thiên Can quyết định thuộc tính của mỗi Con Người khi sinh ra, điều này chỉ rõ sự tất nhiên và hợp lý của Thiên Can có quan hệ như thế nào với Hà đồ - Lạc thư! Để từ đó, nhận thức được bộ môn Độn Giáp và khái niệm "Hóa Khí". - Riêng đối với Huyền không phi tinh, rõ ràng ở đây chúng ta không thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái mà chỉ thấy quy luật dòng trường khí vận động thông qua Cửu Cung tức Hà đồ một cách liên tục 9x9 trường hợp thay đổi, mỗi trường hợp dịch chuyển cho 1 năm. Quy tắc 9x9 cho mỗi năm này đã chứng tỏ có những quy luật tương tác khác nằm ngoài hệ mặt trời tới trái đất theo công thức Huyền không phi tinh. - Chúng ta chưa nói đến bộ môn Thái Ất hay Tử Vi (với thiên bàn lập trên quy luật tương tác dựa trên công thức Địa Chi phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái). Thái Ất với quy luật tương tác chu kỳ 3 năm vào 1 cung, nhưng không vào trung cung, đã chứng tỏ một quy luật tương tác khác nữa từ hệ thiên văn ngoài hệ mặt trời, nhưng lại theo công thức Hậu Thiên Bát Quái 8 cung, sau 24 năm lặp lại. - Chúng ta vẫn chưa nói đến Tiên Thiên Bát Quái. Từ đó, quy tắc lập 64 quẻ của Kinh Dịch là dựa trên Tiên Thiên Bát Quái hay Hậu Thiên Bát Quái? Ghi chú: - Qua đó, chúng ta thấy rất rõ rằng: tại một thời điểm trên trái đất, với chủ thể là Con Người nhận được một số tổ hợp tương tác, đặc trưng nhất là theo 1 năm bởi vì bộ môn Huyền không phi tinh, chưa kể bộ môn Thái Ất, rất là phức tạp chứ không đơn giản. Điều kiện kiên quyết chính là phải thấy được công thức Hà đồ - Lạc thư hàm nghĩa gì! - Con người: có thuộc tính từ Lục thập hoa giáp. Toàn bộ Con Người trong dòng vận động của công thức Hà đồ - Lạc thư dưới quy luật điều khiển của Thiên Can. Con Người đang nhận tượng tác theo quy luật của Thiên Can và Địa Chi trong Hệ mặt trời, đồng thời cũng nhận các quy luật tương tác lớn khác ngoài Hệ mặt trời như Huyền không phi tinh, Thái Ất, Tử Vi... - Chúng ta cần thiết phải giải phóng được nguyên lý của Bát Trạch áp dụng cho mỗi Con người ngay tại thời điểm sinh ra. La kinh (la bàn và kim chỉ Nam) chính là dùng để định vị phương hướng và cấu trúc phẳng Hà đồ - Lạc thư. - Rồi từ đó nhận thức được khái niệm quan trọng "Hóa khí, hóa vật, hóa sinh...", có nghĩa rằng trường khí Thiên (tùy hệ thiên văn) áp đặt lên Con Người - đang ở một trạng thái có thuộc tính nào đấy sẽ bị "Hóa" bắt buộc. Và từ đó, khi triển khai Phong thủy để dùng các phương pháp, chẳng hạn trấn yểm để "Hóa" thành kết quả nào đấy vậy. Ta có thể lấy ví dụ, 1 người tuổi Kỷ Sửu, trong năm Giáp sẽ có tương tác hành Mộc - Giáp tới thuộc tính cá nhân sinh năm Kỷ Sửu -> sẽ có những thay đổi tùy nghi tương ứng... - Khi nhận thức được Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và Con người, động vật, thực vật thì sẽ nhận định tại sao Hậu Thiên Bát Quái với Ly trên Khảm dưới và Tiên Thiên ngược lại, trong sự phối hợp xem xét tổng thể các mối quan hệ giữa các hệ thiên văn khác nhau. - "Hà đồ - Lạc thư" là một tổ hợp không tách rời, gọi chung là "đồ thư Hà Lạc" = "đồ thư Kinh Lạc" cho thấy kinh mạch muộn nhất đã có từ thời Hạ Vũ, nếu nghiên cứu Đông y thì cấu trúc liên hợp này rất rõ ràng (sách Hoàng Đế nội kinh tố vấn, Hoàng Đế nội kinh linh khu...). Vấn đề nảy sinh: - 12 cung Hoàng Đạo của thiên văn Tây Phương thực chất chưa hiểu ở 4 cung Mộ - hành Thổ, do vậy không thể là gốc gác từ đấy được. - Các phân tích ở trên chưa nói đến nếu chúng ta chọn một chủ thể khác trái đất, ví dụ là sao Hỏa chẳng hạn để phân tích, với điều kiện không có sự sống.
