hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
TRUY TÌM GỐC TÍCH NGƯỜI KINH Tác giả: Hà Văn Thùy Là sắc tộc đa số, giữ vị trí trung tâm của cộng dồng dân cư Việt Nam nên từ cuối thế kỷ XIX, nguồn gốc, văn hóa, lịch sử người Kinh được các học giả nổi tiếng phương Tây bỏ nhiều công sức tìm hiểu. Sau khi giành được độc lập, các học giả người Việt trên cơ bản tiếp tục đường hướng nghiên cứu này. Hơn thế kỷ khảo cứu của nhiều lớp nhà Việt học đem lại kết quả nhất định, tạo nên cái nhìn như hôm nay. Tuy nhiên, với những khám phá mới về nguồn gốc dân tộc Việt, nhiều vấn đề về người Kinh cần được xem xét lại. Bài viết này trình bày một lý giải mới về nguồn gốc người Kinh. I. Về giả thuyết Tiền Việt-Mường Cho đến nay phần lớn các học giả đồng thuận cho rằng: Người Việt và người Mường xưa vốn cùng chung một cội nguồn, nhưng đã tách thành hai dân tộc trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, giả thiết khoảng thế kỷ thứ XI trở về sau. Ý tưởng này được nhà ngữ học người Pháp H. Maspéro [1] đề xuất đầu tiên. Tiếp đó là V. Goloubew [2]. Sau năm 1954, các học giả Việt Nam kế tục quan điểm của trường phái Viễn Đông Bác cổ với Nguyễn Thế Phương [3], Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương [4] rồi Nguyễn Tài Cẩn [5]. Dựa trên ngôn ngữ học so sánh, giới ngữ học cho rằng: thoạt kỳ thủy, từ ngôn ngữ Tiền Việt-Mường chia thành nhánh Chứt-Pọong và nhánh Việt-Mường chung. Sau đó Việt-Mường chung tách ra Việt và Mường. Cũng thời gian này, giới nhân học vào cuộc. Trong Nhân chủng học Đông Nam Á,[6] từ tư liệu “Hình thái nhân chủng một số nhóm nam giới Việt, Mường, Chứt” và “Tần xuất nhóm máu ABO ở người Việt và người Mường,” Nguyễn Đình Khoa nhận định: “Ngôn ngữ Việt - Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loaị hình nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á.” (t.128) Đồng thời tác giả cũng lưu ý rằng, “Ở Việt Nam (có thể đại bộ phận bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á), thành phần Nam Á xuất hiện muộn hơn (thời đại đồ Đồng), thành phần Anhđônêdiên thì hình thành sớm (thời đá mới). Như vậy phải đặt câu hỏi: Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người Anhđônêdiên nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường hình thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc?(t.128) Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương viết: “Tiếng Việt và tiếng Mường có nguồn gốc Nam Á, nhưng do sự tiếp xúc lâu dài với các ngôn ngữ Tày cổ nên nhóm Việt-Mường đã tách khỏi khối Tiền Việt-Mường.” Về mốc thời gian, hai tác giả cho rằng: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đã xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đã tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để hình thành ngôn ngữ Việt-Mường chung.” Do khám phá việc xuất hiện loại hình Nam Á ở Việt Nam và bán đảo Đông Dương vào thời đại đồ đồng từ quá trình chuyển hóa của người Indonesian nguyên thủy nên Nguyễn Đình Khoa cho là có sự liên quan giữa quá trình chuyển biến Indonesian thành Nam Á và giả thuyết về hình thành ngôn ngữ Việt-Mường. Nguyễn Đình Khoa lưu ý tới vai trò của những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer. Họ được nhất trí xếp vào dòng ngôn ngữ Nam Á, là một trong những thành phần bản địa lâu đời nhất ở bán đảo Đông Dương, là con cháu của người Indonesian nguyên thủy. Do vậy, tiếng nói và tổ tiên họ phải là một dạng Nam Á cổ, trong đó theo Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương, có yếu tố Tiền Việt-Mường. Tiếp xúc với ngôn ngữ Tày cổ thì tách ra ngôn ngữ Việt-Mường chung. Giai đoạn này có thể tương ứng với quá trình chuyển biến nhân chủng từ Indonesian thành Nam Á. Có thể nhận ra rằng, sự đồng thuận này không dễ dàng mà là việc nhượng bộ của những quan niệm rất khác nhau thậm chí trái ngược: Trong tài liệu đã dẫn, Maspéro coi tiếng Việt là một nhóm trong dòng Hán-Tạng vì về cú pháp và thanh điệu tiếng Việt gần với tiếng Thái. Nhưng trước đó người ta đã phát hiện trong tiếng Thái có yếu tố ngôn ngữ Môn-Khmer và cả ngôn ngữ Mã Lai. Năm 1924, Przyluxki viết: “…tuy trong tiếng Thái có nhiều từ Hán nhưng nó lại có nhiều yếu tố chung với các ngôn ngữ Môn-Khmer…Có thể trong tương lai, cứ liệu thực tế buộc chúng ta phải đặt tiếng Thái vào ngữ hệ Nam Á.” [7] Như vậy là, tiếng Việt được sắp xếp trong một biên độ rất rộng, từ Hán Tạng tới Môn-Khmer rồi Nam Á. Điều này chứng tỏ, có gì đó chung cho các ngôn ngữ của cộng đồng dân cư Việt Nam nên việc chia tách chúng một cách rành rẽ là điều khiên cưỡng. Từ những trích dẫn trên, có thể đưa tới nhận xét rằng, dù ra đời hơn trăm năm trước và không ngừng được củng cố thì ý tưởng người Mường chuyển hóa thành người Việt cũng chưa thực sự thuyết phục. Những thắc mắc nảy sinh: 1. Nhận định: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đã xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đã tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để hình thành ngôn ngữ Việt-Mường chung,” phải chăng là hữu lý? Bởi lẽ, 4000 năm cách nay, đồng bằng sông Hồng còn chưa được tạo lập, nên sự tiếp xúc của ngôn ngữ Tiền Việt-Mường với nhóm Tày cổ chỉ diễn ra tại miền núi, trung du Bắc Bộ và vùng đất cao của châu thổ sông Hồng. Do vậy, người nói ngôn ngữ Việt phải xuất hiện tại khu vực này trước chứ không phải ở đồng bằng sông Hồng! Trong khi trên thực tế, người Việt là chủ thể của đồng bằng? 2. Thực tế lịch sử cho thấy, những nhóm gọi là Tày cổ hiện nay cũng chỉ từ Trung Quốc di cư về vào thời Nguyên. 4000 năm trước, thứ ngôn ngữ Tày cổ đó chưa xuất hiện. Vì vậy không thể có chuyện nó “tiếp xúc với Tiền Việt Mường để sinh ra người Việt.” 3. Nếu: “ngôn ngữ Việt - Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loại hình nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á,” có nghĩa là, từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam chỉ một chủng duy nhất Mongoloid phương Nam và ngôn ngữ Nam Á thì vì lẽ gì chỉ có người Mường chuyển thành người Việt? 4. Được tách ra từ Tiền Việt-Mường vì sao mà số lượng người Việt cực lớn, còn số lượng người Mường quá nhỏ, chỉ hơn 600000 người? 5. Câu hỏi quan trọng: “Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người Anhđônêdiên nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường hình thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc”, vẫn chưa có lời đáp! Đánh giá một cách công bằng, có thể cho rằng, là nhà ngữ học uyên bác, khi phát hiện sự tương đồng khá cao về tiếng nói giữa người Mường và người Việt đồng thời cũng nhận ra những yếu tố của ngôn ngữ Tày trong tiếng Việt, H. Maspéro đã đề xuất ý tưởng trên. Sau này, cảm nhận sự “hợp lý” của nó, các tác giả khác đã tiếp thu và phát triển, góp phần đưa tới một cách nhìn nhận về con người và tiếng nói Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên ngôn ngữ cũng như tư liệu metric (số đo) sọ, không phải là chứng cứ đáng tin cậy giúp phân định chủng người. Như nhà nhân học lớn nước Mỹ Jared Diamond khẳng định: “Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Sang thế kỷ này, để giải quyết bài toán nguồn gốc người Việt, cần một công trình độ sộ vẽ bản đồ gen người Việt. Trong khi chờ đợi kết luận cuối cùng từ công trình như vậy, tôi xin đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc người Kinh. II. Nguồn gốc người Kinh theo cách nhìn mới. Trước hết cần xác định lại một số thuật ngữ. Các tài liệu hành chính hiện nay viết rằng, Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Đây là cách dùng từ không chuẩn do không phân biệt hai khái niệm tộc người hay sắc tộc (race) và dân tộc (nation). Dân tộc là cộng đồng người cùng một chủng tộc trong một quốc gia. Trong một quốc gia có một hay nhiều dân tộc với ý nghĩa chủng người. Tộc người là những sắc dân trong một chủng người. Sau năm 1954, ảnh hưởng của tài liệu dân cư học Trung Quốc cho rằng ở “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em”, các nhà làm chính sách của Việt Nam cũng ghi trong hiến pháp: Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Tuy nhiên sau đó, phát hiện sai lầm, người Trung Quốc đã sửa: Trung Quốc có 56 tộc người thuộc năm dân tộc là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng. Trong khi đó, do chưa có sự phân định rõ ràng, Việt Nam vẫn giữ 54 dân tộc trong các văn bản hành chính. Các tài liệu nhân chủng học cho thấy, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam gồm duy nhất chủng người Mongoloid phương Nam. Đến nay nước Việt Nam bao gồm một dân tộc duy nhất là dân tộc Việt. Kinh, Mường, Mán, Tày, Thổ, H’Mông, Dao, Khmer, Chăm, Bana, Êdê, Giarai… là những tộc người hay sắc tộc trong dân tộc Việt. Vì vậy, thuật ngữ NGƯỜI VIỆT dùng chỉ chung mọi tộc người bản địa Việt Nam. Người Kinh là một tộc người hay sắc tộc trong 54 sắc tộc Việt. Việc gọi người Kinh là người Việt là sai lầm, là sự tiếm xưng, đưa tới nhận thức lệch lạc: chỉ người Kinh mới là người Việt, còn các sắc tộc khác không phải là người Việt. Trước đây, do cách nhìn kỳ thị của chính quyền quân chủ, các sắc dân Việt này bị gọi miệt thị là man, mọi! Vì vậy, từ đây, tôi dùng thuật ngữ người Kinh thay cho người Việt trong thảo luận. Người Kinh là một tộc người (race) trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Do vậy, muốn tìm nguồn gốc người Kinh cần phải biết quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. Tri thức của thế kỷ mới cho thấy, 70000 năm trước, hai đại chủng người Khôn ngoan Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian. Trong đó người Indonesian (Lạc Việt) giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Ngôn ngữ Lạc Việt là tiếng nói chủ thể của cộng đồng. Khoảng 40000 năm trước, người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa và xây dựng nơi đây nền nông nghiệp phát triển. Khoảng 7000 năm trước, tại trung lưu Hoàng Hà, người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Khoảng 5000 năm trước, người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà mà trung tâm là đồng bằng Trong Nguồn. