hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Về sọ người cổ 63.000 năm tuổi tìm thấy ở Lào Đăng Bởi Hà Văn Thùy - 06:39 26-08-2015 Đọc dòng chữ “Phát hiện cũng cho thấy người tiền sử không hề di chuyển dọc theo bờ biển châu Á trong quá trình di cư từ châu Phi tới Australia – một giả thuyết được nhiều nhà nhân chủng ủng hộ. Thay vào đó, tổ tiên của người Đông Nam Á đã vượt qua những địa hình hiểm trở để tiến vào đất liền,” tôi sinh nghi, buộc phải tìm đọc nguyên văn trên AFP. Dễ dàng tìm được: Lao skull earliest example of modern human fossil in Southeast Asia (Sọ Lào, hóa thạch sớm nhất của người hiện đại ở Đông Nam Á). Trong bài viết của mình, nhà nhân chủng học Laura Shackelford, Giáo sư Đại học Mỹ Illinois cho biết, năm 2009, nhóm của bà phát hiện một sọ người hóa thạch tại hang Tam Pa Ling (hang Khỉ) trên dãy Trường Sơn thuộc Bắc Lào. Qua quá trình khảo sát tới năm 2012, đưa ra kết luận: - Đó là sọ người hiện đại Homo sapiens có tuổi từ 46.000 đến 63.000 năm, sớm hơn những cốt sọ tìm thấy ở Đông Nam Á 20.000 năm. - Phát hiện này viết lại lịch sử di cư của con người tới Đông Nam Á. Dò tìm câu văn gây hoài nghi cho mình, tôi gặp: The find reveals that early modern human migrants did not simply follow the coast and go south to the islands of Southeast Asia and Australia, as some researchers have suggested, but that they also traveled north into very different types of terrain, Shackelford said. Dịch chính xác phải như sau: “Phát hiện cho thấy người di cư không chỉ đơn thuần đi theo bờ biển về phía nam tới các đảo Đông Nam Á và Úc, như một số nhà nghiên cứu đã gợi ý, mà họ cũng đi về hướng bắc, nơi có địa hình rất khác, Shackelford nói.” Nghĩa câu văn này rất rõ ràng. Tiếc là tác giả bài báo đã dịch sai, không chỉ khiến cho ý nghĩa của câu văn thay đổi mà còn đưa tới nhận định rất sai về mặt khoa học. Một thí dụ điển hình của thành ngữ: dịch là phản! Câu trên cũng cho thấy, Giáo sư Shackelford chưa hiểu đúng công bố của các nhà di truyền học từ đầu thế kỷ như J.Y. Chu, Stephen Oppenheimer bởi các vị này đã nói rõ: người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam, sau đó từ Việt Nam đi sang Ấn Độ, lên Trung Hoa rồi vượt eo Beringa chiếm lĩnh châu Mỹ. Hoàn toàn không có chuyện các nhà nghiên cứu cho rằng người di cư chỉ đi theo con đường phía Nam. Hang Khỉ (Tam Pa Ling) Về sự kiện “sọ Lào”, xin được trình bày như sau: Trước hết, cần hiểu đúng về thuật ngữ Đông Nam Á. Ngày nay, Đông Nam Á là 10 nước thuộc khối ASEAN nhưng vào Thời Băng Hà, từ đặc điểm địa lý, khí hậu, phân bố động, thực vật, địa giới ĐNA lên tới phía Nam Dương Tử. Năm 1958, tại làng Liujiang tỉnh Quảng Tây, phát hiện cốt sọ người cổ. Sau nhiều năm khảo cứu, giới khoa học thống nhất, đó là sọ một người Mongoloid 68.000 năm tuổi. Khảo cổ học cũng phát hiện tại hồ Mungo nước Úc một sọ người Australoid 68.000 năm. Hai cốt sọ đã chứng minh cho khám phá của di truyền học về con đường thiên di của con người từ châu Phi sang phương Đông: 85.000 năm trước, dòng di cư rời châu Phi, theo ven biển Ấn Độ rồi vượt biển tới Mã Lai, Indonesia. 70.000 năm cách nay, trong khi dòng người tiếp tục theo các đảo Đông Nam Á, tới châu Úc thì từ phía Tây Borneo, một hướng di cư gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid đi lên phía Bắc, vào thềm Biển Đông. Tại đồng bằng rộng lớn này, trong khi đa số họ gặp nhau, hòa huyết cho ra người Việt cổ thì có những nhóm Mongoloid riêng rẽ đi lên Tây Bắc Đông dương rồi do bị băng hà ngăn chặn, họ dừng lại. Lưu Giang chỉ cách biên giới nước ta hơn 100 km nên có lẽ sọ Lưu Giang thuộc đợt di cư sớm này. Phải tới 40.000 năm trước, nhờ khí hậu ấm hơn, họ đi lên Tây Tạng và đất Mông Cổ, sau thành người North Mongoloid. Trong khi đó, cũng có những nhóm người Australoid riêng rẽ từ Việt Nam băng qua Trường Sơn sang Lào, qua Miến Điện vào Ấn Độ. Một sự kiện đáng chú ý là, trên đường thiên di, người di cư đã vào Ấn Độ trước. Nhưng 74.000 năm cách nay, núi lửa Toba trên đất Indonesia phun trào, nham thạch phủ dầy tiểu lục địa Ấn, tàn phá môi sinh, tiêu diệt khoảng 10.000 người. Tiếp theo là mùa đông nguyên tử kéo dài hơn nghìn năm. Thời gian rất dài đất Ấn Độ vắng bóng người. Mãi sau đó, người từ khu vực xung quanh mới lần lượt xâm nhập trở lại. Khoảng hơn 60.000 năm trước, một số ít người Australoid (nguyên châu Phi) từ Việt Nam đi sang phía tây, chiếm lĩnh Ấn Độ, trở thành dân cư bản địa đầu tiên của xứ này. Khoảng 50.000 năm trước, người Việt cổ chủng Indonesian từ Việt Nam di cư sang đất Ấn. Hòa huyết với nhau, hai dòng người sinh ra người Dravidian, chủ thể của dân cư Ấn cho tới 2.000 năm TCN. Các tài liệu di truyền học nói về con đường di cư như trên của con người tới Việt Nam và Đông Á. Vì vậy việc chưa tìm thấy di cốt người cổ ở Lào, Mianmar là điều bất thường trong suy nghĩ của tôi. Nhưng tôi cho rằng, do số người di cư quá ít nên di cốt của họ cũng hiếm. Việc phát hiện sọ cổ của người hiện đại ở Lào đã chứng tỏ những khám phá mang tính tiên tri của di truyền học là hoàn toàn chính xác. Phát hiện di cốt người cổ 63.000 năm tuổi ở Lào rất có ý nghĩa vì tô đậm bản đồ khảo cổ Đông Nam Á. Nó cũng chứng minh sự đúng đắn của những khảo sát di truyền học trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên sự kiện này không hề “viết lại lịch sử di dân tới Đông Nam Á” như tác giả Laura Shackelford quá lời mà nó chỉ xác nhận những khám phá từ đầu thế kỷ XXI của các nhà di truyền học. Và nó càng chứng minh rằng Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc Đông Á. 26. 8 2015 Hà Văn Thùy Người hiện đại tới châu Á sớm hơn châu Âu Theo Live Science, hóa thạch tìm thấy trong hang động Fuyan, tỉnh Hồ Nam có niên đại khoảng 80.000 - 120.000 năm, là bằng chứng về người hiện đại lâu đời nhất được tìm thấy ngoài châu Phi. Trước đó, giới khoa học cho rằng, người hiện đại Homo sapiens mới xuất hiện ở châu Á khoảng 50.000 năm trước. "Cho đến nay, phần lớn giới khoa học tưởng rằng, người Homo sapiens không hiện diện ở châu Á cho đến thời điểm 50.000 năm trước", Wu Liu, nhà nhân chủng học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc và là tác giả nghiên cứu, cho biết. Mẫu răng hóa thạch tìm thấy ở Trung Quốc. (Ảnh: Live Science). 47 hóa thạch răng người được tìm thấy ở Fuyan từ năm 2011 đến 2013, cùng nhiều xương cốt của con người và động vật như gấu trúc, lợn. Các nhà khoa học hôm nay công bố phát hiện này trên tạp chí Nature. Loài người hiện đại xuất hiện đầu tiên ở Đông Phi khoảng 200.000 năm trước, sau đó di cư đến những châu lục khác, tuy nhiên, giới khoa học vẫn chưa rõ thời gian và địa điểm di cư. "Phát hiện này, cùng với những kết quả nghiên cứu khác, cho thấy miền nam Trung Quốc có thể là khu vực trung tâm của sự xuất hiện và tiến hóa của người hiện đại ở Đông Á", Wu Liu cho biết. Các nhà nghiên cứu cho rằng, phát hiện này có thể làm sáng tỏ tại sao người hiện đại di cư khá muộn sang châu Âu. Không có bằng chứng cho thấy người hiện đại có mặt ở châu Âu từ 45.000 năm trước, trong khi đó, họ có mặt ở miền nam Trung Quốc ít nhất từ 80.000 năm trước. Rất có thể, người Neanderthals đã ngăn cản người hiện đại vào châu Âu. "Có lẽ châu Âu lúc đó quá nhỏ bé để hai loài có trí thông minh và tập quán phức tạp cùng sinh sống", María Martinón-Torres, đồng tác giả nghiên cứu, đại học Colleage London cho biết. Sau này, khi người Neanderthal dần biến mất vì sống cô lập hàng nghìn năm và phải trải qua những mùa đông giá rét khắc nghiệt, người Homo sapiens mới đặt được chân vào châu Âu. Cập nhật: 16/10/2015 Theo VnExpress Hóa thạch mới cho thấy động vật linh trưởng có tổ tiên ở châu Á Theo kết quả nghiên cứu mới được công bố trực tuyến trên tờ Proceedings of the Royal Society B (Biological Sciences) ngày 1 tháng 7 năm 2009, một động vật linh trưởng hóa thạch mới được phát hiện tại Myanmar tiết lộ rằng tổ tiên chung của người, khỉ không đuôi và vượn có thể đã tiến hóa từ động vật linh trưởng châu Á, chứ không phải châu Phi như nhiều nhà nghiên cứu vẫn nghĩ. Tiêu điểm chính của nghiên cứu cổ sinh học mới đây tập trung vào nguồn gốc của động vật linh trưởng dạng người (gồm con người, khỉ, khỉ không đuôi) từ động vật linh trưởng nguyên thủy hơn sống ở trước đó với tên gọi bộ bán hầu (gồm vượn cáo, khỉ lùn tarsier, cùng các họ hàng đã tuyệt chủng của chúng). Trước các khám phá mới đây ở Trung Quốc, Thái Lan, và Myanmar, hầu hết các nhà khoa học tin tưởng rằng vượn người có nguồn gốc từ châu Phi. Đầu năm nay, phát hiện về xương sống của động vật linh trưởng hóa thạch “Ida” tại Đức khiến cho một số nhà khoa học cho rằng động vật linh trưởng dạng người tiến hóa từ loài adapiform trông giống như vượn cáo. Phát hiện động vật linh trưởng hóa thạch mới đây tại Myanmar tiết lộ rằng tổ tiên chung của người, khỉ không đuôi và vượn có thể đã tiến hóa từ động vật linh trưởng châu Á, chứ không phải châu Phi như nhiều nhà nghiên cứu vẫn nghĩ. (Ảnh: Mark A. Klingler/ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Carnegie). Theo tiến sĩ Chris Beard – nhà cổ sinh học thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Pittsburgh, Pennsylvania, đồng thời là thành viên của nhóm nghiên cứu quốc tế về những phát hiện vượn người ở Myanmar – thì loài động vật linh trưởng mới, Ganlea megacanina, cho thấy vượn người đầu tiên bắt nguồn từ châu Á hơn là châu Phi. Những vượn người châu Á sơ khai này khác một cách cơ bản so với những loài adapiform như Ida, điều này chứng tỏ rằng Ida có liên hệ họ hàng với các loài vượn cáo hiện đại hơn là với khỉ, khỉ không đuôi và con người. Hóa thạch Ganlea megacanina 38 triệu năm tuổi, được khai quật ở nhiều địa điểm khác nhau thuộc miền trung Myanmar, thuộc về một loài và một giống mới. Tên của loài mới này phỏng theo tên làng Ganle, gần vùng đã tìm ra hóa thạch, và những chiếc răng lớn có hình dáng giống răng chó chính là đặc điểm phân biệt loài này với các động vật linh trưởng họ hàng khác. Những vết trầy, sứt trên răng cho thấy Ganlea megacanina đã dùng những chiếc “răng chó” này để cậy lớp vỏ cứng bên ngoài của các loại quả nhiệt đới và lấy ra ruột quả chứa dinh dưỡng bên trong. "Cách ăn này chưa từng được ghi nhận ở bất kì loài động vật linh trưởng bán hầu nào, nhưng là nét đặc trưng của khỉ saki Nam Mĩ hiện đại cư trú ở vùng lưu vực sông Amazon,” tiến sĩ Beard cho biết. “Ganlea cho thấy vượn người châu Á sơ khai 38 triệu năm trước cũng đã đảm nhận vai trò sinh thái của khỉ hiện đại.” Ganlea và những loài họ hàng gần gũi nhất của nó thuộc về một họ động vật linh trưởng dạng người châu Á đã tuyệt chủng được gọi chung là Amphipithecidae. Hai loài trong họ này, Pondaungia và Myanmarpithecus, cũng đã được tìm thấy ở Myanmar, trong khi loài thứ ba, Siamopithecus, đã được phát hiện ở Thái Lan trước đó. Một phân tích chi tiết về các quan hệ tiến hóa của chúng cho thấy những loài thuộc họ này có quan hệ mật thiết với các động vật dạng người ngày nay, và tất cả các loài Amphipithecidae ở Miến Điện (Myanmar trước kia) đã tiến hóa từ một tổ tiên chung duy nhất. Một số nhà khoa học trước đây từng lập luận rằng những loài này không phải là động vật dạng người, chúng có quan hệ gần hơn với loài adapiform dạng vượn cáo. Phát hiện về Ganlea ủng hộ mạnh mẽ cho ý kiến họ Amphipithecidae là động vật họ người, bởi adapiform chưa bao giờ tiến hóa những đặc tính cần thiết để trở thành loài có đặc trưng là ăn quả, hạt. Thực tế, toàn bộ họ này ở Miến Điện đều có nét đặc trưng là ăn quả, hạt, đảm nhận vai trò sinh thái giống như khỉ pitheciine hiện đại sống ở lưu vực sông Amazon vùng Nam Mỹ. Trong suốt kỉ Eocene, khi Ganlea và các loài khác thuộc họ Amphipithecidae tồn tại trên đất Myanmar ngày nay, chúng sống ở vùng đồng bằng cửa sông do nước lũ tạo thành, nơi có các đặc điểm môi trường tương tự như vùng lưu vực sông Amazon hiện tại. Hóa thạch của Ganlea megacanina được phát hiện lần đầu tiên ở Myanmar vào tháng 12 năm 2005. Công trình nghiên cứu ngoài trời này là sự hợp tác của các nhà khoa học đến từ một vài viện ở Myanmar, cũng như Đại học Poitiers và đại học Montpellier của Pháp, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Carnegie tại Pittsburgh, bang Pennsylvania, và Bộ tài nguyên Khoáng sản Thái Lan. Kinh phí của chương trình được tài trợ bởi Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp. Cập nhật: 06/07/2009 G2V Star (Theo ScienceDaily) Hóa thạch động vật có xương sống trong đá vôi Trias trung ở Việt Nam Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 2000, vườn quốc gia Cúc Phương đã phối hợp với Bảo tàng Địa chất Hà Nội tổ chức nghiên cứu tại thực địa hóa thạch động vật có xương sống trên vách đá vôi trong vườn quốc gia Cúc Phương. Nếp uốn trong đá vôi phân lớp Hóa thạch lộ ra trên vách cửa đá vôi phân lớp mỏng màu xám sẫm thuộc Hệ tầng Đồng Giao, tuổi Trias T2. Phần lộ ra của hóa thạch là một đoạn xương sống dài 70cm gồm 18 đốt sống, trong đó có 12 đốt nguyên vẹn. Các đốt sống hình viên trụ thót giữa, mặt lõm, dài 3,5-4cm, đường kính giữa thân đốt sống 2,0-2,5cm; đường kính giữa thân đốt 2,0-2,2cm. Cùng với các đốt sống, có hai xương đòn ngắn. Một cấu trúc không rõ ràng, trông tựa cấu trúc "xương vây", 4 xương sườn nhọn dài khoảng 4cm, một số xương như vậy cũng có mặt rảirác trên đá. Quan sát một số mảnh vỡ thấy có cấu trúc xương rõ ràng. Trên tuyến đường vào địa điểm chứa hóa thạch, các nhà địa chất đã kết hợp quan sát các dấu hiệu trầm tích và cấu trúc trên đá vôi cũng như sự biểu hiện của các dấu hiệu hình thái và phần thực vật. Sơ đồ phân bố hóa thạch trên mặt lớp đá vôi Từ những quan sát trên, các nhà địa chất có những nhận định ban đầu như sau: 1. Đây là hóa thạch thực thụ của một loại động vật xương sống ở biển được chôn vùi trong trầm tích biển Trias trung T2, cách ngày nay khoảng 200-230 triệu năm. Căn cứ trên các địa điểm hình thái xương sống chưa thể khẳng định ngay hóa thạch này là cá hay bò sát dạng cá. Vì các đốt sống mang đặc trưng của cá, nhưng các xương đòn và xương sườn lại mang dấu hiệu của bò sát. 2. Tuy nhiên, dù là cá hay bò sát thì đây vẫn là hóa thạch động vật xương sống lần đầu tiên phát hiện trong trầm tích Trias ở Việt Nam. Phát hiện này có ý nghĩa tạo ra tiền đề cho việc mở rộng nghiên cứu, phát hiện tiếp tục hóa thạch động vật sương sống trong các thành tạo này ở các vùng khác trên đất nước ta. Sự có mặt của hóa thạch và các dấu hiệu địa chất đặc biệt trong đá vôi hệ tầng Đồng Giao sẽ làm tăng thêm giá trị nghiên cứu, tham quan của vườn quốc gia khi thiết kế tuyến tham quan, nghiên cứu ở đây. 3. Vì tất cả những lý do nêu trên, các nhà địa chất cần bảo vệ nguyên trạng hóa thạch tại hiện trường, nghiên cứu chi tiết hóa thạch đã có; tổ chức nghiên cứu, tìm kiếm hóa thạch trong đá vôi hệ tầng Đồng Giao ở vườn quốc gia Cúc Phương, tu chỉnh và bảo quản hóa thạch theo quy trình bảo tàng ngoài trời Hóa thạch trong đá vôi Cập nhật: 10/11/2005 H.T (theo Bảo tàng địa chất Hà Nội) Người hiện đại có chung nguồn gốc từ châu Phi Nguồn gốc của người hiện đại và sự định cư của con người từng gây tranh cãi với hai giả thiết khác nhau. Một bên là mô hình “Out of Africa” (Ra khỏi châu Phi) khẳng định người Homo sapiens có nguồn gốc từ một nơi duy nhất ở châu Phi, sau đó đã di dân đến các lục địa khác. Mô hình thứ hai cho rằng sự tiến hóa từ người Homo erectus sang người Homo sapiens đã diễn ra tại nhiều nơi trên toàn cầu một cách độc lập. Sau nhiều phân tích, nhà cổ sinh vật học người Anh Andrea Manica và các cộng sự thuộc Trường Đại học Cambridge khẳng định họ đã tìm ra câu trả lời cuối cùng. Theo họ, người Homo sapiens ra đời từ khu vực châu Phi bán hoang mạc. Nhờ một nghiên cứu diện rộng về gien và khảo cổ học, họ đã tìm ra các yếu tố xác định. Đó là nghiên cứu tính đa dạng gien ở các cư dân trên khắp thế giới và hơn 6.000 hộp sọ cổ rải rác trên toàn cầu. Các nhà nghiên cứu chứng minh rằng, càng đi xa chiếc nôi châu Phi, tính đa dạng gien càng giảm. Qua nghiên cứu các hộp sọ, tỉ lệ thay đổi hình thái cao nhất được tìm thấy ở khu vực Đông Nam châu Phi và giảm khi xa dần lục địa. Do đó giả thiết “Out of Africa”, tức người hiện đại có chung một nguồn gốc duy nhất được công nhận. Người Homo sapiens có thể đã xuất hiện từ khu vực châu Phi bán hoang mạc cách đây khoảng 150.000 năm để rồi đi chinh phục châu Á và châu Âu. V.N Cập nhật: 21/07/2007 Theo Sciences & Avenir, Đài TH Tp. Hồ Chí Minh Người châu Á có nguồn gốc từ Đông Nam Á Một nghiên cứu công bố ngày 12/12, cho rằng người dân châu Á hiện nay có tổ tiên bắt nguồn từ Đông Nam Á. Đây là kết quả do các nhà nghiên cứu 10 nước châu Á và Mỹ thực hiện trong 4 năm. Hình vẽ các tộc người ở Châu Á đầu thế kỷ 20. Ảnh: wikipedia Họ cho rằng, tổ tiên của người dân châu Á có thể bắt đầu từ Ấn Độ rồi di cư sang Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines trước khi di chuyển lên phía đông bắc Á. Các nhà nghiên cứu còn cho biết sự đa dạng về gen của người dân châu Á tăng dần từ miền nam lên miền bắc. Kết quả này đã phản bác lại học thuyết người châu Á bắt nguồn từ Trung Á trước đây. Cập nhật: 12/12/2009 Theo SGTT Tôi ghi chú: - Nơi có quần cư của loài linh trưởng thuận tiện nhất trong tự nhiên sẽ kích thích sự chuyển đổi thành "Con người tiền sử đầu tiên" tức tương tác Âm Dương trong một xã hội linh trường có lợi nhất trong sự dịch chuyển của sinh lý và tư tưởng. - Loài linh trưởng là phổ biến trên địa cầu, giống như động vật thời khủng long cũng vậy. - Nơi gần các dòng sông, nơi thấp trũng, gần biển, mang tính Dương so với vùng cao, Âm. - Nơi được cho là phát tích con người đầu tiên ở châu Phi không tương ứng với những đặc trưng trên. - Nơi nhận tương tác từ Địa cầu và vào thời điểm tương tác từ Thiên văn hợp lý nhất.
  2. KARAJAN: 1. Thái Ất Nhật Kể nhập cục: 1.1 Dẫn Nhập: Phép xem Nhật Kể tức là tính toán số ngày tích lại đến ngày sinh để vào cục. Sách Tàu họ chép Nhật Kể có mốc tính là vào ngày mồng 1 tháng Giáp Tý năm thứ nhất niên hiệu Cảnh Bình (đời Tống Phế Đế Lưu Huệ (423-424)), nhằm ngày 19/2 năm 423 sau Công Nguyên - Dương Lịch. Còn Thái Ất Thần Kinh chép là sau Đông Chí chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính. Thực tế ra phép Thái Ất là phép đếm rồi chia lấy số dư gọi là TOÁN, đếm thì phải có MỐC để đếm giống như Vật Lý phải có Hệ Quy Chiếu. Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh, sau này tôi sẽ chứng minh hai cách tính trên là gần như là như nhau bằng Đồng Dư thức và Lịch Pháp. Còn một vấn đề nữa là sách Tàu họ ghi sau Hạ Chí đến trước Đông Chí thì dùng Cục Âm. Từ Đông Chí sang đầu Hạ Chí thì dùng Cục Dương cho Nhật Kể. Thái Ất Thần Kinh chép ngoài Thời Kể thì không dùng Cục Âm cho các Kể khác. (Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là dùng Nhật Kể để xem ngày ra quân thì có chia ra Độn Âm Cục và Độn Dương Cục). Về Thiên Văn và Khí Hậu thì bắt đầu từ Đông Chí đến đầu Hạ Chí khí dương bắt đầu sinh và phát triển đến cực thịnh. Hạ Chí đến đầu Đông Chí thì khí Âm bắt đầu hình thành và phát triển đến cực thịnh. Cho nên mới có cái lý chia ra xen hai kiểu Độn Cục Âm hay Dương như trên. Riêng về cái này, tôi không dám bảo ai đúng ai sai, chỉ xin lần lượt trình bày cả hai cách để mọi người cùng suy nghĩ, tự đoán cho mình xem cái nào đúng hơn. 1.2 Cách tính: Cách tính như sau từ sau tiết Đông Chí của năm trước đó chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính. Đếm từ ngày Giáp Tý đó đến NGÀY SINH của mình được bao nhiêu ngày gọi là số TÍCH NHẬT. Ví dụ: Nam sinh ngày 17 tháng 1 năm 1980 ( Âm Lịch) - Bát Tự sẽ là : Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi +Đổi ra Dương Lịch là ngày 3 tháng 3 năm 1980. +Ta thấy ngày ĐÔNG CHÍ gần nhất trước ngày 3/3 năm 1980 là ngày 22 tháng 12 năm 1979. Từ ngày Đông Chí này ta tìm ngày Giáp Tý gần nhất là ngày 23/12 năm 1979. +Như vậy ngày 23/12 năm 1979 là mốc để tính Tích Nhật. Ta tính từ ngày 23/12 đến ngày 3/3 thì có tất cả là 72 ngày. Như vậy TÍCH NHẬT là 72. +Lấy TÍCH NHẬT chia cho 72, số thành cộng với 1 là số Nguyên, số dư là số Cục. Như trường hợp trên, 72 chia 72 được 0 dư 72 -> như vậy là vào cục 72 - Nguyên thứ nhất. TÍCH NHẬT là nòng cốt của phép Nhật kể để an các sao trong Quẻ Ất, phải tính rất cẩn thận, nếu sai coi như toàn bộ sai. Một lá số Thái Ất bao gồm 16 cung: có 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi và thêm 4 cung Càn nằm chen giữa Tuất và Hợi, Cấn nằm giữa Sửu và Dần. Tốn nằm giữa Thìn và Tỵ, Khôn nằm giữa Mùi và Thân. Bốn cung Càn, Cấn, Tốn , Khôn chính là bốn góc của Lá Số Thái Ất. Trên 16 cung này lần lượt ghi tên 16 Thần của môn Thái Ất ( tên của 16 Thần, cũng như vị trí đóng xin xem Hình Vẽ). 16 cung này được chia ra làm các cung Chính Thần vị và các cung Gián Thần vị. Chính Thần Vị gốm 8 cung : CÀN được phối số 1, NGỌ ( ứng quẻ LY) được phối số 2, CẤN được phối số 3, MÃO ( ứng quẻ CHẤN) được phối số 4, cung chính giữa được phối số 5, cung DẬU ( ứng quẻ ĐOÀI) được phối số 6, cung KHÔN được phối số 7, cung TÝ ( ứng quẻ KHẢM) được phối số 8, cung TỐN được phối số 9. ( Xin xem thêm hình vẽ) Các cung Chính Thần Vị cần phải nhớ kỹ đó là các cung nào và được phối với con số nào. Gián Thần Vị gồm các cung Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi và Sửu. Các cung Gián Thần Vị không được phối với số nào cả.Một lá số Thái Ất bao gồm 16 cung: có 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi và thêm 4 cung Càn nằm chen giữa Tuất và Hợi, Cấn nằm giữa Sửu và Dần. Tốn nằm giữa Thìn và Tỵ, Khôn nằm giữa Mùi và Thân. Bốn cung Càn, Cấn, Tốn , Khôn chính là bốn góc của Lá Số Thái Ất. Trên 16 cung này lần lượt ghi tên 16 Thần của môn Thái Ất ( tên của 16 Thần, cũng như vị trí đóng xin xem Hình Vẽ). 16 cung này được chia ra làm các cung Chính Thần vị và các cung Gián Thần vị. Chính Thần Vị gốm 8 cung : CÀN được phối số 1, NGỌ ( ứng quẻ LY) được phối số 2, CẤN được phối số 3, MÃO ( ứng quẻ CHẤN) được phối số 4, cung chính giữa được phối số 5, cung DẬU ( ứng quẻ ĐOÀI) được phối số 6, cung KHÔN được phối số 7, cung TÝ ( ứng quẻ KHẢM) được phối số 8, cung TỐN được phối số 9. ( Xin xem thêm hình vẽ) Các cung Chính Thần Vị cần phải nhớ kỹ đó là các cung nào và được phối với con số nào. Gián Thần Vị gồm các cung Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi và Sửu. Các cung Gián Thần Vị không được phối với số nào cả. Bốn cung Chính Thần Vị là CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN có tình thông thần: +Cung CÀN thông thần với hai cung kẹp hai bên là cung Tuất và cung Hợi +Cung KHÔN thông thần với hai cung Mùi và Thân +Cung CẤN thông thần với hai cung Dần và Sửu +Cung TỐN thông thần với hai cung Tỵ và Thìn. Thế nào là THÔNG THẦN? Nó có nghĩa là bốn cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thông với các cung đã kể trên, sau này ví dụ Mệnh an tại cung THÂN hay cung MÙI thì phải xem cả các Sao đóng tại cung KHÔN vì đó là cung Thông Thần của bản Mệnh, quan trọng như các sao Tọa Thủ trong mệnh không kém tý nào cả. Hay ví dụ như cung xung chiếu của cung Dần là cung Thân không chưa đủ mà nó chính là hai cung THÂN + KHÔN. Xin mọi người lưu ý kỹ, việc về các cung Thông Thần rất dễ thiếu sót khi xem lá số và dể sai vì Tam Hợp và Xung Chiếu nó hơi khác so với Tử Vi. Trong môn Thái Ất không xét đến cung Nhị Hợp. Sau khi đã hình dung rõ ràng về hình ảnh một Lá Số Thái Ất như thế nào, xung chiếu, tam hợp chiếu và đặc biệt là khái niệm về các cung Thông Thần, chúng ta mới có thể đi vào an các sao của Thái Ất và bắt đầu luận đo Phép an cung Mệnh Thân: Sau khi in ra Tứ Trụ của Giờ, Ngày Tháng Năm sinh, ta lấy CHI của Tháng Sinh trỏ lên CHI của Năm Sinh đếm theo chiều THUẬN đến CHI của Giờ Sinh, dừng lại ở đâu thì an cung Mệnh tại đó, khi đếm bỏ qua 4 cung CÀN CẤN TỐN KHÔN không kể. Ví dụ như Lá Số đã nói ở trên (17 tháng 1 năm Canh Thân, giờ Hợi) đổi ra Tứ Trụ sẽ là : Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi Lấy CHI của Tháng Sinh là DẦN để lên cung THÂN ( CHI của Năm Sinh). Từ cung Thân kể là DẦN, đếm theo chiều thuận Dần ở cung Thân, Mão ở cung Dậu, Thìn ở cung Tuất, Tỵ ở cung Hợi ( bỏ qua cung CÀN), Ngọ ở cung Tý, Mùi ở cung Sửu, Thân ở cung Dần ( bỏ qua cung CẤN), Dậu ở cung Mão, Tuất ở cung Thìn, Hợi ở cung Tỵ (bỏ qua cung TỐN)-> Mệnh an tại cung TỴ. Sau đó lần lượt Dương Nam, Âm Nữ theo chiều thuận; Âm Nam Dương Nữ theo chiều nghịch lần lượt an 12 cung ( cũng bỏ qua 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN không tính). 1.Mệnh 2.Huynh Đệ 3.Phu Thê 4.Tử Tức 5.Tài Bạch 6.Điền Trạch 7.Quan Lộc 8.Nô Bộc 9.Tật Ách 10.Phúc Đức 11.Tướng mạo 12.Phụ Mẫu Cung an THÂN được an như sau: Xem NGÀY SINH có CHI gì thì an cung THÂN vào cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số Thái Ất. Ví dụ như Lá Số trên sinh ngày Ất Hợi cho nên cung An THÂN an ở cung Hợi. Khác với Tử Vi, cung an THÂN trong môn Thái Ất có thể an tại bất kỳ 1 trong 12 cung. Phép an sao Thái Ất: Thái Ất hành 3 ngày thì qua một cung, lần lượt qua 8 cung Chính Thần Vị , tổng là 24 ngày thì hết một chu trình. Sao Thái Ất được an như sau: +Lấy TÍCH NHẬT chia cho 24 lấy SỐ DƯ +SỐ DƯ này là Số Bị Chia đem chia cho 3, ta thu được Thương Số và Số Dư. +Bắt đầu khởi từ cung CÀN ( cho Dương Cục) chuyển theo chiều thuận và từ cung TỐN ( cho Âm Cục) chuyển theo chiều ngược, lần lượt đi qua các cung CHÍNH THẦN VỊ theo đúng thứ tự số phối của các cung CHÍNH THẦN, không vào cung GIỮA, mổi cung kể 1 lần, đếm đến THƯƠNG SỐ + 1 thì dừng lại và an sao Thái Ất ở đó. Ví dụ TÍCH NHẬT 12. +12 / 24 được 0 dư 12 +Số dư 12 chia 3 được 4 dư 0 Như vậy là Thái Ất đã đi qua 4 cung trong tổng số 8 cung Chính Thần ( chưa hết 1 chu kỳ) và đang ở cung thứ 4 được 3 ngày ( tức ngày cuối cùng). Ta khởi từ cung CÀN ( vì được phối số 1), sau đó đếm đến cung NGỌ ( phối số 2), cung CẤN ( phối số 3) cung CHẤN ( phối số 4) -> an Thái Ất ở cung CHẤN ( tức cung Mão). cho Dương Cục Nếu là Âm Cục chúng ta khởi từ cung TỐN ( phối số 9 ) đếm ngược lại cung có số 8 là cung TÝ, cung có số 7 là cung KHÔN, cung có số 6 là cung DẬU -> đã đi được 4 cung vậy Thái Ất an tại DẬU. Ví dụ 2 TÍCH NHẬT 31 +Lấy 31 chia 24 được 1 dư 7 +Lấy 7 chia 3 được 2 dư 1 như vậy Thái Ất đã đi hết 1 Chu Kỳ 24 ngày và đang ở ngày thứ 7 của Chu kỳ thứ 2. 7 chia 3 được 2 dư 1, như vậy Thái Ất đã ở cung 1 được 3 ngày, cung 2 củng 3 ngày và đang ở cung thứ 3 mới được 1 ngày ( còn 2 ngày nữa mới sang cung thứ 4). Dương Cục : cung thứ nhất là cung CÀN, cung 2 là cung NGỌ -> như vậy Thái Ất đang ở cung CẤN được 1 ngày Âm Cục: cung thứ nhất là cung TỐN, cung 2 là cung TÝ-> như vậy Thái Ất đang ở cung KHÔN được 1 ngày. An sao Văn Xương ( hay còn gọi là THIÊN MỤC) Văn Xương được an như sau: +Tích Nhật chia cho 18 lấy số dư. +Khởi từ cung Thân ( cho Dương Cục) hoặc cung Dần ( cho Âm Cục) chuyển xuôi 16 thần ( nghĩa là đi theo chiều xuôi lần lượt qua 16 cung) , nếu gặp Càn Khôn thì lưu 2 Toán ( cho Dương Cục) , gặp Cấn Tốn thì lưu 2 toán ( cho Âm Cục). Ví dụ: Tích Nhật 82 + 82 chia 18 được dư 10. +Từ cung Thân bắt đầu đếm 1, Dậu là 2, Tuất là 3 , đến cung CÀN phải lưu 2 Toán cho nên đếm 4 và 5, Hợi là 6, Tý là 7, Sửu là 8, Cấn là 9, Dần là 10-> an Văn Xương tại cung DẤN +Nếu là Âm Cục thì từ cung Dần đếm là 1, Mão là 2, Thìn là 3, TỐN phải lưu hai Toán cho nên đếm 4 và 5, Tỵ là 6, Ngọ là 7, Mùi là 8 , Khôn là 9, Thân là 10 -> an Văn Xương tại THÂN An sao Kể Thần ( hay còn gọi là Văn Kể hoặc Kể Mục) Kể Thần được an như sau: +Tích Nhật chia cho 12 lấy số dư. +Khởi cung Dần ( cho Dương Cục), cung Thân ( cho Âm Cục) lần lượt đi theo chiều nghịch qua 12 cung ( bỏ 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn), đi hết số dư dừng lại thì an Kể Thần. Ví dụ: Tích Nhật 82 ( như trên) +82 chia 12 dư 10 +Khởi từ cung Dần kể là 1, đếm theo chiều nghịch đến Sửu là 2, Tý là 3, Hợi là 4, Tuất là 5, Dậu là 6, Thân là 7, Mùi là 8, Ngọ là 9, Tỵ là 10 -> an Kể Thần tại Tỵ. +Nếu là Âm Cục khởi từ cung Thân là 1, đếm theo chiều nghịch đến Mùi là 2, Ngọ là 3, Tỵ là 4, Thìn là 5, Mão là 6, Dần là 7, Sửu là 8, Tý là 9 , Hợi là 10-> an Kể Thần tại Hợi An sao Thủy Kích ( hay còn gọi là KHÁCH MỤC) Sao Thủy Kích an dựa vào hai sao Văn Xương và Kể Thần. +Tìm trên Lá số xem Văn Xương và Kể Thần ở cung nào. +Từ cung có Kể Thần đếm theo chiều thuận đến cung có Văn Xương xem tất cả có bao nhiêu cung ( khi đếm phải tính luôn cả 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn). +Khởi từ cung Cấn đếm theo chiều thuận đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ( ở đó) -> dùng cho Dương Cục +Khởi từ cung Thân đếm theo chiều nghịch đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ở đó -> dùng cho Âm Cục Ví dụ : như trên Tích Nhật 82 , ta đã tìm được Văn Xương an ở cung Dấn. Và Kể Thần an ở cung Tỵ. +Từ cung Tỵ đếm theo chiều thuận đến cung Dần thì có tất cả là 13 cung. Tỵ, Ngọ, Mùi, Khôn, Thân, Dậu, Tuất, Càn, Hợi, Tý, Sửu, Cấn, Dần. +Từ cung Cấn chuyển theo chiều thuận 13 cung sẽ đến cung CÀN-> an Thủy Kích ở CÀN Đối với Âm Cục ta cũng làm tương tự như trên, nhưng Thuỷ Kích khởi từ cung THÂN chuyển ngược. An sao Kể Định ( hay còn gọi là Định Mục): Muốn xác định Kể Định phải dựa vào Văn Xương, Thái Tuế và Thần Hợp: +Sinh vào NGÀY nào thì an Thái Tuế tại cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số. +Tìm ngày NHỊ HỢP với NGÀY SINH và an vào cung đó Thần Hợp. +Từ cung an Thần Hợp đếm theo chiều thuận đến cung an sao Văn Xương xem có bao nhiều cung ( khi đếm phải đếm luôn cả 4 cung CÀN KHÔN CẤN TỐN). +Từ cung an Thái Tuế đếm đi theo chiều thuận bấy nhiêu cung như đã tính ở bước 2 , dừng lại ở đâu thì an Định Mục ở đấy. Ví dụ : Tích Nhật 82 tức sinh ngày Ất Dậu +An Thái Tuế tại Dậu +Cung Nhị Hợp với cung Dậu là cung Thìn-> an Thần Hợp tại Thìn +Như đã biết, Văn Xương an ở cung Thần. +Từ cung Thìn đến cung Thân theo chiều thuận gồm có 7 cung +Khởi từ cung Dậu theo chiều thuận 7 cung sẽ đến cung Cấn-> an Định Mục tại Cấn Toán Chủ và hai sao Đại Tướng Chủ, Tham Tướng Chủ: Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ là hai tướng phụ tá của Chủ Mục. Nó nắm quyền binh sinh sát trong nội phủ, cai quản binh quyền ở gần Vua. Để an hai vị Tướng này phải tính Toán Chủ. Toán Chủ được tính như sau: +Xác định Thái Ất và Văn Xương đang ở các cung nào cung nào. +Đi theo chiều thuận từ Văn Xương đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất, và cộng toàn bộ những chữ số được gán cho các cung CHÍNH THẦN ( xem ảnh lá số) lại, được bao nhiêu đó là Toán Chủ. Lưu ý nếu Văn Xương đứng ở cung CHÍNH THẦN thì chỉ tính cung Chính Thần, các cung Gián Thần bỏ qua. Nếu Văn Xương đứng ở cung GIÁN THẦN thì chỉ cung Gián Thần nơi Văn Xương đứng tính là 1 rồi cộng với các cung CHÍNH THẦN khác, các cung GIÁN THẦN còn lại cũng bỏ qua. Ví dụ như trên ta tính được Thái Ất an ở Tốn, Văn Xương ở Thân ( Nhật Kể 72) +Theo chiều thuận từ Văn Xương đến Thái Ất thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung MÃO có biệt số là 4. +Văn Xương ở Thân là cung GIÁN THẦN như vậy tính là 1, sau đó các cung CHÍNH THẦN còn lại từ THÂN -> MÃO là DẬU có biệt số 6, CÀN có biệt số 1, TÝ có biệt số 8 CẤN có biệt số 3. +Cộng hết lại : 1 + 6 + 1 + 8 + 3 + 4 = 23. Như vậy Toán Chủ là 23. Sau khi tính được Toán Chủ nếu lớn hơn 10, 20, 30 thì bỏ chứ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Xem chữ số này là số mấy thì an Đại Tướng Chủ vào cung có số tương ứng. Ví dụ Toán chủ được 15 , bỏ số 1 đi còn lại số 5, số 5 là số của cung Giữa-> an Đại Tướng Chủ ở cung giữa. Toán chủ được 27, bỏ đi số 2 còn lại số 7, số 7 là số của cung KHÔN-> an Đại Tướng Chủ ở KHÔN Toán chủ được các số tròn chục như 10, 20, 30, 40 ,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục. Ví dụ Toán chủ được 10, bỏ số 0 đi còn lại số 1, số 1 là số của cung CÀN-> an Đại Tướng chủ ở cung CÀN Sau khi an Đại Tướng Chủ, ta lấy số của cung an Đại Tướng Chủ nhân 3 lên, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi chữ số hàng chục, chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, xem chữ số này ứng với cung nào thì an Tham Tướng Chủ vào cung đó. Ví dụ Đại Tướng Chủ ở cung giữa mang số 5. Lấy 5 * 3 = 15, bỏ 1 còn số 5-> Tham Tướng Chủ cũng ở cung giữa. Đại Tướng Chủ ở cung Khôn mang số 7. Lấy 7* 3= 21, bỏ số 2 còn số 1-> an Tham Tướng Chủ ở cung CÀN. Toán Khách và hai Khách Tướng : Đại Tướng Khách, Tham Tướng Khách: Toán Khách được xác định như sau: +Xem trên bản đồ Thái Ất thấy Thuỷ Kích đóng ở cung nào, kể từ cung này theo chiều thuận, đếm đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất. +Cộng toàn bộ những số ở các cung CHÍNH THẦN đã đi qua, bỏ qua các cung GIÁN THẦN, nếu Thuỷ Kích nằm tại cung Gián Thần thì chỉ tính cung Gián Thần này 1, các cung Gián Thần khác đều bỏ qua. Kết quả được bao nhiêu chính là Toán Khách. Ví dụ: Thuỷ Kích đóng tại cung Khôn, Thái Ất đóng tại cung Tốn. Theo chiều thuận ta thấy cung CHÍNH THẦN gần cung TỐN nhất là cung CHẤN ( Mão). Thuỷ Kích đóng tại cung Chính Thần cho nên bỏ qua hết các cung Gián Thần, đi từ cung KHÔN đến cung CHẤN sẽ đi qua các cung CHÍNH THẦN sau ĐOÀI, CÀN, KHẢM, và CẤN. Cộng hết các số phối tại các cung Chính Thần lại ta được: 7+6+1+8+3+4=19-> Toán Khách là 19. Cũng như trên nhưng nếu Thuỷ Kích nằm ở cung Mùi, thì do Mùi là cung Gián Thần nên tính thêm là 1, còn các cung Gián Thần khác đều bỏ qua hết, và chúng ta được Toán Khách là 20. Sau khi tính được Toán Khách chúng ta an hai vị Khách Tướng là Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách. Toán Khách nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Nếu Toán Khách được các số tròn chục 10, 20, 30,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục. Sau đó an Đại Tướng Khách vào cung Chính Thần có số tương ứng. Ví dụ nhu trên ta tính được Toán Khách 19, bỏ 1 còn 9 như vậy Đại Tướng Khách an tại cung mang số 9 là cung TỐN. Lấy số cung của cung an Đại Tướng Khách nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, an Tham Tướng Khách vào cung có số tương ứng vừa tính được. Ví dụ ta thấy ở trên Khách Đại Tướng an ở cung 9, lấy 9 nhân 3 = 27, bỏ 2 còn 7-> an Tham Tướng Khách tại cung mang số 7 là cung KHÔN Toán Kể - Kể Đại Tướng, Kể Tham Tướng: Bắt đầu từ cung an Kể Thần đi theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất: +Nếu Kể Thần đóng tại cung Chính Thần thì cộng tất cả các số gán cho các cung CHÍNH THẦN kể từ cung Kể Thần đóng đến cung Chính Thần gần Thái Ất nhất, các cung Gián Thần bỏ qua. +Nếu Kể Thần đóng tại cung Gián Thần thì tính cung Gián Thần này là 1 , các cung Gián Thần khác bỏ qua và làm như bước trên. Ví dụ: Thái Ất đóng tại cung CẤN, Kể Thần đóng tại cung Tuất. +Theo chiều thuận thì cung Chính Thần gần Thái Ất nhất là cung KHẢM biệt số 8. +Cung Tuất là cung Gián Thần, cho nên tính là 1, sau đó cung CÀN là Chính Thần được 1, cung Khảm được 8-> Toán kể là 1+1+8=10. Khi tính được Toán Kể , nếu là các số tròn chục như 10,20,30,40 thì bỏ hàng đơn vị lấy hàng chục, nếu là số không tròn chục thì bỏ hàng chục lấy hàng đơn vị. An Kể Đại Tướng và cung CHÍNH THẦN có biệt số tương ứng vừa tìm được ở bước trên. Lấy biệt số cung Kể Đại Tướng nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi hàng chục chỉ lấy hàng đơn vị, và an Kể Tham Tướng vào cung CHÍNH THẦN tương ứng với số vừa tìm được. Ví dụ: + Ở trên ta tính Toán Kể la 10, như vậy bỏ 0 lấy 1, 1 là biệt số của cung CÀN-> an Kể Đại Tướng vào cung CÀN + Lấy 1*3 = 3, như vậy an Kể Tham Tướng vào cung có mang biệt số 3 là cung CẤN. Toán Định - Định Đại Tướng - Định Tham Tướng: Tìm Định Mục an tại cung nào, đếm theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất. Công toàn bộ biệt số của các cung CHÍNH THẦN vị khi đi qua, nếu Định Mục ở cung Gián Thần thì tính là 1, các cung Gián Thần khác bỏ qua, nếu Định Mục ở cung Chính Thần thì bỏ toàn bộ các cung Gián Thần không kể. Ví dụ: +Định Mục đóng tại cung Dần, Thái Ất đóng tại cung Khôn. +Theo chiều thuận từ cung Dần thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung Ngọ (LY) có số 2. +Định Mục ở cung Gián Thần ( Dần) cho nên tính là 1, lần lượt đi qua Mão (Chấn) (3), TỐN (9) , NGỌ (LY) (2)-> Toán Định là 1+3+9+2=15 Tính Toán Định xong nếu lớn hơn 10 thì bỏ hàng chục chỉ dùng hàng đơn vị, nếu là số tròn chục thì bỏ hàng đơn vị mà lấy hàng chục. An Định Đại Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được. Lấy số cung của Định Đại Tướng nhân với 3, lớn hơn 10 thì chỉ dùng hàng đơn vị, bỏ hàng chục, an Định Tham Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được. NGŨ PHÚC: Ngũ Phúc là đệ nhất phúc tinh, đi đến đâu nơi đấy không binh cách, có nó nơi Thân Mệnh thì Phúc, Lộc, Thọ, Khang Ning. Ngũ Phúc ở trong tòa Tử Vi Viên, đi lần lượt qua 5 cung là CÀN, CẤN, TỐN, KHÔN và cung GIỮA. Mỗi cung lưu trú 45 ngày. Dùng 225 ngày để đi hết một chu kỳ Muốn an sao Ngũ Phúc ta làm theo các bước sau đây: +Tích Nhật cộng với doanh sai là 115. +Lấy kết quả tìm được chia cho 225 , lấy số dư. +Lấy số dư vừa tìm được chia 45, tìm Thương Số. Thương số bằng 1 -> Ngũ Phúc ở cung CẤN Thương số bằng 2 -> Ngũ Phúc ở cung TỐN Thương số bằng 3 -> Ngũ Phúc ở cung KHÔN Thương số bằng 4 -> Ngũ Phúc ở cung Giữa Thương số bằng 5 hoặc 0 -> Ngũ Phúc ở cung CÀN Ví dụ: Tích Nhật 255 +Lấy 255 + 115 = 370 +370=225 * 1 + 145-> Số dư của phép chia 370 cho 225 là 145 +Lấy 145 đem chia cho 45 được 3 dư 10. +Thương số là 3-> Ngũ Phúc an tại cung KHÔN. TAM CƠ ( hay là Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ) Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ đi qua 12 cung ( Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), không đóng tại 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN , TỐN. Quân Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 30 ngày, mất 360 ngày để đi hết một chu kỳ. Thần Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 3 ngày, mất 36 ngày để đi hết một chu kỳ. Dân Cơ ở cung Tuất, mỗi một cung ở một ngày, mất 12 ngày để đi hết một chu kỳ. Đế an Tam Cơ, chúng ta làm một bước chung như sau: Lấy Tích Nhật thêm doanh sai 250. +Với Quân Cơ: lấy số vừa tính được ở trên chia cho 360 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 30 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1), dừng lại ở cung nào thì an sao Quân Cơ tại cung đó. +Với Thần Cơ: lấy số Tích Nhật thêm 250, chia 36 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 3 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1) , dừng lại ở cung nào thì an sao Thần Cơ tại cung đó. +Với Dân Cơ: lấy Tích Nhật thêm 250, chia 12 lấy số dư, khởi từ cung Tuất là 1, đếm theo chiều thuận đến Số Dư, dừng lại ở cung nào thì an Dân Cơ ở cung đó. __________________ 4 vị Thần hung : Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Trực Phù: +Bốn vị Thần hung này lần lượt đi qua 9 cung Chính Thần, Giáng Cung, Minh Đường, Ngọc Đường. Sách Thái Ất Thần Kinh chép : Giáng Cung ở cung Tỵ, Minh Đường ở cung Thân, Ngọc Đường ở cung Dần; sách của Tàu chép Giáng cung là cung 9 TỐN, Minh Đường là cung 1, Ngọc Đường là cung 7. Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh. +Bốn vị Thần Hung này hành qua 12 cung, mỗi cung ở 3 năm, như vậy cần 36 năm để đi hết một chu kỳ. +Để an chính xác bốn vị Thần Hung chúng ta làm như sau: .Các bạn nên viết ra tờ giấy theo thứ tự sau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Tỵ Thân Dần .Lấy Tích Nhật chia cho 36 lấy số dư. .Số dư đem chia cho 3 lấy Thương số và Dư số (2) .Tứ Thần khởi từ cung 1 và đếm là 1, theo chiều thuận lần lượt đi qua các cung đã viết theo thứ tự như trên, đến (Thương số +1) dừng lại ở cung nào an Tứ Thần vào cung đó. .Thiên Ất khởi cung 6, Địa Ất khởi cung 9, Trực Phù khởi cung 5 và cũng đếm hoàn toàn như vậy, hết vòng thì quay lại. Ví dụ : Tích Nhật được 39 +Lấy 39 chia 36 dư 4 +3 chia 3 được 0 dư 3 +Như vậy Tứ Thần an ở cung 2, Thiên Ất ở cung 7, Địa Ất cung Tỵ, Trực Phù cung 6. __________________ Tiểu Du và Tiểu Du Thiên Mục: Riêng trong phép Thái Ất Nhật Kể, Tiểu Du luôn đồng cung Thái Ất, và nó chính là Thái Ất. Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, nhưng vị trí đứng thì khác: +Tích Nhật chia 18 lấy số dư +Khởi từ cung KHÔN đếm theo chiều thuận đến hết số dư, dừng lại ở đâu, an Tiểu Du Thiên Mục ở đó. (Khi qua CÀN hay KHÔN phải tính 2 lần). Sau này khi luận về Mệnh, Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, có nó nhập miếu ở Mệnh, mà trong 4 Trụ chính , Thân Mệnh lại có thêm Văn Xương nữa là cách hai Văn Xương đi cùng nhau. Nếu cả hai sao này đều nhập miếu thì tài năng vượt trội hẳn người thường, học một biết mười, sau này là trụ đá của nhà nước. __________________ Ngoài những sao đã an ở trên, còn có một sao nữa là PHI PHÙ nó là ác thần, sao này chỉ có bảng liệt kê vị trí đứng của nó, chứ cách an ra sao thì không thấy nói đến ( tài liệu gốc bị mất mấy trang nói về cách an sao Phi Phù), cho nên bạn nó có điều kiện thì tìm bảng này ở trong Thái Ất Thần Kinh để tự an sao PHI PHÙ cho mình. Như vậy sau khi an xong chúng ta thấy: Sao chủ là THÁI ẤT và TIỂU DU. Đi theo nó có tất cả 4 Mục ( 4 Mắt) + Văn Xương ( và Tiểu Du Thiên Mục) hay là Chủ Mục nó là phụ tướng của Thái Ất, soái lãnh binh quyền ở gần Vua. Theo hầu nó có Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ +Kể Thần hay là Kể Mục là con rồng đuốc của Thái Ất, đo độ số của Thái Ất ở chốn U Minh, là thần hiệu lệnh truyền đạt ý chỉ của Trời. Nó dùng để trợ CHỦ, nắm quyền giám sát. Theo hầu nó có Kể Đại Tướng và Kể Tham Tướng. +Thuỷ Kích hay là Khách Mục giữ vai trò khích bác bên ngoài, đến Thượng Đế cũng phải e dè. Là Hung Thần chủ tai hoạ binh đao hạn hán. Nắm giữ uy quyền sinh sát và huỷ diệt. Theo hầu nó có Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách. +Kể Định hay là Định Mục là phụ tướng của Thái Tuế, đo lường độ số hiện tại của Thái Ất, nó nắm vai trò trợ khách. Theo hầu nó có Định Đại Tướng và Định Tham Tướng. Như vậy Thái Ất là Vua thống cả bầu trời, đứng trước sao Bắc Thần thụ mệnh của Thiên Đế cai quản về thiên tai lũ lũt dịch bệnh..... liên quan đến nó có 4 MỤC, mỗi Mục chia nhau nắm giữ những phận sự khác nhau, tương hỗ hoặc tương phản nhau. Hoà thì CÁT mà không HOÀ thì hung. Cho nên thuật Thái Ất chú trọng nhất vào con TOÁN, Toán Hoà thì Cát, Toán không hoà thì Hung. Toán Hoà dầu có bị Yểm, Bách, Tù, Giam, Kích cũng ít tai nạn, Toán Không Hoà dầu Mệnh có quý thần cũng không bền lâu. Ngũ Phúc là chòm sao Thiên Hoàng Đại Đế nằm trong Tử Vi Viên, chủ ban ân, giáng phúc. Nơi nào gặp Thuỷ Kích hay Đại Du hình sát nếu có Ngũ Phúc thì tai ương bay sang phương đối xung. Mệnh Thân có nó chủ Phúc Lộc Thọ Khang Ninh. Quân Cơ nằm gần sao Bắc Thần trong Toàn Tử Vi Viên ( trong Quân Cơ có sao Tử Vi của chòm Tiểu Hùng) chủ phúc đức, quyền hành, phú quý. Thân Mệnh, hay 4 trụ chính có nó là tối quý. Thần Cơ nằm trong toà Thái Vi Viên, chủ về phúc đức, thông minh, tài năng an bang định quốc. Nhập miếu ở Mệnh Thân hay bốn trụ chính là quan đến Tam Công. Dân Cơ nằm trong toàn Thiên Thị Viên, có nó ở Mệnh Thân hay 4 trụ chính tuy không làm quan Thanh Hiển xong cũng là phú gia địch quốc ít ai bì. Cung Tài Bạch có Dân Cơ là tối quý. Sau đây tôi chấm dứt về phần an sao. Bắt đầu từ lần sau xin nói về thế thức Yếm, Tù Bách Cách, về con Toán của Thái Ất. Hy vọng khi đọc xong các bạn đã có thể tự an cho mình một Lá Số Thái Ất __________________ Thái Ất và các thể thức biến hóa: Thần Thái Ất động không ngừng, cứ 3 đơn vị thời gian rời 1 cung, hành 1 chu kỳ hết 24 đơn vị thời gian. Trong quá trình di chuyển tất không thể không gặp các cách sau đây: YẾM: + Thủy Kích cùng cung Thái Ất gọi là Yểm. Gặp Thái Tuế thì cha con dễ ly tán hoặc bất hòa không ở chung với nhau. Hạn Dương Cửu mà gặp thì nhà dễ bị trộm cắp hoặc có việc liên quan đến pháp luật hình ngục. + Nếu trong lá số bị Yểm thì khi hạn đến cung đó nếu rơi vào lúc tuổi trẻ sẽ bị nhọt sảy, khó nuôi, đời sống cực khổ, rượu chè. Rơi vào lúc trung tuần (từ ngoài 40) thì phá tán sản nghiệp, lúc tuổi già thì bệnh tật ốm đau nặng. KÍCH: +Thủy Kích ở trước cung Thái Ất là Ngoại Kích, Thủy Kích ở sau cung Thái Ất là Nội Kích. +Nếu Thủy Kích nằm ở cung CHÍNH THẦN và cách Thái Ất 1 cung GIÁN THẦN thì gọi là CUNG KÍCH. +Nếu Thủy Kích nằm ở cung GIÁN THẦN và sát ngay cung Thái Ất thì gọi là THỜI KÍCH. +Thái Tuế mà gặp thì gia đạo xảy ra lục đục, nhà cửa đất đai bị cháy, bị mất cắp. +Số hạn mà gặp thì quan chức mất hết, tính mạng nguy, bệnh tật liên miên. +Cung Kích tai nạn đến chậm, Thời Kích tai nạn đến nhanh. BÁCH +Thủy Kích cùng 8 Tướng ở trước hay sau Thái Ất gọi là BÁCH. +Thái Tuế mà gặp tai họa đều phát. Hạn gặp thì tổ nghiệp tan tành, phá gia bại sản. CÁCH +Thủy Kích ở cung Xung chiếu với Thái Ất gọi là CÁCH, Thủy Kích cùng với 4 Tham Tướng ở cung xung chiếu với Thái Ất cũng gọi là CÁCH. +Thân, Mệnh bị Cách là có họa lớn. HẠN mà gặp tai họa hình ngục đếu phát. Nếu Thủy Kích lại cùng Thái Tuế xung Thái Ất thì thê thiếp không vẹn toàn. +Người già mà gặp hạn này tất phải đoán là hạn chết. TÙ +Tám Tướng cùng Văn Xương hoặc chỉ Tám Tướng cùng cung Thái Ất gọi là TÙ. +Hạn Dương Cửu mà gặp nếu lại ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, Tốn, Càn thì tất phát bệnh điên cuồng loạn trí. +Hạn Bách Lục mà gặp cùng Thái Tuế, Toán lại không hòa tất tật bệnh kinh quái, hại vợ hại con. TÍNH +Văn Xương cùng Thái Ất cùng cung gọi là TÍNH ( Chặn). Hai tướng Khách cùng cung Văn Xương, hoặc hai Tướng Chủ gọi là Khách chặn chủ, hai tướng Chủ ở cùng cung Thủy Kích hoặc hai Tướng Khách gọi là Chủ chặn Khách. +Ngày giờ mà gặp lục thân không hòa, gia đình bất an. +Số hạn mà gặp nếu rơi vào cung Mệnh là hạn chết, rơi cung Cha Mẹ là mất cha mẹ, vào cung Thê Thiếp mà mất vợ mất chồng, vào cung Quan là mất quyền. ĐỐI +THái Ất và Văn Xương đối nhau gọi là ĐỐI, Khách Chủ 4 Tướng mà đối cung Thái Ất cũng là ĐỐI +Thủy Kích đối cung Văn Xương gọi là GIAM. +Hạn mà gặp nếu Toán không hòa thì bệnh nặng, có khi mạng vong. __________________ TOÁN HOÀ - TOÁN KHÔNG HOÀ : Trong môn Thái Ất Nhật Kể, Toán tuy không đóng vai trò quan trọng sống còn như trong Thái Ất thời kể, nhưng không thể xem thường nó được. Mệnh Thân rất tốt nhưng Toán không hoà, hạn đến các cung có Yểm, Kích, Cách, Bách thì hoạ đến thân, quan chức mất hết, có khi vong mạng. Toán hoà, Mệnh Thân tốt dù có bị Yểm Kích Cách Bách cũng là tai nạn nhỏ dễ tránh. 1. Toán như đã trình bày từ trước gồm Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khánh và Toán Định. Để xem xét HOÀ hay không HOÀ cần phải để ý bốn Mục : Chủ Mục ( Văn Xương) cho Toán Chủ, Kể Mục (Kể Thần) cho Toán Kể, Khách Mục ( Thuỷ Kích) cho Toán Khách, Định Mục cho Toán Định. +Khi các MỤC đóng ở cung CHÍNH THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Dương, đóng ở các cung GIÁN THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Âm. +Chủ Mục đóng tại cung Dương, Toán Chủ là số CHẴN; Chủ Mục đóng tại cung Âm, Toán Chủ được số LẺ thì ta gọi Toán Chủ HOÀ. Chủ Mục đóng tại cung Âm , Toán chủ được Chẵn; hay là Chủ Mục đóng tại cung Dương mà Toán Chủ được Lẻ thì ta gọi TOÁN CHỦ không HOÀ. Đối với Kể Mục, Khách Mục, Định Mục xét hoàn toàn tương tự như trên. 2. Sau khi đã xem xét hết 4 MỤC, thì xem đến Thái Ất. Thái Ất đóng cung Dương, Toán được Chẵn hay Thái Ất đóng cung Âm, Toán được Lẻ ta nói Toán Hoà, nếu không như thế thì là Toán Không Hoà. Lần lượt xét qua Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định để biết Hoà hay không Hoà Toán nếu thoả mãn được cả 2 điều kiện trên là rất tốt, nếu chỉ thoả điều kiện 1 mà không thoả 2 thì vẫn coi là TOÁN HOÀ, điều kiện 1 bị vi phạm là Toán không HOÀ. Cho nên Điều Kiện 1 là quan trọng hơn điều kiện 2. Khi Toán đã HOÀ, lại chia ra 3 loại: Thượng Hoà, Trung Hoà, Hạ Hoà +Thượng Hoà là các Toán mang số 14, 18 : cả đời vinh hiển, làm quan cao, giàu có, đời sống phong thịnh, đất trời khánh hội. +Trung Hoà là các Toán mang số 23,29,32,36: phúc lộc dày, tai nạn không gặp. +Hạ Hoà là các Toán mang số 12,16,21,27,34,38: tài lộc đầy đủ, ít tai nạn Được 3 loại Toán Hoà này thì dù có vận hạn xấu, cũng ít lo tai nạn, đổi hung hoá cát. Khi Toán không HOÀ, ta chia ra xét những trường hợp sau: +Toán được 13,19,31,37 gọi là toán tạp trùng dương. Gặp phải Toán này là người tẹp nhẹp, chậm chạp, gặp Vận Hạn xấu, hạn Dương Cửu, hạn Bách Lục chắc chắn gặp kiện cáo, hình ngục tù tội. Nếu không cũng phải gió cắn răng mà chết. +Toán được 24,28 gọi là toán tạp trùng âm. Gặp phải Toán này là người phiêu lưu, gặp vận số xấu thì mất của, mất việc, nếu hạn quá xấu có thể mạng vong. +Toán được 11,17 gọi là toán nội âm trùng dương. Gặp phải Toán này là người cuộc đời gặp nhiều trở ngại. Nếu bị Ép, Yếm tất phát cuồng, lâm vào hình ngục. Hạn Dương Cửu, Bách Lục tất không tránh khỏi tai hoạ. +Toán được 33, 39 gọi là toán thuần dương. Gặp phải Toán này là người hung bạo. Gặp hạn Dương Cửu, Bách Lục tất tai nạn tổn hao điền sản của cải mạnh mẽ, nếu hạn quá xấu tất chết nơi tù ngục. +Toán được 22, 26 gọi là toán thuần âm. Gặp phải Toán này là người quá nhu nhược, vận hạn xấu tất vướng vào tranh cãi, kiện tụng. Người nữ mà gặp là phường đa dâm, bất chính. +Toán vô thiên: nghĩa là Toán được số từ 1 đến 9 ( chưa tròn chục) : khắc hại cha, lúc bé ở gần khiến cho cha phá sản, mất nghiệp. +Toán vô địa: nghĩa là toán được 1-> 4; 11->14; 21->24; 31->34 ( chữ số hàng đơn vị nhỏ hơn 5): khắc hại mẹ, sau này lớn lên khắc hại vợ, phá bỏ hết sản nghiệp. +Toán vô nhân: nghĩa là toán được các số tròn chục 10, 20, 30, 40: có nghịêp nhưng phá bỏ hết, có quan không chính, việc làm hư dối, dai dẳng, ăn mặc không đủ. Chú thích: + 1-> 4 nghĩa là 1, 2, 3, 4. 11->14: 11,12,13,14;..... +Khi xem xét Toán Hoà hay không hoà phải xem xét cẩn thận từng bước như trên lần lượt cho Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định. Nếu Toán Hoà, phải xem mình được Thượng, Trung hay Hạ Hoà, nếu không nằm trong số đó thì chỉ là bình thường. Nếu Toán không hoà, phải xem mình bị vướng vào những loại nào, nếu không vào các loại đã kể trên thì củng chỉ là bình thường, không đáng lo lắm. +Toán vô thiên, vô địa, vô nhân gọi chung là Toán TAM TÀI KHÔNG, nếu vận hạn đến cung có Yểm, Kích, Cách, Tính lại có Sát Thần hãm là những người lục thân xa lìa, phá tán tổ nghiệp, làm điều bất chính. Mệnh dù có Cát Thần, Phúc Thần đến cứu giúp cũng vẫn không khỏi gian nan vất vả, khắc hại mẹ cha, sau này lìa xa bản quán. __________________ VẬN HẠN Vận Hạn trong môn Thái Ất rất phức tạp, cho nên tôi sẽ trình bày từ từ từng bước một các loại Vận Hạn, và phân tích kỹ lưỡng ảnh hưởng của nó. Vận Hạn trong môn Thái Ất bao gồm Hạn Dương Cửu, Hạn Bách Lục, Hạn Lưu Niên, Hạn Lộc và Hạn Mã. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến Hạn Dương Cửu và Hạn Bách Lục. Để luận đoán vận hạn đòi hỏi phải có kiến thức về Kinh Dịch và 64 Quẻ Dịch. Cho nên điều kiện là đã biết và hiểu 64 quẻ Dịch. Nếu không thì không xem nổi Vận Hạn trong môn Thái Ất. 1. Hạn Dương Cửu Để tính hạn Dương Cửu chúng ta làm theo các bước sau: +Tìm CAN của NGÀY SINH và xem CAN này hoá thành HÀNH nào trong Ngũ Hành . Giáp Kỷ hoá Thổ . Ất Canh hoá Kim . Bính Tân hoá Thuỷ . Đinh Nhâm hoá Mộc . Mậu Quý hoá Hoả +Sau đó tìm vị trí TRƯỜNG SINH của HÀNH này đóng ở cung nào thì dùng cung đó để khởi tính Hạn. Trong HÀ ĐỒ: Trời lấy 1 mà sinh Thuỷ, lấy 2 mà sinh Hoả, lấy 3 sinh Mộc, lấy 4 sinh Kim và lấy 5 sinh Thổ. Cho nên khi đã định được vị trí cung Trường Sinh của Hành hợp hoá Can Ngày, ta khởi như sau: . Hành Thổ thì Trường Sinh ở Ngọ, ở cung Ngọ ghi số 5 . Hành Kim thì Trường Sinh ở Tỵ, ở cung Tỵ ghi số 4 . Hành Thuỷ thì Trường Sinh ở Thân, ở cung Thân ghi số 1 . Hành Mộc thì Trường Sinh ở Hợi, ở cung Hợi ghi số 3 . Hành Hoả thì Trường Sinh ở Dần, ở cung Dấn ghi số 2 Ví dụ: Nam, sinh ngày Mậu Dần. +Mậu hoá HOẢ, Hoả Trường Sinh ở Dần +Bắt đầu từ cung Dần theo chiều THUẬN ( cho con trai), theo chiều NGHỊCH ( cho con gái). Đây là con trai ( trong ví dụ) cho nên sẽ đi theo chiều thuận. Chúng ta ghi ở Dần số 2 ( tức là năm 2 tuổi bắt đầu vào hạn Dương Cửu và hạn ở cung Dần), sang cung Mão ghi số 4 ( tức là từ năm 4 tuổi hạn Dương Cửu bắt đầu đi vào cung Mão),.... cứ tính như vậy lần lượt đi qua 12 cung ( không tính các cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN). Ví dụ: Nữ, sinh ngày Giáp Tý. +Giáp hoá Thổ, Thổ Trường Sinh ở Ngọ. +Ghi ngay ở cung Ngọ số 5. Do là con gái nên đi theo chiều nghịch. Như vậy cung Tỵ ghi số 10,..... tức là ( bắt đầu từ năm 5 tuổi hạn Dương Cửu ở Ngọ), bắt đầu từ năm 10 tuổi hạn Dương Cửu ở Tỵ ,.... * Ghi chú: bản thân tôi nghi ngờ vị trí Trường Sinh của hành Thổ ở Ngọ, đúng ra là nên ở DẦN, nhưng sách ghi nguyên bản như vậy nên tôi chép ra y nguyên không dám sửa chữa. Các bạn dùng kiểm tra Vận Hạn rồi tự điều chỉnh. + Hạn Dương Cửu đến cung nào, nếu gặp Cát Thần Phúc Thần thì đời hoạnh phát. Toán Hoà lại không bị Yểm Kích Cách Bách Tính thì đường lối thênh thang, làm gì cũng suôn sẻ. Trái lại nếu gặp Hung Thần, lại ở 4 cung sau Tý Ngọ Mão Dậu, thì rất hung. Toán Hoà thì tai hoạ đến nhanh mà qua cũng nhanh, Toán không hoà tất thân mang hoạ, rơi vào cung nào cung đó chịu. Như gặp cả Hung Thần và Cát Thần phải chia ra xem Hung Thần đóng ở cung đó là nơi Sinh Vượng hay Tử Tuyệt, nếu đóng nơi Sinh Vượng thì tai hoạ to, đóng nơi Tử Tuyệt thì Hung Thần hết lực không thành hoạ. Cát Thần cũng vậy nếu Vượng Tướng mới hoạnh phát được, chứ còn bị Tử Tuyệt cũng chỉ là cái vỏ không có chất, hữu danh vô thực, không tác dụng cứu giải. __________________ HẠN BÁCH LỤC Để tính hạn Bách Lục chúng ta cần biết sơ về Hà Đồ và số của Ngũ Hành phối trong Hà Đồ. Trong Hà Đồ chúng ta có: +Trời lấy 1 sinh Thuỷ và Đất lấy 6 để thành Thuỷ, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Thuỷ là 6+1=7. Thiên Can Nhâm, Quý; Địa Chi Tý, Hợi thuộc Thuỷ cho nên được phối với số 7. +Trời lấy 2 sinh Hoả và Đất lấy 7 để thành Hoả, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Hoả là 2+7=9. Thiên Can Bính, Đinh; Địa Chi Tỵ, Ngọ thuộc Hoả cho nên được phối với số 9. +Trời lấy 3 sinh Mộc và Đất lấy 8 để thành Mộc, như vậy Tống số SINH THÀNH của Mộc là 3+8=11 Thiên Can Giáp Ất; Địa Chi Dần, Mão thuộc Mộc cho nên được phối với số 11. +Trời lấy 4 sinh Kim và Đất lấy 9 để thành Kim, như vậy Tống số SINH THÀNH của Kim là 4+9=13 Thiên Can Ật, Canh; Địa Chi Thân, Dậu thuộc Kim cho nên được phối với số 13 +Trời lấy 5 sinh Thổ và Đất lấy 10 để thành Thổ, như vậy Tổng số SINH THÀNH của Thổ là 5+10=15 Thiên Can Mậu, Kỷ; Địa Chi Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ cho nên được phối với số 15. Để tính hạn Bách Lục, chúng ta dùng CAN CHI của Giờ Sinh và Ngày Sinh. +Dùng ngày sinh và giờ sinh đổi ra số theo như số phối đã chỉ ở trên cho Địa CHi và Thiên Can cùng ngũ hành nạp âm của Can Chi Ngày, Giờ. Cộng hết tất cả các số lại. +Sau khi tìm ra đem Tổng số trên công với 55 ( số Trời Đất). +Lấy số vừa tìm được đem chia cho 60 lấy phần dư , phần dư này gọi là SỐ CHỊU KHÍ. +Từ NGÀY SINH kể là số 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp đến Số Chiu Khí, dừng lại ở đâu đó là Ngày Chịu Khí. Xem Ngày Chịu Khí có CAN CHI gì và tìm xem CAN của Ngày Chịu Khí hoá hợp thành Ngũ Hành nào và mang số mấy ( về Thiên Can hợp hoá - xin xem lại phần Hạn DƯƠNG CỬU ) +Xem Ngũ Hành hợp hoá của CAN Ngày Chịu Khí Trường SInh ở cung nào thì cung đó là cung khởi tính Hạn Bách Lục. Đại Hạn 10 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều thuận cho Nam, chiều nghịch cho Nữ. Tiểu Hạn 1 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều nghịch cho Nam và chiều thuận cho Nữ. Ví dụ : Nam, sinh ngày Mậu Dần, giờ Canh Thân. Phải tìm hạn Bách Lục?? +Đổi hết CAN CHI của Ngày Giờ Sinh ra số : Mậu là Thổ -> 15 Dần là Mộc -> 11 Mậu Dần nạp âm là Thổ -> 15 Canh là Kim ->13 Thân là Kim -> 13 Canh Thân nạp âm là Mộc -> 11 Lập tổng: 15+11+15+13+13+11=78 +Cộng với số Trời Đất 55 : 78+55=133. +Đem 133 chia cho 60 lấy số dư. 133 =60*2 + 13-> số dư là 13 +Từ Ngày Sinh là Mậu Dần tính là 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp như vậy là Đinh Sửu mang số 2, Bính Tý mang số 3 ,.... cho đến Bính Dần thì thấy mang số 13 = SỐ CHỊU KHí thì dừng lại -> Ngày CHịu Khí là BÍNH DẦN. +BÍNH, TÂN hoá Thuỷ, mang số 1. Thuỷ Trường Sinh ở THÂN. +Như vậy từ cung Thân khởi 1 Tuế. Do là con trai cho nên Đại hạn đi theo chiều thuận và Tiểu Hạn đi theo chiều nghịch. Như vậy từ 1 - 10 tuổi , Đại Hạn Bách Lục ở cung Thân , 11-20 tuổi ở cung Dậu, 21-30 tuổi ở cung Tuất, 31-40 tuổi ở cung Hợi,..... Tiểu Hạn năm 1 tuổi ở cung Thân, 2 tuổi ở cung Mùi, 3 tuổi ở cung Ngọ,..... __________________ PHI LỘC - PHI MÃ Để Tính hạn Phi Lộc và Phi Mã căn cứ vào CAN của Năm Sinh. Xem CAN Năm Sinh hợp hoà thành Hành nào, Hành này Trường Sinh ở đâu thì đó là nơi khởi tính Hạn. Hạn Lộc đi xuôi, hạn Mã đi ngược , cứ 10 năm đi qua 1 cung. Ví dụ : Sinh Năm Quý Hợi. Mậu Quý hoá Hoả , khởi 2 ở cung Trường Sinh của Hoả là Dần. Như vậy từ lúc 2 tuổi đến 11 tuổi hạn Mã ỡ Dần. Từ 12-21 tuổi ở Sửu ,.... Từ 2 đến 11 tuổi hạn Lộc ở Dần, từ 12-21 tuổi ở Mão ,.... Hạn Lộc chủ về phát tài, có lộc. Lộc rơi vào đâu, ở cung đó sẽ có Lộc ăn.Nếu đi với Hung Thần sẽ biểu hiện cho việc mất của ( nếu ở cung Tài), mất nhà đất ( nếu ở cung Điền). Cân nhác Cát Hung để rõ được Lộc hay mất Lộc. Hạn Mã chủ về hanh thông, di chuyển. Nếu cung nhập hạn xấu là chủ tai nạn. __________________ Tôi chỉ trình bày ở đây hạn Dương Cửu , Bách Lục, Phi Mã, Phi Lộc... ngoài ra nhiều dị bản còn có cả Đại Hạn, Tiểu Hạn,.... thực tế ra là chỉ làm cho Thái Ất thêm rắc rối. Bắt đầu từ bài sau, tôi sẽ luận về tính chất các sao của Thái Ất __________________ THÁI ẤT Thái Ất là tôn thần của Thiên Đế, đứng đầu 16 Thần. Nó ở hành 3 năm , 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ 1 cung Thần. Chỉ đóng tại 8 cung Chính Thần và không vào Trung Cung. 3 khoảng đơn vị thời gian này lại chia ra Lý Thiên, Lý Địa, Lý Nhân. Thái Ất hành Lý Thiên thì tạo ra mưa gió, bão lụt , trời trăng đổi vần; hành Lý Địa thì gây ra động đất , sâu bệnh, mùa màng thất bát; hành Lý Nhân thì gây ra tật bệnh, chết người số lượng lớn. Đó là khi xem về Tuế Kể , dựa vào điềm trời báo này mà Vua phải nghiêm chỉnh sửa mình , sửa sang Pháp Luật, thì mưa thuận gió hoà, dân sống yên vui. Ở Kể Ngày, Mệnh Thân có sao Thái Ất chủ công danh, quyền lực, có tư cách lớn với đời. Thái Ất nhập miếu tại Dần, Mão, Hợi, Mùi ; đắc địa tại Tý, Hợi, Thìn, Tuất; hãm tại Thân, Dậu, Ngọ, Tỵ. Thái Ất cư Hợi là Khoa Danh, ở Dần là nơi Vượng địa, ở Mão là nhập miếu. Ví Mệnh Thân ở các cung trên có Thái Ất lại thêm Kể Thần, Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ là người học nghiệp tinh thông, thi cử đỗ đạt, trên đời hiếm có. Thái Ất nhập miếu mà gặp phải Thuỷ Kích là phá cách chủ cuộc đời lận đận khắc hại cha mẹ, duy có hai tuổi Mậu Quý Thái Ất + Thuỷ Kích tại hai cung Dần , Tuất là bậc chân nhân Thiên Tử. Thái Ất gặp Thiên Ất là chủ về văn chương sắc cạnh, hùng hổ chứ không cẩm tú trau chuốt. Thái Ất gặp Ngũ Phúc là bậc anh linh tuấn kiệt, sinh con quý tử, công huân sự nghiệp rạng rỡ. Nhưng nếu ở hai cung Ngọ, Dậu là nơi hãm của Ngũ Phúc và Thái Ất thì cuộc đời thất bại, hoàn toàn là phá cách, chỉ trông mong vào vận hạn để mát mặt một thời gian , kết cục cũng không toàn vẹn. Thái Ất đi cùng Thần Cơ là người có hình dung thần thái, tướng mạo hiền, là bậc siêu quần, nếu có đi tu cũng là bậc chân nhân tiên giả. Nếu có thêm Đại Tướng Chủ và Đại Tướng Khách từ các cung Xung Chiếu và Tam Hợp chiếu vào là bậc sang nơi điện các, không ở ngôi Vua nhưng quyền nghiêng thiên hạ, nắm giữ binh quyền. Thái Ất đi cùng Quân Cơ là bậc văn võ toàn tài , nhưng ăn về Hậu vận, thưở thiếu thời khó khăn. Thái Ât đi với Phi Phù ở cung hãm là người cả đời lêu lổng, hại vợ con. Nếu có Ngũ Phúc thì cuộc đời dễ chịu hơn nhưng vợ con cũng không toàn vẹn. Tóm lại chúng ta thấy THÁI ẤT cũng như Tử Vi, Thái Tuế trong Tử Vi rất cần các Cát Thần đồng cung sẽ là người có tư cách lớn, nắm quyền trong thiên hạ. Ngược lại nếu gặp các Hung Thần thì cũng lẹt đẹt, vướng vào luật pháp tù tội. Ví dụ như Ngày Sinh xung đối với cung an Thái Ất thì ta gọi là Thái Tuế bị xung. Thái Tuế tượng Vua, xung Vua chẳng yên bao giờ , cho nên mệnh bị Xung Thái Tuế là cách cuộc đời gặp nhiều bất mãn, phải đấu tranh cực khổ Ngoài ra khi xem Lá Số Thái Ất phải chú ý kỹ đến 4 Trụ : Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Ví dụ: Nhâm Tý Nhâm Tý N.Đinh Sửu Quý Sửu Khi tính toán sẽ thấy Mệnh an ở Sửu, cung an Thân cũng ở Sửu. Ngoài việc xem xét kỹ cung Mệnh Thân phải chú ý rất kỹ cung Tý nữa ( vì nó là Trụ Năm và Trụ Tháng). Tầm quan trọng của nó không kém gì Mệnh Thân. Phép xem Thái Ất do chú ý cả Mệnh Thân và Bốn Trụ đồng thời Vận Hạn cho nên rất phức tạp. __________________ NGŨ PHÚC Ngũ Phúc nằm trong Tòa Tử Vi Viên hầu Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngũ Phúc nhập miếu tại Thân, Dậu, Thìn, Tuất. Mệnh, Thân có Ngũ Phúc mà Mệnh Thân lại đóng ngay trên ngôi Ngày Giờ , cho hai tuổi Đinh Nhâm là bậc chân nhân xuất thế, điềm báo của Thiên Tử xuất hiện. Các tuổi khác cũng phú quý hội đủ Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh. Ngũ Phúc cho hai tuổi Đinh, Nhâm là sao đầu trời Lộc , cư Thìn, Tuất là đáy lộc, cư Thân là khoa danh. Ngũ Phúc đồng cung Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ thì lộc trập trùng, xuất tướng nhập tướng. Ngũ Phúc ở Thân đồng cung có Văn Xương là trụ đá của nhà nước, đồng cung Đại Tướng Chủ là tướng nơi nội phủ, nắm giữ binh quyền, quý không nói hết. Ngũ Phúc ngoài tác dụng công danh, lộc, quyền nó còn là đệ nhất giải thần trong môn Thái Ất. Nó gặp hung thần cũng chế bớt cái hung của hung thần, gặp nhiều hung thần một lúc thì đời vất vả nhưng cũng không đến nỗi tuyệt mệnh. Kỵ đồng cung với Thái Ất, Phúc giảm đi một nửa, đời nhiều lận đận. Đồng cung Thủy Kích ở Mệnh Thân, năm tháng ngày giờ thì tai họa bay sang phương đối xung. Duy ở hai cung Dần Mão là nơi Ngũ Phúc hãm cho nên mất hết tính cứu giải, công danh. Mệnh Thân có Ngũ Phúc hãm thì cả đời tập tễnh, nếu cung Tật Ách đóng vào đây thì sức khoẻ yếu như sên. Ngũ Phúc rơi vào trung cung thì không được hưởng gì từ sao Ngũ Phúc, thật là đáng tiếc lắm. Ngoài ra Ngũ Phúc còn là sao chủ thiện, là đài các thần, có nó ở Mệnh Thân là người lương thiện , dáng vẻ cao sang. Ngũ Phúc là đệ nhất phúc thần nhưng rất ngại gặp Phi Phù và Thủy Kích. Chỉ trừ khi gặp Thủy Kích ở Tuất mà phải là hai tuổi Mậu Quý thì đại phát phúc, nếu gặp vận hạn tốt sẽ là Vua sáng nghiệp thời thái bình. Các bạn khi học Thái Ất với tôi, nên đọc thật lỹ bài SƠ LƯỢC VỀ THIÊN VĂN mà tôi đã nhờ BCH chuyển vào mục này cho chúng ta. Thái Ất trong Tam Thức thiên về Thiên do nó nghiên cứu sự chuyển động của các Tinh Tú ảnh hưởng lên Trái Đất, lên con người khác hẳn với Độn Giáp vốn bản chất là Địa Lý. Cho nên học Thái Ất mà Thiên Văn không biết 1 tý gì thì e có học đến già cũng chỉ biết KINH dạy rằng.... chứ không thể hiểu được bản chất sâu sắc của nó là gì. Ngoài ra phải nói trước phép xem Thái Ất cái thần diệu không phải là xem MỆNH cho con người, các bạn có thể xem bằng Tử Vi đơn giản hơn nhiều. Thái Ất thần diệu ở chỗ xem xét cho cả 1 dân tộc quyết thịnh suy bĩ thái cho 1 quốc gia và để dùng binh. Có một số tác giả họ cứ cố quy hết Thái Ất ra quẻ để luận đoán, làm như vậy có một lợi thế lớn là đơn giản hoá được Thái Ất, nhưng lại đánh mất đi cái thần là THIÊN VĂN. Tôi xem Thái Ất chú trọng vào các Thần và Toán, sau đó mới dùng quẻ để bổ sung cho nó, chứ không dùng quẻ làm cái chính. Thái Ất có nhiều chỗ rất khó hiểu, bản thân tôi cũng chỉ dám nhận là người đứng ở ngoài cửa và nhìn vào 1 khu vườn mênh mông chứ chưa dám nhận là người đặt chăn lên ngưởng cửa đó, nói chi đến chuyện bước vào khu vườn đó. Cho nên khi tôi trình bày mọi người nên suy nghĩ cho kỹ đừng vội tin ngay, phải sửa chữa cho tôi để chúng ta cùng nhau khai mở được một chút gì đó về môn đệ nhất Tam Thức này. Tôi ghi chú các vấn đề: - Huyền không phi tinh niên vận hiện nay, chỉ dùng 1 chiều nghịch mà thôi. Theo Hoàng Tuấn, huyền không phi tinh thuận nghịch cho ngày, giờ. - Độn giáp phân cục Âm Dương cho ngày, giờ. - Thái Ất đi thuận chiều kim đồng hồ, qua 8 cung, 3 năm một cung. Chỉ có Thời kể thì phân cục Âm Dương. - Làm sao biết con số Tích tuế 10.135.917 đúng hay sai? Dựa trên các quy luật thiên văn lớn? -> Cần tìm độ lệch hiện nay của Lục thập hoa giáp (Âm Dương) với mốc thời gian chuẩn 2013 theo lịch Maya với sự so sánh tới sự biến đổi địa cầu? -> Để tìm ra sai số năm của Tích tuế do người xưa đã làm lệch có chủ đích và tìm được năm gốc Tích tuế? Độ lệch xác định thông qua chu kỳ vũ trụ 25.920 năm! - 16 cung Thái Ất: dựa trên quy luật "sinh, thành, suy hủy" của một 4 hành mộc, hỏa, kim, thổ? -> Quy luật của Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu. - Thái Ất cũng đang sai phương vị Tốn, Khôn. - Thái Ất khởi từ cung Càn, còn Độn giáp khởi từ cung Khảm.