-
Một chuyên mục riêng về bộ Linga - Yoni của Hindu giáo, vấn đền lịch sử văn hóa liên quan này cũng rất quan trọng bởi bộ đôi biểu tượng thần thánh trên luôn được an vị ở trung tâm đền tháp Chămpa. Trong phân tích cá nhân vài năm trước sau khi mới kiểm tra lại, thì biểu tượng quái "Càn" trên Linga (hình như là một trong 10 biểu tượng cát tượng của Hindo giáo) với một xác xuất cực cao đó chính là quái "Ly" (Lửa) do có hình tròn ngăn cách vạch giữa thành hai vạch ngắn. không chỉ vậy, trong thần điện Phật giáo Việt Nam, hai bên tượng Thích Ca Sơ Sinh còn có Đế Thích Indra và Phạm Thiên Brahma hộ vệ, không thấy thần Shiva trong điện thờ này và tôi chắc chắn 100% rằng: Thần Shiva không phải là thần mặt trời, và cũng không phải là thần chiến tranh Indra (không kinh sách nào nói về vấn đề này, cần phân tích thuộc tính và ý nghĩa của các thần thông qua hệ thống biểu tượng, nội dung...). Chúng ta hãy đi sâu vào vấn đề. Phạm Thiên - Đế Thích Tham khảo Internet Theo truyền thuyết Phật giáo, khi Thích Ca đản sinh, các tầng trời hào quang chiếu sáng, Phạm Thiên và Đế Thích đều xuống hộ pháp. Phạm Thiên tức là thần Brahma, đấng đầu tiên trong Thượng đế Tam thể hợp nhất (Trimuty) của Ấn Độ giáo, gồm Brahma, Vishnu, Shiva. Brahma là đấng sáng tạo ra thế giới. Theo truyền thuyết Phật giáo. Nhưng Phật giáo lại cho rằng thế giới vận động theo luật nhân quả, không phải do đấng nào sáng tạo ra cả. Brahma chỉ là vị đại thiên thần được sinh ra trước hết trong 1 chu kì thế giới này, nên tưởng rằng mình là sáng tạo thế giới, là chủ thế giới, nhưng thực ra cũng chỉ là một trong số chúng sinh, dù cao quý hơn hẳn nhưng cũng không phải vĩnh cửu, không phải Thượng đế, Brahma cũng nằm trong vòng sinh tử luân hồi, cũng chịu luật nhân quả, có sinh và cũng có diệt. Vũ trụ này có sinh rồi cũng có diệt, và Brahma cũng thế. Đế Thích tức là thần Indra, vua của các thần linh Ấn Độ giáo, vị thần làm ra mưa và sấm sét. Theo Phật giáo thì Indra cũng chỉ là một vị Thiên, vua cõi trời Đao Lợi, cũng nằm trong cõi ta bà. Phạm Thiên và Đế Thích, như vậy là hai vị Thiên cao nhất, phát tâm phù hộ Phật, bảo vệ cho giáo pháp, chứ không phải là Phật, và cũng không phải là tối cao vô thượng, thường hằng vĩnh viễn. Trong chùa, tượng Phạm Thiên và Đế Thích có thể được đặt hai bên tòa Cửu Long. Hai vị này là vua của cõi dục giới, và cõi trời, là cao nhất trong bậc Chư Thiên, nên được tạc dưới hình thức các vị vua, và là vua rất Việt Nam !!! Tượng Phạm Thiên và Đế Thích hai bên tòa Cửu Long, chùa Vĩnh Khánh Theo kinh sách nguyên thủy và hiện nay về vai trò các thần trong Tam Vị Nhất Thể: thần phá hủy Shiva, thần bảo tồn Vishnu và thần sáng tạo Brahma. Trích từ: Bắc Ấn Độ 1 Tác giả Nguyễn Xuân Quang Trong Ấn giáo (và cả phái mật tông của Phật giáo) sự kết hợp giữa hai tam giác thuận và ngược tạo ra hình ngôi sao 6 cánh này dùng làm biểu tượng cho sự hôn phối của hai nguyên lý nòng nọc, âm dương tạo ra vũ trụ. Ba đỉnh của tam giác thuận trong ngôi sao biểu tượng cho ba vị thần nam Brahma, Shiva, Vishu và ba đỉnh của tam giác nghịch biểu tượng cho ba vị thần nữ Saravasti, Shakti và Lakshmi. Đây cũng chính là Ngôi Sao David của Do Thái giáo, cũng có một nghĩa nòng nọc, âm dương giao phối. Quan niệm giao phối vũ trụ này thấy trong Jewish Kabbbala thần bí, được cho là Zivug ha Kadosh, sự hôn phối thiêng liêng giữa dương và âm của các biểu trưng của thượng đế. Như thế hình ngôi sao sáu cánh diễn tả sự giao phối giữa nòng nọc, âm dương, càn khôn, trời đất, vũ và trụ. Cả ba tôn giáo đều có cùng một biểu tượng với nghĩa lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, sinh tạo, tạo hóa chứng tỏ Vũ Trụ giáo là tôn giáo tối cổ bao trùm tất cả các tôn giáo loài người hiện nay. Tôi ghi chú các vấn đề nảy sinh: - Do Thái giáo chỉ thờ mỗi Thượng đế thì ngôi sao tam giác trên sẽ không bao giờ có thể hiểu được Tam Vị Nhất Thể Âm Dương. - Nếu thần Shiva cầm biểu tượng chiếc đinh ba giống như một ngọn tam sơn (3 đỉnh núi) thì khả năng Ngôi sao ở trên chưa chắc chắn là có thần Shiva trong đó. - Quái Càn cũng có thể là quái Ly. - Khả năng Linga - Yoni biểu tượng cho một sự hợp nhất! thay vì phân tách ra Âm Dương, khái niệm Trời Đất chẳng hạn. - Chiếc đinh ba dựng đứng của thần Shiva khả năng chính là hướng của Linga dựng đứng lên trời, tất nhiên Linga - Yoni thể hiện sự kết hợp nam nữ rồi. Hướng linhga khả năng là trục thông thiên: Thiên - Địa - Nhân hàm ý sự hợp nhất tiểu vũ trụ vào đại vũ trụ. - Sự phân biệt ra hai thành phần tiểu vũ trụ và đại vũ trụ do đặc tính của vũ trụ là vô cùng vô tận, từ đó sẽ có hai phân lớp thần linh tượng trưng tương ứng. Đinh ba và trống hai mặt của thần Shiva
-
Qua nhận định phối hợp giữa thiên văn Đông phương và những khám phá về hệ mặt trời của thiên văn hiện đại đã cho chúng ta thấy có sự chính xác về mặt số lượng hành tinh, đó là 10 hành tinh. Đối với mặt trời, theo Lý học Đông phương, được phân loại Âm Dương Ngũ Hành với thuộc tính quy ước "dương thổ", điều này cho thấy tính tự thân của thành phần trung tâm cũng phải phân ra Âm/ Dương. Sự đầy đủ cấu trúc hành tinh Âm Dương Ngũ Hành ở đây cho chúng ta thấy rõ về 1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, tổ hợp này sẽ vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là công thức Hà đồ đã được bàn từ cổ chí kim, ngay trên các diễn đàn liên quan đến Lý học cũng thường xuyên đề cập, tuy nhiên thực sự là vẫn chưa rõ bản chất của nó là gì! Hà đồ thể hiện lý tương sinh của quy luật tổng thể sau khi đổi Tốn Khôn Lạc thư thể hiện lý tương khắc nhằm điều chỉnh các mối tương quan với Hà đồ Một cách tương ứng về bản chất, thì bất kỳ một hành tinh nào trong hệ mặt trời cũng sẽ vận động theo Hà đồ - Lạc thư, chúng ta lấy đối tượng chủ thể là trái đất. Hà đồ của địa cầu (nếu xét chưa được phối hợp với Hậu Thiên Bát Quái) Đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ cấu trúc Hà đồ - Lạc thư rồi. Tuy nhiên, khi chúng ta định vị trên trái đất, tức chọn trái đất là chủ thể nhận tương tác, thì sẽ xảy ra những nhận định: Trái đất (Hà đồ - Lạc thư)/con đang vận động trong một hệ mặt trời (Hà đồ - Lạc thư)/mẹ sẽ nhận những chủng loại tương tác có quy luật từ hệ mặt trời - khách thể. Đồng thời, cũng có nhận định chi tiết hơn về sự sinh trưởng của các loài thực vật (được lấy làm biểu tượng Cây Đời Sống chứ không phải con người hay động vật nào đó) trải qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đối với hệ mặt trời là khách thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư mẹ, thì quy luật tương sinh này bao trùm, tức quy luật của Thiên Can như chúng ta thấy. Dòng khí tương tác Thiên Can vận động Đối với trái đất là chủ thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư con, trên nó có thực vật sinh sống, trải qua chu kỳ bắt buộc của Hà đồ con trong một năm trái đất quay quanh mặt trời, nhưng dòng vận động chịu tương tác theo quy luật xuân - hạ - thu - đông tức mộc - hỏa - kim - thủy. Cùng với các dữ kiện khác như: sao Mộc vận động chu kỳ 12 năm, trái đất chu kỳ 1 năm, mặt trăng quay xung quanh trái đất 12 vòng... mà các nhà Lý học cổ xưa khám phá ra Địa Chi (với sự chú ý dặc biệt về sự sống trên trái đất - dương mộc có cây xanh, chu kỳ 1 năm và sao Mộc - âm mộc, chu kỳ 12 năm, không có thực vật). Dòng khí tương tác Địa Chi