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục do Hiên Viên lãnh đạo tấn công vào Trác Lộc, xâm chiếm đất của người Việt phía Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Do cuộc xâm lăng này, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam, mang nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư Đông Nam Á trong đó có bán đảo Đông Dương được chuyển hóa thành người Mongoloid phương Nam. Chủng Lạc Việt Indonesian chuyển thành dạng Mongoloid phương Nam điển hình. Chủng Melanesian chuyển thành loại hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng Lạc Việt là ngôn ngữ chung. Như vậy, câu hỏi 5 ở trên được giải đáp: người Nam Á ra đời sau nhưng ngôn ngữ Nam Á (Lạc Việt) xuất hiện đồng thời với hai chủng người Indonesian và Melanesian trên đất Việt Nam.[8] Thời kỳ này đồng bằng sông Hồng và đồng bằng miền Trung chưa hình thành nên người Việt cư trú trên vùng trung du và rừng núi miền Bắc và miền Trung. Khoảng vài ba trăm năm trước Công nguyên, đồng bằng sông Hồng được bồi tụ cơ bản đồng thời nhờ nước biển rút, một châu thổ phù sa phì nhiêu xuất hiện [9]. Người Việt từ khắp nơi dồn về vùng đất mới: từ Thanh Nghệ ra, từ Hòa Bình, từ trung du và miền núi Bắc Bộ xuống và từ Trung Quốc trở về… Việt Nam bước vào văn hóa Đông Sơn muộn, lưỡi cày đồng ra đời, khiến năng suất nông nghiệp tăng, lương thực dồi dào. Nhờ vậy nhân số đồng bằng sông Hồng tăng nhanh. Do từ lâu người Việt đã cùng một chủng tộc nên tại đồng bằng, dân cư không có chuyển biến lớn về di truyền mà chỉ người Indonesian nhận thêm nguồn gen Mongolic để chuyển hóa thành dạng Mongoloid phương Nam điển hình. Cũng do sự tập trung này mà tại đồng bằng, ngôn ngữ Lạc Việt được củng cố. Tuy nhiên về sau do tiếp xúc rộng với nhiều nguồn dân cư nên ngôn ngữ có những yếu tố mới. Trong những người di cư về từ Trung Quốc, có nhóm Tày-Thái, người Hakka, người Hán... Họ là con cháu người Lạc Việt ra đi từ hàng vạn năm trước, sống và tạo lập văn hóa nông nghiệp trên lưu vực Hoàng Hà. Do biến động của lịch sử, họ trở thành dân cư của các vương triều Trung Hoa cũng như các tiểu quốc Việt còn độc lập với triều đình Hoa Hạ tại lưu vực Hoàng Hà. Từ thời Thương, Chu, chữ tượng hình được sử dụng khiến cho ngôn ngữ vùng Trung Nguyên trở nên đơn âm và hữu thanh hóa. Quá trình như sau. Chữ tượng hình từ 6000 năm trước được người Lạc Việt ở Nam Dương Tử chế ra để ghi âm những tiếng dùng trong bói toán, bùa chú, cúng tế. Tiếng Việt vốn đa âm nhưng chữ hình vẽ thì đơn lập, không thể ghép với nhau. Vì vậy, những tiếng muốn được ký âm buộc phải chuyển thành đơn âm như blời à trời à thiên; tlủ à sủ à trâu; krong à sông, rồng, long… Trong dân gian người Việt, từ lâu quá trình đơn âm hóa ngôn ngữ đã xảy ra. Khi nhà Ân chiếm đất An Dương của người Việt ở Hà Nam, phát hiện chữ Giáp cốt, đã tập trung phát triển loại chữ này. Sang thời Chu, chữ được phổ biến hơn và được sử dụng rộng rãi vào thời Chiến Quốc. Nhà Tần đã quy chuẩn hóa chữ vuông. Nhờ vậy, tiếng nói dân cư Trung Nguyên đơn âm hóa mạnh. Khi tiếng nói đơn âm thì cũng tự nhiên xuất hiện thanh điệu: chỉ cần đổi dấu thanh sẽ được tiếng mới với nghĩa mới. Thí dụ Thanh à Thành à Thánh à Thạnh… Khi di cư về Việt Nam, người Thái, người Hẹ (Hakka), người Hán… mang theo tiếng nói đơn âm và hữu thanh về, góp phần làm biến đổi tiếng nói của cộng đồng, khiến cho tiếng Việt trở nên đơn âm và có thanh điệu. Khi sáp nhập Âu Lạc với Nam Việt, nhà Triệu đem chữ Nho vào dạy và sử dụng ở nước ta. Nhất là từ sau cuộc xâm lăng của người Hán, chữ Nho thành quốc ngữ, được dùng trong hành chính và giáo dục, quá trình chuyển hóa tiếng Việt sang đơn âm và hữu thanh được tăng cường. Cùng với việc đô thị hóa, giao lưu thương nghiệp, văn hóa của đồng bằng mở rộng với khu vực nên dần dần hình thành một dạng dân cư mới sống ở đồng bằng, được gọi là người Kinh với nghĩa dân cư vùng kinh đô. Theo thời gian, người Kinh phân biệt với dân cư các vùng khác bởi tiếng nói, văn hóa, cách sinh hoạt, phong tục tập quán mà thành một sắc tộc riêng. Như vậy, người Kinh là sản phẩm của quá trình khai phá đồng bằng sông Hồng. Khi biển rút, đồng bằng mở ra, những phần tử ưu tú, năng động nhất trong các bộ lạc người Việt từ các vùng khác nhau kéo xuống khai thác đất mới. Mỗi nhóm người đóng góp phần tốt đẹp nhất của mình tạo nên một cộng đồng dân cư mới. Đồng thời mỗi sắc dân cũng hòa lẫn trong cộng đồng. Thí dụ tiêu biểu của việc này là sự kiện 40.000 tù binh người Chăm được đưa tới đồng bằng Bắc Bộ vào thời Lý. Nay con cháu họ là ai? Một thí dụ khác: Quảng Nam là địa bàn phân bố từ xa xưa của người Chăm. Nhưng vì nằm trên đường mở nước nên hơn 500 năm (TK XI- XVI) điễn ra cuộc tiếp xúc liên tục với người Kinh. Kết quả là phần lớn dân cư nơi đây được Kinh hóa, trở thành người Quảng Nam hôm nay... Vì thế, về mặt di truyền, không có chuyện chỉ riêng người Mường phân hóa thành người Kinh mà do tiếng Mường giữ được nhiều nhất yếu tố ngôn ngữ Lạc Việt nên khi so sánh ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học ngộ nhận cho rằng chỉ có người Mường phân hóa thành người Kinh. Cũng vậy, hiện tượng đơn âm và hữu thanh của tiếng Kinh được ảnh hưởng từ nhiều nguồn: người Tày-Thái, người Hẹ, người Hán… từng có mặt tại đồng bằng nhưng rồi những dòng người này bị đồng hóa, hòa tan trong dân cư đồng bằng, không để lại dấu vết. Trong khi đó một số nhóm Tày-Thái Tây Bắc, di cư về muộn hơn nhưng do sống khá biệt lập, đã bảo lưu được phong tục tập quán và tiếng nói hình thành trên đất Trung Hoa nên khi phát hiện ra, các học giả cho rằng, người Mường tiếp thu ngôn ngữ của nhóm Tày cổ để biến thành người Kinh. Trong khi thực tế không phải vậy. Quá trình tương tự cũng diễn ra tại đồng bằng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Vùng đồi núi Thanh-Nghệ là nơi cư trú sớm nhất của người Việt cổ từ thềm lục địa đi lên, nên là nơi phát tích của dân cư Việt Nam. Khi đồng bằng miền Trung hình thành từ phù sa sông Cả, sông Mã, sông Chu, các dòng người cũng tập trung về đây, hòa huyết và hòa nhập văn hóa sinh ra cộng đồng người Kinh miền Trung. Do sinh ra từ miền đất cổ nên phương ngữ miền Trung là phương ngữ cổ xưa nhất của Việt Nam. Phương ngữ miền Trung được chia cho phương ngữ đồng bằng sông Hồng và phương ngữ miền Nam. III. Kết luận “Người Tiền Việt-Mường tiếp xúc với nhóm Tày cổ sinh ra người Kinh…” là câu chuyện hư cấu kéo dài hơn thế kỷ. Tiền Việt-Mường chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng. Ngay cả chuyện ngôn ngữ Tày cổ góp phần làm nên tiếng Việt cũng không có thực. Từ quá trình hình thành dân cư Đông Á với những bằng chứng khảo cổ học, văn hóa học, ngôn ngữ học, cổ nhân chủng học, di truyền học và toàn bộ lịch sử Đông Á, ta có thể chắc rằng, người Kinh là tổng hòa những dòng di cư người Việt tới chiếm lĩnh đồng bằng sông Hồng bắt đầu từ khoảng 500 - 300 năm TCN. Sau nhiều vạn năm sống trên dải đất hẹp của trung du và rừng núi, đồng bằng sông Hồng khi nước rút, trở thành đất hứa thu hút những con người năng động quả cảm nhất trong các bộ tộc Lạc Việt kéo về khai phá. Trong những người di cư này, người Việt từ Trung Quốc trở về có vai trò đặc biệt. Cùng với tiếng nói đơn âm và thanh điệu, họ mang về đất tổ những con người tài năng với kinh nghiệm quý giá của cuộc sống năng động phía Bắc. Ta còn nhớ, năm 43 sau khi diệt cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã thi hành cuộc diệt chủng tàn khốc. Ông bắt 300 gia đình quý tộc hàng đầu của Âu Lạc (khoảng 3000 tới 4000 người) đi đày ở huyện Linh Lăng Nam Dương Tử. Mất tầng lớp ưu tú nhất, Âu Lạc như rắn mất đầu, hầu như không còn năng lực để vươn dậy. Phải 200 năm sau mới có cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh. Cũng phải 200 năm nữa mới có cuộc vùng dậy của Lý Bí, là hậu duệ đời thứ bảy của một người Giang Nam di tản thời Tây Hán. Đinh Bộ Lĩnh là con Đinh Công Trứ, Quyền Thứ sử Hoan châu kiêm Ngự Phiên Đô Đốc, một vị quan từ Giang Nam tới. Rồi tổ tiên những dòng vua rực rỡ nhất trong sử Việt như Lý, Trần cũng thuộc những lớp người di tản này… Là lứa con út của đại tộc Việt, người Kinh không chỉ thụ hưởng phần đất hương hỏa trù phú nhất của tổ tiên mà còn nhận được phẩm chất di truyền cùng văn hóa ưu việt từ giống nòi. Cũng như nước từ các sông suối tạo thành biển, các tộc người Việt gặp nhau ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng miền Trung hình thành người Kinh. Nhờ vậy, người Kinh trở thành tộc người tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Giả thuyết trên có thể phù hợp nhất với sự thực lịch sử. Tuy nhiên, như lời của Jared Diamond: “chỉ khi được di truyền học kiểm chứng mới đáng tin.” Mong rằng ngày sự thực được chứng minh không còn xa. Tài liệu tham khảo: 1. H. Maspéro. Etude sue la phonétique historique de la langue annamite. BEFEO, T.XII Hanoi 1912 (dẫn theo Nguyễn Đình Khoa) 2. V. Goloubew. Le peuple de Dong Son et les Muongs. Catrier de I’Ecole frse, No 10 -1937 (dẫn theo Nguyễn Đình Khoa) 3. Nguyễn Thế Phương. Tiếng Mường và mối liên quan về nguồn gốc giữa người Mường và người Kinh Tập san Văn Sử Địa, số 42 năm 1958. 4. Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương. Về ngôn ngữ tiền Việt-Mường. Dân tộc học, số 1-1978. 5. Nguyễn Tài Cẩn - Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt. Kỷ yếu Hội thảo Việt Nam học lần I Hà Nội 1988. 6. Nguyễn Đình Khoa – Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN, H. 1983) 7. Przyluxki R – Les Langues sino-tibetanes. Les Langues du monde,1924 (dẫn theo Nguyễn Đình Khoa) 8. Hà Văn Thùy - Tiến trình lịch sử văn hóa Việt. SG xuất bản. Amazon.com 9. Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam. Khảo cổ học đồng bằng sông Hồng. http://caf.vass.gov.vn/noidung/nghiencuukhoahoc/Lists/NghienCuuKhoaHoc/view_detail.aspx?iDCapCoQuan=47&ItemID=1714
-
Những bài thơ của một người đang thăng hoa, lời thơ đơn giản nhưng ý nghĩa và hình tượng lại rất độc đáo, thậm chí nhiều lúc không nghĩ có thể tưởng tượng ra được, một ví dụ nhỏ trong tình yêu là thơ ngây, khờ dại hay ngây ngô như... phỗng đá. Trong bài thơ về tình yêu lại chứa đựng sự triết lý của cái vô cùng, được diễn tả nhẹ nhàng, rất mờ ảo nhưng cũng lại rất thực. EM ƯỚC Thơ: HienNguyen Em ước hóa thành chim Bay trong hoàng hôn tím Chân trời kia xa thẳm Chứa linh hồn đôi tim. Em ước hóa thành mây Ôm trọn tia nắng ấy Tình yêu em khờ dại Muôn đời vẫn thơ ngây. Em ước là vì sao Ánh sáng xanh huyền ảo Giữa bầu trời thanh vắng Tìm lại mình chốn nao? Em ước... ngàn ước ao... Như ngọn thác dâng trào Cuốn về miền đất hứa Cho chúng mình bay cao.
-
MỘT GIẢ THUYẾT VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI CỔ ĐẠI Tác giả: T. T, D (Esca Truong) Bài viết này gợi mở một khả năng, vẽ nên đôi nét về thời bán sử Việt Nam trước công nguyên. Tôi mong người Việt Nam đọc giả thuyết, nghiền ngẫm nó và sẽ phản bác, bổ sung hoặc cải sửa tùy thích, bằng bất cứ lý lẽ khả dĩ nào. Cái được mà tác giả hoài bão ở đây là hậu duệ của Vua Hùng, của An Dương Vương sẽ thêm một lần nữa tìm đến với tiền nhân oanh liệt thời khai sử, cùng nhau thảo luận những thông điệp nhân văn ẩn mình trong các truyền thuyết đẹp như tranh thủy mặc. 1. Lý thuyết địa đàng Phi châu và những cuộc di dân Lý thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại châu Phi. Những cuộc di cư sau này đã đưa con người đến khắp nơi trên mặt đất. Tôi xin dùng công trình nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền tảng cho bài viết này. Mặc dù còn rất nhiều ý kiến của các nhà nhân chủng học thế giới không đồng tình với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc mắc ở thời điểm di cư. Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lý với văn hóa, khảo cổ và lịch sử để cọ sát với lý thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra một giả thuyết tham khảo. Với kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến Đông Nam Á họ chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất đến châu Úc. Nhánh thứ hai rẽ lên phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào Ấn Độ và vùng tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử dụng trong bài viết này) diễn ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung Á và sau đó tràn qua châu Âu. Tại sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những chữ viết đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ “mặt trời”: một vòng tròn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập là Ra, tại Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin mình là con trời hoặc con của thần mặt trời. Hình ảnh mặt trời trên trống đồng Đông Sơn thì thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt trời là nguồn sống của trái đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía đông, di cư về phương đông chính là đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật không có hình ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài người đã đi theo ánh sáng mặt trời để phủ kín trái đất. Tại sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên dòng Trường Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá rộng lớn, đã phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn, Trường Giang dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi lắng. Cư dân nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu dài. Họ chỉ tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân mãn, hoặc dưới các nguyên cớ khác. Phân nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có mối liên hệ rõ ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ: Đại Địa Loan (hơn 8000 năm) nằm ở mạn phải dòng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc; Bán Pha (khoảng 6 ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn 8000 năm) tại Hà Nam. Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài ra trên bờ bắc Hoàng Hà tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa đào được 1 tường thành dài 130m, 4500 tuổi. Nó cho thấy hướng phát triển ban đầu của văn minh Hoa Hạ. Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng gì đến con người của bờ nam Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh trong sản xuất nông nghiệp và quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc điểm riêng biệt của văn minh Hoa Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ hình thành quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200 TCN phần nào đã sáng tỏ. Các nhà khảo cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối cùng là cho con trai trưởng của dân tộc Trung Hoa ẩn chứa quá trình biến chuyển kia. 2. Sự hình thành và phân rã văn minh Thần Nông Thời điểm dừng lại bên dòng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đã tạo nên một không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam là đồng bằng sông Cả, sông Mã (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên Tây Tạng, phía đông giáp biển Thái Bình Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh Thần Nông. Thổ nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của nền văn minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước, thuần hóa trâu bò làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa màng, làm thủy lợi; dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành thạo ghe thuyền, đánh cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, cắt tóc ngắn, cài nút áo bên trái… Văn minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu hai khuyết điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ ký tự phổ thông, tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên ruộng lúa nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu hệ. Hệ quả là nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc, chậm vươn đến hình thức nhà nước sơ khai. Sau một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần Nông đủ sức vượt dòng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn minh Hoa Hạ cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp này bao gồm cả những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại Trung Quốc kể chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói lên điều đó. Văn minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, đã góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu có hiến sử là văn minh Trung Nguyên – Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ sẵn có phần bổ khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả tinh túy của văn minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép chính thân sinh Thần Nông của mình. Song nó cũng thu nhận hình ảnh Thần Nông vào hệ thống huyền thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của mình. Cái tên Trung Quốc bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa quốc gia ở giữa thiên hạ vì kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn minh, hai chủng tộc lớn là Thần Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn minh Thần Nông hòa nhập với văn minh Hoa Hạ. Phần lớn còn lại vì trải trên địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường Giang, vẫn tách biệt, đây chính là vùng Bách Việt, như cách gọi của người Trung Hoa sau này. Thành công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở nhà nước Sở đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu đe dọa vương triều Thần Chu (chỉ còn là hình thức sau khi nước Sở ra đời). Sở cũng là nước kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất nhiều binh lực và xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13 năm sau khi mất nước, một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở là Hạng Vũ, đã đứng lên lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất cho thiên hạ và tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của nước Sở tồn tại hơn 500 năm đã vĩnh viễn khép lại. Lịch sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của nhà Chu cho Mị Dục Hùng, ở vùng biên viễn phía nam vương quốc Chu. Dục Hùng vốn từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng (khoảng đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719 đến 697 TCN), nước Sở đã tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành trướng đến vùng Trường Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông vẫn tự xưng là Sở Vũ Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng Thông mất, con là Hùng Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước Sở xa dần về hướng đông nam, vượt qua dòng Trường Giang hùng vĩ. 3. Nhà nước sơ khai Văn Lang Những biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất Việt Nam tương đối rõ ràng từ thời Mê Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết còn lưu truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên có một truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đình Hồ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc chia ly êm dịu diễn ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long Quân dẫn số còn lại xuống biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả theo Lạc Long Quân dựng lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối bằng phẳng thuộc đồng bằng sông Hồng. Rõ ràng đã có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên. Khoảng cách giữa Động Đình Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim bay. Sâu hơn nữa, tham khảo Bình Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết 100 trứng kia nói về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh lớn: Tây Âu và Lạc Việt. Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít nhiều thay đổi tập quán sinh sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông. Người Lạc Việt tản về phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ. Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa. Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng khớp với tên Bách Việt mà người Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam Trường Giang. Nếu đồng ý với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân ở Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đình Hồ) thì sẽ giải mã được “giặc Ân” trong một truyện cổ tích khác là “Thánh Gióng”. Thật vậy, trước khi Ân – Thương mất nước bởi dân Chu, việc họ nam tiến và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở. Khảo cổ học đã xác định tương đối chính xác kinh đô Ân - Thương nằm giữa tỉnh Hà Nam hiện đại, cách Động Đình Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim bay. Rất có thể liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và Lạc Việt, hình thành ở khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang mà trung tâm là Động Đình Hồ, sau khi nhà nước Ân - Thương ra đời (khoảng năm 1700 TCN). Văn minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không chịu đánh mất bản sắc và lề thói để hòa nhập với văn minh Trung Hoa đã ra đi. Kẻ ở lại cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng ruộng lúa nước, sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư hình thành hai cách lên đường chính là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ túa về ba phương Tây - Đông - Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển. Mục đích đầu tiên của họ là tìm kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập nghiệp. Những con người giỏi giang nhất luôn đi xa nhất, tìm được mảnh đất ưng ý nhất, và cuối cùng họ đã đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế kỷ 21 chứng minh điều đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt Nam, quốc gia duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai và con người vào nền văn minh Trung Hoa. Đất mới lúc ấy cũng có thể đã có người sinh sống, nhưng chắc chắn dân cư rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa thì ngập lụt tràn lan. Vì lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền trung du Phong Châu cao ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con người bất khuất, yêu chuộng hòa bình và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang, lãnh tụ của họ xưng là Vua Hùng, danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của nước Văn Lang ở Động Đình Hồ. Hành trình tìm kiếm Phong Châu còn ít nhiều đọng lại trong truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18. Các di chỉ khảo cổ đã khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di cư này: Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại trên 3000 năm, Gò Mun vào cỡ thế kỷ 8 TCN, Đông Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu đồi cao ráo, càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đã nói. Niên đại xa nhất của trống đồng tìm được ở Việt Nam và Trung Quốc cũng rất gần nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. Địa bàn chính đào được trống đồng rất rộng lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam), Vạn Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Trang (Quảng Tây). Đáng ngạc nhiên là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả thuyết của tôi lý giải được điều này: trên đỉnh cao của mình, nhà nước Văn Lang sơ khai ở Động Đình Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không vượt lên chế độ phụ hệ được, đã phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây nền văn minh khu biệt của từng đoàn người lưu vong lần hồi thoái trào, trống đồng ngày càng thô hơn. Văn Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động Đình Hồ. Con người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng Hà. Ràng buộc giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú dàn trải, lũ lụt chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở thành biểu trưng tinh thần đơn thuần. Hình ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc sống tự động biến mất, nhưng nó mãi mãi lưu truyền giữa tâm thức con người Văn Lang để hoài nhớ về một thời hoàng kim bất diệt. 4. Giải cấu truyền thuyết An Dương Vương Gần đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi cách Thành Đô 40km (Tứ Xuyên, Trung Quốc) đã hé mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục phát triển rực rỡ, đã hình thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao triều đại Thương – Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng gạch chưa nung để xây nhà cửa, thành quách. Phải chăng họ là nhánh “lên ngàn” của văn minh Thần Nông hoặc một nhánh của đoàn di dân Tiền Đông Nam Á? Sử ký, phần “Truyện Trương Nghi” kể rằng Tần Huệ Vương đã nghe lời Tư Mã Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả năng Thục Hầu và nhân dân Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đã lên đường lưu vong. Đoàn người đi về phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo dòng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và góp phần xây dựng nên nền văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng đông dừng chân ở vùng giáp ranh tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, lập nên nước Tây Âu Lạc. Chương “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” của Sử Ký chép về nước Tây Âu Lạc này rất rõ, nhiều sử gia không liên hệ được sử liệu đã mạnh dạn nghĩ Tư Mã Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây Âu Lạc! Sau khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt chiếm lấy vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Nước Văn Lang Phong Châu phía nam Tượng Quận, hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia. Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã vào rừng kháng chiến và kết quả là đã giết được Đồ Thư. Sách sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, Trung Quốc). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, còn sử Trung Quốc tuân thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng Tử, với nguyên ủy “Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch”) nên xóa hẳn các tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo của triết học Tiên Tần, đã chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo thịt. Tần Thủy Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của ông, được Sử Ký ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lã Bất Vi trốn về Tần, mẹ con Tần Thủy Hoàng phải ẩn mình trong dân chúng Triệu và chịu nhiều cảnh cơ cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại phải họa đi xây Trường Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần Thủy Hoàng là con hoang của Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Dân gian còn đem cả nàng Mạnh Khương gần hai trăm năm trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để trù úm đại công nghiệp của Tần Đại Đế. Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một người con gái nước Triệu (Sử Ký viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù hậu, do làm nội ứng cho nhà Hán chiếm Nam Việt, nên đã bị thừa tướng Lữ Gia giết. Những người Triệu bị đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đã quần cư và tạo thành nhóm dân tộc nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc hôm nay. Năm 208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ bình định xong Trung Nguyên không còn sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải hòa hợp với Bách Việt. Khi Cao hậu tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt hòng làm Nam Việt suy yếu để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa, cắt đứt đường thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu sai Lâm Hi Hầu hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm rồi nhà Hán bãi binh vì đám tang Cao Hậu. Rảnh tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quý tộc Tây Âu Lạc và Mân Việt để hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu chắc chắn ghi nhận thỏa hiệp dễ dãi của những người lãnh đạo Tây Âu Lạc trước âm mưu của Triệu Đà. Trận chiến đánh vào lòng người toàn thắng, năm 179 TCN Triệu Đà tấn công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam Việt rất rộng lớn, Triệu Đà đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho nên không thể tồn tại khả năng ông ta đã tấn công An Dương Vương tại đồng bằng sông Hồng. Mãi đến đầu công nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc Việt mới hình thành bởi người Hán lưu vong tránh họa Vương Mãng, tuy vậy chắc chắn đường rất khó đi nên đoàn quân của Mã Viện mới phải dùng thuyền. Một bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ Thư, đã đem tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé vào bờ biển trung bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Những liên hệ Thục – Khơ Me – Chàm trong bài viết này chỉ thuần lý thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và hình ảnh, nhưng tôi tin đô thị sơ khai Cổ Loa, cách dùng gạch chưa nung của người Khơ Me và người Chàm chắc chắn có dấu ấn văn minh Thục cổ đại. Người Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu thực ra rất gần gũi về chủng tộc (các nhóm di dân Tiền Đông Nam Á) và có thể cả ngôn ngữ nữa. Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng hòa hợp cùng nhân dân bản xứ trên mảnh đất bắc Việt, cải tên nước là Âu Lạc. Họ nối các gò đất, đồi nhỏ thành hai vòng đê ngăn thủy triều và nước lụt tại Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong ấy. Hai vòng đê cũng có thể trở thành chiến lũy, tường thành chống ngoại xâm khi cần. Đến năm 43, Mã Viện củng cố hai vòng ngoài và xây thêm vòng thành nhỏ thứ ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao của dấu vết tường thành Cổ Loa xưa xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả thiết Cổ Loa vừa là đê vừa là thành lũy. Rút kinh nghiệm xương máu ở Tây Âu Lạc, người Âu Lạc tạo dựng quan hệ ngoại giao mềm dẻo với Nam Việt để yên ổn sinh sống và làm ăn. Năm 111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người sang thuyết phục Âu Lạc theo mình, với chính sách rất thâm độc là để quí tộc Âu Lạc tiếp tục quản lý những vùng đất của họ. Lãnh tụ Âu Lạc phản đối, tùy tướng của ông ta là Hoàng Đồng đã lật đổ vua, quyết định thuần phục nhà Hán trên danh nghĩa để tránh chiến tranh. Năm 110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng, Thạch Đái được cử sang làm Thứ sử quận Giao Chỉ, phủ trị ở Long Uyên. Với sự giúp sức của Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu, Lạc Tướng bằng ấn đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái là âm thầm chia rẽ các liên minh của quí tộc Âu Lạc, không cho Lạc Hầu, Lạc Tướng có cơ hội đoàn kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng. Từ Thạch Đái trở đi, phủ trị Long Uyên vẫn tồn tại nhưng chức Thứ sử, Thái thú đôi khi khiếm khuyết và quan trấn nhậm cũng chẳng thường xuyên có mặt. Thực ra Hán triều thừa biết ở thời điểm đó cai trị trực tiếp Âu Lạc là không tưởng, vì quân ít, thủy thổ khắc nghiệt và chắc chắn người Âu Lạc sẽ chống đối đến cùng. Lịch sử Trung Quốc cũng ghi nhận sự mệt mỏi của nhà Hán sau những năm dài xâm lược phương nam, nhiều thân vương, đại thần dâng tấu chương đề nghị vua Hán tạm chấm dứt nam tiến. Thậm chí có thời gian dài họ bỏ hẳn, chẳng ngó ngàng gì đến đảo Hải Nam đã chiếm được hoàn toàn năm 111 TCN. Tuy vậy trong hệ thống hành chính Hán, nước Âu Lạc vẫn được chia làm 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân thuộc Giao Chỉ Bộ. Trung tâm hành chính của Giao Chỉ Bộ là Nam Hải tức Phiên Ngung, kinh đô cũ của Nam Việt. Xin lưu ý Bộ Giao Chỉ và Quận Giao Chỉ là hai tên gọi khác nhau. Sử gia Việt Nam đã nhiều lần nhầm lẫn, họ suy luận tên Quận đặt cho tên Bộ thì hiển nhiên Quận Giao Chỉ phải là trung tâm của Bộ Giao Chỉ. Giao Chỉ mang nghĩa là nơi liên giao giữa Trung Hoa và những khu vực phía nam mà họ chưa có ý niệm rõ ràng. Bộ Giao Chỉ là mảnh đất liên giao của nhà Hán với Viễn Nam, Quận Giao Chỉ lại là mảnh đất liên giao của Bộ Giao Chỉ với các miền xa khác. Theo tôi chuỗi luận để đặt tên Quận Giao Chỉ và Bộ Giao Chỉ là như vậy. Cũng cần hiểu rằng năm 111 TCN kiến thức địa lý của nhà Hán về Quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và vùng phụ cận rất mơ hồ. Thời Chu còn có từ “Đông Giao” để chỉ vùng đất phía đông xa xôi. Do đó Giao Chỉ thời Chu chưa chắc là Giao Chỉ thời Hán. An Nam Chí Lược của Lê Tắc viết: “Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận”. Hiểu theo nghĩa Giao Chỉ đã nói thì vùng đất Quảng Tây Trung Quốc thời Tần chính là Giao Chỉ. Khi nhà Tần bành trướng xong Tượng Quận, hiểu biết ngọn ngành về Tượng Quận thì Giao Chỉ dịch chuyển xuống đồng bằng sông Hồng, phía nam Tượng Quận. Nước Âu Lạc vĩnh viễn đi vào quá khứ. Văn minh đô thị mới nhen nhóm ở Cổ Loa đã lụi tàn vì người gốc Thục chia rẽ và mau chóng tự đồng hóa mình với cư dân bản xứ. Đặt giả định Âu Lạc là một nhà nước hoàn thiện, con người Âu Lạc có ý thức sâu sắc về quốc gia và từng bị Triệu Đà thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sách vở chính thống Việt Nam lâu nay), ta sẽ thấy diễn biến lịch sử ôn hòa từ năm 111 TCN đến năm 34 là không bình thường. Sau cả thế kỷ ổn định và phát triển trong nước, xã hội Hán cuối cùng cũng có những thay đổi về chất và lượng, bắt đầu manh nha công cuộc cải cách lớn của Vương Mãng. Đầu công nguyên, lòng tham của vua Hán sống dậy, lập tức Nhâm Diên và Tích Quang được cử sang quận Giao Chỉ và Cửu Chân tiến hành những chính sách mị dân, nhằm thăm dò tiềm lực thuộc địa cũng như khả năng phản kháng của nhân dân nếu áp đặt cai trị trực tiếp. Công việc bọn này chưa xong thì Vương Mãng tiếm ngôi, Trung Nguyên hỗn loạn. Thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân không thuần phục Vương Mãng, cắt đứt liên lạc với trung ương, chào đón dân Hán di cư để tạo vây cánh. Ít lâu sau Lưu Tú diệt được Vương Mãng, thành lập nhà Đông Hán. Năm 29 Đặng Nhượng (người thay Nhâm Diên làm thái thú Giao Chỉ) về triều cống Lạc Dương, có lẽ âm mưu cũ đã được Quang Vũ đế cân nhắc. Năm 34 Tô Định nhậm chức Thái thú Giao Chỉ và bắt đầu áp dụng chế độ kềm kẹp hầu mong biến mảnh đất Âu Lạc hôm nào thành miếng bánh ngon trên bàn tiệc thực dân. Dưới sức ép mới, nhân dân Giao Chỉ đã nổi dậy. Mê Linh liệt nữ thất bại trước Mã Viện chính thức biến Giao Chỉ và Cửu Chân thành quận huyện trực trị của nhà Hán, mở đầu kỷ nguyên 800 năm nô lệ cay đắng. Ngoài trọng trách thực dân, Mã Viện phải gánh vác nhiệm vụ dựng cột đồng “chuẩn” ở Giao Chỉ và Nhật Nam để đo bóng mặt trời vào những ngày giờ nhất định trong năm. Từ số liệu ấy, người Tàu sẽ định được vị trí chính xác của Giao Chỉ và Nhật Nam, bổ xung vào địa đồ nhà Hán. Có thể Mã Viện đã bỡn “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, song không ngoài mục đích giấu giếm bí quyết khoa học thiên văn địa văn của dân tộc mình dưới màn sương hư ảo. Trường hợp Cao Biền sau này dễ hiểu hơn, ông ta sử dụng thuốc nổ phá gềnh thác hiểm trở cho tàu bè qua lại, nhưng bịa đặt đã dùng phép thuật sai thiên lôi hành sự. Nhà Hán mất 154 năm từ lúc dụ Âu Lạc phụ thuộc đến khi vẽ xong địa đồ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp dụng chế độ trực trị đến huyện sở. Cách tính 800 năm thực sự bắc thuộc của tôi là có căn cứ (đã bớt ra vài đoạn gián cách người Việt giành được độc lập như thời Lý Nam Đế và Khúc Thừa Dụ). 5. Thông điệp nhân văn Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thuyết Kinh Dương Vương và An Dương Vương còn mang những thông điệp nhân văn luôn cần được con người Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào giải mã. Đất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. Nền văn minh lúa nước được xây dựng từ “Đất” và “Nước” là điều không ai có thể phủ nhận. Người Việt Nam còn gọi tổ quốc mình là “Đất nước” có nguyên căn sâu xa như vậy. Chuỗi luận này có thể dẫn đến việc giải nghĩa từ Âu Lạc là “Đất nước” . Bài học đoàn kết: Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đã chia rẽ, làm suy yếu nền văn minh Thần Nông. Hai nhánh Lạc Việt và Tây Âu, dù người xuống biển, kẻ lên rừng nhưng đều mất địa bàn sinh sống, phải bước vào hành trình ra đi, trôi giạt. Cả ngàn năm sau họ mới tìm lại được nhau trong nhà nước Âu (Cơ) – Lạc (Long Quân) sơ khai, non trẻ và yếu ớt. Bài học chiến tranh: Mỵ Châu đại diện cho nhân dân Tây Âu Lạc, Trọng Thủy đại diện cho người Nam Việt. Họ chính là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của chiến tranh. Nỗi đau của dân tộc này biến thành ngọc trai, rửa ở cái giếng ai oán thăm thẳm của dân tộc kia, sẽ lấp lánh vẻ đẹp vĩnh hằng của hòa bình và hòa hợp. Bài học cảnh giác: Cảnh giác, trước tiên là cảnh giác với chính mình, cảnh giác với kẻ thù ở hàng thứ hai. Nhà cầm quyền Tây Âu Lạc đã bị vàng bạc và hôn nhân chính trị lung lạc. Ỷ thành cao, vũ khí lợi hại, An Dương Vương buông thả, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, khiến nước mất nhà tan. Biển cả và tự do: Lạc Long Quân là con rồng của biển cả. Ông dặn con cháu nếu nguy cấp hãy quay về phía biển gọi “Cha ơi!”