  3. VỀ NHỮNG NGÔI MỘ CỦA KINH DƯƠNG VƯƠNG TRÊN ĐẤT VIỆT NAM Hà Văn Thùy I.Điểm một vài thông tin Vào mạng tra mục từ “mộ Kinh Dương Vương” dễ dàng gặp những thông tin sau: -“Rất nhiều người không biết rằng, ngôi mộ Kinh Dương Vương, thủy tổ nước Việt nằm ngay bên bờ sông Đuống, thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Mộ giản dị, đắp trên một gò đất nhìn ra bờ sông, xung quanh là những cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Nhân dân không xây thành lăng mà chỉ xây cao lên bằng gạch cổ, có mái nhỏ che mưa nắng. Rêu xanh màu thời gian. …Điều quan trọng là ngôi mộ nằm ở trung tâm thời dựng nước, từng là một thánh địa do chính Kinh Dương Vương chọn. Trên đường đi kinh lý, qua trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (nay là), nhận ra thế đất quý, có tứ linh long, ly, quy, phượng, có sông núi bao quanh, rồng chầu, hổ phục, ngài đã đem những cư dân Việt cổ quy tụ về lập nên xóm làng đầu tiên.” (http://khoahoc.tv/khampha/kham-pha/50784_di-tim-mo-to-kinh-duong-vuong.aspx) - “Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924). ( http://baobacninh.com.vn/news_detail/77016/den-tho-va-lang-kinh-duong-vuong-dau-an-thieng-ve-thoi-mo-nuoc.html) -Thật là tự hào, chúng ta có nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Xích Quỷ (sao Quỷ Đỏ ở phương Nam), Văn Lang, Nam Việt, Vạn Xuân, Đại Việt, Đại Ngu, Việt nam với Văn minh lúa nước và thuần phục trâu cấy cầy....từ thời Vua Phục Hy và Thần Nông của nhà nước Cực Lạc. Đóng đô ở Thạch Thất Hà nội. Kinh Dương Vương được Vua Cha Đế Minh giao cai quản nước Xích Quỷ, từ phía Nam sông Dương Tử. Xích là đỏ, Quỷ là sao Quỷ (nằm trong nhị thập Bát Tú). Thời kỳ này là khoảng 2879 năm trước công nguyên (cách 2013 là 4892 năm) Lạc Long Quân lấy Mẫu Thoải Âu Cơ, Đệ Tam Thánh Mẫu, đẻ ra 100 trứng ở Đền Lăng Xương, Thanh Thuỷ, Phú Thọ. Nơi đây có suối nước nóng của đứt gẫy vỏ trái đất, nhận Địa khí, gần với Ba vì, nơi nhận được Thiên khí. Các con theo Cha xuống biển ở Hà Đông, theo Mẹ lên núi ở Việt trì, Phú Thọ. Người con cả được phong là Vua Hùng. Chúng ta có 108 Vua Hùng (18 Vua Hùng ghi trong sử sách là những người có công mở cõi). Đền Thờ các Vua Hùng, mộ các Vua Hùng, các Mẫu....đều nằm ở Kinh đô cổ Phong Châu, Vân nội, Hà Đông. -Kinh đô cổ của các nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Lạc Việt, Văn Lang, còn nằm ở các Huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Thanh Oai, Ứng Hoà, Hà Đông...Phố Xốm, Vân Nội, Hà Đông chính là Phong Châu cổ, Kinh đô của Vua Hùng Tinh hoa văn hóa Việt với tư duy minh triết .GS-TSKH-VS Nguyễn Xuân Trường Tiến; Chủ tịch Hội Cơ Học Đất và Địa Kỹ thuật Công Trình Việt nam, VSSMGE. http://nguyenngocson.vn/?module=news_detail&cat_id=12&id=453 -Kinh Dương Vương húy Nguyễn Lộc Tục tự Phúc Lộc (đổi họ Thần Nông thành họ Hồng Bàng) là con trai trưởng của Thái Khương Công- Nguyễn Minh Khiết và bà Đỗ Quý Thị- Hương Vân Cái Bồ Tát. Chồng lấy vợ hai, mẹ con bị bạc đãi. Bà Đỗ Quý Thị giận, đem Lộc Tục vào núi Hòa Bình tu. Nhiều năm cụ tu ở Động Tiên, huyện Lạc Thủy- Hòa Bình. Cụ cùng tám người em trai nuôi dạy con trai là Nguyễn Lộc Tục. Lớn lên Lộc Tục đánh thắng giặc Gạc Ma được cha Nguyễn Minh Khiết phong Thánh Tổ làm vua hiệu Kinh Dương Vương. Ngài lập kinh đô ở bến Ong, làng Vân Lôi (Kẻ Xốm) đặt tên nước là Xích Quỷ. Ngài sinh ngày 17- 8. Mất ngày 25- 12. Mộ táng tại chỗ giáp ranh hai làng Quang Lâm và Vân Nội- Thanh Oai- Hà Nội ngày nay. Đền thờ ngài 24 tòa xây tại 24 làng. Đạo Của Tổ Tiên Việt. MAI THỤC http://newvietart.com/index3.5181.html Những thông tin trên cho thấy, ít nhất trên đất nước ta có hai nơi được cho là có mộ của Kinh Dương Vương. Cố nhiên, một câu hỏi nảy sinh: một người sao lại có tới hai ngôi mộ? Từ đó dẫn tới sự hoài nghi về tính xác thực của những ngôi mộ này. Đành rằng, mộ thủy tổ là thiêng liêng nhưng khi sự hoài nghi xuất hiện sẽ gây hậu quả khó lường! Vì vậy cần được làm rõ: thực sự đó có phải là mộ của Ngài không? II. Những lý do cho thấy không thể có mộ của Kinh Dương Vương trên đất Việt Nam Từ khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, chúng tôi xin trình ra những lý do khẳng định không thể có mộ Kinh Dương Vương trên đất Việt Nam Lý do thứ nhất: dựa vào thư tịch. - Cuốn sách sớm nhất nói tới Phục Hy, Thần Nông là Kinh Dịch, do Khổng Tử san định vào cuối thời Xuân Thu, cách nay gần 2500 năm. Kinh Dịch viết: “Họ Bào Hy mất, họ Thần Nông xuất hiện, dạy dân lấy gỗ đẽo cày, họp chợ. Tất cả đều lấy hứng tứ quẻ Ích.” -Theo Từ Hải thì Phục Hy còn có tên là Bào Hy, Thái Hạo v.v. . . là một trong ba ông vua thời Thái cổ, hai ông kia là Toại Nhân, Thần Nông. Phục Hy dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật, tạo ra Bát quái và thư khế (văn tự, khế ước). Có sách nói Phục Hy sống ở thế kỷ 43 TCN. -Trong tài liệu Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh, bác sĩ Trần Đại Sĩ ghi cuộc điều tra điền dã của ông như sau: “Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang… Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: “Thiên-đài di sự lục. Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.” Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn. Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Dương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».[1] Tài liệu này là chứng cứ cho thấy truyền thuyết Đế Minh tuần thú phương Nam, tới núi Thiên Đài lập đàn tế cáo trời đất xuất hiện từ xa xưa và phổ biến ở vùng Giang Nam. Đó cũng là thêm bằng chứng về việc ra đời nước Xích Quỷ. Trong khi đó, những người chủ trương Châu Phong Hà Đông là kinh đô và nơi an nghỉ của Phục Hy, Thần Nông, Kinh Dương Vương chỉ dựa vào cuốn Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, xuất hiện quá mới, khoảng giữa thế kỷ XIX, lại đầy mâu thuẫn mà nhiều người chỉ ra là ngụy thư, có đáng tin không? Ngay với ngôi mộ ở Thuận Thành Bắc Ninh, dù có thần tích, bia ký rồi sắc phong thì tất cả cũng đều quá mới, không có giá trị sử liệu xác nhận đó thực sự là mộ của Kinh Dương Vương. Lý do thứ hai: Cho rằng các vị Phục Hy, Thần Nông, Kinh Dương vương sống ở Phong Châu Hà Nội, Thuận Thành Bắc Ninh. Từ khảo sát hơn trăm cốt sọ thời Đồ Đá tới thời Kim khí được phát hiện ở Đông Nam Á (Việt Nam chiếm 70 mẫu), Giáo sư Nguyễn Đình Khoa trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á (NXB DH&THCN. H,1983) xác nhận: “Suốt thời Đồ đá, dân cư ở Việt Nam và Đông Nam Á gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, đều thuộc loại hình Australoid”. Do 4879 năm trước trên đất nước ta thuộc Thời Đồ đá, chỉ có người Australoid nên mặc nhiên, Kinh Dương Vương nếu sống ở nước ta thời đó cũng là người Australoid. Hệ quả là, một người mang gen Australoid không thể sinh ra người mang gen Mongoloid phương Nam. Điều này có nghĩa, các vị không thể là tổ tiên người Việt! Lý do thứ ba: không có di tích kinh đô. Nói tới kinh đô cổ mặc nhiên phải nói tới di tích của thành trì, khu dân cư. Ở Phong Châu không hề thấy dấu vết nào như vậy. Tài liệu khảo cổ của vùng chỉ phát hiện những ngôi mộ dân thường, kèm theo tiền Ngũ thù thời Hán của những thế kỷ đầu Công Nguyên. Trong khi đó, ở vùng Thái Hồ Nam Dương Tử, từ năm 1936 phát hiện văn hóa Lương Chử có địa giới tương đương với nước Xích Quỷ. Kinh đô Lương Chử hình chữ nhật gần tròn, rộng 3.000.000 m2, vẫn còn di tích hai bức thành dài 1700 m và 1500 m, có đáy rộng 60 m, cao 40 m và mặt thành 40 m. Một quốc gia rộng lớn như Văn Lang mà kinh đô Phong Châu không có thành lũy thì vua quan, quân đội đóng ở chỗ nào? Lý do thứ tư: vào thời của Kinh Dương Vương, vùng Bắc Ninh, Hà Nội còn chìm trong biển nước. Sách cổ ghi Phục Hy sống khoảng 4000 năm TCN, Thần Nông khoảng 3080 năm TCN và Kinh Dương Vương 2879 năm TCN. Trong khi đó, khảo cổ học đồng bằng sông Hồng cho thấy: “Vào thời kỳ đồ đồng (2000-700 năm TCN) đang trong giai đoạn biển thoái Radrian, lúc này các thùy châu thổ của đồng bằng châu thổ sông Hồng đã được hình thành và được mở rộng dần về phía biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cư dân cổ chuyển dần xuống định cư tại các vùng đất thấp hơn. Từ giai đoạn Phùng Nguyên đến Đồng Đậu và Gò Mun, chúng ta có thể thấy rõ sự phân bố của các di tích có sự dịch chuyển dần xuống các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Thời đại đồ sắt- văn hóa Đông Sơn 2700-1800 cách nay Trong giai đoạn này, mực nước biển cũng có sự dao động, đầu tiên là mực nước biển dâng lên và đến giai đoạn khoảng 2000 năm, mực nước biển lại rút dần. Diện phát triển và phân bố của văn hoá Đông Sơn lớn rộng hơn, đông đặc hơn các di tích tiền Đông Sơn, trong giai đoạn sớm các di tích phân bố chủ yếu ở vùng rìa cao của đồng bằng châu thổ. Trong quá trình phát triển, nó tràn đến cả những vùng thấp, trũng. Những nơi cư trú của thời này có quy mô to lớn hơn trước, nhiều di tích lại tập trung thành từng nhóm, cụm xung quanh một khối cư trú tạo thành các trung tâm như trung tâm Vinh Quang, Cổ Loa, Phú Lương, Việt Khê...”[2] Như vậy, phải tới thời kỳ văn hóa Đông Sơn muộn, khoảng 200 năm TCN, con người mới tụ cư tại Kẻ Ốc (Cổ Loa) mà Vân Nội gần đó không phải là một di chỉ khảo cổ. Điều này có nghĩa là, vào năm 2879 TCN, cả vùng Hà Đông, Bắc Ninh còn chìm trong nước sâu của vịnh Hà Nội. Làm cách nào Kinh Dương Vương dựng được kinh đô trên biển nước mênh mông? Vào thời điểm sớm nhất con người đến sống trên vùng đất này, khoảng 200 năm TCN thì Kinh Dương Vương đã chết được hơn 2600 năm. Vậy tìm đâu xương cốt Ngài đem về đây cải táng? III. Lý giải về những ngôi mộ được cho là của Kinh Dương Vương. Khi châu thổ sông Hồng được bồi tụ, người từ Thanh Nghệ kéo ra, từ Đồng Đậu Phú Thọ xuống rồi người Việt từ nam Trung Quốc trở về. Người trở về mang theo những kỷ niệm từ đất tổ Núi Thái - Trong Nguồn phía Nam Hoàng Hà Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng những câu chuyện về Thần Nông, Kinh Dương Vương, nước Xích Quỷ, cha rồng mẹ tiên và một bọc trăm trứng… Những câu chuyện xa xưa đã thành truyền thuyết lưu truyền trong ký ức nhân dân một cách bền bỉ. Từ thời Trần, những câu chuyện như vậy được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh… càng hun dúc tâm trí người dân nhớ tới cội nguồn. Có thể những kịch bản như sau đã xảy ra: Tại vùng Vân Nội Hà Đông, một lúc nào đó, do lòng kính ngưỡng tổ tiên thôi thúc, các già làng bàn nhau, chọn cuộc đất đẹp đắp ngôi mộ gió của Thủy tổ Kinh Dương Vương để bái vọng. Truy từ sách vở ngày mất của Tổ rồi hàng năm theo lệ tế lễ. Một phần do việc làm này, văn hóa cùng phong tục tập quán của làng trở nên tốt đẹp hơn. Tiếng lành đồn xa, người trong vùng quy tụ tới nơi thờ Tổ. Cũng do vậy, việc làm ăn của người dân phát đạt hơn. Do kinh tế khá lên, các vị già làng huy động công đức của bá tánh chỉnh trang mộ và xây đền thờ… Khoảng năm 1840, một số vị có chữ trong làng, dựa vào truyền ngôn và sách vở tạo ra sách Cổ Lôi ngọc phả truyền lại. Còn ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh sự việc có thể như sau: Do vị trí của mình, từ trước Công nguyên, Liên Lâu sớm trở thành nơi đô hội sầm uất với những chùa chiền được xây dựng rồi là nơi đóng trị sở của chính quyền đô hộ. Do vậy kinh tế và văn hóa ngày càng thịnh vượng. Còn ở vùng Á Lữ thì do bên sông Đuống hung hãn nên được khai thác muộn hơn. Tài liệu lịch sử còn ghi: “Dưới triều Lê sơ những con đê lớn hơn được đắp mới và tôn tạo trên hai bờ sông Nhị Hà được xem là sự can thiệp vào tự nhiên quá giới hạn cho phép, kết quả là sông Hồng trở nên hung dữ, đã vỡ và gây ngập lụt triền miên trong thời nhà Nguyễn, và lúc đó đã có nhiều ý kiến đề nghị xem xét vấn đề bỏ hay giữ đê. Trước năm 1837, Nguyễn Công Trứ đã đề xuất giải pháp nắn chỉnh, khai đào đoạn khởi đầu sông Đuống (tức sông Thiên Đức thời bấy giờ), chuyển cửa nhận nước từ sông Hồng dịch về phía thượng nguồn, giúp cho việc phân lũ sông Hồng được thuận lợi. Nhưng phải sang thời Tự Đức ý tưởng đó mới được thực hiện một phần và được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp thuộc. Từ đó, sông Đuống trở thành đường thoát lũ quan trọng nhất của sông Hồng.” [3] Có thể là tới cuối thời Lê, cũng do thôi thúc của tâm linh, các già làng Á Lữ bàn nhau chọn đất đắp ngôi mộ của Thủy tổ Kinh Dương Vương. Sau đó, do kinh tế trù phú lên, các cụ xây lăng, dựng đền thành nơi thờ tự sầm uất. Nằm trong cảnh quan vùng Liên Lâu, theo thời gian, khu lăng mộ và đền Á Lữ trở nên thắng tích nổi tiếng. Năm Gia Long thứ 10, nhận được sắc phong của triều đình. Từ đó tới nay, việc thờ tự được người dân duy trì. Năm tháng qua đi, người đời sau vì không biết nguyên do xuất hiện của ngôi mộ mà chỉ thấy lăng mộ, đền thờ cổ linh thiêng nên lầm tưởng đó chính là nơi an nghỉ của Thủy tổ. Cũng có sự thực là, từ gần 5000 năm trước, Tổ Kinh Dương Vương đã yên nghỉ ở kinh đô Lương Chử với lăng tẩm rồi đền đài uy nghiêm. Nhưng thời gian trôi, vật đổi sao dời, đất bao lần thay chủ. Lăng mộ, đền đài hoang phế, mất dấu. Hồn thiêng của tổ tiên dù ở nơi cực lạc nhưng khi muốn cũng không có nơi tìm về. Từ khi những ngôi mộ gió thành tạo, lòng kính ngưỡng của con cháu thấu tới cõi linh thiêng. Theo phong tục người Việt, con cháu đâu, ông bà ở đấy, tổ tiên vui lòng nên cũng về với con cháu trong những ngày lễ trọng. Có thể, một vài nhà ngoại cảm, với khả năng đặc biệt, giao tiếp được với tổ tiên đã củng cố thêm lòng tin cho dân… Chúng tôi cho rằng, dù chỉ là những ngôi mộ gió được đắp để bái vọng tổ tiên thì việc hiện diện của những ngôi mộ và lăng rồi đền thờ là điều vô cùng quý giá. Nó thể hiện bản thể tốt đẹp của văn hóa Việt tộc biết uống nước nhớ nguồn, thờ kính tổ tiên. Đó cũng là di sản vật chất giúp cho ổn cố tâm linh, gắn kết cộng đồng dân tộc. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta cùng con cháu là phải nối tiếp công việc của tiền nhân giữ gìn, tôn tạo những cố tích thiêng liêng quý giá này. Mặt khác, cũng cần công khai với con cháu và du khách: đấy là những ngôi mộ, ngôi đền mà tiền nhân chúng tôi đựng lên để từ xa bái vọng tổ tiên, những người từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa, sau đó trở về sinh thành dân tộc chúng tôi. Cần minh bạch như vậy để một mặt tránh sự u mê ngu tín của những người vô minh. Mặt khác cũng giải tỏa sự hoài nghi của những người chưa hiểu biết tường tận. Danh có chính ngôn mới thuận là vậy! Sài Gòn, 2 tháng 11 năm 2015 Tài liệu tham khảo: 1. Trần Đại Sĩ. Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. http://www.vietnamvanhien.net/NuiNguLinh.pdf 2. Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam. Khảo cổ đồng bằng sông Hồng http://caf.vass.gov.vn/noidung/nghiencuukhoahoc/Lists/NghienCuuKhoaHoc/view_detail.aspx?iDCapCoQuan=47&ItemID=1714 3. Wikipedia: Việc đắp đê sông Hồng Tôi ghi chú: - Nằm ở khu vực Thanh Oai, Hà Đông. Trên bản đồ Hà Đông này lại thuộc phía tây nam so với Hà Nội, tức thuộc phương tây nhưng ghì tên "Hà Đông". Đây là điều đặc biệt, nằm phái hữu ngạn sông Hồng. - Khu vực mộ các Vua Hùng khác cũng có sử sách ghi lại. - Vùng Lương Sơn - Hòa Bình (Lương Sơn Bạc và 108 anh hùng) và Chúc Sơn có cái tên giống trong truyện Thủy Hử và Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài. Bản đồ Lương Sơn và Hà Đông
  4. KARAJAN Thái Ất hành 3 năm một cung, qua 8 cung = 24 năm. Đây chính là chu kỳ của một hành trên Hà Đồ theo qui luật Cách bát sinh tử - Sinh Vượng Mộ - (Ba giai đoạn), mỗi giai đoạn tám năm = 24 năm .Sau đó chuyển sang hành khác . Đi ngược trên Hà Đồ thành Lục thập Hoa giáp theo sách Hán cổ . Đi thuận trên Hà Đồ thành Lạc thư Hoa giáp theo văn minh Lạc Việt. Chu Kỳ 24 năm của Sao Thái Ất, trùng chu kỳ 24 năm của 2 vòng (Âm Dương) Thái Tuế (Sao Mộc). Nếu biết đích xác sao Thái Ất là sao nào, hoặc là cái gì, thì chúng ta đã cầm được cái chìa khoá. Chu kỳ cách bát sinh tử Như đã nếu ở trên, Thái Ất không bao giờ vào trung cung bởi vì Thái Ất không bao giờ đồng cung , hay nói khác đi là đi vào địa phận của sao Bắc Thần. Người xưa tin tưởng rằng : sao Bắc Thần luôn cố định trên bầu trời cho nên nó là hình ảnh của Thượng Đế chí tôn. Còn chòm Bắc Đẩu Thất Tinh là thần của Thiên Đế , nó trấn giữ ngay cửa ra vào Tử Vi Viên. Bắc Đẩu Thất Tinh này là nơi chuyên giữ sổ sinh tử coi xét về vận mệnh của con người, quản từ đời sống thường ngày cho đến công danh bổng lộc, sống chết. Chính vì thế mà Gia Cát Lượng khi muốn xin thêm tuổi thọ phải đặt 7* 7 = 49 ngọn đèn theo 7 phương vị khác nhau của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, trong đó ngọn đèn bổn mệnh đặt ngay tại vị trí của sao Thiên Quyền của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh. Và chòm Bắc Đẩu Thất Tinh này cùng các thần khác đựơc cai quản bởi thần Thái Ất. Thái Ất đứng ngay giữa sao Bắc Thần và chòm Bắc Đẩu, nó thay trời đứng đầu 16 thần. Nắm ngôi vị chủ tể. Khi Thái Ất bị xung với Thái Tuế, Thái Tuế tượng là Vua dưới hạ giới. Vua bị xung với Thái Ất thì chắc chắn là không có gì tốt đẹp, thường là băng vong , và cứ khi nào Thái Ất xung Thái Tuế là có sao chổi ( bất kể lớn nhỏ ) phạm vào địa phận của toà Tử Vi Viên. Lịch sử ghi chép rất rõ ràng : Năm thứ 8 đời Lữ Hậu, sao chổi rất lớn hiện ra đi vào địa phận toà Tử Vi Viên, chạy sát sang toà Thái Vi , Lữ Hậu nói : " Đó là điềm vì ta ". Tháng 8 năm đó Lữ Hậu băng. Và còn nhiều nhiều nữa mà các bạn có thể tìm đọc trong chính sử. Bàn về các Đại Tướng, Tham Tướng Chủ và Khách. Đại Tham Tướng Chủ an theo Chủ Mục , Đại Tham Tướng Khách an theo Khách Mục. Bất cứ 1 trong 4 tướng này mà vào trung cung ( lưu ý : 4 vị tướng này không hề có trên bầu trời, họ đặt ra với mục đích sâu xa nhất là dùng binh.) , tức là 4 Tướng phạm vào địa phận của sao Bắc Thần. Bắc Thần là Thượng Đế chí tôn , cho nên bất cứ Tướng nào phạm vào thì đó đều là điềm không hay, nếu Toán lại không hoà thì tối hung. Cho nên khi hành quân , cứ thấy Đại Tướng Chủ Khách mà vào trung cung là Toán Chủ Khách không tính và án binh bất động ( nên nhớ là dùng binh phải xem KỂ GIỜ ). Kể Đại Tướng là an theo Kể Thần, nó đo độ số u minh của Thái Ất... nhưng U Minh là cái gì?? Trong TH cả Toán Chủ và Khách đều không hoà, việc ra quân bất lợi thì phải xem đến Kể Đại Tướng... Kế Đại Tướng không ép, cách, Toán Kể hoà, Cửa Kể đủ thì mai phục chờ tiến binh sẽ lợi cho chủ, ngược lại thì nên án binh bất động. Định Đại Tướng được an từ Định Mục nó đóng vai trò trợ giúp cho Thái Tuế ( Định Mục an dựa vào Thần Hợp). Trong môn Thái Ất có một thần tối cao đó là thần Ngũ Phúc. Ngũ Phúc chính là chòm Tiểu Hùng gồm 5 sao , trong đó sao Bắc Thần đứng đầu. Ngũ Phúc đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy.... chỉ trừ hai cung Dần Mão là nơi hãm địa. Ngũ Phúc vào trung cung thì giáng phúc cho bốn phương, dù có chiến tranh cũng ít thiệt hại, chết người. Do Ngũ Phúc là Bắc Thần tối cao cho nên quyền giải hạn của nó rất lớn , Thái Tuế xung Thái Ất nhưng có Ngũ Phúc thì tai hoạ không còn. Đại Du hành sát đến đâu, nơi đấy binh lửa rợp trời, nếu có Ngũ Phúc tai họạ giảm đi một nửa. Mỗi năm cầm quyển lịch vạn niên lên, điều đầu tiên mà hàng triệu hàng tỷ người chúng ta xem chắc chắn là rà tìm xem năm nay chúng ta bị hạn sao gì chiếu. Theo kiến thức ít ỏi của tôi thì sách Lịch Vạn Niên đưa ra 9 sao hạn : Thái Dương, Thái Âm, La Hầu, Kế Đô, Thổ Tú, Mộc Đức, Hoả Đức, Thuỷ Diệu và Thái Bạch. Những sao trên các sách Lịch Vạn Niên đưa ra có sao xấu, sao tốt, tốt cho nữ, xấu cho nam hay ngược lại và cách cúng hoá giải. Nhưng thật sự có đúng là như vậy không? Nguyên nhân từ đâu mà có những sao này? Để đi sâu phân tích về 9 sao hạn này chúng ta cần biết về Thiên Văn, tính chất của nó. Thực tế ra thì những gì mà Lịch Vạn Niên nói về 9 sao này quả thật là một mớ hổ lốn, chẳng đâu vào đâu, chỉ để lường gạt mà thôi. Họ không hiểu gì về những kiến thức của Phương Đông ngày xưa. Bài viết này xin phân tích lần lượt 9 tinh đẩu trên, nó là sao nào trên bầu trời, ảnh hưởng ra sao theo 2 quan niệm Cổ điển và Hiện đại nhằm cung cấp một cái nhìn đúng đắn về 9 tinh đẩu này. Quan sát Thiên Văn từ xa xưa, ông cha ta đã để ý đến 7 tinh đẩu sáng nhất mà chúng ta nhìn thấy trên bầu trời là Mặt Trời, Mặt Trăng, và 5 hành tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. 7 tinh đẩu này được gọi là Thất Đại Diệu và người xưa tin rằng cai quản nó là 7 vị Tinh Quân , có quyền năng rất lớn và ảnh hưởng cực mạnh lên số phận con người. THÁI DƯƠNG Thái Dương là Mặt Trời là tinh hoa của ban ngày, là tinh hoa của tạo hoá, ban phát sư sống cho muôn loài, được cai quản bởi Thái Dương Đế Quân, ngự tại cung Quang Minh, cầm đầu trong Thất Đại Diệu. Không một ai là không được hưởng ân huệ của Thái Dương. Chính vì thế mà hạn đến sao Thái Dương là hạn rất tốt nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam mà xấu cho nữ... thật là vô lý quá. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, sự ảnh hưởng của Mặt Trời lên con người chúng ta là lớn nhất trong tất cả các tinh đầu. Khi Mặt Trời vào chu kỳ hoạt động mạnh thì chúng ta được tác dụng rất tích cực của nó , các nhà khoa học còn chứng minh được rõ ràng, những nhà khoa học tài năng của thế kỷ 20 này đều được sinh ra vào đúng chu kỳ hoạt động mạnh của Mặt Trời. Đó là hiện đại, còn ngày xưa chưa có khoa học như thời nay cho nên họ mới tin là Thái Dương Đế Quân chiếu Mệnh thì rất may mắn và phải cúng để giải hạn. Thực tế ra Mặt Trời tác động lên chúng ta là bằng Lực Hấp dẫn và Từ Trường của nó, có cầu cúng thì Định Luật Newton cũng vẫn thế, chẳng giải quyết được gì. THÁI ÂM Thái Âm là Mặt Trăng , là tinh hoa của ban đêm, được cai quản bởi Thái Âm thần quân ngự tại cung Quảng Hàn. Thái Âm ban phát ân huệ của nó cho mọi người , người xưa tin rằng Thái Âm tượng cho người mẹ , là sự dịu dàng, phú quý. Hạn đến sao Thái Âm là rất tốt... hic thế nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam không tốt cho nữ... thật tôi chẳng thể hiểu được. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, ảnh hưởng về lực hấp dẫn của Mặt Trăng lên chúng ta chỉ đứng sau Mặt Trời , về Từ Trường chỉ thua Mặt Trời và Mộc Tinh. Người xưa thì tin rằng, Thái Âm mang lại sự quyền quý cao sang , và khoa học hiện đại cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của Thái Âm lên mỗi chúng ta. Và Lực Hấp Dẫn hay Từ Trường của nó dù có cầu cúng thì nó vẫn được tính bằng Định luật của Newton và các phương trình của Maxwell... như vậy cầu cúng để làm gi????? MỘC ĐỨC Mộc Đức chính là sao Mộc , sách xưa gọi là Đông Chấn Cửu Khí Mộc Đức tinh quân. Vượng ở hướng chính đông, là Tuế Quân, đứng đầu cai quản các thần. Người Phương Đông xưa cũng đã tin tưởng rằng Thái Tuế ảnh hưởng cực mạnh lên con người, ảnh hưởng này có cả tốt và xấu. Người Phương Tây thì tin rằng sao Mộc là nơi ngự của thần Jupiter ( Goethe) vị thần tối cao của các thần, thần sấm sét đầy quyền năng. Chính vì thế mà hạn đến sao Mộc Đức thì có cả tốt và xấu. THỔ TÚ Thổ Tú chính là sao Thổ , sách xưa gọi là Trung Ương Nhất Khí Thổ Tú tinh quân. Phương Đông nghiên cứu thấy nó chuyển động rất chậm chạp cho nên tin rằng nó là thần của Thiên Đế đi tuần vòng quanh để kiểm tra công việc của các thần. Cho nên hạn đến sao này là sao xấu vì gặp THANH TRA có vui vẻ bao giờ Posted Image... ngay ở Phương Tây họ cũng gán sao Thổ là nơi ngự trị của thần Saturn ( cha của Jupiter, bị con lật đổ) tưởng trưng cho sự già nua chết chóc. Như vậy hạn đến sao này đa phần là xấu , khoa học hiện đại cũng khẳng định sao Thổ làm triết giảm ảnh hưởng của Mộc Tinh lên Trái Đất. THUỶ DIỆU Thuỷ Diệu chính là sao Thuỷ, sách xưa gọi là Bắc Khảm Lục Khí Thuỷ Diệu Tinh Quân. Sao này chuyển động rất nhanh, cho nên phương Tây gán nó cho thần Mercury , thần truyền tin, buôn bán và lường gạt. Còn Phương Đông dựa vào đó để an sao Thiên Mã. Chính vì thế hạn đến sao này chủ yếu thiên về kinh doanh buôn bán, nhưng cẩn thận bị lừa, nói chung là tốt có xấu có. HOẢ ĐỨC Hoả Đức chính là sao Hoả, sách xưa gọi là Nam Ly Thất Khí Hoả Đức Tinh Quân. Sao này ở Châu Âu tượng trưng cho thần chiến tranh, còn Phương Đông ta thì đó là thần Huỳnh Hoặc. Ảnh hưởng của nó là xấu, hạn đến sao Hoả Đức là hạn sự việc bất ngờ đến, nhưng kết quả không rõ ràng, tốt không ra tốt, xấu không ra xấu ( do sự nhập nhằng của Huỳnh Hoặc ) THÁI BẠCH Thái Bạch chính là sao Kim , sách xưa gọi là Tây Đoài Ngũ Khí Thái Bạch Kim Tinh hoặc là Trường Canh Tinh, do sao này mãi đến gần sáng mới tắt, sáng một mình khi những sao khác đã tắt. Từ quan sát đó mà người xưa tin rằng Thái Bạch tượng cho sự cô độc, là tài tinh quyền tinh. Hạn đến sao Thái Bạch là chủ sự việc kéo dài nhưng rồi cũng thành công, và đặc điểm nổi bật của nó là cô độc. LA HẦU - KẾ ĐÔ Hai sao này là hai sao không có thực trên bầu trời. Nó xuất phát từ việc quan sát Nhật Thực, Nguyệt Thực. Người xưa không thể giải thích về hai hiện tượng này cho nên họ nghĩ Mặt Trời Mặt Trăng bị ăn mất và rất sợ hãi. Tại Ấn Độ họ tin rằng có hai vị ác thần đã che mất Mặt Trời Mặt Trăng , vị thần che mất Mặt Trời là Rahu và che Mặt Trăng là Kethu. Sau này sự du nhập của Phạn Lịch vào Trung Hoa, tên được hán hoá thành ra La Hầu và Kế Đô. La Hầu tối hung cho Nam vì nó che mất Mặt Trời, Kế Đô tối hung cho Nữ vì nó che mất Mặt Trăng. Cho nên hai vị tinh đẩu này tuy không có thật nhưng cũng được xếp ngang hàng với 7 vị Tinh Quân ở trên thành Cửu Đại Diệu. Hạn đến sao này là xấu, nhưng thực tế ra nó chẳng có ảnh hưởng gì đến chúng ta cả. Một sự lo lắng thừa. Bài này tôi có gắng trình bày dễ hiểu, không dám đả kích ai, chỉ mong đem lại một cái nhìn khoa học hơn về 9 vị sao hạn này, giúp chúng ta bớt lo lắng để tập trung vào việc khác.
  5. Chợ Kỳ Lừa Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu nắm nem Mảng vui quên hết lời em dặn dò Gánh vàng đi đổ sông Ngô Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương. Vào chùa thắp một nắm hương Miệng khấn tay vái bốn phương chùa này Em đi tìm bạn anh đây Bạn thấy em khó bạn nay chẳng chào. Phố chợ Kỳ Lừa ngày xưa từng được xếp vào một trong "Trấn doanh bát cảnh" của Lạng Sơn, phố chợ Kỳ Lừa hiện nằm trên địa bàn phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Kỳ Lừa Tương truyền, tên gọi Kỳ Lừa bắt nguồn từ câu chuyện, ngày xưa, ở khu vực này có một con lừa rất kỳ lạ. Hàng ngày, khi được chủ thả đi ăn cỏ, con lừa tự bơi qua sông Kỳ Cùng tìm sang núi Kỳ Cấp để ăn cỏ non. Đến tối, con lừa lại tự bơi qua sông và tìm về chuồng (có người cho rằng con lừa kỳ lạ này là của Mạc Đĩnh Chi). Người dân các nơi rủ nhau đến xem con lừa kỳ lạ rất đông, từ đó cái tên Kỳ Lừa ra đời. Sông Kỳ Cùng Nàng Tô Thị nhìn từ hướng chùa Tam Thanh Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, tên gọi Lỳ Lừa bắt nguồn từ địa danh Khau Lừ, Khau là Đồi, Lừ là Lừa, Khau Lừ có nghĩa là Đồi Lừa. Bởi ở khu vực này xưa kia có những đồi cỏ lúp xúp làm bãi chăn thả lừa, ngựa nên gọi là Khau Lừ, về sau mọi người đọc chệch đi thành Kỳ Lừa… Mỗi tháng, chợ Kỳ Lừa họp 6 phiên (các ngày 2, 12, 22 và 7, 17, 27 âm lịch) và mỗi năm, Lạng Sơn có lễ hội Đầu pháo (từ 22 - 27 tháng giêng Âm lịch) tại đền Tả Phủ ở trung tâm của phố chợ Kỳ Lừa. Lễ hội Đầu pháo là hoạt động tưởng nhớ của người dân địa phương đối với vị thần Tả Đô đốc Hán Quận Công Thân Công Tài (thời Hậu Lê), người đã có công khai lập ra phố chợ Kỳ Lừa để làm nơi giao thương, thúc đẩy nền kinh tế - văn hoá - xã hội của địa phương phát triển. Lễ hội bắt đầu từ ngày 22 tháng giêng âm lịch bằng việc rước kiệu từ đền Kỳ Cùng lên đền Tả Phủ và kết thúc vào ngày 27, sau hội cướp đầu pháo cùng còn có các trò chơi như: đấu cờ người, múa sư tử, múa rồng, múa võ dân tộc, ném còn, hát giao duyên (hát sli, hát lượn) … Sáng ngày 22 tháng giêng (âm lịch), cùng với đoàn người đông đảo cầm cờ, võng lọng, một tốp thanh niên khiêng kiệu; một tốp thiếu niên khiêng đỉnh cùng đội múa sư tử đi qua các khu dãy phố Kỳ Lừa rồi thẳng xuống đền Kỳ Cùng đón rước ông Tuần Tranh (hay Thần sông) lên kiệu. Đúng giờ ngọ bắt đầu làm lễ. Lễ xong, đoàn người rước kiệu đến đền Tả Phủ hạ kiệu làm lễ tạ ơn. Sang ngày 23, 24, sau khi cúng xong, những đầu pháo có gắn đầu kim loại, cuốn vải cẩn thận được đem ra đốt. Khi pháo nổ, vòng kim loại bay lên và rơi xuống, mọi người tranh nhau cướp. Những ai tranh được đầu pháo thì đem đến trình với thần đền và Ban Tổ chức lễ hội lấy phần thưởng, phần thưởng là bức tranh vẽ phong cảnh có các chữ Phúc - Lộc - Thọ. Những phần thưởng sẽ được thờ tại gia đình trong một năm. Đến mùa hội năm sau, những gia đình có đầu pháo đem ra đền làm lễ tạ rồi trao lại đầu pháo cho đền. Chợ Kỳ Lừa hay còn gọi là chợ đêm, chuyên bán các loại hàng hoá phục vụ khách du lịch vào buổi tối. Chợ Kỳ Lừa không chỉ là nơi mua bán các loại sản phẩm từ thổ cẩm, thưởng thức các món đặc sản mà còn là nơi giao lưu, kết bạn, hát giao duyên của bà con các dân tộc Tày, Nùng, Dao… Chùa Tam Thanh Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh nằm trong dãy núi đá vôi phía tây bắc thành phố Lạng Sơn (thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn). Với diện tích trên 52ha, nơi đây có những hang động tự nhiên kỳ thú. Theo tài liệu của các nhà địa chất, đây là vùng thuộc hệ Triat, phiến thạch, các hang động này được tạo nên từ lâu đời cách ngày nay từ 360 đến 245 triệu năm. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động còn khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Ý của bài thơ là: "Suối trong tuôn chảy trên hàng trăm mỏm đá như đang trò chuyện. Quay lưng lại nhìn sang ngọn núi phía trước thấy hòn Vọng Phu". Trong động có tượng Phật A - di - đà và nhiều nhũ đá ngoạn mục. Theo thời gian, chùa vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên vốn có hấp dẫn du khách bốn phương. Tam Thanh là quần thể 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh nằm trong Chùa Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn Trong động có nhiều nhũ đá thiên tạo. Tam Thanh được mệnh danh là "Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng" (gồm 4 điểm là: động Nhị Thanh, động Tam Thanh, Thành Nhà Mạc và Nàng Tô Thị). Hằng năm, lễ hội của Tam Thanh được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng với nhiều trò chơi nghi lễ truyền thống. Di tích chùa Tam Thanh là một điểm tham quan thu hút khách du lịch thập phương bằng vẻ đẹp tự nhiên kỳ thú với hang động đẹp, có nhiều nhũ đá và hình thù độc đáo. Ngoài sự nổi tiếng về giá trị danh thắng, chùa Tam Thanh còn nổi tiếng bởi những giá trị văn hóa nghệ thuật ẩn chứa trong di tích. Đó là hệ thống các văn bia khá phong phú mang giá trị về mặt sử liệu và văn học nghệ thuật. Tôi ghi chú: - Lừa là loài động vật lai giữa ngựa và dê. - Kỳ Lừa: hàm ý "bị lừa một cách lạ lùng" tức bị lừa bởi "những thằng người vô cùng tinh vi" diễn ra theo dòng lịch sử của nhân loại qua ngôn từ lợi dụng "Thượng Đế". Dê, cừu, lừa... thường là loài động vật dùng tế trời. - Phiên chợ diễn ra vào những ngày có độ số 2, 7 của cung Khôn, Ly thuộc hành Hỏa trên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu. - Tam Thanh là danh hiệu của các vị tiên - tổ xa xưa của Đạo giáo. Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng là một vị tiên trong Đạo giáo, quản trị ba cõi. - Sông Kỳ Cùng: Nơi không thể vượt qua được, giống như Ải Nam Quan và truyền thuyết Khuông Việt Thiền Sư. GIẤC MƠ KHUÔNG VIỆT NHÌN TỪ GIÁC ĐỘ LỊCH SỬ - VĂN HÓA Nguyễn Thanh Tùng 1. Mở đầu Từ trước tới nay, có khá nhiều công trình, bài viết tìm cách lí giải nguồn gốc, ý nghĩa giấc mơ của Đại sư Khuông Việt (930 - 1011) mà chủ yếu xoay quanh hình tượng Tì Sa Môn thiên vương. Tuy nhiên, dường như các tác giả đều chưa lí giải hết căn nguyên lịch sử - văn hóa của giấc mơ này. Trong đó, có những vấn đề khá nổi bật cần tiếp tục giải đáp như: Vì sao lại xuất hiện Tì Sa Môn thiên vương trong giấc mơ Khuông Việt? Vì sao giấc mơ này lại liên quan đến chiến thắng quân Tống của Lê Hoàn năm 981? Vì sao hình tượng Tì Sa Môn thiên vương sau này lại ngày càng mờ nhạt và bị lấn át bởi những hình tượng khác?,v.v… Bằng việc suy cứu thêm về lai lịch, diễn biến của hình tượng Tì Sa Môn thiên vương từ Ấn Độ, Trung Hoa đến nước Việt đương thời; bằng việc khảo sát bối cảnh lịch sử - văn hóa thời Tiền Lê gắn với hình tượng Tì Sa Môn thiên vương, bài viết sẽ góp phần lí giải nguyên nhân xuất hiện giấc mơ kì lạ đó, đồng thời, làm rõ thêm những đóng góp của Quốc sư Khuông Việt, không phải chỉ về mặt tôn giáo tâm linh, mà còn về mặt chính trị, quân sự đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ quốc gia cuối thế kỉ thứ X. Ngoài ra, bằng việc theo dõi diễn biến của hiện tượng Tì Sa Môn thiên vương về sau, bài viết cũng góp phần nhận ra xu hướng hình thành và phát triển ý thức quốc gia - dân tộc trong tiến trình lịch sử và trong mối liên hệ khu vực. 2. Nội dung 2.1. Tỳ Sa Môn Thiên Vương: từ cội nguồn đến sự hiện diện chính thức đầu tiên ở thế kỉ X Nếu tin vào những ghi chép chứng tỏ quá trình biên soạn công phu, nghiêm túc của sách Thiền uyển tập anh ngữ lục (TUTA), từ Chiếu đối lục cho đến Nam tông tự pháp đồ, Liệt tổ yếu ngữ, rồi TUTA thì có thể nói, những ghi chép trong TUTA về hình tượng Tỳ Sa Môn thiên vương là sớm nhất trong văn học trung đại Việt Nam, sớm hơn những văn bản có ghi cùng nội dung này như Việt điện u linh (VĐUL) tập, Lĩnh Nam chích quái (LNCQ) lục,v.v... Sách này chép như sau: “Sư [Khuông Việt - NTT] từng qua lại núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: ‘Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết’. Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ. Năm Thiên Phúc thứ 1 (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ”.(2) Các nhà nghiên cứu từ lâu đã chú ý lý giải cội nguồn tín ngưỡng Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Trong đó, theo chúng tôi, sự nghiên cứu công phu, đầy đủ hơn cả đến từ Như Hạnh (Nguyễn Tự Cường). Tuy nhiên, thiết nghĩ cần bổ sung thêm một vài thông tin cụ thể để chúng ta rõ thêm về gốc gác hình tượng. Về nguồn gốc của thần ở Ấn Độ, Tỳ Sa Môn Thiên Vương vốn là một vị thần trong thần thoại có tên là Kuvera/Kubera. Kuvera từng trải qua nghìn năm tu hành khổ hạnh, sau đó được tổ phụ là thần Brahma cho cai quản phương bắc, đồng thời còn cai quản chiếc xe lên trời (tượng trưng cho của cải) là Puspaka. Từ đây, Kuvera giữ vai trò thần bảo hộ và thần tài. Lại có thuyết nói Kuvera ngự ở cung điện Thủy Tinh rất nguy nga, tráng lệ vì được làm bằng ngọc ngà, châu báu. Trong cung của Kuvera cũng có rất nhiều của cải, và do đó Kuvera có một đặc điểm thường được nhắc đến là giàu có, nhiều đồ báu (đa bảo). Bên cạnh đó, Kuvera cai quản loài dạ xoa nên được cho là “dũng vũ, thiện chiến”. Điển hình cho sự dũng vũ, thiện chiến là cuộc chiến giữa Kuvera và người anh cùng cha khác mẹ là Ravana. Tương truyền, Kuvera còn là quốc vương cai quản đảo Lan-ka (nay là Sri Lanka). Nhưng sau đó, vua của loài la sát là Ravana, được sự ủng hộ của chúng thần, đã chiếm đoạt chiếc xe Puspaka và đuổi Kuvera ra khỏi đảo Lan-ka. Kuvera cực chẳng đã phải về ngự trên đỉnh Linh Sơn (Himalaya). Qua một thời gian tu luyện, Kuvera lại thống lĩnh bộ chúng dạ xoa của mình, liên kết với Rama (hóa thân của thần Vishnu) đánh thắng đoàn quân la sát của Ravana (Ramayana). Vì vậy, Kuvera còn có địa vị của một “chiến thần” (thần chiến tranh). Các tín đồ Phật giáo sơ khởi cũng thờ Kuvera như là thần bảo hộ, thần tài và trấn giữ phương bắc. Cần đặc biệt lưu ý rằng, đến nước Khotan,(3) Kuvera mới được gọi là Vaisravana (Tỳ Sa Môn), hộ vệ hoàng gia, đất nước và Phật giáo. Cũng ở đây, Tỳ Sa Môn nổi bật lên với tư cách một “chiến thần”, được thờ phụng rất long trọng (Xem Đại Đường Tây Vực ký của Huyền Trang). Về tên Tỳ Sa Môn (Vaisravana), có hai cách lý giải phổ biến: một là, Tỳ Sa Môn [tiếng Phạn là Vaisravana, tiếng Pali là Vessavana; tiếng Tây Tạng là Rnam-thos-kyi-bu] có nghĩa là (được) nghe nhiều, nghe rộng (đa văn, biến văn, phổ văn), hiểu biết nhiều ý nguyện của chúng sinh và nếu cầu nguyện thành tâm sẽ được thỏa mãn những ý nguyện đó. Lại nữa tiếng tăm về sự phúc đức của vị thần này vang khắp bốn phương, vì vậy Tỳ Sa Môn còn có tên khác là Đa Văn [Thiên Vương]; hai là, Vaisravana là tên riêng địa phương của nước Khotan (ở nước này trước đây có Tỳ Sa phủ). Trong 4 vị Thiên Vương hộ vệ Phật pháp, Vaisravana có liên hệ mật thiết với Phật giáo, nhiệt tâm hộ trì Phật giáo hơn cả. Về nghĩa “đa văn” Phật giáo lại giải thích thêm rằng, Vaisravana thường bảo vệ đạo tràng của Như Lai và do đó nghe được nhiều lời Phật giảng. Trong kinh điển Phật giáo, Tỳ Sa Môn Thiên Vương từng phát nguyện bảo vệ Phật pháp, nên được coi là một trong những vị thần hộ pháp, được các Phật quá khứ, hiện tại và vị lai nhất trí tôn làm “hộ pháp” (trong Phật giáo Trung Hoa, Vaisravana còn được xem là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát và Bảo Sinh Phật). Vaisravana có 5 vị thái tử là Tối Thắng, Độc Kiện, Na Tra, Thường Kiến, Thiền Chỉ. Người con Na Tra cũng là một vị thần nguyện bảo vệ Phật giáo. Trong Mật tông, Tỳ Sa Môn Thiên Vương được xem là vị thần tài, nhưng cũng đóng nhiều vai trò khác như giúp tín đồ “lợi ích an lạc”, “tránh xa nguy nan”, “thỏa mãn các ý nguyện”, “đạt được nhiều trí tuệ”, cầu thọ, cầu phúc… Phương pháp cầu sự phò trợ của Tỳ Sa Môn Thiên Vương là: cung phụng [hình] tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương, trì tụng Tỳ Sa Môn Thiên Vương kinh, Kim quang minh kinh, Đại tập kinh, Pháp hoa kinh; đọc mật chú, tán thán hạnh bồ tát của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, lập điện Tỳ Sa Môn Thiên Vương v.v... Hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương thường được khắc họa là: mình mặc áo giáp (vàng) tướng quân, diện mạo dữ tợn đáng sợ, tay cầm bảo tháp, tay cầm giáo (hoặc mâu, hoặc kích) đứng trên mặt đất; hoặc tay cầm kích, giáo, tay kia chống nạnh; thân màu xanh đen, theo sau là quỷ dạ xoa. Về sự truyền bá tín ngưỡng Tỳ Sa Môn, có lẽ ít nhà nghiên cứu nước ta nói đến. Riêng Như Hạnh có lưu ý: “Vaisravana (Pi Sha Men) đến Trung Hoa từ Khotan và trở thành đối tượng của một nền thờ phượng riêng biệt vào khoảng thế kỷ thứ 7. Ở Trung Hoa hình tượng của Vaisravana được thờ trên tường và cổng của thành phố và tự viện. Vaisravana do đó trở thành thần bảo vệ thành phố và tự viện. Vào khoảng cuối đời nhà Tống thì tục thờ phượng Vaisravana đã lan truyền khắp Trung Hoa”.(4) Nhưng Như Hạnh dường như xem nhẹ sự lưu truyền này, hoặc bởi nguyên nhân khách quan là vấn đề tư liệu, do vậy, không cho ta biết kỹ sự thịnh hành đó như thế nào. Hơn nữa, không phải đến cuối thời Tống, tục thờ Tỳ Sa Môn mới thịnh hành. Nó đã rất phổ biến ngay từ thời Đường và đạt đến sự toàn thịnh vào thời Tống. Điều này được nhiều công trình nghiên cứu nước ngoài đề cập.(5) Chúng tôi đặc biệt chú ý đến sự thịnh hành này, bởi đây là điểm góp phần khá lớn trong việc lý giải sự xuất hiện Tỳ Sa Môn trong câu chuyện về Quốc sư Khuông Việt. Có thể nói, sự truyền bá hình tượng Tỳ Sa Môn vào Trung Hoa song hành với những diễn biến lịch sử của việc sáp nhập nước Khotan vào Trung Quốc (suốt thời Đường-Tống). Đặc biệt, hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương thực sự trở nên nổi tiếng và được sùng bái rộng rãi bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, qua một tích truyện khá nổi tiếng thể hiện vai trò một vị trấn hộ quốc thổ, chống quân địch, đồng thời hoằng dương đạo Phật. Ở đây, vai trò xiển phát của Mật tông rất quan trọng. Theo sử, nước Khotan (tiếng Hán là Vu Điền) bị sáp nhập vào Trung Hoa, thành một trấn của phủ An Tây (năm 658), nhưng vẫn là một vương quốc tự trị. Từ đây tín ngưỡng Tỳ Sa Môn lan sang Trung Hoa. Theo một nghiên cứu, thời Đường Thái Tông (627-649), Thiên Vương được đưa vào thờ cúng trong Hoàng thất, thời Đường Huyền Tông (713-756) được đưa vào việc giáp binh, đến thời Đường Hiến Tông (806-820) thì được thờ cúng trong toàn quốc.(6) Về việc đưa Tỳ Sa Môn vào chiến trận, sử sách có ghi rằng năm 742, Khotan và cả An Tây bị quân Thổ Phồn xâm chiếm. Chính lúc này, vai trò “hộ quốc” của Tỳ Sa Môn Thiên Vương được đề cao. Và Phật giáo (Mật tông) Trung Hoa tranh thủ cơ hội đó để huyền thoại hóa sự kiện lịch sử thành câu chuyện nói trên để đề cao vai trò của mình khiến các vua Đường sùng bái Mật tông. Vai trò “hoằng dương Phật pháp” này thuộc về pháp sư Bất Không Kim Cương (có nhiều chỗ còn gọi là Bất Không Tam Tạng). Bất Không Kim Cương (704-774) là nhà sư tu hành theo Mật giáo, tổ thứ 6 của Mật tông Trung Hoa, cũng là dịch giả kinh Phật nổi tiếng (bên cạnh Cưu Ma La Thập, Chân Đế và Huyền Trang), quê gốc ở Sri Lanka, từng tòng quân, dùng Mật tông để giúp quân đội nhà Đường đánh địch, lập được nhiều chiến công, điển hình là việc ông ứng dụng kinh Nhân vương để ngăn chặn cuộc tấn công của 20 vạn quân Tây Tạng vào Trường An. Việc xiển dương Tỳ Sa Môn Thiên Vương của Bất Không cũng nằm trong chuỗi thành tích này. Trong cuốn Bắc phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương tùy quân hộ pháp nghi quỹ do sư Bất Không Kim Cương dịch (và phóng tác), có kể truyện: Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), thành An Tây (nay là Cao Xương và Tân Cương) bị quân Thổ Phồn bao vây, Tỳ Sa Môn Thiên Vương đã xuất hiện ở trên lầu cửa bắc của thành An Tây, phóng chiếu ánh sáng; lại có chuột vàng cắn đứt dây cung của địch, cộng với thần binh mặc áo giáp đánh trống vang dội làm trời long đất lở, quân Thổ Phồn tan vỡ. Thành An Tây dâng tấu lên triều đình, Đường Minh Hoàng cảm ân nghĩa, ra sắc lệnh “phía Tây Bắc thành của các đạo, châu phủ và doanh trại đều phải dựng tượng [Tỳ Sa Môn Thiên Vương]” để cúng dường thần; các chùa Phật cũng phải lập viện riêng để cúng. Điều này cũng được nhiều thư tịch khác ghi nhận.(7) Từ đó trở đi, uy danh của Tỳ Sa Môn Thiên Vương rất lớn, được thờ cúng không dứt. Các lễ rước tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương rất lớn do các vua Đường ủng hộ được ghi nhận khá nhiều. Chẳng hạn, mục “Đế vương bộ, sùng Thích thị” trong Sách phủ nguyên quy kể: “Ngày Giáp Thân, tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ 10 (815), chùa Phật Tây Minh dời tượng thần Tỳ Sa Môn trong chùa sang chùa Khai Nghiệp, Hoàng đế (Hiến Tông), sai giả làm quân kỵ, hộ vệ trước sau, dòng tín đồ dùng ô lọng dẫn hầu dài đến mấy dặm liên tục, người xem náo động cả đô thành”; “Tháng 11 năm Trường Khánh thứ 3 (823), [vua] đi chơi Thông Hóa Môn, quán [ở đây] làm [tượng] thần Tỳ Sa Môn, nhân đó ban tặng 500 súc lụa. Tháng 12, lại lấy 1.000 quan tiền tặng chùa Chương Kính, lại tặng biển đề “Tỳ Sa Thiên Vương”, dùng cờ phướn để dẫn đường. Hoàng đế (Mục Tông), ngự ở cửa Vọng Tiên trông thấy, bèn cử nhạc và tạp hí, thổi tù và, vui vẻ hết cỡ mới thôi”; “Ngày Ất Tỵ, tháng 2 năm Khai Thành thứ 2 (837), do Thái Tông Hoàng Đế trước đây đã đặt [tượng] thần Tỳ Sa Môn và [đồ] công đức tại điện Bồng Lai, nên ngày hôm ấy, dời [tượng và đồ công đức] ra mà phối đặt ở các chùa” (Tạm dịch).(8) Dân gian cũng sùng bái Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Trong nhiều huyện, thành, chùa chiền đều có xây dựng Thiên Vương Đường, Thiên Vương Viện, Thiên Vương Miếu, Thiên Vương Từ… Quân nhà Đường còn vẽ hình Tỳ Sa Môn Thiên Vương trên quân kỳ, cho thấy vị trí “chiến thần” rất quan trọng của vị thần này. Bài “Tế văn thư dược phương tổng tự” trong sách Thần cơ chế địch Thái Bạch âm kinh (quyển 7) của Lý Thuyên (thời Đường) có chép: “Quốc gia biết vị thần ấy, bèn lập miếu ở nơi biên cương. Nguyên soái lại vẽ hình thần trên lá cờ, gọi là “cờ thần”, đưa ra đặt trước các cờ tiết khác, để khi xuất quân thì tế cờ thần này” (Tạm dịch).(9) Bài “Linh Sơn tố Bắc phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương bi” trong Hoàng Ngự sử tập (quyển 5) của Hoàng Diễm (840-911) cũng chép: “Thiên Vương Tỳ Sa Môn, từ trong niên hiệu Thiên Bảo (742-756), có sứ thần đến nước Vu Điền được chân hình mang về, càng làm tăng sự tôn kính trong nước. Lữ đại phu Nhuế quốc công ở bến Kinh mà đắp tượng. Phàm trăm thành trì, không đâu là không có tượng. Đây phía bắc thành Phúc Châu cũ, cũng là quy mô xưa vậy. Đây thiết chế của thành mới, là thành ngày nay vậy. Vả thắng cảnh chẳng đâu đẹp như chùa Khai Nguyên, sùng thượng chẳng đâu bằng như Linh Sơn của chùa. Gò dựa vào hướng Cấn của chùa, khống chế hướng Ất của thành, [tháp] nhạn tổ tăng trải đã sáu đời, phía dưới có đá quý chống sao, phía trên có ao Kiếm tận tả, Phi Sơn chạy mãi, đủ để xây Thủy Tinh cung điện ngọc ngà, dựng miếu mạo để bảo vệ thành trì. Chọn lựa thợ thuyền rất tinh, tìm người đắp tượng rất giỏi, chế tác nhờ tố chất thánh thần, nguy nga biến hóa, thân mặc áo giáp vàng, tay đỡ tháp nhạn, thổ địa đỡ ở dưới, thiên tướng phò ở trước, ánh sáng rực rỡ lấp lánh, tinh thần hùng dũng như muốn gầm gào. Người xem đều trầm trồ: Cung điện núi Tu Di ở đây, phân thân nước Vu Điền cũng ở đây” (Tạm dịch)…(10) Sự thờ phượng vậy là rất thịnh, những mong nhận được sự phò trợ của thần. Và quả thực, trong thời Đường, sau sự kiện năm 742, có nhiều lần Tỳ Sa Môn Thiên Vương “hiển linh” để giúp đuổi quân giặc hay giúp đỡ quốc gia và dân chúng. Chẳng hạn, “Truyện Trí Quảng” trong Tống cao tăng truyện có kể: “Trong niên hiệu Hàm Thông (860-873), vua Nam Man (tức Nam Chiếu) là Cập Thản Xước đến vây phủ Thành Đô, khi mấy lần bị hãm, Thiên Vương hiện hình thành [Tỳ] Sa Môn, cao khoảng 5 trượng, mắt bắn tia sáng, quân Nam Man lập tức rút lui. Vì vậy, người Thục đặt tượng hình nhà sư cao năm trượng ở chùa Bảo Lịch phía bắc thành để thờ” (Tạm dịch).(11) Có khi Thiên Vương hiện hình để sửa lại cột cầu. Cuốn Sách phủ nguyên quy quyển 26 (mục “Đế vương bộ thần trợ”) chép: “Ngày Giáp Thân tháng Giêng năm thứ ba niên hiệu Càn Nguyên (760), lại thấy Trung Thư môn hạ kể: Cầu Hà Dương lệch vì nước sông xói vào, khiến cho cầu nối bị vẹo. Đêm trước, có một viên lại trong quân, trong đêm đứng dưới cửa cầu, thấy có thần nhân nói: Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, vì quốc gia mà sửa lại trụ cầu này cho ngay ngắn. Đến sáng hôm sau, cầu liền thẳng trở lại” (Tạm dịch).(12) Ngoài ra, ở giai đoạn này, Tỳ Sa Môn Thiên Vương còn hiển linh giúp người dân chữa bệnh nan y .v.v...(13) Đến thời Ngũ đại thập quốc (907-969), tín ngưỡng thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nhiều vị đế vương ở các nước “chư hầu” thời bấy giờ khá sùng tín Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Thiên “Đường Vũ Hoàng kỷ” trong Cựu ngũ đại sử (quyển 25, do Tiết Cư Chính, thời Bắc Tống, chủ biên) chép: “Phía bắc Tân Thành có đền Tỳ Sa Môn, giếng trước đền một ngày nọ nước dâng tràn, Vũ Hoàng (Lý Khắc Dụng) nhân cầm chén rượu mà tế rồi nói: ‘Ta có chí tôn chủ, cứu dân. Không lý do gì mà giếng lại tràn, vì vậy chưa cần xem xét họa phúc của nó. Duy Thiên Vương nếu như có thần kỳ, có thể cùng kẻ bộc này nói chuyện.’ Rượu rót chưa dứt, có thần nhân mặc giáp vàng cầm giáo, nghiễm nhiên xuất hiện trên tường. Những người trông thấy đều cả sợ chạy, duy có Vũ Hoàng thung dung mà lui, từ đó càng thêm tự phụ” (Tạm dịch).(14) Thiên “Đường mạt đế kỷ” trong Cựu ngũ đại sử (quyển 47) chép: “Năm Canh Thân (960), Nghiệp Đô dâng áo giáp của Thiên Vương. Lúc Hoàng đế còn chưa tại vị, có tướng sĩ nói trông Hoàng đế như Tỳ sa Thiên Vương. Đế biết việc đó, trộm mừng. Đến khi lên ngôi, tuyển những kẻ khôi ngô hùng dũng trong đám quân sĩ, cho mặc áo giáp như Thiên Vương, sai làm quân túc vệ. Nhân ban chiếu cho các đạo chế tạo loại áo giáp này để dâng lên” (Tạm dịch).(15) Giai đoạn này, Tỳ Sa Môn Thiên Vương cũng hiển linh trong các cuộc chiến. Chẳng hạn, thiên “Tấn Cao Tổ kỷ” trong Cựu ngũ đại sử (quyển 75) chép: “Tấn Dương có Bắc cung; phía trên cung thành có đền Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Hoàng đế thường đốt hương Tu, Mặc, mà cầu đảo thần. Qua mấy ngày, cửa phía tây bắc thành chính là nơi chịu sự tấn công của giặc, quân hầu phi báo rằng: Đêm đến có một người, cao hơn một trượng, cầm mác, đi trên mặt thành, lâu sau mới chẳng thấy nữa. Hoàng đế lấy làm lạ” (Tạm dịch).(16) Sách Cổ kim hợp bích sự loại bị yếu (quyển 69 “tiền”, do Tạ Duy Tân thời Nam Tống soạn trước năm 1257) có truyện “Tỳ Sa Môn Thiên Vương” chép rằng: “Các nhà sư truyền rằng, thời Lý hậu chủ (960-976), ở Giang Nam, nước Đại Tống sắp hưng lên, bỗng nhiên thấy trên thành [Thăng] Châu có thần hiện lên, ấy như bánh xe, trên trán có ánh sáng ngọc, sáng lòa như mặt trăng, mặt trời, quân dân đều nhìn thấy, mấy ngày sau thì mất. Nay lầu Thiên Vương chính ở chỗ đó” (Tạm dịch).(17) Sang thời Tống (960-1279), kế thừa các triều đại trước, việc thờ cúng Tỳ Sa Môn (đặc biệt là trong quân đội) càng thịnh hành, gần như mỗi chi đội doanh trại đều có dựng “Thiên Vương Đường” để cầu đảo. Sách Hương Tổ bút ký (quyển 8) của Vương Sĩ Trinh (1634-1711) có chép rằng: “Lễ chế nhà Tống: trong doanh quân có Thiên Vương Đường”.(18) Vương Sĩ Trinh cũng giải thích việc này từ câu chuyện của Bất Không Tam Tạng thời Đường khiến người đương thời hết sức sùng bái. Bài “Tế Tỳ Sa Môn Thiên Vương văn” trong sách Hổ kiềm kinh (quyển 2) của Hứa Động (976-1015) ca ngợi Tỳ Sa Môn: “Ôi! Thiên Vương thần thông quảng đại, uy đức chấn động; dựa vào chính vị của thái âm, hàng phục yêu quỷ khắp thiên hạ. Tay trái đỡ tháp, tôn thần hiển linh ở Tây thổ; tay phải chống mác, du chơi hiển hách ở phương bắc; ra tay lần một thì ma quỷ hãi hùng, ra tay lần hai thì sa giới rúng động; mắt phóng điện mà mặt trời tối lại; tóc tụ màu lam mà mây dồn…” (Tạm dịch).(19) Sự hiển linh trợ chiến của Thiên Vương vẫn tiếp tục được ghi nhận. Chẳng hạn, truyện “Thiên Vương” trong sách Toản dị ký của Lý Mai (thời Tống) [in trong bộ Thuyết phu, quyển 118], chép: “Thành Tý ở Tú Châu có lầu Thiên Vương, trong niên hiệu Kiến Viêm (1127-1130), người Kim phạm vào các xứ Thuận, Tô, Tú quấy nhiễu, sắp phá được thành Tý. Có Thiên Vương hiện trên thành, to lớn như mấy gian nhà, đại binh [giặc] đều trông thấy, kinh hãi, bèn bỏ chạy, biên giới một châu mới được yên. Đến khi loạn được dẹp yên, bèn dựng lầu ở góc tây bắc thành” (Tạm dịch) v.v...(20) Nghiên cứu các bức tranh, tượng, các bài thơ tả Tỳ Sa Môn Thiên Vương thời Đường, Tống, các nhà nghiên cứu nhận thấy đặc điểm của hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương là: có tùy tùng đi theo khoảng mấy chục quỷ dạ xoa, hai con dị thú, tay cầm đại kích hoặc/và trường kiếm, tay kia xách bảo tháp (tháp lớn, tháp nhạn), mặc áo giáp vàng (hoặc áo giáp Tây Tạng), tóc xõa, đeo vàng ngọc,… Đây là hình ảnh Thiên Vương được du nhập từ Khotan với một vài chỉnh đổi cho hợp với địa phương. Đến thời Nguyên, Minh-Thanh, hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương mới có thêm các đặc điểm: đầu đội mũ ngọc tỳ lô, tay cầm cái dù (ô), biểu thị ý phúc đức, điều hòa mưa gió,... Lúc này, hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở Trung Hoa cũng được bản địa hóa, dân gian hóa (nhờ kết hợp với Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian) trở thành nhân vật Thác Tháp Thiên Vương họ Lý (lấy nguyên mẫu lịch sử là Lý Tịnh thời Đường) kèm theo đó là các nhân vật có liên quan (Na Tra Thái Tử, Nhị Lang Thần v.v...) rất phổ biến trong huyền thoại (đặc biệt là trong huyền thoại Phật giáo, Đạo giáo: truyện các cao tăng, các công án, kì án...) cũng như trong tiểu thuyết chương hồi và hý khúc Minh-Thanh (Thủy hử, Phong thần diễn nghĩa, Tây du ký...). Ảnh hưởng của Thiên Vương càng ngày càng sâu đậm. Tín ngưỡng thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương cũng được truyền sang Nhật Bản, ở đây Tỳ Sa Môn Thiên Vương trở thành một trong bảy vị “phúc thần” trong tín ngưỡng dân gian nước này; đồng thời, địa vị chiến thần hộ quốc của Thiên Vương cũng không ngừng được củng cố. Thời Khuông Việt sống là giai đoạn chuyển giao các triều đại Đường - Ngũ đại thập quốc - Tống, các đường ranh giới quốc gia, lãnh thổ, dân tộc còn khá mờ nhạt, cần có thời gian xác lập, phân định và hoàn thiện. Hơn nữa, lúc bấy giờ nước Việt tách ra khỏi Trung Hoa sau ngàn năm “nội thuộc” chưa lâu. Ảnh hưởng của văn hóa Đường-Tống còn khá trực tiếp. Bởi vậy, có thể nói, tín ngưỡng thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương (trong Phật giáo và trong thế tục) hẳn có ảnh hưởng trực tiếp từ phương bắc xuống. Một ví dụ về chính sách Phật giáo của phương bắc có ảnh hưởng đến phương nam được TUTA ghi nhận. Truyện “Quốc sư Thông Biện” dẫn lời truyền của Tùy Cao Tổ cho Pháp sư Đàm Thiên: “Trẫm nghĩ đến lời dạy từ bi của đức Điều Ngự, muốn báo đền công đức, không biết làm sao. Trẫm trộm làm bậc nhân vương, rộng giúp Tam bảo, đã khắp ban di thể xá lợi, đồng thời ở trong nước dựng bảo tháp phàm 49 cái để làm bến cầu giác ngộ cho đời, còn hơn 150 tự tháp ngoài do các xứ kiến lập mong tạo phước nhuận thấm tới đến cả thế giới đại thiên. Song xứ Giao Châu kia tuy đã nội thuộc, nhưng còn ky my, nên phải chọn những sa môn danh đức, đến các xứ của châu ấy để dạy dỗ, hầu khiến cho tất cả đều giác ngộ”.(21) Tư tưởng “giáo hóa”, “khai hóa” của Tùy Cao Tổ cũng là chủ trương của nhiều ông vua Trung Hoa khác. Vì vậy, hẳn không phải không có lý khi suy đoán tín ngưỡng Tỳ Sa Môn Thiên Vương có thể du nhập vào đất Việt từ thời Đường. Tuy nhiên, có thể, do lúc đó ý thức về quốc gia, dân tộc (và việc bảo vệ nó) còn chưa thực sự rõ nét nên ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương với tư cách thần “hộ quốc” hẳn chưa phát triển (nếu có thì phần nhiều là trong nhà chùa, như một vị thần hộ pháp, mà bóng dáng của thần có thể xuất hiện từ thời Thiền sư Cảm Thành/Chí Thành (? -860) trong truyện “Thiền sư Cảm Thành” trong TUTA và truyện “Xung Thiên Dũng Liệt Chiêu Ứng Đại Vương” trong VĐUL(22)). Đến thời Khuông Việt, nước ta thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa, ý thức quốc gia, dân tộc dần được hình thành, một vị thần hộ quốc, bảo vệ vương quyền là điều cần thiết, cấp thời. Tuy nhiên, về văn hóa tín ngưỡng, sự độc lập còn cần có quá trình kiến tạo, xác định. Vì vậy, sự độc lập, tự chủ về cương vực, thể chế không đồng nghĩa với sự độc lập, tự chủ về văn hóa, tín ngưỡng. Do đó, sự thịnh hành của tục sùng bái Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở Trung Hoa hẳn có ảnh hưởng nhất định đến nước Việt. Hơn nữa, có thể nói, lúc đó Tỳ Sa Môn Thiên Vương (và Phật giáo) đã là tín ngưỡng có tính khu vực, “tính quốc tế”, nên việc chịu ảnh hưởng cũng là đương nhiên, tự nhiên. Việc Khuông Việt và qua đó là triều Tiền Lê thờ phụng Tỳ Sa Môn Thiên Vương hẳn cũng không phải là ngoại lệ. Như Hạnh có lý khi cho rằng: “Nếu như chúng ta hoàn toàn dựa vào đoạn về giấc mơ của Khuông Việt trong tiểu sử của ông thì tục thờ Vaisravana (…) bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10. Tuy nhiên, sự kiện Khuông Việt nằm mơ thấy Tỳ Sa Môn khiến chúng ta có thể dự đoán rằng Tỳ Sa Môn hẳn phải là một vị thần đã được biết đến và thờ phượng trong Phật giáo và tôn giáo Việt Nam nói chung rồi. Từ viễn cảnh lịch sử, chúng ta khó mà tin rằng tự dưng Khuông Việt lại nằm mơ thấy Tỳ Sa Môn được”.