vận động Địa Chi chính là quy luật tương tác tới trái đất quay quanh Mặt trời trong sự phối hợp đầy đủ Âm Dương giữa Trái đất (1 năm) - dương mộc và sao Mộc (12 năm) - âm mộc (với sự nhận biết thông qua chu kỳ Mặt trăng, cũng là một điểm tham chiếu). Điểm hay ở đây là chu kỳ sinh - vượng - mộ và 4 cung hành thổ chuyển tiếp từ các hành khác nhau trong quá trình tương sinh của quy luật tương tác, ở đây quy luật này chính là Hậu Thiên Bát Quái và chỉ với chủ thể là trái đất, cây xanh, động vật, con người mà thôi. Hậu Thiên Bát Quái sau khi điều chỉnh Tốn Khôn Không chỉ vậy, Địa chi ngoài nhận thức về vạn vật như cây xanh, mà còn chính là tương tác tới trái đất theo Hậu Thiên Bát Quái. Hậu Thiên Bát Quái này khi xét trong hệ mặt trời thì là từ toàn hệ mặt trời đi tới chủ thể Trái đất, và khi xét trong hệ thiên văn lớn hơn cũng vẫn là chính nó, tuy nhiên sẽ có những công thức khác nữa như Huyền không phi tinh chẳng hạn, tất nhiên Huyền không phi tinh sẽ vận động tuân thủ quy luật Hà đồ. Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu La kinh sau khi chỉnh Tốn Khôn Huyền không phi tinh phối Hà đồ (dùng tên gọi phối công thức) Sau khi nhận xét tổng quát như vậy, chúng ta quay trở lại Bảng lục thập hoa giáp. Địa cầu chủ thể nhận tương tác theo quy luật Địa Chi với sự quay quanh mặt trời chu kỳ một năm và nhận tương tác từ toàn thể hệ mặt trời theo quy luật khách thể Thiên Can, ở đây Thiên Can là quy luật chính và quy tắc sinh - vượng - mộ của một hành nào đó đã được nhận biết. Đồng thời, giữa khách thể hệ mặt trời (Thiên Can) và chủ thể Nhân trên trái đất luôn tạo nên 5 trạng thái tương quan lẫn nhau: sinh, khắc, hòa, bị sinh, bị khắc. Mặt khác, điểm bắt đầu liên kết khởi thủy giữa 5 trạng thái trên là từ "mốc" Giáp Tý cũng đã khám phá (sẽ phân tích sau) để từ đó có Bảng lục thập hoa giáp (30 năm Dương, 30 Âm). "Vận khí" ở đây là "trường khí được tạo ra" trên trái đất tại thời điểm "giao" giữa Thiên Can và Địa Chi, tức khi một con người, động vật, thực vật được sinh ra trong thời điểm này sẽ nhận "thuộc tính" riêng dựa trên Thiên Can làm chủ (hệ mặt trời là mẹ của trái đất). Điều này có thể hiểu như sau: - Hệ mặt trời: khách thể mẹ. - Trái đất: chủ thể con, nhưng trái đất tại một thời điểm trên nó có "con người..." được sinh ra, tức "Con người" đã trở thành chủ thể và lúc này, Hệ mặt trời và trái đất là khách thể liên hợp. Ý nghĩa này mang mật mã rõ ràng về Thiên - Địa - Nhân hợp nhất. Từ đó, chúng ta sẽ thấy: Thiên Can (Gốc) -> Địa chi (Cành) -> Lục thập hoa giáp (Hoa của cây) và động vật, Nhân (động vật, con người) là Quả đậu ra từ Hoa. Tuy nhiên, khi chúng ta quan sát một công thức đặc biệt khác là bộ môn Huyền không phi tinh ở trên, nó tuân thủ chiều phi tinh trên Hà đồ (nghịch hoặc thuận) nhưng không tuân thủy công thức tương tác Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tại sao vậy? Bởi đây là quy luật ở một hệ thiên văn khác, nhưng nó vẫn phải tuân thủy quy luật tương sinh như của Thiên Can với chủ thể nhận tương tác vẫn là Trái đất. Qua bảng Lục thập hoa giáp, khi xét đến Bát Trạch phong thủy về các hướng hợp với cá nhân, thì chỉ có hai loại người Âm/ Dương phù hợp với 8 hướng của Hậu Thiên Bát Quái, vấn đề này ở đây sẽ được hiểu như thế nào? Bản chất chính là trái đất tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường trái đất, đây phải chăng chính là nguyên nhân! Điều này cho thấy, cần xem xét phương pháp phong thủy mang tính lý thuyết thống nhất cao là Bát Trạch và Huyền Không phi tinh, rồi mới đến Loan Đầu và Dương trạch. La kinh chỉnh Tốn Khôn Cũng như hệ mặt trời, trái đất vận động theo quy luật Hà đồ - Lạc