. Bại trận, An Dương Vương ra bờ biển, lạnh lùng xử tử Mỵ Châu rồi lấy sừng tê rẽ nước mà đi. Thông điệp “ra với biển” đã trở thành tiềm thức trong khối óc mỗi con người Việt Nam từ đó trở đi. Sau này dân Việt Nam đã hơn một lần ra với biển đi tìm tự do: những tùy tướng của Mê Linh Liệt Nữ chạy vào Cư Phong rồi lên thuyền thẳng tiến đến Malacca, họ là người Minangkabau ở Maylaysia và Indonesia hôm nay; hậu duệ nhà Lý thì giong buồm đến Cao Ly; Hồ Quý Ly đáng lẽ không bị bắt làm tù binh nếu không tắp vào bờ biển bắc trung bộ… Thông điệp “ra với biển” ở thế kỷ 21 chắc chắn là mở vòng tay Việt Nam với bè bạn năm châu, từ bỏ suy nghĩ thủ cựu, chấm dứt các hình thức bế quan tỏa cảng. 6. Từ Kinh Dịch đến chữ viết của tổ tiên người Việt Nam Trong quá khứ, không ít sử gia như Kim Định đã nghiệm rằng Kinh Dịch chứa rất nhiều yếu tố vay mượn từ văn minh Thần Nông. Gần đây một bài báo ở Việt Nam tự hào tuyên bố Kinh Dịch chính là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt. Tôi quan sát rất kỹ các tranh luận xưa nay và tự hỏi: “Ngôn ngữ điện toán hiện đại chỉ cần hai tín hiệu CÓ và KHÔNG, khi thể hiện trên giấy nó tương đương số 1 và số 0. Não điện toán dễ dàng đọc mọi văn bản chỉ toàn 0 và 1 đan xen, nối nhau thành chuỗi, vì tốc độ xử lý thông tin của nó rất cao. Nguyên lý khởi đầu của Dịch là Âm Dương sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Sau Bát Quái còn có thêm 64 Quẻ. Ký hiệu Dương là một vạch liền, Âm là một vạch đứt. Hoàn toàn tồn tại khả năng văn minh Trung Hoa đã mượn thứ ký hiệu này của văn minh Thần Nông và phát triển thành Kinh Dịch. Như vậy tại sao không thể đặt giả định hệ thống ký hiệu xây dựng từ hai đơn tố Âm và Dương là những chữ cái của một thứ ngôn ngữ bí hiểm nào đó trong văn minh Thần Nông”. Đến đây thì tôi thấy cần xét lại một “khuyết điểm lưu cữu lớn” của văn minh Thần Nông là không có chữ viết, đã đề cặp ở mục số 2. Hai đơn tố Âm và Dương rõ ràng đã đan xen, tạo thành chuỗi. Việc nó có thể dùng làm số đếm (hệ nhị phân), chữ cái hoặc chữ viết hay không, không còn phụ thuộc vào khả năng biểu đạt của hai đơn tố ấy, mà phụ thuộc vào khả năng xử lý tín hiệu của con người thời đó. Tôi đã loại bỏ được chất hoang tưởng trong giả định của mình. Tôi đã đến Viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh xem 1 chiếc trống đồng Đông Sơn. Trống đồng là linh vật của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều nhà khoa học đã đồng ý trống đồng lưu giữ dấu ấn thờ mặt trời của con người buổi bình minh lịch sử. Ở giữa mặt trống có mặt trời tỏa tia. Nửa ngoài mặt trống có 2 cặp vòng tròn đồng tâm chứa rất nhiều vạch liền xếp cạnh nhau. Theo ngôn ngữ Dịch, một vạch là Dương (trong lưỡng nghi), hai vạch là Thái Dương (trong tứ tượng), ba vạch là Càn (trong bát quái), sáu vạch là Càn Vi Thiên (trong 64 quẻ). Tất cả đều chỉ mặt trời hoặc ông trời. Nếu nói những nét liền kia nằm cạnh nhau là những chữ CÀN - CÀN - CÀN… liên tục tức TRỜI - TRỜI - TRỜI… liên tục thì khả dĩ chăng? Hay Thái Dương - Thái Dương - Thái Dương…? Đây chỉ là sự tình cờ thì thật lạ. Nhiều vạch quá, nhìn qua tủ kiếng tôi không thể đếm được bao nhiêu vạch. Nếu tổng số các vạch đó luôn chia hết cho 6, ở bất cứ chiếc trống đồng nào thì giả thuyết của tôi hữu lý nhất. Ngoài ra còn có một vòng tròn đồng tâm khác chạy những đường hoa văn hình “dấu ngã”, liên kết các “dấu ngã” này là những vòng tròn nhỏ, có chấm chính giữa. Đây cũng có thể là chữ “mặt trời” giống như chữ “mặt trời” ở nhiều nền văn minh sơ khai khác. Giả thuyết tôi đưa ra nếu đúng sẽ dẫn đến sự xét lại: Ngôn ngữ Dịch là của văn minh Thần Nông. Dùng cơ sở “Phục Hy đặt ra bát quái”, Khổng Tử đắp tượng Văn Vương và Chu Công cho học thuyết của ông, bằng cách khẳng định hai người này đã viết “Thoán từ” và “Hào từ”. Khả năng “Thoán từ”, “Hào từ” và “Dịch truyện” đã được chính Khổng Tử biên soạn, là rất lớn. Cho đến lúc này, theo tôi, chỉ nên đặt câu hỏi Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam chăng? Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục, chưa so sánh được ngôn ngữ Dịch khởi thủy với Kinh Dịch. Lịch sử Trung Hoa vẫn tồn nghi nguồn gốc Kinh Dịch hai ngàn năm nay. Người Việt Nam hiện đại đang có niềm tin xác đáng hơn bao giờ hết để bước vào cuộc truy tìm bản quyền Kinh Dịch. “Mỏ vàng nhân văn” này hứa hẹn trữ lượng nguồn sống tinh thần vô biên cho con cháu Tiên – Rồng. Tóm lại, tôi tạm dừng công việc của mình ở đây. Nếu có những người ủng hộ trí tưởng tượng của tôi, xin hãy tìm đến các di vật khảo cổ. Câu trả lời thật thuyết phục còn ở rất xa và có thể chẳng bao giờ ta thấy được. Tuy nhiên trò truyện với các vật tạo tác linh thiêng của tổ tiên mình không bao giờ nhàm chán và vô nghĩa. Dù rằng sẽ không ai chứng minh được tôi đúng song chứng minh tôi sai lại càng khó hơn. Cuối cùng cách giải mã ngôn ngữ trên trống đồng của tôi vẫn nên tham khảo, vì không lời khen tặng nào là quá đáng đối với trống đồng và những con người cổ xưa đã đúc nên chúng. 7. Kết luận Bất cứ một giả thuyết nào cũng tự chứa trong nó phản giả thuyết, tức là những yếu tố, những mâu thuẫn có thể triển khai và phá vỡ giả thuyết ấy. Cao Hành Kiện nói rất chính xác: “Những qui luật lớn lao của lịch sử khi không thể giãi bày loài người được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính mình. Loài người không phải chỉ có lịch sử, mà còn lưu lại văn học”. Với tư cách một cá nhân đi tìm nguồn cội chính mình, tôi muốn khai thác thật sâu áng văn học dân gian truyền miệng nói về thủy tổ Kinh Dương Vương và An Dương Vương, có tham khảo lịch sử, văn hóa và khảo cổ, để viết nên một thứ tạp văn lịch sử nhiều cảm tính. Hợp nhất – phân rã, lên cao – xuống thấp, chói lọi – lu mờ, thành công - thất bại, quần cư – tản mát, đến và đi… những cặp phạm trù này xoắn lấy nhau, vì nhiều nguyên nhân, liên tục đổi chỗ suốt quá trình hướng tới tương lai của bất cứ một nền văn minh nào trên thế giới. Văn minh Văn Lang và Âu Lạc chẳng thể là ngoại lệ, song sức sống không thể phủ nhận của Văn Lang và Âu Lạc ở chỗ nó đã không bị tiêu diệt hoặc đồng hóa bởi Trung Hoa, một nền văn minh tầm cỡ của nhân loại. Việt Nam cổ đại tuy vậy vẫn còn nhiều bài nghiên cứu khác, hi vọng ngày càng có nhiều bài nghiên cứu chất lượng như vậy. NGƯỜI NƯỚC HUỆ giới thiệu Nguồn: BS. Bùi Minh Đức chia sẻ
-
Tiền sử Việt Nam (VII) Người viết: Hà Hữu Nga 3.5. Quá trình hình thành Nhà nước sơ khai ở Việt Nam và Đông Nam Á Trong số các lý thuyết nghiên cứu quá trình phát triển tổ chức xã hội tiền sử có lẽ không lý thuyết nào đưa ra được một mô hình rõ ràng bằng mô hình phát triển nhóm - bộ lạc - thủ lĩnh địa - nhà nước do các nhà nhân học Mỹ đề xuất từ giữa thế kỷ XX. Tuy nhiên khi áp dụng vào lý giải quá trình hình thành nhà nước tại khu vực Đông Nam Á, lý thuyết này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với các nhà tiền sử học phương Tây thì các hạn chế liên quan đến mô hình ấy được họ cho là i) hầu hết các công trình nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á không được thực hiện theo khuôn khổ khảo cổ học nhân học Mỹ [Taylor, Keith W. 1992] (1); ii) còn thiếu các dữ liệu khảo cổ học, và có rất ít các bằng chứng khảo cổ học trực tiếp về giai đoạn tiền nhà nước của khu vực này từ 200 năm trước CN đến 800 năm sau CN; iii) các dữ liệu đã có thì lộn xộn, không thống nhất với các dữ liệu của các khu vực khác trên thế giới, vì vậy không thể so sánh được [bentley, G. Carter 1986]; iv) việc áp dụng các mô hình tiến hóa vào khu vực này tỏ ra không mấy thành công. Hơn nữa không thể cố ép các xã hội tiền nhà nước vào khuôn khổ mô hình thủ lĩnh địa và các mô hình tiến hóa khác [Wisseman C. Jan 1992] (3). Trong khi đó khái niệm “thủ lĩnh địa” lại chính là một mô hình đề xuất về tính chất tập trung của ba biến số: “kiểm soát kinh tế, tiềm lực quân sự, và sự chính thống hóa lễ thức” trong “các xã hội trung gian đó” [Earle, Timothy, ed. 1991]. Một vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu quá trình hình thành của nhà nước là người ta không đưa ra được một định nghĩa thống nhất về thủ lĩnh địa là gì, và ngay cả việc coi những thực thể chính trị như thế nào là nhà nước cũng vẫn còn cần phải tranh luận. Theo họ, “Nhiều thực thể được dán nhãn “nhà nước sớm” như Angkor cũng mới chỉ có những đặc tính của các thực thể giống-thủ lĩnh địa - hoặc thậm chí là bộ tộc, nhất là ở quyền thừa kế không thể chế hóa, và người ta thường dựa vào tư cách ân uy của thủ lĩnh” [White C. Joyce. 1995]. Mặt khác, các đặc trưng giống-thủ lĩnh địa là “tính chất phân hóa thứ bậc xã hội đã rõ ràng”, trong đó các “thủ lĩnh đã tăng cường việc kiểm soát việc phân phối các hàng hóa uy tín trong vùng, cho các cộng đồng phụ thuộc vào xã hội của ông ta” [Wolter, O. W. 1982]. Có một thực thể nào đó giống-thủ lĩnh địa đã phát triển ở đây từ giữa đến cuối thiên niên kỷ I trước CN dựa vào sự xuất hiện của các phân cấp cư trú trong vùng [Higham, Charles F. W. 1989]. Tuy nhiên bằng chứng về các mối tương liên thủ lĩnh địa như chiến tranh, kế thừa bền vững cấp bậc xã hội, sự thống nhất về hệ tư tưởng, hoặc sự kiểm soát kinh tế của giới tinh hoa vẫn chưa hề rõ ràng. Bằng chứng chắc chắn về quyền lực chính trị tập trung hoặc sự chuyển đổi trong phân tầng xã hội với khả năng tiếp cận khác nhau đối với các nguồn chiến lược cũng chưa thấy có. Các nhà nhân học Mỹ cho rằng việc nghiên cứu các xã hội phức hợp Đông Nam Á lâu nay chỉ tập trung vào các cấu trúc thứ bậc giữa thượng tầng và hạ tầng xã hội [Welch, David and Rudith R. McNeill 1991]. Vì vậy cần phải có một khái niệm trung tâm dùng để thảo luận về quá trình xuất hiện nhà nước trong khu vực này. Trong khi đó cách tiếp cận của Earle về quyền lực, sự thống trị, phân tầng xã hội, việc kiểm soát các nguồn, các lưu vực sông, kiểm soát trao đổi hàng hóa uy tín, chiến tranh, phụ thuộc, trung tâm, giới tinh hoa, và ân uy của thủ lĩnh...vv lại quá tập trung vào mối quan hệ theo chiều dọc (thứ bậc). Các vấn đề phức tạp như vậy được các nhà nghiên cứu cho là có thật và quan trọng, nhưng cách tiếp cận các vấn đề đó thì lại đơn tuyến. Và các nhà nhân học Mỹ đã đề xuất khái niệm thay thế, đó là lý thuyết mạng để giải quyết vấn đề này. Họ cho rằng các yếu tố then chốt của lý thuyết mạng phải là một cấu trúc thứ bậc linh họat và sự phân hóa xã hội theo bình tuyến hoặc phân cấp bên. Trong số các nhà nhân học phương Tây, Joyce White là người tiên phong dùng mô hình mạng để lý giải tiền sử Đông Nam Á, cho dù trước bà 13 năm mô hình này đã được đề xuất ở Việt Nam và vẫn được áp dụng cho đến bây giờ [Hà Hữu Nga 1982]. Bà cho rằng quá trình phát triển xã hội tại vùng trung tâm Đông Nam Á lục địa chí ít từ thiên niên kỷ II trước CN có những đặc trưng nổi bật và bền