(23) Mặc dù vậy, cũng không loại trừ khả năng, Khuông Việt là người đầu tiên du nhập Tỳ Sa Môn Thiên Vương qua việc đọc các thư tịch, đặc biệt là thư tịch (Mật tông) An Độ, Trung Hoa và muốn dựa vào uy danh của vị thần này. Hành tích của Khuông Việt cho thấy, ông là thiền sư vừa chịu ảnh hưởng của Thiền tông (dòng Vô Ngôn Thông hay Quan Bích), vừa chịu ảnh hưởng của Mật tông (điều này có thể chứng minh qua các cột kinh Mật tông ở Hoa Lư, việc cầu đảo Tỳ Sa Môn…).(24) Phật giáo thời Đinh, Lê, Lý cũng mang đậm sắc thái của Mật tông. Việc sùng bái Tỳ Sa Môn Thiên Vương của Khuông Việt cũng tương tự như trường hợp Bất Không Kim Cương ở Trung Hoa, vừa đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm của vương triều, vừa nâng cao vị thế của Phật giáo trong con mắt triều đại. Điều này được chính nhân vật Tỳ Sa Môn trong giấc mơ Khuông Việt phát biểu (“giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành”). Hình ảnh Tỳ Sa Môn Thiên Vương “mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ” thể hiện dấu ấn ảnh hưởng của tín ngưỡng này qua con đường Trung Hoa (cộng thêm những nét gốc gác Ấn Độ vốn có). Như Hạnh cũng đã khẳng định khá đúng rằng: “Tỳ Sa Môn đã du nhập nước ta qua ngả nào không phải là một vấn đề giản dị. Vì dù rằng Tỳ Sa Môn nguyên thủy là một thần linh Ấn giáo được Phật hóa trong Phật giáo Ấn Độ, song vào đời nhà Đường, khi Phật giáo đã du nhập Việt Nam qua ngả Trung Hoa từ vài thế kỷ rồi, rất có thể là Tỳ Sa Môn đã qua Việt Nam theo lối này. Tuy nhiên, như đã nhận định, rằng Tỳ Sa Môn đảm nhận những vai trò khác nhau ở các quốc gia khác nhau mà thần được thờ. Không những thế về mặt hình tượng (iconography) Tỳ Sa Môn cũng thay đổi từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Dựa vào mặt này chúng ta có thể kết luận rằng Tỳ Sa Môn sang Việt Nam qua ngả Trung Hoa (NTT nhấn mạnh). Ở đoạn trên trong tiểu sử Khuông Việt chúng ta đọc thấy rằng Tỳ Sa Môn mặc giáp vàng, tay trái cầm thương tay phải cầm bảo tháp và có các dạ xoa tùy tùng. Ở Ấn Độ thì Tỳ Sa Môn (dưới danh xưng Kubera) lại được mô tả là cầm một cây thương, một túi tiền và một con chồn. Có thể nói là ở Việt Nam Tỳ Sa Môn tổng hợp các thành tố Ấn Độ và Trung Hoa cũng như Phật giáo và bình dân. Tỳ Sa Môn trở thành thần bảo vệ Phật pháp và quốc gia Việt Nam. Thần còn đáp lại lời cầu đảo của Khuông Việt và giúp Lê Đại Hành đánh tan quân Tống”.(25) Câu chuyện Thiên Vương báo mộng, nhập vào cây và yêu cầu tạc tượng dường như cũng mang dấu ấn Trung Hoa. Chi tiết “Đến sáng sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ” có phần nào đó tương tự như câu chuyện được kể tại Trung Hoa. Sách Thuần Hy tam sơn chí quyển 7 chép: “Thiên Vương Viện, ở làng Tân Hiền. Năm thứ 7 niên hiệu Đại Trung (853), dựng viện. Ban đầu có cây gỗ đàn trôi ngược dòng sông mà lên, mục đồng vớt nó lên. Đêm đến, cây phát quang, người làng là Lâm Kỳ mơ thấy cây ấy nói: Ta là Bắc phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Người ấy bèn cúng nhà làm chùa, Liêm soái công dâng tấu xin ban cho tên là Linh Cảm Thiên Vương Tự. Trong chùa có gác Thiên Vương, có tượng bằng gỗ đàn, nay vẫn còn” (Tạm dịch).(26) Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng, ngay tích truyện Trung Hoa cũng có nguồn gốc Ấn Độ. Bởi truyện “Man Nương” trong LNCQ lại cho ta một ví dụ về nguồn gốc Ấn Độ của việc thần ngụ vào cây và đợi người ta tạc thành tượng như trong mộng, hoặc báo ứng.(27) Mặc dù vậy, trên thực tế, ta thấy nhiều ảnh hưởng từ Ấn Độ đến Việt Nam lại đi qua con đường trung gian là Trung Hoa. Phân tách được câu chuyện đến từ đâu, đúng như Như Hạnh nói, “không phải là điều giản dị”. Nhưng xác định nguyên nhân có sự hiện diện của thần trong một không gian - thời gian xác định còn phức tạp hơn những gì hiện lên từ những ghi chép ít ỏi. Về thời gian xuất hiện của thần, TUTA gắn Tỳ Sa Môn Thiên Vương với chiến công đánh Tống năm 981: “Năm Thiên Phúc thứ nhất (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ”. Sự hiển linh này khá gần gũi với câu chuyện Tỳ Sa Môn Thiên Vương đuổi giặc Thổ Phồn, cũng như những lần hiển linh đuổi giặc khác ở Trung Hoa. Điều lưu ý ở đây là Tỳ Sa Môn Thiên Vương đã giúp Lê Hoàn chống quân Tống. Như Hạnh cho rằng: “câu chuyện về giấc mơ của Khuông Việt trong TUTA cho chúng ta một ví dụ điển hình về những nỗ lực đầu tiên của giới lãnh đạo Phật giáo trong việc thiết lập nguồn gốc của quốc gia Việt Nam trong Phật giáo. Chúng ta thấy những nỗ lực này cũng phản ánh qua cả các hành động tiên tri của một số cao tăng khác như Định Không và La Quý cũng như một vài truyện khác được ghi chép trong VĐUL và LNCQ”.(28) Nhưng thiết nghĩ, điều này chưa hẳn đúng, vì tín ngưỡng thời Tỳ Sa Môn Thiên Vương đã khá phổ biến ở Trung Hoa, đặc biệt trong quân đội nhà Tống. Vậy phải chăng, với động thái nhờ cậy (“cầu đảo”) Tỳ Sa Môn Thiên Vương, thì nếu như “vô tình”, đó là sự tắm chung trong một dòng văn hóa tín ngưỡng (của thế kỷ thứ X), còn nếu như “cố ý”, Khuông Việt đã dùng sách lược “gậy ông đập lưng ông”, dùng chính tín ngưỡng được quân nhà Tống ưa chuộng để khích lệ quân đội nước Việt chiến thắng quân địch. Về không gian xuất hiện, ta có thông tin về địa điểm thờ và địa điểm hiển linh. TUTA ghi chép khá ngắn về địa điểm thờ: “Sư từng đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần…”. Về địa điểm hiển linh, TUTA còn ghi chép vắn tắt hơn, chỉ cho biết là ở sông Hữu Ninh (mà các nhà nghiên cứu ngày nay đã xác định là cửa sông Bạch Đằng).(29) Tại sao sư Khuông Việt lại mơ thấy Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở núi Vệ Linh chứ không phải một nơi nào khác? Điều này phải chăng có liên quan đến địa danh Vệ Linh và đặc biệt là địa danh “quận Bình Lỗ”? Tra trong sử sách thì “quận Bình Lỗ” không phải là một địa danh bình thường mà có gắn bó chặt chẽ với cuộc chiến chống Tống năm 981 của Lê Hoàn. Theo ghi chép của nhiều bộ chính sử (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục…), thời Đinh, Lê đã có sự hiện diện của một “thành Bình Lỗ” có ý nghĩa lớn trong cuộc chiến tranh chống Tống. Điều này được hé lộ trong lời “di chúc” của người anh hùng dân tộc, nhà quân sự tài ba Trần Quốc Tuấn: “Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống (Đinh Lê chi thế bạt đắc hiền lương, Nam địa tân cường Bắc phương bì nhược, thượng hạ đồng dục, dân tâm bất li, trúc Bình Lỗ thành nhi phá Tống quân…).(30) Trong Dụ chư tỳ tướng hịch văn, dường như Trần Quốc Tuấn cũng nói đến địa danh Bình Lỗ: “Sử Bình Lỗ chi hậu, vạn thế di tu” (Khiến cho sau [trận] Bình Lỗ, muôn đời để lại nỗi thẹn thùng). Tác phẩm Việt sử diễn âm (khuyết danh, thế kỷ XVI?) lại có đoạn nói về “thành Phù Lỗ” như sau: “Tháng bảy có Tống binh sang/ Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn/ Đến thành Phù Lỗ đóng vây/ Quân ta quân nó đôi bên ngất trời”.(31) Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh “Bình Lỗ - Phù Lỗ (rồi Đồ Lỗ…)” chỉ là sự biến đổi địa danh theo thời gian và theo sự lưu truyền văn bản trong lịch sử. Toàn thư cũng cho biết đến thời Lý vẫn còn tồn tại một “Bình Lỗ Quan” như một “địa điểm” quan trọng trong các chiến dịch quân sự: “Tháng 5, ngày Tân Mão [năm 1114], quân của Lợi kéo về cướp kinh sư, đóng ở Quảng Dịch, gặp quân của Anh Vũ, đánh lớn. Quân của Lợi thua, chết không kể xiết. Anh Vũ sai chém lấy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ Bình Lỗ Quan đến sông Nam Hán. Bắt được thủ lĩnh châu Vạn Nhai là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu Ái, đóng cũi giải về kinh sư. Lợi chỉ chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Ngày Nhâm Ngọ, giải bọn Mục và Ái về trói giam ở huyện phủ của chúng. Xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập bọn tàn tốt của Lợi ở cửa Bình Lỗ quan. Phát muối kho công cho bọn Mục và Ái”.(32) “Bình Lỗ Quan” là gì? “Quan” có khá nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa đáng chú ý: thứ nhất, “dải đất phụ cận bên ngoài cửa thành” (thành môn ngoại phụ cận đích địa đới); thứ hai “ải quan yếu, cửa khẩu” (yếu ải, quan khẩu) như ở Trung Quốc có Nhạn Môn Quan, Sơn Hải Quan, Việt Nam có Quỷ Môn Quan, Hải Vân Quan. Chẳng hạn, sách Quảng nhã. Thích hỗ tam giải thích: “quan, tức là ải” (quan, ải dã). Sách Mạnh Tử (Tận tâm hạ) nói: “ngày xưa xây dựng cửa ải, là để chế ngự bạo loạn” (cổ chi vi quan dã, tương dĩ ngự bạo).(33) Như vậy, có thể nói, đến giữa thời Lý, Bình Lỗ vẫn là một cửa ải trấn giữ quan trọng ở phía bắc đất nước. Ngoài ra, sử sách cũng nhắc nhiều đến sông Bình Lỗ (còn có tên là Cà Lồ/ Đồ Lỗ nối với sông Bạch Đằng) như một địa danh quan trọng trong cuộc đấu tranh chống Tống (thời Tiền Lê và thời Lý). Vì sao lại có tên là “quận/ thành Bình Lỗ” (dẹp giặc/ san phẳng quân giặc/ dẹp bọn tù binh)? Hẳn nó gắn với những chiến công chống giặc xâm lược. Nếu căn cứ vào lời Trần Quốc Tuấn thì có lẽ cái tên này ra đời vào thời Đinh, Lê gắn với chiến công đánh giặc Tống của các vua này. Tiếc rằng chính sử khi chép về thời Đinh, Lê không nói đến chiến công nào ở thành Bình Lỗ (đặc biệt là thời Đinh). Nhưng một vài thư tịch xưa cũng nhắc đến những trận đánh xung quanh đây. Chẳng hạn, sách LNCQ (Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt) cho biết: “Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành (981), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân xâm lược phương nam. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lạng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối lũy”, và cuối cùng quân Tống phải “xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau, ai lo chạy thoát thân người ấy, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống đại bại mà về”.(34) Những trận đánh xung quanh đó (thời Lê Đại Hành) được các nhà sử học ngày nay chứng minh. Họ cũng đã chứng minh sự hiện diện của thành Bình Lỗ/sông Bình Lỗ trong chiến dịch chống Tống của Lê Hoàn (và sau này là của Lý Thường Kiệt) và thực sự đã có một trận Bình Lỗ đóng vai trò then chốt trong thắng lợi chung của cuộc chống Tống năm 981.(35) Từ bối cảnh lịch sử này, có thể đặt ra câu hỏi: Phải chăng trong giai đoạn giao thoa giữa nhà Đinh và Tiền Lê, trước sự lăm le “điếu phạt” của nhà Tống, rất có thể Lê Hoàn đã [bí mật] sai Khuông Việt đến khảo sát, chuẩn bị để xây dựng thành luỹ Bình Lỗ chống giặc (ta nhớ rằng, chuyến đi của Khuông Việt đến Bình Lỗ xảy ra trước năm 981)? Và đương nhiên, thường khi xây thành, người ta cần đến một vị thần bảo hộ thành trì, trấn giữ các phương, đặc biệt là phương Bắc. Có lẽ, từ nhu cầu đó, Tỳ Sa Môn Thiên Vương đã được Khuông Việt lựa chọn. Và để hợp lý hóa cho sự lựa chọn đó, một giấc mơ đã được vẽ nên. Núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ lại nằm ở phương bắc so với kinh đô Hoa Lư lúc bấy giờ (và cả thành Đại La - kinh đô Thăng Long sau này). Áp dụng vũ trụ quan Phật giáo, ta còn có thể suy luận, ở đây, Khuông Việt đã ngầm so sánh/đề cao vua Đinh/Lê như là Đế Thích (Thiên Đế) ở trong Phật giáo, có Tỳ Sa Môn Thiên Vương hộ vệ phía bắc “giữ gìn biên cương” đồng thời (Khuông Việt “gài thêm” ý) “khiến cho Phật pháp thịnh hành” nhằm mục đích xiển dương Phật pháp. Phải chăng Tỳ Sa Môn Thiên Vương là thần hộ vệ của thành luỹ Bình Lỗ và cửa ngõ phía bắc nói chung. Cũng vì như vậy, về sau này được gọi là Sóc Thiên Vương (Thiên Vương phía bắc – tên gọi này bắt đầu từ Việt điện u linh – tục tập của Nguyễn Văn Chất/Hiền, trong đó vị thần nhân trong giấc mơ Khuông Việt “tự xưng là Sóc Thiên vương” (tập 2, tr.39). Truyện “Thiền sư Trường Nguyên” (TUTA) có nói đến nơi trụ trì của sư là “chùa Sóc Thiên Vương, núi Vệ Linh, chợ Bình Lỗ”(36) chính là nơi này? Lê Mạnh Thát cũng nghi ngờ chùa Sóc Thiên Vương do Khuông Việt lập nên.(37) So sánh với đoạn nói về Khuông Việt: “Bình Lỗ Quận, Vệ Linh Sơn”, phải chăng “Bình Lỗ Thị” ở đây là “quận” hoặc đã được đổi thành “trấn thành” (thị) hay “quan” (cửa quan)? Hoặc giả đúng đó là “chợ” đi chăng nữa thì chúng ta chú ý rằng: chợ thường được làm nơi đông đúc dân cư, vậy phải chăng “chợ Bình Lỗ” nằm gần/hoặc trong thành/cửa quan Bình Lỗ. Vậy thì, việc Khuông Việt đến núi Vệ Linh hẳn không phải để “chơi” (nguyên văn “du”, mà “du” cũng chưa hẳn chỉ dịch là “chơi” mà còn có nghĩa là “đi”, “đi lại” - hành tẩu) mà còn có mục đích khảo sát địa thế nơi này. Vì sao các vua lại chọn Khuông Việt cho công việc đó? Đương nhiên vì Khuông Việt là “Tăng thống”, người tinh thông phong thủy và cả Mật tông nữa. Nhưng có lẽ còn một nguyên nhân là ông quê ở “hương Cát Lợi, quận Thường Lạc”. Hương Cát Lợi, quận Thường Lạc ở đâu? Theo khảo sát của các nhà nghiên cứu, hương Cát Lợi, quận Thường Lạc nằm ở trong khoảng địa phận huyện Kim Anh (tỉnh Sơn Tây) nay là huyện Sóc Sơn (Hà Nội).(38) Như vậy, có thể nói, quê hương của Khuông Việt khá gần với núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ. Do đó, ông khá am hiểu vùng đất này. Nếu giả thiết này của chúng tôi đúng thì nó sẽ cho phép chúng ta xác định được một cách tương đối vị trí của “thành Bình Lỗ” trong cựu sử. Bởi theo thông lệ thời đó (ở Trung Hoa), đền Tỳ Sa Môn Thiên Vương nằm ở phía (tây) bắc của thành trì. Sự xác định này trùng hợp với dự đoán của một số nhà sử học hiện đại về vị trí của thành Bình Lỗ. Việc Lê Hoàn sai Khuông Việt dựng đền/cầu đảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương có lẽ cũng nằm trong một loạt động thái “cậy nhờ” vào thần linh để trợ chiến, trong đó được ghi lại nhiều hơn cả là việc cầu đảo/hiển linh (của) Trương Hống, Trương Hát (xem VĐUL, LNCQ). Sử liệu và thần tích có ghi chép việc Lê Hoàn cũng sai người vào đền Trương Hống, Trương Hát để cầu và đọc bài “thơ thần” trợ giúp cho trận đánh trên sông Cầu (khúc sông Như Nguyệt). Địa điểm thần trợ giúp quân nhà Lê cũng chính là nơi mà thần được thờ tự. Theo Tạ Chí Đại Trường, Trương Hống, Trương Hát là thần sông. Vậy trận đánh trên sông cần có thần sông. Còn đây là thành, là cửa quan, vậy cần đến một vị thần khác, thần bảo vệ cửa quan, thành quách. Và Tỳ Sa Môn Thiên Vương thích hợp với vai trò đó (thần bảo vệ thành phố và tự viện) ở chính nơi xảy ra trận chiến cam go giữa quân nhà Tiền Lê và quân Tống. Thậm chí, một vài tư liệu còn có xu hướng đánh đồng hoặc nhập nhòe sự kiện cầu đảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương ứng nghiệm và sự hiển linh của Trương Hống, Trương Hát (như Việt sử diễn âm, Thiên Nam vân lục liệt truyện) dẫn đến nghi ngờ ông Hống, ông Hát có bóng dáng Tỳ Sa Môn Thiên Vương.(39) Đây cũng là một trong những chứng cứ để có nhà nghiên cứu đi đến phỏng đoán rằng bài thơ Nam quốc sơn hà (được đọc tại đền Trương Hống/ Trương Hát) là sáng tác của Khuông Việt.(40). (Còn nữa) CHÚ THÍCH (1) Xin xem: Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Dóng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969; Nguyễn Đổng Chi, Lược khảo thần thoại Việt Nam, Ban Văn Sử Địa xuất bản, Hà Nội, 1956; Đinh Gia Khánh, “Văn tự sự, truyện kí đời Trần”, Văn học Việt Nam (Thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII), tập 1, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, tr.186 - 219; Tạ chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006, tái bản; Tạ Chí Đại Trường. “Lịch sử một thần tích: Phù Đổng Thiên vương”, Những bài dã sử Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2009; Như Hạnh, “Tì-sa-môn Thiên Vương (Vaisravana), Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời trung cổ”. Tạp chí Triết (San Jose), số 1-1995, tr.150-162; Nguyễn Hữu Sơn, Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr.230 - 239;v.v… (2) Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.201. Nguyên văn chữ Hán: (嘗 逰 平 虜 衛 靈 山 悅 其 境 致 幽 勝 欲 爰 庵 居 之 夜 夢 神 人 身 披 金 甲 左 執 金 鎗 右 擎 寶 塔 從 者 十 餘 軰 狀 貌 可 怖 來 謂 之 曰 吾 即 毗 沙 門 天 王 從 者 皆 落 叉 也 天 帝 有 勑 令 徃 此 國 護 其 疆 界 使 佛 法 興 行 於 汝 有 緣 故 來 相 託 師 驚 寤 聞 山 中 有 呵 喝 聲 心 甚 異 之 及 旦 入 山 見 一 大 木 長 十 丈 許 枝 斡 繁 茂 又 有 瑞 雲 覆 蔭 其 上 因 命 工 伐 取 如 夢 中 所 見 刻 像 祠 焉 天 福 元 年 宋 兵 入 冦 帝 素 聞 其 事 命 師 就 祠 禳 禱 虜 軍 驚 駭 退 保 友 寧 江 又 見 風 濤 震 蕩 蛟 龍 騰 躍 虜 乃 奔 潰) [TUTA, tờ 8b-9a]. (3) Năm 674, nhà Đường lập Tì Sa đô đốc phủ ở Kho-tan; nước này ở phía Bắc Ấn Độ xưa, nay từ thời Đường đã trở thành một trong ngũ trấn của phủ An Tây (nay là huyện Hòa Điền, tỉnh Tân Cương, Trung Quốc), sau đó bị Thổ Phồn chiếm đóng đến tận thế kỉ thứ IX mới lại độc lập. Sau đó, Kho-tan bị người Hồi Hột, Kim rồi Nguyên xâm chiếm; đến thời Minh Thanh, Kho-tan mới hoàn toàn sáp nhập vào Trung Hoa và trở thành khu tự trị Tân Cương vào thời hiện đại,v.v… (4) Như Hạnh, “Tì-sa-môn Thiên Vương (Vaisravana), Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời trung cổ”, Tài liệu đã dẫn (Tlđd). (5) Có thể xem: 王 颋: 神 威 毗 沙 - 唐、宋 代 的 “毗 沙 門 天 王” 崇 拜, 原 载 于《西 域 南 海 史 地 研 究 续 集》上 海 古 籍 出 版 社 2005 年. URL: http://tieba.baidu.com/f?kz=952208965 hoặc: Chưa rõ tác giả. 天 兵 降 临 - 毗 沙 门 天 王 信 仰 管 窥, URL: http://tieba.baidu.com/f?kz=952212816 ;v.v… (6) Xin xem: 王 颋 (Vương Đĩnh), 神 威 毗 沙 - 唐、宋 代 的 “毗 沙 門 天 王” 崇 拜,Tlđd; Chưa rõ tác giả, 天 兵 降 临 - 毗 沙 门 天 王 信 仰 管 窥,Tlđd. (7) Bất Không truyện trong Tống cao tăng truyện (quyển I/30 quyển) do nhóm Tán Ninh (919-1001) soạn chép: “Trong niên hiệu Thiên Bảo, ba nước Tây Phiên, Đại Thạch, Khang Cư sai quân bao vây phủ Tây Lương (tức An Tây - NTT), ban chiếu gọi Không vào, Hoàng đế ngự ở đạo tràng, Không bê lò hương, tụng mật ngữ kinh Nhân vương 27 lần. Hoàng đế thấy thần binh có đến 500 viên, đứng ở sân điện, sợ hãi hỏi Không, Không đáp: con trai của Tì sa môn thiên vương cầm quân cứu An Tây, xinh nhanh chóng thết cơm để sai khiến. Ngày 20 tháng 4, quả nhiên có tấu nói: Ngày 11 tháng 2, cách khoảng 30 dặm ngoài phía Đông Bắc thành, trong mây mù thấy có thần binh cao lớn, tiếng trống và tù và náo động, núi đất rung chuyển, đội quân Phiên kinh sợ tan vỡ. Trong doanh lũy của bọn chúng, có chuột sắc vàng, cắn cung, nỏ khiến dây đều đứt hết. Lầu trên cửa Bắc thành có Thiên vương chói lòa giận dữ nhìn, tướng Phiên bỏ chạy. Hoàng đế xem tấu, cảm tạ Không, nhân sắc lệnh: lầu trên thành ở các đạo đều đặt tượng Thiên vương. Việc này từ đây bắt đầu”《宋 高 僧 傳》卷 一〈不 空 傳〉“天 寶 中西 蕃、大 石、康 三 國 帥 兵 圍 西 涼 府詔 空 入帝 御 于 道 場空 秉 香 罏誦 仁 王 密 語 二 七 徧。帝 見 神 兵 可 五 百 員在 于 殿 庭驚 問 空空 曰毗 沙 門 天 王 子 領 兵 救 安 西請 急 設 食 發 遣。四 月 二 十 日果 奏 云二 月 十 一 日 城 東 北 三 十 許 里雲 霧 間 見 神 兵 長 偉鼓 角 諠 鳴山 地 崩 震蕃 部 驚 潰。彼 營 壘 中 有 鼠 金 色咋 弓、弩、弦 皆 絶。城 北 門 樓 有 光 明 天 王 怒 視蕃 帥 大 奔。帝 覽 奏謝 空因 敕 諸 道 城 樓 置 天 王 像此 其 始 也” (北 京中 華 書 局《中 國 佛 教 典 籍 選 刊》范 祥 雍 點 校 本一 九 八 六 年頁 11、12 Dẫn theo 王 颋: Tlđd). Truyện Thiên vương hiện hình trong Năng Cải trai mạn lục (quyển 2) của Ngô Tằng (thời Nam Tống) cũng chép: “Khởi đầu việc châu, quận đặt tượng thờ Tì sa môn thiên vương, xét trong sử của các nhà sư: Năm Nhâm Tí niên hiệu Thiên Bảo (742), năm nước Tây Phiên đến xâm lược An Tây. Ngày 21 tháng 2, tấu xin quân viện trợ đến giải vây, phát binh vạn dặm, kéo dài nhiều tháng mới đến nơi. Cận thần tấu rằng: nên chiếu vời Bất Không Tam Tạng vào trong cung trì niệm, Minh Hoàng cầm lò hương, Bất Không tụng phép Nhân vương hộ quốc Đà la ni 27 lần. Hoàng đế thấy thần nhân có đến 500 viên, đeo giáp cầm mâu, đứng trước điện. Hoàng đế hỏi Bất Không, Bất Không trả lời: Đây là con thứ hai của Tì sa môn thiên vương là Độc Kiện (tức Nhị Lang thần trong bảng Phong Thần - NTT), hiểu được lòng bệ hạ, đến cứu An Tây vậy. Tháng 4 năm đó, An Tây tấu rằng: sau giờ Tị, ngày 11 tháng 2, cách khoảng 30 dặm ngoài phía Đông Bắc thành, trong mây mù thấy có thần cao hơn 1 trượng, mặc giáp vàng, đến giờ Dậu, tiếng trống và tù và vang lừng, núi rung đất chuyển. Qua hai ngày, giặc Phiên tan chạy, lúc ấy, trên lầu thành có Thiên vương sáng chói hiện hình. Kính cẩn vẽ lại hình dạng, theo biểu dâng lên. Nhân đó, hoàng đế sắc cho Tiết trấn các đạo quản lĩnh các châu, phủ, đặt tượng hình Thiên Vương ở góc Tây Bắc của thành [để thờ]. Đến như chùa Phật, cũng sắc cho làm viện riêng để đặt tượng” 吳 曾《能 改 齋 漫 錄》卷 二〈天 王 現 形〉“州、郡 置 毗 沙 門 天 王 之 始按 僧 史唐 天 寳 元 年 壬 子西 蕃 五 國 來 寇 安 西。二 月 十 一 日奏 請 兵 解 援發 師 萬 里累 月 方 到。近 臣 奏且 詔 不 空 三 藏 入 内 持 念明 皇 秉 香 爐不 空 誦 仁 王 護 國 陁 羅 尼 方 二 七 遍。帝 見 神 人 可 五 百 員帶 甲 荷 戈在 殿 前。帝 問 不 空對 曰此 毗 沙 天 王 第 二 子 獨 健副 陛 下 心往 救 安 西 也。其 年 四 月安 西 奏二 月 十 一 日 巳 時 後城 東 北 三 十 里 雲 霧 冥 晦 中有 神 可 長 丈 餘皆 被 金 甲至 酉 時鼓 角 大 鳴地 動 山 搖。經 二 日蕃 寇 奔 潰斯 須城 樓 上 有 光 明 天 王 現 形。謹 圗 様隨 表 進 呈。因 敕 諸 道 節 鎮 所 在 州、府於 城 西 北 隅 各 置 天 王 形 像。至 於 佛 寺亦 敕 别 院 安 置” [上 海 古 籍 出 版 社 刊 本一 九 七 九 年頁 37, Dẫn theo 王 颋: 神 威 毗 沙 - 唐、宋 代 的 “毗 沙 門 天 王” 崇 拜, Tlđd). Bài Tế văn thư dược phương tổng tự trong sách Thần cơ chế địch Thái Bạch âm kinh (quyển 7) của Lí Thuyên (thời Đường) cũng chép: “Qua năm, quân Thổ Phồn vây Vu-Điền quốc (tức Kho-tan), người Thổ Phồn đêm thấy có người vàng, xõa tóc, cầm kích, đi trên mặt thành. Quân Thổ Phồn hàng vạn người, đều lo thương tật, không thể thắng. Lại hóa thành chuột đen cắn dây cung, đứt hết, quân Thổ Phồn mắc bệnh mà chạy”. Bài tự này cũng tả Tì sa môn như sau: “Thần Tì sa môn, có miếu ở nước Vu Điền, thân mặc áo giáp, tay phải cầm kích, tay trái đỡ hóa tháp, theo sau có quỷ thần, hình dụng quái dị, người Hồ thờ thần này”《太 白 陰 經》卷 七〈祭 文 書 藥 方 總 序〉“往 年 吐 蕃 圍 于 闐吐 蕃 人 夜 見 金 人披 髪 持 戟行 于 城 上。吐 蕃 衆 數 千 萬盡 患 瘡 疾莫 能 勝。又 化 黑 鼠 咬 弓 弦無 不 斷 絶吐 蕃 扶 病 而 遁”。(《四 庫 全 書》本頁 1 下, Dẫn theo 王 颋. Tlđd). (8) Nguyên văn chữ Hán: 《冊 府 元 龜》卷 五 二〈帝 王 部 崇 釋 氏〉: “元 和 十 年 三 月 甲 申 西 明 佛 寺 僧 遷 寺 中 之 毗 沙 門 神 像 於 開 業 寺帝憲 宗命 假 之 騎 軍前 後 翼 衞其 徒 以 幢 盖 引 侍凡 數 里 不 絶 觀 者 傾 都”。“長 慶 三 年 十 一 月幸 通 化 門觀 作 毗 沙 門 神因 賜 絹 五 百 疋。十 二 月以 錢 一 千 貫 賜 章 敬 寺又 賜 毗 沙 門 神 額 曰 毗 沙 天 王導 以 幡 幢。帝穆 宗御 望 仙 門 觀 之遂 舉 樂、雜 戲、角 抵極 歡 而 罷”。“開 成 二 年 二 月 乙 巳以 太 宗 皇 帝 先 置 毗 沙 門 神 及 功 德 在 蓬 萊 殿是 日移 出 配 諸 寺 安 置”, 北 京中 華 書 局 影 印 明 刊 本一 九 六 ○ 年頁 579 下、580 上、下。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (9) Nguyên văn chữ Hán: 李 筌 《太 白 陰 經》卷 七〈祭 文 書 藥 方 總 序〉“國 家 知 其 神乃 於 邊 方 立 廟。元 帥 亦 圖 其 形 旗 上號 曰 神 旗出 居 旗 節 之 前故 軍 出 而 祭 之”《四庫全書》本頁1下。Dẫn theo, Tlđd. (10) Nguyên văn chữ Hán: 《黄 御 史 集》卷 五〈靈 山 塑 北 方 毗 沙 門 天 王 碑〉“毗 沙 門 之 天 王自 天 寶 中使 于 闐 者 得 其 真 還愈 增 宇 内 之 敬旋 大 夫 芮 國 公 荆 渚 之 塑 也。凡 百 城 池莫 不 一 之。斯福 州舊 城 之 北往 規 也斯 新 城 之 制今 城 也。且 勝 莫 勝 於 開 元 寺尚 莫 尚 於 寺 之 靈 山。阜 寺 之 艮控 城 之 乙祖 僧 六 葉 雁其 下 珉 石 一 拳 星其 上 劍 池 徹 寫飛 山 奔 揖足 以 象 水 精 而 瑩 宮 殿掀 廟 貌 以 衛 城 池。爰 將 擇 工 之 精捜 塑 之 妙製 乎 聖 質俄 然 化 出身 被 金 甲手 擎 雁 塔地 祗 下 捧天 將 前 擁光 灼 灼 而 如 將 動 搖神 雄 雄 而 若 欲 叱 咤。觀 之 者 皆 謂須 彌 拔 宅 於 是 矣于 闐 分 身 於 是 矣”《四庫全書》本頁15下、16上, Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (11) Nguyên văn chữ Hán: 《宋 高 僧 傳》卷 二 七〈智 廣 傳〉“咸 通 中南 蠻南 詔王 及 坦 綽 來 圍 成 都 府幾 陷 時天 王 現 沙 門 形高 五 丈 許眼 射 流 光蠻 兵 即 退。故 蜀 人 於 城 北 寳 歴 寺 立 五 丈 僧 相” 上海古籍出版社刊本一九七九年, 頁687。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (12) Nguyên văn chữ Hán: 《冊 府 元 龜》卷 二 六〈帝 王 部 神 助〉“乾 元 三 年 正 月 甲 申又 見 中 書 門 下 稱河 陽 橋 頃 因 河 陵 衝 突連 艦 偏 斜。昨 一 軍 吏夜 間 橋 下 閙見 有 神 人 云我 是 毗 沙 門 天 王爲 國 家 正 此 橋 柱。及 平 明橋 忽 正” 北京中華書局影印明刊本一九六○年頁287上。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (13) Xem truyện Mộng thần y bệnh giả trong sách Đường khuyết sử quyển hạ của Cao Ngạn Hưu 高 彦 休《唐 闕 史》卷 下〈夢 神 醫 病 者〉; Tố tượng kí của Đoàn Thành Thức (803 - 863) trong Đường văn túy, quyển 76《唐 文 粹》卷 七 六 段 成 式〈塑 像 記〉Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (14) Nguyên văn chữ Hán: 《舊 五 代 史》卷 二 五〈唐 武 皇 紀〉“新 城 北 有 毗 沙 天 王 一 日 沸 溢武 皇李 克 用因 持 巵 酒 而 奠 曰予 有 尊 主 濟 民 之 志。無 何 井 溢故 未 察 其 禍 福。惟 天 王 若 有 神 奇可 與 僕 交 談奠 酒 未 已。有 神 人 被 金 甲 持 戈隱 然 出 於 壁 間。見 者 大 驚 走惟 武 皇 從 容 而 退繇 是 益 自負” 北京中華書局標點本一九七六年頁332、333。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (15) Nguyên văn chữ Hán: 《舊 五 代 史》卷 四 七〈唐 末 帝 紀〉: “庚 申鄴 都 進 天 王 甲。帝 在 藩 時有 相 士 言 帝 如 毗 沙 天 王。帝 知 之竊 喜。及 卽 位選 軍 士 之 魁 偉 者被 以 天 王 甲俾 居 宿 衛。因 詔 諸 道 造 此 甲 而 進 之”, 北京中華書局標點本一九七六年頁332、333。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (16) Nguyên văn chữ Hán: 《舊 五 代 史》卷 七 五〈晉 高 祖 紀〉“晉 陽 有 北 宫宫 城 之 上 有 祠曰 毗 沙 門 天 王。帝 曾 焚 修默 而 禱 之。經 數 日城 西 北 闉 正 受 敵 處軍 候 報 稱夜 來 有 一 人長 丈 餘介 金 執 殳行 于 城 上久 方 不 見。帝 心 異 之”, 北京中華書局標點本一九七四年頁988。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (17) Nguyên văn chữ Hán: 《古 今 合 璧 事 類 備 要》卷 前 六 九〈毗 沙 門 天 王〉“僧 傳 江 南 李 後 主 時大 宋 將 興忽 見昇州 城 上 有 神 現斯 如 車 輪額 上 有 珠 光燦 若 日 月軍 民 皆 看數 日 而 沒。今 天 王 樓 是也”《四庫全書》本頁3下。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (18) Nguyên văn chữ Hán: 王 士 禎《香 祖 筆 記》卷 八“宋 制軍 營 中有 天 王 堂”《四庫全書》本頁6上、下。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (19) Nguyên văn chữ Hán: 許 洞《虎 鈐 經》卷 二〈祭 毗 沙 門 天 王 文〉“惟 天 王 神 靈 通 暢威 德 奮 震。據 太 陰 之 正 位降 普 天 之 妖 魔。左 手 擎 塔尊 神 顯 于 西 土右 手 仗 戈赫 威 游 于 北 方。一 舉 而 群 魔 駭再 舉 而 沙 界 裂。目 激 電 以 日 暗髮 聚 藍 而 雲 委”,《四庫全書》本頁3上。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (20) Nguyên văn chữ Hán: 《說 郛》卷 一 一 八 上 李 玫《纂 異 記》〈天 王〉“秀 州 子 城 有 天 王 樓。建 炎 間金 人 犯 順蘇、秀 大 擾將 毁 之。有 天 王 現 於 城 上若 數 間 屋大 兵 卒 望 之怖 懼遂 引 去一 州 之 境 獲 免。及 亂 平建 樓 西 北 隅”,《四庫全書》本頁8下。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (21) Lê Mạnh Thát, Tlđd, tr.226. (22) Đây có thể là căn duyên đầu tiên để sau này diễn ra hiện tượng đồng nhất/ hòa trộn Tì Sa Môn thiên vương/ Sóc Thiên vương với Xung Thiên thần vương/ Phù Đổng thiên vương. (23) Như Hạnh, Tlđd. (24) Xem Hà Văn Tấn. “Cột kinh Phật thời Đinh ở Hoa Lư”, Theo dấu các văn hóa cổ. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. (25) Như Hạnh, Tlđd. (26) Nguyên văn chữ Hán, 《淳 熙 三 山 志》卷 七“天 王 院賓 賢 里。大 中 七 年置。初 有 檀 木 遡 江 潮 而 上牧 童 取 之。夜 中發 光里 人 林 錡 夢 其 木 謂我 北 方 毗 沙 門 天 王。遂 捨 宅 爲 寺廉 帥 公 奏 賜 額 曰 靈 感 天 王 寺。寺 有 天 王 閣、檀 像今 存” 北 京中 華 書 局《宋 元 方 志 叢 刊》影 印 崇 禎 刊 本頁7845上。Dẫn theo 王 颋, Tlđd. (27) Truyện Man Nương, Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San dịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1960. (28) Như Hạnh, Tlđd. (29) Xem Hội sử học Hà Nội, Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb Hà Nội, 2006. (30) Ngô Sĩ Liên và sử thần nhà Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, Chính biên, quyển, tờ 8b-9a; bản dịch của Viện Sử học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. (31) Việt sử diễn âm, (Nguyễn Tá Nhí sưu tầm giới thiệu biên dịch), Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội 1997. (32) Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, quyển IV, tờ 2b; bản dịch, Tlđd. (33) Hán ngữ đại tự điển ủy viên hội, Hán ngữ đại tự điển, Hồ Bắc từ thư xuất bản xã, 2006, tập 7, tr.4316. (34) Lĩnh Nam chích quái, Tlđd. (35) Xem Trần Bá Chí, Sông Bình Lỗ và thành Bình Lỗ trong cuộc chống Tống lần thứ nhất, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1981.; Trần Bá Chí, “Trận Đồ Lỗ thắng Tống”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, 1989; Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1992; Nguyễn Vinh Phúc, “Có một trận Bình Lỗ năm 981”, Tạp chí Xưa nay, số 86/2001;v.v… (36) Lê Mạnh Thát, Tlđd, tr.251. Nguyên bản TUTA, tờ 32b1. (37) Lê Mạnh Thát, Tlđd, tr.366. (38) Xem Lê Mạnh Thát, Tlđd, tr.296-297, phần chú thích Truyện Quốc sư Khuông Việt; Hoàng Văn Lâu, “Đi tìm địa chỉ Ngô Chân Lưu”, Tạp chí Hán Nôm, số 1/1996. (39) Theo Đinh Gia Khánh, Thiên Nam vân lục liệt truyện thậm chí có xu hướng ghép Tì sa môn thiên vương với ông Hống, ông Hát. (40) Nguyễn Thị Oanh: Về thời điểm ra đời bài Nam quốc sơn hà, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2002; Nguyễn Thị Oanh, Tìm tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà, trong Thông báo Hán Nôm học năm 2008, Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2009,v.v… [Tạp chí Nghiên cứu và phát triển Huế, số 1/2012, trang 22-37; có chỉnh lí, bổ sung] http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/viewFile/6846/6607 * Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  6. Truyền thuyết Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương Miền đất Tổ Vĩnh Phúc từ xa xưa vốn được coi là một trong những trung tâm hội tụ và lan tỏa tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam. Quốc Mẫu Tây Thiên là một trong hai vị Quốc Mẫu của Việt Nam được sắc phong từ thời Hùng Vương dựng nước. Theo truyền thuyết, Quốc Mẫu Tây Thiên có tên thật là Lăng Thị Tiêu, sinh ở thôn Đông Lộ, xã Đại Đình, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi còn sống, trong nước có loạn giặc Thục, bà có công chiêu mộ binh sĩ, phò Vương cứu nước, cứu dân. Khi mất, bà lại thường hiển linh, âm phù giúp các đời vua đánh giặc, giữ nước nên được sắc phong làm Quốc Mẫu. Khu di tích danh thắng Tây Thiên với hệ thống đền thờ có từ hàng nghìn năm nay tại Tam Đảo Vĩnh Phúc được lập để tưởng nhớ công ơn của bà. Tại chùa Tây Thiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và Phật giáo hòa quyện vào nhau, tạo thành một bầu không khí thanh tịnh, linh thiêng ít nơi nào có được. Những người hành hương tới đây, vì vậy, luôn tin rằng những nguyện ước của mình sẽ được chứng tâm và thành hiện thực. Thật may mắn khi được du lịch Tam Đảo 2 ngày đến Tây Thiên trong một ngày đầu xuân và khám phá những điều huyền bí và linh thiêng của vùng đất này cũng như thỏa những ước nguyện về một cuộc sống an lành và hạnh phúc. Bộ ảnh dưới đây ghi lại những nét đẹp độc đáo và bí ẩn về một chốn thiêng của đất nước, xin chia sẻ cùng độc giả: Thuở ấy đất trời còn yên ả, có một vị bộ trưởng ( tộc trưởng trong trang Đông Lộ, huyện Tam Dương, Phủ Đoan Hùng đứng đầu đạo Sơn Tây nước Văn Lang họ Năng tên Vỹ gần 40 tuổi, vợ cả ngoài 40 họ Đào tên Liễu. Ông Năng Vỹ khí tượng khôi kỳ anh hùng khoáng đạt cùng là tông phái của Vua Hùng, ông bà chưa có con. Một ngày 2 người lên núi Tam Đảo, đi về phía Nam, tới chùa Tây Thiên dâng hương cầu tự, khi đó mặt trời đã xế chiều nên nằm ngủ lại để cầu mộng ứng. Trong giấc ngủ Thị Đào bàng hoàng thấy mây ngũ sắc bay lượn trong chùa, hương đưa ngào ngạt, trong giải mây vòng có 7 nàng tiên xiêm y sặc sỡ, người hát người múa, đàn nhạc thi ca thiết tấu lừng trời. Đào Thị sực tỉnh giấc mơ, biết ứng điềm lành từ đó thấy trong người chuyển động mang thai đến ngày 10 tháng 5 năm Giáp thân thì sinh hạ một cô con gái khi đó sáng tỏ huy hoàng, hào quang sáng lạn, gió hương ngào ngạt, khí lành bao tỏa cả 9 phương trời. Mới đầy tháng mà đứa trẻ dung mạo kỳ tứ, đoan trang, nguyệt thẹn hoa nhường. Lên 1 tuổi biết nói, lên 6 tuổi đã thông thạo âm luật mệnh danh là tiên, còn gọi là xích cảm. Đó là người con gái nhan sắc thuộc dòng dõi Rồng tiên, được cha mẹ hết lòng yêu thương. Năm 11, 12 tuổi đã nữ công, nữ tắc không gì là không biết. Đến năm 20 tuổi khí lực nàng dũng mãnh, tài lược hơn người, hào kiệt trong động và các huyện trong vùng đều vui mừng và thán phục. Nàng lại có phép lạ thần thông xuất quỷ nhập thần biến hóa khôn lường. Khi đất nước có giặc ngoại xâm bà đã đứng ra kêu gọi trai đinh trong vùng 3000 tướng sĩ đến Phong Châu – Việt Trì giúp nước. Hùng Vương cảm kích trước bậc quần hoa hào kiệt bèn gia tăng thêm 10 vạn tinh binh, 3000 kỵ binh. Sau khi dẹp xong giặc Thục bà được phong là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương. Đất nước hòa bình, bà trở về Đông Lộ, lập ra các cung ở để du ngoạn. Tả cung ở xã Quan Nội, hữu cung ở 2 xã Quan Đình, Nhân Lí, Hạ cung ở xã Khuyết Trung, nơi ở là Tây Thiên trên núi Tam Đảo. Nơi chùa Tây thiên Tam Đảo, bà ở bỗng thấy mây ngũ sắc chuyển vần từ trên trời xuống, bỗng trong mây xuất hiện chiếu chỉ của Thượng đế đòi công chúa về trời. Công chúa bèn tắm gội xong cùng thiên sứ thăng tâu vua Hùng, để đáp lại người có công triều đình đã sai quan tứ tế tặng “ Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương, đệ nhất thượng đẳng phúc thần”. Bốn mùa cúng tên, muôn thuở ghi lòng. Các nơi lập miếu ghi rõ công lao truyền trải các đời truyền tới Đinh – Lê – Lý – Trần, phàm các triều khai sáng đều làm lễ tế. “Tam Đảo trời sinh 1 đóa hoa tiên Lúc sống phò Vua Hùng, lúc thác hóa về trời phò thượng đế. Nhan sắc má hồng, làm rung động cả núi sông Sắc nước hương trời thật hiếm có Tiếng thơm để lại rạng rỡ tới muôn đời. Đất Tam Dương dấu tích vẫn còn ghi Nay mừng vì đất Đông Lộ sinh thần nữ Người giúp xã tắc sơn hà được yên vui”. Vuongloan Tôi ghi chú: - Tam Đảo thuộc dãy núi "thượng nguồn" so với dãy Sóc Sơn nối tiếp sau đó - nơi Thánh Gióng bay về trời. - Một chứng tích thời Hùng Vương VII - Lang Liêu và chứng thực lại câu truyện "Thánh Gióng đánh giặc Ân" thời Thiên Ất - vua nhà Ân Thương, khoảng gần 1700 TCN tức cách nay gần 3.700 năm. - Một chứng tích của câu truyện "Bánh Chưng bánh Dầy". - Tam Đảo nằm bên trái Đền Hùng, lăng mộ Hùng Vương VI cũng nằm bên trái Đền Hùng (nghịch đảo Âm Dương tức chuyển Chi Hùng Vương). - Một chứng tích của câu việc quan trọng bậc nhất của Văn Lang là cần đúc trống đồng thời kỳ này để lưu giữ văn hóa tổ tiên sau trận chiếc khốc liệt với giặc Ân? - Tam Đảo: danh xưng từ ba đảo tiên nhô lên từ mặt biển đó là Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Tam Đảo còn liên hệ đến tiên ông An Kỳ Sinh trên đỉnh Yên Tử. - Hà đồ - Lạc thư qua hình tượng Cửu cung của cặp bánh chưng tượng của Đất và bánh dầy tượng của Trời, nhưng độ số đã "làm sai lệch" từ thời Đại Vũ làm vua Trung Quốc. Tam Đảo trong mối quan hệ với Sóc Sơn Trích từ: Doremon360 Thánh Gióng Sóc Sơn Qua vị trí địa lý của Tam Đảo - Sóc Sơn và dãy Tản Viên so với Đền Hùng chúng ta nhận thấy: - Tam Đảo - Sóc Sơn là cánh tay trái của Đền Hùng, thuộc Dương, tay long, ứng Hà đồ. - Dãy Tản Viên là cánh tay phải của Đền Hùng, thuộc Âm, tay hổ, ứng Lạc thư. - Quốc Mẫu Lăng Tiêu là vợ của Hùng Vương VII - Lang Liêu thuộc Tam Đảo, còn Thánh Gióng thời Hùng Vương VI thuộc Sóc Sơn, ở đây con số tượng trưng cho Quốc Mẫu (7 - Nam, phía trên) và Thánh (6 - Bắc, phía) ứng với Hà đồ "Nam trên Bắc dưới" là quy ước phương vị. - Mặt dù Thánh Gióng thuộc thời Hùng Vương VI trước Quốc Mẫu của Hùng Vương VII và Thánh Gióng là Nam nhưng chiếu theo quốc vị thì Quốc Mấu lại là Dương so với Thánh Gióng, Âm. Do vậy, Quốc Mẫu được bài trí thờ ở Tam Đảo thượng sơn so với Sóc Sơn thờ Thánh Gióng, đây là một quy ước Âm Dương về mặt cấu trúc xã hội thời Hùng Vương. Những vấn đề trên cũng lại một lần nữa đã xác định rõ ràng về đạo thờ Mẫu và Thánh muộn nhất đã có từ thời Hùng Vương VI, đồng thời cấu trúc bản đồ thiên văn, địa lý thông qua Hà đồ - Lạc thư cũng đã xác định rõ ràng thời kỳ này. Thật là cực kỳ bí ẩn và tinh tế!
  7. Trích của DALA Thái Ất Thần Kinh đúng tương truyền là của cụ Trạng Trình ( Thần Kinh không phải là quyển kinh sách, mà Thần Kinh là tiếng ngày xưa để chỉ Việt Nam, Thần Châu là Trung Quốc). Dòng Thái Ất này là của riêng cụ Trạng, bản thân quyển Thái Ất Thần Kinh cũng có nhiều chỗ khác với Thái Ất thống tông bảo giám, Thái Ât thông tông đại toàn của Tàu, đúng sai thì phải dựa vào 1 yếu tố khác hoàn toàn khoa học đó là........ Tại sao lại có con số 10153917 để cộng vào tìm Tuế kể? Liệu có chính xác không? Căn cứ của nó ở đâu. Tự dưng cụ Trạng Trình được quả táo rơi vào đầu rồi nghĩ ra Đại chu là 3600 đơn vị thời gian, tiểu chu là 360, rồi chia tiếp 72, chu kỳ của Thái Ất là 24 năm???? Một câu hỏi lớn đấy... và cũng chỉ có thể giải thích cặn kẽ nhờ........ Thái Ất là môn học thống tất cả đạo học vì nó bao gồm cả Tinh Đẩu, Quẻ Dịch, Kỳ Môn Độn Giáp. Có dạy cách điều binh khiển tướng, xem cát hung mưa nắng, quyết định sự an nguy của cả một quốc gia. Cho nên ngày xưa sách về Thái Ât thuộc dạng CẤM THƯ chỉ truyền trong Hoàng Tộc. Ở Việt Nam ta, thư tịch của cụ Trạng sau khi mất chỉ có Vua chúa mởi được xem. Chính vì thế đến nay môn học đấy thành ra tam sao thất bổn... Tàu bảo Tàu đúng, Việt bảo Việt không sai... không thể biết được. Bước đầu tiên để xác định lại cơ sở cho nó là bằng cách dùng.............Posted Image, chỉ mới là bước đầu chưa thể nói khơi lại được cả học thuyết Thái Ất. Trích của KARAJANAi cũng biết môn Thái Ất và môn Độn Giáp có những liên quan mật thiết đến nhau , và như vô tình hai môn này có rất nhiều điểm tương đồng. Bản thân tôi cũng luôn có ý tưởng phải chẳng Thái Ất và Độn Giáp chính có cùng một nguồn, phải chăng Thái Ất nó chính là phần bao quát hơn , tổng quát hơn của Độn Giáp... phải chăng Thái Ất chính là đứng đầu trong Tam Thức thống nhất đạo của mọi nhà...??? Những câu hỏi như vậy làm tôi băn khoăn và day dứt hàng chục năm nay. Sách Tàu sách Ta về Thái Ất và Độn Giáp tương đối ít nhưng xin thưa bản thân tôi KHÔNG TIN vào sách của mấy ông Tàu, kẻ cứ tự coi mình là chân lý... nếu sách Tàu về Thái Ất mà đúng thì Tứ Khố Toàn Thư, Thái Ất Thông Giải,... đầy ra đấy sao chẳng có ông nào dùng nó để luận đoán... xin đừng nói rằng : "Thái Ất khó, ít có ai thông hiểu "... câu này vô lý lắm... chẳng nhẽ dân tộc 1,3 tỷ dân như Tàu lại không tìm nổi một người thông hiểu Thái Ất và Độn Giáp. Những truyền thuyết của cụ Trạng Trình về bộ Thái Ất Thần Kinh có thể cho ta thấy... dân Tàu dù có là Gia Cát Lượng cũng chỉ thông hiểu được phần nào của Thái Ất mà thôi, người thực sự có thể nói thấu hiểu được Thái Ất chắc trong lịch sử chỉ có cụ Trạng Trình - một người VIỆT NAM.... Với môn Thái Ất, phương châm nghiên cứu của tôi là : "Khoan đã, tại sao Thánh lại dạy như thế? Lão Thánh này dạy đúng hay dạy bậy??? ", sách Tàu hay sách ta đều có giá trị ngang nhau hết, chủ yếu là mình phải tự mày mò, tìm hiểu để nó biến thành của mình , của riêng mình không phụ thuộc gì vào sách vở cả. Hơn nữa Thái Ất là một môn KHOA HỌC cho nên xuất phát điểm của nó phải là một nền tảng rất tự nhiên, hiển nhiên trong cuộc sống chứ không phải là một thứ gì đó NHÂN TẠO. Và con đường mà tôi chọn là con đường THIÊN VĂN. Nếu lấy sao Bắc Thần làm tâm và dựa vào Nhị Thập Bát Tú để phân định ra 4 hướng chính , 8 phương. Quan sát chùm Bắc Đẩu Thất Tinh, theo Thiên Văn Hiện Đại thật ra là 8 sao do 1 sao là sao kép , và đứng giữa chùm Bắc Đẩu Thất Tinh với sao Bắc Thần là 1 ngôi sao cũng rất sáng... gọi là sao Thái Ất. Thái Ất này cộng với 8 sao trong chòm Bắc Đẩu để tạo nên cái gọi là Cửu Tinh Quý Thần. Bằng quan sát với một cái kính Thiên Văn các bạn có thể dễ kiểm chứng là sao Thái Ất này sau xấp xỉ 2 ngày (24 h : 1h âm lịch = 2h Dương lich) thì quay về đúng vị trí cũ. Cái này nó chính khẳng định cho câu nói : "Thái Ất hành 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng, 3 năm ở 1 cung , hành qua 8 cung , không vào cung giữa ". Thái Ất không bao giờ đi vào cung giữa ( vị trí của sao Bắc Thần chiếm đóng ). Thái Ất thì vậy... như vậy Đại Tướng Khách Tướng mà vào trung cung hết thì sao??? Sách Thái Ất Thần Kinh không hể nhắc đến chuyện này mà chỉ nói là Đại Tướng Chủ ở trung cung cho nên Không Toán.... thật ra cái này có đúng không??? Nhất là khi dùng Thái Ất cho việc dùng binh ( Kể Giờ) vị trí của các Đại Tướng và Tham Tướng vô cùng quan trọng... nó mà vào cung giữa thì thế nào??? Thái Ất hành 3 năm một cung, qua 8 cung = 24 năm. Đây chính là chu kỳ của một hành trên Hà Đồ theo qui luật Cách bát sinh tử - Sinh Vượng Mộ - (Ba giai đoạn), mỗi giai đoạn tám năm = 24 năm .Sau đó chuyển sang hành khác . Đi ngược trên Hà Đồ thành Lục thập Hoa giáp theo sách Hán cổ . Đi thuận trên Hà Đồ thành Lạc thư Hoa giáp theo văn minh Lạc Việt . Chu Kỳ 24 năm của Sao Thái Ất, trùng chu kỳ 24 năm của 2 vòng (Âm Dương)Thái Tuế (Sao Mộc). Nếu biết đích xác sao Thái Ất là sao nào, hoặc là cái gì, thì chúng ta đã cầm được cái chìa khoá . Như đã nếu ở trên, Thái Ất không bao giờ vào trung cung bởi vì Thái Ất không bao giờ đồng cung , hay nói khác đi là đi vào địa phận của sao Bắc Thần. Người xưa tin tưởng rằng : sao Bắc Thần luôn cố định trên bầu trời cho nên nó là hình ảnh của Thượng Đế chí tôn. Còn chòm Bắc Đẩu Thất Tinh là thần của Thiên Đế , nó trấn giữ ngay cửa ra vào Tử Vi Viên. Bắc Đẩu Thất Tinh này là nơi chuyên giữ sổ sinh tử coi xét về vận mệnh của con người, quản từ đời sống thường ngày cho đến công danh bổng lộc, sống chết. Chính vì thế mà Gia Cát Lượng khi muốn xin thêm tuổi thọ phải đặt 7* 7 = 49 ngọn đèn theo 7 phương vị khác nhau của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, trong đó ngọn đèn bổn mệnh đặt ngay tại vị trí của sao Thiên Quyền của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh. Và chòm Bắc Đẩu Thất Tinh này cùng các thần khác đựơc cai quản bởi thần Thái Ất. Thái Ất đứng ngay giữa sao Bắc Thần và chòm Bắc Đẩu, nó thay trời đứng đầu 16 thần. Nắm ngôi vị chủ tể. Khi Thái Ất bị xung với Thái Tuế, Thái Tuế tượng là Vua dưới hạ giới. Vua bị xung với Thái Ất thì chắc chắn là không có gì tốt đẹp, thường là băng vong , và cứ khi nào Thái Ất xung Thái Tuế là có sao chổi ( bất kể lớn nhỏ ) phạm vào địa phận của toà Tử Vi Viên. Lịch sử ghi chép rất rõ ràng : Năm thứ 8 đời Lữ Hậu, sao chổi rất lớn hiện ra đi vào địa phận toà Tử Vi Viên, chạy sát sang toà Thái Vi , Lữ Hậu nói : " Đó là điềm vì ta ". Tháng 8 năm đó Lữ Hậu băng. Và còn nhiều nhiều nữa mà các bạn có thể tìm đọc trong chính sử. Bàn về các Đại Tướng, Tham Tướng Chủ và Khách. Đại Tham Tướng Chủ an theo Chủ Mục , Đại Tham Tướng Khách an theo Khách Mục. Bất cứ 1 trong 4 tướng này mà vào trung cung ( lưu ý : 4 vị tướng này không hề có trên bầu trời, họ đặt ra với mục đích sâu xa nhất là dùng binh.) , tức là 4 Tướng phạm vào địa phận của sao Bắc Thần. Bắc Thần là Thượng Đế chí tôn , cho nên bất cứ Tướng nào phạm vào thì đó đều là điềm không hay, nếu Toán lại không hoà thì tối hung. Cho nên khi hành quân , cứ thấy Đại Tướng Chủ Khách mà vào trung cung là Toán Chủ Khách không tính và án binh bất động ( nên nhớ là dùng binh phải xem KỂ GIỜ). Kể Đại Tướng là an theo Kể Thần, nó đo độ số u minh của Thái Ất... nhưng U Minh là cái gì?? Trong TH cả Toán Chủ và Khách đều không hoà, việc ra quân bất lợi thì phải xem đến Kể Đại Tướng... Kế Đại Tướng không ép, cách, Toán Kể hoà, Cửa Kể đủ thì mai phục chờ tiến binh sẽ lợi cho chủ, ngược lại thì nên án binh bất động. Định Đại Tướng được an từ Định Mục nó đóng vai trò trợ giúp cho Thái Tuế ( Định Mục an dựa vào Thần Hợp). Trong môn Thái Ất có một thần tối cao đó là thần Ngũ Phúc. Ngũ Phúc chính là chòm Tiểu Hùng gồm 5 sao , trong đó sao Bắc Thần đứng đầu. Ngũ Phúc đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy.... chỉ trừ hai cung Dần Mão là nơi hãm địa. Ngũ Phúc vào trung cung thì giáng phúc cho bốn phương, dù có chiến tranh cũng ít thiệt hại, chết người. Do Ngũ Phúc là Bắc Thần tối cao cho nên quyền giải hạn của nó rất lớn , Thái Tuế xung Thái Ất nhưng có Ngũ Phúc thì tai hoạ không còn. Đại Du hành sát đến đâu, nơi đấy binh lửa rợp trời, nếu có Ngũ Phúc tai hoạ giảm đi một nửa. Trích KARAJANA: Ngày xưa quan sát bầu trời, người cổ đã phát hiện ra rằng, có một ngôi sao luôn cố định trên bầu trời , đó là sao Bắc Đẩu (Polaris) ( dĩ nhiên Trái Đất của chúng ta có chuyển động Tuế Sai cho nên vị trí sao Polaris thay đổi sau cỡ 12000 năm, vị trí hiện nay là ở sao Alpha trong chòm Tiểu Hùng). Người xưa nhận thấy rằng xung quanh Polaris có một số chòm sao chỉ chuyển động xung quang nó mà không bao giờ đi xuống dưới đường chân trời. Với thế giới quan trong chế độ Phong Kiến, các nhà Thiên văn đã phân bầu trời ra nhiều chòm sao và 3 khu vực gọi là TAM VIÊN lấy sao Polaris là Trung Tâm. Tam Viên bao gồm Tử Vi Viên ở giữa, Thái Vi Viên ở phía đông và Thiên Thị Viên nằm ở phía nam tòa Tử Vi Viên. Đề định ra 4 hướng, các nhà Thiên Văn xưa đã lấy sao Bắc Thần làm trung tâm, và chọn 4 chòm sao rất lớn là Thanh Long ( hướng Đông), Chu Tước (hướng Nam), Bạch Hổ (hướng Tây) và Huyền Vũ (hướng Bắc). Bốn chòm sao lớn này bao gồm 28 vị Tinh Tú xét theo chu kỳ chuyển động của Mặt Trăng, mà ngày nay chúng ta gọi là Nhị Thập Bát Tú. Ngoài Tam Viên, Nhị Thập Bát Tú các nhà Thiên văn xưa còn nhận thấy 7 Đại Diệu Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ Nhật Nguyệt là sáng nhất trên bầu trời ( dĩ nhiên là với mắt thường). Do sự du nhập của Phạn Lịch mà có thêm hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín sao này được gọi là Cửu Diệu. Ngoài những sao kể trên, bầu trời còn hàng hà sa số các vì sao khác nữa, mà các nhà Thiên Văn gọi chung là Thiên Cương và Địa Sát. Chúng ta sẽ đi lần lượt từ Tam Viên đến Nhị Thập Bát Tú , Cửu Diệu , Thiên Cương Địa Sát và cuối cùng là ứng dụng. Về cách phân chia bầu trời, chúng ta nên biết qua về Ngũ Phục ( cách phân chia đất ngày xưa của các Hoàng Đế Trung Hoa). Từ Trung Ương ( Hoàng Cung) tính ra xa bán kính 500 dặm gọi là Triều Phục tức nơi của Vua , Hoàng Hậu, Thái Tử, Vương Hầu,... Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa gọi là Hầu Phục tức nơi ở của các quan lại, hầu gia, đại thần, chư hầu. Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa là Tuy Phục nơi dành cho dân cư, và quân lính, quân sự. Xa hơn nữa là Y Phục và Hoàng Phục là các ùng ngoài nơi sự cai trị của Vua đã trở nên rất lỏng lẻo, hoang vu hẻo lánh. Bầu trời cũng được phân chia như vậy với sao Bắc Thần ( Bắc Cực) là trung tâm. SAO BẮC THẦN Ngày xưa các Hoàng Đế Trung hoa xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới trần gian. Ứng với Sao Bắc Thần trên Trời là Trung Tâm của Thượng Giới, nơi cư ngụ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa tể của muôn loài. Cho nên họ xem Trục nối giữa sao Bắc Thần và Hoàng Cung là Trục Trời Đất, vạn vật sinh linh phải xoay quanh nó. Hoàng Đế xưng là Thiên Tử ( con trời). Xin các bạn lưu ý, việc xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới không chỉ có ở Trung Hoa mà ở tất cả các dân tộc khác. Người Hồi Giáo họ xem Thánh địa Mecca là trung tâm của Thế Giới, người Thiên Chúa họ xem thánh địa Jerusalem là trung tâm của Thế Giới, Louis XIV tự ví mình như Hoàng Đế Mặt Trời, mọi nơi phải xoay quanh Paris,... Chính vì thế mà sao Bắc Thần trong tín ngưỡng người Trung Hoa vô cùng thiêng liêng, nó là nơi có Linh Tiêu Bảo Điện với 10000 phòng (vạn tuế), còn Tử Cấm Thành của Hoàng Đế luôn luôn xây theo trục Bắc Nam, Vua ngồi quay mặt về hướng Nam xưng Trẫm là con của Trời, khi tế Trời thì chắp tay quay mặt về hướng Bắc mà lạy, đó chính là hướng về sao Bắc Thần vậy. Tử Cấm Thành thời Minh Thanh bao gồm 9999 phòng, không có một nơi nào dám xây thành 10000 hay ứng với con số 10. Vì con số 10 là con số của Trời, chỉ có Ngọc Hoàng được sử dụng. Vua là con Trời nên phải kém đi, cho nên con số 9 ngày xưa là con số tốt nhất ở trần gian. Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự trên sao Bắc Thần tôn hiệu đầy đủ là : " Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế". Cho nên mỗi một triều đại chỉ có vị Vua khai sáng mới được tôn xưng là Thái Tổ Cao Hoàng Đế ( tức thụy hiệu lấy trùng chữ CAO với Ngọc Hoàng) để ghi nhận công lao to lớn thay trời dẹp loạn. Cũng có nhiều Hoàng Đế vì khiêm cung mà không dám lấy Thụy hiệu là CAO mà lấy chữ khác ví dụ Ngụy Thái Tổ Vũ Hoàng Đế (Tào Tháo). Ở đây xin lưu ý một chú ý quan trọng. Có nhiều sách ghi rằng sao Bắc Thần chính là Vua dưới hạ giới, điều này là SAI. Không có vị Vua nào dám to gan thế cả. Biểu tượng cho vua là sao Tử Vi. Tử Vi là sao nào xin nói rõ hơn trong phần Tử Vi viên. Posted Image Chính giữa là Tam viên, xung quang là Nhị Thập Bát Tú, ngoài ra còn lại là vô vàn các sao và chúm sao được gộp chung là Thiên Cương và Địa Sát. ử Vi Viên là khu vực trung tâm hình tròn bao quanh Thiên Cực ( sao Bắc Thần) cách một góc 40 độ. Tử Vi Viên bao gồm 160 sao và được chia thành 30 chùm sao lớn nhỏ. Tử Vi Viên mang nghĩ là Khu Tường Vây Quanh (viên), Tử là màu đỏ tía màu của sự huyền bí thiêng liêng, Vi là Hoa ( sách sử chép có một loại hoa sắc đỏ tía gọi là hoa Tử hay Hán gọi là Tử Vi). Như vậy Tử Vi Viên chính như là khu Hoàng Thành màu đỏ tía ( Tử Cấm Thành), là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế, tổng quản trời đất và các thần. Chính vì vậy người xưa khi quan sát Thiên Văn đã chia Tử Vi Viên thành các chòm sao có hình tượng từ Vua, Thái Tử,... cho đến chợ búa... cách tưởng tượng này tạo nên hình ảnh một xã hội trên thượng giới cũng như xã hội loài người nơi trần gian. Riêng Tử Vi Viên là hình tượng của Tử Cấm Thành dưới hạ giới nơi ở của Vua. Chú thích các sao chính trong bản đồ trên: 1. Bắc Cực (gồm 5 sao trong chòm Tiểu Hùng Tinh) 1.1 Thái Tử sao Gamma 1.2 Hoàng Đế sao Kschi 1.3 Hoàng Tử ( Thứ Tử) sao Epsilon 1.4 Hậu cung sao Delta 1.5 Thiên Cực ( sao Bắc Thần) sao Alpha (ghi bên trái là tên Thiên Văn cỗ Trung Hoa, ghi bên phải là theo Thiên Văn Hiện Đại) 2.Tứ Phụ (4 sao) 3.Câu Trần (6 sao) a. Thiên Hoàng Đại Đế 4.Thiên Trụ ( 5 sao) 5.Ngự Nữ (4 sao) b.Nữ Sử c.Trụ Sử 6.Thượng Thư (5 sao) 7.Thiên Sàng (6 sao) 8.Đại Lý (2 sao) 9.Âm Đức (2 sao) 10.Lục Giáp (6 sao) 11.Ngũ Đế nội tọa (5 sao) 12.Hoa Cái (7 sao) 13.Cống (9 sao) 14.Tử Vi Tả Viên ( 8 sao) bao gồm i. Tả Xu ii.Thượng Tể iii.Thiếu tể iv.Thượng bật v.Thiếu Bật vi.Thượng Vệ vii. Thiếu Vệ viii.Thiếu Thừa 15.Tử Vi Hữu Viên (7 sao) bao gồm i.Hữu Xu ii.Thiếu Úy iii.Thượng Phụ iv.Thiếu Phụ v.Thượng vệ vi.Thiếu Vệ vii.Thượng Thừa d.Thiên Ất e.Thái Ất 16.Nội Trù ( 2 sao) 17.Bắc Đẩu ( gồm 7 sao chính là chòm sao Đại Hùng Ursa major) i.Thiên Xu sao Alpha-Duth ii.Thiên Toàn sao Beta-Merak iii.Thiên Cơ sao Gamma-Phecda iv.Thiên Quyền sao Delta-Megrez v.Ngọc Hoành sao Epsilon-Alioth vi.Khai Dương sao Kschi-Mizar vii.Dao Quang sao Nuy-Alkaid Ngoài ra chùm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh mà bằng mắt thường không nhìn thấy được ( sẽ nói rõ hơn về chùm Bắc Đẩu trong phần tiếp theo) 18.Thiên Thương (3 sao) h.Huyền Qua 19.Tam Công k.Tướng Quốc. 20.Thiên Lý m.Thái Dương Thủ n.Thái Tôn 21.Thiên Lao (6 sao) 22.Thế (4 sao) 23.Văn Xương ( 6 sao) 24.Nội Cấp (6 sao) 25.Tam Sư( 3 sao) 26.Bát Cốc (8 sao) 27.Phó Xá (9 sao) 28.Thiền Trù (6 sao) 29.Thiên Bồi ( 5 sao) Nhìn tổng quan chúng ta có thể thấy ngay hình ảnh một Hoàng Cung với Vua, Hậu Cung Thái Tử ở giữa có Ngự Nữ , Đầu bếp( Thiên Trù) hầu hạ. Hai bên là hai hàng Cấm vệ Quân ví như tường thành bảo vệ ( Tử Vi tả Hữu Viên), được đứng đầu bởi các vị Đại Thần ( Thượng tể, Thái Úy,....) Ngoài cấm thành là nơi Trường Quốc Tử Giám ( Văn Xương), các nơi làm việc của toàn bộ Triều đình. Qua đó chúng ta thấy sự thiêng liêng của Tử Vi Viên mà người xưa gán cho nó. SAO thứ hai của chòm Tiểu Hùng có tên là ĐẾ , sao này có sắc sáng đỏ tía là sáng thứ hai trong chùm Tiểu Hùng (sau sao Bắc Thần), cho nên nó có tên là sao TỬ VI, và đây chính là sao TỬ VI trong môn Tử Vi của chúng ta. Tiếp theo xin nói về Bắc Đẩu Thất Tinh Bắc Đẩu Thất Tinh nằm ngay tại cửa ra vào Tử Vi Viên, cho nên nó được ví như vị thấn thay mặt Trời nhìn xuống trần gian cai quản cuộc sống của muôn dân, xem xét người tốt xấu để định công hay phat. Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 7 sao : Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang. Trong 7 sao này thì sao Thiên Quyền là mờ nhất nhưng lại ở vị trí trung tâm, thành ra lại là quan trọng nhất , nó được xem như nơi ở của Trung Thiên Bắc Đẩu, người chuyên giữ bản mệnh của mọi người trên trần gian. Ngày xưa khi làm lễ cúng sao giải hạn , thường sắp 7 ngọn đèn theo hướng chòm Bắc Đẩu, trong đó ngọn ở vị trí sao Thiên Quyền là ngọn đèn bản mệnh. Người xưa đã thấy rõ vai trò rất quan trọng của chòm Bắc Đẩu trong việc xác định thời tiết, làm lịch ( sẽ nói rõ hơn trong phần ứng dụng). Ngoài ra bên cạnh 7 sao chính chòm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh nằm cạnh sao Khai Dương. Nó hợp với sao Thái Ất ở trên thành Cửu Tinh Quý Thần trong môn Thái Ất. Xin được nói thêm vài dòng với anh Thái Ất Chùm Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 2 phần, phẩn Khôi gồm 4 sao Thiên Toàn Thiên Cơ Thiên Xu Thiên Quyền, phần tiêu gồm 3 sao Ngọc Hoành, Khai Dương , Dao Quang. Riêng sao Khai Dương có một phụ tinh quay quanh nó nữa để tạo nên một sao kép. Trong Tử Vi sao Thiên Xu là sao Tham Lang, Thiên Toàn là sao Cự Môn, sao Dao Quang chính là sao Phá Quân. THÁI VI VIÊN Ngày xưa các nhà Thiên Văn phương đông gọi đường chuyển động của Mặt Trời là Hoàng Đạo, của Mặt Trăng là Bạch Đạo. Nhưng do Bạch Đạo không có tâm là ở Bắc Thiên Cực cho nên khi chia ra Tử Vi Viên thì hai phía Đông và Nam vẫn còn có khoảng trống và khoảng trống phía Đông gọi là Thái Vi Viên. Tử Vi Viên là nơi cung cấm của Thiên Đế thì Thái Vi Các bạn hẳn đã thấy rõ, trong Thái Vi Viên cũng có hình ảnh của một triều đình thu nhỏ nhưng mà là của Chư hầu và thêm vào đó các sao Tam Công, Cửu Khanh chính là các đại thần trụ cột đầu triều ngày xưa tại trung ương Trong môn Tử Vi của chúng ta liên hệ đến Thái Vi Viên rất ít, cho nên không nói kỹ đến ở đây. Nhưng trong môn Thái Ất khi xét đến họa hại của Thủy Kích, Thái Vi Viên đóng một vai trò rất quan trọng. THIÊN THỊ VIÊN : Thiên Thị Viên nằm ở phía Đông Tử Vi Viên, nó tượng trưng cho chốn thị tứ, chợ búa, buôn bán. Một khung cảnh đời sống hết sức thường ngày dưới hạ giới. Chính vì thế, khi nghiên cứu về Thái Ất có sao Dân Cơ , nó chính là 5 sao nằm ở Trung Tâm chòm Thiên Thị Viên. Và do đó tính chất của Dân Cơ chủ về tài lộc, giàu có, buôn bán, là sao tụ tài, chứ không phải là sao chủ công danh quyền chức như Quân Cơ (nằm trong Tử Vi Viên) và Thần Cơ (nằm trong Thái Vi Viên). NHỊ THẬP BÁT TÚ Xung quanh TRUNG THIÊN có các hướng của nó Đông Tây Nam Bắc được đại diện bởi 4 chòm sao rất lớn là THANH LONG, BẠCH HỔ, CHU TƯỚC, và HUYỀN VŨ. Phương Đông đại diện bở chòm THANH LONG ( rồng xanh), chính vì thế Phương Đông tượng trưng cho Mộc và có màu xanh. bao gồm: 1.Giác Mộc Giảo( cá sấu) 2.Cang Kim Long(rồng) 3.Đế Thổ Bức(dơi) 4.Phòng Nhật Thố (thỏ)-> đứng chính giữa chòm Thanh Long là MÃO 5.Tâm Nguyệt Hồ (Cáo) 6.Vĩ Hỏa Hổ (Hổ) 7.Cơ Thủy Báo(Báo) Posted Image Phương Bắc đại diện bởi chòm HUYỀN VŨ (Rùa Đen), chính vì thế Phương Bắc tượng trưng cho Thủy có màu đen, bao gồm: 1.Đẩu Mộc Giải( con giải) 2.Ngưu Kim Ngưu(trâu) 3.Đề Thổ Lạc(nhím) 4.Hư Nhật Thử(chuột)->đứng chính giữa chòm Huyền Vũ là TÝ 5.Ngụy Nguyệt Yến ( chim yến) 6.Thất Hóa Trư (lợn) 7.Bích Thủy Dư(cừu) Posted Image Phương Tây đại diện bởi chòm BẠCH HỔ(Hổ Trắng), do vậy phương Tây tượng trưng cho Kim khí có màu trắng, bao gồm: 1.Khuê Mộc Lang(chó sói) 2.Lâu Kim Cẩu(chó nhà) 3.Vị Thổ Trệ (chim trĩ) 4.Mão Nhật Kê (gà)->đứng giữa chòm Bạch Hổ là DẬU 5.Tất Nguyệt Ô( quạ) 6.Chủy Hỏa Hầu(khỉ) 7.Sâm Thủy Viên(vượn) Posted Image Phương Nam đại diện bởi chòm Chu Tước( chim sẻ đỏ), do vậy phương Nam tượng trưng cho Hỏa có màu đỏ, bao gồm: 1.Tỉnh Mộc Hãn(bò)" có sách ghi Tỉnh Mộc Ngạn" 2.Quỷ Kim Dương(dê) 3.Liễu Thổ Chương(cheo) 4.Tinh Nhật Mã(ngựa)->đứng giữa chòm Chu Tước là Mã 5.Trương Nguyệt Lộc(hươu) 6.Dực Hỏa Xà(rắn) 7.Chân Thủy Dẫn( giun) Posted Image 28 vị sao trên sách xưa gọi là Nhị Thập Bát Tú chia làm 4 khu vực quanh Hoàng Đạo. Người Trung Quốc tin rằng mỗi một vị thần coi giữ 1 sao, quyền năng ảnh hưởng mạnh mẽ lên con người phàm trần. Dựa vào đó họ đã chọn ra 12 con Địa Chi để thể hiện sự ảnh hưởng này. Trong 12 con này, những con tôi gạch chân ở trên, đứng giữa chòm sao tượng cho CHÍNH Đông, Tây, Nam, Bắc. Do vậy mà Tý Ngọ Mão Dậu chính là Tứ Chính vậy. Nhị Thập Bát Tú dựa trên chu kỳ của Mặt Trăng, chính xác ra là 29,24 ngày. Nhưng do họ xác định được 28 sao, thành ra mỗi 1 ngày Mặt Trăng đi qua xấp xỉ 1 sao. Và họ coi chu kỳ của Mặt Trăng xấp xỉ 28 ngày. Xuất phát từ những sai số Thiên Văn này mà Âm Lịch của tổ tiên chúng ta càng tính về sau càng sai, và việc chỉnh sửa Lịch là điều bắt buộc.