thư, thì quy luật dòng trường khí vận động theo Thiên Can vẫn đang phát huy và ảnh hưởng toàn diện đến quy luật vận động của trái đất, và ngay cả con người sinh sống trên nó, chưa kể Hệ mặt trời đang vận động dựa trên công thức Hà đồ - Lạc thư, vì vậy phải chăng ta có sự phối hợp: Thiên Can phối Hà đồ (được phối Hậu Thiên Bát Quái để nhận thức thêm về tổ hợp tương tác tại một thời điểm lên cùng một sự vật, hiện tượng) Ở đây, chúng ta chưa xét về mặt quy ước Độ Số! Qua đó, có thể thấy các công thức ở trên mô phỏng những tổ hợp tương tác từ các khách thể tới các chủ thể đã chọn: - Hệ mặt trời tự quay quay chính nó, cấu trúc trường khí vận động trong nó theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Dòng khí vận động theo lý tương sinh của Hà đồ là Thiên Can. - Trái đất tự quay quanh mình nó, tạo nên từ trường và trường khí vận động trong nó vẫn chính là công thức ở trên Hà đồ - Lạc thư. Trường khí vận động tương tác mà trái đất nhận được theo Địa Chi (sự phát triển của Hậu Thiên Bát Quái). - Động thực vật, con người trên Trái đất chịu tương tác theo quy luật phối hợp giữa Thiên Can (sinh) -> Địa Chi (sinh) -> Vạn vật với thuộc tính tuân thủ Lục thập hoa giáp. Vạn vật vẫn tuân thủ công thức Hà đồ - Lạc thư và nhận quy luật tương tác của dòng khí vận động theo Địa Chi tức Hậu Thiên Bát Quái, để từ đó chúng ta thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ. - Riêng cho trái đất ở trạng thái tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường, thì mỗi cá nhân ngay khi sinh ra có thuộc tính trong bảng Lục thập hoa giáp sẽ tương ứng Tây hoặc Đông tứ trạch của bộ môn Bát Trạch nữa. - Không chỉ vậy, còn phải xem xét tiếp công thức Thiên Can phối Hà đồ là như thế nào? Và như đã biết, trong Lục thập hoa giáp thì Thiên Can quyết định thuộc tính của mỗi Con Người khi sinh ra, điều này chỉ rõ sự tất nhiên và hợp lý của Thiên Can có quan hệ như thế nào với Hà đồ - Lạc thư! Để từ đó, nhận thức được bộ môn Độn Giáp và khái niệm "Hóa Khí". - Riêng đối với Huyền không phi tinh, rõ ràng ở đây chúng ta không thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái mà chỉ thấy quy luật dòng trường khí vận động thông qua Cửu Cung tức Hà đồ một cách liên tục 9x9 trường hợp thay đổi, mỗi trường hợp dịch chuyển cho 1 năm. Quy tắc 9x9 cho mỗi năm này đã chứng tỏ có những quy luật tương tác khác nằm ngoài hệ mặt trời tới trái đất theo công thức Huyền không phi tinh. - Chúng ta chưa nói đến bộ môn Thái Ất hay Tử Vi (với thiên bàn lập trên quy luật tương tác dựa trên công thức Địa Chi phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái). Thái Ất với quy luật tương tác chu kỳ 3 năm vào 1 cung, nhưng không vào trung cung, đã chứng tỏ một quy luật tương tác khác nữa từ hệ thiên văn ngoài hệ mặt trời, nhưng lại theo công thức Hậu Thiên Bát Quái 8 cung, sau 24 năm lặp lại. - Chúng ta vẫn chưa nói đến Tiên Thiên Bát Quái. Từ đó, quy tắc lập 64 quẻ của Kinh Dịch là dựa trên Tiên Thiên Bát Quái hay Hậu Thiên Bát Quái? Ghi chú: - Qua đó, chúng ta thấy rất rõ rằng: tại một thời điểm trên trái đất, với chủ thể là Con Người nhận được một số tổ hợp tương tác, đặc trưng nhất là theo 1 năm bởi vì bộ môn Huyền không phi tinh, chưa kể bộ môn Thái Ất, rất là phức tạp chứ không đơn giản. Điều kiện kiên quyết chính là phải thấy được công thức Hà đồ - Lạc thư hàm nghĩa gì! - Con người: có thuộc tính từ Lục thập hoa giáp. Toàn bộ Con Người trong dòng vận động của công thức Hà đồ - Lạc thư dưới quy luật điều khiển của Thiên Can. Con Người đang nhận tượng tác theo quy luật của Thiên Can và Địa Chi trong Hệ mặt trời, đồng thời cũng nhận các quy luật tương tác