vững như sau: i) đa nguyên văn hóa; ii) các nền kinh tế bản địa được đặc trưng bởi: ii.a. các đơn vị sản xuất dựa trên cơ sở hộ, ii.b. sự chuyên môn hóa kinh tế dựa trên cơ sở cộng đồng, ii.c. các cơ chế phân phối sản phẩm mang tính cạnh tranh, đa trung tâm và trùng lặp, không có độc quyền của một trung tâm duy nhất; iii) hệ thống vị thế xã hội linh động trong thực tiễn và bao gồm cả sự thành đạt cá nhân; iv) các chiến lược giải quyết xung đột và tập trung quyền lực chính trị có khuynh hướng hình thành các liên minh bằng cách hợp tác - cạnh tranh ở trung tâm, và tái thỏa thuận định kỳ (trong khi đó chiến tranh, kiểm soát, chinh phục, hoặc các hành vi bạo lực khác chỉ là thứ yếu). Từ đó, White đã đưa ra mô hình phát triển xã hội Đông Nam Á như sau: i) địa phương hóa văn hóa vật chất một cách rõ ràng; ii) sự phát triển của các cộng đồng thủ công chuyên môn hóa; iii) tính chất cá nhân thể hiện rõ trong việc xử lý một số ngôi mộ khác thường chiểu theo các lễ thức mang tính cá nhân, căn cứ vào các vai trò kinh tế và/hoặc xã hội; rất hiếm có bằng chứng về chiến tranh hoặc bạo lực có tổ chức. Joyce White coi mô hình này là một mô hình mạng, vì nó nhấn vào tính chất linh động trong việc xác định vị thế, trong các mối quan hệ chính trị và việc phân hóa bên về phương diện kinh tế và xã hội [White C. Joyce 1995]. Trước hết có thể nói rằng White đã đúng khi phê phán cách tiếp cận tiến hóa đơn tuyến nhóm - bộ lạc - thủ lĩnh địa - nhà nước và áp dụng lý thuyết mạng vào việc nghiên cứu quá trình xuất hiện nhà nước tại Đông Nam Á, bởi vì ở khu vực này sự phân hóa xã hội không rõ ràng, đặc biệt không có phân hóa bền vững theo chiều dọc [Trần Quốc Vượng 1974, 1993, 1996, 2000]. Tuy nhiên việc bà sử dụng nghiên cứu trường hợp lưu vực sông Mun Chi (Thái Lan) làm “vùng hạch” để khái quát cho toàn bộ vấn đề xuất hiện nhà nước sớm ở Đông Nam Á thì lại là một sai lầm về phương pháp luận, vì Đông Nam Á chỉ là một tên gọi do người phương Tây đặt ra cho một khu vực địa lý rộng lớn. Đó không phải là một thực thể đơn nhất về kinh tế, văn hóa, xã hội, và chính trị, vì vậy không thể coi Thái Lan là đại diện cho toàn bộ sự phát triển của Đông Nam Á được. Sai lầm thứ hai của White có lẽ còn lớn hơn khi bà cho rằng khó mà tập trung được cả ba biến số mà Earle đưa ra: “kiểm soát kinh tế, năng lực quân sự, và sự chính thống hóa lễ thức” trong “các xã hội trung gian” trên con đường tiến tới hình thành nhà nước. “Trong khi đó việc kiểm soát kinh tế và năng lực quân sự lại không nhất thiết là vấn đề trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm trong khu vực này” [White C. Joyce 1995]. Việc Earle và các nhà nghiên cứu phương Tây sử dụng khái niệm “chính thống hóa lễ thức” thay thế cho khái niệm chính trị học hiện đại “thể chế” là một cố gắng thích nghi ngôn ngữ sử dụng để mô tả xã hội tiền sử Đông Nam Á. Tuy nhiên thực chất của chính thống hóa lễ thức chính là quá trình xây dựng thể chế, và đó chính là xây dựng cấu trúc thượng tầng xã hội. Nói cách khác, đó là hình hài của một nhà nước sơ khai. Về phương diện này cách tiếp cận của Earle là duy vật, mạch lạc và hoàn toàn chính xác. Trong khi đó White đã sai ở chỗ là tuy sử dụng mô hình mạng, nhưng về phương diện tri thức luận bà vẫn hoàn toàn tư duy theo lối đơn tuyến. Các thể chế, hay nói khác đi, những hình thức của nhà nước chỉ xuất hiện trên cơ sở một nhóm người đã có khả năng kiểm soát, và trên thực tế đã thực thi việc kiểm soát kinh tế. Và việc kiểm soát đó phải là trung tâm của vấn đề. White đã đan một tấm lưới tri thức để đánh bắt con cá của vấn đề hình thành nhà nước sơ khai. Thế nhưng bà lại cắt bỏ cái rốn của tấm lưới, vì cho rằng sự kiểm soát kinh tế ấy “không nhất thiết phải là vấn đề trung tâm”. Trong khi đó, bất cứ quá trình hình thành nhà nước nào cũng gắn liền với việc chinh phục các cộng đồng khác và/hoặc chống lại sự chinh phục của các cộng đồng khác. Về khía cạnh này, chiến tranh đã trở thành một thuộc tính của quá trình hình thành nhà nước. Bằng sự phù phép của White, “năng lực quân sự” cũng lại “không nhất thiết là vấn đề trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm trong khu vực này”. Thiện chí ca ngợi người Thái của White là đáng trân trọng và không thể chối cãi, vì ở phương Tây, nước Mỹ của bà đã có “Pax america” – Hòa bình kiểu Mỹ; ở Đông Á đã có “Pax japona” - Hòa bình kiểu Nhật; thì ở Đông Nam Á cũng phải có một “Pax thailanda” - hòa bình kiểu Thái. Nhưng trên thực tế không một nền hòa bình nào không xây dựng nhà nước của nó dựa trên sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự. Quên đi hay cố tình bỏ qua tất cả những vấn đề cốt yếu đó, White đã nhấn mạnh đặc biệt vào quá trình hình thành nhà nước ở Đông Nam Á lục địa thông qua các hệ thống liên minh chính trị – xã hội để cấu tạo nên bóng dáng của một Đông Nam Á cần được bảo trợ. Bà khẳng định rằng “các hệ thống chính trị lịch sử tộc thuộc và lịch sử ở Đông Nam Á cũng bộc lộ những yếu tố chung trong việc nhấn mạnh vào tính linh động và sự hình thành liên minh” [White C. Joyce 1995]. Bà lấy người khác để nói hộ mình “điều có tính chất quyết định cho sự thành công của các thủ lĩnh là thể hiện tài năng ngoại giao thông qua việc duy trì các mối quan hệ liên cá nhân” [Wolter, O. W. 1982, 17-18], hoặc “đàm phán hòa bình hoặc trao đổi bằng thương mại” [Hall, Keneth R. 1985] “mặc dù đã có nhiều cuộc chiến tranh được ghi chép lại, nhưng các sử gia không coi đó là hành động có tổ chức chính yếu đối với các thủ lĩnh giai đoạn sớm” [Wolter, O. W. 1982, 17-18], và “chí ít thì sự lãnh đạo hòa bình và việc xây dựng liên minh cũng luôn luôn được nhấn mạnh” [Hall, K. R. 1985]. Dường như White và hầu hết các nhà nghiên cứu phương Tây đều có chung một lối nhìn mập mờ đối với quá trình hình thành nhà nước sớm ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Theo họ, đó là một quá trình hướng tâm vào phong cách ân uy của vị thủ lĩnh, nó đối lập với thực chất ly tâm giữa nhà nước và dân chúng [White C. Joyce 1995]. Dân chúng bị thu hút về phía các thủ lĩnh và hướng về trung tâm nên đã tạo ra một sự thống trị mở rộng hoặc một tình thế bức bách mở rộng lãnh thổ [Wisseman C. Jan 1985]. Và hệ quả tất yếu của động thái hướng tâm của dân chúng đối với nhà nước là ở chỗ nhà nước không chú trọng kiểm soát lãnh thổ bằng việc kiểm soát lao động, vì vậy mà nhà nước tập trung vào việc kiểm soát con người. “Cuộc chiến để kiểm soát con người được thực hiện bằng cách hình thành các liên minh chính trị với giới điền chủ địa phương. Và đây mới là mối bận tâm chính yếu của những người cai trị” [Hall, Keneth R. 1985]. Tuy nhiên White cũng đã có một lập trường rõ ràng khi đồng ý với Aung-Thwin rằng “mật độ dân số thấp luôn luôn là một vấn đề của các nhà nước Đông Nam Á. Việc xây dựng mối quan hệ thần thuộc tạo cơ sở cho việc tuyển dụng lao động chứ không phải là việc xác định các mối quan hệ vị thế trong phân tầng xã hội. Các thủ lĩnh lôi cuốn những người đi theo, thậm chí là toàn bộ cả một vùng bằng cách đảm bảo an ninh, ban cấp đất, ban thưởng tước vị, che chở và cho quyền được tiếp cận với nguồn nước nhằm tạo cơ hội khuyếch trương ảnh hưởng đối với dân chúng. Trong bối cảnh đó, các khái niệm ‘nô lệ’ hay ‘nông nô’ mà sử sách vẫn nói chính là những loại thần thuộc được bảo trợ” [Aung-Thwin M. 1985]. Đằng sau động thái nghiên cứu lịch sử hình thành nhà nước ở khu vực Đông Nam Á, các nhà nhân học phương Tây muốn nói một điều là trước khi du nhập ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Quốc, vùng này vẫn nguyên vẹn là một xã hội không có lịch sử. Nhưng có lẽ đó cũng không phải là một ẩn ý, vì qua Wheatley, White đã phát biểu một cách không hề dấu giếm rằng: các nhà nước ở miền Bắc Việt Nam được Trung Quốc áp đặt [Wheatley, Paul 1979; White C. Joyce 1995]. Ngày nay, trong trào lưu của nền kinh tế tri thức, nhiều khía cạnh lý thuyết về vấn đề nhà nước đã được bổ sung hoặc được làm rõ thêm, trong đó có vấn đề về mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Trước đây trong lý luận về nhà nước người ta không đề cập đến loại hình sản xuất tri thức và thông tin. Người ta cố gắng đối lập tuyệt đối hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc để chứng minh cho sự vận động biện chứng của các loại hình nhà nước. Giờ đây vấn đề này đã được làm sáng tỏ, và thậm chí người ta còn đưa ra khái niệm nhà nước điện tử. Nhà nước điện tử là một loại hình nhà nước lấy sản xuất thông tin làm phương thức tồn tại của mình. Trong xã hội tiền sử Việt Nam đã có một hình thức nhà nước tồn tại dựa vào phương thức này. Đó chính là nhà nước Đông Sơn của người Việt cổ. Việc sản xuất ra hệ thống biểu tượng chính là một hình thức sản xuất thông tin tiền sử [Hà Hữu Nga 2004, 117 - 139]. Trống đồng là sản phẩm của một nền kinh tế biểu tượng, và bản thân nó là một biểu tượng quyền lực tập trung của các thế lực kiểm soát xã hội về kinh tế, tiềm năng quân sự, và tạo dựng thể chế. Chính chức năng sản xuất biểu tượng đã làm cho mối quan hệ giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở trở nên liên tục, không có gián đoạn. Và như vậy bản thân nhà nước cũng có chức năng sản xuất, chứ không phải là một cơ thể ăn bám xã hội. Phương thức sản xuất của nhà nước chính là sản xuất ra các chính sách, các quyết định, nó góp phần điều chỉnh hợp lý các nguồn tài nguyên trong xã hội. Không có phương thức sản xuất đó xã hội không thể tồn tại, vận hành và phát triển được. Vì vậy việc nghiên cứu quá trình hình thành nhà nước ở Việt Nam và Đông Nam Á cần có một định nghĩa mới về nhà nước. Chỉ có như vậy thì việc nghiên cứu nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ mới có được đầy đủ ý nghĩa. ___________________________________