  8. Tìm hiểu về bộ sách kỳ bí THÁI ẤT THẦN KINH Xưa nay khi nói đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, đa phần ai cũng nhắc đến Sấm ký và bộ Thái Ất Thần kinh. Đồng thời ai cũng bảo Thái Ất Thần kinh là sách do Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đem từ Bắc quốc về truyền cho trò yêu. Nhưng cụ thể câu chuyện đó ra sao thì mỗi người kể một kiểu nên nó cũng kỳ bí như chính môn “Dự đoán học”. Với dòng họ Lương bộ sách này liên quan trên nhiều góc độ và tôi cũng từng hiểu như mọi người. Song qua nhiều năm tìm hiểu, nhất là những tháng ngày rảnh việc “chờ hưu” càng tìm kỹ càng ngẫm ra rằng “thế nhưng không phải thế”!. Nhân tháng có ngày “Nhà giáo Việt Nam”, tưởng nhớ cặp Cha-Con thầy giáo (Lương Hay-Lương Đắc Bằng) đào tạo cho đất Việt hai Trạng nguyên xuất chúng (Lương Thế Vinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm), thử tìm hiểu về hậu trường bộ sách Kỳ bí “Thái Ất Thần kinh”. 1. Bí hiểm của sách “Thái Ất Thần kinh”: Thái Ất thần kinh 太乙神经 hay Thái Ất là một mô thức thuật số cơ bản trong tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn) của lý số Đông phương, chủ yếu nghiên cứu các tính toán liên quan đến sự hưng vong của các triều đại, các trận pháp ở tầm cỡ chiến lược. Trong đó, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người. Tương truyền sách này từ rất xưa, lâu lắm rồi, Thái Ất Chân Nhân 太乙真人[1] ban xuống trần thế nếu hiểu được có thể biết thiên cơ, họa phúc cõi trần, nhìn thấu tương lai, thông thiên địa hầu cứu nhân gian. Nếu cuốn sách này vào tay người hiền tài thì có thể bảo hộ và cứu giúp nhân gian tránh được nạn kiếp; còn nếu như rơi vào tay kẻ gian thần thì nhân gian sẽ xẩy ra đại loạn. Lai lịch bộ sách lưu hành một cách bí ẩn từng có hai giả thuyết: - “Thái Ất Thần kinh” là bộ sách rất quý, dạy về các môn địa lý, chiêm tinh, chỉ cách xét đoán những việc kiết hung. Có người nói Quốc sư nhà Thục Hán (蜀漢, 221-263) thời Tam Quốc là Gia Cát Lượng (諸葛亮, 181–234) được người đời sau tôn sùng và mến phục tài trí, một phần lớn nhờ nghiên cứu “Thái Ất Thần kinh”. Bộ sách này chỉ có hai bản mà Cụ Lương Ðắc Bằng may mắn có một bản sau truyền lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn một bản nữa ở bên Bắc quốc. Bộ sách này, cũng theo thuyết trên đây, rất khó hiểu nên người đọc kém, không có trí thông minh siêu việt không thể lãnh hội được dù có sách quý trong tay. Đến thời Tống (宋朝, 960-1279), một đạo sĩ rất nổi tiếng là Triệu Nga cũng đã đúc kết kinh nghiệm cổ truyền viết thành sách nhưng chưa có lời giải vì lời giải còn lưu lạc ở một phương khác. - Nhưng cũng có người cho rằng bộ sách đó không có gì là kỳ diệu và thần bí cả. Đó là sách Thái Huyền của Dương Hùng 楊雄, một danh nho sinh vào khoảng đời Hán Tuyên đế (漢宣帝, 91 -49 tCn) và mất khoảng cuối đời Vương Măng (王莽,45 tCn-23). Dương Hùng thuở nhỏ thông minh, thích học, nhưng ghét lối từ chương, ưa tìm những điển tích sâu xa uyên bác, chuyên nghiên cứu về dịch học. Chính ông đã làm ra sách Thái Huyền để giảng thuyết âm dương vũ trụ, nhưng với lối văn cầu kỳ khó hiểu, nhiều người không phục, cho là lập dị. Sở dĩ bộ “Thái Ất Thần kinh” được xem như loại sách quý là vì người ta muốn quan trọng hóa, thần bí hóa vấn đề. 2. Hình thành “Thái Ất Thần kinh” của người Việt: Tương truyền rằng trong một lần đi sứ sang Minh quốc (明朝, 1368- 1644), Thượng thư Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (尚書榜眼梁得朋, 1472 – 1516)[2],do cơ duyên gặp người đồng tộc[3] mách bảo, thành ý nên cụ có được bộ “Thái Ất Thần kinh” mang về, nhưng đọc cũng không hiểu mấy. Những năm cuối thời Lê Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516), nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế ông cáo quan về quê Thanh Hóa dạy học. Bởi mến, tin người trò yêu là Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491-1585) có cha hiền lành đức độ[4], người mẹ xinh đẹp thông minh, giỏi tướng số văn thơ[5] và bản thân trò đặc biệt thông minh hơn người nên ông hết lòng truyền thụ kiến thức. Một hôm, cụ Lương Đức Bằng ốm, biết rằng mình không sống lâu được nữa bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm đến căn dặn: - Nay thày sắp sửa xa rời các con, thày không có điều gì dặn lại các con chỉ khuyên các con: kẻ ra làm quan thì luôn nhớ ba chữ “thanh, thận, cần”, kẻ về ẩn dạy học thì luôn nhớ bốn chữ “an bần, lạc đạo”. Nghỉ một lát, cụ Bảng nhãn nói tiếp: - Thày có chút việc riêng muốn nhờ cậy con: do muộn mằn đến nay thầy mới có con đang còn trong bụng mẹ nó và ta đã dặn nếu sinh con trai đặt tên là Hữu Khánh. Sau này, nhờ con thay thầy mà dạy bảo và dìu dắt nó đi theo con đường ngay. Ðược như vậy, dù thầy có ở suối vàng được mãn nguyện lắm. Ngừng lời, Lương Đắc Bằng chỉ một cái tráp nhỏ, đặt ở đầu giường rồi bảo Nguyễn Bỉnh Khiêm: - Con hãy mang tráp đến đây, mở ra lấy một bộ sách mà ta đã gói kỹ vào để sẵn trong ấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vâng lời, làm theo ý thầy. Cụ Bằng lại bảo tiếp: - Thầy cho con quyển sách này, vì thầy nghĩ chỉ có con mới có thể hiểu nổi, nhưng con phải hứa với thầy là phải giữ gìn sách cẩn thận, đọc kỹ, khi hiểu mang ra giúp đời, làm việc thiện. Quyển sách này được một dị nhân đồng tộc trao cho trên đường đi sứ sang Minh quốc trở về. Cụ ấy còn dặn ta: Chừng nào trong tâm linh muốn cho ai thì người ấy sẽ được phần. Nay, thầy giao quyển sách này lại cho con, ấy là con có phần. Người học trò đất Trung Am lạy tạ nhận lời. Khi Lương Đắc Bằng tạ thế[6], Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại chịu tang 3 năm. Sau đó, ông về quê, tự học và đến khoa thi năm Đại Chính thứ 6 (大正六年,Ất Mùi, 1535) ông đi thi đỗ Trạng nguyên 狀元. Làm quan dưới triều Mạc, ông được bổ dụng Tả thị lang bộ Lại 吏部左侍郎,sau thăng Thượng thư 吏部尚書 kiêm Đông các Đại học sĩ 東閣大學士,được phong tước Trình Tuyền Hầu 程璿侯 rồi thăng tới Trình Quốc Công 程國公 và do ông đỗ Trạng nên dân gian gọi là Trạng Trình 狀程. Lúc rảnh, nhất là sau khi cáo quan về quê năm 1542, nhớ lời thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang sách đọc thấy không lĩnh hội được gì mấy, ông bèn mang sách cất đi, thỉnh thoảng lại lấy ra đọc, đọc xong rồi lại cất, cứ như thế mãi. Cho tới một hôm, có một người khách đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một bài thơ. Ông mở ra xem thì thấy ý tứ bài thơ có phần liên hệ với những câu trong bộ sách của thầy Bằng trao, mà ông đã cất công sức đọc nhiều lần nhưng chưa thông được. Ông hiểu đây là một phần của bộ sách bí ẩn kia và ông đã gộp chúng để nghiền ngẫm. Nhờ kiến thức từ thầy và mẹ truyền thụ lại thấu hiểu bộ sách này mà về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lý số, hiểu về quá khứ, đoán được tương lai, thế cuộc. Vì vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra lời khuyên hữu ích với Nguyễn Hoàng (阮潢, 1525 - 1613), Trịnh Kiểm (鄭檢, 1503- 1570), con cháu Mạc Mậu Hợp (莫茂洽, 1560-1592) đồng thời viết ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri ấy tập hợp trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình 狀程讖 tiên đoán việc đời sau, gắn với nhiều giai thoại kỳ thú. Cũng cần nhắc lại là: ngoài việc nghiền ngẫm sách, áp dụng để đưa ra những lời khuyên với các thế lực Nguyễn, Trịnh, Mạc nên đã giữ yên đất nước một thời gian dài, cụ Trạng còn nuôi dạy người con trai duy nhất của ân sư là Lương Hữu Khánh[7] nên người theo đúng ý nguyện của thầy. Đồng thời cũng chính cụ Trạng đã cưu mang một người cháu thầy Bằng là Lương Đắc Cam梁贵公諱甘字三郎 từ Thanh ra, đưa sang lập nghiệp bên xã Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖, huyện Tân Minh 新縣, phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay là thôn Chử Khê, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng), lập ra nhiều chi phái họ Lương ở Tiên Lãng, An Lão (thuộc tf Hải Phòng) ngày nay. Như vậy, từ sách quý do thầy tin tưởng giao phó, do cơ duyên lại được tiếp thu kiến thức y lý từ người thầy tài năng đức độ và trí thông minh thiên bẩm với kinh nghiệm bản thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã soạn ra bộ “Huyền Phạm” và sau này Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768-1840) dựa vào đó soạn ra bộ là “Huyền Phạm tiết yếu”. Theo một số tác giả thì đây là một công trình nghiên cứu công phu. Nó tổng hợp nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, Bát quái của Triết học cổ truyền, gộp được các cách khoa dự đoán Kỳ Môn tản mát trong dân gian; nó là sự tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ vũ trụ, là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. Những giá trị đó trong sách của Dương Hùng thời Hán, Triệu Nga thời Tống chưa đạt được. Như vậy phải chăng yếu tố “đem từ Bắc quốc về” chỉ là do đời sau đặt ra để tăng giá trị bộ sách bởi tính “tự ti” của người Việt hồi ấy! Bộ sách ấy do cụ Trạng đất Vĩnh Lại soạn ra, dựa vào quan điểm lý dịch Việt, có tham khảo các sách viết về chủ đề này bên Hán, Tống. Chính người Trung Hoa đã khen “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”! 3. Sách quý ra với công chúng: Bộ sách này lưu hành bí ẩn trong dân gian, chưa được khắc in nên luôn trong tình trạng “tam sao thất bản”. Sang Thế kỷ XX, do cơ duyên, Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt tiếp cận và dịch ra quốc ngữ năm 1972 gồm 5 cuốn, được Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót. Sách quý đã tìm thấy (tuy chưa đầy đủ), đã được dịch, đã in và phát hành (có chú dẫn đàng hoàng) nhiều người tìm đọc nhưng mấy ai đã hiểu. Cái tâm lý “đồn thổi” của người Việt làm tăng tính ly kỳ của những lời Tiên tri nhưng làm bí hiểm hơn những gì cụ Trạng để lại. Sinh thời, Trạng Trình cũng thấy Thái Ất thực là khó mà khó nhất trong các môn toán của tiền nhân. Bởi thế cụ có soạn bộ “Du Lỗ” và viết bài tựa về “Ngọc Tướng Huyền Cơ” để giúp riêng những ai kém thông minh vẫn có thể hiểu được. Thời Nguyễn, chỉ có các quan làm việc tại triều đình mới biết và bí mật truyền lại cho con cháu nên nó chỉ là sách chép tay nên càng kỳ bí. 4. Tâm nguyện: Nay sách in ra, phổ biến rộng là lợi thế của thời hiện đại nhưng tính “nguyên bản” chắc chi đảm bảo. Trong thời @ mấy ai tinh thông thực học như thời chữ Nho lên ngôi và tư duy kỹ thuật thời nay cũng khác xưa nên mọi lý thuyết trong bộ sách Thái Ất Thần kinh cũng như Sấm ký chỉ nên coi là tài liệu tham khảo. Coi nó là “mê tín” là sai nhưng sử dụng nó như là lá bùa lý giải, dự đoán tất cả cũng không đúng. Là người bụng chứa một phần “Ngũ xa thư” 五車書 và chỉ sô IQ chẳng đến nỗi nào nhưng đọc đi đọc lại Phần mở đầu và 7 Cuốn với 466 trang khổ A4 mà chẳng hiểu gì nhiều bởi lời văn cổ lại đầy những thuật toán bí hiểm (tuy đã được người dịch chú giải đề đáp), chỉ hiểu rằng: đây không phải sách dạy xem bói!. Thế mà có người “giấu giấu diếm diếm”, bảo lĩnh hội được và bỗng dưng trở nên “thầy” phán đủ các lĩnh vực. Phục thật! Hay mình dốt mà không biết? Thôi kệ họ! Ngưỡng mộ, kính trọng cụ Trạng quê hương, người gắn với Viễn tổ và Thượng tổ dòng họ Lương xã Chiến Thắng huyện An Lão (gốc từ Tiên Lãng sang khoảng năm 1750) tôi tìm hiểu và biên soạn lại chuyện này. Cũng là một nén tâm hương dâng lên tiền nhân, lưu giữ lại cho bà con ai quan tâm thì đọc, tự rèn mình, tìm cách ứng nhân xử thế hợp nhất chứ không mong trở thành “nhà nghiên cứu”, nhất là “Chiêm tinh gia” chi cả! Lương Đức Mến, tháng 11/2013- [1] là sư phụ của Na Tra 哪吒 ở trên thượng giới và là người rất nghiêm khắc với các học trò của mình. Một vị tiên tốt bụng, ông lúc nào cũng luôn theo em gái đồng thời cũng là vợ của Phục Hi 伏羲 là Nữ Oa 女娲 có tính tình lôi thôi và rất ít khi cưỡi mây.Mà lúc nào Thái Ất chân nhân cũng cưỡi chim hạc tiên Tiểu Hắc Bạch (chim hạc), đây cũng là thú cưng của ông. [2] Có tài liệu viết 1477-1526, tức cụ mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh thành. [3] Con cháu Lương Nhữ Hốt (梁汝笏, ?-1428). Ông người xã Trác Vinh, huyện Cổ Đằng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, đỗ Thái Học sinh thời nhà Trần. Lương Nhữ Hốt là tướng nhà Hồ nhưng năm 1406, khi quân Minh kéo sang, theo lời chiêu dụ của tướng Minh là Hoàng Phúc, ông ra làm việc cho quân Minh và được cử làm tri phủ Thanh Hoa. Cũng vì vậy, khoảng 1407-1409 ông đến lập ấp tại Triều Hải trang và đổi tên trang này thành xã Hội Triều. Cuối năm 1427, khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh tan, Vương Thông buộc phải giảng hoà rút về, Lương Nhữ Hốt đầu hàng Nghĩa quân Lam Sơn, được Lê Lợi xá tôi. Nhưng sau đó, ông vẫn không phục, liên kết với những người từng hợp tác với quân Minh trước đây như Trần Phong, Đỗ Như Trung mưu chống lại nhà Lê. Lê Thái Tổ bèn bắt 3 người cầm đầu này giết chết vào ngày 24/11/1428, sau đó hạ chiếu tha hết cho các thủ hạ. Để giữ hòa khí với nhà Minh, vua Lê Thái tổ không tru lục đến thân thích các đầu lĩnh. Những người con của Lương Nhữ Hốt di cư sang tỉnh Vân Nam còn Lương Nhữ Hốt được nhà Minh truy phong tước Lãng Lăng Đại Vương. [4] Giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). [5] Bà Nhữ Thị Thục (? - ?), con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan (1443-1523) triều Lê Thánh Tông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng thực ra chỉ cách con sông Hàn (Tuyết Giang) và ở bên này nhìn rõ cây đa đầu làng bờ bên kia. [6] Có nhiều tài liệu viết khác nhau về năm mất của cụ Bảng nhãn. Kết hợp lại có thể nhận xét Cụ thọ hơn 50 tuổi nên mất Bính Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó. [7] 梁有慶 (1517 – 1590) là con Bảng nhãn Lương Đắc Bằng với người “dắng thiếp (媵妾, tức vợ bé và bà này là em Chính thất Hoàng Thị Phục) sau khi cụ Thượng mất 5 tháng và sau này theo họ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 18 tuỏi. Lương Hữu Khánh là bậc Danh thần khai nghiệp nhà Lê Trung Hưng. Bởi “trong vạch kế, ngoài chống giặc” nên mưu lược, văn võ của ông được tôn trọng, nhiều lần lập công lớn và được cử làm Thượng thư bộ Lại 吏部尚書, kiêm Tổng tài Quốc sử Quán 國史館總裁, tước Thái tể 太宰- Đạt quận công 達郡公.
  9. (Ý nghĩa mặt trống đồng Timor Lesté tiếp theo 2) Qua hình chữ "Nhân đối xứng gương" thì tấm gương chính là trục Khảm - Ly trên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của con người, ở đây phương vị quái Ly đặt phía trên. Trục thẳng đứng này đi qua chân của chữ "Nhân đối xứng gương" này, tương tự như hai trục nam - bắc và đông - tây đi qua đầu mõm của bốn con rồng đất Komodo trên chiếc trống Đào Xá. Hoa văn mặt trống Đào Xá Xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú năm 1978 (Trong các bài viết tôi thường sử dụng lại các khám phá lịch sử, văn hóa của bác sĩ Nguyễn Xuân Quang) Hà đồ với phương Nam ở trên Như vậy, chữ "Nhân đối xứng gương" nằm lệch về phía Tây, nằm trong cung Tốn, độ số 4, đây cũng là hình tượng thể hiện sự "Sinh Tử" - "Đông Tây" tức là "linh hồn" và "thể xác". Đồng thời, cũng ghi nhận phương vị Nam ở phía trên trong Hà đồ thì mới "soi gương" được với phương Bắc "Nước: mặt gương" phái dưới chứ không thể nói từ dưới soi lên. Cần nhấn mạnh Timor Lesté thuộc vùng Nam bán cầu và "Nhân đối xứng gương" ở phương Nam, phương Nam bây giờ ở phía dưới, ứng Nam bán cầu của Timor Lesté. Trong điển cố văn học có câu truyện Giấc mộng Nam Kha. Trong tiếng Hán có một câu thành ngữ “Giấc mộng Nam Kha”, được dùng để hình dung cõi mộng hoặc một không tưởng không thể thực hiện được của một người nào đó. Thành ngữ này có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên. Một người tên Thuần Vu Phân, ngày thường thích uống rượu. Trong sân nhà ông có một cây hòe lớn rễ sâu cành rậm, một đêm giữa hè, trăng tỏ sao thưa, gió thổi hiu hiu, chỗ dưới cây hòe là một chỗ hóng mát tốt. Vào ngày sinh nhật của Thuần Vu Phân, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, Thuần Vu Phân ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bất giác ngủ quên. Trong giấc mơ, nhận lời mời của hai sứ thần, Thuần Vu Phân bước vào một lỗ cây. Trong lỗ có thời tiết tốt đẹp, là một thế giới riêng biệt, có nước Đại Hòe. Lúc đó, kinh thành đang tổ chức cuộc thi lựa chọn quan chức, ông cũng đi đăng ký. Ông đã thi ba cuộc, viết văn rất suôn sẻ. Khi công bố kết quả cuộc thi, ông đứng đầu bảng. Tiếp theo nhà vua tổ chức thi đình. Nhà vua nhìn thấy Thuần Vu Phân vừa đẹp trai, vừa tài ba lỗi lạc, nên hết sức ưa thích, rồi chọn ông là trạng nguyên, và gả công chúa cho ông. Trạng nguyên trở thành phò mã, nhất thời việc này được truyền thành giai thoại ở kinh đô. Sau khi lấy nhau, vợ chồng hết sức đằm thắm. Không lâu, Thuần Vu Phân được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Thuần Vu Phân cố gắng làm việc và quý mến nhân dân, thường đến địa phận quận Nam Kha điều tra nghiên cứu, kiểm tra công tác của bộ hạ, công tác hành chính ở các địa phương đều rất liêm khiết và có trật tự, nhân dân địa phương hết sức khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của Thuần Vu Phân đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có 7 con, 5 trai 2 gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động Thuần Vu Phân về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng sau khi được biết, nhân dân địa phương kéo nhau lên phố, ngăn lại xe ngựa của thái thú, thỉnh cầu ông tiếp tục làm quan thái thú quận Nam Kha. Thuần Vu Phân cảm động trước sự yêu mến của nhân dân, đành phải lưu lại, và trình thư lên nhà vua giải thích rõ tình hình. Nhà vua rất vui mừng trước thành tích công tác chính trị của ông, và ban thưởng cho ông nhiều vàng bạc châu báu. Một năm, nước Thiện La cử quân đội xâm phạm nước Đại Hòe, các tướng quân nước Đại Hòe thừa lệnh chặn đánh địch, bất ngờ bị đánh bại nhiều lần. Tin thua trần truyền tới kinh thành, nhà vua bị choáng, khẩn cấp triệu tập quan chức văn võ thương lượng cách đối phó. Nghe nói quân đội mình nhiều lần bị đánh bại ở tiền tuyến, địch hết sức mạnh mẽ đã tiến gần kinh thành, các đại thần sợ hãi đến nỗi tái mặt, đại thần này nhìn đại thần kia, đành chịu bó tay. Nhìn thấy thần sắc của đại thần, nhà vua hết sức tức giận và nói: “Nhà ngươi ngày thường ăn ngon ở nhàn, hưởng thụ hết vinh hoa phú quý, một khi nhà nước gặp khó khăn, nhà ngươi lại trở thành quả bầu không có mồm, hèn nhát khiếp trận, cần nhà ngươi có tác dụng gì?” Tể tướng chợt nghĩ tới ông Thuần Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất sắc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhà vua ra lệnh ngay, điều động Thuần Vu Phân điều khiển quân đội tinh nhuệ toàn quốc đánh địch. Sau khi nhận được mệnh lệnh của nhà vua, Thuần Vu Phân lập tức dẫn quân xuất chinh. Nhưng ông không biết gì về phép dùng binh, vừa giao chiến với quân địch, đã bị thua liểng xiểng, chiến sĩ và ngựa bị tổn thất nặng nề, ông xuýt nữa bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuần Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến, những kiến đang cư trú ở đó. “Giấc mơ Nam Kha” có khi cũng chỉ đời người như giấc mơ, phú quý quyền thế đều là hư ảo. Tôi ghi chú: Trích lại: Hoa Nghiêm bàn về lẽ sinh thành ra vũ trụ và cho rằng vũ trụ này là do một nguyên nhân sinh xuất ra. Nguyên nhân đó là Chân Như, hay Phật tính, hay Lý như Hoa Nghiêm thường dùng. Lý ấy sinh ra chúng sinh, vạn pháp, vạn sự.
  10. (Ý nghĩa mặt trống đồng Timor Lesté tiếp theo 1) Trên mặt trống đồng Timor Leste với chữ "Nhân đối xứng gương" thể hiện cái "bóng" của con người, tức trong một ý nghĩa vô cùng sâu xa, phải dùng đến Lý học Đông phương và sự hợp nhất của Tam Giáo: đó chính là "linh hồn". Hình ảnh đối xứng gương Đồng thời, kết hợp với ý nghĩa đối xứng gương về "tính Thấy" trong Phật pháp và sự trùng trùng điệp điệp của sự vật, hiện tượng phản chiếu trong nhau của Kinh Hoa Nghiêm qua mọi Cõi, hay mọi thế giới: tức 3 vòng tròn lớn không mang bất kỳ biểu tượng nào, ở đấy "3 viền tròn" chỉ mang tính ước lệ, đó chính là tính viên dung, vô chướng ngại của sự vật, hiện tượng bất kỳ trong một vũ trụ vô cùng. ... Và chúng ta cần phải nhấn mạnh rằng: chiếc trống này còn có trước cả lịch sử Phật giáo. THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ VỚI HOA NGHIÊM TÔNG Bái sĩ Nguyễn Văn Thọ Toát lược thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể Các Thánh triết trong thiên hạ, xưa nay, không phân đạo giáo, đều nhất luật chủ trương: 1. Con người có Bản Thể Trời, Đạo, Chân Như. 2. Con người nếu biết đàng tu luyện, có thể sống kết hợp nhất như với Trời, Đạo, Chân Như (Union Mystique avec Dieu; Mystical union with God; Atonement = At one ment). Họ chủ trương: Vũ trụ này đã từ một Đại Thể (Trời, Chân Như, Đạo) phóng phát tán phân ra mà thành (emanation theory), sẽ biến hóa đa đoan,, nhưng lúc chung cuộc, muôn loài lại trở về với Đại thể trên (Apocastatasis). Học thuyết này, Âu Châu gọi là thuyết Phóng phát, Tán Phân (Emanation theory hay Monistic Theory). Á Châu gọi là Thuyết Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể hay Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất thể. Kinh Dịch cũng chủ trương như vậy. Vì một kiếp người không sao đủ để trở về với Trời, với Chân Như, nên các triết gia theo chiều hướng trên, đều chủ trương con người sẽ luân hồi, sẽ tái sinh. Có điều chắc chắn là các triết gia có chủ trương trên, bất kỳ thuộc tôn giáo nào, đều là những bậc thánh hiền đạo cao, đức cả. Lời họ giảng dạy đều giống nhau. Mạnh tử viết: Tiên thánh, hậu thánh kỳ quĩ nhất dã (Mạnh tử, Ly Lâu chương cú hạ, 1) Ramakrishna viết: Thánh hiền sau trước đều có những lời giảng dạy như nhau (Tous les sages ont un enseignement unique. – L’enseignement de Ramakrishna, p. 256) THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ 1. Vũ trụ hữu hình này là do một toàn thể phóng phát tán phân ra. 2. Như vậy vạn hữu cùng chung một Bản thể như nhau. Đồng căn, dị dạng, NHẤT THỂ VẠN THÙ. 3. Thượng đế, Chân Như tiềm anå trong lòng quần sinh, vũ trụ 4. GIÁC NGỘ là biết rằng mình có Bản thể Thượng đế, có Tính Trời, Tính Phật. 5. Tìm Đạo, tìm Trời, tìm Phật phải tìm trong lòng mình. 6. Lúc chung cuộc, vạn vật sẽ siêu thăng, trở về với Thượng Đế, với Chân Như. Như vậy chung cuộc là hòa hợp. 7. Vũ trụ, con người, và lịch sử sẽ biến hóa 2 chiều: vãng, lai; thuận, nghịch (Cyclical conception of History) HOA NGHIÊM TÔNG VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ Tuy Đức Phật ít bàn đến Bản Thể vũ trụ, nhưng sau này, các triết gia Phật giáo, nhất là Hoa Nghiêm tông, hay bàn về vấn đề này và đã chủ trương Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất thể Phật giáo đã có những thành ngữ như: Nhất tức Nhất thiết; Nhất thiết tức Nhất; Một là Tất Cả, Tất Cả là Một. Triệu Châu (778-897) có công án: Vạn pháp qui Nhất, Nhất qui hà xứ? Vạn Pháp trở về Một; một trở về đâu? Một vị Thượng Tọa tôi quen, trả lời: Nhất qui Bản Lai Diện Mục. Mà Bản Lai Diện Mục chính là Bản Thể của Vũ Trụ. Hoa Nghiêm Tông là một tông phái Phật giáo có từ đờì Đường, lấy kinh Hoa Nghiêm làm căn bản. Hoa Nghiêm là bộ kinh Đại Thừa do Long Thọ Bồ Tát xuống Long Cung sao chép lại. Sách truyền từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào năm 418, thời Đông Tấn. LƯỢC SỬ CÁC TỔ HOA NGHIÊM 1. Tổ đầu tiên là Đỗ Thuận hay Pháp Thuận (557-640) Ngài xuất gia năm 18 tuổi. Học trò thánh tăng Đạo Trân. Ngài là một học giả nổi tiếng, Ngài còn được coi như là một thuật sĩ. Tục truyền vua Đường Thái Tông đau bệnh lao nhiệt, mời Ngài vào cung chữa bệnh. Ngài hứa chữa lành, nhưng xin nhà vua ân xá cho toàn dân. Vua làm theo và khỏi bệnh. Sau đó phong Ngài là Đế Tâm tôn giả (Người được vua quí trọng) Ngài có bài tụng sau được coi như là một công án: Thanh châu ngưu ngật thảo, Ích châu mã phúc chướng. Thiên hạ mịch y nhân, Cứu chư tả bác thượng. Dịch: Bò Thanh Châu ăn cỏ Ngựa Ích Châu chướng bụng. Thiên hạ tìm thày thuốc, Cứu bắp chân trái heo. Bài tụng này rõ ràng đưa ra tư tưởng: Lý sự vô ngại của Hoa Nghiêm Tông. Ngài viết quyển Hoa Nghiêm Pháp giới quan môn và Vọng tận hoàn nguyên quan., Hoa ghiêm Ngũ giáo chỉ quán, Hoa Nghiêm Nhất thừa Thập Huyền môn v,v... Tục truyền khi Ngài viết xong quyển Hoa Nghiêm Pháp giới quan môn, Ngài ném sách này vào lửa, với lời nguyện rằng: Nếu sách này, không có gì sai lời Phật dạy, thì xin cho sách đừng bị cháy. Mà sách hoàn toàn không bị cháy thật. Người ta coi Ngài là Văn Thù Bồ Tát giáng trần. 2. Tổ 2 là Vân Hoa Trí Nghiễm (602-688) Vân Hoa Trí Nghiễm Pháp sư hay Chí Tương Tôn Giả, sinh vào năm Khai Hoàng 20. Khi thụ thai Ông, nhà ngát mùi hương. Và sau này, Ông thông minh hơn người. Năm 12 tuổi, ngài Pháp Thuận đến nhà Ông, xin đem về làm con. Cha mẹ Ông bằng lòng. Pháp Thuận cho người dạy Ông kinh sách ngày đêm. Sau này Ông còn được mấy thày Bà La Môn dạy cho tiếng Phạn. Ông rất thông kinh sách Phật giáo, nhưng thường tự hỏi: Sách Phật như rừng vậy, phải học quyển nào? Ông đứng trước Tam Tạng Kinh, khấn nguyện và rút ra một quyển. Đó là Hoa Nghiêm kinh quyển 1. Ông liền tìm thày dạy Kinh Hoa Nghiêm. Ông viết nhiều về Kinh Hoa Nghiêm, như Thập Huyền môn, (Cổ Huyền môn), Lục Tướng, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm trung sưu huyền phân tề thông trí phương quĩ, Hoa Nghiêm ngũ thập yếu vấn đáp, Hoa Nghiêm Kinh nội chương môn đẳng tạp khổng mục chương v.v... Trí Nghiễm rất tài hoa. Ông vẽ rất đẹp. Nhờ Ông mà Hoa Nghiêm Tông phát triển rất mạnh. Ông mất năm 72 tuổi. 3. Pháp Tạng Pháp Sư hay Hiền Thủ pháp Sư (643-712) Pháp Tạng là Tổ 3, viết nhiều về Hoa Nghiêm như Hoa Nghiêm Kinh thám huyền ký, Hoa Nghiêm Kinh văn nghĩa tổng mục, Hoa Nghiêm kinh sách lâm, Hoa Nghiêm kinh vấn đáp, Hoa Nghiêm Kinh nghĩa hải bách môn, Hoa Nghiêm Kinh quan mạch nghĩa ký, Hoa Nghiêm Du Tâm Pháp Giới Ký, Hoa Nghiêm Tam Muội chương, Hoa Nghiêm phát Bồ Đề tâm chương,Hoa Nghiêm thập chủng chỉ quán, Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền quán hạnh pháp môn, Hoa Nghiêm Nhất thừa Giáo Nghĩa phân tề chương, Hoa Nghiêm Kinh chỉ qui, Hoa Nghiêm Kinh minh pháp phẩm nội lập tam bảo chương, Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ, vọng tận hoàn nguyên quan Hoa Nghiêm Kinh kim sư tử chương chú v.v... Ông được dân chúng gọi là Hiền Thủ (Hiền sĩ số một), nhà vua phong ngài là Quốc Nhất Pháp Sư (The Dharma Teacher Kou-I). Người ta còn coi Ngài như vị tổ sáng lập Hoa Nghiêm Tông. Năm 16 tuổi, chặt một ngón tay cúng dường Phật. Năm 18 tuổi đi khắp nơi tìm thày dạy, nhưng không gặp ai vừa ý. Ông liền ẩn tu nhiều năm. Sau nghe biết Ngài Trí Nghiễm giảng kinh Hoa Nghiêm tại chùa Hoa Vân ở Kinh Thành, Ông tới xin làm đồ đệ. Năm 28 tuổi, Hoàng Đế Võ Tắc Thiên mời Ông làm trụ trì một ngôi chùa Bà mới xây. Ngài được Hoàng đế mời thuyết pháp nhiều lần. Ngài giảng về Thập Huyền Môn và Lục Tướng. Trong đời Ngài, Ngài giảng kinh Pháp Hoa hơn 30 lần. Pháp tạng mất năm 70 tuổi và được quốc táng. 4. Trừng Quán Pháp Sư (738-840) Trừng Quán Pháp Sư (738-840). Về năm sinh, năm tịch, của Pháp Sư Trừng Quán, ta thấy các học giả khòng đồng ý nhau. Tuệ Sĩ, Takakusu cho ngài sinh và tịch khoảng năm 760-820, nghĩa là sống có 60 năm. Garrna C.C. Chang, và Tuyên Hóa Thiền Sư, Chùa Vạn Phật, dựa vào truyền thuyết, cho rằng ngài thọ 102 tuổi (538-840), sống qua 9 đời vua (Huyền Tông 712-755, Túc Tông 756-760, Đại Tông 761-719, Đức Tông 719-804, Thuận Tông 804, Huệ Tông 805-820, Mục Tông 821-824, Kính Tông 825, Văn Tông 827-840. Ngài được phong là Thanh Lương Quốc Sư trong bảy đờì vua (Đại tông, Đức Tông, Thuận Tông, Huệ Tông, Mục Tông, Kính Tông, Văn Tông) Tuy danh vọng thế, nhưng ngài sống rất thánh thiện. Ngài lập Thập Nguyện, thề hứa luôn mặêc đạo bào, tránh tuyệt nữ sắc v.v... Người ta coi Ngài là Hoa Nghiêm Bồ Tát hóa thân. Ngài viết nhiều sách như Hoa Nghiêm Kinh sớ, Hoa Nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao, Hoa Nghiêm Kinh sớ sao, Trinh Nguyên tân dịch Hoa Nghiêm Kinh sớ Hoa Nghiêm hạnh nguyện sớ liệu, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm biệt hành sớ sao v.v... Năm 1979. Đài Bắc đã cho xuất bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh thiển thích của ngài ra tiếng Trung Hoa và Anh ngữ (Flower Adornment Sutra Preface). Ngài sinh sau Pháp Tạng 27 năm mà là Tứ Tổ cũng lạ. Sở dĩ đươc như vậy là vì Trừng Quán bài bác dị thuyết của Huệ Viễn, một đệ tử của Pháp Tạng, và tái lập lại giáo lý nguyên thủy của tông phái. 5. Khuê Phong, Tông Mật Thiền Sư (780-841) Tông Mật vừa là Ngũ Tổ, vừa là Thiền Sư. Ngài giảng kinh Viên Giác, và viết Hoa Nghiêm nguyên nhân luận. Nhưng Ngài thua các Tổ trước. Đến đời nhà Tống, Hoa Nghiêm nhận thêm Mã Minh (Acvaghosha) và Long Thọ (Nagarjuna) làm tổ 6 và 7. Hoa Nghiêm Tông truyền sang Nhật do Thẩm Tường, đồ đệ của PhápTạng năm 740. Hiện nay tông này còn thịnh ở Nhật.[1] Sơ lược kinh Hoa Nghiêm Kinh Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka Sutra hay Gandavyhasutra, do Ngài Long Thọ, sinh sau Đức Phật 600 năm, xuống Long Cung sao chép đem về. Nhưng cũng có người cho rằng, Ngài Mã Minh đã soạn sách này 100 năm trước Long Thọ. Ngài Long Thọ chỉ san định lại kinh này. Vì thế Hoa Nghiêm tông nhận cả 2 Ngài làm tổ. Nguyên bản Hoa Nghiêm kinh gồm 48 phẩm với 100.000 ngàn bài Tụng, Các bản dịch Hoa Nghiêm kinh: 1). Bản dịch đầu tiên (hay Cựu dịch) đời Đông Tấn (317-419) do ngài Phật Đà Bạt Đà La (Bud -dhabhadra - Giác Hiền), người Bắc Thiên Trúc dịch, gồm 60 quyển, 36 phẩm, 36.000 bài tụng. Bản này gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm, hay Tấn Kinh, hay Cựu Kinh. 2). Bản 2 (hay tân dịch) đời nhà Đường (618-607) do Ngài Thực Xoa Nan Đà (Giksananda-Hỷ Học), người nước Vu Điền (Kotan) tái dịch bản cũ, gồm 80 quyển, 39 phẩm, 45.000 bài tụng, tức là hơn quyển trên 9.000 bài tụng. Bản này gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay Đường kinh hay Tân kinh. 3). Bản ba cũng đời Đường do ngài Bát Nhã nước Kế Tân (Kaboul), gồm 40 quyển, và dịch phẩm cốt yếu là Nhập Pháp Giới (kể truyện Thiện Tài Đồng tử) Bản này còn gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm được dịch ra Việt Văn do Thích Trí Tịnh, năm 1965. Bản Hán Văn 80 quyển được xếp thành một bộ 8 quyển, khoảng 5600 trang. Thật là vĩ đại. Đây chính là tứ thập Hoa Nghiêm, gồm 40 phẩm. Đại ý Hoa Nghiêm Hoa Nghiêm bàn về lẽ sinh thành ra vũ trụ và cho rằng vũ trụ này là do một nguyên nhân sinh xuất ra. Nguyên nhân đó là Chân Như, hay Phật tính, hay Lý như Hoa Nghiêm thường dùng. Lý ấy sinh ra chúng sinh, vạn pháp, vạn sự. Vì thế mới nói: Nhất tức nhất thiết (Một là Tất Cả) Nhất thiết tức Nhất. (Tất cả là Một) Tất cả đều dung thông, tương nhiếp, đều lồng vào nhau, không có gì ngăn ngại.(Nhất thiết pháp giới, hỗ tương duyên khởi, trùng trùng vô tận, viên dung vô ngại) Vì thế nên nói: 1. Lý pháp giới (Pháp giới Chân Như tiềm ẩn bên trong vạn hữu) 2. Sự Pháp giới (Vạn tượng, vạn hữu hiển lộ bên ngoài. 3. Lý Sự vô ngại pháp giới. (Thế giới của Lý và của Sự dung thông với nhau, không ngăn ngại nhau). 4. Sự sự vô ngại pháp giới (Hết thảy các sự vật trong hiện tượng giới đều không ngăn ngại nhau.) Trung Dung chương 30 có ý tưởng tương tự. Trung Dung viết: Đức Khổng nối tiếp đạo Thuấn, Nghiêu, Làm sáng tỏ lối đường Văn, Võ. Trên thuận thiên thời, dưới theo thủy thổ, Như đất trời bát ngát, bao la, Che chở muôn loài khắp gần xa. Như tứ thời luân lưu chuyển động, Như nhật nguyệt hai vừng chiếu rạng. Muôn loài cùng chung sống chẳng hại nhau, Đi một chiều, chẳng phản bội chi đâu, Tiểu đức như sông ngòi dinh dưỡng, Đại đức luôn hóa sinh, tăng trưởng, Phép tắc Trời cao cả xiết bao! Tôi nghĩ rằng nói Lý Sự vô ngại rất đúng. Ví như tôi ở trong tỉnh Westminster này, thì nào có thêm bớt, tăng giảm gì đối với thành phố này đâu? Đối với Hoa Nghiêm kinh không gian và thời gian dung thông vô ngại. Không gian dung thông vô ngại, Kinh văn nói: Vô lượng vô số núi Tu Di, Đều đem để vào một sợi lông, Một thế giới để vào tất cả, Tất cả thế giới để vào một. Thể tướng thế giới vẫn như cũ, Vô đẳng, vô lượng đều cùng khắp. Trong một chân lông đều thấy rõ, Vô số vô lượng chư Như Lai, Tất cả chân lông đều thế cả... Thời gian dung thông vô ngại, Kinh văn viết: Kiếp quá khứ để hiện, vị lai, Kiếp vị lai để quá, hiện tại, Ba đời, nhiều kiếp là một niệm, Chẳng phải dài vắn: Hạnh giải thoát. Về thời gian và không gian dung thông vô ngại, Kinh văn viết: Khắp hết mười phương các cõi nước, Mỗi đầu lông có đủ ba đời Phật cùng quốc độ vô số lượng, Tôi khắp tu hành trải trần kiếp, Trong một niệm tôi thấy ba đời... (Xem Kinh Hoa Nghiêm, Lời nói đầu, Thích Trí Tịnh,) Việt Nam có những câu tương tự: Càn khôn rút lại đầu lông xíu, Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng. (Càn Khôn tận thị mao đầu thượng, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung). ( Một Thiền sư đời Lý) Hay: Người đời ngắm lại mà hay, Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê. (Tản Đà) Cái lý tương dung, tương nhiếp này đã được Đại Sư Pháp Tạng chứng minh cho Hoàng Đế Võ Tắc Thiên xem vào khoảng năm 700. Võ Tắc Thiên yêu cầu Ngài Pháp Tạng chứng minh cho thấy thế nào là Lý sự vô ngại, Sự sự vô ngại, Pháp Tạng nhận lời. Vài ngày sau, Pháp Tạng mời Hoàng đế tới xem cách Ông chứng minh. Ông mời Hoàng đế vào một buồng mà chỗ nào cũng mắc kính: Trần nhà, sàn nhà, trên bốn bức tường, nơi bốn góc nhà thập phương đều treo những tấm gương lớn. Các gương đều quay vào nhau. Rồi Pháp Tạng để một tượng Phật ở chính giữa buồng, với một ngọn đuốc bên cạnh tượng Hoàng đế la lên: Thật là lạ lùng, thật là kỳ diệu, khi bà nhìn thấy các gương phản chiếu lẫn nhau, trùng trùng, điệp điệp. Và Pháp Tạng nói: Thưa Bệ Hạ, đây là một chứng minh về toàn thể Pháp Giới. Trong mỗi tấm gương trong phòng này, Bệ Hạ thấy phản chiếu lại các gương khác, với hình đức Phật trong đó. Và gương nào cũng phản chiếu lại trung thực như vậy. Cho thấy tất cả đều dung thông, dung nhiếp lẫn nhau. Một là tất cả, tất cả là một. Cái lý Trùng trùng duyên khởi cũng được chứng minh... [2] Ta nên nhớ Võ Hậu dù sao cũng là người đã cho thỉnh kinh HoaNghiêm từ nước Vu Điền (Turkestan) về, và đã cho dịch bộ kinh này ra, dưới quyền điều khiển của Ngài Thực Xoa Nan Đà (Giksananda, Hỷ Học). Sách dịch xong vào tháng 10 năm 699. [3] Tôi nghĩ không phải Pháp Tạng đã tự nghĩ ra được phương pháp xếp gương trên, mà thực sự, đã phỏng theo thí dụ về Đế Võng, hay Đế Thích Võng, hay Ân Đà La Võng (Indra’net) nói trong kinh Hoa Nghiêm. Đế Võng là một chiếc Bảo Võng, treo trên nóc điện Đế Thích, có muôn vàn châu ngọc, phản chiếu lẫn nhau, trùng trùng vô tận. Hoa Nghiêm chư sư dùng Đế Thích Võng để ví dụ Nhất tâm sinh Vạn Tâm, và chư pháp trùng trùng duyên khởi.[4] Kinh Hoa Nghiêm quảng diễn tư tưởng trên. Hoa Nghiêm là Tràng Hoa. Kinh này thuyết minh Chân Lý, mà Chân Lý là Đạo, là Tuyệt Đối, ly ngôn tuyệt tướng, nên phải dùng một hình ảnh mà diễn tả: Hình ảnh đó là một tràng hoa gồm nhiều thứ hoa, để trang nghiêm Phật Quốc. Hoa có nhiều loại, có muôn hình tướng khác nhau, tượng trưng cho VẠN VẬT. Nhưng hoa được xâu lại thành một Tràng Hoa dài, trang hoàng nơi Phật thuyếp pháp. Tràng Hoa tượng trung cho một cái gì chung cho muôn loài, đó là Bản Thể, là Lý, là Lý Tánh, là Chân Như. Riêng tên Kinh đã diễn tả rõ ràng cái Chân Lý tuyệt vời: Tướng hay Sự thì nhiều và sai khác, nhưng Thể hay Lý chỉ có Một Tuy Tướng không phải Thể, nhưng rời Tướng thì không tìm thấy Thể. Lìa các bông Hoa thì không tìm thấy tràng hoa. Động đến tràng hoa là động đến các bông hoa. Chạm đến một bông hoa là ảnh hưởng đến tất cả tràng hoa. Ý muốn nói rằng: Toàn thể Pháp Giởi vũ trụ là MỘT, CHÂN và BÌNH ĐẲNG (The Universe is One and real and identical to itself). MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT. Phật và Chúng Sinh không khác, đều có đồng một Bản Thể Chân Tâm. Khi nào giác thì là Phật, còn mê là Chúng Sinh. Đó là lý: VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ. Đã là MỘT, thì Vạn vật đều liên quan mật thiết với nhau, dính chùm với nhau. Chính vì thế mọi người đều liên quan mật thiết với nhau, không thể sống lẻ loi, chia rẽ được. Ta là Người, Người là Ta, nên Phật Giáo luôn dạy mọi người Từ Bi Chính vì thế mà các hàng Bồ Tát luôn xả thân cứu độ chúng sinh.[5] Thủ Lăng Nghiêm quyển 3 có câu: Như nhất chúng sinh vị thành Phật, Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn. (Như một chúng sinh chưa thành Phật, Chúng tôi nguyện chẳng nhập Niết Bàn.) Hoa Nghiêm Kinh dạy con người sống hết sức đẹp đẽ: Có tâm từ muốn che chở chúng sinh, Có tâm từ muốn làm ích chúng sinh. Lòng rộng mở, yêu thương và khoan dung. Lòng vô ngại, không làm trở ngại ai. Lòng bao la, tràn ngập vũ trụ, Lòng vô biên, rộng rãi tựa không gian, Lòng thanh tịnh có trí huệ và công phu ba kiếp. (A great compassionate Heart, which longs to protect all, A great loving heart, which longs to benefits all beings, An understanding heart, which breeds sympathy and tolerance, A free heart which longs to remove obstructions from others, A heart which fills the universe, A heart endless and vast as space. A pure heart which conforms to the wisdom and merits of the past, the present and the future... [6] Cuối bộ Hoa Nghiêm có kể truyện Thiện Tài Đồng tử đi học đạo Bồ tát với 53 cao tăng, cư sĩ. Trước là để Phát tâm bồ đề, sau là để cầu Thiện trí thức. [7] Kinh Hoa Nghiêm đã được Thiền Sư Tuyên Hóa giảng dạy bằng tiếng Anh, tại Chùa Vạn Phật, bắt đầu ngày 13 tháng 6, 1971, kéo dài 1 năm rưỡi. [8] Hằng Thiệt Pháp Sư, năm 1976, trong khi Tam Bộ Nhất Bái từ Pasadena lên chùa Vạn Phật, cũng trì tụng kinh này trong thời gian ấy. [9] Các tổ Hoa Nghiêm trì tụng kinh này suốt đời. Cụ Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng giảng kinh này tại Chùa Liên Hoa trong vòng 5 năm rưỡi. Hòa thượng Thích Thanh Từ giảng kinh này bằng 60 tapes. Thật là những vị đáng kính phục! Tóm tắt học thuyết Hoa Nghiêm: Bao giờ tư tưởng và lời lành của Phật cũng sáng ra và dội ra các nơi trong mọi vật cho đến trong hạt cát nhỏ nhất. Vạn vật ở thế gian đều ăn chịu và tiếp ứng với nhau, đồng soi sáng cho nhau. Phật với người đồng một tánh Chân Như. Phật quyết đưa về cõi Giác tất cả loài người, bao giờ còn một sinh mạng phải cứu vớt, thì lòng Phật chưa yên.[10] Vĩ đại thay là con người. Ta và Phật là Một. Ta và chúng sinh là một. Ta và vũ trụ là một. Ta phải học hỏi để mở mang Trí Huệ.(Trí) Ta phải tu thân để mở rộng Từ Bi Tâm. (Bi) Ta phải Tinh Tiến (tiến hóa) để tăng Uy Dũng.(Dũng) Tiên giác, giác hậu giác! Niết Bàn là Thái Cực, là Chân Như trường tồn, bất biến. Niết Bàn là toàn bích, toàn thể, là tuyệt đối, là căn cơ. Luân hồi là Âm Dương là Vạn Pháp ảo hóa, biến thiên. Luân Hồi là chi tiết, ngọn ngành, là tương đối. Hãy bỏ biến thiên để trở về Bất Biến. Hãy bỏ tương đối về với Tuyệt đối. Hãy bỏ ngọn ngành về với căn cơ. CHÚ THÍCH [1] Xem The Buddhist Teaching of Totality, The Philosophy of Hwa Yen Buddhism, Garma C.C. Chang pp. 231-240; Thực Dụng Phật Học Từ Điển, tr. 1474-1476); Flower Adornment Sutra, Preface, Tripitaka Master Hua 16- 47. [2] The Buddhist teaching of Totality,The Philosophy of Hoa Nghiêm Philosophy, Garma C. C. Chang, p. 23-24. [3] Xem sách trích dẫn trên, trang 22. [4] Xem Thực dụng Phật Học từ điển, tr. 1031-1032, và 649. Xem Indra’net trong The Philosophy of Totality, Gamma C.C. Chang, pp, 156, 165-166, 224, 229. [5] Tìm hiểu Kinh Hoa Nghiêm, Minh Lạc Vũ Văn Phường, tr. 9-10. [6] Xem The Buddhist Teaching of Totality, Garma C.C. Chang, pp. 26-27. [7] Xem phần tóm tắt quyển Bồ tát đạo, trong Toát lược triết lý kinh Hoa Nghiêm và Bồ tát đạo, Minh Đức Thanh Lương, tr. 45-118. [8] Xem Flower adornment Sutra, Preface, p. 15, và phần Hán văn ở nửa sau, tr. 9. [9] Xem Đại Phương đẳng Phật Hoa Nghiêm kinh thiển thích, tr. 13. [10] Xem Các Tông phái Đạo Phật, Đoàn Trung Còn, tr. 46.
  11. Tôi trích lại một bài viết của anh Mộc Công về thiên văn, lịch pháp trong trao đổi với bác Vô Trước và anh Dichnhan07 Lịch pháp là cơ sở của mọi phương pháp bói toán phương Đông. Tất cả môn dự báo đều phải lấy dữ liệu đầu vào là giờ, ngày, tháng, năm âm lịch. Hơn nữa Đông Á vốn là nền văn hóa lúa nước, nơi mà khí hậu trở thành điều quan trọng nhất cho nông gia, cho nên việc dự báo và tìm chu kỳ của thời tiết đã được nghiên cứu rất kỹ từ lâu thông qua Âm Dương Lịch. Sử Ký chép: đời vua Đường Nghiêu, có sứ giả Việt Thường vào chầu dâng con Thần Quy trên lưng có chép chữ khoa đẩu về lịch. Nghiêu sai chép lại rồi dùng nó để làm lịch và gọi là Quy Lịch, lúc bầy giờ tháng nhuận mới được thêm vào. Thuấn sau này sai quan Thái Sử quan sát chuyển động mặt trời và mặt trăng để định ra tiết khí và định quy tắc thêm tháng Nhuận. Tức là thời Nghiêu Thuấn theo như Sử Ký đã biết đến khái niệm tháng Nhuận và sau này Thuấn (vốn là dòng Bách Việt-Kinh Thư (Thuấn điển)) đã vận dụng những hiểu biết về thiên tượng để tìm quy tắc thêm vào các tháng nhuận. Những khám phá khảo cổ thì lại chỉ chứng minh rằng những di tích sớm nhất về lịch được ghi trên những tấm giáp cốt từ thời nhà Thương. Các tấm này chỉ ra 1 năm có 12 tháng, thỉnh thoảng có thêm tháng 13 và thậm chí là tháng 14. Ngày tháng trong lịch sử Đông Á được biết đến sớm nhất bắt đầu từ năm 841 TCN (thời kỳ Cộng Hòa của nhà Tây Chu) (841-828). Do Chu Lệ Vương là một hôn quân, cho nên nhân dân đã làm loạn đánh vào kinh đô bức Lệ Vương phải lưu vong, hai đại thần có uy tín là Chu Công và Thiệu Công đã được cử lên làm nhiếp chính thay Vua. Hai ông này đã đem con của mình ra chết thay cho Thái Tử Cơ Tịnh để giữ lại dòng dõi cho nhà Chu, và để chứng tỏ sự vô tư hai ông đã cho mời Sử Quan hàng ngày ghi chép lại cụ thể thời gian những việc làm của họ để thông báo cho toàn dân biết và giám sát. Việc chép sử bắt đầu từ đây, và chỉ từ năm 841 TCN trở về sau ngày tháng mới được rõ ràng còn thì trước đó không ai kiểm chứng được. Nhưng qua những ghi chép của Sử Ký thì thời nhà Chu lịch được sử dụng với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện không có quy tắc nào. Lịch Tứ Phân bắt đầu được dùng khoảng từ năm 484 TCN thời Chiến Quốc là Lịch đầu tiên được tính toán cẩn thận ở Trung Quốc. Gọi là Tứ Phân vì nó cho biết 1 năm có 365 1/4 ngày (365.25 ngày) và có những đặc điểm rất quan trọng đáng chú ý như sau: 1. Quy tắc chu ký 235 tháng (=19 năm) tức là chu kỳ Meton ở Lịch La mã xưa 2.Tháng nhuận được chèn thêm vào sau tháng 12 3. Ngày Đông Chí nằm ở tháng đầu tiên của năm. Từ điều thứ ba ta có thể thấy lịch Tứ Phân là lịch Kiến Tý tức là năm bắt đầu bằng tháng Tý. Ngày xưa việc xác định ngày Đông Chí là công việc quan trọng nhất của thiên quan. Đông Chí là ngày mà đêm dài nhất và ngày ngắn nhất, tượng là nhất dương sinh vạn vật bắt đầu hình thành từ tịch diệt, cho nên Đông Chí là ngày mà Thiên Tử phải tế trời để cầu chúc cho thiên hạ vạn vật sinh linh được an hòa hưởng phúc của Trời ban (Chu Lễ). Xác định sai ngày Đông Chí chức Quan phải bị chém không tha. Và vào ngày Đông Chí thì Mặt Trời mọc lên từ cung Thìn, và do mãi nó ko mọc (ngày ngắn nhất) cho nên họ tin là ở đó có Thiên Cương sát thần kéo giữ không cho mặt trời lên do đó cung Thìn là Rồng tượng cho Thiên Tử ( vì phải tế trời) và còn có tên là Thiên La (lưới trời) do nó kèo bắt Mặt Trời ko cho mọc. Từ năm 256 TCN, Tần Chiêu Vương (307-250) diệt nhà Chu dời Cửu đỉnh về Hàm Dương thì ông ta cũng cho sửa lại quy tắc Lịch để chứng tỏ quyền uy của mình. Tháng nhuận được thêm vào là tháng phụ đứng sau tháng thứ 9 của năm, năm mới bắt đầu vào tháng thứ 10 của Năm và Đông Chí rơi vào tháng thứ 11. Tức là năm mới bắt đầu trước Đông Chí một tháng. Sau Tần Thủy Hoàng (247-210) cho dời năm mới vào tháng sau Đông Chí tức là dùng lịch Kiến Sửu, và từ đây nó được dùng cho đến tận năm 104 TCN. Tuy nhiên quy tắc chi tiết về tháng Nhuận chỉ được biết đến chặt chẽ với lịch Thái Sơ vào năm 104 TCN dưới thời Hán Vũ đế (141-87). Lịch Thái Sơ có những đặc điểm: 1.Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Tháng nhuận có thể được thêm vào bất cứ tháng nào miễn là trong tháng đó Mặt Trời không đi qua điểm Trung Khí ( quy tắc Trung Khí của lịch Thái Sơ). Qua đó có thể thấy lịch Thái Sơ là lịch Kiến Dần ( năm mới bắt đầu từ tháng Dần). Lịch Thái Sơ được dùng cho đến tận năm 1645 khi giáo sỹ Thang Nhượng Vọng theo chỉ dụ của vua Thuận Trị (1644-1661) soạn lại Lịch dựa vào tính toán bằng Hàm Lượng Giác của Toán học Tây Phương. Lịch này có đặc điểm sau 1. Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Chuyển động thực của Mặt Trời đc dùng để tính tiết khí thay vì chuyển động biểu kiến như trước kia. Từ 1645 đến tận 1929 không có 1 chỉnh sửa quan trọng nào đối với Lịch. 1929 thì Trung Hoa Dân Quốc công nhận lịch Gregory làm lịch chính thức nhưng những ngày lễ cổ truyền vẫn dùng theo Âm dương lịch. Chính vì do sử dụng công cụ và khái niệm từ phương Tây đưa vào từ lịch Gregory mà lịch âm dương của Tàu có rất nhiều tiền bộ và đơn giản hóa các quy tắc nhất là về tiết khí và tháng nhuận nhưng mà nó đã đem đến những chuyện rất hi hữu xảy ra mà không ai biết phải làm thế nào. Hiện nay các nhà nghiên cứu về lịch của Tàu họ tin rằng tính toán với những khái niệm của lịch 1645 sẽ cho ra sai số và họ tìm cách đo đạc để chỉnh sửa . Vì lí do áp dụng lịch Gregory với quy định mỗi ngày bắt đầu từ 0h và chia ra mỗi giờ của Đông Á bằng 2 h của Tây phương mà ngày bắt đầu chênh 14,3 phút so với giờ chuẩn đo tại đài thiên Văn Tử Kim Sơn của Nam Kinh. Điều đó dẫn đến 1. Năm 1978, Trung Thu điểm sóc khi đó là 3 tháng 9 lúc 0:07 phút giờ chuẩn Trung Quốc dựa theo múi giờ từ Greenwich, trong khi đó tại Hồng Kong, Việt Nam lịch truyền thống vẫn được dùng với quy tắc tính giờ ko theo giờ phương Tây thì điểm sóc rơi vào 23:53 phút ngày 2 tháng 9. Kết quả là Đại lục ăn tết Trung Thu vào ngày 17.9 còn các vùng phía Nam trong đó có Việt Nam ăn tết Trung Thu ngày 16.9 sớm hơn 1 ngày. 2. 1984-1985 năm mới Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết và Bảo Bình trong tháng 11. Sau đó thì đi vào cung Song Ngư trong tháng kế tiếp lẽ ra đó phải là tháng 1, nhưng mà sau đó Mặt Trời lại ko đi vào cung nào trong tháng kế tiếp thành ra để giữ cho Đông Chí vào tháng 11 , các nhà làm lịch của Tàu buộc phải đổi tháng Dần thành tháng Sửu và tháng Dần lùi đi 1 tháng, cho nên năm 1985 Đại lục ăn tết chậm hơn 1 tháng so với Việt Nam và Hồng Kong. Qua đó có thể thấy: -Nhà Chu sử dụng lịch kiến Tý với quy tắc tháng nhuận tùy tiện -Nhà Tần lại dùng kịch kiến Sửu với quy tắc về tháng nhuận -Nhà Hán từ Vũ Đế mới dùng lịch kiến Dần với quy tắc chặt chẽ về tháng nhuận -Việc tính toán lịch với công cụ và khái niệm của Tây Phương đã đưa đến những sai số và sự kiện gây tranh cãi vào năm 1978, 1985 và gần đây nhất là năm 2007 giữa VN ta ( nơi mà lịch truyền thống vẫn được sử dụng) và Trung Quốc. Vài dòng về lịch sử Lịch pháp hi vọng có thể giúp ích được mọi người. Tôi viết bài này cũng vì qua PM trao đổi với anh Vô Trước. Việc dùng lịch Kiến Tý, Kiến Sửu hay Kiến Dần ko liên quan gì đến trục quay do tuế sai cả anh ạ, tất cả là do ý chí chủ quan của nền quân chủ mà thôi. Chỉ duy nhất có lịch Thái Sơ là được làm dựa trên quan trắc thiên văn cẩn thận có ghi chép lại trong Sử Ký và do Tư Mã Thiên có tham gia cho nên ông đã đặc biệt ghi chép lại cẩn thận để hậu thế có thể biết. Mong rằng bài viết của tôi có thể giúp ích được cho anh Vô Trước ít nhiều. Vô Trước: Rất cám ơn anh Mộc Công! Bài viết giúp ích cho tôi nhiều. Tuy nhiên, theo tôi có lẽ đó chỉ là những hiện tượng, sự việc trong lịch sử được ghi chép lại, chưa chắc đã là bản chất của lịch pháp. Tôi luôn nghĩ rằng, lịch ADNH lấy vận động của trường khí ADNH làm cơ sở chứ chưa chắc là do các quan trắc mặt trời hay mặt trăng. Nhiều người cho rằng học thuyết ADNH ra đời dựa trên quan sát thiên văn. Còn tôi lại cho rằng, quan sát thiên văn phù hợp với học thuyết ADNH chú học thuyết này dựa trên cơ sở tổng quát hơn nhiều.... Có như vậy nó mới có thể đóng vai trò của một lý thuyết thống nhất. Tất cả chỉ mới là giả thuyết. Còn rất nhiều việc phải làm! Dichnhan07: Lịch nhà nước tôi đã kiểm chứng và thấy chuẩn nên mọi người có thể an tâm lập quẻ Mai Hoa. Tôi ghi chú: Chứng tỏ khả năng Âm lịch Việt đang chuẩn và nền tảng của nó OK đến thế nào.