lớn khác ngoài Hệ mặt trời như Huyền không phi tinh, Thái Ất, Tử Vi... - Chúng ta cần thiết phải giải phóng được nguyên lý của Bát Trạch áp dụng cho mỗi Con người ngay tại thời điểm sinh ra. - Rồi từ đó nhận thức được khái niệm quan trọng "Hóa khí, hóa vật, hóa sinh...", có nghĩa rằng trường khí Thiên (tùy hệ thiên văn) áp đặt lên Con Người - đang ở một trạng thái có thuộc tính nào đấy sẽ bị "Hóa" bắt buộc. Và từ đó, khi triển khai Phong thủy để dùng các phương pháp, chẳng hạn trấn yểm để "Hóa" thành kết quả nào đấy vậy. Ta có thể lấy ví dụ, 1 người tuổi Kỷ Sửu, trong năm Giáp sẽ có tương tác hành Mộc - Giáp tới thuộc tính cá nhân sinh năm Kỷ Sửu -> sẽ có những thay đổi tùy nghi tương ứng... - Khi nhận thức được Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và Con người, động vật, thực vật thì sẽ nhận định tại sao Hậu Thiên Bát Quái với Ly trên Khảm dưới và Tiên Thiên ngược lại, trong sự phối hợp xem xét tổng thể các mối quan hệ giữa các hệ thiên văn khác nhau. - 12 cung Hoàng Đạo của thiên văn Tây Phương thực chất chưa hiểu ở 4 cung Mộ - hành Thổ, do vậy không thể là gốc gác từ đấy được. - Các phân tích ở trên chưa nói đến mối quan hệ với một chủ thể khác trái đất, ví dụ là sao Hỏa chẳng hạn.
-
Để giả quyết các vấn đề đã nêu ví dụ Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái, cũng cần quay trở lại cấu trúc của hệ mặt trời. Hệ mặt trời theo quy ước Âm Dương Ngũ Hành Căn cứ vào sao Kim ở vành đai trong hệ mặt trời có thuộc tính quy ước là dương kim, do vậy tồn tại sao Diêm Vương thuộc tính quy ước âm kim, vấn đề này cũng giống như địa cầu - dương mộc và sao Mộc - âm mộc vậy. Cho nên, chắn chắn phải tồn tại trên thực tế sao Diêm Vương nhằm đảm bảo tính đầy đủ của một hệ Âm Dương Ngũ Hành - tức Hệ mặt trời sẽ có 10 hành tinh. Từ đó, chúng ta rút ra một số vấn đề: - Nguyên lý: "Dương trong Âm ngoài". "Dương tịnh Âm động": Mặt trời là tịnh tương đối so với các hành tinh quay chung quanh nó. "Âm thuận tùng Dương". - Mặt trời: dương thổ. - Địa cầu: dương mộc, chu kỳ 1 năm quanh chung quanh mặt trời - dương thổ (nhấn mạnh ở đây: chỉ có hành dương mộc mới sinh ra sự sống). Mặt trăng là một vệ tinh riêng của Địa cầu, ảnh hưởng tới quy luật lên xuống của thủy triều, chu kỳ sinh sản... - Sao Mộc (Thái Tuế): âm mộc, chu kỳ 12 năm. Bộ đôi sao Mộc và Địa cầu hành mộc có chu kỳ chung 12 năm, tạo nên cấu trúc Địa chi, kết hợp quy tắc "sinh - vượng - mộ" (chú ý dựa trên sự tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái) của vạn vật hữu tình. - Tương tự, sự kết hợp giữa Mặt trời - dương thổ và sao Thổ - âm thổ tạo nên cấu trúc độ số 5, 10 của hành thổ trung tâm Hà đồ. Điều này không có nghĩa là Mặt trời - độ số 5 và sao Thổ - độ số 10, mà ở đây thể hiện bản chất tương sinh của thuộc tính sự vật, hiện tượng và tính quy luật các con số tương ứng được khám phá ra. Đây là vấn đề mà khi nhìn vào Hà đồ hành thổ trung tâm độ số 5, 10 dễ "nhầm" cho rằng Mặt trời là hành thổ nhưng không phân ra âm/ dương. Như ở trên, Mặt trời có thuộc tính quy ước là dương thổ. - Vành đai hành tinh bên trong: Dương. - Vành đai hành tinh bên ngoài: Âm. - Vành đai thiên thạch: vùng đệm phân cách Âm Dương (hiệu chỉnh và tự cân bằng cho Âm / Dương). - Bội số chung chu kỳ cho Vành đai hành tinh bên trong, dương và Vành đai hành tinh ngoài gồm sao Mộc, Thổ: 60 năm - Lục thập hoa giáp: tích hợp giữa Thiên can (Lý tương sinh của Hệ mặt trời) và Địa chi (Lý tương tác theo dòng tương sinh mang tính quy luật tới Địa cầu và sao Mộc, trong đó Địa cầu có vạn vật hữu tình được lấy làm chủ thể nhận tương tác đó, thậm chí ngay cả một bộ phận hoặc cả Địa cầu cũng được lấy làm chủ thể). - Nguyên lý: "Dương trước Âm sau". - nguyên lý: "sinh - vượng - mộ" được xem xét đối với vạn vật hữu tình. - Lịch pháp: Âm lịch và Dương lịch. Đây là những kết luận để có thể hiểu sâu hơn về các quy ước, khái niệm liên quan như Hà đồ, Lạc thư, Lục thập hoa giáp, Thiên can, Địa chi, Ngũ vận lục khí... chẳng hạn, có quý vị hỏi: Hà đồ và Lạc thư là cái gì? Đây là một câu hỏi đã quá xưa cũ nhưng cực khó đấy! THI Hảo Nam-bang! Hảo Nam-bang! Tiểu quốc tảo khai Hội Niết-Bàn. Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo, Hảo phùng Ngọc-Đế ngự trần-gian. Thi ân tế chúng thiên-tai tận, Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an. Chí bửu nhơn-sanh vô giá định. Năng tri giác thế sắc cao ban. Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái! "Ngũ vận lục khí"!
-
Tòa quốc tế xử Philippines thắng kiện Trung Quốc Thắng lợi ban đầu của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc mở ra hướng mới trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Ngày 29.10.2015, Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA) đóng tại Hague, Hà Lan (PCA) đưa ra phán quyết đầu tiên về vụ Philippines kiện Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền trái phép ở Biển Đông. Phán quyết của PCA nêu rõ, cả Philippines và Trung Quốc đều là các bên tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và vì thế phải có trách nhiệm giải quyết tranh chấp theo quy định của UNCLOS. Phán quyết của PCA nói rằng vụ việc được tiến hành theo đúng Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, và PCA có thẩm quyền xét xử vấn đề. Quyết định của Trung Quốc không tham gia vụ kiện sẽ không làm thay đổi quyền phán quyết của PCA và việc Philippines quyết định đơn phương tiến hành vụ kiện không hề vi phạm tiến trình giải quyết tranh chấp theo UNCLOS. Thắng lợi của luật pháp quốc tế Theo AFP, ngay sau khi có phán quyết của PCA, một quan chức quốc phòng cấp cao của Mỹ tại Washington đã lên tiếng hoan nghênh phán quyết của tòa án là “một thắng lợi của luật pháp quốc tế”. AFP dẫn lời quan chức quốc phòng cấp cao nói: "Chúng tôi rất hoan nghênh phán quyết của tòa. Điều này chứng tỏ luật pháp quốc tế có vai trò trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông". "Điều này chứng tỏ rằng những tuyên bố chủ quyền không nhất thiết là không thể tranh cãi và việc ra phán quyết về vấn đề chủ quyền theo luật pháp và thông lệ quốc tế là con đường có thể giúp quản lý và giảm thiểu nguy cơ xảy ra xung đột. Chúng tôi rất hoan nghênh các hoạt động của tòa". Trả lời phỏng vấn của VOV, Tiến sĩ Phạm Lan Dung, Trưởng Ban Quốc tế, Học viện Ngoại giao của Việt Nam, cho rằng, bà cũng như nhiều chuyên gia nghiên cứu các vấn đề quốc tế khác, coi phán quyết của PCA là thắng lợi lớn của Philippines. Không những thế, thắng lợi này còn giúp cho các nước có tranh chấp thấy lạc quan, rằng từ nay có thể sử dụng Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và đưa ra Tòa Trọng tài Quốc tế để giải quyết các khác biệt về tranh chấp lãnh thổ. Bà Phạm Lan Dung trích dẫn UNCLOS rằng, Luật này yêu cầu các nước phải tôn trọng các biện pháp hòa bình, Không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong khi giải quyết các tranh chấp, Phải dùng các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp. Bà Phạm Lan Dung nói: “Việc Tòa Trọng tài Quốc tế có thể xét xử vụ kiện chính là biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp”. Khi vấn đề thẩm quyền của PCA được giải quyết, vụ kiện có thể chuyển hướng sang các thủ tục tiếp theo, bao gồm: thu thập, đánh giá về tính pháp lý trong các luận điểm về chủ quyền của Philippines ở Biển Đông. Chặng đường phía trước còn dài Tạp chí The Diplomat phân tích, Philippines mong muốn PCA xem xét và phán quyết về 4 vấn đề, trong đó vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất là yêu sách của Trung Quốc về cái gọi là “Đường 9 đoạn” (hay còn gọi là Đường lưỡi bò) ở Biển Đông. Theo đó, Manila lập luận rằng “Đường 9 đoạn” là một yêu sách “không thể chấp nhận được” và không phù hợp với quyền lợi của các quốc gia ven biển chiểu theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) mà cả Trung Quốc, Philippines cùng nhiều nước khác đã ký kết năm 1982. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn không đưa ra được những chứng cứ pháp lý về phạm vi của “Đường 9 đoạn”. Thứ hai, Philippines cho rằng việc Trung Quốc chiếm đóng, bồi đắp nhiều đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa trên Biển Đông là bất hợp pháp. Manila đưa ra lập luận này vì cho rằng Bắc Kinh có “những yêu sách về sở hữu hoặc chủ quyền không chính đáng đối với các khu vực hoàn toàn ngập nước, hoặc quyền lịch sử không chính đáng đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật, bao gồm cả quyền kiểm soát hàng hải”. Thứ ba, đề nghị tòa án sẽ xem xét và đánh giá tính pháp lý đối với cáo buộc của Philippines rằng Trung Quốc đang khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines theo UNCLOS. Thứ tư, Philippines cáo buộc Trung Quốc đã can thiệp vào quyền tự do đi lại của Manila trong chính Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của quốc đảo này. Trong một bài viết của mình, Tạp chí Wall Street Journal dẫn lời Luật sư trưởng người Mỹ, ông Paul Reichler, phụ trách hồ sơ vụ kiện của Philippines, lập luận rằng cái gọi là “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc, mà theo đó Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với gần như tất cả Biển Đông, không có căn cứ theo luật quốc tế quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. PCA cũng đã yêu cầu Manila làm rõ một số luận điểm và sẽ xem xét các vấn đề còn lại trong giai đoạn đánh giá tính pháp lý của các lập luận này. Sau khi vấn đề về thẩm quyền của PCA đã được giải quyết, vụ kiện có thể tiến triển đến giai đoạn đánh giá tính pháp lý về các luận điểm Philippines đưa ra về vấn đề Biển Đông. PCA dự kiến sẽ đưa ra phán quyết sơ bộ vào năm 2016. Theo VOV
-
THƠ HÀI XUYÊN CÕI GIỚI Tình xuyên cõi giới tưởng nên thơ Ngờ đâu ong bướm chỉ mộng mơ Biết trước cõi trời anh là thế Em về khép lại mối vương tơ Hàng ngàn Tiên nữ đẹp như hoa Tha thướt xiêm y với ngọc ngà Anh say men tình nơi chốn ấy Chả trách Trời đày khi đến đây Cho chừa cái thói khoái Trăng Hoa Cho vô Tịch cốc chơi với sầu Nhốt cái thân anh vào cõi ẩn Nếm cảnh buồn đời khỏi lăn tăn Thơ, nhạc của anh chả ai ngó Viết xong bụi bám chả ai thèm Bởi chỉ có em là tri kỷ Nhưng mà em ghét chả thèm xem Như thế đáng đời tính tèm nhem Chẳng có ai chơi họa với vần Chẳng có ai ca "Mộng Hồ Điệp" Dạo bước giang hồ vẫn đơn côi "Độc cô cầu bại" mình anh thôi Em có linh đơn lẫn Kim bài Vũ khí hủy diệt tay em giữ Xin lỗi thì còn có Phim Đôi. Hien Nguyen, ngày 30/11/2014 ĐÊM ĐÔNG Đêm đông quạnh vắng mình đơn lẻ Phòng trống đơn côi chốn xa xôi Trằn trọc suy tư ngày khai hội Nhung nhớ người xưa suốt canh dài Lụa đào, yếm trải chốn thiên thai Tịch cốc giờ đây vắng bóng hồng Ngày vui há dễ mà trông ngóng Thiên địa giao hòa vạn nẻo xa Muôn kiếp ngàn đời với thi ca Khoác áo thi nhân lấm bụi trần Lãng tử phong sương trà đón khách Đêm về lẻ bóng nhớ giai nhân Mãnh tướng kiêu hùng nơi chiến trận Nước mắt Vương phi đẫm giấc mơ Tương tư hẹn ước ngày tao ngộ Thiên lý tình xa hóa câu thơ. Hien Nguyen ngày 12/1/2015