  12. Qua bài viết trước, chúng ta cũng đã nhận ra chiếc trống đồng Đào Xá, Phú Thọ, Việt Trì minh họa cho 1/2 chu kỳ mặt trăng quay quanh trái đất khoảng 28 ngày, ngày thứ 14 trăng rằm, trăng tròn sáng nhất trên bầu trời đêm của ngày tết Trung Thu trẻ em được lấy làm biểu tượng "O" giữa tâm trống, tháng mạnh thu. Biểu tượng này không có tia sáng phát ra hình mũi giáo, đồng thời cũng từ đó sẽ nhận biết được các trống đồng nguyên thủy như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ... thì mặt trời tâm trống là mặt trời thiên đỉnh, vào tháng mạnh xuân của phương Nam, Văn Lang, tại kinh đô Phong Châu tức Thăng Long thành hay Hà Nội ngày nay. Và cũng từ các bài viết trước về sự hiển lộ các đài quan sát thiên văn thời Lý Trần, bài trí theo cấu trúc 16 cung Thái Ất cũng đã chứng tỏ tầm quan trọng của thiên văn đối với các triều đình phong kiến. Tháng mạnh thu và mạnh đông Đài thiên văn quan trắc các chòm sao được phân thành 16 cung theo Thái Ất Hoàng thành Thăng Long Ở đây, chúng ta xem xét ý nghĩa hoa văn trên mặt trống đã khám phá ở Timor Leste, có khắc chữ V. Hai mặt trống tím thấy Trước đó cũng của Timor Leste Rất đặc biệt, ở mặt trống đồng này hoàn toàn không có vòng tròn mặt trăng hay mặt trời ở tâm trống, từ trong ra ngoài trình bày 3 vòng tròn đồng tâm lớn, biên ngoài không thấy rõ chắc còn có một số viền nhỏ khác, vậy 3 vòng tròn này đặc trưng cái gì? Đấy chính là 3 vòng tròn tượng trưng cho Thiên, Địa, Nhân, mà vòng tròn ở tâm trống là Thiên (mặt trời). Chúng ta chú ý hình chữ V nhỏ, có độ lệch chút ít để nhận thấy đó là chữ "Nhân đối xứng gương" nằm ở vành thứ hai, tức vành thứ hai tượng trưng cho Nhân trên Địa cầu, và vòng tròn thứ ba tượng trưng cho không gian ngoài Hệ mặt trời. Mặt khác, từ chữ "Nhân" cũng cho thấy ngôn ngữ "Hán" đã có từ thời trước Công nguyên rất xa xưa. "Nhân" Chữ "Nhân ngược" này hàm ý thay vì đầu người hướng vào tâm Địa cầu thì lại là hai cái chân. Hình tượng này giống như cấu trúc "Hà đồ của Địa cầu" là quy ước phương bắc ở trên, còn Hà đồ của con người là quy ước phương nam ở trên và vì vậy, cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ đều được lấy phương chuẩn là phương nam ở trên -> một dấu chỉ quan trọng trong Lý học của văn hiến Việt. Ngoài ra, chữ "^" định vị phương Nam, mũi nhọn hướng về phương chính Bắc, hình tượng này giống kim tự tháp bậc thang Ai Cập, Djoser, có 6 bậc, tượng trưng cho chòm sao Nam Cực. Kim tự tháp bậc thang Djoser là kim tự tháp lâu đời nhất Ai Cập Khoảng 2640 TCN Ý nghĩa chữ V ngược này còn thể hiện vũ trụ quan và nhân sinh quan người Việt và Ai Cập cổ: nguyên thủy Vũ trụ là một biển nước mênh mông, tối đen như mực, ở đấy đột ngột nhô lên một ngọn núi nhỏ, trên đó nảy sinh ra một con chim phượng hoàng lửa (tượng trưng phương Nam) và từ nó sinh hóa ra vạn vật: hay từ phương Nam nảy sinh một "Bậc Thầy" tức "Người" của nhân loại: "Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương Vị". Trạng Trình tiên tri Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai - Giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt Nam cho biết bài "Cự Ngao Đới Sơn" trong "Bạch Vân Am Thi Tập" của danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyên văn bài thơ: Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh, Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh. Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực, Trước cước trào vô quyển địa thanh. Vạn lý Đông minh quy bả ác, Ức niên Nam cực điện long bình. Ngã kim dục triển phù nguy lực, Vãn khước quan hà cựu đế thành. Dịch nghĩa: Con rùa lớn đội núi Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy, Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra. Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất. Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay, Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình. Ta nay muốn thi thố sức phù nguy, Lấy lại quan hà, thành xưa của "nhà vua". (Tôi ghi chú: Trạng Trình biết "Nhà vua" là ai, do vậy tôi đưa thêm vào hai dấu " ... ") Theo ông Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Đậu Trạng nguyên rồi làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công, dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam, đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông, và gọi chung là "Sấm Trạng Trình".
  13. Dùng Thái Ất để tính Tuế Sai Thấy mục Thái Ất và Độn Giáp này nó đìu hiu quá, nên dù tài sơ học thiểu VinhL cũng xin đóng góp chút chút. Cái mốc quan trong trong môn Thái Ất là năm Thượng Cổ Giáp Tý, năm mà theo Thái Ất là có thất tinh liên châu, là điểm xuất phát trung để tính tích tuế và kỷ dư. Nay VinhL xin dùng cái mốc quan trọng này để nghiên cứu cái ảnh hưởng của Tuế Sai vào tiết Xuân Phân. Khoa Thiên Văn học hiện đại dùng giao điểm của hai vòng xích đạo và hoàng đạo để làm điểm móc cho các xích kinh (Right Ascension - RA) của các sao, và điểm này củng là điểm Vernal Equinox (Xuân Phân) của thời tiết. Sự tương quan giữa vòng Zodiac của Tây phương và vòng Địa chi của Đông phương như sau: Tuất Aries 0 độ (điểm Xuân Phân – Vernal Equinox) Dậu Taurus 30 độ Thân Gemini 60 độ Mùi Cancer 90 độ Ngọ Leo 120 độ Tỵ Virgo 150 độ Thìn Libra 180 độ Mão Scorpio 210 độ Dần Sagittarius 240 độ Sữu Capricornus 270 độ Tý Aquarius 300 độ Hợi Pisces 330 độ Lập số của 12 cung địa chi là Tý 1, Sửu 2, Dần 3, Mão 4, ...., Hợi 12 Chu kỳ của vòng tuế sai theo đông phương là 25920 năm. Tức trục trái đất sẻ quay một vòng 12 cung trong 25920 năm. Vậy trong 25920/12 = 2160 năm sẻ đi một cung. Nay chúng ta dùng phương pháp của môn Thái Ất để tính các điểm Lập Xuân và so sánh với phương pháp Thiên Văn học. Phương Pháp Tính như sau: Lấy Tích Tuế của năm tính chia cho chu kỳ Tuế Sai 25920 để tìm thừa số. Sau đó lấy thừa số được chia cho 2160, cộng thêm 2 để xem mốc Xuân Phân đến cung nào. Theo đông phương thì dùng điểm Đông chí nhưng ta dùng điểm Xuân Phân cho nên phải cộng thêm 2 vì tiết Xuân Phân cách Đông chí 2 cung. Tóm lại công thức như sau: Cung = Ceiling[((10153917 + năm) mod 25920)/2160] + 2 Chúng ta sẻ tính toán các năm như sau: 1) 4713 B.C, April 29 ((10153917 – 4713) mod 25920) / 2160 = 14484/2160 = 6.71 Làm chẳn lên là 7 cộng thêm 2 là 9, cung số 9 tức cung Thân, điểm Xuân Phân ở cung Thân. Theo trình thiên văn tây phương thì: April 29, năm 4713 B.C. 18h40m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.117s ở cung Gemini – cung Thân 2) 2553 B.C., April 12 ((10153917 – 2553) mod 25920) / 2160 = 16644 / 2160 = 7.71 Làm chẳn lên là 8 cộng thêm 2 là 10, cung số 10 là cung Dậu, điểm Xuân Phân ở cung Dậu. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: April 12 năm 2553 B.C. 5h00m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.101s ở cung Taurus – cung Dậu 3) 960 B.C., March 30 ((10153917 – 960) mod 25920) / 2160 = 18237 / 2160 = 8.44 Làm chẳn lên là 9 cộng thêm 2 là 11, cung số 11 là cung Tuất, điểm Xuân Phân ở cung Tuất. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 30 năm 960 B.C. 15h30m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.055s ở cung Aries – cung Tuất. 4) 393 B.C., March 25 ((10153917 – 393) mod 25920) / 2160 = 18804 / 2160 = 8.71 Làm chẳn lên là 9 cộng thêm 2 là 11, cung số 11 là Tuất, vậy điểm Xuân Phân ở cung Tuất Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 25 năm 393 B.C. 21h07m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aries – cung Tuất 5) 206 B.C, March 25 ((10153917 – 206) mod 25920) / 2160 = 18991 / 2160 = 8.79 Làm chẳn lên là 9 cộng thâm 2 là 11, cung số 11 là Tuất, điểm Xuân Phn ở cung Tuất Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 25 năm 206 B.C. 3h41m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aries – cung Tuất 6) 960 A.D., March 15 ((10153917 + 960) mod 25920) / 2160 = 20157 / 2160 = 9.33 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, vậy điểm Xuân Phân ở cung Hợi. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 15 năm 960 A.D. 7h15m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 7) 1279 A.D., March 13 ((10153917 + 1279) mod 25920) / 2160 = 20476 / 2160 = 9.48 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, vậy điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 13 năm 1279 A.D. 14h03m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 8) 2000 A.D., March 20 ((10153917 + 2000) mod 25920) / 2160 = 21197 / 2160 = 9.81 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 20, năm 2000 A.D. 7h37m00.00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 9) 2008 A.D., March 20 ((10153917 + 2008) mod 25920) / 2160 = 21205 / 2160 = 9.82 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 20 năm 2008 A.D. 5h50m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi. 10) Nếu dùng phương pháp của Thái Ất thì năm nào điểm Xuân Phân mới chuyển sang cung Tý? Chúng ta dùng năm 2000 để tính, theo như trên thì thừa số của Tích Tuế chia cho chu kỳ Tuế Sai là 21197, và sau đó chia chia cho 2160 được 9 gần tới 10. Ta muốn có được kết quả là 10 khi chia cho 2160 thì thừa số phải là 21600. Vậy 21600 – 21197 = 403 năm nữa tức là năm 2000+ 403 = 2403. ((10153917 + 2403) mod 25920) / 2160 = 21600 / 2160 = 10 vừa đúng 10. Vậy năm 2404 điểm Xuân Phân sẻ chuyển đến cung Tý ((10153917 + 2404) mod 25920) / 2160 = 21601 / 2160 = 10.000462963 tứ bắt đầu đi vào cung 11 11 cộng thêm 2 là 13 tức là 1 cung Tý. Năm 2404 là năm Giáp Tý!!! Theo trình thiên văn Tây Phương thì đến năm 2598 thì điểm Xuân Phân mới đến cung Aquarius. March 20 năm 2598 6h33m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aquarius – cung Tý, và xích kinh của mặt trời là 0h00m00.145s. 2598 – 2404 = 194 năm. Sự khác biệt là 194 năm thì khoảng 2.69 độ xích kinh. So sánh các năm đã tính ở trên thì ta thấy hoàn toàn phù hợp. Phương pháp dùng mốc của Thái Ất để tính đi sớm hơn phương pháp Thiên Văn hiện nay khoảng 194 năm (tức năm 2403), 2.69 độ xích kinh, hoặc 0.75% sai biệt. Tôi ghi chú: - Theo Dương lịch Maya chu kỳ vũ trụ kết thúc vào năm 2012, còn theo Âm lịch phải xem xét tương ứng với những chu kỳ khác, nhỏ thì như Lục thập hoa giáp chẳng hạn, đồng thời cũng phải xét đến thực tại biến chuyển trên địa cầu như thế nào đấy về tự nhiên nữa -> Sẽ thấy năm chuyển cung là năm 2013? Cách nhau theo cách tính 2403-2013 = 390 năm (sai số tích lũy so với 25.920 năm là 1.5% là quá lớn) và nếu là đúng thì cách phi tinh niên vận phải thay đổi lại. - Trên đây, chỉ là thuật toán chứ chưa rõ điểm mốc chuẩn về gốc thời gian tính toán: Tích Tuế sao lại ở con số trên 10 triệu năm? Rất khó khăn về mặt thực tại nhận biết thiên văn -> hay từ mốc thiên văn lớn quy chiếu đến mốc biến đổi nhỏ của vạn vật như con người chẳng hạn...? - Nếu chiếu theo lịch Maya kết thúc chu kỳ vũ trụ 25.920 năm vào năm 2012, thì cách tính Cục của Thái Ất và Huyền không phi tinh đã phải thay đổi sau năm 2013! Đồng thời, Độn giáp cũng phải xem lại nốt.
  14. NGUỒN GỐC CỦA MẪU THƯỢNG NGÀN TRONG CÁC BẢN VĂN CHẦU VÀ TRUYỀN THUYẾT TẠI ĐỊA PHƯƠNG (KHẢO SÁT TRƯỜNG HỢP THỜ MẪU THƯỢNG NGÀN Ở ĐỀN ĐÔNG CUÔNG- YÊN BÁI) ThS. Nguyễn Thị Hường Tổ Văn học Việt Nam I- Khoa Ngữ văn- ĐHSP Hà Nội Mẫu Thường Ngàn còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Lê Mại Đại Vương, Diệu Tín Thiền sư, Đông Cuông công chúa, Lâm Cung thánh mẫu, Mẫu đệ nhị Nhạc Phủ, Sơn Tinh công chúa. Mỗi tên gọi gắn với một sự tích riêng của bà mẹ rừng. Đây là vị thánh mẫu có nguồn gốc mang tính truyền thuyết, gắn với địa bàn sinh tụ đầu tiên của loài người là ở vùng rừng núi trung du. Cùng với mẫu Thoải, mẫu Thượng Ngàn là một trong hai vị thần được thờ phụng sớm nhất. Từ bà mẹ Rừng chung chung của tín ngưỡng dân gian đến vị trí đệ nhị thánh mẫu trong điện thờ đạo mẫu là cả một quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Có thể nói, ở đâu có rừng núi thì ở đó có đền thờ Mẫu Nhạc phủ nhưng có một số nơi thờ chính là Bắc Lệ (Lạng Sơn), Suối Mỡ (Bắc Giang) và Đông Cuông (Yên Bái). Ở ba nơi này lưu giữ những truyền thuyết có phần khác nhau về Mẫu Đệ Nhị. “Mẫu đệ nhị là ai? Nguồn gốc từ đâu?”- Những câu hỏi này có vẻ đơn giản vì tất nhiên Mẫu Thượng ngàn phải là bà mẹ rừng, cai quản các cửa rừng, các lũ các lang của miền Nhạc phủ. Tuy nhiên, khi đặt hình tượng này trong sự đối sánh giữa các bản văn chầu và các truyền thuyết lưu truyền ở địa phương mới thấy tính phức tạp của vấn đề. Chúng tôi có trong tay bảy bản văn chầu Mẫu Thượng ngàn: Văn thỉnh mời Mẫu Đệ Nhị thượng ngàn, Văn Mẫu Thượng ngàn, Văn chầu Lê Mại Đại Vương, Văn chúa Đông Cuông, Nhạc Tiên Sơn Lâm thánh mẫu, Văn chúa Thượng ngàn, Diệu tín Thiền sư- văn chúa Sơn trang, Đông Cuông công chúa. Nội dung các bản văn này thường tập trung ca ngợi sắc đẹp, tài năng và công lao cứu dân, cứu đời của thánh mẫu. Về nguồn gốc thì cơ bản là đại đồng tiểu dị, mẫu có nguồn gốc từ tiên giới được đầu thai làm người trần gian, có quyền cao phép cả. Trong bảy bản văn chầu kể trên thì có sáu bản đề cập tới nguồn gốc của Mẫu Sơn trang theo bản thống kê dưới đây: STT Tên bài văn chầu Nguồn gốc Mẫu Đệ nhị 1 Văn mẫu Thượng ngàn Đức chúa ngần con vua Đế Thích/ Giáng sinh vào quý tộc Lê Gia/ Năm thân tháng 2 mồng 3/ Giáng sinh tiên chúa khai hoa giờ dần 2 Văn chầu Lê Mại Đại vương Bút son vâng lệnh thiên dình/ Bạch Anh công chúa giáng sinh phàm trần/ Phụng kim môn theo chân sứ giả/ Chọn ngày lành giáng hạ thần tôn/ Ra vào ngọc điện kim môn/ Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong cung 3 Văn chúa Đông Cuông Đông Cuông công chúa giáng sinh Giáng vào lệnh tộc phúc lành quyền cao 4 Nhạc tiên sơn lâm thánh mẫu Vốn xưa giá ngự thiên đình/ Quyền cai nhạc phủ rừng xanh ra vào (…)/ Hóa sinh sinh hóa kiếp người/ Sơn lâm công chúa chính ngôi La Bình/ Theo đức thánh Sơn Tinh tuần thú / Dạy muôn loài báo hổ chim muông 5 Văn thỉnh mời Mẫu Đệ Nhị thượng ngàn Thỉnh mời đệ nhị chúa tiên/ Vốn xưa bà ngự trên đền Đông Cuông/ Hình dung nhan sắc khác thường/Giá danh đòi một hoa vương vẹn mười/ Biết đâu lá thắm thơ bài/ Lòng trinh chẳng động một vài giá xuân 6 Diệu Tín Thiền sư- Văn chúa Sơn trang Dòng họ Quách xưa nay hào kiệt/ Ứng mộng thần mãn nguyệt khai hoa/ Sinh ra một đấng kì tài Theo các bản văn chầu này thì Mẫu Thượng ngàn có nguồn gốc tiên giới, giáng sinh vào các gia đình danh gia vọng tộc làm người trần gian. Do vậy, ngay từ khi ra đời, Mẫu đã có sự giáng sinh kì lạ, hương hoa thơm ngát, ánh hào quang rạng rỡ và lớn lên thì lập được công trạng hiển hách,được vua sắc phong. Ở hầu hết các bản văn chầu, Mẫu Thượng ngàn được miêu tả có hình dong xinh đẹp: “Vốn sinh ra hình dong tươi tốt/ Da tựa ngà má phấn môi son/ Hài xanh dạo bước lên non” (Văn Chúa Thượng ngàn); “Môi son má phấn tóc đà cách điệu/ Giá thanh tân điệu đà sở vân/ Đóa phù dung dương liễu nhởn nhơ/ Vẻ nào mà chẳng trai lơ/ Hoa xuân mới nhú nguyệt thu dương trong” (Văn chúa Đông Cuông). Riêng trong bản văn Diệu Tín Thiền sư lại miêu tả chúa Sơn Trang với hình dáng “Oan trái sinh ra quái dị” khiến cho “song thân luống đêm ngày lo sợ/ bỏ vô miền hang hổ rừng sâu”. Vì có cơ mầu huyền vi nên không những đứa trẻ không chết mà còn được tiên ông dạy cho phép tu thiền tập đạo, lập nên nhiều công trạngrồi được Phậtphong là “Diệu Tín Thiền sư”. Ở trường hợp này chúng ta có thể thấy rõ sự dunghợp giữa đạo Mẫu với đạo Phật. Vị thần rừng nguyên thủy không chỉ bước lên điện thờ đạo mẫu với cương vị Đệ Nhị thánh mẫu mà còn đi vào Phật Giáo, trở thành vị thiền sư, đắc đạo chân như. Điều này không còn lạ lẫm với những người say mê, nghiên cứu đạo mẫu. Bằng chứng là hầu hết các ngôi chùa Việt đều có kết cấu tiền Phật hậu Mẫu, trong đó Mẫu Thượng ngàn được thờ cùng Mẫu Thượng thiên và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng ở ban Sơn Trang. Đây là mối quan hệ hai chiều, chính Phật Bà quan âm và nhiều chư phật cũng xuất hiện trên điện thờ đạo Mẫu. Để bắt đầu một buổi lên đồng hầu thánh, người hầu đồng phải khấn thỉnh các thần linh,trong đó bao giờ cũng phải khấn Phật trước sau đó mới thỉnh mời Ngọc hoàng thượng đế và các vị thánh của đạo mẫu:“ Việt Nam thuở điện an vương thất/ Chuyển pháp luân Phật nhật tăng huy/ Kim niên, kim nguyệt, nhật thì/ Đệ tử tâu quỳ Phật thánh mười phương/ Nước khói hương chiên đàn giải thiats/ Thoảng mùi hoa ưu bát thơm bay/ Nam Mô Phật ngự phương tây/ Sen vàng chói lọi hiện ngay Di Đà/ Ngự trước tòa lưu ly bảo điện/ Phật Thích ca ứng hiện tự nhiên (…) Quan Âm ngự trước án tiền/ Tả hữu bồ tát Tăng thiền, già na/ Đức Hộ Pháp Vi Đà thiên tướng/ Vận thần thông vô lượng vô biên” (Văn công đồng). Khi thực hiên các động tác ma thuật để phù chú, thay cung đổi mệnh hay cầu xin một điều gì bao giờ cung văn và người hầu đồng cũng sử dụng ngôn ngữ và hành động đậm màu sắc Phật giáo. Nhìn chung, trong các bản văn chầu, nguồn gốc của Mẫu Thượng ngàn đều được giới thiệu chung chung (là công chúa Thiên cung, giáng sinh vào nhà họ Lê, họ Quách hoặc một gia đình không xác định nào đó). Điều này hoàn toàn khác với các truyền thuyết lưu giữ tại đền Bắc Lệ (Lạng Sơn), đền Suối Mỡ (Bắc Giang) và đền Đông Cuông (Yên Bái). Trong lòng các con nhang đệ tử, Mẫu Thượng ngàn được thờ ở Suối Mỡ là Mỵ Nương Quế Hoa, con của Vua Hùng Định Vương và hoàng hậu An Nương. Hoàng hậu sinh ra nàng bên gốc quế rồi mất. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ thương mẹ nên đã đi vào rừng sâu để tìm dấu vết người mẹ hiền. Nàng được tiên ông ban cho phép thuậtnên đãcùng 12 thị nữ ra sức tu tiên luyện đạo, cứu giúp dân lành. Khi nhân dân các bản mường đã có cuộc sống no ấm, Mỵ Nương Quế Hoacùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Ở đền Bắc Lệ lại lưu truyền câu chuyện Mẫu Thượng ngàn là công chúa La Bình, con gái Sơn Tinh, cháu ngoại vua Hùng. Nàng thường cùng với cha đi chu du các bản mường, hang động, giúp cho cuộc sống dân lànhđược sung túc. Ngọc hoàng đã phong nàng là bà chúa Thượng ngàn cai quản 81 cửa rừng cõi Nam Giao. Vào thời Lê, bà đã hiển linh, âm phù, hóa thành bó đuốc dẫn quan quân Lê Lợi thoát khỏi sự truy kích của quân giặc. Công cuộc bình Ngô đại thắng, Lê lợi lên làm vua vàcho dựng đền Bắc Lệ để ghi nhớ công ơn của bà. Như vậy,căn cứ theo truyền thuyết và các bản văn chầu thì đền Bắc Lệ chính là nơi Lâm cung thánh mẫu hiển linh, âm phù; đền Suối Mỡ là thắng tích lưu lại dấu vết bà tu tiên luyện đạo còn đền Đông Cuông (Yên Bái) là nơi bà giáng sinh và ngự.Cũng như Mẫu Liễu Hạnh tuy được thờ ở nhiều nơi (Phủ Giầy- Nam Định, đền Sồng- Thanh Hóa, phủ Tây Hồ- Hà Nội) nhưng nơi thờ chính vẫn là ở Phủ Giầy- nơi bà đã giáng sinh và để lại gốc gác lai lịch. Chính vì thế Mẫu Thượng ngàn còn được gọi là Mẫu Đông Cuông, Đông Cuông công chúa, Đông Cuông Tuần Quán thượng ngàn tối linh- cách gọi theo bản quán ( Lê Mại Đại Vương là gọi theo sắc phong; Diệu Tín Thiền sư là cách gọi khi bà đã đắc đạo chân như nhà Phật…). Trong Văn Mẫu Đông Cuông- bản văn chuyên dùng để hát thờ đã định vị danh tính cũng như nơi thờ chính Mẫu Sơn trang:“Khắp đâu đâu nức danh tiên nữ/ Tự Lê triều quốc sử còn ghi/ Danh thơm nam bắc trung kì/ Bảo dân hộ quốc độ trì tứ phương/ Sắc Lê Mại Đại vương trường trị/ Đông Cuông từ đích thị danh lam”. Nếu đặt trong tương quan so sánh với đền Bắc Lệ và Suối Mỡ thì đền Đông Cuông rõ ràng có vị trí quan trọng nhất, là nơi thờ chính Mẫu Thượng ngàn. Tuy nhiên, điều kì lạ là khi nhắc đến các nơi thờ Chúa Sơn trang, người ta lại biết đến đền Bắc Lệ và đền Suối Mỡ nhiều hơn. Điều này hẳn có lí do từ chính bản thân việc thờ tự ở bản đền. Ở Bắc Lệ và Suối Mỡ, việc phụng thờ Mẫu Thượng ngàn tương đối thống nhất, tức là không có sự phối thờ với các nhân vật nằm ngoài hệ thống điện thờ Đạo Mẫu. Từ kiến trúc đền, các nghi thức thờ cúng đến truyền thuyết đều tập trung ngợi ca tài năng, sắc đẹp và công trạng Mẫu, tạo điều kiện để khắc sâu vào tâm trí con nhang đệ tử và muôn dân về một ngôi đền thiêng nơi miền sơn cước. Ở đền Đông Cuông, hình tượng Chúa Thượng ngàn cai quản 81 cửa rừng đã bị pha trộn, chồng lớp bởi rất nhiều truyền thuyết ở các thời đại khác nhau và trong sinh hoạt thực hành tín ngưỡng, màu sắc đạo Mẫu cũng có phần mờ nhạt. Theo truyền tụng, đây vốn là một ngôi miếu nhỏ thờ thần núi thần rừng có từ thời Đường. Bản thân các tên gọi khác nhau của bản đền: “Đông Quang linh từ”, Mẫu Đông, Đông cung, Đông Cuông đã cho chúng ta thấy “đền Đông Cuông còn gắn với các tên gọi chỉ phương hướng, đấy chính là phương Đông, phương của hành mộc, của màu xanh, của đại ngàn” (Nguyễn Đức Dũng. Đền Đông Cuông một điểm khởi đầu của tục thờ nữ thần Việt. Tạp chi di sản. Số 3/ 2006) . Ngôi miếu này trở thành đình vào thời Lê và đến triều Nguyễn thì đổi thành đền nên ở truyền thuyết mới. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì ngôi miếu này thờ Đông Quang công chúa nổi tiếng anh linh. Bà là vợ đại vương núi Sơn Vi (Nay thuộc Lâm Thao- Phú Thọ) (1). Trong phần ghi chép của mình, Lê Quý Đôn chỉ tập trung kể lại sự linh thiêng của đền mà không giải thích tường tận về nguồn gốc lại lịch của Đông Quang công chúa. Thần tích của họ Hà giải thích tường tận, chi tiết hơn về nhân vật được phụng thờ ở đây: Đông Quang Công chúa là Lê Thị Kiểm. Bà là vợ của ông Hà Văn Thiên, người Tày Đông Cuông được triều đình giao cho cai quản Đông Cuông và ngoại vi. Ông Thiên, hậu duệ của Hà Đặc Hà Bổng (trại chủ Quy Hóa) bị hi sinh trong chiến tranh chống quân Nguyên. Ông bà sinh hạ được 1 đứa con trai. Khi ông tạ thế, bà Kiểm cùng contrai ở lại Đông Cuông rồi mất tại đấy. Dân lập miếu thờ ông bên Ghềnh Ngai (hữu ngạn sông Hồng) và thờ hai mẹ con bên tả ngạn, đối diện với miếu.Người mẹ Rừng chung chung, đến đây đã được lịch sử hóa, gắn với lai lịch cụ thể của một con người trần thế. Điều này làm cho hình tượng Mẫu vừa linh thiêng vừa lại có sự gần gũi song cũng tạo nên độ vênh lệch so với các bản văn chầu và quan niệm của những tín đồ đạo Mẫu. Theo Đại Nam nhất thống chí, vùng Đông Cuông thuộc phủ Quy Hóa xưa, “thổ tù Phụ đạo là họ Hà và họ Lê thế tập, sau người khác họ là họ Sầm (người Thanh) và họ Cầm nối đời cai quản” (Nxb Lao động- Trung tâm văn hóa Đông Tây. H. 2012. Tr1522). Tục truyền đền Đông Cuông chính là đình Cả, thuộc hệ thống đình Mường Khà xưa trong đó đình Cả do họ Hà quản lí, giữ chức năng đình trạm, chuyên tống đạt công văn thư chỉ giữa trung ương và cơ sở; các đình nhỏ thì do họ Hoàng, Lương đăng nhang. Những người họ Hà cho rằng ông Hà Văn Thiên- người được vua cử lên quản lí vùng Đông Công và ngoại vi chính là ông tổ của họ. Vậy thì việc thờ ông Hà Văn Thiên (tức Đức Ông) ở Ghềnh Nhai và thờ bà Lê Thị Thiết cùng con trai ở đền Đông Cuông chính là biểu hiện của tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ tổ tiên đã hòa nhập vào với tín ngưỡng thờ Mẫu. Bà mẹ Rừng được gắn cho một lai lịch trần thế và trong hậu cung đền thờ không chỉ có tượng Mẫu tối linh như ở các đền phủ khác mà còn xuất hiện tượng của Vua Báo tức là con trai của hai ông bà. Hai bức tượng này sẽ được rước ra bến sông để sau đó Vua Báo ở lại bên bờ còn Vua Me thì qua sông sang đền Ghềnh Ngai làm lễ cưới lại với Đức Ông. Ngoài ra để tiến hành lễ hội, nhân dân địa phương còn cho giết trâu trắng, lấy máu mang ra bến sông cúng thần. Những hoạt động này chỉ diễn ra vào dịp lễ cầu mùa tháng giêng chứ không có trong lễ tạ ơn Mẫu ngày Mão tháng chín. Người dân tin rằng chỉ khi tiến hành đầy đủ các nghi lễ này thì Mẫu mới vui lòng phù trợ cho nhân dân một năm no ấm, mùa màng bội thụ. Đây là hai nghi lễ hoàn toàn không xuất hiện trong các lễ hội liên quan đến đạo Mẫu ở các nơi khác. Chúng mang đậm nét tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng tôn thờ nước của các cư dân làm nông nghiệp thuộc cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ đại (2). Ngoài phần hậu cung đã có sự phối thờ Vua Me- Vua Báo (Vua Mẹ- Vua Con) các phần khác trong kiến trúc điện thờ của bản đền cũng có sự pha trộn rõ nét. Ngũ vị tôn ông không chỉ là năm vị quan Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ và Đệ Ngũ mà đã được đồng nhất với năm người Tày họ Hà, Hoàng, Lương, Nguyễn quê ở Đông Cuông đã nổi dậy chống Pháp năm Giáp Dần (1914) nhưng thất bại. Hai anh em Hà Bặc, Hà Chương- những anh hùng có công lớn trong cuộc chiến đấu chống quân Nguyên Mông cũng được thờ ở đây. Chính vì vậy đền Đông Cuông còn có tên là Đền Thần Vệ quốc theo sắc phong của triều đình Nguyễn đã được ghi chép cụ thể trong Đại Nam nhất thống chí. Rõ ràng, xuất xứ của bản đền là thờ nhiên thần trong đó có Mẹ Rừng nhưng theo thời gian lớp tín ngưỡng này đã có sự pha trộn, thậm chí là bị che phủ bởi các tín ngưỡng khác nhau. Huyền tích về Lâm cung thánh mẫu được lịch sử hóa, địa phương hóa để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của nhân dân. Nếu Mẫu Sơn Trang ở Bắc Lệ (Lạng Sơn) là công chúa Quế Hoa, ở Suối Mỡ (Bắc Giang) là La Bình thì ở Đông Cuông, Mẫu Thượng ngàn vừa là bậc tôi tú anh linh, quyền cao tối thượng vừa gần gũi, bình dị trong hình hài một người vợ, người mẹ trần thế có lai lịch, gốc tích rõ ràng. Đến với Mẫu cũng là về với mẹ để vừa thành kính chiêm bái vừa thể hiện sự biết ơn đối với những người đã có công khai sơn phá thạch, mở mang bản làng, bảo vệ sự bình yên cho nhân dân. Ý nghĩa giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn của đạo Mẫu cũng là ở đó. Là một tín ngưỡng dân gian mang đậm tính chất bản địa, đạo Mẫu đã luôn phải tìm cách thâm nhập vào các đạo khác (Đạo Phật, Đạo Giáo) để tồn tại, lan tỏa và cũng đưa rất nhiều nhân vật, tiếp thu nhiều quan niệm của Phật giáo, Đạo giáo vào trong điện thờ, trong nghi lễ của mình. Điều này rõ ràng phát huy tác dụng để Đạo Mẫu, vượt qua sự cấm đoán của các triều đại phong kiến, không những không bị mất đi mà còn ngày càng sâu rễ bền gốc trong lòng dân chúng. Tuy nhiên, bên cạnh cái được thì nhiều khi chính đặc điểm này lại ít nhiều làm cho mầu sắc đạo Mẫu trở nên mờ nhạt mà trường hợp đền Đông Cuông là một thí dụ. Nói cách khác, việc phối thờ, chồng lớp tín ngưỡng ở bản đền cho thấy một trong những nét điển hình của văn hóa Việt Nam, đó là tính hỗn dung. Sự bàng bạc trong niềm tin tôn giáo và tính dụng dẫn đến việc thực hành các nghi lễ thờ cúng của người dân không được rạch ròi. Người có ta thể vừa đến đền, vừa đến chùa để cầu xin cũng như có thể thờ ở cùng một nơi những vị thánh thần rất khác nhau miễn là thỏa mãn được nhu cầu, tình cảm và niềm tin được phù trợ. Trong niềm tin tâm linh của những con nhanh đệ tử đạo Mẫu thì đền Đông Cuông có vị trí vô cùng quan trọng, là nơi ngự chính và giáng sinh của chúa Thượng ngàn. Tuy nhiên sự chồng lớp tín ngưỡng và khuynh hướng địa phương hóa, lịch sử hóa, một mặt làm cho huyền tích về Chúa Sơn Trang phong phú hơn song mặt khác lại khiến cho việc thực hành sinh hoạt tín ngưỡng nơi đây không còn thể hiện rõ đặc trưng của một ngôi đền thờ Mẫu. Đền Đông Cuông, đối với con nhang đệ tử của Đạo Mẫu là nơi để tìm về với bà mẹ Thượng ngàn tối linh, với người dân địa phương lại là nơi để tưởng nhớ các vị anh hùng có công với bản làng, là nơi để cầu xin một năm mùa màng tươi tốt, con cái đông đàn, dân khang vật thịnh; còn đối với những người say mê, nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian thì di tích này lại âm thầm nói cho chúng ta biết rất nhiều điều về quy luật vận động và biến đổi của một loại hình tín ngưỡng bản đền. ======================== Chú thích: (1) “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn viết: “Văn Châu, một người thuyền hộ xã Kính Chủ, huyện Thanh Ba, nay thuộc địa phận Lâm Thao-Phú Thọ,, là học trò Hiệu như Nguyễn Đình Kính. Giữa niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) đi buôn ở Đông Quang (nay thuộc huyện Văn Yên- Yên Bái). Bến sông này có miếu thờ Đông Quang Công Chúa nổi tiếng anh linh. Tục truyền công chúa là vợ Đại vương miếu Ngọc Tháp huyện Sơn Vi (sau đổi là huyện Lâm Thao). Một hôm trời đã tối, Văn Châu thấy một người từ trong miếu Đông Quang đi ra đến chỗ thuyền đỗ, gọi tên mình và bảo rằng “Khi thuyền nhà ngươi trở về qua miếu Ngọc Tháp, phiền nhà ngươi nói giúp là kính tạ Đại Vương, Chúa bà đã sinh con trai rồi, gửi lời về để báo cho Đại vương biết”. Nói xong liền biến mất. Đường thủy mà thuyền buồm đi từ Đông Quang đến Ngọc Tháp phải ba, bốn ngày thế mà hôm ấy, Văn Châu bắt đầu đi từ sang sớm mà đến giờ Thân đã tới Ngọc Tháp (chỗ này núi đá mọc nhô ra bến song như hình ruột ốc, miếu ở trên núi, bên cạnh miếu có chùa Lăng Nghiêm) Văn Châu theo lời thầy, đứng ở đầu thuyền nói lại rồi đi” ((Nxb Văn hóa thông tin. 2007. Tr512) (2). Đền Đức Ông và đền Mẫu được đặt ở vị trí đối xứng, kiệu Bà được rước sang với Đức Ông thể hiện tính hòa hợp âm dương, là tiền đề để vạn vật sinh sôi nảy nở; trong các công trình nghiên cứu đều đã thống nhất tính tương hợp giữa hình dáng sừng trâu với mặt trăng, các đặc điểm về thói quen sinh sống của loài trâu dẫn đến việc nó được dùng như một biểu tượng liên quan tới mặt trăng, tới nước. Tài liệu tham khảo 1. Đại Nam nhất thống chí (2 tập). Nxb lao động- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. H. 2012 2. Đạo Mẫu Việt Nam. Ngô Đức Thịnh. Nxb Thế giới. 2012 3. Nguyễn Đức Dũng. Đền Đông Cuông một điểm khởi đầu của tục thờ nữ thần Việt. Tạp chi di sản. Số 3/ 2006 4. www. Hatoc.org
  15. Trích lại một bài viết của VinhL trong đối thoại với cụ Hà Uyên để cùng tham khảo: Theo VinhL suy luận thì ông Nguyển Mạnh Bảo và cụ Đỗ Quân cũng chỉ là Dịch giả thôi bác ạ, nếu có thì cũng chỉ nghiên cứu chút chút thôi. Như vấn đề tiết khí vũ trụ trong quyển Kỳ Môn Độn Giáp của ông NMB thì cũng không nhất quán. Trong quyển của cụ Đỗ Quân thì dẫn chứng giải thích mới học thì hiểu chút đỉnh, vài năm sau bắt đầu lúng túng, 5 năm sau thì gần như bị tẩu hỏa nhập ma. Sau đây VinhL xin dần giải tặng bác một thí dụ sai của cụ Đỗ Quân trong quyển “Độn Giáp Lược Giải”, trang 214, cách 8: Lục Qúy gia Đinh Xà Yêu Kiêù Chủ binh mạo thử mạc bạch kiền Thượng nhiên ngộ địch chung tao hại Cấp thiên mậy Kỷ khả tiêu giao. Lục Quý gia Đinh là cách Xà Yêu Kiều. Cách này trên khắc dưới lợi khách không lợi chủ. Vv… Thi dụ: Tiết Đông Chí, Thượng Nguyên, ngày Giáp Thân, giờ Quý Dậu. Dương Độn 1 Cục Mậu 1……Tân 4……….Ất 9 Kỷ 2……..Nhâm 5……..Bính 8 Canh 3……Quý 6………Đinh 7 Ta có chực phù chực sử : Thiên Bồng / 1……….Hưu Môn / 1 Can Quý trong địa bàn mang số 6 ta có: Thiên Bồng / 6……….Hưu Môn / 1 Theo cách trên ta có phương trình thức: Qúy / Đinh……….Thiên Tâm / 7……….Kinh Môn 7 Bởi vì Sao Đằng Xà lâm Hưu Môn. Trong Hưu Môn có can Quý. Can Quý trên địa bàn mang số 6 nên ta có chực phù là Thiên Tâm. Đinh Kỳ mang số 7 nên ta có chực sử là Kinh môn và số 7 cũng là lạc cung. Cách này gọi là Xà Yêu Kiều. [bạch Hổ 4---------][Châu Tước 9--][Cửu Địa 2 Tử----------------] [Lục Hợp 3 Thương][---------5------][Kinh 7 Cửu Thiên------------] [sinh 8 Thái Âm----][Hưu 1 Đằng Xà][Chực Phù 6 Thiên Bồng Khai] Thiên Bồng / 6, Hưu Môn khởi từ cung Khãm có Kinh Môn / 7 Đó là thí dụ cho cách Xà Yêu Kiều, mới chỉ có một quẻ cho giờ Quý Dậu thôi mà phương trình thức này nọ củng đã phức tạp, tính toán phiền phức rồi nói chi tính quẻ cho 12 giờ hay vài ngày để tìm cách tốt. Vì vậy càng học càng lẫn quẫn trong mấy cái phương trình thức khó hiểu đừng nói chi ứng dụng. Xà Yêu Kiều tức là Quý gia Đinh. Chỉ có đơn giản như đang giởn vậy thôi. Ta chỉ cần lập quẻ trên cửu cung thì đã thấy rỏ rồi. Phương pháp tính như sau: 1/Dương Độn 1 Cục, Giờ Quý Dậu tức tuần Giáp Tý, tức Mậu Giáp Tý Mậu khởi 1 ở Khãm, Trực Phù là Bồng Tinh, Trực Sử là Hưu Môn Ta có địa bàn như sau: [Tân,Phụ,Đổ--------][Ất,Anh,Cảnh--------][Kỷ,Nhuế,Tử] [Canh,Xung,Thương][Nhâm,Cầm----------][Đinh,Trụ,Kinh] [bính,Nhậm,Sinh----][(Mậu),(Bồng),(Hưu)][Quý,Tâm,Khai] 2/Trực phù Mậu (Giáp Tý) gia Thời Can Quý (ở cung 6) [Ất Tân,Anh-----][Kỷ Ất,Nhuế------][Đinh Kỷ,Trụ------] [Tân Canh,Phụ--][Nhâm,Cầm-------][Quý Đinh,Tâm----] [Canh Bính,Xung][bính (Mậu),Nhậm][(Mậu) Quý,(Bồng)] 3/Trực Sử gia Thời Chi, Giáp Tý Mậu Bồng Hưu ở cung 1, Ất Sửu 2, …., Nhâm Thân 9, Quý Dậu 1. Vậy Trực Sử gia lên cung 1. [Ất Tân,Anh,Đổ-------][Kỷ Ất,Nhuế,Cảnh------][Đinh Kỷ,Trụ,Tử--------] [Tân Canh,Phụ,Thương][Nhâm,Cầm-------------][Quý Đinh,Tâm,Kinh----] [Canh Bính,Xung,Sinh-][bính (Mậu),Nhậm,(Hưu)][(Mậu) Quý,(Bồng),Khai] 4/An Bát Thần, Dương Độn đi thuận khởi từ Trực Phù (trên thiên bàn), Phù, Xà, Âm, Hợp, Trần, Tước, Địa, Thiên, ta có một quẻ Kỳ Môn như sau: [Ất Tân,Anh,Đổ,Trần-------][Kỷ Ất,Nhuế,Cảnh,Tước-----][Đinh Kỷ,Trụ,Tử,Địa--------] [Tân Canh,Phụ,Thương,Hợp][Nhâm,Cầm------------------][Quý Đinh,Tâm, Kinh,Thiên-] [Canh Bính,Xung,Sinh,Âm--][bính (Mậu),Nhậm, (Hưu),Xà][(Mậu) Quý,(Bồng),Khai,Phù] Nay ta coi ở cung 7 có Quý gia Đinh, đó chính là Xà Yêu Kiều!!! Xem lại cách giải thích của cụ Đổ Quân như sau: Bởi vì Sao Đằng Xà lâm Hưu Môn. Trong Hưu Môn có can Quý (VinhL không thấy can Quý ở Hưu Môn nào đâu???). Can Quý trên địa bàn mang số 6 nên ta có chực phù là Thiên Tâm (Trực Phù ở quẻ là Thiên Bồng tinh mà). Đinh Kỳ mang số 7 nên ta có chực sử là Kinh môn (Trực Sử của quẻ là Hưu Môn mà) và số 7 cũng là lạc cung. Cách này gọi là Xà Yêu Kiều.-> Sai hoàn toàn và không hợp lý chút nào. Ngày xưa tướng ra trận chỉ bấm trên tay để điền quẻ Kỳ Môn, chứ đâu lập phương trình thức như cụ Đỗ Quân hay ông Nguyễn Mạnh Bảo mà tính tới tính lui lộn xà ngầu, lập xong quẻ thì quân giặc tới trước cửa rồi.
  16. Nhật thực và Nguyệt thực Viết bởi Trần Nghiêm Thứ năm, 19 Tháng 5 2011 13:30 Con người trên khắp thế giới đều từng chứng kiến nhật thực toàn phần. Trong hiện tượng thiên nhiên ngoạn mục này, Mặt trăng chặn mất ánh sáng của Mặt trời. Thỉnh thoảng, bản thân Mặt trăng bị che khuất, mang lại một màu đồng bí ẩn. Mặt trăng, Mặt trời và Trái đất không sắp thẳng hàng để tạo ra nhật nguyệt thực hàng tháng. Ít nhất có hai kì nhật thực xảy ra trong một năm, tuy nhiên đa phần là nhật thực một phần. Có thể đến bảy lần nhật thực và nguyệt thực cùng rơi vào một năm. Cảnh nhật thực lặp lại với chu kì 6585,32 ngày (khoảng 18 năm). MẶT TRĂNG BỊ CHE KHUẤT Nguyệt thực chỉ xảy ra lúc trăng tròn. Trong một kì nguyệt thực toàn phần, Trái đất từ từ di chuyển giữa Mặt trăng và Mặt trời. Cái bóng của Trái đất quét qua bề mặt chị Hằng. Ngay cả khi nguyệt thực toàn phần, Mặt trăng vẫn hơi mờ mờ ánh sáng đỏ, đó là ánh sáng mặt trời đi tới Mặt trăng sau khi bị bẻ cong và tán xạ qua lớp rìa khí quyển của Trái đất. Thời gian nguyệt thực toàn phần có thể kéo dài đến 1 giờ 47 phút. NHẬT THỰC Nhật thực xuất hiện khi Mặt trăng đi qua phía trước Mặt trời và đổ bóng lên một phần bề mặt Trái đất. Sự che khuất hoàn toàn của Mặt trời chỉ xảy ra trong một khu vực hẹp, do cái bóng của Mặt trăng khi đổ lên Trái đất là nhỏ.Người quan sát đứng bên ngoài khu vực toàn phần này chỉ trông thấy nhật thực một phần. NGUYỆT THỰC Khi sự che khuất của Mặt trăng xảy ra, thì Mặt trời, Trái đất và Mặt trăng phải sắp thẳng hàng lúc trăng tròn. Nguyệt thực xảy ra khi Mặt trăng đi vào vùng bóng của Trái đất. Chúng có thể được nhìn thấy từ bất kì nơi nào có Mặt trăng mọc lên trước lúc bị che khuất. COLUMBUS LỢI DỤNG NGUYỆT THỰC Trong quá khứ, nhật thực bị xem là điềm xấu hoặc khiến người ta sợ hãi. Vào năm 1504, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Christopher Columbus cùng đoàn thủy thủ của ông mắc cạn ở Jamaica. Ông biết rằng sẽ xảy ra sự che khuất hoàn toàn của Mặt trăng vào ngày 29 tháng 2 và đã sử dụng điều này để dọa những người Arawak bản địa. Ông nói rằng Mặt trăng đã bị lấy mất và sẽ được trả lại nếu như họ chịu giúp ông. Trò lùa đó đã có tác dụng, và sau đó Columbus cùng đoàn thủy thủ của ông đã được giải cứu. GHI CHÉP VỀ NHẬT THỰC & NGUYỆT THỰC Nhật nguyệt thực đã được người ta ghi chép trong hàng nghìn năm trời. Khúc xương thờ tự Trung Quốc có khắc chữ như thế này đề cập tới sự nhật thực vào năm 1300 tCN. Sử chép Trung Quốc có ghi lại sự kiện hai nhà chiêm tinh học bị chém đầu vì dự báo sai sự nhật thực vào năm 2134 tCN. TAI LỬA MẶT TRỜI Khi đĩa Mặt trời rực rỡ bị Mặt trăng che khuất trong một kì nhật thực toàn phần, thỉnh thoảng người ta có thể trông thấy những tai lửa mặt trời tại rìa của Mặt trời. Những cái lưỡi khí nóng khổng lồ này từ Mặt trời dâng trào vào trong không gian. Tai lửa Mặt trời trong ảnh ở đây được chụp trong lần nhật thực ngày 11/7/1991. NHẬT THỰC TOÀN PHẦN Khi pha một phần của nhật thực toàn phần diễn ra, Mặt trăng từ từ che lấy Mặt trời. Thời khắc toàn phần xuất hiện khi cái đĩa màu vàng của Mặt trời hoàn toàn bị che khuất. Bầu trời tối sầm và có thể nhìn thấy nhật hoa của Mặt trời (những lớp chất khí phía ngoài Mặt trời) từ Mặt trời tỏa ra tựa như một vầng hào quang trắng. Sự toàn phần có thể kéo dài tới 7,5 phút, nhưng thường thì chúng diễn ra ngắn hơn nhiều. Kì nhật thực này vào tháng 7/1991 kéo dài gần 7 phút. Những ảnh chụp ở những giai đoạn nhật thực khác nhau được ghép lại để tạo nên bức ảnh trên. NHẬT THỰC MỘT PHẦN Khi Mặt trời và Mặt trăng không hoàn toàn thẳng hàng, thì sự che khuất của Mặt trời có thể chỉ là một phần, như thấy trong ảnh bên ở Ấn Độ hồi tháng 3/2007. Người quan sát cũng sẽ thấy nhật thực một phần nếu họ quan sát nhật thực toàn phần từ bên ngoài vùng bị che khuất hoàn toàn. NHẬT THỰC HÌNH KHUYÊN Mặt trời và Mặt trời dường như có kích cỡ bằng nhau trên bầu trời của chúng ta, nhưng chúng hơi lệch nhau một chút (xem trang 11). Nhật thực hình khuyên xảy ra khi Mặt trăng đi qua phía trước Mặt trời và kích cỡ biểu kiến của nó nhỏ hơn Mặt trời. Bức ảnh này chụp vào tháng 1/1992. Trích Sách ảnh Mặt trăng (Tập sách TVVL đang thực hiện) Vui lòng ghi rõ "Nguồn Thuvienvatly.com" khi đăng lại bài từ CTV của chúng tôi. Tiết điểm Mặt Trăng Social Sciences Giao điểm thăng (điểm/nút tiến) là điểm mà Mặt Trăng vượt qua hoàng đạo để tiến lên phía bắc nên còn gọi là giao điểm Bắc. Giao điểm giáng (điểm/nút lùi) là điểm mà Mặt Trăng vượt qua hoàng đạo để tiến xuống phía nam nên còn gọi là giao điểm Nam. Các giao điểm Mặt Trăng là các điểm trong đó đường di chuyển của Mặt Trăng (bạch đạo) trên bầu trời cắt hoàng đạo, đường chuyển động của Mặt Trời trên bầu trời. Các hiện tượng như nhật thực và nguyệt thực chỉ xảy ra ở gần các giao điểm Mặt Trăng: Nhật thực diễn ra khi đường đi của Mặt Trăng rất gần với một trong hai giao điểm này và trùng với trăng mới (ngày sóc); nguyệt thực diễn ra khi đường đi của Mặt Trăng rất gần với một trong hai giao điểm này và trùng với trăng tròn (ngày vọng). Khoảng cách góc của Mặt Trăng tới các giao điểm khi đó nhỏ hơn khoảng 1,5°. Các giao điểm Mặt Trăng cũng tiến động tương đối nhanh xung quanh hoàng đạo, thực hiện đủ một chu kỳ (gọi là chu kỳ giao điểm hay chu kỳ nút, là chu kỳ chương động) trong 6.793,5 ngày hay 18,5996 năm (lưu ý rằng nó không phải là chu kỳ thực Saros). Tên gọi và biểu tượng Các giao điểm này được gọi bằng các tên gọi khác nhau tại mỗi nơi trên thế giới. Do giao điểm thăng là điểm cắt ngang giữa hoàng đạo và bạch đạo để Mặt Trăng tiến từ phía nam lên phía bắc, nên trong ngôn ngữ phương Tây, như trong tiếng Anh đôi khi gọi nó là North node (giao điểm Bắc). Trong các tài liệu châu Âu cổ, nó được nói tới như là đầu rồng (Caput Draconis hay Anabibazon). Biểu tượng của giao điểm thăng là , một biểu tượng thiên văn và chiêm tinh cho đầu rồng. Tương tự, giao điểm giáng là điểm cắt ngang giữa hoàng đạo và bạch đạo để Mặt Trăng tiến từ phía bắc xuống phía nam, nên trong tiếng Anh đôi khi gọi nó là South node (giao điểm Nam). Nó được biết tới như là đuôi rồng (Cauda Draconis hay Catabibazon), và biểu tượng của nó là đảo ngược của biểu tượng cho giao điểm thăng: . Cái gọi là giao điểm Bắc trên thực tế có thể nằm ở phía nam của giao điểm Nam trong hành trình của chu kỳ nút. Trong chiêm tinh học Hindu (tức Jyotiṣa), giao điểm thăng gọi là राहु (Rahu) còn giao điểm giáng gọi là केतु (Ketu). Khi du nhập vào Trung Quốc và Việt Nam, chúng lần lượt được gọi tương ứng là 羅喉/La Hầu và 計都/Kế Đô. Xích vĩ tột cùng Quỹ đạo Mặt Trăng nghiêng khoảng 5,145° so với mặt phẳng hoàng đạo: vì thế Mặt Trăng có thể lên cao tới khoảng 5° về phía bắc của hoàng đạo và cũng chừng ấy thấp hơn về phía nam của hoàng đạo. Mặt phẳng hoàng đạo nghiêng khoảng 23,4° trên thiên xích đạo, mặt phẳng vuông góc với trục tự quay của Trái Đất. Kết quả là, một lần trong chu kỳ giao điểm 18,5996 năm, khi mà thời điểm xảy ra giao điểm thăng của quỹ đạo Mặt Trăng trùng với điểm xuân phân, thì Mặt Trăng đạt tới các xích vĩ tột cùng (xa nhất) về phía nam hay phía bắc. Khi đó nó cũng có các điểm phương vị xa nhất về phía bắc hay phía nam để mọc và lặn trên đường chân trời; cao độ thấp nhất và cao nhất khi vượt qua kinh tuyến bầu trời (vòng Tí Ngọ, tuyến Tí Ngọ hay khuyên Tí Ngọ); và những lần trông thấy đầu tiên về tiềm năng là muộn nhất của trăng mới. Ngoài ra, sự che khuất bởi Mặt Trăng đối với nhóm sao sáng trong quần sao Tua Rua (Pleiades), nằm phía trên khoảng 4° về phía Bắc của hoàng đạo, xảy ra trong một khoảng thời gian tương đối ngắn một lần trong mỗi chu kỳ giao điểm. Ý nghĩa chiêm tinh Các giao điểm Mặt Trăng có tầm quan trọng chiêm tinh lớn trong chiêm tinh học Vệ Đà, và ở mức độ hạn hẹp hơn trong chiêm tinh học phương Tây. Thông thường chỉ mỗi giao điểm Bắc được biểu thị trong các lá số tử vi, do giao điểm Nam theo định nghĩa luôn luôn nằm tại điểm đối diện trong biểu đồ chiêm tinh. Trong chiêm tinh học Vệ Đà, giao điểm Bắc là Rahu còn giao điểm Nam là Ketu và cả hai đều được biểu thị trong biểu đồ. Tầm quan trọng của chúng có thể khác biệt lớn trong các cách tiếp cận. Nói chung, giao điểm thăng được nhìn nhận như là điểm của cơ hội để sinh trưởng, phát triển và tự hoàn thiện, trong khi giao điểm giáng được coi là đại diện cho sự kiềm chế nghiệp hay các xu hướng dẫn tới hạn chế sự sinh trưởng. Giao điểm thăng mang sắc thái dương và có ích của Mộc tinh, trong khi giao điểm giáng thể hiện sự hạn chế và ngăn cản của Thổ tinh. Quan điểm khác lại cho rằng giao điểm thăng đại diện cho các mục đích tích cực còn giao điểm giáng biểu thị cho sự dễ dàng bị loại ra với ít cơ hội để sinh trưởng. Trong chiêm tinh học Vệ Đà, Rahu (giao điểm thăng) được coi là tương tự như Thổ tinh còn Ketu tương tự như Hỏa tinh. Rahu biểu thị cho chủ nghĩa vật chất và tham vọng trong khi Ketu biểu thị các trở ngại trong thế giới vật chất trừ các xu hướng tinh thần. Trong bói toán của người Việt, La Hầu và Kế Đô là 2 trong số 9 sao (cửu diệu), cùng Thái Dương, Thái Âm, Thủy Diệu, Thái Bạch, Vân Hán, Mộc Đức và Thổ Tú, có ảnh hưởng tới cuộc sống của con người. Người ta cho rằng nam giới với tuổi âm lịch là 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82 còn nữ giới với tuổi 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87 gặp hạn "sao" La Hầu và nên đề phòng những tai nạn có thể xảy ra trong tháng giêng và tháng 7 âm lịch. Hạn "sao" Kế Đô xảy ra khi nam giới ở độ tuổi 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88 còn nữ giới ở độ tuổi 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82. Gặp hạn này cần đề phòng những chuyện buồn thương trong tháng 3 và tháng 9 âm lịch.
  17. Trích lại các bài viết về bộ môn Thái Ất của cụ Hà Uyên để tham khảo các chu kỳ tương tác lớn và rất lớn (Hiện nay đang ở trong Hội Ngọ, nhưng cũng có nhà nghiên cứu xác định chúng ta đang ở trong Hội Thìn). THÁI ẤT DIỄN QUÁI YẾU GIẢI LỜI NÓI ĐẦU Theo quan niệm của người xưa, Thái Ất là thần của trời đất. Xét quan hệ giữa sao Thái Ất và 16 vị sao khác vận động trong không gian và thời gian x ba phạm trù thiên, địa, nhân (tam tài), phối hợp x x x thuyết âm dương ngũ hành, thập thiên can, x x x trong cấu trúc cửu cung và 12 phân dã, x x x và dự đoán được các việc gió, mưa, lụt, hạn trong x x, sự trị loạn, no đói trong nhân sự, sự thắng thua trong quân sự. Theo truyền thuyết, x x x Hoàng đế do mong muốn đem lại thái bình, x x x x nước, no ấm hạnh phúc cho muôn dân nên x x x x Thần Phong Hậu xem xét âm dương ngũ hành x x lịch số của trời đất, dựa vào các nguyên lý của Hà đồ Lạc thư, Thái cực Lưỡng nghi lập ra Thái ất thần số. Sau đó, x công, Lưu hầu phát triển thêm. Đến đời Tống, x x đóng góp thêm nhiều kinh nghiệm. Các nho sĩ đời Minh bổ sung, chú giải, nên môn học quý giá này càng thêm sáng tỏ. Tới Trương Hoa phối hợp Thái ất thần số với 64 quẻ dịch kinh thích ứng liên vận các thời đại, nội dung môn học càng thêm phong phú, cụ thể. Bảng nhỡn Lê Quý Đôn đánh giá cao môn Thái ất học. Ông nói: “ Thuyết Thái ất, phần nhiều nói về binh pháp. Địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, các cơ thịnh suy, trị loạn, cái thế thắng thua, yên nguy đều được diễn giải rõ ràng. Làm tướng mà không biết môn học Thái ất sẽ không biết rõ nên đánh hay giữ, tiến hay ngừng, khó quyết đoán các mưu kế khi ra trận địa. Trong triều đình nếu không biết môn Thái ất sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, tiến công hay thoái thủ, khó quyết đoán những sách lược lớn.” Môn học thuyết cổ dù lớn bao nhiêu cũng không thể vượt qua những điều kiện lịch sử không nhất định. Đãi cát tìm vàng là mong muốn thiết tha của người cầu học BÀI 1: SỐ CỦA 12 HỘI Cấu trúc thời gian (đồng thời cũng là cấu trúc không gian) của vũ trụ (thiên – địa – nhân) được thể hiện thành 12 Hội. Trước khi bàn về nội dung của 12 Hội, ta nên biết một số khái niệm thời gian có liên quan tới Hội. 1 đại nguyên = 30 nguyên (30 x 12 x 30 x 12 x 30) = 3.888.000 năm = 30 năm 1 nguyên = 12 hội (12 x 30 x 12 x 30) = 129.600 năm = 1 năm (360 ngày). 1 hội = 30 vận (30 x 12 x 30) = 10.800 năm = 30 ngày (1 tháng) 1 vận = 12 thế = 6 nguyên = 5 nguyên tý = 360 năm (12 x 30) = 12 giờ (1 ngày) 1 thế = 2 niên tiết = 30 năm = 30 phút 1 năm = (30 : 30) = 1 phút 1 tháng = 1phút / 12 = 1 giây 1 giây = 1 giây/ 30 = 1 giây Chú ý : Phép tính Thái ất lấy Hội làm cơ sở tính toán, đơn vị tính toán. Do đó, ta quy ước: Hội = N = 1 Cho nên ta có: N = 1 = 10.800 năm Cách tính của Thái ất lấy bội số ( và số chia ) 12; 30 làm cơ sở. Tính chất 1 phút và 1 năm, 1 ngày và 1 vận, 1 tháng và 1 hội về cơ bản là thống nhất. Số từng hội: Hội Tý = 10.800 năm = 129.600 tháng = 3.888.000 ngày = 46.656.000 giờ = 1.399.680 phân = 16.796.160.000 sao Hội Sửu = 21.600 năm = 259.200 tháng = 7.776.000 ngày (HTý x 2)= 93.312.000 giờ = 2.799.360.000 phân = 33.592.320.000 sao Hội Dần = 32.400 năm = 388.800 tháng = 11.654.000 ngày (HTý x 3)= 139.968.000 giờ = 419.904.000 phân = 5.038.848.000 sao Hội Mão = 43.200 năm = 518.400 tháng = 15.552.000 ngày (HTý x 4)= 186.624.000 giờ = 5.598.720.000 phân = 67.184.640.000 sao Hội Thìn = 54.000 năm = 648.000 tháng = 19.440.000 ngày (HTý x 5)= 233.280.000 giờ = 6.998.400.000 phân = 83.980.800.000 sao Hội Tị = 64.800 năm = 777.600 tháng = 23.327.000 ngày (HTý x 6)= 279.936.000 giờ = 3.398.080.000 phân = 100.776.960.000 sao Hội Ngọ = 75.600 năm = 907.200 tháng = 27.216.000 ngày (HTý x 7)= 326.592.000 giờ = 9.797.760.000 phân = 117.573.120.000 sao Hội Mùi = 86.400 năm = 1.036.800 tháng = 31.104.000 ngày (HTý x 8)= 373.248.000 giờ = 1.197.440.000 phân = 134.369.280.000 sao Hội Thân = 97.200 năm = 1.166.400 tháng = 34.992.000 ngày (HTý x 9)= 419.904.000 giờ = 12.597.120.000 phân = 151.165.440.000 sao Hội Dậu = 108.000 năm = 1.296.000 tháng = 38.880.000 ngày (HTý x 10)= 466.560.000 giờ = 1.399.680.000 phân = 167.961.600.000 sao Hội Tuất = 118.800 năm = 1.425.600 tháng = 42.768.000 ngày (HTý x 11)= 513.216.000 giờ = 15.396.480.000 phân = 18.475.760.000 sao Hội Hợi = 129.600 năm = 1.555.200 tháng = 46.656.000 ngày (HTý x 12)= 559.872.000 giờ = 16.796.160.000 phân = 201.553.920.000 sao CÔNG THỨC : 1x 12 x 30 x 12 x 30 x 12 Quan hệ tương đương: Hội Tý = 1 tháng – Hội Thìn = 5 tháng – Hội Thân = 9 tháng. Hội Sửu = 2 tháng – Hội Tị = 6 tháng – Hội Dậu = 10 tháng. Hội Dần = 3 tháng – Hội Ngọ = 7 tháng – Hội Tuất = 11 tháng. Hội Mão = 4 tháng – Hội Mùi = 8 tháng – Hội Hợi = 12 tháng Hình vẽ THÁI ẤT THIÊN BÀN CƠ SỞ cuối bài 1 BÀI 2 NGŨ NGUYÊN TÝ Mỗi vận (360 năm) chia ra năm phần. Mỗi phần gọi là 1 nguyên tý. Một nguyên tý có 72 năm (360 : 5). Năm phần này hợp thành ngũ nguyên tý. Tên của ngũ nguyên tý là tên của các thiên can, phối hợp với địa chi tý. (Chi đứng đầu trong hệ thống 12 địa chi), cụ thể là: Nguyên giáp tý Nguyên bính tý Nguyên mậu tý Nguyên canh tý Nguyên nhâm tý. TAM NGUYÊN THƯỢNG, TRUNG, HẠ Mỗi vận chia thành 6 phần là: Thượng nguyên ( 2 lần ) Trung nguyên ( 2 lần ) Hạ nguyên ( 2 lần ) Mỗi nguyên 60 năm ÂM CỤC VÀ DƯƠNG CỤC Theo quy định, từ năm 1324 đến năm 2403 (1.080) thuộc dương. Từ năm 2.404 đến năm 3.483 thuộc âm. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thế kỷ thuộc dương. Bảng A Số nguyên tý từ năm 1.324 đến năm 2.403 (1080 năm) thuộc dương Nguyên giáp tý 1324 – 1395........1684 – 1755........2044 – 2115 Nguyên bính tý 1396 – 1467........1756 – 1827........2116 – 2187 Nguyên mậu tý 1468 – 1539........1828 – 1899........2188 – 2259 Nguyên canh tý 1540 – 1611........1900 – 1971........2260 – 2331 Nguyên nhâm tý 1612 – 1683.......1972 – 2043........2332 – 2463 ...............................I.......................II......................I II.......... Mỗi nguyên tý 72 năm [(72 x 15) = 18 nguyên] Bảng B Số nguyên tý từ năm 2404 đến năm 3483 (1080 năm) thuộc âm Nguyên giáp tý 2404 – 2475.........2764 – 2835..........3124 – 3195 Nguyên bính tý 2476 – 2547.........2836 – 2907..........3196 – 3267 Nguyên mậu tý 2548 – 2619.........2908 – 2979..........3268 – 3339 Nguyên canh tý 2620 – 2691.........2980 – 3051..........3340 – 3411 Nguyên nhâm tý 2692 – 2763.........3052 – 3123..........3412 – 3483 ...............................I.........................II..................... ...III............ Như vậy, ta có 3 ngũ nguyên tý (1080) thuộc dương, và 3 ngũ nguyên tý thuộc âm. Theo nguyên lý “ Nhất âm nhất dương chi vị đạo ”. Do đó, 1080 năm tiếp theo ngũ nguyên tý là 2404 – 3483 thuộc âm. Niên cục thuộc các nguyên tý dương gọi là niên cục dương, thuộc các nguyên tý âm gọi là niên cục âm. Ba ngũ nguyên tý bao gồm 18 nguyên (60 x 18 = 1080). Các thượng, trung, hạ nguyên từ năm 1684 đến năm 2403, gồm 12 nguyên (720 năm) = 2 vận Thượng nguyên 1684 – 1743.........1864 – 1923..........2044 – 2103..........2224 – 2283 Trung nguyên...1744 – 1803..........1924 – 1983..........2104 – 2163..........2284 – 2343 Hạ nguyên.......1804 – 1863..........1984 – 2043..........2164 – 2223..........2344 – 2403 .............................I..........................II...................... ..III.......................IV THÁI DƯƠNG THẬP NHỊ CUNG XÁ Thái dương thập nhị cung xá tức là 12 cung thuộc vòng hoàng đạo trong chiêm tinh học cổ đại phương Tây. Thập nhị địa chi phối hợp với 12 cung hoàng đạo như sau: Tý phối hợp với.......11 Bảo Bình....Năm 1684 Bắc ...................................................................1743 Sửu phối hợp với.....10 Ma kiệt..............1744 ........................................................1803 Đông Bắc Dần phối hợp với......9 Nhân mã............1804 ...................................................................1863 Mão phối hợp với......8 Thiên yết...........1864 Đông ...................................................................1923 Thìn phối hợp với......7 Thiên xứng........1924 ...................................................................1983 Đông Nam Tị phối hợp với.........6 Song nữ.............1984 ....................................................................2043 Ngọ phối hợp với......5 Sư tử.................2044 Nam ....................................................................2103 Mùi phối hợp với.......4 Cự giải...............2104 ....................................................................2163 Tây Nam Thân phối hợp với.....3 Âm dương...........2164 ....................................................................2223 Dậu phối hợp với......2 Kim ngưu............2224 Tây ....................................................................2283 Tuất phối hợp với.....1 Bạch dương.........2284 ....................................................................2343 Tây Bắc Hợi phối hợp với.....12 Song ngư............2344 ....................................................................2403 Tý phối hợp với.........Bảo bình...............2404 Bắc ....................................................................2463 Mỗi cung tương ứng với 60 năm (1 nguyên) Từ năm 2404 đến năm 3483 thuộc các nguyên tý âm. Từ đó ta suy ra từ năm 1323 lùi lại 1080 năm tức là từ năm 244 đến năm 1523 thuộc các nguyên tý âm. Từ năm 1324 lại bắt đầu phối hợp với Bảo bình trong “Thái dương thập nhị cung xá” với dương niên cục thuộc nguyên giáp tý dương. Bảng C Số nguyên tý từ năm 244 đến năm 1323 thuộc các nguyên tý âm Nguyên giáp tý.....244 – 315..........604 – 675............964 – 1035 Nguyên bính tý.....316 – 387..........676 – 747............1036 – 1107 Nguyên mậu tý.....388 – 459..........748 – 819............1108 – 1179 Nguyên canh tý....460 – 531...........820 – 891............1180 – 1251 Nguyên nhâm tý...532 – 603...........892 – 963............1252 – 1323 ...............................I.......................II....................... ..III............. Thượng nguyên..244 – 303......424 – 483......604 – 663......784 – 863......964 – 1023.......1144 - 1203 Trung nguyên....304 – 363......484 – 543......664 – 723......844 – 923......1024 – 1083......1204 – 1263 Hạ nguyên........364 – 423......544 – 603......724 – 783......904 – 983......1084 – 1143......1264 – 1323 ............................I...................II................III........... ......IV...................V.....................VI............. 18 nguyên (60 x 18 = 1080) SỐ NIÊN CỤC Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục được đánh số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Niên cục được tính theo chu kỳ của mỗi vận 360 năm. Ví dụ: - Năm 1570, theo bảng A ở trên, thuộc nguyên Canh tý dương. Nguyên Canh tý dương bắt đầu từ năm 1540. Ta coi: 1540 = 1 Vậy 1541 = 2 ; 1542 = 3 ; 1543 = 4 ; 1544 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có : 1550 = 11 ; 1560 = 21 ; 1570 = 31 Do đó, năm 1570 thuộc nguyên Canh tý dương, dương niên cục 31. - Năm 1644, theo bảng A, thuộc nguyên Nhâm tý dương. Nguyên Nhâm tý dương bắt đầu từ năm 1612 Ta coi: 1612 = 1 Vậy: 1613 = 2 ; 1614 = 3 ; 1615 = 4 ; 1616 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có: 1622 = 11 ; 1632 = 21 ; 1642 = 31 ; 1643 = 32 ; 1644 = 33 Do đó năm 1644 thuộc nguyên Nhâm tý dương, dương nguyên cục 33. - Năm 2404, theo bảng B ở trên, thuộc nguyên Giáp tý âm. Nguyên Giáp tý âm bắt đầu từ năm 2404. Ta coi: 2404 = 1 Do đó, năm 2404 thuộc nguyên Giáp tý âm, âm niên cục 1 - Năm 2478, theo bảng B, thuộc nguyên Bính tý âm. Nguyên Bính tý âm bắt đầu từ năm 2476. Ta coi: 2476 = 1 ; 2477 = 2 ; 2478 = 3 Do đó, năm 2478 thuộc nguyên Bính tý âm, âm niên cục 3. SỐ NGUYỆT CỤC Cục tương ứng với tháng gọi là Nguyệt cục. Gốc tính nguyệt cục là ngày mồng 1, tháng Giáp tý ,năm Giáp tý, thuộc triều đại Nguyên Gia thời nhà Tống Trung Quốc (tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 sau công nguyên). - Thử tính số nguyệt cục tháng Bính Dần, năm Kỷ Mão (năm 1999). Ta tính như sau: Từ tháng Giáp tý, năm Giáp tý (năm 424) đến tháng Quý hợi (trước tháng Giáp tý) năm Kỷ Mão (trước năm Canh Thìn tức là năm 1999), ta có: 1999 – 424 = 1575 năm (năm Mậu Dần, tháng Kỷ Mão) 1575 x 12 tháng = 18.900 tháng (tháng Hợi, năm Mậu Dần) Từ tháng Giáp tý, năm Kỷ Mão đến tháng Mậu Dần, năm Canh Thìn, có 3 tháng: 18.900 tháng + 3 tháng = 18.903 tháng (Bính Dần, năm Kỷ Mão) Dùng công thức I : 19.903 : 360 = số dư 183 Dùng công thức II : 183 : 72 = số dư 39 Năm 2000 thuộc nguyên Nhâm tý dương, ta nói : tháng Bính Dần năm Kỷ Mão (năm 1999) có nguyệt cục dương 39 thuộc nguyên Nhâm tý dương. BÀI 3 SỐ NHẬT CỤC Gốc tính nhật cục từ ngày mồng 1 tháng Giáp tý, năm Quý Hợi thuộc triều đại Cảnh Bình đời nhà Tống – Trung Quốc (ứng với ngày 19/2/423 dương lịch) Điểm mấu chốt của cách tính nhật cục là tính số ngày từ gốc tính nhật cục đến ngày đang xét. Ví dụ: Tính nhật cục ngày 14/02/1992 (âm lịch). Bước đầu tiên là tính số ngày từ gốc tính nhật cục (ngày 19/2/423) đến ngày 18/01/1992. Trước hết, ta tính tròn số năm phải xét. Vậy tính đến tháng 2 năm 1992, ta có: 1992 – 423 = 1569 năm Tiếp đó, ta tính số ngày tròn trong 1569 năm: (1569 x 365,2422) – 10 = 573.055 ngày Bước tiếp theo, ta tính số ngày từ 19/01/1992 đến ngày 14/12/1999. Số ngày theo dương lịch, ta có: 19/1/1992 – 31/1/1992 = 13 ngày 1/2/1992 – 29/2/1992 = 29 ngày 1/3/1992 – 31/3/1992 = 31 ngày 1/4/1992 – 30/4/1992 = 30 ngày 1/5/1992 – 31/5/1992 = 31 ngày 1/6/1992 – 30/6/1992 = 30 ngày 1/7/1992 – 31/7/1992 = 31 ngày 1/8/1992 – 31/8/1992 = 31 ngày 1/9/1992 – 30/9/1992 = 30 ngày 1/10/1992 – 31/10/1992 = 31 ngày 1/11/1992 – 30/11/1992 = 30 ngày 1/12/1992 – 14/12/1992 = 14 ngày ...........................Cộng = 331 ngày Số ngày từ 18/2/423 đến 14/12/1999 là: 573.055 + 331 = 573.386 ngày Tính tiếp theo công thức I: 573.386 : 360 = số dư 266 Cuối cùng tính theo công thức II: 266 : 72 = số dư 19 Ngày 14/2/1992 sau Đông chí thuộc dương (sau ngày hạ chí thuộc âm). Ta nói: ngày 14/2/1992 có dương nhật cục 50 thuộc nguyên nhâm tý dương, hạ nguyên. (*)Ta biết rằng: ngày 21 (Giáp tý) tháng 11 (Nhâm tý) năm Nhâm thân. Gốc tính (Lê Quý Đôn): Âm lịch – mồng 1 – tháng 11 – Giáp tý Năm Giáp tý (dương lịch 7/12/424) SỐ THỜI CỤC Cách tính thời cục là dung số Can chi cho ngày và giờ. Gốc của Can chi ngày là ngày Giáp Tý = 1 ; ngày Ất Sửu = 2 ; ngày Bính Dần = 3…v.v… Thử tính thời cục giờ Giáp Tý, ngày Giáp Thìn (tương ứng với ngày 23/1/1992) Giờ Giáp Tý là giờ đầu tiên của ngày Giáp Thìn. Ta có: giờ Giáp Tý = 1 Tính từ ngày Giáp Tý = 1 đến ngày Giáp Thìn, ta có: ngày Giáp Thìn = 41 Nhưng ta chỉ tính đến hết ngày Quý Mão (trước ngày Giáp Thìn) Ngày Quý Mão có số Can chi = 40 Mỗi ngày có 12 giờ âm lịch: 40 x 12 = 480 giờ âm lịch Cộng thêm giờ Giáp Tý ngày Giáp Thìn, ta có: 480 + 1 = 481 giờ âm lịch Tính tiếp, ta dùng công thức I: 481 : 360 = số dư 121 Cuối cùng, ta dùng công thức II: 121 : 72 = số dư 49 Ngày 23/1/1993 sau Đông chí. Tính thời cục cũng lấy thời gian từ Đông chí về sau thuộc dương, từ Hạ chí về sau thuộc âm. Từ kết quả tính toán trên đây, ta nói: ngày 23/1/1993 có dương thời cục 49 thuộc nguyên tý… Cách tính số niên cục, nguyệt cục, nhật cục, thời cục gọi là “Tứ kế” (tuế kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế) Theo nguyên tắc “Tề nguyên Giáp Tý”, gốc tính đầu tiên của “Tứ kế” là giờ Giáp Tý, ngày Giáp Tý, tháng Giáp Tý, năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý thuộc Hội Giáp Tý. BÀI 4 NHỊ THẬP TỨ TIẾT KHÍ VÀ GIAO HỘI CỦA MẶT TRỜI MẶT TRĂNG Đại hàn: Mặt trăng vận hành tại cung Sửu, mặt trời vận hành tại cung Tý Giao hội tại khoảng giữa cung Sửu và cung Tý (tại…..) Vũ thuỷ: Mặt trăng vận hành tại cung Dần, mặt trời vận hành tại cung Hợi Giao hội tại khoảng giữa cung Dần và cung Hợi (tại…..) Xuân phân: Mặt trăng vận hành tại cung Mão, mặt trời vận hành tại cung Tuất Giao hội tại khoảng giữa cung Mão và cung Tuất (tại…..) Cốc vũ: Mặt trăng vận hành tại cung Thìn, mặt trời vận hành tại cung Dậu Giao hội tại khoảng giữa cung Thìn và cung Dậu (tại…..) Tiểu mãn: Mặt trăng vận hành tại cung Tị, mặt trời vận hành tại cung Thân Giao hội tại khoảng giữa cung Tị và cung Thân (tại…..) Hạ chí: Mặt trăng vận hành tại cung Ngọ, mặt trời vận hành tại cung Mùi Giao hội tại khoảng giữa cung Ngọ và cung Mùi (tại…..) Đại thử: Mặt trăng vận hành tại cung Mùi, mặt trời vận hành tại cung Ngọ Giao hội tại khoảng giữa cung Mùi và cung Ngọ (tại…..) Xử thử: Mặt trăng vận hành tại cung Thân, mặt trời vận hành tại cung Tị Giao hội tại khoảng giữa cung Thân và cung Tị (tại…..) Thu phân: Mặt trăng vận hành tại cung Dậu, mặt trời vận hành tại cung Thìn Giao hội tại khoảng giữa cung Dậu và cung Thìn (tại…..) Sương giáng: Mặt trăng vận hành tại cung Tuất, mặt trời vận hành tại cung Mão Giao hội tại khoảng giữa cung Tuất và cung Mão (tại…..) Tiểu tuyết: Mặt trăng vận hành tại cung Hợi, mặt trời vận hành tại cung Dần Giao hội tại khoảng giữa cung Hợi và cung Dần (tại…..) Đông chí: Mặt trăng vận hành tại cung Tý, mặt trời vận hành tại cung Sửu Giao hội tại khoảng giữa cung Tý và cung Sửu (tại…..) CÁC SAO CƠ BẢN TRONGTHÁI ẤT THẦN SỐ Trong thái ất thần số, các sao cơ bản gồm: Sao Thái ất ; sao Kế thần ; sao Văn xương ; sao Thuỷ kích Sao Thái ất: Theo các sách kinh điển, sao Thái ất là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán, lụt lội, chiến tranh, đói rét, bệnh tật. Xem xét tình hình trong nước, sao Thái ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn. Sao Thái ất vận hành trong 8 cung qua bát quái, không vào trung cung. Tại mỗi cung, sao Thái ất cư trú 3 năm: năm thứ nhất gọi là Lý thiên, năm thứ 2 gọi là Lý địa, năm thứ 3 gọi là Lý nhân. Ở năm thứ nhất, chức năng Lý thiên của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh các thất lạc độ số các hiện tượng mặt trời, mặt trăng, các sao xấu biến động phát sáng gây những hiện tượng quái gở. Ở năm thứ 2, chức năng Lý địa của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về núi lở, đất hõm, sông xê dịch, đất đai, cây cối. Ở năm thứ 3, chức năng Lý nhân của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về vua tôi, các hiện tượng cha con khẩu thiệt, đói rét, lưu vong trong nhân dân. Sau 24 năm, sao Thái ất đi hết 1 vòng bát quái Phép tính sao Thái ất trong Tuế kế Bài ca: Cục dương Thái ất khởi tự cung Càn Mỗi cung trú lại 3 năm Đi thuận từ số 1 đến 9 Cục âm, Thái ất khởi từ Tốn 9 Tính nghịch từ số 9 đến số 1 Chú ý là không vào số 5 Số dư sau khi tính là cung Thái ất tới Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm ta cần tìm là bao nhiêu năm gọi là tích niên Lấy tích niên chia cho số 3600 (đại chu thiên) Số dư nhỏ hơn 360 chia cho số 240. Được số dư tính tiếp như sau: bắt đầu tính 1 từ Càn 2 Ly 3 Cấn 4 Chấn (không vào 5) 6 Đoài 7 Khôn 8 Khảm 9 Tốn Tính thuận, hết vòng lại trở về ban đầu Lẻ 1 là Lý thiên Lẻ 2 là Lý địa Lẻ 3 là Lý nhân Xem ngược về những năm đã qua, mỗi năm giảm đi 1 số. Xem xuôi về những năm sắp tới, mỗi năm thêm 1 số. Ví dụ 1: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2000 theo quy ước là 10.155.917 năm. Năm ta cần tìm là năm Canh Ngọ, niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê, có tích niên là 10.155.487 năm (một phép tính khác là 10.153.847 năm). Vậy năm Canh Ngọ nói trong ví dụ tương ứng với năm 1570. Lấy tích niên 10.155.487 chia cho 3600, có số dư là 247, nhỏ hơn số 360. Lại lấy số dư 247 chia cho số 240, được số dư là 7. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn. Trú lại 3 năm. Còn dư 4 sang 2 Ly, lại trú 3 năm. Còn dư 1 sang 3 Cấn. Vậy là Thái ất đi vào cung 3 Cấn 1 năm. Số 1 tức là năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của năm Canh Ngọ trong ví dụ, ta lấy số dư 247 nói trên chia cho số 72, được số dư 31. Năm 1570, theo bảng A, thuộc nguyên Canh tý dương, vậy ta có dương niên cục 31 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên, ta nói: Năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê dương nguyên cục 31 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên sao Thái ất đi vào cung Cấn 3 một năm, ứng với Lý thiên. Ví dụ 2: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm Nhâm Thìn, niên hiệu Quang Hưng năm thứ 15 triều Lê. Được tích niên là 10.155.509 năm. Vậy năm Nhâm Thìn nói trong ví dụ tương ứng với năm 1592 Lấy tích niên 10.155.509 chia cho số 3600. Được số dư là 269. Số 269 nhỏ hơn 360. Lại lấy số 269 chia cho số 240, được số dư là 29 Lại lấy số 29 chia cho số 24, được số dư là 5. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú tại 3 năm. Còn dư 2. Vậy Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa Muốn tìm niên cục của năm Nhâm Thìn trong ví dụ, ta lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư 53 Năm 1592, theo bảng A thuộc nguyên Canh Tý dương, vậy ta có dương niên cục 53 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm ứng với Lý địa Ví dụ 3: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1644. Được tích niên là 10.155.561 năm Lấy số tích niên 10.155.561 chia cho số 3600. Được số dư là 321 Lại lấy số dư 321 chia cho số 240, được số dư là 9. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại 3 năm Còn dư 6 sang cung Ly 2, trú lại 3 năm Còn dư 3 sang cung Cấn 3. Vậy sao Thái ất vào cung Cấn 3 ba năm, tương ứng với Lý nhân Muốn tính niên cục năm 1644 trong ví dụ, ta lấy số dư là 321 chia cho số 72, được số dư 33. Năm 1644 theo bảng A thuộc nguyên Canh Tý dương. Vậy ta có dương nguyên cục 33 thuộc nguyên Nhâm tý dương – hạ nguyên. Ta nói: Năm 1644 dương niên cục 33, nguyên Nhâm tý dương – hạ nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Cấn 3 ba năm, tương ứng với Lý nhân. Ví dụ 4: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1732, được số tích niên là 10.155.649 năm Lấy số tích niên 10.155.649 chia cho số 3600, được số dư là 49. Số 49 nhỏ hơn số 360. Số dư 49 nhỏ hơn số 240 cho nên lấy số dư 49 chia cho 24, được số dư là 1. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Muốn tính niên cục của năm 1732, ta thấy số dư 49 nói trên nhỏ hơn số 72. Vậy ta có dương niên cục 49, nguyên Giáp tý dương (theo bảng A), thượng nguyên. Ta nói: Năm 1732 dương niên cục 49, nguyên Giáp tý dương – thượng nguyên. Sao Thái ất vào cung Càn 1 năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Ví dụ 5: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1756, được số tích niên là 10.155.673 Lấy số tích niên 10.155.673 chia cho số 3600 được số dư là 73 Lấy số dư 73 chia cho số 24 được số dư là 1 Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại năm thứ nhất, tương ứng với Lý thiên Muốn tính niên cục năm 1756, ta lấy số dư 73 chia cho số 72, được số dư là 1. Vậy theo bảng A, ta có dương niên cục 1, nguyên Bính tý dương – trung nguyên, ta nói: Năm 1756 dương niên cục 1, nguyên Bính tý dương – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Càn 1 năm thứ nhất ứng với Lý thiên. Ví dụ 6: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2000, được số tích niên là 10.155.917 năm Lấy số tích niên 10.155.917 chia cho số 3600 được số dư là 29 Số dư 29 nhỏ hơn số 240 cho nên ta chia 29 cho 24, được số dư là 5 Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại 3 năm Còn dư 2, sang Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa Muốn tính niên cục của năm 2000, ta thấy số dư 29 nói trên nhỏ hơn 72 vậy có dương niên cục là 29 nguyên Nhâm tý dương (theo bảng A), hạ nguyên. Ta nói: Năm 2000 dương niên cục 29 nguyên Giáp tý dương – hạ nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa. Ví dụ 7: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2404, có số tích niên là 10.156.321 năm. Lấy số tích niên 10.156.321 chia cho số 3600, được số dư là 1. Số dư 1 nhỏ hơn 24. Lấy số đó khởi Thái ất, năm 2404 thuộc cục âm. Cục âm tính nghịch, khởi Thái ất tính 1 từ Tốn 9, tức là vào cung Tốn 9 một năm, tương ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của năm 2404, ta thấy số dư 1 nhỏ hơn 72. Vậy ta có âm niên cục 1, nguyên Giáp tý âm (theo bảng B, thượng nguyên. Ta nói: Năm 2404 âm niên cục 1, nguyên Giáp tý âm – thượng nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Càn 1 một năm, tương ứng với Lý thiên. Ví dụ 8: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2464, được số tích niên là 10.156.381 năm. Lấy số tích niên 10.156.381 năm chia cho số 3600, được số dư là 61 Lại lấy số dư 61 chia cho số 24, được số dư là 13. Lấy số đó khởi Thái ất. Năm 2464 thuộc cục âm. Cục âm tính nghịch, Thái ất khởi từ Tốn 9, trú lại 3 năm Dư 10, sang Khảm 8, trú 3 năm Dư 7, sang Khôn 7, trú 3 năm Dư 4, sang Đoài 6, trú 3 năm Dư 1, sang Thái ất vào Chấn 4 một năm, ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của 2464 ta thấy số dư 61 nhỏ hơn 72. Vậy ta có âm niên cục 61, nguyên Giáp tý âm – trung nguyên. Ta nói: Năm 2464 âm niên cục 61 nguyên Giáp tý âm – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Chấn 4 một năm, ứng với Lý thiên. GHI CHÚ: - Cục dương tính thuận từ Càn 1 đến Tốn 9 ...Cục âm tính nghịch từ Tốn 9 đến Càn 1. - Thái ất không vào trong cung 5 Số Quái ứng với dương cục và âm cục số đều bằng 10 Ví dụ: Số cục âm 1 và số cục dương 1 ứng với Càn 1 và Tốn 9, cộng lại bằng 10 Một quái ứng với x tam tài thiên – địa – nhân Ví dụ: Dương cục 1 có Càn 1 ứng với Thiên Dương cục 2 có Càn 1 ứng với Địa Dương cục 3 có Càn 1 ứng với Nhân SAO KẾ THẦN Người xưa nói: “Sao kế thần là con rồng đuốc của sao Thái ất” Phương pháp tìm cung có sao kế thần đóng. Kế thần Tý niên khởi từ Dần Trong thập nhị thần phải nghịch tuần Thời kế: hạ chí, từ thân khởi, Cục âm, 12 thần cũng tính ngược. Tích thập nhị tính, chia dần đi Số dư rơi cung nào là kế thần đóng. Cách tìm kế thần: năm Tý khởi từ cung Dần, rồi lần lượt tính ngược 12 địa chi. Tính giờ theo phương pháp tiết hạ chí, khởi từ giờ Thân. Cục âm 12 địa chi cũng tính ngược. Lấy số 12 mà chia dần đi. Số dư rơi vào cung nào là nơi kế thần đóng. Tính năm nào, số tích niên là bao nhiêu. Lấy số 12 theo phép Đại tiểu chu mà chia. Mười hai thân là từ Tý, Sửu đến Tuất, Hợi – số dư (kể cả 12) là ngôi ở của kế thần. Cách tính như sau: lấy năm Tý khởi từ cung Dần, tính ngược lại, tới đâu là biết cung kế thần đóng Bốn cách tính theo niên kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế đều tính nghịch. Duy có tính nhật kế, thời kế từ Hạ chí dùng cục âm, khởi Tý từ cung Thân tính nghịch lại. Năm Tý khởi từ Dần, đi ngược 12 năm là hết 1 vòng trời (chu thiên) Trình tự khởi từ Dần, tính nghịch 12 địa chi: Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – (Dần)… Tính theo nhật kế, thời kế từ hạ chí dùng âm cục, trình tự khởi từ Thân, tính nghịch 12 địa chi: Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – (Thân)… Ví dụ 1 Tìm kế thần của năm Canh Ngọ, niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê. Được số tích niên là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.478 chia cho số 12. Được số dư là 7. Khởi năm Giáp tý kể là 1, từ Dần tính ngược đến 7 thấy Canh ngọ ở cung Thân, tức là kế thần ở cung Thân. Cụ thể là: 1-Năm Tý tại Dần (tính nghịch) 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân (cung kế thần đóng) Muốn tìm cục năm Canh Ngọ trong ví dụ, ta lấy số tích niên 10.155.487 chia cho số 3600. Được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ trong ví dụ tương ưng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương (theo bảng A). Ta nói: Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13, triều Lê, tương ứng năm dương lịch 1570 có dương niên cục 31, nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Thân. Ví dụ 2: Tìm kế thần năm 1592 Được số tích niên là 10.155.509 năm. Lấy số 10.155.509 năm chia cho số 12, được số dư là 5. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 năm chia cho số 3600. Được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53 nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Tuất. Ví dụ 3: Tìm kế thần năm 1599, được số tích niên là 10.155.516 năm. Lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 12, được số dư là 12. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân 8-Năm Mùi tại Mùi 9-Năm Thân tại Ngọ 10-Năm Dậu tại Tị 11-Năm Tuất tại Thìn 12-Năm Hợi tại Mão (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục năm 1599, ta lấy số tích niên 10.155.516 năm chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 dương lịch có dương niên cục 60 nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng tại cung Mão. SAO VĂN XƯƠNG Còn có tên là Thiên mục. Như phép thời kế dùng cách này để dẹp quân đánh úp và nghe ngóng tình hình giặc để phòng bị. Phương pháp tính: Văn xương thiên mục khởi Thân hương Thập lục cung gian thuận suy tường Số chí càn khôn lưu song toán Âm cục khởi Dần cấn tốn phương Tích niên thập bát luỹ trừ ngoại Dự đoán trú xứ tứ Văn xương. Văn xương thiên mục khởi từ cung Thân. Trong khoảng 16 cung tích thuận đến cung Càn Khôn, lưu lại 2 số. Âm cục khởi từ cung Dần, tính đến cung Cấn, cung Tốn cũng lưu lại 2 số. Tích số của năm chia cho số 18. Số dư tính đến cung Mão là Văn xương ở cung ấy. Mười sáu cung tương ứng với 16 thần là: 1-Càn: Ân đức.................. 9-Tốn: Đại trắc 2-Hợi: Đại nghĩa...............10-Tị: Đại thần 3-Tý: Địa chu...................11-Ngọ: Thiên uy 4-Sửu: Dương đức.............12-Mùi: Thiên đạo 5-Can: Hoà đức................13-Khôn: Đại vũ 6-Dần: La hầu..................14-Thân: Vũ đức 7-Mão: Cao tùng...............15-Dậu: Thái thốc 8-Thìn: Thái dương...........16-Tuất: Âm chủ Số tích niên là bao nhiêu, đem chia cho số 18 của phép cục chu. Số còn lại không đủ 18, tính bắt đầu từ cung Thân, thuận theo 16 thần. Nếu gặp cung Càn, cung Khôn lưu lại một số, số dư tính đến cung nào thì Văn xương ở cung ấy. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.487 năm. Chia số 10.155.487 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 13. Khởi từ cung - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 (cung Văn xương đóng) Cung Tốn theo hệ 16 thập tương ứng với Đại trắc. Vậy theo phép tính nói trên, năm Canh Ngọ (1570) Văn xương thiên mục ở cung Đại trắc (Tốn). Muốn tìm niên cục năm Canh ngọ (1570), ta lấy số tích niên 10.155.487 năm chia cho số 3600, được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Dương niên cục 31. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) có dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại trắc (Tốn) Ví dụ 2: Tìm Văn xương thiên mục năm 1592 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.509 năm. Chia số 10.155.509 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 17. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 - Tị kế là 14 - Ngọ kế là 15 - Mùi kế là 16 - Khôn kế là 17 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1592 dương lịch, Văn xương thiên mục ở cung Đại vũ (Khôn). Muốn tìm niên cục năm 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 chia cho số 3600, được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại vũ (Khôn) Ví dụ 3: Tìm Văn xương thiên mục năm 1599 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.516 năm. Chia số 10.155.516 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 6. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1599 dương lịch có Văn xương thiên mục ở cung Đại nghĩa (Hợi). Muốn tìm niên cục năm 1599 dương lịch, ta lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho số 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 có dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi) SAO KHÁCH MỤC THUỶ KÍCH Sao khách mục Thuỷ kích còn có tên là Địa mục. Như phép thời kế, dùng cách này để an vị khách là kỳ binh và nghe ngóng tình hình quân giặc để chuẩn bị đối phó. Phương pháp tính là: Khách mục Thuỷ kích khởi nguyên nhân, Cấn vi hoa đức, gia kế thần Văn xương lâm xứ vi Thuỷ kích Khách mục tất ta khán Thiên luân. Chỗ khởi đầu để tìm khách mục Thuỷ kích: Cấn là Hoa đức, gia vào kế thần. Nói chung Văn xương tới là thuỷ kích. Khách mục tất xem Thiên luân. Hiểu rõ nơi Kế thần đóng, đặt Hoa đức vào đó. Xem trên niên bàn, Văn xương tới cung nào là Thuỷ kích ở đó. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch. Kế thần năm 1570 ở Thân, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Dậu gia cung Dần (La thân) ...............Tuất gia cung Mão (Cao tùng) ...............Càn gia cung Thìn (Thái dương) ...............Hợi gia cung Tốn (Đại trắc) ...............Tý gia cung Tị (Đại thần) ...............Sửu gia cung Ngọ (Thiên uy) ...............Cấn gia cung Mùi (Thiên đạo) ...............Dần gia cung Khôn (Đại vũ) ...............Mão gia cung Thân (Vũ Đức) ...............Thìn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1570 ở Tốn gia cung Tuất (âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) Thuỷ kích đóng tại Tuất, âm chủ. Dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 2: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1592 dương lịch. Kế thần năm 1592 dương lịch ở Tuất, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Càn gia cung Dần (La thân) ................Hợi gia cung Mão (Cao tùng) ................Tý gia cung Thìn (Thái dương) ................Sửu gia cung Tốn (Đại trắc) ................Cấn gia cung Tị (Đại thần) ................Dần gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Mão gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Thìn gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tốn gia cung Thân (Vũ Đức) ................Tị gia cung Dậu (Thái thốc) ................Ngọ gia cung Tuất (Âm chủ) ................Mùi gia cung Càn (Âm đức) Văn xương năm 1592 ở Khôn gia cung Hợi (Đại nghĩa) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Hợi, Đại nghĩa. Dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 3: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1599 dương lịch. Kế thần năm 1599 dương lịch ở Mão, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Thìn gia cung Dần (La thân) ................Tốn gia cung Mão (Cao tùng) ................Tị gia cung Thìn (Thái dương) ................Ngọ gia cung Tốn (Đại trắc) ................Mùi gia cung Tị (Đại thần) ................Khôn gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Thân gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Dậu gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tuất gia cung Thân (Vũ Đức) ................Càn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1599 ở Hợi gia cung Tuất (Âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Tuất, Âm chủ. Dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. TÌM CHỦ KHÁCH TỪNG NĂM Phương pháp tính: Chủ, khách nhị mục toán như hà Chỉ khán hành cung số kỷ đa Gián thần khơi nhật, tứ cung tứ, Lục cung khởi lục, thuận hành qua. Thái ất cung tiền, bất lãng việt, Đắc số tiện vi chủ toán ma. Hữu thần nhị mục lâm Thái ất, Chỉ thử cung trung chỉ toán ca. Chủ và khách hai vị tính như thế nào ? Chỉ cầu xin cung đi số là bao nhiêu ? Tính chủ từ Văn xương, tính khách từ Thuỷ kích. Thuỷ kích phối gián thần khởi 1. Cung 4 khởi từ 4, cung 6 khởi từ 6.Tính thuận, đến trước cung Thái ất ngừng lại. Số tìm được là chủ. Nếu hai thần Chủ và Khách lâm vào Thái ất, lấy cung đó và ngừng tính. Cần biết rõ Văn xương, Thuỷ kích, dấu cung nào (theo bát quái). Bắt đầu tính cùng với ngôi gián thần (Dần, Thân, Tị, Hợi – Thìn , Tuất, Sửu, Mùi) Nếu như cung quái vị là đầu tiên tất xét số cung thuộc quái vị để khởi tính. Nếu gián thần là ngôi đầu tiên, lấy số 1 mà tính, rồi tính tiếp theo thứ tự xác định. Không tính số ngôi gián thần, đều đến trước cung Thái ất là ngưng lại. Xem số dư là bao nhiêu, lấy chủ khách mà tính. Nếu Nhị mục đóng ở cung có Thái ất, tất cả y số của cung ấy mà ghi số cung của khách đóng. Ví dụ 1: Năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31, tìm cung chủ đóng. Phép tính diễn ra như sau: Tính chủ từ Văn xương. Ta biết rằng năm 1570 Văn xương đóng tại cung Tốn 9. Tính khởi từ số: .................9 Tốn. Tính thuận theo cấu trúc bát quái .................2 Ly .................7 Khôn .................6 Đoài .................1 Càn .................8 Khảm (đến Cấn là cung Thái ất đóng, phải ngừng lại) Cộng được: 33 Số không quá 5 là Vô địa. Lại tính khách. Lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1. Thuỷ kích đóng: Cung Tuất (gián thần)..số 1 (theo bát quái) Cung Càn (gián thần)...số 1 Cung Khảm (gián thần) số 8 (Thái ất đóng cung Cấn 3) .....................Cộng là :..10 Được số 10, không vào cửa Tù mà là Hoà. Định nghĩa một số khái niệm: Phát: Nếu đại, tiểu tướng (Tham tướng) không ở cùng 1 cửa. Văn xương không bị Tù, Bách. Thuỷ kích không bị yểm kích là Tướng phát. Phát có nghĩa là lợi mà hưng phát thành công. Quan: Nếu như đại, tiểu tướng ở cùng một cửa. Văn xương gặp Tù, Bách. Thuỷ kích gặp yểm kích là tướng không phát động được. Bởi vì số tính của Chủ Khách cùng 1 cung với Thái ất. Văn xương hoặc đại, tiểu tướng lại có số cùng bằng nhau là Quan. Quan có nghĩa là hai bên giao chiến tranh đoạt nhau, thế một sống một chết, nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chủ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng. Nếu tính được thiểu (ít) và bất hoà là bại. Tù: Thái ất cùng Văn xương, Đại, tiểu tướng xâm lấn nhau, dưới phạm trên, bị táng vong, thua bại. Bách: Hai bên Tủ Hữu Thái ất gặp Thiên mục, Địa mục và Đại, Tiểu tướng bức sát bản cung; biểu lộ trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. ........Trước là ngoài, sau là trong. Giờ (thần) là cấp cung là hoan; ở sau Thái ất. ........Thái tuế ở trước cung Thái ất là phản. Yểm: Là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Âm thịnh dương suy, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Thấy như vậy tất dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà hay bất hoà. Tính được hoà là tốt, bất hoà là xấu. ........Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; mà tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ, lóc dương; thế là trùng dương, chủ về hạn hán, hoả tai. ........Nếu Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm; mà tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn; là trùng âm, chủ về mưa lụt, nước to. Đều là theo số tính thấy bất hoà. ........Nếu Thái ất ở cung dương, tính được số chẵn; ở cung âm tính được số lẻ, là tính được hoà. ........Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; mà lấy Hợi, Sửu, Dần, Thân, Tị, Mùi, Thân, Tuất (ngôi gián thần) là âm. ........Nếu ở cung dương tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà; trái lại là bất hoà. ........Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. Số 4, 8 gặp cung Sửu, Tị là tạp dương. ........Số 3, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. Các số 33, 39 tính được là trùng dương; các số 22, 26 tính được là trùng âm. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 24, 28 là tạp trùng âm tai hoạ rất lớn. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 13, 19, 31, 37 là tạp trùng dương, tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. .......Thái ất, Thiên mục ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm. Bên trong có âm mưu; đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng, trái với thế là bại. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá, chủ về điều hung, về vua bạo ngược. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm; thái quá cũng là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là định khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí. .......Tính “niên kế” là nhà vua gặp hung; cung 9 là thuần âm. Cung 1 là tuyệt dương, bề tôi gặp điều dữ xấu, bị giết. Kích: là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất. Phía trước là tả, phía sau là hữu, bên trong đâm chém nhau, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Nếu gặp giờ “kích” tai hoạ rất lớn. Nếu gặp cung “Kích” tai hoạ chậm hơn. Bên trong gặp rắc rối từ các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ ngoại quốc. Ví dụ 2: Tính Chủ Khách năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Ly 2 – Lý địa Văn xương đóng tại cung Đại vũ (Khôn 7) Thuỷ kích đóng tại cung Hợi – Đại nghĩa. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Khôn 7 .........................................................................Đoài 6 ..........................................................................Càn 1 ........................................................................Khảm 8 ..........................................................................Cấn 3 .........................................................................Chấn 4 ............Đến Ly 2 là cung Thái ất đóng phải ngừng lại Tốn 9 ...............................................................Cộng được: 38 Tìm cung Khách đóng, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung.........Hợi số 1 ..................................Khảm số 8 .....................................Cấn số 3 ...................................Chấn số 4 Thái ất đóng tại cung Ly 2 Tốn số 9.... ..............................Cộng được: 25 Thái ất đóng cung Ly 2 là âm. Số tính được 25 là lẻ. Ví dụ 3: Tính Chủ Khách năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Chấn 4 Văn xương đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi) Thuỷ kích đóng tại cung Tuất, âm chủ. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Hợi 1 .....................................................................Khảm 8 ........................................................................Cấn 3 ...............................................Thái ất đóng tại Chấn 4 ............................................................Cộng được: 12 Tiếp đến tính Khách, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung Tuất số 1 ..............................Càn số 1 ...........................Khảm số 8 ..............................Cấn số 3 .....Thái ất đóng tại Chấn số 4 ......................Cộng được: 13 Thái ất đóng cung Chấn 4 là dương. Số tính được 13 là lẻ. TÌM CHỦ, KHÁCH ĐẠI TƯỚNG VÀ THAM TƯỚNG Phương pháp tính: Chủ, Khách, Đại tướng suy pháp đồng, Khứ thập linh giả tức hành cung. Thập toán khứ cửu, chỉ dụng nhất, Tham tướng y Đại tam nhân thống. Đắc số vi cung, thủ lĩnh số, Phát, bách, tù, quan, khán cát hung. Chủ, Khách, Đại tướng cùng 1 phép tính. Trừ 10, số thừa ra là hành cung. Mười trừ 9 còn 1; Tham tướng dựa vào phương pháp tìm Đại tướng. Số Đại tướng nhân 3 lấy số lẻ. Tính phát, bách, tù, quan để xem tốt hay xấu. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31. Chủ tính được là 33; trừ đi 30, dùng 3, là Đại tướng ở cung 3; mà Thái ất cùng ở cung 3, là TÙ. Tù là có sự tang ma, vong bại. Chủ Tham tướng lấy số 3 của Đại tướng mà nhân với 3 (3 x 3 = 9), tức là chủ Tham tướng ở cung 9, mà Văn xương cũng ở cung 9; cũng là TÙ, là xấu. Tiếp đến tính Khách là 10. Bỏ 9 chỉ dùng 1 tức là Khách Đại tướng ở cung 1. Không gặp tù, bách, yểm, kích là tướng phát, là cát. Lấy 3 x 1 vẫn là 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cũng cùng cung với Thái ất tức là TÙ, là tiểu tướng bất lợi. Cục này, Thái ất tuy trợ Chủ, mà Chủ lại bất hoà. Hai tướng gặp tù nên an cư, không thể hành động trước. Khách hoà, tướng phát, lợi về khách. Nên an cư, lợi về hành động sau. Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là “Thiên nội” là trợ Chủ, không thể đem quân cống phạt, muốn đánh địch, không nên khởi động trước, nên hậu ứng. Thái ất ở các cung 2, 9, 6, 7 là “Thiên ngoại”, là trợ Khách, lợi việc lấy binh đánh dẹp. Nếu muốn đánh địch phải đánh trước, không nên khởi động sau. Ví dụ 2: Xem năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 hai năm Văn xương đóng cung Đại vũ (Khôn 7) Chủ tính được là 38 Khách tính được là 25 Chủ tính được 38; trừ đi 30, dùng 8. Tức là Đại tướng ở cung 8, mà Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Chủ tham tướng lấy số 8 của Đại tướng mà nhân với 3 (8 x 3 = 24). Trừ đi 20, dùng số 4.Tức là Chủ tham tướng ở cung 4, mà Văn xương đóng ở cung 7, Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Khách tính được số 25. Bỏ đi 20, dùng số 5, tức là Khách đại tướng ở cung 5 mà Thái ất ở cung 2, Văn xương đóng cung 7 là không bị TÙ. Lấy 3 x 5 = 15. Bỏ đi 10, dùng số 5, tức là Khách tham tướng đóng cung 5, mà Thái ất đóng cung 3, Văn xương đóng cung 7, là không bị tù. Ví dụ 3: Xem năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Thái ất đóng cung Chấn 4 Văn xương đóng cung Hợi Chủ tính được là 12 Khách tính được là 13 Chủ tính được 12, bỏ đi 10, dùng số 2; tức là Chủ đại tướng đóng cung Ly 2 mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. Chủ tham tướng lấy số 2 của Chủ đại tướng nhân với 3 (2 x 3 = 6). Tức là Chủ tham tướng đóng cung Đoài 6, mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Khách tính được số 13. Bỏ đi 10, dùng số 3; tức là Khách đại tướng đóng cung Cấn 3; mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Lấy 3 x 3 = 9. Tức là Khách tham tướng đóng cung Tốn 9. Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. PHÉP TÌM ĐỊNH KẾ MỤC Phương pháp tính: Vi Khách tối nan minh định kế. Tiệm dĩ Tuế hợp gia tuế chi. Văn xương lâm sứ vi khởi toán. Thái ất cung tiền chỉ toán thì. Đại, Tham diệc như Chủ, Khách pháp, Tù, quan, cách, đôi tu bất nghi. Là Khách rất khó rõ cho nên định kế mục. Bèn lấy tuế hợp gia vào tuế chi. Khởi tính từ cung Văn xương đóng. Ngừng lại trước cung Thái ất. Đại tướng, Tham tướng cũng giống phép tính chủ. Khách gặp tù, quan, cách, đôi là không hợp. Xem trên thiên bàn thấy Văn xương đến cung nào, tất cung Thân ở dưới là Kê mục. Lấy cung bản vị khởi tính như cung thân x là đầu tiên, theo cung số để khởi tính gián thần x là đầu tiên. X khởi số 1 mà tính, sau chi dùng cung thân x. Tính số đến trước cung Thái ất thì ngừng lại. Xem số “kích” được bao nhiêu, trừ 10 dùng số lẻ. Số đó là nơi định kế mục Đại tướng đóng. Lấy số đó nhân với 3 là nơi định kế Tham tướng đóng. Xem tù, cách, bách, quan cũng như phép trước. Tác dụng của định kế mục: Tình hình của Khách (đối phương) khó tiên đoán, cho nên lập phép định kế mục để trùng thẩm. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị, năm thứ 14 triều Lê (tương ứng với năm 1571 dương lịch) để định kế mục. Năm ấy Thái ất đi vào cục 32 dương. Thái ất ở cung 3 Cấn, Thiên mục ở Tị, Đại thần. Lấy Tuế hợp, viết chữ Ngọ trên tuế chi Mùi Tuế hợp: Tí hợp Sửu Dần hợp Hợi Mão hợp Tuất Thìn hợp Dậu Tị hợp Thân Ngọ hợp Mùi Nhìn Thiên mục Văn xương ở Tị, lâm vào trên cung 2 Ly – Ngọ (thiên uy), vậy Ngọ là cung để định kế mục. Ngọ là đầu tiên ở cung Ly số 2 (khởi tính thuận) Khôn – 7 Đoài – 6 Càn – 1 Khảm – 8 Thái ất đóng cung Cấn – 3 Cộng được = 24 Không có quân, tù, cách, bách là hoà Bỏ đi 20, còn 4. Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 4. Lấy 4 x 3 = 12. Bỏ đi 10, còn 2; tức là Khách định kế Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: Định kế mục năm 1570 dương lịch, tướng ứng với năm Can chi âm lịch là Canh ngọ. Dương niên cục 31. Thái ất đóng cung 3 Cấn. Văn xương tại 9 Tốn, Đại trắc. Lấy tuế hợp, viết chữ Mùi trên tuế chi Ngọ: Mùi – Ngọ (Ly 2) Văn xương ở Tốn 9 trên gián thần Tị Tị là đầu tiên số 1 Ly la đầu tiên số 2 Khôn là đầu tiên số 7 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Thái ất tại cung 3 Cấn Cộng được : 25 Bỏ đi 20, còn 5.Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 5. Lấy 5 x 3 = 15 Bỏ đi 10, còn 5; tức là Khách định kế Tham tướng cũng ở cung 5. Ví dụ 3: Định kế mục năm 1592 dương lịch, tương ứng với năm can chi âm lịch là Nhâm Thìn. Tuế hợp của tuế chi Thìn là Dậu. Viết chữ Dậu trên tuế chi Thìn: Dậu – Thìn dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 Văn xương đóng cung Khôn 7, Đại vũ. Văn xương ở Khôn 7 trên gián thần Thân Thân là đầu tiên số 1 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Cấn là đầu tiên số 3 Chấn là đầu tiên số 4 Tốn là đầu tiên số 9 Thái ất đóng Ly 2 Cộng được : 32 Bỏ đi 30, còn 2. Vậy Khách định kế Đại tướng ở cung 2. Lấy 2 x 3 = 6 Vậy khách định kế Tham tướng ở cung 6. PHÉP TÌM BÁT MÔN TRONG TUẾ KẾ Phương pháp tính: Tuế kế bát môn trí tích niên Nhị Thiên tứ bách luỹ trừ tiên. Thiên hạ phụ trừ nhị bách tử Dư toán khai môn vị thủ truyền. Tam thập ước chi cầu sứ trực Mệnh gia Thái ất tả chu truyền Khai, Hưu, Sinh môn vị tam cát Đỗ, Tử, Thương hồ đại hưng ngôn Kinh vãn tiểu hưng, cảnh tiểu cát Vượng, Tướng bội hề, khắc giảm yêu. Thái ất, Thiên mục cát môn lập Tam bất cụ hề, nghi thủ kiên Tam môn cụ hề, ngũ tướng phát Xuất sư chiến thắng, tất công tuyền. Phương pháp tính là: Tìm năm xem Bát môn, lấy số tích niên chia cho số 2400. Dưới 1000 chia tiếp cho 240. Số dư tính bắt đầu từ khai môn. Lấy số 36 mà ước đi để tìm Trực sứ. Gia Thái ất lên đây mà tính thuận đi. Ba cửa cát là Khai, Hưu, Sinh. Ba cửa Đỗ, Tử, Thương là đại hung. Cửa Kinh xấu vừa, của Cảnh lành vừa. Gặp Vượng, Tướng thì tăng bội. Gặp khắc, giảm bớt. Thái ất, Thiên mục đứng ở cát môn. Ba cửa không đủ, nếu cố thủ bền bỉ. Ba cửa đủ, năm tướng phát, ra quân chiến đấu tất thắng hoàn toàn. Số tích niên là bao nhiêu, lấy phép Đại Chu bát môn là 2400 trừ dần đi. Dưới số 1000, trừ tiếp cho 240. Không đủ 240 là số dư của môn chu, lấy từ môn ước dần đi với số 30, đặt khi môn tính thuận, tức là được trực sứ của Bát môn. Lấy trực sứ gia Thái ất, tính quay về trái, tức là biết cửa nào thuộc khu phận nào, tai hoạ hay cát lợi. Bát môn là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Nếu tính theo Lạc thư, bát môn thứ tự như sau: 1-Hưu 5-Khai 2-Tử 6-Kinh 3-Thương 7-Sinh 4-Đỗ 8-Cảnh Có cửa cát, có cửa hung. Phương nào gặp Vượng, Tướng có khí, phúc sẽ tăng gấp bội. Phương nào gặp khắc chế, không có khí, sự lành dữ giảm đi một nửa. Mỗi cửa 30 năm 1 lần đổi thế là 30 x 8 = 240 năm hết 1 Chu (vòng) của 8 cửa. Lấy cửa Khai là đầu tiên, tính vòng theo trái. Hết vòng lại bắt đầu. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Khai và Sinh là 2 cửa không đủ: vì Hữu và Đỗ đối nhau. Sinh và Tử đối nhau. Đứng ở đất lành hướng về cửa xấu. Nếu không đủ đã có cửa cảnh ở giữa 2 cửa Đỗ và Tử. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Hưu, là 3 cửa không đủ: vì cửa Hưu và cửa Cảnh đối nhau, là bên trái bên phải bị cách ức ở cửa Đỗ và cửa Tử. Bất lợi cho việc dấy quân Nếu ba cửa đủ, năm tướng phát, tám cửa khai thông, đường sá thanh thản, chiến đấu thắng lợi cả về công và thủ. Năm tướng là: Thái ất là gián tướng Văn xương là chủ thương tướng Thuỷ kích là khách thương tướng Hai Đại tướng của Chủ và Khách. Nếu Thuỷ kích không bị yểm, kích; Văn xương không bị tù, bách, Đại tiểu tướng không tương quan, và số tính được là trường hoà, là 5 tướng phát. Cửa không đủ, tướng không phát, cửa lấy không thông là điềm quân bị thua, tướng bị chết. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị năm thứ 14, tìm Trực sứ, tương ứng với năm 1571 dương lịch. Số tích niên được 10.155.488 năm Lấy phép Đại chu bát môn mà chia. Số dư là 128. Dưới số 240, nên lấy số 30 của bát môn trừ dần đi. Bắt đầu từ Khai môn, trừ đi 30. Hưu môn trừ đi 30. Sinh môn trừ đi 30. Thương môn trừ đi 30 Trừ qua 4 cửa là 120. Còn dư là 8. Vậy Trực sứ ở cửa Đỗ. Lấy Đỗ gia Thái ất ở cung 3 Cấn, tức là cửa Cảnh ở cung 4 Chấn, cửa Tử ở cung 9 Tốn, cửa Kinh ở cung 2 Ly, cửa Khai ở cung 7 Khôn, cửa Hưu ở cung 6 Đoài, cửa Sinh ở cung 1 Càn, cửa Thương ở cung 8 Khảm, mà thấy được lành hay dữ. Năm ấy, Thái ất ở dương niên cục 32, đóng cung 3 Cấn; hợp với cửa Đỗ. Thiên mục ở Tị, hợp với cửa Tử; Chủ tính được là 2, 10, 5 cửa Đỗ. Thuỷ kích ở Tý kích Thái ất. Khách tính được là 8, đoản. Khách Đại tướng bị nội bách. Khách Tham tướng là ngoại bách. Kế thần ở Mùi Cục này, Thái ất Thiên mục không đứng ở ba cửa Khai, Hưu, Sinh là tam cát môn (là ba cửa đều đủ, có thể xuất quân). Thái ất gặp Thuỷ kích. Khách Đại tướng, Tham tướng gặp kích Bách. Chủ nhân ở cửa Đỗ là vô môn. Như số khách đoản. Chủ - Khách đều bất lợi, không thể đánh một cách miễn cưỡng. Ví dụ 2: Xem năm 1924, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Tý. Số tích niên là 10.155.841 năm Lấy số tích niên 10.155.841 năm chia cho số 2400. Số dư được 1.441. Chia tiếp số 1441 cho 240. Số dư được 1. Vậy Trực sứ ở Khai môn. Năm 1924, Thái ất ở dương niên cục 1, đóng tại cung 1 Càn. Lấy Khai gia Thái ất ở cung 1 Càn. Vậy Khai môn cũng tại cung 1 càn. Trực sứ cũng ở Khai môn. Văn xương đóng tại cung Thân, hợp với cửa tử Thuỷ kích đóng tại cung 7 Khôn hợp với cửa tử Ví dụ 3: Xem năm 1954, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Ngọ. Số tích niên là 10.155.871 năm Lấy số 10.155.871 năm chia cho số 2400. Số dư được 1471. Chia tiếp số 1471 cho số 240. Số dư được 31. Bắt đầu từ khai môn, trừ đi 30, còn dư 1. Vậy trực sứ ở Hưu môn. Năm 1954, Thái ất ở dương niên cục 55, đóng tại cung 3 Cấn Lấy Hữu môn gia vào Thái ất tại cung Cấn 3 Văn xương đóng tại cung Mão hợp với cửa Hưu Thuỷ kích đóng tại cung Sửu hợp với cửa Khai TÌM THÁI ẤT TRONG NGUYỆT KẾ Phương pháp tính: Nguyệt kế chi pháp tuế kế đồng Thái ất tam nguyệt di nhất cung Tiên bố tích niên giảm nhất toán Nguyệt thực thập nhị thừa chi công Tam bách lục thập trừ bất tận Dư toán nhập cục, lý tư thông Thái ất cứ 3 tháng là rời 1 cung. Trước tiên, đặt số tích niên của năm, rồi giảm đi 1. Số tháng dư nhân với 12; rồi chia cho 360. Số dư là nơi nguyệt kế Thái ất đóng. [(Tích niên – 1) x 12] / 360 = (Số dư / 60) : 72 = Cục Thái ất đóng Ví dụ 1: Tìm tháng Giêng năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Nguyên kế có gốc tính là tháng Giáp Tý, năm Giáp tý, triều đại Nguyên gia nhà Tống – Trung Quốc. Ngày đầu tháng Giáp tý năm đó tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 dương lịch Số tích niên đến năm Canh Ngọ (1570) là 1.147 năm Giảm đi 1. Lấy số 12 tháng nhân lên, được số tháng Dần là 13.752 tháng, chia với số 3600. Số dư dưới 3600 chia tiếp cho số 360, được số dư là 72. Số 72 lấy phép chu kỳ 60 chia 1 lần 60 là Thượng nguyên Giáp tý. Kỷ thứ nhất số dư là 12. Từ Giáp tý đến Ất Hợi là trúng số 12 tháng. Vậy tháng 10 của năm Kỷ Tị là tháng Ất Hợi vào kỷ thứ 2, trung nguyên Giáp Tý. Lại từ tháng 11 đến tháng giêng, lấy 3 mà tính được số 15. Tức là biết tháng giêng năm Canh Ngọ là tháng Mậu Dần. Số dư 72 nói trên, thêm 3 là 75, chia cho 72, dư 3 là tháng Mậu Dần, chính vào nguyên tý dương cục 3. Thái ất ở cung 1 Càn. Thiên mục ở Tuất. Chủ toán 1 chu Đại tướng ở cung 1. Chủ Tham tướng ở cung 3. Kế thần ở Tý, Thuỷ kích ở Hợi. Khách toán số 40. Khách Đại tướng ở cung 4. Khách Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: X niên đầu tiên hiệu Nguyên gia nhà Tống, tháng 11 năm Giáp x đến năm Nhâm tý, tương ứng với năm1732 dương lịch. Được số tích niên là 1309 năm Số 1309 giảm đi 1 rồi tính. Lấy số 12 tháng mà nhân, được số tháng thực là 15.696 tháng. Chia 15.696 tháng cho số 3600, được số dư là 216. Lấy 216 chia tiếp cho số 60, được số dư là 36. Từ Giáp kể là 1, tính đến Kỷ Hợi vừa đúng 36. Đó là tháng 10 Kỷ Hợi năm Tân Hợi (trước năm Nhâm Tý đang tính); tức là vào kỷ nguyên Thượng nguyên Giáp tý Lại từ tháng 11 Canh tý năm Tân Hợi đến tháng giêng năm Nhâm tý thêm 3 số để tính, cộng với số dư 36 ở trên được 39; tức là tháng Nhâm Dần năm Nhâm tý. Số dư 216 nói trên, thêm 3 là 219. Lấy 219 chia cho 72, được số dư là 3; tức là tháng Nhâm Dần năm Canh tý đi vào nguyên Canh tý dương cục thứ 3. Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 Ví dụ 3: Xem năm Giáp tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 triều Lê, tương ứng với năm 1744 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế đến năm 1744 được số tích niên là 1321 năm. Số 1321 năm giảm đi 1 để tính. Lấy số 12 tháng nhân lên được 15840 tháng. Số 15.840 chia cho số 3600, được số dư là 360 Chia tiếp 360 cho số 60. Số dư là 60. Từ Giáp tý kể là 1 tính đến 60 gặp Quý Hợi. Đó là tháng 10 Quý Hợi năm Quý Hợi. Lại lấy số 3 gia vào mà tính, tất từ tháng giêng năm Giáp tý là tháng Bính Dần. Số dư 360 nói trên thêm 3 là 363 chia cho số 72, được số dư là 3. Vậy tháng Bính Dần năm Giáp tý (1744) đi vào cục 3 nguyên Giáp tý dương (vị trí các sao như năm 1732) Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 1 Chủ tham tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 PHÉP TÌM NHẬT KẾ Phương pháp tính: Nhật kế chi pháp, nguyệt kế cầu Nguyệt thực số đắc tiện vi đầu Nhuận pháp tam thập nhị phân ngoại Ngũ thập thất sao quy trừ chu Trừ đắc nhuận số gia nguyệt thực, Nhật bình hội pháp tử tế sưu. Sưu bố nhị thập cửu nhật toán, Ngũ thập tam phân sao lục hưu. Nhật bình nguyệt thực tương thừa liễu. Nhật kế tích số thử truyền lưu Muốn tìm nhật kế, dựa vào nguyệt kế mà tính. Đầu tiên lấy số tháng thực. Dùng phép tính tháng nhuận là 32 phân 57 dây mà quy trừ. Tính được số nhuận thì thêm vào số tháng thực. Tính để ứng dụng nhất bình hội pháp. Tìm số 29 ngày 53 phân 6 dây là ngừng. Lấy số nhật bình nhân với số nguyệt thực là thấy tích số của nhật kế (số tích nhật). Tìm số tháng thực, lấy phép nhuận là 32 phân 57 dây quy trừ đi. Được bao nhiêu tháng nhuận, lẻ bao nhiêu. Số lẻ đó không góp vào số tháng thực cùng tính Còn số lẻ, dùng nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phân 6 dây mà nhân. Tích số (cùng số lẻ), lấy phép Đại tiểu chu 3600 mà chia. Nếu số dư không bằng số 360, chia tiếp cho số 60. Số dư là nhật kế của Giáp tý vào kỷ nguyên vào cục giống như phép tìm niên kế. Nếu như muốn tìm Thất nguyên cầm tinh đóng ngày đó, tìm số tích nhật, lấy số 28 sao mà chia, số dư khởi sao cơ đến số cuối cùng đóng ở sao nào, tức là ngày đó gặp sao ấy. Ví dụ 1: Theo phép tính nhật kế, tìm ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế, đến tháng ấy, năm ấy, được số tích nguyệt là 13.755 tháng thực. Lấy phép nhuận nguyệt là 32 phân 57 dây làm phép quy trừ, được số tháng nhuận là 222 tháng, dư 1 phân không 96, không bằng phép nhuận. Bỏ không dùng mà tính gộp vào số tháng thực, cộng được là 14.177 tháng. Lấy nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phần 06 dây nhân lên được 418.625 ngày 78 phân 56 dây. Lấy phép Đại tiểu chu mà chia, được số dư là 305. Lấy phép 60 Giáp tý mà chia tiếp số dư 305; 5 lần 60 bằng 300. Số dư 305 – 300 = 5. Tức là vào kỷ Giáp tý, còn dư 5. Vậy, ngày 30 tháng 12 năm Kỷ tị (trước năm Canh ngọ) đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ 6, là ngày Mậu Thìn. Lại gia số 6 để tính, số dư 5 nói trên + 6 = 11. Tức là ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ là ngày Giáp tuất. Số dư 305 nói trên, gia thêm 6 thành 311. Lấy số 311 chia cho số 72, được số dư 23. Vậy, năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương, trung nguyên, dương niên cục 23, ngày Giáp Tuất. Thái ất đóng cung 9 Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Chủ Tham tướng đóng cung 8 Kế thần đóng cung Thìn Thuỷ kích đóng cung Thân Thiên mục đóng cung 1 Càn Khách toán là 23 Khách đại tướng đóng cung 3 Khách Tham tướng đóng cung 9 Ví dụ 2: Theo phép nhật kế, tìm ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch, năm Can chi Nhâm Thân. Ta biết rằng gốc tích nhật kế, theo quy ước là ngày 19 tháng 2 năm 423. Ngày 19/02/423 chắc còn trong tháng Giáp Dần, năm Quí Hợi. Phép tính diễn ra như sau: 1992 – 423 = 1596 năm dương lịch Hiệu số từ ngày 14 (đang xét) đến ngày 19 (gốc tính nhật kế): 19 ngày – 14 ngày = 5 ngày Số ngày “x” trong dương lịch là 10 ngày. Theo bài 3 “số nhật cục”, số ngày tính đến 14 tháng 12 năm 1992, có 573.353 ngày. Lấy số 573.353 ngày chia cho số 360, được số dư là 1. Số dư 1 nhỏ hơn 60. Vậy ngày 14 tháng 12 năm 1992 đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ nhất, tính theo Can chi là ngày Giáp tý năm Nhâm Thân Tính tiếp theo phép tính đã nói trong bài 3 “Số nhật cục”, ta có: Ngày 14/12/1992 thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, dương nhật cục 17, ngày Giáp tý. Thái ất đóng cung 7 Khôn Kế thần đóng cung Tuất Văn xương đóng cung 7 Khôn Thuỷ kích đóng cung Hợi Chủ toán là 7 Chủ đại tướng đóng cung 7 Khôn Chủ tham tướng đóng cung 1 Càn Khách toán là 27 Khách Đại tướng đóng cung 7 Khôn Khách Tham tướng đóng cung 1 Càn. Lại lấy số tích nhật 537.353 ngày chia cho 28 sao, được số dư là 25. Khởi sao cơ là 1. Tính đến 25 ứng với sao Đế. Vậy ngày Giáp tý năm Nhâm Thân gặp sao Đế Thổ lạc. PHÉP TÍNH THỜI KẾ Phương pháp tính: Thời kế định ư nhị Chí trung Nhược phùng Giáp Tý tiện vị tông Nhất nhất tu hạ Thập nhị toán Dương nhật dụng thời số kỷ chung Giáp Tý lục thập dư tích toán Nhị thập tứ số trừ hành cung Nhất pháp ngũ nhật vi nhất kỷ Ngũ lục tam tuần lục kỷ chung Đông chí tiết hậu dụng dương độn Hạ chí âm cục độn bất đồng Hữu thổ chi quân minh tuế kế Nguyệt kế tu ư khanh dữ cống Nhật kế chung quan giai cộng dụng Vận trù tướng soái thời kế thông. Thời kế định ở trong 2 chí (Đông chí và Hạ chí). Nếu gặp Giáp Tý là Đông chí. Dương ngày dùng giờ bao nhiêu là hết. Số dư của tích số sau khi chia cho Giáp Tý 60 là bao nhiêu, lại lấy số 24 chia hành cung. Một phép khác là: Lấy 5 ngày là 1 kỷ 5 x 6 = 3 tuần. 6 kỷ là kết thúc. Sau tiết Đông chí, dùng dương độn. Sau tiết Hạ chí dùng âm độn Bậc vua có đất nước, xem tuế kế. Nguyệt kế xem cho bậc công khanh. Nhật kế dùng cho các quan và dân chúng. Tướng soái vận trù việc quân xem thời kế. Trước tiên, xác định là sau tiết Đông chí, dùng cục dương. Lấy ngày Giáp Tý để khởi đầu tính đến ngày cần xem tích số là bao nhiêu. Giảm đi 1. Lấy phép 12 giờ mà chia. Dư không đầy số 60 là vào kỷ. Lại lấy phép 72 ước dần đi là vào cục. Sau Hạ chí dùng cục âm. Thái ất khởi từ cung 9 Ví dụ 1: Xem giờ Đinh Sửu, ngày Canh Thìn mười sáu tháng 11 năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê. Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Canh Thìn cộng là 17 số. -Giáp Tý 1 -Kỷ Tị 6 -Ất Hợi 12 -Ất Sửu 2 -Canh Ngọ 7 -Bính Tý 13 -Bính Dần 3 -Tân Mùi 8 -Đinh Sửu 14 -Đinh Mão 4 -Nhâm Thân 9 -Mậu Dần 15 -Mậu Thìn 5 -Quý Dậu 10 -Kỷ Mão 16 -Giáp Tuất 11 -Canh Thìn 17 Số 17 giảm đi 1 rồi nhân với 12 giờ, được số 192. Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ gia 2 số cộng là 194 Lấy 194 chia cho số 60, được 3 lần. Đây là ba kỷ thượng – trung – hạ nguyên Giáp Tý. Số dư là 14. Tức là tính đến giờ Đinh Sửu ngày, tháng nói trên, gặp kỷ thứ tư, thượng nguyên Giáp Tý. Lại lấy số 194 nói trên chia cho số 72, được 2 lần 60, số dư 50; tức là qua nguyên Giáp Tý, Bính Tý, vào nguyên Mậu Tý; sau Đông chí là dương thời cục 50 Thái ất đóng cung 1 Càn Kế thần đóng cung Sửu Văn xương đóng cung Tị Thuỷ kích đóng cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng cung 5 Khách Tham tướng đóng cung 5 Ví dụ 2: Xem giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (tương ứng với ngày 24/1/1993 dương lịch) Dương lịch: 1993 niên 1 nguyệt 23 nhật 1 thời ; Âm lịch: 1993 niên 1 nguyệt 1 nhật 1 thời Can chi: Quý Dậu - Giáp Dần - Giáp Thìn - Ất Sửu ; Tuần không: [Tuất Hợi - Tý Sửu - Dần Mão - Tuất Hợi] Tích Niên: 10.155.910 - 310 - 22 ; Tích Nguyệt: 121.870.911 - 111 - 39 ; Tích Nhật: 3.709.369.601 - 161 - 17 ; Tích Thời: 44.512.435.202 - 122 Nhập Kỷ Nguyên Cục số: Nguyên thứ 2-Bính Tý - Kỷ thứ 2 - Dương độn 50 cục Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Giáp Thìn, cộng là 41 số -Giáp Tý 1 – Giáp Tuất 11 – Giáp Thân 21 – Giáp Ngọ 31 – Giáp Thìn 41 -Ất Sửu 2 …… Số 41 giảm đi 1, rồi nhân với 12 giờ (40 x 12 = 480 giờ) Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ; 480 gia hai được số 482 Lấy số 482 : 60 = 8, dư 2. Tám lần tương ứng với trung nguyên Giáp Tý (lần thứ 3) Số dư 2, tức là tính đến giờ Ất Sửu, ngày tháng nói trên gặp Hạ nguyên Giáp Tý (lần thứ 3). Cụ thể là: Lần thứ nhất 1-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 2-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 3-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ hai 4-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 5-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 6-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ ba 7-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 8-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 9-Hạ nguyên Giáp Tý III: 2…… Cộng được : 482 giờ Lại lấy số 482 chia cho số 72, được 6 lần, có số dư 50. Tức là qua các nguyên tý: Lần thứ nhất Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2 Nguyên Mậu Tý số 3 Nguyên Canh Tý số 4 Nguyên Nhâm Tý số 5 Lần thứ hai Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2…… Ta nói: giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (24/1/1993) vào nguyên Bính Tý; sau Đông chí là dương khởi cục 50 Thái ất đóng tại cung 1 Càn Kế thần đóng tại cung Sửu Văn xương đóng tại cung Tị Thuỷ kích đóng tại cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng tại cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng tại cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng tại cung 5 Khách Tham tướng đóng tại cung 5. CHÍN SAO THUỘC THÁI ẤT Chín sao thuộc Thái ất là các sao trong vùng sao Bắc đẩu. 16 năm 1 lần đổi ngôi đi trong khoảng can và chi. 90 năm là 1 tiểu chu, 900 năm là 1 đại chu. 1 là Chính tinh, còn gọi là Khu; tên là Thiên anh. 2 là Pháp tinh, còn gọi là Toàn; tên là Thiên Nhậm 3 là Hội tinh, còn gọi là Cơ; tên là Thiên Trụ 4 là Phạt tinh, còn gọi là Quyền; tên là Thiên Tâm 5 là Sát tinh, còn gọi là Hoành; tên là Thiên Cầm 6 là Nguy tinh, còn gọi là Khai dương; tên là Thiên Phụ 7 là Bộ tinh, còn gọi là Dao Quang; tên là Thiên Xung 8 là Huyền Qua, còn gọi là Thiên Nhuế. 9 là Chiêu Dao, còn gọi là Thiên Bồng. Chín sao trên nếu gặp Thái ất ở những năm yểm, bách, khai, tù, kích, cách, đề, hiệp tất sinh tai hoạ Phương pháp tính: Đặt từ thượng cổ Giáp Tý thượng nguyên đến năm cần tìm. Số tích niên là bao nhiêu, dùng phép cửu tinh đại chu là số 900 mà chia. Số dư dưới 900, lấy phép tiểu chu là số 90 chia tiếp. Nếu không hết thì lấy vòng sao Số dư lấy số sau đem 10 mà ước trừ đi, số tìm được là số cung của sao đóng. Cách tìm số niên: Tính từ 1 là Thiên Bồng, đi thuận theo 9 sao. Ngoài số 9 là trực phù 9 sao và số năm. Thứ tự và vị trí 9 sao khi chưa động: 1-Thiên Bồng là Lục Mậu tinh (6 năm có can Mậu đứng đầu), đóng cung 1 Càn. Chủ về biến động, không yên việc thay đổi 2-Thiên Nhuế là Lục Kỷ tinh (6 năm có can Kỷ đứng đầu), đóng cung 2 Ly. Chủ về chiến tranh, quân sự, trộm cướp, hưng phế. 3-Thiên Xung là Lục Canh tinh (6 năm có can Canh đứng đầu), đóng cung 3 Cấn. Chủ về việc chinh chiến, sát phạt. 4-Thiên Phụ là Lục Tân tinh (6 năm có can Tân đứng đầu), đóng cung 4 Chấn. Chủ về việc kho tang, ngũ cốc. Cát 5-Thiên Cầm là Lục Nhâm tinh (6 năm có can Nhâm đứng đầu), đóng cung 5 ở giữa. Chủ về việc giết, trừng trị kẻ có tội. Cát. 6-Thiên Tâm là Lục Quý tinh (6 năm có can Quý đứng đầu), đóng cung 6 Đoài. Chủ về việc đánh dẹp kẻ vô đạo. Cát. 7-Thiên Trụ là Lục Đinh tinh (6 năm có can Đinh đứng đầu), đóng cung 7 Khôn. Chủ về tai hoạ, tổn hại; hiệu lệnh. 8-Thiên Nhậm là Lục Bính tinh (6 năm có can Bính đứng đầu), đóng cung 8 Khảm. Chủ về âm hình, việc của nữ chúa. 9-Thiên Anh là Lục Ất tinh (6 năm có can Ất đứng đầu), đóng cung 9 Tốn. Chủ về dương đức của bậc nhân quân. Giáp là đầu hang. Trực phù là sứ của các tinh cung. Dùng Trực phù để phối hợp với 9 sao. Khi muốn tìm các năm Lục Giáp đến thì đặt vào cung trực phù muốn tìm. Ví dụ: Các năm Lục ất, theo cách tìm nói trên, thấy Lục ất tương ứng với sao Thiên Anh. Vậy gia Thiên Anh vào cung 9 Tốn làm trực phù (khi chưa động) Các năm Lục Bính, gia Thiên Nhậm vào cung 8 Khảm làm trực phù (khi chưa động). Nếu như Lục Bính, tìm được Thiên Bồng làm trực phù tất thứ nhất lấy Thiên Bồng đưa vào cung 8 Khảm, trên cung Thiên Nhậm. Thứ hai, đưa Thiên Nhuế vào cung 9 Tốn trên cung Thiên Anh. Thứ ba, đưa Thiên Xung vào cung 1 Càn trên cung Thiên Bồng. Thứ tư, đưa Thiên Phụ vào cung 2 Ly trên cung Thiên Nhuế Thứ năm, đưa Thiên Cầm vào cung 3 Cấn trên cung Thiên Xung Thứ sáu, đưa cung Thiên Tâm vào cung 4 Chấn trên cung Thiên Phụ Thứ bảy, đưa Thiên Trụ vào cung 5 T trên cung Thiên Cầm. Thứ tám, đưa Thiên Nhậm vào cung 6 Đoài trên cung Thiên Tâm. Thứ chín, đưa Thiên Anh vào cung 7 Khôn trên cung Thiên Trụ. Ví dụ 2: Tìm trực phù năm 1570 (năm Canh Ngọ âm lịch trung nguyên) Số tích niên tính đến năm 1570 là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.487 chia cho số 90, được số dư là 67 Lại chia tiếp 67 cho 10, được 6 lần và số dư là 7 Vậy trực phù ở cung 7 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Đinh. Lại lấy số dư 67 chia cho 9, được số dư là 4. Vậy trực phù là Thiên phụ 4 đóng cung 7 Khôn (năm thứ 7) Năm Canh Ngọ thuộc nguyên Canh Tý dương tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý Mậu đóng cung 7 Khôn. M7 T1 D4 Giáp Tý Mậu 7 Thiên Bồng Thiên phụ trực phù giáp ngọ Tân K8 N2 B5 Giáp Tuất Kỷ 8 Thiên Nhuế Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm C9 Q3 A6 Giáp Thân Canh 9 Thiên Xung Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Ngọ Tân 1 Thiên Phụ Thiên Trụ Đinh Kỳ. Giáp Thìn Nhâm 2 Thiên Cầm Thiên Nhậm Bính Kỳ Giáp Dần Quý 3 Thiên Tâm Thiên Anh ất Kỳ Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Bồng giáp Tý Mậu Bính Kỳ 5 Thiên Nhậm Thiên Nhuế giáp Tuất Kỷ Ất Kỳ 6 Thiên Anh Thiên Xung giáp Thân Canh Ví dụ 3: Tìm Trực phù năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 90, được số dư là 47 Số 47 lớn hơn 10. Lại lấy số 47 chia cho số 10, được 4 lần, số dư là 7. Vậy Trực phù đóng cung 5 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Nhâm. M5 T8 Đ2 K6 N9 B3 C7 Q1 A4 Lại lấy số dư 47 chia cho 9, được số dư là 2. Vậy Trực phù là Thiên Nhuế 2 đóng cung 5 T Năm Canh Thìn thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, tính thuận, Thiên Bồng, tại Giáp Tý Mậu đóng cung 5 T (năm thứ 7) Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 4: Tìm trực phù năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên) Số tích niên tính đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 90, được số dư là 1. Vậy trực phù là Thiên Bồng 1 đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) tương ứng với Lục Mậu Năm Canh Thìn, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên; tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý mậu đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) M1 T7 Đ4 Giáp tý 1 Thiên Bồng Thiên Bồng trực phù Giáp Tý Mậu K9 N6 B3 Giáp Tuất Kỷ 9 Thiên Nhuế Thiên Nhuế giáp Tuất kỷ C8 Q5 A2 Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Thiên Xung giáp Tân canh Giáp Ngọ Tân 7 Thiên phụ Thiên phụ Giáp Ngọ Tân Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Dần Quý 5 Thiên Tâm Thiên Tâm Giáp Dần Quý Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Trụ Đinh kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Nhậm Bính kỳ Ất kỳ 2 Thiên Anh Thiên Anh Ất kỳ CHÍN SAO THUỘC VĂN XƯƠNG Chín sao thuộc Văn xương là sư của Thái ất. Mỗi sao 30 năm đi qua 1 cung, là trực sư. Đặt vào 5 cung liên can cần tìm xem tới khu vực nào, để xem biến đổi về lành dữ Phương pháp tính: Tính từ năm thương nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm xem số tích niên là bao nhiêu. Lấy phép Cửu tinh đại chu thiên là 2700 mà chia. Số dư dưới 2700, dùng phép cửu tinh tiểu chu, chia tiếp cho số 270. Số dư dưới lấy số 30 ước trừ đi, sẽ được cung số. Những số còn lại không hết là tính vào cung để tìm số năm. Bắt đầu từ cung 1 là Văn xương, đi qua 9 cung. Ngoài số đó là số cung mà trực sứ đóng. Thứ tự 9 sao thuộc Văn xương (khi chưa động) 1-Văn xương ở cung 1 Càn, có can Nhâm 2-Huyền Phượng ở cung 2 Ly, có can Đinh. 3-Minh Ly ở cung 3 Cấn, có can Giáp. 4-Âm Đức ở cung 4 Chấn, có can Ất 5-Chiêu Dao ở cung 5 T có can Mậu Kỷ 6-Hoà Âm ở cung 6 Đoài, có can Tân 7-Huyền Vũ ở cung 7 Khôn, có can Canh 8-Huyền Minh ở cung 8 Khảm, có can Quý 9-Hùng Minh ở cung 9 Tốn, có can Bính. Ví dụ 1: Tìm trực sứ năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 270, được số dư là 137. Số 137 nhỏ hơn 270. Ta chia tiếp 137 cho 30; được 4 lần, có số dư là 17. Vậy trực sứ đóng cung 5 (năm thứ 17) Lại lấy số dư 137 chia cho số 9 sao. Được 15 lần, có số dư là 2. Vậy ta có Trực sứ là Huyền Phượng 2, đoán cung 5 T (năm thứ 17) Năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên, trực sứ Huyền Phượng 2 đóng tại cung 5 T (năm thứ 17). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Giáp Tuất kỷ Thiên Nhuế TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 6 Thiên Nhuế Giáp Thân Canh Thiên Xung Minh Ly Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Âm Đức Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Phụ Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Giáp Dần quý Thiên Tâm Hoà Âm Giáp Dần quý 1 Thiên Tâm Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Vũ Đinh kỳ 2 Thiên Trụ Bính kỳ Thiên Nhậm Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Ất kỳ Thiên Anh Hùng Minh Ất kỳ 4 Thiên anh Giáp Tý Mậu Thiên Bồng Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 2: Tìm trực sứ năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý, nguyên Giáp tý âm thượng nguyên) Số tích niên đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 270, được số dư là 1 Vậy trực sứ đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất), và ta có trực sứ là Văn xương 1 Năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên, Trực sứ Văn xương 1 đóng tại cung 1 Càn (năm thứ nhất). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 1 Thiên Bồng Giáp kỷ mậu Thiên Bồng TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 9 Thiên Nhuế Giáp Hợi kỷ Thiên Nhuế Minh Ly Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Giáp Thân Canh Thiên Xung Âm Đức Giáp Ngọ Tân 7 Thiên Phụ Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Hoà Âm Giáp Dần quý 5 Thiên Tâm Giáp Dần quý Thiên Tâm Huyền Vũ Đinh kỳ 4 Thiên Trụ Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Bính kỳ Thiên Nhậm Hùng Minh Ất kỳ 2 Thiên anh Ất kỳ Thiên Anh Văn Xương. QUÂN CƠ Quân cơ Thái ất chủ tượng về nhân quân. Khởi ở Ngọ, đi thuận theo 12 thần địa chi đến địa phận nào thì mùa màng được không loạn lạc, tướng khoẻ, quân mạnh, vua sửa đức độ. Phương pháp tính: Khởi từ Ngọ, mỗi cung đóng lại 30 năm tư thiên, 10 năm tư địa, 10 năm tư nhân. Một vòng là 360 năm. (Khởi từ Ngọ, mỗi cung đóng lại 30 năm: 10 năm tư thiên, 10 năm tư địa, 10 năm tư nhân. Một vòng là 360 năm.) Tính từ năm Giáp Tý thượng nguyên đến năm cần tìm, số tích niên là bao nhiêu, thêm số Bang doanh sai là 250, lấy phép Đại chu là 3600 mà chia, không hết là Bang sai. Số dư lấy hành bang là 30 đem ước trừ đi. Số tìm được là Bang số. Không đầy 30 là vào Bang. Để tìm số của năm cần tìm Bang số khởi tính từ Ngọ, tính lần lượt theo 12 cung. Ngoài số tức là được Quân cơ đóng và số năm. Quân cơ từ năm Tân Tị niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 9 triều Minh, là niên hiệu Quang Hưng năm thứ 4 triều Lê (Mậu Dần 1578 – 1599), vào cung Hợi đầy 30 năm. Đến năm Tân Hợi niên hiệu Hoằng Định năm thứ 12 triều Lê (Canh Tý 1600 – 1619), vào cung Tý. Đến năm Tân Tị, niên hiệu Dương Hoà năm thứ 7 triều Lê (Ất Hợi 1635 – 1643) vào cung Sửu. Đến năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 19 triều Lê (Quý Mão 1663 – 1671) vào cung Thìn. Đến năm Tân Tị, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 22 triều Lê (Canh Thân 1680 – 1705) vào cung Tị. Từ năm Tân Hợi (1311 dương lịch) - (1671) - (2031) Tân Tị (1341 dương lịch) - (1701) - (2061) Tân Hợi (1371 dương lịch) - (1731) - (2091) Tân Tị (1401 dương lịch) - (1761) - (2121) Tân Hợi (1431 dương lịch) - (1791) - (2151) Tân Tị (1461 dương lịch) - (1821) - (2181) Tân Hợi (1491 dương lịch) - (1851) - (2211) Tân Tị (1521 dương lịch) - (1881) - (2241) Tân Hợi (1551 dương lịch) - (1911) - (2271) Tân Tị (1581 dương lịch) - (1941) - (2301) Tân Hợi (1611 dương lịch) - (1971) - (2331) Tân Tị (1641 dương lịch) - (2001) - (2361) Năm Tân Tị Quang Hưng năm thứ tư là năm 1581 vào cung Hợi 30 năm Năm Tân Hợi Hoằng Định năm thứ 12 là năm 1611 vào cung Tý 30 năm Năm Tân Tị Dương Hoà năm thứ bảy là năm 1641 vào cung Sửu 30 năm Năm Tân Hợi Cảnh Trị năm thứ chín là năm 1671 vào cung Dần 30 năm Năm Tân Tị Chính Hoà năm thứ 22 là năm 1701 vào cung Mão 30 năm Số tích niên tính đến năm 1581 là 10.155.498 năm. Thêm 250, thành 10.155.748 Lấy số 10.155.748 chia cho số 3600, được số dư là 148 Lại lấy số 148 chia cho 30 được 4 lần, và có số dư là 28 Từ cung Ngọ, ta đếm xuống 4, gặp cung Dậu. Lại lấy số 28 chia cho 12 tháng, được 2 lần và số dư là 4 (tức là 3 lần thiếu). Từ Dậu, ta đếm tiếp xuống 3 lần và gặp Hợi. Vậy Quân cơ đóng tại cung Hợi. Ta nói: Năm Tân Tị niên hiệu Quang Hưng thứ tư triều Lê (Mậu Dần 1578 – 1599) tương ứng với năm dương lịch 1581 thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, Quân cơ vào cung Hợi. (Cách an này cần kiểm lại) THẦN CƠ Thần cơ là biểu tượng của phụ tướng Phương pháp tính: Cũng khởi đầu từ cung Ngọ, đi thuận theo 12 thần (12 địa chi) Nơi Thần cơ đến sẽ xuất hiện hiền thần, nhân dân yên vui, ngũ cốc phong phú. Mỗi cung trụ lại 3 năm. 36 năm là 1 vòng. Tính từ thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm. Số tích niên của năm là bao nhiêu gia sai số 250 Lấy số 360 mà chia. Nếu chưa hết, lấy số 36 mà chia. Chia không hết, dùng chu kỳ cung. Số dư ước trừ dần đi với 3 là số cung đóng. Số không đủ đưa vào cung để tìm số năm (niên) Số năm (niên) khởi từ cung Ngọ, tính thuận theo 12 thần, số dư là Thần cơ. Số năm (niên) và khu vực cũng tính như vậy. Thần cơ từ năm Quý Tị, niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 21 triều Minh Trung Quốc, tương đương niên hiệu Quang Hưng năm thứ 16 triều Lê Việt Nam, đi vào cung Dần. Năm Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ năm đi vào cung Dậu Năm Bính Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12 triều Lê đi vào cung Tý Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu triều Lê, đi vào cung Thân; năm thứ 20 năm Kỷ Mão đi vào cung Mão. Năm Quý Tị, Quang Hưng thứ 16 tương đương năm Dần 1593 dương lịch. Năm Quý Hợi, Vĩnh Tộ thứ 5 tương đương năm Dậu 1623 dương lịch. Năm Bính Thân, Vĩnh Trịnh thứ 12, tương đương năm 1716 dương lịch. Năm Canh Thân, Cảnh Hưng năm đầu tương đương năm Tý 1740 dương lịch Năm Kỷ Mão, Cảnh Hưng năm thứ 20, tương đương năm Thân 1759 dương lịch (Cách an này cần kiểm lại) Tính đến năm 1593, số tích niên là 10.155.510 năm. Số 10.155.510 gia 250 thành 10.155.760 Lấy số 10.155.760 chia cho số 360, được số dư là 160. Lại lấy 160 chia cho 36, được 4 lần, có số dư là 16. Từ cung Ngọ, ta đếm xuống 4, gặp cung Dậu. Lại lấy số 16 chia cho 3, được 5 lần, số dư là 1. Tức là 6 lần thiếu. Từ cung Dậu, ta đếm thuận 6 gặp cung Dần. Từ cung Dần, ta đếm 1 (số dư) vẫn là Dần. Vậy Thần cơ đóng tại cung Dần, ta nói: Năm Quý Tị, niên hiệu Quang Hưng thứ 16 triều Lê, tương đương năm dương lịch1593, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, Thần cơ vào cung Dần. DÂN CƠ Dân cơ là biểu tượng của dân chúng. Tới nơi nào, ở đó dân giàu, được mùa, không có tai hoạ về binh đao, bệnh tật. Phương pháp tính: Khởi tính từ cung Tuất. Mỗi năm 1 ngôi. Tính thuận đi 12 thần (12 địa chi) Tính từ Thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tính. Số tích niên là bao nhiêu năm, gia sai số là 250. Lấy phép Đại chu 360 mà chia. Nếu chưa hết, lấy phép tiểu chu là 36 chia tiếp. Nếu chưa hết, lại lấy số 12 mà ước trừ dần đi. Khởi từ cung Tuất, tính theo thứ tự 12 thần. Số thừa là nơi đóng của Dân cơ. Số tính năm và khu vực, cũng tính như trên. Cả ba cơ quân, thần, dân tới đâu đều không nên khởi sự công phạt, chiến đấu. Xét kỹ thời thế, hướng vào cung đó mưu cầu sự cát lợi. Dân cơ từ năm Quý Hợi, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (năm dương lịch 1623) đi vào cung Mùi Năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu (năm dương lịch 1740) đi vào cung Thìn. Năm Tân Tị, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (năm dương lịch1761) đi vào cung Sửu. Dần cơ do mỗi cung ở 1 năm nên ko bị sai Tính đến năm 1623 (năm Quý Hợi), số tích niên là 10.155.540 năm Số 10.155.540 gia số 250 thành 10.155.790 Lấy số 10.155.790 chia cho 360, được số dư là 190. Chia tiếp số 190 cho số 36, được số dư là 10 Số 10 nhỏ hơn số 12, tức là được 1 lần thiếu. Ta khởi tính từ Tuất, coi là 1 đến 10 gặp Mùi. Vậy năm Quý Hợi (năm 1623) Dân cơ đi vào cung Mùi. Ta nói: Năm 1623 dương lịch (năm Quý Hợi), nguyên Nhâm Tý dương, trung nguyên, Dân cơ đi vào cung Mùi. NGŨ PHÚC Ngũ phúc là thần ở trên trời, cùng Thái ất cho phúc lành. Ngũ phúc du hành qua 5 cung: Càn, Tốn, Khôn, Cấn và cung giữa. Mỗi cung trụ lại 45 năm: 15 năm Lý thiên, bốn mùa thuận hoà, tám tiết an vui. 15 năm Lý địa, núi sinh ngọc tốt, đất đẻ cỏ thiêng. 15 năm Lý nhân, đời sinh người giỏi, dân yên nước giàu. Đến cung nào, ở cung đó vua có phúc, dân giàu mạnh. Cung chiếu cũng thế, không có binh đao, hạn lụt, ốm đau. Phương pháp tính: Tính đến năm cần xem, số tích niên được bao nhiêu năm, gia sai số cung là 115, lấy phép Đại chu là 2250 mà chia. Nếu không hết lấy phép Tiểu chu là 225 mà chia. Số không hết là vòng tính cung. Số dư lấy 45 ước trừ dần đi. Lấy số tính được là cung số. Số không đầy là cung đóng vào. Tìm số năm (niên), bắt đầu tính từ Càn, qua Cấn, Tốn, Khôn, trung cung. Tức là được cung Ngũ phúc đóng và được số cung số năm. 1-Cung Hoàng Bí, khu Tuất, Càn, Hợi (cung 1 Càn) 2-Cung Hoàng Thuỷ, khu Sửu, Cấn, Dần (cung 3 Cấn) 3-Cung Hoàng Thất, khu Thìn, Tốn, Tị (cung 9 Tốn) 4-Cung Hoàng Đình, khu Mùi, Khôn, Thân (cung 7 Khôn) 5-Cung Huyền Thất, khu Tý, Ngọ, Mão, Dậu (cung 5 trung ương) Năm Giáp Tý niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6 vào cung Cấn 3 (năm 1624) Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 vào cung Tốn 9 (năm 1669) Năm Quý Tị, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 vào cung Khôn 7 (năm 1713) Năm Kỷ Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 vào trung cung (năm 1759) Tính đầu năm 1759 (năm Kỷ Mão), số tích niên được là 10.155.676 năm Gia sai số 115 thành số 10.155.791. Lấy 10.155.791 chia cho số 2250, được số dư là 1541 Lại lấy 1541 chia cho số 225, được 6 lần, có số dư là 191 Chia tiếp 191 cho số 45, được 4 lần, có số dư là 11. Tức là được 5 lần thiếu. Tính từ Càn là 1; Cấn là 2; Tốn 3; Khôn 4. Đến số 5 vào Trung cung. TỨ THẦN, THIÊN ẤT, ĐỊA ẤT, TRỰC PHÙ TỨ THẦN là đầu của khí thuỷ, nước có đạo thì thịnh, nước vô đạo thì bại vong. Ở đất vô đạo, là quê hương của chiến tranh, binh đao, hạn lụt, nhân dân cấu xé lẫn nhau. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia; không hết dùng phép Tiểu chu 36 chia tiếp. Không hết dùng cung chu. Số dư lấy 3 mà ước trừ dần đi; số tính được là cung số không đầy số là cung đi vào. Để tìm số năm (niên) Thượng nguyên khởi từ cung 1, đi thuận qua 9 cung, tiếp đó qua giáng cung, Minh đường, Ngọc đường. Cứ 3 năm thì rời cung, hết lại quay về bắt đầu. Trung nguyên khởi từ cung 9. Hạ nguyên khởi từ cung 5. Một vòng là 36 năm. Tứ thần năm Chính Hoà thứ năm là Giáp Tý thượng nguyên khởi ở Dần (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Thân (năm 1738) Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Tuất (năm 1744) Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tị (năm 1765) Ví dụ: Tìm tứ thần năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19. Chia tiếp 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1. Tức là 7 lần thiếu. Từ Dần coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thân. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên, Tứ thần đi vào cung Thần. THIÊN ẤT là khí Nghịch Kim của cung 6. Đến cung nào thì binh đao khởi lớn; đến nước nào tức là có nghĩa quyết đoán về được hay thua. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia. Tiếp đến lấy 3 mà ước trừ đi là cung số. Tính thuận theo 9 cung, sau đến Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường mà vận hành. Thượng nguyên khởi cung 6, Trung nguyên khởi cung 2, Hạ nguyên ở Giáng cung. Cứ 3 năm thì rời cung. Một vòng 36 năm. Thiên ất, năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm khởi ở Mùi (năm 1684) Năm Mậu Ngọ (năm 1738), niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Sửu. Năm Giáp Tý (năm 1744) niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Mão Năm Ất Dậu (năm 1765) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tuất. ****** Tính Thiên ất năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm. Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19 Lại chia 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu Từ Mùi, coi là 1; đếm thuận đến 7, ta gặp Sửu. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên Thiên ất đi vào cung Sửu. ĐỊA ẤT là 6 can kỷ, là thổ thần. Giữ cung nào tất có binh đao, đói khát, mất mùa. Vào nước vô đạo thì hung dữ, binh đao càng nhiều. Phương pháp tính cung giống phương pháp tính Tứ thần, Thiên ất. Thượng nguyên khởi cung 9. Trung nguyên khởi cung 5. Hạ nguyên cung 1. Ba năm rời 1 cung. Một vòng là 36 năm. ****** Địa ất năm Giáp Tý, niên hiệu Chính Hoà thứ 5 khởi ở Tuất (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung 7 Thìn. Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê (năm 1744) đi vào cung Ngọ Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Sửu. Ví dụ: Năm Mậu Ngọ (năm 1783), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55. Chia tiếp 55 cho 36, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu. Từ Tuất coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thìn. TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần. TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần. TIỂU DU THÁI ẤT Phương pháp tính tiểu du Thái ất giống như phương pháp tính Tuế kế Thái ất ở trên. Tiểu du Thái ất tính từ năm Canh Dần, niên hiệu Trường Hưng năm đầu (TQ) tức là năm 930 vào cung 7 Khôn Năm Bính Dần (năm 966) vào cung 8 Khảm Năm Nhâm Dần (năm 1002) vào cung 9 Tốn Năm Mậu Dần (năm 1038) vào cung 1 Càn Năm Giáp Dần (năm 1074) vào cung 2 Ly Năm Canh Dần (năm 1110) vào cung 3 Cấn Năm Bính Dần (năm 1146) vào cung 4 Chấn Năm Nhâm Dần (năm 1182) vào cung 6 Đoài Năm Mậu Dần niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (năm 1218) vào cung 7 Khôn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Nguyên Phong thứ tư triều Trần (năm 1254) vào cung 8 Khảm Năm Canh Dần (năm 1290) vào cung 9 Tốn Năm Nhâm Dần (năm 1362) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần (năm 1326) vào cung 1 Càn. Năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Tân năm đầu tiên triều Trần (năm 1398) vào cung 3 Cấn Năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình năm đầu tiên triều Lê (năm 1434) vào cung 4 Chấn Năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Đức năm đầu triều Lê (năm 1470) vào cung 6 Đoài Năm Bính Dần, niên hiệu Đoan Khánh thứ hai triều Lê (năm 1506) vào cung 7 Khôn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Nguyên Hoà thứ 10 triều Lê (năm 1542) vào cung 8 Khảm Năm Mậu Dần (năm 1578) vào cung Tốn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ 15 triều Lê (năm 1614) vào cung 1 Càn Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ hai triều Lê (năm 1650) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Hoà thứ 7 triều Lê (năm 1686) vào cung 3 Cấn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái thứ 3, triều Lê (năm 1722) vào cung 4 Chấn Năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19 triều Lê (năm 1758) vào cung 6 Đoài. Ví dụ: Tính tiểu du Thái ất năm 1758 (năm Mậu Dần), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.675 năm Theo phương pháp tính toán ghi trong bài 4 về cách tìm sao Thái ất trong Tuế kế, ta lấy 10.155.675 chia cho số 3600; được số dư là 75. Lấy 75 chia cho số 36; được 3 lần, số dư là 3. Tức là được 4 lần thiếu. Bắt đầu tính 1 từ 3 Cấn 2 đến 4 Chấn 3 đến Không vào số 5 4 đến 6 Đoài. Ta nói: Năm 1758 (năm Mậu Dần), nguyên Bính Tý dương, trung nguyên, Tiểu du Thái ất đi vào cung 6 Đoài. ĐẠI DU THÁI ẤT Đại du Thái ất là chi phối khí của 7 sao; là Kim thần. Tuần hành 8 cung, không vào cung giữa. Đại du Thái ất 36 năm chủ trị một cung 12 năm Lý thiên, 12 năm Lý địa, 12 năm Lý nhân; 288 năm hết 1 vòng thi hành sự trừng phạt (36 x 8 = 288) Phương pháp tính: Từ thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm, tính số tích niên là bao nhiêu, gia sai số cung là 34. Lấy phép Đại chu 2880 mà chia; không hết là cung chu. Số dư lấy phép tiểu chu là 288 chia tiếp; không hết là cung chu. Số dư lại lấy phép hành cung 36 mà ước trừ dần đi. Số được là số cung. Số không đầy là số vào cung. Để tìm số tính năm, bắt đầu từ cung 7, tính thuận sang 8 qua 9, 1, 2……Không vào cung giữa 5. Ngoài số tính tức là được cung Đại du Thái ất đóng, và vào cung đó để tìm số năm. Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Đức năm đầu (năm 1506), Đại du Thái ất ở cung 7 Năm Nhâm Dần niên hiệu Gia Tĩnh thứ 21 (năm1542) ở cung 8. Năm Mậu Dần, niên hiệu Vạn Lịch thứ 6 (năm 1578) ở cung 9 Năm Giáp Dần niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 (năm 1614) ở cung 1. Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ 2 triều Lê (năm 1650) ở cung 2. Ví dụ: Tìm Đại du Thái ất năm Canh Dần (năm 1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Tính đến năm 1650 được số tích niên là 10.155.567 năm Gia sai số 34 thành số 10.155.601 Lấy 10.155.601 chia cho số 2880, được số dư là 721 Chia tiếp 721 cho số 288, được số dư là 145. Lại chia 145 cho số 36; được 4 lần, có số dư là 1. Tức là được 5 lần thiếu. Khởi tính 1 từ cung 7 Khôn 2 từ cung 8 Khảm 3 từ cung 9 Tốn 4 từ cung 1 Càn 5 từ cung 2 Ly Tính đến 5, ta gặp cung 2 Ly. Vậy Đại du Thái ất năm 1650 đóng cung 2 Ly. Ta nói: Năm Canh Dần (1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Đại du Thái ất đóng cung 2 Ly. PHƯƠNG VỊ PHÚC TINH QUA CÁC NĂM Cung phúc tính đóng Niên can Dần Giáp Sửu Ất Tý Bính Hợi Đinh Thân Mậu Mùi Kỷ Ngọ Canh Tị Tân Thìn Nhâm Mão Quý NHỊ THẬP BÁT TÚ Nhị thập bát tú chia thành 4 nhóm thuộc 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cụ thể như sau: Nhóm 7 sao thuộc phương Đông: -Sao Giốc (hành mộc), chủ về đại nhân lo quân xuất trận. -Sao Cang (hành kim), dân an vui. -Sao Đê (hành thổ), bên trong có bầy tôi phản nghịch; trung cung phải phòng hoả hoạn. -Sao Phòng (Nhật – Thái dương), bên trong lo về việc động binh. -Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm), thái tử và các vương hầu lo nghĩ. -Sao Vỹ (hành hoả), chốn hậu cung có điều kinh sợ; Hậu phi có tai hoạ. -Sao cơ (hành thuỷ), có việc binh đao, quân sĩ lưu vong. Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc: -Sao Đẩu (hành mộc). Bề tôi mất tước lộc. Nhân dân xâm lấn nhau. -Sao Ngưu (hành kim). Thóc cao, gạo kém. Dân đói. Trâu, bò, dê chết nhiều. -Sao Nữ (hành thổ). Hậu phi ốm đau. Hoả hoạn -Sao Hư (Nhật – Thái dương). Cải cách chính sách. Xoá tội khoan dung. -Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm). Đất cát hưng thịnh. Nhiều bệnh tật. -Sao Thất (hành hoả). Đại thần giấu mưu hiểm, không chịu theo năm mất mùa. -Sao Bích (hành thuỷ). Văn chương hưng thịnh. Bỏ việc binh đao. Đại phát. Nhóm 7 sao thuộc phương Nam: -Sao Tỉnh (hành mộc). Sông ngòi, đầm ao ứ đọng. Giặc cướp, dân chúng lưu vong. -Sao Quỷ (hành kim). Hậu phi thất thế. Nhân dân nhiều bệnh tật. -Sao Liễu (hành thổ). Dân chúng đói khát, mất mùa, lưu vong. -Sao Tinh (Nhật – Thái dương). Hoả hoạn -Sao Trương (Nguyệt – Thái âm). Có nhiều biến đổi về lễ nghi. -Sao Dực (hành hoả). Âm dương mất thứ tự. Nhiều mưa lụt. -Sao Chẩn (hành thuỷ). Thua bại. Chết chóc. Đại tang. Mất mát. Các sao trên là tuỳ theo Tuế kế Thái ất vào cung nào, nhà nào mà xem xét các năm có sự việc làm chủ. Lại có 1 phép tính là: lấy Kế thần gia Hoà Đức vào, rồi xem cung Thuỷ kích tới để xét cát hung. Lại suy tính cung mà năm Thái ất tới để xét sâu hay nông như Thái ất lý thiên, dựa vào sao thứ nhất; Lý địa dựa vào sao thứ hai; Lý nhân dựa vào sao thứ ba. Nếu Thuỷ kích không ở các cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu mà lâm vào 1 sao thì sao đó phải đảm đương; lâm vào 2 sao thì chia đều để quản một năm. An nhị thập bát tú theo năm: -Sao Giốc: Các năm 1890, 1918, 1946, 1974, 2002, 2030, 2058…… (A + 28) -Sao Đẩu: Các năm 1869, 1897, 1925, 1953, 1981, 2009, 2037…… (B + 28) -Sao Khuê: Các năm 1876, 1904, 1932, 1960, 1988, 2016, 2044…… (C + 28) -Sao Tinh: Các năm 1883, 1911, 1939, 1967, 1995, 2023, 2041…… (D + 28) Ví dụ: Nhị thập bát tú ngoài việc tính theo năm còn tính theo tháng, ngày để xét cát hung trong các khoảng thời gian tương ứng. Xin tham khảo thêm vạn niên lịch từng năm. Ví dụ: Năm Kỷ Mão 1999 Mồng 1 tháng giêng âm lịch Sao Vĩ (cả tháng: sao Tinh) Mồng 1 tháng hai âm lịch Sao Đẩu (cả tháng: sao Trương) Mồng 1 tháng ba âm lịch Sao Ngưu (cả tháng: sao Dực) Mồng 1 tháng tư âm lịch Sao Nữ (cả tháng: sao Chẩn) Mồng 1 tháng năm âm lịch Sao Nguy (cả tháng: sao Giốc) Mồng 1 tháng sáu âm lịch Sao Thất (cả tháng: sao Cang) Mồng 1 tháng bảy âm lịch Sao Bích (cả tháng: sao Đê) Mồng 1 tháng tám âm lịch Sao Lâu (cả tháng: sao Phòng) Mồng 1 tháng chín âm lịch Sao Vị (cả tháng: sao Tâm) Mồng 1 tháng mười âm lịch Sao Tất (cả tháng: sao Vĩ) Mồng 1 tháng mười một âm lịch Sao Sâm (cả tháng: sao Cơ) Mồng 1 tháng chạp âm lịch Sao Quỷ (cả tháng; sao Đẩu) Chú ý: Chu kỳ hoàn nguyên của nhị thập bát tú là 7 năm (tức là sau 84 tháng mới trở về 1 tháng cùng tên sao). Tháng nhuận không có tên sao, mà lấy tên sao của tháng kề trước. ****** Nhóm 7 sao thuộc phương Đông tương ứng với sao Thanh Long. Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc tương ứng với sao Huyền Vũ. Nhóm 7 sao thuộc phương Tây tương ứng với sao Bạch Hổ. Nhóm 7 sao thuộc phương Nam tương ứng với sao Chu Tước. ****** Ngày tiết khí: Giữa xuân (Xuân phân) Mưa rào (Cốc vũ) Duối vàng (Tiểu mãn) Giữa hè (Hạ chí) Nóng nực (Đại thử) Mưa ngâu (Xử thử) Giữa thu (Thu phân) Sương sa (Sương giáng) Hanh heo (Tiểu tuyết) Giữa đông (Đông chí) Giá rét (Đại hàn) Ẩm ướt (Vũ thuỷ) Ngày trung khí: Trong sáng (Thanh minh) Đầu hè (Lập hạ) Tua rua (Mang chủng) Nắng oi (Tiểu thử) Đầu thu (Lập thu) Nắng nhạt (Bạch lộ) Mát mẻ (Hàn lộ) Đầu đông (Lập đông) Khô úa (Đại tuyết) Chớm rét (Tiểu hàn) Đầu xuân (Lập xuân) Sâu nở (Kinh trập) ****** Tháng tiết khí : Tháng Dần (tháng giêng) Lập xuân -Vũ Thuỷ Tháng Mão (tháng hai) Kinh trập -Xuân phân Tháng Thìn (tháng ba) Thanh minh -Cốc vũ Tháng Tị (tháng tư) Lập hạ -Tiểu mãn Tháng Ngọ (tháng năm) Mang chủng -Hạ chí Tháng Mùi (tháng sáu) Tiểu thử -Đại thử Tháng Thân (tháng bảy) Lập thu -Xử thử Tháng Dậu (tháng tám) Bạch lộ -Thu phân Tháng Tuất (tháng chín) Hàn lộ -Sương giáng Tháng Hợi (tháng mười) Lập đông -Tiểu tuyết Tháng Tý (tháng mười một) Đại tuyết -Đông chí Tháng Sửu (tháng chạp) Tiểu hàn -Đại hàn TÍNH CHẤT NHỊ THẬP BÁT TÚ 1-Sao Giốc (hành mộc): Tốt Giốc tinh: Được việc, thân thế vinh hiển. Đi thi đỗ. Gặp quý nhân. Giá thú, hôn nhân, sinh con đều tốt. Nên tránh các việc mai tang, sửa sang mộ phần. 2-Sao Cang (hành kim): Xấu Cang tinh: Đứng trưởng nên đề phòng giữ mình. Công việc làm ăn phải tính toán rành rẽ. Tránh các việc chôn cất, hôn nhân. Làm ẩu sẽ có hậu quả xấu. 3-Sao Đê (hành thổ): Xấu Đê tinh: Rất xấu Phải đề phòng các việc động thổ, hôn nhân, kinh doanh, ký kết, xuất hành, xây cất, hay gặp tai ương, hỏng việc. 4-Sao Phong (Nhật – Thái dương): Tốt Phong tinh: Rất tốt. Điền tài thịnh vượng Giàu sang, hạnh phúc vẹn toàn. Xây cất, cưới xin, gia cảnh đều đẹp Sĩ, nông, công, thương đều hoà hài. 5-Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm): Xấu Sao Tâm: Rất xấu. Cẩn thận giữ gìn trong mọi công việc Tránh ăn hỏi, cưới xin Kinh doanh dễ thua lỗ, kiện tụng. 6-Sao Vĩ (hành hoả): Tốt Vĩ tinh: Chiếu sáng. Rất tốt Nên làm nhà, cưới hỏi đều hanh thong Xuất ngoại, kinh doanh có nhiều thuận lợi. Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hưng thịnh. 7-Sao Cơ (hành thuỷ): Tốt Cơ tinh: Sáng chiếu giúp mọi người. Sự nghiệp cao cả viễn cảnh đẹp Nhà to, cửa rộng. Bạc tiền nhiều. Phúc đức ông cha để lại lâu dài. 8-Sao Đẩu (hành mộc): Tốt Đẩu tinh: Sáng láng, dồi dào. Hôn nhân, sinh nở đều vẹn toàn. Chăn nuôi, cấy gặt, tiền của nhiều. Làm nhà, thả cá đều tốt. 9-Sao Ngưu (hành kim): Xấu Ngưu tinh: Tốn sức, hao tài. Tránh việc xây dựng, dễ gặp chuyện bi ai. Cưới hỏi, đi xa nhà nên cẩn thận Kinh doanh, trồng trọt dễ mất cả vốn lẫn lãi. 10-Sao Nữ (hành thổ): Xấu Nữ tinh: Phụ nữ phải giữ mình Quan hệ, giao thiệp đề phòng kẻ sở khanh. Sinh nở nên tìm thầy thuốc, bà đỡ giỏi. Dễ bị hao tài, tốn của, thiệt hại gia đình. 11-Sao Hư (Nhật – Thái dương): Xấu Sao Hư chủ về tai ương, hư tổn. Nam nữ gần nhau phải giữ gìn. Khôn ba năm dại một giờ để lại đau khổ về sau. 12-Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm): Xấu Nguy tinh: Kỵ nhất việc làm nhà, dễ gây nguy hại cho người trong gia đình. Tránh việc hiếu, việc kinh doanh sợ bị khuynh gia bại sản. 13-Sao Thất (hành hoả): Tốt Thất tinh: Chiếu sáng, công việc hanh thông. Công danh sự nghiệp vinh hiển. Mở hiệu, làm nhà đều được thịnh đạt Hôn nhân, con cái nên người. 14-Sao Bích (hành thuỷ): Tốt Bích tinh: Làm mọi việc đều thuận nhân tình Cưới hỏi, sinh con đều đạt mong muốn. Thương mại, kinh doanh nhiều lợi lộc Làm nhà, lợp mái đều được khang ninh. 15-Sao Khuê (hành mộc): Xấu Khuê tinh: Tuy xấu nhưng cũng có phần lành. Vợ chồng hoà thuận, có phúc lộc. Chỉ cần tránh các việc mở hang, động thổ, đưa ma, sửa sang mộ phần. 16-Sao Lâu (hành kim): Tốt Sao Lâu: Lợp mái nhà rất tốt. Thêm người thêm của, cơ nghiệp hưng thịnh. Hôn nhân vào ngày tháng ứng với sao lâu, sinh quý tử. Nhậm chức vào ngày đó sẽ mau thăng chức. 17-Sao Vị (hành thổ): Tốt Vị tinh: Chủ về vinh hoa, phú quý. Trong mọi việc, nên cố gắng thực hiện. Nên tiến hành các việc mua bán, xây nhà, cưới hỏi. Các công to việc lớn rất thuận lợi. 18-Sao Mão (Nhật – Thái dương): Xấu Mão tinh: Nên cẩn thận việc chăn nuôi. Làm nhà, làm cửa dễ gây thiệt hại về người. Làm quan, nhậm chức đề phòng tai hoạ. Hôn nhân, giá thú sợ hạnh phúc kém lâu bền. 19-Sao Tất (Nguyệt – Thái âm): Tốt Tất tinh: Chiếu sáng, điều hoà mọi việc. Nông trang, thóc gạo, lụa tằm bội thu. Nên xây dựng, nhà cửa, tiến hành hôn thú. Sẽ sinh được con cái nên người. 20-Sao Chuỷ (hành hoả): Xấu Chuỷ tinh: Nên cẩn thận dễ mắc việc kiện cáo. Vàng nén, bạc kho cũng hết. Làm việc quan, có chức có danh càng phải giữ gìn. Làm thầy, làm thợ cần dè chừng chuyện tai tiếng. 21-Sao Sâm (hành thuỷ): Tốt Sâm tinh: Còn gọi là văn xương, văn khúc. Mưu cầu sự nghiệp là đại cát tường. Mở hiệu, xây nhà rất tốt. Tránh hôn thú sợ có chuyện chia rẽ về sau. 22-Sao Tỉnh (hành mộc): Tốt Tỉnh tinh: Chỉ cần tránh việc tang Các việc sau đều tốt Thi cử, mưu công danh, trồng trọt. Chăn nuôi, làm nhà, hôn thú. 23-Sao Quỷ (hành kim): Xấu Quỷ tinh: Chiếu rọi dễ gây chuyện buồn thương. Làm nhà dễ khiến chủ nhân vong mệnh. Tránh cưới xin, chỉ lợi việc hiếu, việc tang. 24-Sao Liễu (hành thổ): Xấu Liễu tinh: Chiếu rọi gây lắm chuyện nguy nan. Hao tài, tổn sức, bi thương. Nên chăm làm việc thiện. 25-Sao Tinh (Nhật – Thái dương): Xấu Tinh tinh chiếu rọi, tránh hôn thú, vợ chồng dễ ruồng bỏ nhau. Tốt nhất là tiến hành việc làm nhà, thứ hai là lo việc công danh. 26-Sao Trương (Nguyệt – Thái âm): Tốt Trương tinh: nên cưới hỏi, làm nhà, mở hàng, nhập học, tang ma sẽ để lại phúc ấm lâu dài 27-Sao Dực (hành hoả): Xấu Dực tinh tối kỵ việc làm nhà, dễ xảy ra tai nạn, thiệt hại chủ nhà. Nam nữ gần nhau nên giữ gìn. Mê đắm nguyệt hoa dễ gây chuyện xót xa. 28-Sao Chẩn (hành thuỷ): Tốt Chẩn tinh: Chiếu rọi chủ về sự vẻ vang. Thăng quan, thăng cấp, tài lộc cũng tăng. Việc hiếu, việc hôn nhân, kinh doanh buôn bán đều rất tốt. CHU THIÊN Chu thiên (1 vòng trời) có 12 cung. Mỗi cung 30 độ Mỗi độ 60 phút Mỗi phút 60 giây Mỗi giây 60 vi Mỗi vi 60 tiêm Mỗi tiêm 60 hốt Mỗi hốt 60 mang Mỗi ngày 12 giờ (giờ cổ) Mỗi giờ 24 khắc Mỗi khắc 15 phút Mỗi phút 60 giây. (Đến vi, tiêm, hốt, mang cũng tương tự) Một khắc có 15 phút, tất 4 khắc là 60 phút, 8 khắc là 1 giờ (4 khắc là sơ nhất khắc, sơ nhị khắc, sơ tam khắc, sơ tứ khắc; tức là chính nhất khắc, chính nhị khắc, chính tam khắc, chính tứ khắc). 120 phút là 1 giờ 12 giờ là 1440 phút (tức là 1 ngày) 30 ngày là 43.200 phút TÍNH TUẾ KẾ Tính Tuế kế, tức là tính niên cục Phương pháp tính: Tính số tích niên từ thượng nguyên Giáp Tý thiên hoàng cổ đại, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (năm 1798 dương lịch); được 10.155.715 năm, là vào trung nguyên Giáp Tý, kỷ thứ 2; vào nguyên Bính Tý dương, dương niên cục 43. Tra bảng “Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm Văn xương ở Tý vào cung 8 Khảm Chủ toán số 8 (Đơn dương, vô thiên) Chủ Đại tướng đóng cung 8 Khảm (tù) Chủ tham tướng đóng cung 4 Chấn (Phát) Kế thần ở Thân. Thuỷ kích ở Tị (Đại thần) Khách toán số 17 (tạp trùng dương) Khách đại tướng đóng cung 7 Khôn (Phát) Khách tham tướng đóng cung 1 Càn (nội Bách) Tính tiếp: Quân cơ ở Mùi Thần cơ ở Mão Dân cơ, Ngũ phúc ở cung giữa 5 Tứ thần ở Thìn Thiên Ất ở Dậu Địa ất ở Ngọ ****** Ví dụ : Tính Tuế kế năm Tân Hợi niên hiệu Tự Đức thứ 6 (năm 1853 dương lịch); được số tích niên là 10.155.768 năm. Tra “Bảng Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm, năm thứ hai là Lý địa, ở kỷ Giáp Tý thứ 3, Hạ nguyên được 48 năm. Tức là năm Giáp Tý 10 năm, đến Giáp Tuất 10 năm, đến Giáp Thân 10 năm. Tính đủ 48 năm là thuộc năm thứ 8 của tuần Giáp Thìn, tức là năm Tân Hợi. Vào nguyên Mậu Tý dương, dương niên cục 24. ****** TÍNH NGUYỆT KẾ Ngắt từ năm Giáp Tý, niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, triều Tống tháng 11 Giáp Tý (năm 424 dương lịch); tính đến năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (triều Tây Sơn) năm 1798 dương lịch cộng được số tích niên là 1.673 năm. TÍNH NHẬT KẾ. Khởi từ năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Trị năm đầu triều Minh (năm 1488 dương lịch), tính được số 243. Dùng số đó tính theo năm một tiến, một lùi. Nếu gặp năm nhuận thì phải lùi. Nếu tiến, dùng những năm đã qua là số 24 tháng. Nếu lùi, dùng những số tháng thiếu của năm đã qua. Giả dụ như ngày mồng 1 Tết năm nay ở sau ngày mùng 1 Tết năm ngoái, phải dùng phép lùi. Nếu ngày mùng 1 Tết sang năm mà đứng trước ngày mồng 1 Tết năm nay, phải dùng phép tiến. Lùi tất không quá số 5, 6. Tiến tất không quá số 24 (là số nhất định) Trước hết lấy Kỷ để tìm ngày, tiếp sau lấy nguyên để tìm cục (giống như phép tính năm) ****** LUẬN VỀ QUAN, TÙ, YỂM, BÁCH, KÍCH Quan: -Có nghĩa là 2 bên giao chiến, thế 1 sống 1 chết, 2 bên phòng bị lẫn nhau, tướng văn tướng võ đều phải kiêng kỵ. -Có biểu tượng lấn át, tranh đoạt nhau. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chỉ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng; tính được thiếu (ít) và bất hoà là bại. -Có ý nghĩa là sự việc không kịp tới bậc nhân quân. -Về vị trí tức là Chủ, Khách Đại tướng, tiểu tướng cùng ở 1 cung, phải thay nhau mà quan phòng. Tình hình ác liệt như 2 cọp trong 1 rừng, hai thuồng luồng 1 suối. Khi có thịnh suy, thế không đội trời chung được, phải xem nhị Mục ở cung nào mà dùng Ngũ hành để quyết đoán, sẽ rõ sự thắng bại. -Khách Đại tướng, Khách Tiểu tướng phạm vào Thuỷ kích là Chủ quan Khách. -Tuế kế mà gặp như thế là chủ tướng bất hoà. Tù: -Tù là Thái ất, Văn xương, Đại tướng, Tiểu tướng xâm lấn lẫn nhau. Có ý nghĩa là dưới phạm trên, trói buộc, bài xích nhau, cố chấp nhau; sẽ bị hoạ tang vong, thua bại. -Về vị trí là Thái ất và Văn xương cùng đóng 1 cung. -Ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Ở đất Tuyệt âm, Tuyệt dương là tự thua, không lợi cho bên hành động trước. Kích: -Kích là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con, bề dưới phản nghịch. Nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi gây sự phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích tất gấp. Cung gặp kích là chậm. -Nhà vua và tướng đều phải kiêng kỵ. Bách: -Bách là bên tả, bên hữu Thái ất gặp Thiên Mục, Địa mục và Đại tướng, Tiểu tướng bức sát gần bản cung. Chỉ vào sự xâm lấn, bức bách kìm giữ. Biểu lộ tình hình trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. -Trước là ngoài, sau là trong. -Thần là cấp, cung là hoãn, ở sau Thái ất. -Năm dương, tai hoạ nhẹ. Năm âm tai hoạ nặng. Bách còn có nghĩa là Chủ, Khách, nhị Mục, tứ Tướng và Kế mục ở bên phải bên trái cung Thái ất, biểu hiện tình hình bầy tôi bức bách vua. -Ngoại bách là đại thần ngược lại mệnh vua có âm mưu bên trong, cùng họ có âm mưu phản nghịch, Hậu phi 2 lòng. -Nội ngoại Bách kích là trong ngoài liên kết mưu mô. Số tính là bất hoà thì thua; nếu cùng ở cung Dịch tuyệt là trước sau bại. -Ở đằng trước cung ấy là minh bách; sự việc xảy ra từ bên ngoài. -Ở đằng sau cung ấy là ám bách; sự việc xảy ra từ bên trong. Phản: -Phản là Thái tuế đóng trước cung Thái ất; có ý nghĩa phản nghịch, không tuân lệnh, dưới chống đối trên. Yểm: -Yểm là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Có ý nghĩa âm thịnh, dương suy, dường mối nhà vua không còn trên lấn áp, dưới tiếm quyền, tụ tập cướp giết. Phàm thấy như vậy thì dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà và bất hoà. Một âm, một dương gọi là đạo, tính được hoà. Khí được thuận, là tốt. Nếu bất hoà, khí nghịch là xấu. -Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ; thế là trùng dương; chủ về sự khó khăn, hạn hán, hoả tai. -Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm, tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn, thế là trùng âm; chủ về mưa dầm, lụt, nước to, đều là theo số tính thấy bất hoà. -Nếu Thái ất ở dương cung, tính được số chẵn; ở âm cung, tính được số lẻ, là tính được hoà. -Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; lấy các cung Hợi, Sửu, Dần, Thìn, Tị, Mùi, Thân, Tuất, ngôi gián thần đóng là âm. -Ở cung dương, tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà. Trái lại là bất hoà. -Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. -Số 4, 8 gặp Sửu, Tị là tạp dương. -Số 2, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. -Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. -Các số 33, 39 tính được là trùng dương. -Các số 22, 26 tính được là trùng âm. -Thái ất, Thiên mục đóng ở âm cung, số tính được 24, 28 là tạp trùng âm; tai hoạ rất lớn. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 19, 13, 31, 37 là tạp trùng dương. Tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. Ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm, bên trong có âm mưu. Đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng; trái với thế là bại. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá; chủ về điều hung, va bạo ngược. Đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm, là thái quá, cung là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là dịch khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí, tính niên kế là nhà vua gặp hung. Và cung 9 là thuần âm, cung 1 là tuyệt dương, chủ về việc bầy tôi gặp điều dữ, xấu mà bị giết. -Yểm là Thuỷ kích gia vào cung Thái ất là âm yểm dương, gặp tình hình này thì chính trị không thi hành được, kỷ cương nhà vua mất, bầy tôi mạnh, vua yếu; thân chết, nước mất, trộm cướp, binh đao, lụt hạn, bệnh dịch. -Nếu yểm ở cung dịch tuyệt là nhà vua gặp dữ lớn; ở đất tuyệt dương, tuyệt âm, là đại thần bị giết. -Nếu yểm chủ đại tướng mà số tính về chủ không hoà là dữ, số tính hoà là lành. Đại tướng tuy gặp dữ nhưng Tham tướng số tính được hoà lợi, lấy tiểu tướng đánh thì thắng. Nếu Tham tướng bị yểm thì tiểu tướng gặp điều dữ. Cách: -Cách là Khách mục, Đại tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất, Cách biến thành tiếm đoạt, chống cự ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Chủ cách khách quan; nếu chiến đấu tất chủ thắng. Chủ quan, khách cách; nếu chiến đấu thì khách thắng. Chủ khách nhà số tính là bất hoà thì bại. Tuế kế mà gặp như vậy là bề tôi ở dưới, lừa dối kinh nhờn nhà vua. Kích: -Kích là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất, tiền tả hậu hữu; trong là lấn át, đâm chém nhau, trên lấn áp, dưới tiếm quyền. -Nếu gặp thần “kích” thì tai hoạ rất gấp nếu gặp cung “kích” là tai hoạ chậm hơn. Từ vua chúa đến thứ dân, các quan văn võ đều nên kiêng kỵ. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Bên trong gặp rắc rối phía các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ các phiên thần hay ngoại quốc. -Kích còn là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất. Có ý nghĩa là cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con phản nghịch, nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi có âm mưu phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích là gấp, cung gặp kích thì chậm. Nhà vua và tướng tá đều phải kiêng kỵ. -Như xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (năm dương lịch 1570), chủ tính được 33, trừ đi 30, dùng 3 tức là Chủ Đại tướng ở cung 3 mà Thái ất cũng ở cung 3 là Tù. Tù tức là có sự tang vong, là điều xấu. -Chủ Tham tướng, lấy số 3 mà nhân, 3 x 3 = 9, tức là Chủ Tham tướng ở cung 9, mà văn xương cũng ở cung 9, cũng là Tù, là xấu. -Lại tính Khách là 10, bỏ 10 dùng 1, tức là Khách Đại tướng ở cung 1, không gặp Tù, Bách, Yểm, Kích là tướng phát, là lành. -Lấy 3 x 1 = 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cùng cung với Thái ất; tức là tù, là Tiểu tướng bất lợi. -Cục này, Thái ất tuy trợ chủ, mà chủ lại bất hoà; hai tướng gặp tù, nên an cư, không thể hành động trước. -Khách hoà, tướng phát; lợi về khách; nên an cư vì lợi về hành động sau. -Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. -Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là Thiên nội, là trợ thủ, không thể đem quân công phạt. Muốn đánh địch, không nên khởi động trước, tức là nên hậu ứng. -Nếu Thái ất ở các cung 2, 3, 6, 7 là Thiên ngoại là trợ khách, lợi cho việc dấy binh đánh dẹp; nếu muốn đánh địch, không nên tiến sau, mà phải đánh trước. -Xét theo Tuế kế, năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, dương niên cục 31. Theo “Bảng Thái ất 72 âm dương cục”, cục dương 31 có các sao đóng tai các cung như sau: Thái ất đóng cung 3 Kế thần đóng cung Thân Văn xương đóng cung Tốn Thuỷ kích đóng cung Tuất Chủ toán số 33 Chủ Đại tướng đóng cung 3 Chủ Tham tướng đóng cung 9. Khách toán số 10 Khách Đại tướng đóng cung 1 Khách Tham tướng đóng cung 3 Đối: -Đối là chủ mục đối xứng với cung Thái ất, có ý nghĩa là sự xung đột, đối kháng nhau, là bậc đại thần có hai long, lừa dối vua, chặn đường người hiền, ghét đuổi bậc trung lương. -Nếu Chủ mục, Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng đối với cung với Thái ất thì tướng lại hiệp mưu gian, bề tôi dối trá. Đề hiệp: -Đề hiệp là Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng mà Hiệp cùng Thái ất, Chủ mục, Khách mục cùng 2 Đại tướng, Tiểu tướng ở cung chính ấy là Đề hiệp. -Nếu chủ mục, Khách mục ở gián thần, Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp nhị Mục ở gián thần là Hiệp quan. -Nếu chủ khách mục, tương quan số tính mà Trường hoà là thắng. -Nếu chủ khách mục, hoặc 2 tướng hoặc 1 tướng mà cùng Thái ất hiệp chủ khách mục hoặc đại tiểu tướng, ấy là vừa tôi đồng mưu, cùng giết kẻ bất nghĩa bất đạo. -Nếu nhị Mục với Đại tiểu tướng cùng hiệp Thái ất là chính sự trong tay bậc đại thần, bề tôi chuyên quyền. Số tính hoà mà có cách đối cung Thái ất là dữ; bất hoà mà không có cách đối cung thì trước thắng sau bại. -Khách mục, Đại Tiểu tướng hiệp Chủ mục ở cung gián thần thì khách thắng, nếu như hiệp Thái ất thì trước thắng sau bại. -Nếu Chủ Đại tướng gặp tù ở cung Thái ất cũng là khách thắng. -Nếu nhị Mục cùng bốn tướng hiệp lẫn nhau là 2 bên cùng dương có âm mưu. -Nếu Thiên về hiệp 1 tướng một Mục tất bên hiệp sẽ bại. -Khách tại nội, ngoại gặp Bách mà hiệp đều là bất lợi cho việc hành động trước. -Nếu Văn xương gặp tù bách mà khách Đại Tiểu tướng hiệp là đều bất lợi chủ. Chấp đề: -Chấp đề là Thái ất hợp cùng hai cửa Khai và Sinh. Đề cách: -Đề cách là Thái ất xung với hai cửa Khai và Sinh. -Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ, không nên cử sự. Xem việc quân cũng như thế. Tứ quách cố: -Tứ quách cố là văn xương gặp tù ở cung Thái ất. Chủ đại tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích, hoặc khách Đại tiểu tướng tương quan, hoặc cùng chủ đại, tiểu tướng tương quan. -Tuế kế mà gặp như thế là có hoạ thoán ngôi, kẻ dưới giết bề trên. -Có Khách tham tướng, văn xương cùng có mặt chủ đại tướng cùng khách đại tướng tương quan. -Có kiêm cả Yểm, Bách, Quan, Cách, là “Tứ quách đô”, là bất lợi cho việc xuất quân, đều bị Yểm không thong, mọi việc không thành. Đó là rất hung. CHỌN CHỦ KHÁCH VÀ THÁI ẤT, NHỊ MỤC TỐT XẤU. Âm dương hoà hay bất hoà là nói về Thái ất, Chủ Khách, nhị Mục, thần nào đóng ở cung nào. Chủ về tai hoạ do bầy tôi mạnh. Tuy ở cung dương mà tính được thuần dương cũng không tốt. Nếu năm đó tính được số 14, 18, 23 là Thương hoà; chủ về tám phương bình an, nước có điềm lành. Nhị mục mà được như vậy là các tướng đại lợi. Các số 23, 36, 29 là Thứ hoà. Chủ về tình hình thiên hạ yên hoà, nhân dân vui vẻ, mùa màng được. Các số 12, 16, 27, 34, 38 là Hạ hoà. Chủ về chín cõi bình an, cơm no áo đủ. Tuế kế mà gặp như vậy là năm thông thuận. Tính được các số 16, 26, 36, 17, 27, 37, 18, 28, 38, 19, 29, 39 là Tam tài đều đủ. Tính Tuế kế mà gặp thế, lại không có Quan, Tù, Yểm, Bách, Cách, Đối, Đề, Hiệp phạm vào là chủ về việc trời, giáng phúc lành, dân yên, mùa được. Nếu số tính được các số đơn: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 không đến số 10 là số đến số 10 là số Vô thiên. Hoặc gặp quan, tù, yểm, bách, cách, tuyệt và âm dương bất hoà là trời có biến đổi lạ thường, hai sao bị ăn khuyết, năm vì sai lệch, sao Tuệ (sao chổi), sao Bột (sao thổ) xuất hiện là có tai hoạ về sương buông và mưa đá. Nếu tính được số 11, 12, 13, 14, 21, 23, 24, 31, 32, 33, 34 số tính không quá 5 là 5 là Vô Địa. Hoặc gặp các điều xấu thì mặt đất có nhiều biến đổi lạ thường như núi lở, đất rung, sông cạn, nước bồng; thậm chí còn có sâu bọ nảy sinh, dân chúng xâu xé lẫn nhau. Nếu tính được số 10, 20, 30, 40 là số không qua 1 là Vô nhân. Hoặc có các điều phạm về bất hoà thì con người có biến đổi lạ thường (cãi cọ, lật lọng, dối trá, trộm cướp…). Thậm chí còn loạn lạc, tật dịch, phiêu bạt, mất mùa, chết đói, rất nhiều tai hoạ. Nếu như tính được các số 2, 12, 32 là đủ ba x của năm tương phát, lợi việc dấy binh xuất quân. Nếu như số tính được 10 là Tướng quân, được 5 là Lại sĩ, được 1 là binh lính. Không trúng số 10 là không có Tướng; ra quân không có lợi cho chủ tướng. Không trúng số 5 là không có Lại sĩ; bất lợi cho phó tướng. Không trúng số 1 là không có binh lính; bất lợi cho quân sĩ. Nếu như tính được từ số 16 trở lên là Hoà, là Tướng, Lại, quân lính đều đầy đủ; lợi cho việc dấy quân, làm trăm việc. Nếu dưới số 16, số đơn từ 9 trở lên là bất lợi cho việc ra quân, kỵ trăm việc. LUẬN VỀ CHỦ KHÁCH, TRƯỚC SAU. Như dân quân ở đồng bằng, cờ trống cùng trông, thấy nhau; hành động trước là khách, ứng phó sau là chủ. Nếu ở thời an cư, hành động trước là chủ, ứng phó sau là khách. Sách phong giốc chiêm nói: Làm vua một xứ, độc 1 mình là chủ; đem quân vào đất lạ là khách. Sách Thống tôn nói: Lấy Trung Quốc là chủ thì xem chủ mục, Văn xương. Lấy rọ ngoài là chủ thì nhìn khách mục, Thuỷ kích. Sách Đăng dàn nói: Như bốn tướng cùng 1 cung, thì Khách có thể Quan được Chủ, chủ không thể Quan được Khách. Đương lúc như vậy nên cử binh trước để ứng chiến với Khách. Nếu là Chủ mà khởi sự sau thì gặp đại hung. Muốn rõ Thiên đạo, trước phải suy tính Chủ, sau suy tính Khách. Nếu cả chủ khách đều được kế lành, ba cửa đủ, năm tướng phát, âm dương hoà là lợi cho việc dấy binh, đi đâu được đó. Khởi sự trước là thắng, khởi sự sau tất bại. Nếu chủ khách đều gặp kế xấu, ba cửa không đủ, năm tướng không phát, âm dương không hoà thì khởi sự trước là bại, khởi sự sau sẽ thắng. Tính về cát hung, trường là thắng, đoản là bại. Tính chủ khách, lấy trường nhiều là thắng; đoản ít là thua. Trường nhiều thì nên vào sâu; trường ít thì vào nông. Xem nước ngoài động tĩnh ra sao, lấy giờ của phép tính khách mà xem vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Cửa đủ, tướng phát, âm dương hoà, chủ khách đều hội ở trước Thái ất thì giặc đến hàng. Như xem rợ Bắc Dịch, khách mục chuyển mà đi về phía Nam là giặc đến; chuyển đi về phía Bắc là giặc không đến. Xem về việc quân địch cho sứ đến giảng hoà, có thể tin hay không, nên xem Thái ất chế ngự. Như tính thời kế Thái ất ở cung 2 là Ly hoả. Thuỷ kích đến Thân, Vũ Đức là kim, Hoả chế khắc kim là sứ bên địch thực hàng. Xem có phản gián hay không, nên xem Khách mục trước và sau. Như Thái ất ở cung 1 Càn. Nếu chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng, Thuỷ kích đến các cung 6, 7, 2 là ngoài, là trước; đến các cung 8, 3, 4, 9 là trong, là sau. Nếu Khách mục Thuỷ kích đến Tuất là có giặc đến nhòm ngó. Xem quân giặc đến nhiều hay ít, nếu lấy số khách tính được 16 trở lên, âm dương thịnh là quân giặc nhiều, có tướng mạnh. Nếu được dưới số 15 thì quân giặc ít. Thiên mục đến phía trái thì giặc từ phía Đông kéo đến; đến phía phải thì giặc từ phía Tây kéo đến; vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Xem về sự đối địch, nên xem thế mây gió, chim bay, muông chạy. Cung Thái ất sở tại mà có gió mây, chim muông từ giữa bay lên thì phải chuẩn bị gấp. Như Thái ất ở cung Tốn là mộc, mà gió mây chim thú từ phương Càn kim bay tới là chế ngự Thái ất; là rất xấu. Gió mây, chim muông từ khu Chủ Đại tướng, Thái ất, Tòng Đức lại thì cần đánh gấp, vì Chủ Đại tướng lợi. Nếu từ cung khách mục, Đại tướng lại thì nên chuẩn bị đối phó với địch. Chọn ngày, chọn giờ nên xem cách tính ngày và giờ. Nếu lợi, sẽ dấy quân. Khắc chế không nên theo. (Phép tính ngày và giờ sẽ nói rõ ở sau) Xét chủ khách là vô thường, tuỳ người mà hoạt biến. Như xem năm Kỷ Tị niên hiệu Chính thống triều Minh, Thái ất vào cục 64. Thái ất đóng cung 2 Ly, trợ khách. Khách 24, hoà. Đại tướng phát, lợi là Khách lợi ở hành động trước. Chủ 38, tuy hoà, tham tướng phát nhưng Đại tướng gặp cách là trên dưới gặp cửa Đỗ. Thuỷ kích cũng bị cách là đổi thay biến dịch. Văn xương bị Bách Khách Tham tướng gặp tù là bức hiếp, trì trệ, giằng co, công kích, không lợi cho chủ; nên cố thủ. Lại Khách mục ở Khảm là thuỷ khắc Thái ất là hoả; rất xấu. Năm ấy Dã Tiên làm giặc, Vương Chấn (bầy tôi đời vua anh Tông triều Minh) không nghe lời bàn của quần thần, ép vua thân chinh, bị thua ở Thổ mộc (một địa danh ở Trung Quốc). Vua đi tuần thú phương Bắc, chỉ lấy tính về chủ, về Khách đều được hoà, cuối cùng quay được về. Đó là sự nghiệm về Trung Quốc là chủ, rợ ngoài là khách; ứng phó là Chủ, hành động trước là Khách. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, Thái ất vào cục 13 Thái ất ở cung 9, trợ khách Khách là 23, trường hoà. Tham tướng tù Đại tướng phát lợi cho khách, lợi hành động trước. Chủ là 16, hoà Hai tướng phát, cùng lợi cho chủ. Chủ đoản, khách trường. Trường mà nhiều là thắng. Chủ và Khách đều tính được số lành. Lợi cho việc dấy quân; khởi sự trước là thắng, khởi sự sau là bại. Khách mục ở Thân là kim, khắc Thái ất mộc; rất xấu. Văn xương đối xứng với Thái ất là xung tai. Năm ấy, nhà Minh sai tướng Hoàng Trung đem quân đưa Trần Thiện Binh về nước ta. Chúa họ Hồ cự chiến ở Lạng Sơn; trước thua sau thắng. Vua Thành Tổ nhà Minh cả giận, phát đại quân sang đánh. Trương Phụ và Mộc Thanh chỉ huy 2 đạo quân cùng tiến, phá quân Hồ, chiếm đất Giao Châu. Chỉ lấy Chủ tính được hoà, các cửa đủ, tướng phát nên cuối cùng thu phục lại được và lập quốc. Đó là nghiệm về ở đất vua là chủ vào 6 cõi khác là khách; ứng chiến sau là Chủ, khởi động trước là Khách. Năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Lạc, Thái ất vào cục 27, Thái ất đóng cung 1 Càn, trợ thủ. Chủ 30, trường hoà. Đại tướng tù. Thái ất ở kim khắc Thuỷ kích là mộc. Lợi chủ, lợi cho hành động sau. Khách 26, chủ đại. Tiểu tướng hiệp khách đại tướng, bất lợi cho khách. Năm ấy, Bản nhà Thất lý chống lệnh triều đình. Vua Thành Tổ tự đem quân đi đánh phương Bắc. Đánh bại chúng ở sông Cán Nan. Đó là Trung Quốc, rợ ngoài là Khách, khác cõi là Khách. Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc Thái ất đóng cung 4 Chủ 25 Cửu là Đỗ. Đại tướng phát. Lợi cho Khách, lợi cho sự hành động trước. Năm ấy đức Cao Hoàng triều ta khởi binh ở Lam Sơn, lần lần đánh giặc đều thắng. Quan Tam Ty nhà Minh phải giảng hoà kéo quân về Bắc. Nước An Nam mới thu phục lại được, bởi vì bên kia chiếm nước ta, chia ra quận huyện thì họ là chủ, ta chỉ là 1 chốn khởi binh thì ta là khách. Thế là trong nước là Chủ, ngoài nước là Khách, mà có cái nghĩa đất là của vua đã rõ ràng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Tuyên Đức, Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Số tính là trường. Văn xương bị ngoài Bách. Khách mục khắc chế Khách tham tướng cách Đối bất lợi cho Chủ nhân Khách đoản cũng bất lợi nhưng được Thượng hoà Khách đại tướng và tiểu tướng hiệp chủ tham tướng. Chủ đại tướng hiệp khách tham tướng là 2 bên đối địch nhau, cùng mưu diệt nhau. Tình thế này, khởi động trước là bại, khởi động sau mới thắng. Trong khung cảnh cờ trống cùng trông thấy nhau thì khởi động trước là Khách, khởi động sau là Chủ. Đức Cao Hoàng ta đã vây Đông Đô, các lộ đã hạ được cả. Tháng 2 năm ấy, hai thượng tướng là Lê Triện và Lê Công Thành bị thua, chết hại binh lính hàng vạn người. Tháng 10, đại tướng nhà Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn quân đến xâm phạm. Quân ta nhử đánh ở trên ải Chi Lăng, phá tan quân địch, chém chết Liễu Thăng. Đó là biểu tượng của sự hai bên cùng o ép lẫn nhau (hỗ hiệp). Khởi sự trước là bại, chủ khách vô thường là thế. Cho nên, nhất thời, hai bên cùng chiếm 1 cục, đều nên lấy đó mà suy lường mới rõ nghĩa của Chủ Khách; quyết được thời cơ hành động sau hay trước. Khách tính được thượng hoà thì tám phương thanh bình, khang thái, thiên hạ ngừng binh. Từ đó Nam Bắc kết giao hoan hỷ, trong ngoài không còn chuyện gì. CÁC SỐ PHỐI HỢP NGŨ ÂM Các số phối hợp ngũ âm như sau: -Số 1 là cung -Số 2 là tỷ cung. Có biến động ở vua, số tính mà hoà, không có Tù, Bách thì vua có phúc lành. Bất hoà lại có Tù, Bách là trời biến động, vua có điều lo. Như xem năm Kỷ Mão, niên hiệu Vũ Đức thứ 2 triều Đường, năm này Thái ất vào cục 16, nguyên Giáp Tý. Thái ất ở cung 7 Thiên mục ở Mùi, Thiên đạo. Chủ tính được 1, hoà. -Số 3 là Chuỷ. -Số 4 là Tỷ chuỷ. Có biến ở tôn miếu. Số tính hoà là có tăng bổ, chủ về tôn thần. Bất hoà và bách, kích lập tức bị phế hoại. Như xem năm Đinh Mùi niên hiệu Thái Khang thứ 8 triều Tấn; năm này Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Thiên mục đóng cung Sửu, dương đức Chủ tính được 33, Chuỷ. Thiên mục, gián thần gặp Bách Chủ Đại tướng ở ngoài cung Bách Năm ấy nhà Thái miếu gặp tai họa -Số 5 là Vũ. -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 7 là Thương. -Số 8 là Tỷ Thương. Có biến ở con cháu. Tính được hoà, không gặp Quan, tù, yểm, bách là chủ về việc Thái tử được lập; trái thế là có sự lo. Như xem năm Giáp Thân niên hiệu Thiên Tích năm đầu triều Nguỵ. Thái ất vào cục 17. Thái ất đóng cung 7 Thiên mục tại Khôn, Đại vũ. Chủ tính được 7 Năm ấy lập Hoàng thái tử. -Số 9 là Giốc -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 10 là Tỷ Giốc. Có biến ở dân chúng. Tính được hoà, không gặp Tù, Bách, là dân yên vật thịnh. Trái thế là phát sinh tật dịch, đói rét, sâu bệnh. Như xem năm Bính Tý, niên hiệu Kiến An năm đầu triều Hán. Thái ất đi vào cục 25. Thái ất đóng cung 1 Càn Thiên mục tại Tý, địa chủ. Chủ tính được 39 Năm ấy có bệnh dịch lớn Từ số 1 phối với Cung là suy nghiệm về tai biến phát. Xem năm, tháng, ngày, giờ đều lấy năm Kế thần đóng, thêm vào Hoà Đức. Xét rõ Thái ất đi đến cung thần nào là kỳ hạn tai biến phát sinh. Thái ất ở cung 2 Ly, chủ năm, tháng Ngọ gặp tai hoạ. Thái ất đóng cung 9 Tốn, các năm Thìn Tị gặp tai hoạ (việc Hoàng Hựu nhà Tống). Năm Nhâm Thìn, Thái ất đóng cung 7 Khôn, kế thần ở Tuất. Lấy Tuất đặt là Cấn, Hoà Đức, tính thuận. Càn ở Dần Hợi ở Mão Tý ở Thìn Sửu ở Tốn Cấn ở Tị Dần ở Ngọ Mão ở Mùi Thìn ở Khôn Tốn ở Thân Tị ở Dậu Ngọ ở Tuất Mùi ở Càn Khôn ở Hợi Thái ất lâm Hợi, tháng 10 là thời điểm có tai hoạ Hoặc Thái ất, Thiên mục cùng lâm vào cung 3 tất các năm, tháng Sửu, Dần là thời hạn có tai hoạ. THÁI TUẾ Thái tuế là biểu tượng cho người chủ lãnh đạo các thần. Đi tuần thú quốc gia, thăm hỏi các địa phương, đem quân ra trận, kiểm tra nơi cảnh giới, đều không thể không xem cho kỹ. Nếu Tuế quân (Thái tuế) và Thái ất cùng gặp Cách là đại hung. Thái ất đóng cung 3 mà Thái tuế ở Mùi là cách. Có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Nam, là các nước phía Đông Bắc bại hoại trước, các nước phía Tây Nam bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông Bắc thì trái lại. Hiện tượng này chủ về sự lưu vong, tật bệnh. Thái ất đóng cung 4, Thái tuế ở cung Dậu cũng là cách. Khi có sao Thái Bạch xuất hiện ở phương Tây là nước phía Đông bại hoại trước, nước phía Tây bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tật dịch, lưu vong. Thái ất đóng cung 8, Thái tuế ở cung Ngọ cũng là cách. Khi có sao Huỳnh hoặc xuất hiện ở phương Nam, là nước phía Bắc bại hoại trước, nước phía Nam bại hoại sau. u sao đó xuất hiện ở phương Bắc thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự loạn lạc, tang thương. Thái ất ở cung 9, Thái tuế ở Tuất Hợi cũng là cách. Khi có sao Bột xuất hiện ở phương Tây là nước ở phương Đông bị bại hoại trước; nước ở phương Tây bị bại hoại sau. Nếu sao Bột xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự tang thương, tật bệnh. Khi có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Bắc, là nước ở phương Đông Nam bại hoại trước; nước ở phương Tây Bắc bại hoại sau. Nếu sao Chổi xuất hiện ở phương Đông Nam thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tang thương, tật bệnh. Nếu Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 lại bị cách mà Thái tuế ở các cung Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đều có sát khí yêu tinh hiện ở phương đó thì nhà vua nên tu sửa đức độ, làm tốt chính sự để tránh đi. Và nên đổi niên hiệu, xá hình tội thay đổi chính lệnh để ứng phó với sự biến động nên xảy ra. Ngoài những năm nói ở trên là không bị cách, và do nguyên nhân có sinh khí. THÁI ÂM Giả dụ như năm Tý thì Thái tuế đóng cung Tý; cung Hợi là hợp thần. Sau hai cung tức là cung Tuất là cung Thái âm đóng. Các năm khác dựa theo đó mà tính. Thái âm là vị hậu phi của Tuế đức, chủ về dạy dỗ, khuyên bảo, hứa hẹn. Ở sau Thái tuế 2 thần. Như tính về Thái ất mà Thái ất và Thái âm cùng cung là tất có nước láng giềng đem tiến cống con gái đẹp. Văn xương hoặc Thuỷ kích cùng cung với Thái âm là Hậu phi có lòng nghiêng ngả, phụ nữ chủ về mưu mô. Nhà vua gặp năm như thế thì phải thân thiết với các trung thần, xa lánh kẻ dèm nịnh, cẩn mật với tả hữu, dứt việc nữ sắc, để phòng suy vi.
  18. Như đã biết, trống đồng Sabah được khám phá thuộc vùng đảo Borneo của Indonesia và Malaysia, Sabah thuộc vùng đất của Malyasia, tượng trưng cho mặt trăng, cho thủy triều vùng đất này. Đảo Borneo có đường Xích đạo đi qua khoảng ở kinh tuyến 108 độ, cho nên là vùng đất có thủy triều lên xuống với biên độ có lẽ là lớn nhất. Trống Trăng Sabah Bảo tàng bang Sabah tại thành phố Kota Kinabalu, Malaysia Thực sự rất đáng tiếc là tang và thân trống chỉ còn những mảnh vụn nhỏ, không thể khôi phục được cho nên chúng ta không nhật biết được hoa văn trên đấy. Liên quan đến mặt trăng, trong Lý học Đông phương là một hành tinh quan trọng đối với cơ chế sinh lý của vạn vật trên địa cầu, chu kỳ vận động trên đường Bạch đạo khoảng 28 ngày đêm. Góc nghiêng của mặt trăng so mặt phẳng Hoàng đạo Đường Xích đạo đi qua đảo Borneo Thủy triều do mặt trăng Ngoài trống Sabah với bề mặt thể hiện rõ hình tượng thủy triều cao nhất tại quần đảo Borneo thuộc vùng Xích đạo thì tại Việt Nam, chiếc trống đồng Đào Xá, xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú năm 1978, với tâm trống không phải là mặt trời tỏa ra ánh sáng mà là hình tượng vòng tròn trơn - đây chính là biểu tượng của mặt trăng. Trống đồng Đào Xá Xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú năm 1978. Hoa văn mặt trống Đào Xá không đưa ảnh lên được nhờ ai đưa lên giùm Từ mặt trăng tâm trống cho tới vành có 4 con rồng đất Komodo thuộc Indonesia có 7 vành trắng - tượng trưng cho 7 ngày trong một tuần. Chu kỳ vận động của mặt trăng quanh địa cầu cũng được quan sát và quy ước tương ứng so với vị trí Nhị thập bát tú, con số 7 chòm sao được tượng trưng cho bốn phương. Rồng đất Komodo Indonesia Ở đây, 4 con rồng Komodo định vị 4 phương đông, tây, nam, bắc và tượng trưng cho vùng hải đảo, vùng đất thấp, tượng trưng cho Âm, hay còn gọi là Lạc Việt. Đối với vùng nước ngọt, thay vì con rồng Komodo là con cá sấu chúa tể cõi nước ngọt. Vùng hải đảo sinh sống của rồng đất Komodo Indonesia Giữa 2 viền tam giác sắc cạnh cũng là 7 vành trắng tượng trưng cho 7 ngày trong một tuần. Như vậy, chiếc trống trồng Đào Xá này cũng là loại trống diễn họa ý nghĩa thủy triều của mặt trăng, đồng thời cũng diễn tả 14 ngày của một tháng thông qua hình tượng con rồng đất Komodo của Indonesia, nơi hiện tượng thủy triều lên xuống dữ dội nhất, là ảnh hưởng quan trọng nhất tới đời sống cư dân của các vùng biển, hải đảo Đông Nam Á. Trăng Trung thu Con số 14 ngày trong tháng chính là ngày rằm, trăng tròn sáng nhất trong một tháng, như vậy biểu tượng của mặt trăng tại tâm trống là trăng tròn nhất và chính là trăng rằm Trung Thu. Từ dữ kiện này, thì mặt trời tâm trống chính là lúc chính Ngọ, tức lúc mặt trời ở thiên đỉnh và tại cung Mão, hành Mộc, tháng 4, trong một năm. Chiếc trống này thuộc loại trống Lùn, Heger IV, tượng trưng cho cung Khảm, phương bắc, hành thủy. Như vậy, chu kỳ trăng 28 ngày (27.3 ngày thực tế) được xác định. Đối với chiếc Trống Trăng Borneo ở trên, mặt trời ở tâm trống có 12 cánh là 12 tháng, 7 viền ngoài tượng trưng cho 7 hành tinh (mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao kim, sao thủy, sao mộc, sao thổ, sao hỏa) quan sát thiên văn chứ không phải là 7 ngày trong một tuần mặc dù vành trống tượng trưng cho thủy triều cao nhất. Ngoài vành tam giác, có hai viền trắng nhỏ chính là thể hiện ngoài trái đất, tức Hệ mặt trời, còn biên rộng trắng trơn tiếp theo thì tất nhiên, đó là vũ trụ ngoài Hệ mặt trời. Nếu chúng ta không nhận biết được "Mặt Trăng" cũng được diễn họa tại tâm trống đồng thì rất khó để phân tích, giải nghĩa được những chiếc trống có liên quan đến vùng hải đảo Đông Nam Á. Lẽ tất nhiên, hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực đối với thiên văn Văn Lang có là gì mà không biết.
  19. Ai mới thực sự là Quốc tổ của người Việt? Việc truy tôn một người nào đó là Quốc tổ là việc hệ trọng. Vậy mà, chỉ điểm qua các báo gần đây cũng thấy có đến vài vị Quốc tổ khác nhau. Trong cây phả hệ của một dòng họ/chi nhánh dòng họ, Ông tổ được coi là người khởi dựng dòng họ/chi nhánh dòng họ ấy, là người có quan hệ huyết thống với các hậu thế của mình. Trong một nghề thủ công, Ông tổ nghề được coi là người sáng lập và truyền dựng nên nghề ấy. Người ta thường dựng nhà thờ Tổ, xây ngôi mộ Tổ, cử hành giỗ Tổ để thành kính tưởng nhớ công lao của một vị Tổ. Những việc làm đó mang ý nghĩa tâm linh sâu xa, hướng về nguồn cội và có tác dụng giáo dục các thế hệ phát huy truyền thống gia phong hay bảo tồn những nguyên tắc tốt đẹp của nghề nghiệp. Vì vậy, việc coi một người nào đó là Ông tổ là một việc hệ trọng. Trong phạm vi một dòng họ hay một nghề còn như vậy, việc truy tôn một người nào đó là Quốc tổ, người khởi dựng nên một quốc gia, một dân tộc lại càng là việc hệ trọng hơn bội phần. Vậy mà, điểm qua các báo gần đây ta thấy gì? Sau đây là bốn ví dụ trong số nhiều tin tương tự: 1. Khởi công xây dựng Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân: Chiều 26/3, Bộ Văn hóa Thông tin (?) đã tổ chức khởi công xây dựng Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân tại khu đồi Sim, xã Chu Hóa, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. (Báo Vn Media) 2.Lễ giỗ Ðức Quốc Tổ Lạc Long Quân và dâng hương Tổ Mẫu Âu Cơ (TTXVN) 3.Kiên Giang: Đền thờ Quốc tổ Hùng Vương đón nhận bằng di tích LSVH (Báo Tiền phong ) 4.Tượng Quốc tổ, 18 tượng Vua Hùng được công nhận lớn nhất Việt Nam. (Báo Thanh niên) Quốc Tổ, Hùng Vương, Lạc Long Quân Như vậy, - Theo bài 1, ở Việt Trì, Quốc tổ là Lạc Long Quân; còn theo bài 2), ở khu di tích lịch sử Đền Hùng, Quốc tổ cũng là Lạc Long Quân, bởi từ "Đức" ở đây là để tỏ ý tôn kính, tương tự như nói Đức Phật, Đức Chúa, Đức Thánh Trần, Đức Bà... nên Đức Quốc tổ cũng chỉ là Quốc tổ mà thôi; - Theo bài 3, ở Kiên Giang, Quốc tổ là Hùng Vương (thứ nhất?). Các đền thờ Hùng Vương ở TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai... đều ghi "Đền Quốc tổ Hùng Vương". Trước đây Đền Hùng Phú Thọ cũng có tên là "Đền Quốc tổ Hùng Vương". - Theo bài 4, ở Gia Lai, Hùng Vương (thứ nhất?) không phải là Quốc tổ, vì đã có tượng đứng cùng với 17 vị khác; còn Quốc tổ “môi đỏ như son, da trắng như tuyết” thì không có tên! Và dường như tất cả các hoạt động và sự kiện này, từ ý tưởng dự án, thiết kế, xây dựng... đến khánh thành đều có vai trò quản lý nhà nước của Sở Văn hóa sở tại. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nay cả nước có 1417 di tích thờ vua Hùng và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương. Hầu khắp các tỉnh thành từ Bắc chí Nam, nơi nào cũng tổ chức cúng lễ ...Nhưng với việc sử dụng các danh xưng bất nhất như trên thì ai là Ông tổ đích thực của chúng ta? Sắp tới các cháu học sinh sẽ phải trả lời thế nào, nếu có các đề thi liên quan trong môn Lịch sử? TS.Phan Văn Khôi ------------ Nhà sử học Lê Văn Lan: Gọi Lạc Long Quân là quốc tổ là 2 lần sai GS sử học Lê Văn Lan cho biết, ông đã nhiều lần góp ý với Phú Thọ rằng chỉ nên gọi Hùng Vương là Quốc tổ còn Lạc Long Quân thì không. "Chúng ta đang cố gắng chứng minh Hùng Vương là có thật, và điều đó đang dần sáng tỏ. Còn Lạc Long Quân là nhân vật huyền thoại, không thể có thật được. Nếu gọi Lạc Long Quân là Quốc tổ là 2 lần sai. Cái sai thứ nhất là gọi nhân vật không có thật là Quốc tổ. Cái sai nữa là về lịch sử vì Lạc Long Quân chỉ là nhân vật huyền thoại". Nhà sử học Nguyễn Ngọc Tiến: Lạc Long Quân và Hùng Vương đều là nhân vật truyền thuyết. Nhưng tài liệu sử sách ghi lại thì đều thể hiện Hùng Vương mới chính là Quốc tổ. Nói như vậy để thấy rằng Hùng Vương là nhân vật có tài liệu chứng cứ ghi chép rõ ràng. Trong khi đó Lạc Long Quân do truyền thuyết ghi lại thành sử rồi bị sai lệch năm này qua năm khác. Gọi Hùng Vương là Quốc tổ là chính xác. Tôi ghi chú: 1. Quốc Tổ là Lạc Long Quân, Quốc Mẫu là Âu Cơ. 2. Sinh 100 trứng tượng trưng cho Hà đồ - Lạc thư tức Cha Mẹ. 3. Cấu trúc đình, chùa, quán... nội Công ngoại Quốc. 4. Truyện Đại hồng thủy: hai anh em lấy nhau sau khi thoát chết vì ở trong một cái Trống đồng. Từ truyện Hồng Bàng Thị thì Lạc Long Quân và Âu Cơ là hai anh em họ, để từ đó lấy làm truyền thuyết trên toàn thế giới. 5. Hùng Quốc Vương đặt tên nước Văn Lang, là con cả, hàm ý Quốc gia có cha mẹ là Lạc Long Quân và Âu Cơ. 6. Kinh Dương Vương đặt tên nước Xích Quỷ, tùy theo dòng chảy lịch sử để quy định, còn liên quan đến tôn giáo thế giới nữa. 7. Con chim Quốc tượng trưng cho dòng họ Thục Phán, An Dương Vương, Mặt trời lặn, đời cuối cùng của Hùng Vương. 8. Cái Quốc biểu tượng cho Hùng Quốc Vương, cái Xẻng/ Mai biểu tượng của Lạc Long Quân - chòm sao Nam Đẩu, tượng trưng phương Nam. 9. Tượng trưng cho Rồng Tiên. 10. Theo mối quan hệ bộ ba "Dũng - Trí - Nhân": "Hùng Quốc Vương/ Thánh Cô - Kinh Dương Vương/ Thần Long - Lạc Long Quân/ Âu Cơ". Tỉnh Việt Trì xây đền Quốc Tổ Lạc Long Quân và Quốc Mẫu Âu Cơ ở hai bên Đền Hùng, có lẽ đã lệch phương vị phong thủy, đền Quốc Tổ phải ở bên trái (từ Đền Hùng nhìn thẳng ra minh đường) và đền Quốc Mẫu phải ở bên phải theo quy tắc "Dương trái Âm phải", không biết "thằng nào" tư vấn vậy!
  20. Trích lại bài viết của cụ Hà Uyên để cùng tham khảo: Lục Nhâm là một trong ba môn Tam thức, bao gồm Thái ất - Lục Giáp - Lục Nhâm. Lục Nhâm là một môn có giá trị ứng dụng rất lớn trong đời sống, chủ toàn vẹn pháp thức về "NHÂN". Đối với Thái Ất thì chủ toàn vẹn về "THIÊN", sự phối hợp của những chu kỳ hành tinh với Trái đất và con người định cư trên trái Đất. Còn đối với Lục Giáp Kỳ môn thì chủ vẹn toàn pháp thức về "ĐỊA". Điều lệ mà Lục Nhâm quy định: Đất và Trời được phân thành 12 cung, đối ứng với Đất được gọi là Địa bàn, đối ứng với Trời được gọi là Thiên bàn. Tên gọi được sử dụng cho từng cung của Thiên bàn và Địa bàn giống nhau: Tý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi. Lục Nhâm căn cứ vào cung của mặt Trời và cung của trái Đất đối xung nhau, hình thành nên pháp thức Lục Nhâm. Cung của mặt Trời được định Danh là Nguyệt tướng. Đối với trái Đất khi đối xung với mặt Trời, thì căn cứ vào Giờ đương chiêm nghiệm hay là giờ sinh của Vận Nhân - do bởi trái Đất tự xoay quanh 12 giờ làm một ngày. Nguyệt Tướng - cung của mặt Trời, thông qua Nguyệt kiến, được xác định: NGUYỆT KIẾN Tháng Giêng: kiến Dần, --> Lập xuân - Vũ thủy Tháng Hai kiến Mão: --> Kinh chập - Xuân phân Tháng Ba kiến Thìn: --> Thanh minh - Cốc vũ Tháng Tư kiến Tỵ: --> Lập hạ - Tiểu mãn Tháng Năm kiến Ngọ: Mang chủng - Hạ chí Tháng Sáu kiến Mùi: --> Tiểu thử - Đại thử Tháng Bảy kiến Thân: Lập thu - Xử thử Tháng Tám kiến Dậu: --> Bạch lộ - Thu phân Tháng Chín kiến Tuất: --> Hàn lộ - Sương giáng Tháng Mười kiến Hợi: --> Lập đông - Tiểu tuyết Tháng Một kiến Tý: --> Đại tuyết - Đông chí Tháng Chạp kiến Sửu: Tiểu hàn - Đại hàn NGUYỆT TƯỚNG - Vũ thủy - Kinh chập: --> nguyệt tướng Hợi - Đăng minh - Xuân phân - Thanh minh: nguyệt tướng Tuất - Hà khôi - Cốc vũ - Lập hạ: --> nguyệt tướng Dậu - Tòng khôi. - Tiểu mãn - Mang chủng: --> nguyệt tướng Thân - Truyền tống. - Hạ chí - Tiểu thử: --> nguyệt tướng Mùi - Tiểu cát - Đại thử - Lập thu: --> nguyệt tướng Ngọ - Thắng quang. - Xử thử - Bạch lộ: --> nguyệt tướng Tỵ - Thái ất - Thu phân - Hàn lộ: nguyệt tướng Thìn = Thiên cương. - Sương giáng - Lập đông: --> nguyệt tướng Mão - Thái Xung. - Tiểu tuyết - Đại tuyết: --> nguyệt tướng Dần - Công tào. - Đông chí - Tiểu hàn: --> nguyệt tướng Sửu - Đại cát. - Đại hàn - Lập xuân: nguyệt tướng Tý - Thần hậu. Trong khoảng Thời gian mà Trái đất trải qua 1 cung của mặt Trời, thì được định là 1 Nguyệt tướng, tương ứng với một Khí và một Tiết. Do bởi Trái Đất chuyển động theo chiều nghịch của mặt Trời, nên trải qua hết cung Hợi , sau đó Nguyệt tướng tiếp đến cung Tuất, Dậu, Thân, ...vv...mỗi cung được phối với một Khí và một Tiết. Lục Nhâm căn cứ vào Nguyệt tướng và Giờ chiêm quẻ (giờ sinh Vận nhân), khi an Nguyệt tướng vào giờ chiêm quẻ - lấy đây làm điểm khởi nguyên giữa Thiên và Địa, giữa Trời và Đất. Một ví dụ: Lấy Năm - tháng - ngày - giờ sinh của cháu bé mất tích - cháu An làm ví dụ. - Vận nhân, sinh 21/4/1990 d.l, giờ Tuất --> 26/3 a.l Canh Ngọ. Trong khí Cốc vũ bắt đầu ngày 25/3 â.l, khí Cốc vũ được khởi từ giờ Thân. Phải căn cứ vào giờ chuyển Khí - Tiết của mỗi tháng, để xác định Nguyệt tướng. Như vậy, Vận nhân có Nguyệt tướng là: Dậu - Tòng khôi. - Trong môn Lục Nhâm: TỨ BẢN là nơi được xác định là gốc. Tứ bản bao gồm: CAN - CHI - BẢN MỆNH - HÀNH NIÊN. Trong đó: 1/-Can là Can của ngày chiêm quẻ, hay là Can của ngày sinh, được ký gửi vào một cung của Địa bàn như sau: 1)- Ngày Giáp thì can Giáp được gửi vào cung Dần của Địa bàn. 2)- Ngày Ất...............Ất............................Thìn................ 3)- Ngày Bính............Bính.........nt................Tị.................. 4)- Ngày Đinh............Đinh...........................Mùi................. 5)- Ngày Mậu............Mậu..........nt...............Tị................... 6)- Ngày Kỷ...............Kỷ..............................Mùi................ 7)- Ngày Canh...........Canh..........................Thân.............. 8- Ngày Tân...............Tân...........................Tuất.............. 9)- Ngày Nhâm...........Nhâm..........................Hợi................ 10)- Ngày Quý............Quý............................Sửu.............. 1.2/- Chi là Chi của ngày chiêm quẻ hay là Chi của ngày sinh, được an vào cung có cùng tên với Địa bàn. 1.3/- Bản mệnh: là Chi của năm sinh ra đời, còn được gọi là Địa mệnh, được an vào cung có cùng Chi với Địa bàn. 1.4/- Hành niên: - Đối với Nam: kể 1 tuổi tại cung Dần địa bàn, thuận hành tới 2 tuổi tại Mão, 3 tuổi tại Thìn,...vv... - Đối với Nữ: kể 1 tuổi tại cung Thân địa bàn, nghịch hành 2 tuổi tới cung Mùi, 3 tuổi tới cung Ngọ,...vv... Theo ví dụ trên: lấy nguyệt tướng Dậu gia vào cung Tuất, tức là giờ chiêm quẻ hay là Giờ sinh của Vận nhân (chữ viết "in - đỏ" là Thiên bàn, chữ viết "thường - đậm" là Địa bàn). ..Chi thần..............Can thần....................................................... ...THÌN.....................TỊ..................NGỌ........................MÙI ..[ Tị ]..................[ Ngọ ]............[ Mùi ] ...................[ Thân ] Can ngày ....MÃO - Can thượng thần...........................................THÂN.... ..[ Thìn ]..................................................................[ Dậu ] Chi ngày sinh .....DẦN.........................................................................DẬU......>> Nguyệt tướng.......................... ..[ Mão ]..................................................................[ Tuất ]...--> Giờ chiêm, giờ sinh................. ....SỬU......................TÝ...................HỢI........................TUẤT...................................................... ..[ Dần ]..............[ Sửu ].............[ Tý ]...................[ Hợi ] - Định lệ của Lục Nhâm: 1.1)- CAN THẦN: là Chi trên Thiên bàn, có đồng một tên với Can được ký gửi vào Địa bàn, có nghĩa rằng "chữ Thiên bàn có đồng tên với can địa bàn. Được lập như sau: - Ngày Giáp thì định chi Dần thiên bàn là Can thần - Ngày Ất thì định chi Thìn thiên bàn là Can thần - Ngày Bính - Mậu thì định chi Tị thiên bàn là Can thần. - ngày Đinh - Kỷ thì định chi Mùi thiên bàn là Can thần - Ngày Canh thì định chi Thân thiên bàn là Can thần - Ngày Tân thì định chi Tuất thiên bàn là Can thần - Ngày Nhâm thì định chi Tý thiên bàn là Can thần. - Ngày Quý thì định chi Sửu thiên bàn là Can thần. Đối với ví dụ trên của cháu An, can chi ngày sinh là Bính Thìn, thì tại cung Ngọ của Địa bàn gặp chi Thiên bàn là chi Tị, có chứa can Bính và Mậu. Cho nên, chi Tị thiên bàn được gọi là Can thần. 1.2)- CAN THƯỢNG THẦN: tại cung Địa bàn của ngày đang xem, hay tại cung Địa bàn ngày sinh, gặp Chi nào của Thiên bàn, thì Chi này được gọi là Can thượng thần. Theo như ví dụ này, Chi ngày xem là Thìn, ta xem tại cung Thìn Địa bàn có chi Thiên bàn nào an vào, đó là chi Mão thiên bàn. Định danh cho chi Mão thiên bàn này là: Can thượng thần. Tôi ghi chú các vấn đề: - Nguyệt Tướng - cung của mặt Trời, thông qua Nguyệt kiến: chúng ta chú ý, "cung của mặt trời" lại thông qua "Nguyệt Tướng" tức "hình tướng của mặt trăng", ở đây phải có những ẩn ý, vì dựa trên sự quan sát và quy ước 12 tháng trong 1 năm, ứng khoảng 12 chu kỳ vận động của mặt trăng trên đường Bạch đạo xung quanh trái đất. - Có nhận thức tính quy luật của vị trí Mặt trăng và Mặt trời tại bất kỳ một thời điểm nào đó như "Nhật nguyệt đồng tranh" chẳng hạn, rõ trong Tử vi. - Còn cung của mặt trời: rất khó quan sát qua thiên văn, mặc dù vẫn nhận biết mặt trời đang nằm trong cung nào, chẳng hạn cung Song Ngư?. - Phải nhận thức rõ được Thiên bàn và Địa bàn, chưa nói đến Nhân bàn: Thiên bàn để luận giải tương tác và phương vị...? Địa bàn để luận giải tương tác hay phương vị...? - Thiên bàn trong bộ môn Độn giáp được quy ước trên 8 cung (nhưng kết quả tính toán dựa trên công thức không phải là 8, cần chú ý vấn đề này) cho phù hợp với Bát Môn để luận giải -> cần xem lại. - Trong bộ môn Độn giáp: sử dụng Thiên bàn và Địa bàn, còn con người luận giải được gọi là Nhân bàn - đặc tính của Cá nhân đó. Độn giáp thiên về quân sự, như vậy Nhân bàn có lẽ là quân cơ của mỗi bên, chẳng hạn tinh hay nhuệ, nhiều hay ít, thiên về vũ khí gì như đặc trưng về cưỡi ngựa/ bắn cung/ múa kiếm trên lưng ngựa rất thiện chiến của quân đội Mông Cổ...-> gặp Đại Việt thì... tiêu rồi!
  21. Vì sao nên gọi “Thần Đồng” thay cho “trống đồng”? Sau khi đăng bài "Hoa văn bí ẩn trên trống đồng", nhà nghiên cứu Dương Đình Minh Sơn đã có bài viết kiến giải thêm về vấn đề này. Theo ông, từ tên gọi cho đến hoa văn trên trống đồng còn nhiều bí ẩn và rất cần các nhà văn hóa, khoa học, dân tộc giải mã để làm đầy đủ thêm về một loại nhạc khí mang đậm chất hồn cốt của dân tộc. Nên gọi là "Thần Đồng" thay vì "trống đồng" Trống đồng là dịch từ chữ "đồng cổ" của Trung Quốc do Mã Viện ngụy tạo trong lần y đưa quân sang Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 – 43 C.N)). Đến bốn trăm năm sau (424 – 425) thuật ngữ "đồng cổ" được Phạm Việp định danh bằng Hán tự trong sách Hậu Hán thư quyển 54, mục Mã Viện truyện. Vì lý do đó tôi không muốn gọi một loại nhạc cụ mang hồn cốt của dân tộc Việt bằng cái tên có nguồn gốc ngoại lai. Theo nghiên cứu của tôi, bản chất trống đồng vốn được gọi là "Thần Đồng". Phải chăng thuật ngữ "Thần Đồng" có đầu tiên? Khi dân tộc ta tìm được thứ kim loại này và gọi là "đồng", về sau thấy giá trị ứng dụng của nó – khi vua Hùng pha thêm kim loại chì thành hợp kim đồng thau, nên suy tôn thành "Thần Đồng" lập đền thờ nơi tìm ra thứ kim loại ấy – tức là núi Khả Lao, Yên Định, Thanh Hóa. Thuật ngữ "Thần Đồng" còn để chỉ những người tài giỏi – "thần đồng". Do ở ta đã có thuật ngữ "Thần Đồng" gọi thứ Ấn tín của thời đại Hùng Vương – như Thần Đồng loại I – Ngọc Lũ. Mã Viện muốn đập nát thứ Ấn tín uy linh của dân tộc ta nên y cho thêm chữ "cổ" thành "đồng cổ" (trống đồng) thứ nhạc cụ tầm thường. Tôi lập luận như vậy là bởi, thuật ngữ đồng cổ – trống đồng khi đó quá mới mẻ, chưa thâm nhập vào tâm thức cư dân vùng Lưỡng Quảng. Nên ở vùng đó, khi đúc trống đồng họ không dùng dùi đánh thử mà dùng thoa (đeo tai) gõ. Do vậy, trong bài này tôi sẽ dùng từ "Thần Đồng" thay cho "trống đồng". Hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ Thần Đồng Việt Nam, khởi nguyên là "Thần Đồng" Ngọc Lũ, kiệt tác có một không hai của nhân loại: Hoa văn tinh xảo kỳ bí, sự giàu sang, quyền quý… Vì thế, đã thu hút nhiều nhà khoa học tìm cách giải mã. Người đầu tiên là nữ khảo cổ Pháp M. Colani cho rằng, hoa văn Thần Đồng (trống đồng) với các tia là tục thờ thần Mặt trời. Nhưng các tia nắng sao lại có 4-8-10-12-14-16? Sau khi có bài của Quách Văn về "Hoa văn bí ẩn trên trống đồng" trích nội dung trong sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của PGS.VS Trần Ngọc Thêm giải mã hoa văn trên chiếc trống đồng của làng Yên Bổng, Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình và trống đồng thôn Mống, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình – được lí giải theo biểu tượng: "vuông tròn, âm dương" bản chất của nền văn hóa tư tưởng của dân tộc ta. Biểu tượng "Thần Đồng" Ngọc Lũ kỳ công như thế, kiệt tác có một không hai của nhân loại không ai hoài công mà nói cái việc, ai ai cũng nói được là trời tròn đất vuông, mẹ tròn con vuông. Đây là việc làm của các bậc chiêm tinh, phong thủy, thầy bói đội ngũ đã sáng tạo ra sách Kinh Dịch. Vậy, hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ cũng thần bí như các Hào, các Quẻ của Kinh Dịch ấy. Phải giải mã biểu tượng và hoa văn thổ cẩm Một hiện vật biểu tượng văn hóa ra đời là kết tinh, hệ quy chiếu của nền văn hóa tư tưởng của dân tộc chủ nhân của cổ vật đó. Nếu cứ đứng ở hiện vật mà lý giải thì chẳng đem lại kết quả gì. Chỉ quanh quẩn: Vuông tròn – tròn vuông – Mẹ tròn con vuông – Đất vuông trời tròn âm dương… Bà M. Colani người Pháp thì không nói, còn chúng ta là người Kinh, phải tìm vào nền văn hóa của dân tộc để giải mã cho được… Tìm về những biểu tượng khởi nguyên có liên quan tới hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ, đã ghi lại ý niệm, từ thuở dân tộc ta mới có nhận thức – tức là các "tia" hay "cánh" bao quanh hình tròn giữa mặt "Thần Đồng" Ngọc Lũ, ở các di chỉ văn hóa Tiền Đông Sơn như hiện vật ở di chỉ núi Đọ, Thanh Hoá, hình này có số lượng (cánh sao) chưa rõ (ảnh 1a, B). Vì sao nên gọi Thần Đồng thay cho trống đồng? (hình 1: a, Nguồn của Hoàng Xuân Chính) Tiếp đến hoa văn của Thanh Hóa giai đoạn cao hơn và hoa văn ở Phùng Nguyên, Phú Thọ (ảnh 2: a, b, c). - Hình a – khu mộ Đông Sơn, các cánh chưa rõ, hình b hoa văn của Phùng Nguyên gần rõ 12 cánh và hình c rõ 14 cánh. Hình 14 cánh văn hoá Phùng Nguyên nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ. Vì sao nên gọi Thần Đồng thay cho trống đồng? Ảnh 2: a,b,c . Nguồn của Hà Văn Tấn. Hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ là biểu đạt về "khởi nguyên vòng đời" của con người từ quả trứng của người mẹ với chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày (tính trung bình): Núm tròn giữa chính tâm là quả trứng, 14 tia nổi quay ra và 14 tia chìm quay vào là 28 ngày của chu kỳ kinh nguyệt. Ở đây, 14 tia nổi quay ra thì tia nổi thứ 14 chỉ ngày trứng rụng – thụ tinh, còn 14 tia chìm quay vào (hình chấm đen) thì tia chìm thứ 14 chỉ ngày xuất hiện kinh nguyệt của đợt tới, nếu quả trứng vừa rụng đó không được thụ tinh (biểu đồ 3). Vì sao nên gọi Thần Đồng thay cho trống đồng? Biểu đồ 3. Biểu đồ 3 này phù hợp với biểu đồ ngày trứng rụng và chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày của người mẹ – sách Y học phẫu thuật bản Anh văn, tập V, tr 30 Thư viện viện Bà mẹ trẻ sơ sinh T.Ư, do BS Chu Kiện Sơn cán bộ Thư viện cung cấp (biểu đồ 4). Vì sao nên gọi Thần Đồng thay cho trống đồng? Biểu đồ. 4: Ngày 14 trứng rụng. Khi quả trứng của người mẹ rụng được thụ tinh, sẽ thành hai đường máu và phát triển bằng hai hướng theo biểu đồ 5 sau đây: Vì sao nên gọi Thần Đồng thay cho trống đồng? Biểu đồ . Sự hình thành hài nhi từ quả trứng của người mẹ. Kiểm chứng khoa học Hoa văn "Thần Đồng" Ngọc Lũ là cuộc lễ hội cổ nhất – xuất hiện đầu tiên của người Kinh ở châu thổ sông Hồng. Đến ngày vua Hùng tuyên bố thành lập nước Văn Lang, vua cho đúc "Thần Đồng" Ngọc Lũ làm bản Sử thi bằng những ký hiệu mật mã về "khởi nguyên vòng đời" của con người. Qua đó, mà hình dung về lịch sử của dân tộc từ khởi thủy đến ngày thành lập nước Văn Lang làm Ấn tín, biểu trương quyền lực của nhà vua. Đồng thời hoa văn còn là bản kiểm kê dân số của cả nước Văn Lang – lấy ngày 14 làm ước số, trước tiên là 280 ngày thai nhi trong bụng mẹ là bội số của 14. Hoa văn trên "Thần Đồng" Ngọc Lũ được quy lại thành bốn nhóm: 1) Hoa văn biểu tượng (cuộn thừng, chữ S…); 2) hoa văn đồ vật (thuyền đạo cụ, nhà…); 3) hoa văn chim thú…; 4) hoa văn hình người. 4 loại hoa văn ấy đếm rồi cộng lại đều là bội số của 14… Sở dĩ các nhóm có số liệu lớn nhỏ khác nhau – tức là "cư dân" sống ở từng vùng – mang tính biểu tượng. Chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày của người mẹ: Trứng rụng ngày 14 – tức là "dương", nếu không được thụ tinh 14 ngày sau xuất hiện kinh nguyệt – tức là "âm". Nó phù hợp 14 kinh dương và 14 kinh âm trong 28 vị tinh tú trên bầu trời "Nhị thập bát tú" đường đi biểu kiến của mặt trời. Bản Giải mã này dù chưa đầy đủ, công bố ở Tạp chí Khoa học xã hội bằng song ngữ. Bản tiếng Việt số 2/ 1011, tr 98 – 107, bản tiếng Anh số 3/20011, tr 108 – 118, nay sẽ đăng đầy đủ trong sách "Giải mã biểu tượng văn hoám Nõ Nường". Kính mong độc giả quan tâm vấn đề văn hóa của dân tộc đón đọc bài: Sáu hằng số: 4-8-10-12-14-16 ghi quanh "núm tròn" giã mặt Thần Đồng Việt Nam. Dương Đình Minh Sơn Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Dân tộc Âm nhạc Dương Đình Minh Sơn Lần giở hoa văn bí ẩn trên trống đồng Đã từ lâu, nhiều người biết đến chiếc trống đồng của người Việt với những hoa văn vuông, tròn, chim lạc, con cóc... Nhưng ít người biết những hoa văn đó ẩn chứa mật mã văn hóa của người Việt Nam đã được các nhà khoa học nghiên cứu non nửa thế kỷ. Biểu tượng vuông – tròn có từ Công nguyên? Đây là vấn đề lý thú mà chúng tôi tiếp cận được trong khi tìm hiểu thông tin về ý nghĩa một số loại hoa văn trên trống đồng. Trong tác phẩm “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” của PGS.VS Trần Ngọc Thêm nói về một loại hoa văn vuông – tròn thuộc loại hiếm trên trống đồng Yên Bổng, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình và trống đồng thôn Mống, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tác giả đã dựa trên cơ sở hoa văn của loại trống đồng này để giải mã triết lý của cha ông ta suốt hàng ngàn năm qua. Theo PGS.VS Trần Ngọc Thêm thì biểu tượng âm – dương của người Trung Quốc ra đời từ đầu Công nguyên. Trong khi đó, người Việt lại giữ được một biểu tượng âm – dương có truyền thống lâu đời hơn, đó là biểu tượng vuông – tròn. Có vuông có tròn tức là có âm, có dương. Nói “vuông tròn” là nói đến sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu “mẹ tròn con vuông”, “ba vuông bảy tròn”... Ca dao cũng nói “ba vuông gắn với bảy tròn, đời cha vinh hiển đời con sang giầu”, “lạy trời cho đặng vuông tròn/trăm năm cho trọn lòng son với chàng”. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn/phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông/nghĩ mình phận mỏng cánh chồn/khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”. Điều đặc biệt là cha ông ta đã biến quan niệm này thành biểu tượng lưu giữ muôn đời. Đó là hoa văn vuông – tròn đan lồng vào nhau ở rìa trống đồng Yên Bổng và Thôn Mống. Đây chính là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm – dương. PGS.VS Trần Ngọc Thêm cho rằng: Phải nhìn trên cái nền rộng như thế mới hiểu được cách giải thích quan niệm trời tròn, đất vuông theo lối dân gian như “trời tròn như cái bát úp, đất như cái mâm vuông” chỉ là cách lý giải ngây thơ. Thực ra đó là cách nói về triết lý âm dương mang tính hình tượng. Sở dĩ trời tròn vì trời là dương, mà biểu tượng của dương là hình tròn. Đất vuông vì đất là âm, biểu tượng của âm là hình vuông. Từ biểu tượng vuông – tròn trên trống đồng, PGS.VS Trần Ngọc Thêm đã khái quát hóa lên thành triết lý sống quân bình của người Việt Nam. Đó là trong cuộc sống cố gắng không để làm mất lòng ai, trong việc ăn ở thì giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể với môi trường tự nhiên. Triết lý quân bình âm dương không chỉ vận dụng cho người sống mà còn cả với người chết. Minh chứng cho việc này là phát hiện trong những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường, Thanh Hóa có niên đại vào thế kỷ thứ III Trước Công nguyên được gióng theo hướng Bắc – Nam. Trong những ngôi mộ này, các đồ vật bằng gỗ (dương) được đặt ở phía bắc (âm) và ngược lại, các vật bằng gốm đất (âm) được đặt ở phía nam (dương). Cách sắp xếp âm dương này, cộng với biểu tượng vuông – tròn trên trống đồng rõ ràng là để tạo ra sự quân bình. Hình ảnh hoa văn trên trống đồng theo miêu tả của PGS.VS Trần Ngọc Thêm. Còn bí mật chưa thể giải thích Để hiểu hơn ý nghĩa của các loại hoa văn trên trống đồng, chúng tôi đã tìm đến GS.TS Trịnh Sinh, Viện Khảo cổ học Việt Nam tìm lời giải thích. Theo đó, trên trống đồng Đông Sơn có nhiều loại hoa văn như hình mặt trời, chim lạc, con nai, con cóc... Đây là những hoa văn thể hiện đời sống sinh hoạt của cư dân nông nghiệp. Cụ thể, hoa văn hình mặt trời là tín ngưỡng thờ thần mặt trời của cư dân Đông Sơn gắn với văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước, bởi mặt trời là vị thần có quyền năng siêu việt, ban phát sự sống cho muôn loài. Chính vì thế mà trên trống đồng, mặt trời được đặt ở vị trí chính giữa, trung tâm, tỏa ánh sáng ra xung quanh nuôi dưỡng muôn loài. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt ở hoa văn hình mặt trời trên nhiều trống đồng được phát hiện. Đó là một số trống đồng có hoa văn hình mặt trời 6 cánh, 8 cánh, 12 cánh và 16 cánh. Liệu có bí mật nào ẩn sau sự biến hóa khôn lường của các con số chẵn 6, 8, 12, 16 hay không và tại sao lại có sự biến đổi kỳ lạ đến như vậy? Theo GS.TS Trịnh Sinh thì đây là vấn đề vẫn còn bí ẩn. Hiện vẫn chưa tìm ra mối liên hệ nào giữa các cánh sao ở hình mặt trời trên trống đồng với các tín ngưỡng của người Việt cổ. Ngoài hoa văn hình mặt trời, trên trống đồng Đông Sơn còn có hai vật tổ khác là chim lạc và giao long. Chim lạc là một loài quý có mầu sắc sặc sỡ giống như phượng hoàng. Giao long là loài vật giống như rồng, sống dưới nước, có sức mạnh lấn át các loài thủy vật khác và thuộc loại bá chủ dưới mặt nước. Còn một loài vật khác xuất hiện trên trống đồng đó chính là con cóc. Đây cũng là một biểu tượng cho quyền năng làm mưa gắn với tục cầu mưa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Dân gian có câu rằng “cầu cho mưa thuận gió hòa/trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”. Muốn được vậy mỗi năm, người ta phải tổ chức lễ hội cầu mưa một lần mong cây trồng tươi tốt, mùa màng bội thu. Năm nào hạn hán mà nghe thấy tiếng cóc nghiến răng thì ắt hẳn trời mưa to, người dân sẽ sung sướng, vui mừng. Theo lý giải của nhiều nhà nghiên cứu về các biểu tượng trên trống đồng thì ngoài con cóc còn một một biểu tượng khác là con nai và con gà. Nếu trời mưa dầm dề mà thấy đàn nai chạy xuống đồng thì ắt hẳn trời nắng. Năm nào khô hạn mà nai lại chạy xuống đồng thì năm đó mất mùa vì khô hạn. Hoặc như hình con gà là biểu tượng cho quyền năng gọi ánh sáng... Quách Văn
  22. Do bài toán liên quan đến bộ môn Huyền không phi tinh, cho nên chúng ta cũng cần lược qua các vấn đề và quy trình phi tinh đã và đang được sử dụng một cách phổ biến. Theo cố giáo dư Nguyễn Hoàng Phương, trong cuốn Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, chúng ta đang sống trong Tiết Sử Thử từ 1864-2044, thuộc Âm độn, do vậy quy tắc phi tinh niên vận (năm) là "Phi tinh nghịch". Kết quả này cũng được trình bày trong cuốn Kỳ môn độn giáp của chí sĩ Nguyễn Mạnh Bảo. Trong cuốn Lý thuyết tam nguyên cửu vận của giáo sư Hoàng Tuấn cũng là phi tinh nghịch. Sách tham khảo: Cũng theo Nguyễn Mạnh Bảo, Độn giáp dùng công thức Hà đồ tức bài toán đang dùng công thức Huyền không phi tinh trên Hà đồ. Tại thời điểm của 2 cuốn sách nói trên các tác giả chưa thực hiện công đoạn đổi chỗ Tốn, Khôn và độ số 7, 9 của hai cung Ly, Đoài. Quy ước Bát Môn dựa trên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu: Theo một số dự liệu xác định trên cơ sở thiên văn, lịch pháp từ các cuốn sách khác nhau, chúng ta đang ở trong Hạ nguyên, vận 8 từ 2004-2023 - thuộc trường khí của sao Bát bạch - thuộc tính Âm Mộc trên Hà đồ: Tam nguyên cửu vận: Quỹ đạo thăng giáng của Cửu Tinh (9 sao) trên Hà độ tạo thành 81 bước thay đổi (bao gồm 1 chu kỳ gồm cả Phi tinh thuận và nghịch) gọi là Lường Thiên Xích - Thước đo trời. Công thức Huyền không phi tinh phối Hà đồ của địa cầu: Hiện tại, Huyền không phi tinh liên quan đến bộ môn Bát trạch trong phong thủy, trong đó Phi cung mạng của một người nam hay nữ được xác định: - Cung mạng phi tinh Nam được xác định theo Phi tinh nghịch cho niên vận, bắt đầu bằng Khảm - Nhất bạch thủy tinh (1). - Cung mạng phi tinh Nữ được xác định theo Phi tinh thuận cho niên vận, bắt đầu bằng Ngũ Hoàng - Ngũ Hoàng thổ tinh (5). - Khi phi tinh gặp sao Ngũ Hoàng (5) nhập trung cung, Nam sẽ chọn cung Khôn nữ cung Cấn. Hai căn cứ trên hiện chưa được giải thích rõ ràng, đặc biệt tại sao Nam bắt đầu bằng Nhất bạch thủy tinh và Nữ khởi đầu bằng ngũ Hoàng thổ tinh và Nam sẽ chọn cung Khôn nữ cung Cấn? Nguyên tắc phi tinh xác định phi cung Nam Nữ đang sử dụng (Nữ khi dùng Ngũ Hoàng - 5 và phi nghịch xuống 4 - 3 - 2 - 1..., thì trong đó riêng cung Ngũ Hoàng - 5 sẽ được đổi thành cung Cấn - 8): Chúng ta luôn nhận thức về tính "Dương xướng Âm họa" của nguyên lý Âm Dương trong Hậu Thiên Bát Quái/ Huyền không phi tinh phối Hà đồ của địa cầu đi cùng Nam & Nữ (đang sống trên địa cầu, một thành phần đặc biệt của địa cầu), nếu chu kỳ hiện nay trong tiết Xử thử là "Phi tinh nghịch" thì theo nguyên lý "Dương xướng Âm họa", "Dương trước Âm sau"... thì Phi tinh nghịch cho Nam và nghịch đảo lại, phi tinh thuận cho Nữ. Từ việc xác định phi cung Nam bắt đầu bằng Nhất bạch thủy tinh, độ số 1, Dương Thủy, cung Khảm trên Hà đồ thì Nữ cùng "xướng họa" phải ở Thất Xích hỏa tinh, độ số 7, Dương Hỏa, cung Ly trên Hà đồ. Hiện tại, Nữ bắt đầu bằng sao Ngũ Hoàng 5 nhập trung cung (đổi thành Cấn). Nguyên nhân sao Ngũ Hoàng nhập trung cung cũng không ăn khớp tý nào về tính cân bằng với Nhất bạch thủy tinh. Mặt khác, về mặt thực tại, nếu có sai số phi cung nữ sao không thấy điều gì đặc biệt xảy ra? Vấn đề này là do quy tắc" Âm thuận tùng Dương" nên khi ứng dụng các bộ môn phong thủy trong xã hội, người Nam "thường" là gia chủ cho nên xác suất biến động do sai số phi cung từ người nữ làm gia chủ là rất nhỏ. Kết luận: 1> Vậy thì, theo sự hợp lý mang tính hệ thống, khi tính phi cung nữ ứng với nam phi nghịch Nhất bạch thủy tinh thì Nữ phi thuận phải bắt đầu bằng sao Thất Xích hỏa tinh. Đây là hai cung đối xứng nhau qua trung cung trên quy ước Dương độn và Âm độn. Quy ước này sẽ kết thúc vào năm 3304 tiết Đại Tuyết, bắt đầu vào năm 3305 thì nghịch đảo lại: Nữ phi nghịch bằng Nhất bạch thủy tinh và Nam phi thuận bằng Thất Xích hỏa tinh, nhằm xác định lại cung phi Nam Nữ dùng trong Bát Trạch và các bộ môn khác liên quan. 2> Đồng thời, khi phi tinh gặp Ngũ Hoàng thì Nữ chọn cung Cấn và Nam chọn cung Tốn, đối xứng qua trung cung, một nguyên tắc bất di bất dịch của nguyên lý Âm Dương. Sau năm 3305, Nữ chọn cung Tốn, Nam chọn cung Cấn. 3> Địa cầu đang trong chu kỳ của tiết Xử Thử, cho nên khi tiên đoán xã hội thế giới, quốc gia, gia cư... thì dùng Phi tinh nghịch cho niên vận. Sau năm 3305, dùng phi tinh thuận. 4> Tương tác theo Huyền không phi tinh khi được dùng để xác định Phi cung nam nữ thì đã chứng tỏ một vấn đề: Tương tác Huyền không bao trùm địa cầu -> đó là Quy luật vận động cửu tinh thuận nghịch lên Hà đồ của địa cầu theo quy ước Dương Âm độn -> Quy tắc thuận nghịch cho "Nam" và "nghịch thuận" cho Nữ. Ở đây, Nam và Nữ là một thành tố quy ước Âm Dương là "tập con" của "tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành" Địa cầu. Ghi chú: - Các bài toán không những liên quan đến sự hợp lý về mặt tổng thể, chi tiết mà còn cho cả kết quả ứng dụng trong xã hội như bộ môn phong thủy... nữa. - Chúng ta chưa xét đến sự hợp lý đối đối với bộ môn cực kỳ chính xác cho đến tận 1 mũi kim như Đông y chẳng hạn... - Chúng ta chưa so sánh Âm lịch với lịch Maya về cái năm Dương lịch đặc biệt 2012. - Hiện chưa truy bắt mốc chuẩn thiên văn và Âm lịch dùng trong các bộ môn Độn giáp, Thái ất như trình bày.
  23. Tôi sẽ sử dụng lại một phần kết quả nghiên cứu và những khám phá mới từ trước về quy tắc - trình tự - ứng dụng Độn Giáp của bác Vô Trước tại chuyên mục: "Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành". Trích một phần nội dung từ "Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành": " 3. Môn Độn Giáp và trường khí Vũ ảnh hưởng tới Trái đất: Trong môn Độn giáp các Sao Trực phù, Trực sử tương ứng với ảnh hưởng âm của trường khí Vũ trụ lên Trái đất như những nghiên cứu trên như sau: - Cung Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo vòng Thiên can (Cung chủ) được gọi là Trực phù. - Cung Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo giờ (Cung chủ) được gọi là Trực phù sa Địa bàn. - Cung Cảm ứng Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo vòng Thiên can lên sự vật trên Trái đất được gọi là Trực sử. - Cung cảm ứng Sao âm ảnh hưởng của trường khí Vũ trụ tới Trái đất theo giờ lên sự vật trên Trái đất được gọi là Trực sử sa Địa bàn. Posted Image Hình không hiện lên được Như vậy, thực chất của môn Độn Giáp theo cổ thư truyền lại là một môn khảo sát trường khí của Vũ trụ ảnh hưởng tới Trái đất, trong việc dự đoán tương lai. " Luận giải: - Chúng ta biết, dữ liệu đầu vào của Độn giáp bao gồm: Năm - tháng - ngày - giờ: Từ tháng, ngày là biết được Tiết khí (1 năm có 24 Tiết khí) và nó thuộc giai đoạn Thượng, Trung, Hạ nào của Tiết khí để từ đó xác định được độ số Cục Tiết khí, Dương độn hay Âm độn. - Dương độn ứng Tiết khí thuộc các cung Dương: Khảm, Cấn, Chấn, Khôn (đã đổi Tốn Khôn). Âm độn thuộc các cung Âm: Ly, Tốn, Đoài, Càn. Do vậy, cần phải quán xét trục phân tách Âm Dương độn trên la kinh và công thức Hậu Thiên Bát Quái/ Huyền không phi tinh phối Hà đồ của địa cầu -> Âm Dương độn là do vị trí của địa cầu so với Mặt trời trên đường xích đạo, ứng với chu kỳ tương tác nào: xuân, hạ, thu, đông theo vòng tương sinh Hậu Thiên Bát Quái trong 1 năm. La kinh đã đổi Tốn Khôn - Như vậy, cấu trúc của các quy luật tương tác được tính toán nằm trong chu kỳ chuyển vận của địa cầu quay xung quanh mặt trời trong một năm. Quy luật tương tác này theo "Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành" khám phá ra: đó là Thiên Can (10), Địa Chi (12) -> Lục thập hoa giáp (bao gồm cả Thiên Can và Địa Chi) và Phi tinh (9). Bội số chung nhỏ nhất của ba quy luật trên là 180, với đơn vị thời quán xét nhỏ nhất là "giờ" -> tức bội số chung nhỏ nhất là 180 giờ = 15 ngày = chu kỳ "sinh - vượng - mộ" của 1 Tiết khí = 3 chu kỳ Lục thập hoa giáp (60: 1 chu kỳ Ngũ vận lục khí) của "Giờ Can Chi". - Theo nội dung "Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành" ở trên, cấu trúc tính toán dựa trên trường khí quy ước của "Sao" (Phù) theo vòng Thiên can và theo Giờ Can Chi lên trái đất - Cửa (Sử) tại thời điểm tính toán đã xác định, đây là một cặp số liệu quan trọng nhất trong bài toán Độn giáo. Tham khảo các quỹ tích hành tinh Chúng ta có câu hỏi: Trường khí vũ trụ tương tác có quy luật này là trường khí như thế nào? Trực phù ứng với...? Trực sử ứng với...? Chú ý: - Sử dụng Âm lịch. - Mỗi bài viết sẽ được cập nhật và điều chỉnh thường xuyên.
  24. Cảnh quan ngọn Thủy Sơn - Ngũ Hành Sơn Thủy sơn là ngọn núi ở phía Bắc của quần thể Ngũ Hành Sơn, đây là ngọn núi lớn và đẹp nhất, thường được nhiều du khách đến viếng thăm và vãng cảnh. Thủy Sơn nằm trên dãi đất rộng theo hướng Đông Bắc, khoảng 7 ha, cao 120m. Núi có 3 đỉnh nằm ở 3 tầng giống như 3 ngôi sao Tam Thai ở đuôi chòm sao Đại Hùng Tinh (tên dân gian gọi là sao Cày), nên còn có tên gọi là núi Tam Thai. Du khách tham quan chùa chiền và hang động tại Thủy Sơn có thể đi bằng hai con đường: cổng phía Tây của núi gồm có 156 bậc tam cấp dẫn đến chùa Tam Thai hoặc lên cổng phía Đông gồm có 108 bậc dẫn lên chùa Linh Ứng, đa số du khách đều lên núi theo cổng phía Tây và đi xuống bằng cổng phía Đông. Lối lên Thủy Sơn là những bậc đá tự nhiên, được sắp xếp theo hình bậc thang, có lan can hai bên cao khoảng 0.6m, độ rộng của đường đi khoảng từ 3m - 5m nên dù có nhiều đoàn khách lên xuống cùng lúc cũng dễ dàng. Bậc tam cấp có độ dốc thoai thoải, tổng chiều dài có độ cao chỉ khoảng 80m so với mực nước biển và du khách chỉ mất chừng 5 đến 10 phút để leo lên hết đoạn đường này. Sau đó, du khách bắt đầu tham quan các động và chùa trên một địa hình thoai thoải và tương đối bằng phẳng. Du khách đừng nên quá lo lắng cho việc mất sức khi leo núi vì suốt chiều dài của đoạn đường 156 tam cấp có nhiều chiếu nghỉ được đặt các ghế đá để du khách tạm dừng chân lấy sức trước khi tiếp tực lên đến chùa Tam Thai. Ngọn Thủy Sơn là ngọn được vua Minh Mạng đến ngự du viếng cảnh nhiều nhất, Nhà Vua đã đến đây 3 lần vào các năm Minh Mạng thứ VI (1825), Minh Mạng thứ VIII (1827), và Minh Mạng thứ XVIII (1837). Ngay lần đến vãng cảnh đầu Nhà Vua đã cho xây dựng hai con đường bậc cấp lên núi, đó là lối lên chùa Tam Thai và lối lên chùa Linh Ứng. Ngọn cao nhất 106m ở phía Tây Bắc của Thủy Sơn gọi là Thượng Thai gồm có Vọng Giang Đài, chùa Tam Thai, chùa Tam Tôn, chùa Từ Tâm, khu nhà Hành Cung, động Hoa Nghiêm, động Huyền Không và động Linh Nham, ngọn thấp hơn một chút ở phía Nam gọi là Trung Thai gồm có Cổng Trời (Cổng Vân Căn Nguyệt Quật), động Vân Thông, động Thiên Long, động Thiên Phước Địa; ngọn phía Đông thấp nhất gọi là Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, tháp Xá Lợi và động Tàng Chân. Ngoài ra tại Thủy Sơn du khách có cơ hội chiêm ngưỡng tận mắt 2 di vật cổ quý hiếm, đó là bia cổ Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật tại động Hoa Nghiêm và tấm kim bài hình quả tim lửa có bút tích của Vua Minh Mạng ban tặng cho chùa Tam Thai. VỌNG GIANG ĐÀI Vọng Giang Đài hay gọi là đài ngắm sông nằm phía sườn Tây Nam của ngọn Thủy Sơn, là một điểm cao nhìn về sông Cẩm Lệ, Cổ Cò và có thể quan sát toàn cảnh các núi trong quần thể Ngũ Hành Sơn, đường dẫn lên Vọng Giang Đài nằm đối diện khu nhà thờ Tổ của chùa Tam Thai, lối lên hẹp với những bậc đá tự nhiên hơi quanh co. Đài ngắm sông có chu vi rộng khoảng 7m, chính giữa là một tấm bia cổ bằng đá Trà Kiệu cao khoảng 2m, rộng 1m và được dựng trên một đế đá lớn, trên bia có khắc 3 chữ Hán đọc là Vọng Giang Đài và những hàng chữ nhỏ nằm bên cạnh ghi ngày tháng dựng bia "Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt cát nhật" (tức Minh Mạng ngày 18 tháng 7 ngày rằm năm 1837). Đứng tại Vọng Giang Đài du khách sẽ được thỏa sức ngắm nhìn bao quát cảnh bên dưới, làng đá mỹ nghệ nằm quanh chân các ngọn núi, xa xa là dòng Cổ Cò uốn khúc quanh co cùng đồng ruộng, bãi bồi tự nhiên đậm nét vùng quê, xa hơn là dãy Trường Sơn điệp trùng hùng vĩ... tạo nên một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp. Hiện nay, đài ngắm sông đã được xây dựng nhà tứ giác vừa để che mưa nắng cho du khách đứng ngắm cảnh vừa để bảo vệ tấm bia. VỌNG HẢI ĐÀI Vọng Hải Đài hay còn gọi là đài ngắm biển nằm ở phía sườn đông của đỉnh Hạ Thai, cạnh tháp Xá Lợi và chùa Linh Ứng. Vọng Hải Đài có chu vi rộng khoảng 7m, chính giữa có một tấm bia cổ bằng đá Trà Kiệu cao khoảng 2m, rộng 1m và được dựng trên một đế đá lớn, trên bia có khắc 3 chữ Hán đọc là Vọng Hải Đài, bên cạnh có khắc hàng chữ nhỏ "Minh Mạng thập bát niên cát nhật" (tức Minh Mạng ngày 18 tháng 7 ngày rằm năm1837). Đứng tại Vọng Hải Đài, du khách được thỏa sức ngắm cảnh trời biển bao la với bãi cát dài mịn bên dưới và ngoài khơi xa là đảo Cù Lao Chàm và xa hơn về phía Bắc là bán đảo Sơn Trà nhô mình ra biển... "Vọng Giang Đài gió lộng dòng sông hát Vọng Hải Đài triều dâng khói sóng bay". CHÙA TAM THAI Đi hết 156 bậc tam cấp phía Tây Nam ngọn Thủy Sơn, bạn sẽ gặp một ngôi chùa cổ kính với cổng Tam Quan rêu phong, đó là chùa Tam Thai. Chùa tọa lạc trên một khuôn viên bằng phẳng, có chu vi khoảng 200m. Đây là ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu đời, theo Thư tịch và Bia ký ghi lại thì chùa dược xây dựng vào thời đô thị cổ Hội An mới hình thành, do Thiền sư Hưng Liên thuộc dòng thiền Tào Động của Trung Hoa đến trụ trì và lập đạo tràng từ trước những năm cuối thế kỷ 16. Năm 1825, chùa được Vua Minh Mạng phong Quốc tự, đến nay chùa đã trải qua 12 đời trụ trì. Theo Hải ngoại Ký sự của Thích Đại Sáng, khách của Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), vào cuối thế kỷ 17, tức năm 1695 trên đường về Trung Quốc, ông đã ghé thăm chùa Tam Thai, như vậy có thể thấy chùa đã được xây dựng trước đó và được hình thành cách đây hơn 300 năm. Cổng Tam Quan cổ kính rêu phong ở phía trước chùa gồm có 3 cổng, theo qui định thời phong kiến thì cổng chính giữa là cổng cao và trang trọng nhất chỉ để dành cho sư thầy đi, cổng bên trái dành cho người nam đi (nam tả), cổng bên phải dành cho người nữ đi (nữ hưu). Trước đây chùa được làm bằng tranh, tre, nứa lá, đến năm 1825 khi Vua Minh Mạng vi hành đến núi Thủy Sơn đã cho xây dựng lại chùa bằng gạch ngói khang trang, phong Quốc tự và đặc tên là Tam Thai. Đến năm 1901, do một cơn bão lớn đã phá hủy toàn bộ ngôi chùa và mãi đến năm 1907 chùa mới được các phật tử đống góp xây dựng lại và tồn tại cho đến nay. Cũng chính tại ngôi chùa này, công chúa Ngọc Lan, em gái vua Minh Mạng đã đến phát nguyện đi tu suốt đời, sau đó công chúa đến ẩn tu tại chùa Phổ Đà Sơn - nằm cạnh chân ngọn Hỏa Sơn. Trọng 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa là nơi gặp gỡ, họp mặt và bàn bạc việc quốc sự của các sĩ phu yêu nước của các phong trào: Cần Vương, Duy Tân, phong trào chống thuế và cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục như: Lê Bá Trinh, Huỳnh Bá Chánh, Nguyễn Duy Hiệu; là nơi hội họp, bàn việc của Đảng bộ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ). Hiện nay, nhà chùa vẫn còn lưu giữ tấm kim bài hình quả tim lửa (được đặt tại bàn thờ phía sau điện thờ chính của chùa), đây là tấm kim bài có bút tích của vua Minh Mạng ban tặng, nội dung bút tích ca ngợi phật pháp từ bi vô lượng phổ độ chúng sanh. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ bức hoành phi do vua Minh Mạng trao tặng. Trong khuôn viên chùa hiện vẫn còn dấu tích và cổng của khu nhà hành cung, nơi lưu dấu một thời vua Minh Mạng và quan lại Triều Nguyễn đã từng ngự du viến cảnh tại đây và lập đàn cầu Quốc thái Dân an. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, chùa bị hư hỏng và bị tàn phá nhiều bởi chiến tranh và thiên tai nên đã trải qua nhiều lần trùng tu, trong đó có lần trùng tu quy mô và hoàn chỉnh nhất vào năm 1995. Mặc dầu đã trải qua nhiều lần trùng tu nhung chùa vẫn giư nguyên nét kiến trúc cổ của lăng tẩm và chùa tháp kinh thành Huế. ĐỘNG HOA NGHIÊM Rời bỏ sự u tịch và hương khói của chùa Tam Thai, men theo lối mòn bên hông nhà chùa và rẻ trái du khách sẽ gặp động Hoa Nghiêm. Đây là một thạch động nhỏ, có Huyền Không Quan cổ kính, trầm mặc rêu phong, bên trong động có thờ Tượng Phật Bà Quan Thế Âm cao lớn, điệp màu với núi đá có đôi mắt từ bi nhìn ra của động, tượng phật do nghệ nhân Nguyễn Chất của làng nghề đá mỹ nghệ tạo thành năm 1960. Bên trái của Tượng Phật, trên vách động là tấm bia cổ Linh Trung Phật quý hiếm do nhà sư Huệ Đạo Minh lập năm Canh Thìn 1640; Bia ghi lại việc trùng tu và tôn vinh công đức của các phật tử; trong đó có rất nhiều gia đình người Nhật Bản đến làm ăn từ phố cổ Hội An đã đến cúng công đức cho chùa. ĐỘNG HUYỀN KHÔNG Động Huyền Không là một trong những động lớn và đẹp nhất của ngọn Thủy Sơn và có thể nói rằng nếu ai đó đã từng đến Ngũ Hành Sơn mà chưa vào Động Huyền Không thì coi như người đó chưa biết Ngũ Hành Sơn. Động Huyền Không nằm bên trong động Hoa Nghiêm, nói cách khác, muốn vào động Huyền Không du khách phải đi qua động Hoa Nghiêm. Động có hình dáng của một quả chuông lớn úp trên nền gạch Kim Thành bằng phẳng, rộng rãi và sạch sẽ, đỉnh động có nhiều lổ hổng tự nhiên mang theo ánh sáng và gió mát vào bên trong nên lòng động luôn mát mẻ và thoáng khí (do vậy động ở Ngũ Hành Sơn thuộc loại động mở, đây chính là điểm khác biệt với các động kín của Hạ Long và Phong Nha). Muốn vào được trong động du khách phải đi qua hơn 20 bậc cấp sâu xuống phía dưới, nền động thấp hơn 5m so với nền động Hoa Nghiêm, chu vi của động rộng khoảng 25m, chiều cao từ đỉnh xuống nền động khoảng 16m. Tại cửa động là 4 bức tượng của 4 vị Kim Cang Hộ Pháp, đó là các vị thần Thiện và Ác cưỡi trên 4 con thú có diện mạo kỳ quái có nhiệm vụ gác cửa động. Chính giữa động ở trên cao thờ phật Thích ca cao 3m do nghệ nhân Nguyễn Chất thực hiện từ năm 1960, phía dưới tượng Phật Thích ca là bàn thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát. Vào sâu bên trong là Trang Nghiêm Tự cổ kính gồm có 3 gian, gian giữa thờ Phật Bà Quan Âm, gian bên trái thờ ba vị Quan Thánh (Quan Công, Quan Bình và Quan Châu Xương tượng trưng cho đức độ, trí dũng và lòng trung thành), gian bên phải thờ Ông Tơ Bà Nguyệt, là nơi để các đôi trai gái đến cầu duyên hoặc cho những người hiếm muộn đến cầu con hoặc cầu nuôi con khỏe mạnh chóng lớn. Kế Trang Nghiêm Tự là Thạch Nhũ Cốc, du khách phải rọi đền mới nhìn rõ, bên trong là 2 thạch nhũ đổ xuống giống như một cặp nhũ hoa. Tương truyền chiếc bên trong thường nhỏ nước trong còn chiếc bên ngoài nhỏ nước đục giống như sữa mẹ, tuy nhiên khi vua Thành Thái đến đây làm lễ trai đàn cầu Quốc Thái Dân An đã vô tình sờ vào chiếc thạch nhũ bên ngoài nên chiếc này hiện nay không còn nhỏ nước nữa. Bên trái động là đền thờ bà Ngọc Phi và Bà Lôi Phi. Bà Ngọc Phi hay còn gọi bà Chúa Tiên, rất linh thiêng, là nơi để du khách đến cầu tài lộc. Tương truyền, bà là vợ của Ngọc Hoàng Thượng Đế hiện thân xuống hạ giới chăm lo cho đời sống muôn dân, hằng năm cứ vào ngay 02 đến ngày 08/3 âm lịch thì người dân đến cúng và lể bái rất đông. Bà Lôi Phi hay còn gọi là Bà Chúa Thượng Ngàn - cai quản núi rừng, là em gái bà Ngọc Phi thường được du khách đến cầu nguyện về sức khỏe và đi đường bình an. Ẩn mình trên vách động còn có chiếc trống đá thiên tạo, nếu du khách úp lòng bàn tay và vỗ vào mặt trống sẽ tạo nên âm thanh vang dội cả vòm động. Lần bước theo sau ngôi đền nhỏ, nhìn lên vách động, du khách sẽ thấy nhũng hình thù hết sức kỳ thú được tạo nên từ những sắp xép của đá: chim hạc, chim Đà Điểu, con cò với chiếc mỏ dài, đầu con voi với chiếc vòi thả xuống, bàn tay cầm bó hoa dâng lên cao, khuôn mặt ông già giận dữ... Có thể nói, vẻ đẹp của Huyền Không động khó bút mực nào tả hết được bởi sự kỳ diệu, huyền bí và hết sức quyến rũ với không gian huyễn hoặc. Ánh sáng xuyên qua màu xanh của cây cỏ từ đỉnh động chiếu xuống tạo nên vẻ đẹp lung linh huyền ảo, gặp lúc trời nắng to ánh sáng có màu vàng lấp lánh, đây cũng là thời điểm tạo nên những cảm hứng cho những tấm ảnh nghệ thuật của những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, nghiệp dư và cả không chuyên; vì thế đã có rất nhiều đoàn làm phim trong nước và nước ngoài đến quay phim ở đây (Đức, Mỹ, Hàn, Úc...). Có lẽ chính vì lẽ đó mà động đã có tên là Huyền Không. Nhà thơ Tản Đà khi đến thăm Huyền Không động đã cảm tác nên 2 câu thơ: "Rủ nhau lên động Huyền Không Bụi trần rủ sạch như không có gì". Trong những năm kháng chiến chống Pháp động Huyền Không là căn cứ hoạt động bí mật của cán bộ lãnh đạo địa phương và du kích. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam, Mỹ ngụy đã biến Huyền Không động thành nơi huấn luyện biệt kích đồng thời cũng là nơi đồn trú của nhiều đơn vị Mỹ. Đến mùa xuân Mậu Thân năm 1968, bộ đội ta đã đánh bật chúng ra khỏi hang và đồng loạt tấn công nhiều căn cứ lân cận và sân bay Nước Mặn của Mỹ. Hang động sau đó đã trở thành Trạm giải phẩu và là nơi cất giấu thương binh của quân giải phóng. Động Huyền Không còn là nơi ghi dấu những trận đánh oai hùng của quân dân Quảng Nam Đà Nẵng, trong đó tiêu biểu là trận đánh của anh hùng Phan Hành Sơn (tên thật là Phan Hiệp) vào rạng sáng ngày 23/8/1968 đã tiêu diệt hoàn toàn sinh lực địch và giành thắng lợi hoàn toàn. Sau trận đánh, tiểu đoàn 1 đã được Bộ chỉ huy quân giải phóng phong tặng Huân chương chiến công hạng nhất, Đại đội trưởng Phan Hiệp được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và đổi tên thành Phan Hành Sơn. CỔNG TRỜI ĐỘNG THIÊN PHƯỚC ĐỊA Rời khỏi động Linh Nham, du khách sẽ đi qua hai cổng trời hay còn gọi là cổng Vân Căn Nguyệt Quật. Đây là những cổng đá tự nhiên rất đẹp, có một sự sắp đặt rất kỳ lạ của tạo hóa ở đây, 2 cổng trời nằm ở 2 phía Đông - Tây của ngọn Thủy Sơn tạo nên một không gian rộng, thoáng và tiểu cảnh nên thơ nằm trên con đường liên hoàn nối giữa hai ngôi chùa Tam Thai và Linh Ứng. Tại hai cổng trời luôn có gió mát mẻ quanh năm do gió từ biển đông thổi vào, gió từ trên miệng động Thiên Phước Địa cuộn xuống hoặc gió từ phía sông thổi đến, tốc độ gió thường xuyên thay đổi theo mùa, vì vậy, hai cổng trời này còn có tên là Hang Gió Đông và Hang Gió Tây. Ở khoảng giữa của 2 cổng có rất nhiều động: động Thiên Long, động Vân Thông, động Thiên Phước Địa. Đi qua hai cổng trời du khách có cảm giác như đang đi trong lòng hòn non bộ khổng lồ, mát mẻ và dể chịu, bao nhiêu mệt mỏi bổng chốc tan biến hết, chỉ còn tâm hồn phơi phới như muốn hòa mình vào thiên nhiên. Động Thiên Phước Địa là động lộ thiên nằm trên mặt đất, được các vách núi bao bọc xung quanh, nền động cũng chính là lối đi cho du khách tham quan các tiểu cảnh, đi vào động Vân Thông và nhìn ngắm động Thiên Long cũng như đi đến các chùa. Miệng động mở rộng và không có vòm nên du khách thoải mái ngắm nhìn mây trời lượn lờ trôi ở phía trên. ĐỘNG VÂN THÔNG Một bên sát vách núi của động Thiên Phước Địa có một khoảng sân rộng bằng phẳng, băng qua hết khoảng sân này, du khách sẽ bắt gặp con đường tam cấp nhỏ hướng lên trên vào động Vân Thông. Động Vân Thông mà lâu nay vẫn quen gọi là "Đường lên trời" do động nằm trên vách núi cao, lòng động hình ống, đỉnh động cao hơn miệng động 40m và du khách phải chen người trèo lên, có đoạn rất tối, quanh co, ghồ ghề và chỉ đủ một người qua lọt, tạo cho du khách cảm giác vất vả và kỳ bí khi lên trời. Lên đến đỉnh động, du khách sẽ cảm nhận được rằng sự vất vả mệt nhọc đã được đền đáp xứng đáng bởi giống như đã được lên "tới trời" và được hít thở không khí thoáng đãng, mát mẻ và thoải sức ngắm nhìn những cảnh đẹp nên thơ cùng với trời biển bao la bên dưới. Động Vân Thông có thờ tượng Phật Adiđà và ngay phía sau lưng bàn thờ Phật là lối đi lên đỉnh trời. Để giúp cho mọi du khách, kể cả những du khách lớn tuổi hoặc sợ bóng tối được đứng trên đỉnh trời ngắm cảnh mà không phải vất vả leo trèo, UBND quận Ngũ Hành Sơn đã cho khai phá và hoàn chỉnh lại con đường rộng hơn một mét với những bật tam cấp thoai thoải đi vòng phía bên ngoài động giúp đưa du khách lên đến đỉnh trời một cách nhanh chóng và thoải mái. ĐỘNG THIÊN LONG Động Thiên Long nằm bên trong động Thiên Phước Địa, cạnh cổng trời - Hang Gió Đông, động nằm sát vách núi và ăn sâu xuống lòng đất tạo hang sâu thẳm và không có đường đi xuống, du khách chỉ có thể đứng cạnh lan can và nhìn xuống động từ bên trên. Lòng hang vừa sáng, vừa tối có nhiều tảng đá nhấp nhô lớn nhỏ như miệng rồng nên có tên gọi là Thiên Long. Tuy nhiên, đáy động ăn thông với Hang Gió của động Tàng Chơn nằm sau chùa Linh Ứng nên du khách khi tham quan động thường thắc mắc rằng tại sao động không có lối đi xuống và đi xuống rất nguy hiểm nhưng lại có bóng và tiếng người rộn ràng ở đáy động, đó là do nhiều người đến tham quan Hang Gió của động Tàng Chơn đã trèo lên phía trên và gặp đáy của động Thiên Long, đó chính là sự thông thường kỳ lạ và tạo sự liên hoàn giữa các hang động trong ngọn Thủy Sơn. ĐỘNG TÀNG CHƠN Động Tàng Chơn nằm sau lưng chùa Linh Ứng. Tên gọi "Tàng Chân" có nghĩa là chứa đựng tất cả chân lý của vũ trụ. Ngay tại cửa động ghi rõ 3 chữ: "Tàng Chân Động", lòng động như một thung lũng nhỏ dài khoảng 10m, rộng khoảng 7m, bên trong thoáng đãng nhờ có lỗ thông lên trời qua cửa Thiên Long Cốc tại Hang gió. Động chủ yếu thờ Phật Thích Ca và các vị Tiên Thánh. Giữa động có miếu Tam Vị thờ 3 vị: chính giữa thờ Thái Thượng Lão Quân, bên phải thờ Bát Bộ Kim Cương và bên trái thờ Thượng Chiêm Thành. Trong động còn có 5 hang nhỏ gồm: hang Tam Thanh, Gió, Ráy (còn gọi là hang Adiđà), Chiêm Thành và Bàn Cờ. Hang Tam Thanh thờ 3 vị thánh: Thượng Thanh, Trung Thanh, Hạ Thanh, được phát hiện vào đời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng, do thiền sư Bửu Đài phát hiện. Hiện nay, tượng các vị thánh không còn nữa và được thay vào đó là tượng Phật Thích Ca cao lớn, phía sau là tượng Phật nằm. Bên phải hang Tam Thanh là hang gió và bên trái là hang Chiêm Thành. Hang Chiêm Thành có hình bán nguyệt, rộng 3m, đường hang tối và ghồ ghề, trong hang có 2 tác phẩm điêu khắc đá 2 vị hộ pháp bằng đá sa thạch (dài 0.9m) theo phong cách nghệ thuật Chăm, tượng được chạm trổ công phu, điều này chứng tỏ người Chăm có mặt tại đây và thờ Phật từ rất sớm. Hang gió có lỗ hổng tự nhiên ăn thông với động Thiên Long mang gió và ánh sáng vào bên trong. Hang Bàn Cờ còn nguyên bàn cờ tiên bằng đá ghi dấu tích đánh cờ của các vị tiên thánh ngày xưa. CHÙA LINH ỨNG Chùa Linh Ứng được xây dựng vào những năm nữa đầu thế kỷ 17 với chu vi khoảng 150m, chùa nằm trên sườn đông của đỉnh Hạ Thai thuộc hòn Thủy Sơn, tựa lưng vào vách núi, xoay mặt ra biển. Về sự ra đời của ngôi chùa, theo tương truyền có vị Tiền Hiền hiệu Quang Chánh, thế danh Bửu Đài sống ở làng Khái Đông thuộc xã Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn ngày nay, đã đến ẩn tu tại động Tàng Chơn và lập ra một thảo am trước động gọi là " Dưỡng Chơn Am", sau đó ông sửa thành một ngôi chùa bằng tranh tre gọi là " Dưỡng Chơn Đường " và ngôi chùa tranh này là tiền thân của chùa Linh Ứng ngày nay. Vua Gia Long trong một lần ngự du viếng cảnh ở Ngũ Hành Sơn, đã đến thăm và cho xây dựng lại chùa lớn hơn và đặt tên là "Ngự Chế Ứng Chơn Tự". Đến năm 1825, vua Minh Mạng vi hành đến Ngũ Hành Sơn đã cho xây dựng lại chùa bằng gạch ngói khang trang hơn, sắc phong Quốc Tự cho chùa và đổi tên "Ngự Chế Ứng Chơn Tự" thành "Ứng Chơn Tự". Đến thời vua Thành Thái năm thứ 14 - năm 1903, đích thân nhà vua ngự giá đến Ngũ Hành Sơn, thăm chùa Tam Thai và Ứng Chơn Tự, tại đây vua đã tổ chức lễ trai đàn cầu Quốc thái Dân an, xét thấy chữ "Chơn" đã phạm húy nên đổi "Linh Ứng Tự" và tên này được giữ nguyên cho đến nay. Cũng giống chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng qua năm tháng đã bị hư hỏng nhiều bởi chiến tranh và thiên tai, chùa đã qua nhiều lần trùng tu và sửa chữa, lần trùng tu lớn nhất vào năm 1985 nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính. Hiện nay, chùa còn giữ hai bảng vàng của vua Minh Mạng và vua Thành Thái ban tặng (Ngự Chế Ứng Chơn Tự Minh Mạng lục niên và Cải Chế Linh Ứng Tự Thành Thái tam niên). Linh Ứng Tự thờ Phật Thích Ca lớn ngay chánh điện, gian bên trái thờ Phổ Điền Bồ Tát./. Nguồn: Tài liệu hướng dẫn - thuyết minh Ngũ Hành Sơn Thần chú "Om Mani Padme Hung" ở nơi đâu!
  25. ĐỀN ĐỒNG CỔ KHÔNG THỜ THẦN TRỐNG ĐỒNG Hoàng Tuấn Công Đền Đồng Cổ ở Yên Định-Thanh Hóa Ảnh: Cổng TTĐT Yên Định Trong dịp đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, có một ngôi đền được nhắc đến nhiều với lòng thành kính và ngưỡng mộ. Đó là đền Đồng Cổ-Ngôi đền có từ thời Lý ở làng Đan Nê, huyện Yên Định, Thanh Hoá. Tưởng đó là hồng phúc cho vị Sơn thần hiển ứng ở cả Thanh Hoa cổ địa, cùng đất kinh kỳ nghìn năm văn vật. Thế nhưng, nếu anh linh, chắc hẳn ngài không khỏi ngậm ngùi, tủi phận ! (Xem bài "Thờ trống đồng ngay giữa Thăng Long" và "Đền Đồng Cổ (Kẻ Bưởi)" ...) Bởi trong không ít tài liệu sách báo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng (địa phương và trung ương, với sự góp lời của cả các nhà nghiên cứu và nhà Hà Nội học) lại tuyên truyền “Đồng Cổ từ” là ngôi đền thờ thần Trống Đồng ! Vậy sự thực, đền Đồng Cổ thờ ai ? Đền Đồng Cổ ở Hà Nội Ảnh: Internet Nếu lần giở lại các thư tịch cổ ghi chép về đền Đồng Cổ, chúng ta sẽ thấy không hề có tài liệu nào nói đền này thờ thần Trống Đồng. Xin bắt đầu từ “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên, biên soạn năm 1329, ghi chép về đền Đồng Cổ với cái tên được sắc phong và gia phong “Minh chủ linh ứng bảo hựu Đại vương”. Sách này viết: “Theo truyện Báo cực chép: Vương là thần núi Đồng Cổ (ở Thanh Hoá, tục gọi là núi Khả Phong-HTC). Khi xưa, Lý Thái tông còn là thái tử, phụng mạng vua cha là Thái tổ, đem binh đi đánh Chiêm Thành (1020), đến Trường Châu, đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử sang đánh phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ”.(tr. 83- NXB Văn học - 1972) Trống đồng ở Đền Đồng Cổ Thanh Hóa. Trống đặt trên một cái giá, để dưới nền gạch Ảnh: Cổng TTĐT Yên Định Trong “Lĩnh Nam chích quái” - tập sách ghi chép những truyền thuyết và truyện cổ tích của nước ta bằng chữ Hán của Vũ Quỳnh-Kiều Phú biên soạn từ thời Trần, trong “Truyện thần núi Đồng Cổ” (Đồng Cổ sơn thần) chép: “Thần núi Đồng Cổ là linh thần thượng đẳng ở nước ta. Núi ở xã Trì Nê thượng, huyện Yên Định. Khi Lý Thái tông còn là Thái tử đi đánh Chiêm Thành tới Trường Châu, đêm quá canh ba mộng thấy một dị nhân mặc giáp phục, tự xưng là sơn thần nghe vua Nam chinh xin theo quân vua lập chiến công. Vua nhớ rõ những lời nói chuyện trong mộng”(tr.149- NXB Văn học - 1990). Trống đồng trong Đền Đồng cổ ở Hà Nội. Trống cũng được đặt bên dưới, phía trước bàn thờ thần Núi. Ảnh: Báo Thể thao văn hóa Trong “Thanh Hóa kỷ thắng" của Vương Duy Trinh, ( Bản dịch Hoàng Tuấn Công) viết: “…núi Đồng Cổ hiểm yếu như con mắt của núi đồi Yên Định. Trong đền thờ thần có trống đồng (…). Nguyên thần là tinh khí của trái núi, rất linh ứng. Xưa Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành trú binh dưới chân núi Khả Lao, đêm mộng thấy thần nhân nói rằng: - Nguyện được đem trống đồng đi phù trợ vương chiến thắng. Đến khi lâm trận, cứ nghe trong không trung mơ hồ âm thanh của trống đồng và đao kiếm. Quả nhiên thu được toàn thắng”. Sách này (Thanh Hóa kỷ thắng) cũng chép: “Đến thời Lý Thái tổ, người Chiêm Thành xâm nhập bờ cõi. Khi ấy, Thái tôn đang là Thái tử. (….) Canh ba, vua mộng thấy một người dáng dấp rất to lớn, mình mặc chiến bào, tay cầm bảo kiếm nói rằng: - Ta là thần núi Đồng Cổ, nay nghe Thánh giá nam chinh, nguyện đi theo lập công. Vua đồng ý cho. Đến khi tỉnh dậy, vua lệnh cho viết bài vị để trong kim xa. Bề tôi theo đó mà làm, quả nhiên đến sau thu được toàn thắng”. Trong “Đồng Cổ miếu bi ký” (Bia miếu Đồng Cổ, dựng ở đền Đồng Cổ) viết: “Trong thung lũng núi có miếu cổ, thờ thần núi” ( nguyên văn: 中有古廟奉事山神-Trung hữu cổ miếu, phụng sự sơn thần). Nội dung tấm bia này còn cho biết “Năm Canh Thân (1800) bỗng ở phía sông Nam Ngạn được một chiếc trống đồng (…) quan đặc sai Đốc trấn Thanh Hoa bèn đem trống đồng mới được tặng lại miếu thần để xuân thu tế tự, để giúp thêm NHẠC KHÍ cho miếu thần”. Bài minh trong miếu thờ thần núi Đồng Cổ còn ca ngợi: “Có núi thiêng Đồng Cổ, Ở Yên Định, Đan Nê, Dưới giữ gìn cõi đất, Trên chống đỡ cột trời, Cao vượt lên ngàn núi, Thiêng hun đúc muôn đời…” Vì có công lớn trong việc giúp vua Lý chiến thắng giặc nên thần núi Đồng Cổ còn được rước về Thăng Long để thờ. Sau này thần báo mộng cho vua Lý tránh được loạn “tam vương” và được phong là “Thiên Hạ Minh Chủ”. Như vậy, núi này vốn có tên là Tam Thai, hoặc núi Khả Lao. Sau khi Thần núi Tam Thai dùng binh khí là trống đồng phù trợ vua Hùng chiến thắng, vua đã đổi tên núi thành núi Đồng Cổ (núi Trống Đồng) và lập miếu thờ "Đồng Cổ sơn thần" (Thần núi Đồng Cổ). “Đồng Cổ từ” (Đền Đồng Cổ) chỉ là cách gọi tắt của "Đồng Cổ Sơn từ" (Đền Núi Đồng Cổ). Do không tìm hiểu thần tích, lại thấy bên trong miếu có chiếc trống đồng (vốn được cung tiến để tưởng nhớ năm xưa thần núi đã dùng trống đồng để làm vũ khí phù trợ vua chiến thắng) nên nhiều người nhầm tưởng đền này thờ thần trống đồng, rồi liên tưởng đến tín ngưỡng thờ thần trống đồng, gắn đền thờ với văn hoá Đông Sơn. Xem cách bài trí trong đền thờ Thần Đồng Cổ (cả ở Thanh Hóa và Hà Nội) thì chiếc trống được đặt ở trên giá thấp, phía dưới nền gạch, trước bàn thờ Thần núi. Nếu là thờ "thần Trống Đồng" hẳn chiếc trống phải được bày ở vị trí cao, trang trọng nhất, thay cho tượng. Thế là, thay vì tưởng nhớ công lao phù trợ, đánh đuổi giặc ngoại xâm của thần núi Đồng Cổ - Tinh khí chung đúc của núi sông, người ta lại cúi đầu khấn vái và tụng ca cái trống đồng-nguyên là thứ binh khí lúc xung trận của ngài. Làm như vậy khác nào thay vì thờ phụng và ngợi ca Thánh Gióng, lại đi thờ cái gậy sắt hoặc bụi tre ngà-một thứ vũ khí đánh giặc của ông! (Nhầm lẫn tên đền với tên thần còn được PGS Vũ Ngọc Khánh đưa vào sách "Địa chí Thanh Hóa") Cũng từ sai lầm này mà Hội Cổ vật Thanh Hoa đã từng làm lễ rước 100 cái trống đồng mới đúc lên đền thờ này để xin “thần Trống Đồng” nhập linh, trước khi đem ra Thăng Long cung tiến (!) HOÀNG TUẤN CÔNG Thanh Hoá 2011 Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội Nên đọc thêm cuốn Thủy Kinh Chú... và giải mã Trống đồng, chẳng hạn trong vai trò tế khí trong các tôn giáo Văn Lang, trong vai trò của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, trong vai trò đại diện một tôn giáo trong 5 tôn giáo cổ nước Văn Lang... Không chỉ Việt Nam, mà Indonesia... đều có thờ thần Trống Đồng, Indonesia có hẳn đền thờ thần Trống Đồng hoàng tráng, chiếc Trống Trăng Bali to nhất thế giới, có nguồn gốc từ trống Đông Sơn. Trống Trăng/ Thủy Triều Đảo Borneo, khám phá thuộc vùng đất của Malaysia Đền thờ Trống Trăng Bali Indonesia thuộc vùng nước, thấp, thờ thần Mặt Trăng qua hình tượng Trống Trăng. Trống Đồng tượng trưng cho: Thần (tinh, khí, thần) - Thần Mặt Trời. Thần Trống Đồng: có vai trò Đại đồng thế giới. Nghiên cứu thêm chùa Đồng - Yên Tử. Đền Đồng Cổ Thanh Hóa thờ "Thần Trống Đồng".