-
Tiền sử Việt Nam (V) Người viết: Hà Hữu Nga 3. Thời đại kim khí và quá trình hình thành nhà nước sơ khai Các cư dân thời đại kim khí ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Cư dân văn hóa Phùng Nguyên: Sau đợt biển tiến Holocene trung, tam giác châu Bắc Bộ đã hình thành và các nhóm cư dân hậu kỳ đá mới từ địa bàn cũ của các văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Soi Nhụ và có thể cả các nhóm hậu kỳ đá mới Bắc Trung Bộ cũng hướng về khu vực đồng bằng Trung châu Bắc Bộ, khai thác nguồn lợi đất đai để phát triển nền kinh tế nông nghiệp đang phát triển mạnh. Về phương diện Khảo cổ học, cái tên văn hóa Phùng Nguyên là để chỉ một cộng đồng người sơ kỳ thời đại kim khí phân bố trên khắp địa bàn đồng bằng và vùng trung du Bắc Bộ ngày nay, và họ chính là tổ tiên trực tiếp của những người đã tạo dựng nền văn minh Đông Sơn nổi tiếng của người Việt cổ. Cho đến nay, hơn 50 di chỉ của cư dân văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện và nghiên cứu. Mật độ tập trung đậm đặc nhất của các di chỉ Phùng Nguyên là ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc với 34 địa điểm, Hà Nội và Hà Tây có 14 địa điểm, Bắc Ninh 6 địa điểm. Địa bàn phân bố của cư dân Phùng Nguyên hầu hết tập trung tại vùng hợp lưu của các con sông lớn ở Bắc Bộ, đó là sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thao, sông Đáy thuộc địa phận các tỉnh vừa kể ở trên. Một số niên đại C14 trong các di chỉ Phùng Nguyên là: Gò Mả Đống 4145 ± 60 năm cách ngày nay; niên đại di chỉ Đồng Chỗ là 3800 ± 60 năm cách ngày nay; ở lớp Phùng Nguyên thuộc di chỉ Đồng Đậu có niên đại 3330 ± 100 năm cách ngày nay. Trước hết phải nói rằng họat động kinh tế chủ đạo của cư dân Phùng Nguyên là sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước. Song song với các họat động nông nghiệp, thủ công nghiệp và trao đổi, buôn bán cũng phát triển mạnh mẽ. Đang trong quá trình thoát thai khỏi thời đại đồ đá, các cư dân Phùng Nguyên vẫn duy trì nền thủ công nghiệp chế tác đá, và phải nói rằng họ đã đẩy ngành chế tác đá lên trở thành một kỹ nghệ tinh xảo và điêu luyện. Về công cụ sản xuất, bộ sưu tập lớn nhất là bôn đá hình tứ giác, lưỡi vát về một phía, tiếp đó là rìu tứ giác [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999b]. Cả bôn và rìu đều có hình dáng chuẩn xác và được mài nhẵn. Ngoài ra cư dân Phùng Nguyên còn chế tác công cụ sản xuất bằng đá khác như dao, liềm, cưa, và đặc biệt là mũi khoan đá. Hai công xưởng tiền sử chế tác mũi khoan và đồ trang sức đá lớn nhất nước ta đã được phát hiện tại Bãi Tự (Bắc Ninh) và Tràng Kênh (Hải Phòng) [Nguyễn Thị Kim Dung 1986]. Sự phát triển của thủ công nghiệp Tràng Kênh còn thể hiện ở nghề làm vải, mà trước hết có thể là loại vải vỏ cây. Riêng tại địa điểm Phùng Nguyên đã tìm được 18 bàn đập bằng đá, bằng nghiên cứu so sánh dân tộc học và thực nghiệm, các nhà khảo cổ học đã kết luận đó là những chiếc bàn đập vỏ cây. Có nhiều khả năng chính loại y phục là sản phẩm của bàn đập vỏ cây đã gợi ý cho người tiền sử sử dụng những sợi vỏ cây đan kết lại thành vải, và một trong những nguồn gốc của việc phát hiện ra sợi chính nhờ ở những chiếc bàn đập vỏ cây này. Đối với con người, y phục và trang sức luôn có một mối gắn bó mật thiết và mang tính hữu cơ. Nhu cầu làm đẹp không chỉ đơn giản là để làm đẹp, mà nó còn là một biểu tượng, một tín hiệu thông tin cho người khác biết về vị thế của một cá nhân trong cộng đồng. Ngành thủ công trang sức tiền sử phát triển trước hết là từ khía cạnh đó. Với trường hợp cư dân Phùng Nguyên, khi nông nghiệp định cư đã làm cho cuộc sống của con người được cải thiện nhiều thì trong xã hội xuất hiện những hạng người khác nhau, với chức năng và vị thế xã hội khác nhau. Ngành thủ công sản xuất đồ trang sức đá đã đáp ứng tốt cho nhu cầu đó. Tại di chỉ Phùng Nguyên, trong số hơn 4000 hiện vật đá đã có tới gần 600 hiện vật là đồ trang sức. Riêng ở di chỉ Văn Điển thuộc văn hóa Phùng Nguyên Hà Nội, trong số 1085 hiện vật đá đã có tới 535 chiếc vòng. Một trong những thành tựu lớn nhất của nghề thủ công Phùng Nguyên là nghề gốm. Loại hình đồ gốm của cư dân Phùng Nguyên cực kỳ đa dạng, gồm có đồ đựng, đồ đun nấu, đồ dùng trong ăn uống, sinh họat, đồ dùng trong nghi lễ và có thể có cả những “hàng hóa uy tín” nhằm phô trương quyền uy của các vị thủ lĩnh hoặc các nhân vật quan trọng trong cộng đồng. Nhiều sản phẩm được trang trí hoa văn rất đẹp, không có dấu hiệu sử dụng để đun nấu, có lẽ có chức năng là hàng hóa uy tín. Người thợ gốm Phùng Nguyên không chỉ là những nghệ nhân tài ba, mà có lẽ họ còn là những người có nguồn tri thức phong phú nhất trong cộng đồng. Trong khuôn khổ tri thức tiền sử, ở một mức độ nhất định, họ phải hiểu biết về các kiến thức mà ngày nay chúng ta gọi là hóa học, cơ học, vật lý học, hình học, mỹ thuật...vv. Và còn hơn thế nữa, bằng phong cách tạo dáng, và nhất là trang trí hoa văn gốm, người Phùng Nguyên còn gán cho các sản phẩm của mình những ý nghĩa, những chuẩn mực hoặc những hệ thống ý nghĩa, hệ thống chuẩn mực và cách quan niệm về thế giới của xã hội tiền sử Phùng Nguyên. Về nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên, cho đến nay mới chỉ có một nghiên cứu chính thức cho rằng vào sơ kỳ thời đại kim khí đã có một bộ lạc ở phía Tây Nghệ Tĩnh di chuyển lên phía bắc, qua vùng đất Hòa Bình - Hà Tây hoặc vòng qua vùng Tây Bắc xuống định cư tại khu vực đồng bằng sông Hồng [Hà Văn Tấn 1976]. Tuy nhiên không thấy ai tiếp tục đi theo giả thiết đơn tuyến này. Một khuynh hướng khác tìm tòi nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên theo lý thuyết đa tuyến, cho rằng khi đồng bằng Trung du và Bắc Bộ hình thành đã có nhiều nhóm người từ mọi hướng tập trung về khai thác khu vực này. Đó có thể là các nhóm từ biển vào (văn hóa Hạ Long); từ đồng bằng Thanh Nghệ ra (giai đọan hậu kỳ đá mới Gò Trũng); từ Hà Giang xuống (văn hóa Hà Giang); từ Lạng Sơn về (văn hóa Mai Pha sớm hoặc giai đọan tiền Mai Pha); các nhóm hậu kỳ đá mới từ Tây Bắc, Hòa Bình, Hà Tây (vùng chân núi đá vôi Hương Sơn) cũng tụ hội về đây. Các quá trình đó tạo thành một mạng các mối quan hệ nguồn gốc của văn hóa Phùng Nguyên. Điều này ngày càng được thực tế tư liệu và lý thuyết chứng minh là đúng. Các cư dân Phùng Nguyên vẫn sử dụng các nguyên liệu cuội làm công cụ theo truyền thống Hòa Bình; nhiều dấu Bắc Sơn, bàn mài Hạ Long, gốm xốp Hạ Long, rìu có vai có nấc Hạ Long đã tìm thấy khi khai quật hoặc thám sát các “làng” Phùng Nguyên. Các công cụ có nguồn gốc cuội chỉ hiếm dần vào giai đoạn Phùng Nguyên muộn như các di chỉ Tiên Hội, Xuân Kiều, Từ Sơn, Lũng Hòa, Tràng Kênh, lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Sở dĩ cư dân Phùng Nguyên được coi là đã bước vào giai đoạn sơ kỳ kim khí vì trong một số di chỉ thuộc giai đọan này đã tìm thấy gỉ đồng và những mẩu đồng thau nhỏ, là hợp kim của đồng và thiếc, ở Bãi Tự đã tìm được một mảnh vòng hoặc một đoạn dây kim loại chì [Diệp Đình Hoa 1978]. Các cư dân giai đọan văn hóa Đồng Đậu: Văn hóa Đồng Đậu có tên gọi bắt nguồn từ di chỉ Đồng Đậu, thuộc xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Địa bàn phân bố của các di tích thuộc văn hóa Đồng Đậu về cơ bản trùng hợp với địa bàn của cư dân Phùng Nguyên. Nói cách khác, về phương diện lịch sử, Đồng Đậu là giai đọan phát triển kế tiếp của văn hóa Phùng Nguyên. Tuy nhiên, nếu như mật độ địa điểm tụ cư của người Phùng Nguyên đậm đặc ở vùng đất Phú Thọ thì đến giai đoạn Đồng Đậu, người tiền sử có xu hướng tiến xa hơn về phía đồng bằng ven biển, vì sau giai đoạn Holocene trung, biển lui dần và các khu vực đồng bằng thấp ngày càng trở nên khô ráo hơn, thuận tiện cho việc cư trú và khai khẩn của con người. Cũng giống như người Phùng Nguyên, các cư dân Đồng Đậu thường chọn các gò đất bằng phẳng để ở. Nền nhà của họ thường được tôn thêm bằng loại đất sét màu vàng nện chặt. Đôi khi phát hiện ra các hố đất đen trong khu vực nền ấy, và các nhà khảo cổ học cho rằng đó là những chiếc hố chôn cột. Cho đến nay đã có nhiều niên đại C14 được xác định cho văn hóa Đồng Đậu, trong đó tiêu biểu là di chỉ Thành Dền. Lớp sớm nhất có tuổi 3390 ± 70 năm cách ngày nay. Lớp trên cùng có tuổi 2650 ± 130 năm cách ngày nay. Cư dân Đồng Đậu sống ở trung kỳ thời đại đồng thau Việt Nam. Chắc chắn rằng cư dân Đồng Đậu là những người thợ luyện kim thành thạo. Nếu như ở giai đọan Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ học chưa phát hiện được những sản phẩm đồng thau hoàn chỉnh thì đến giai đọan Đồng Đậu đã phát hiện được những mũi tên, mũi nhọn bằng đồng. Không những thế người ta còn tìm được bằng chứng thể hiện kỹ thuật đúc đồng của cư dân tiền sử thuộc giai đọan văn hóa này. Tại di chỉ Tiên Hội đã tìm được khuôn đúc hai mang. Tại các di chỉ khác thuộc giai đoạn này như Đồng Đậu (lớp II), Đồng Dền, Đông Lâm, Đồi Đà (Lớp dưới) cũng tìm thấy khuôn đúc và nồi rót đồng. Và thành Dền được coi là một trung tâm đúc đồng thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu [Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985]. Đồ đồng của người Đồng Đậu là những sản phẩm hoàn chỉnh gồm có rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, mũi nhọn, búa, rũa bằng đồng....vv. Có ba loại hình rìu đặc trưng là rìu chữ nhật, rìu xòe cân và rìu lưỡi lệch thuộc di chỉ Đồng Dền. Có một sự kế thừa và phát triển rất logic trong nghề thủ công Đồng Đậu là tuy đồ đồng đã rất phát triển, nhưng cư dân ở đây vẫn sử dụng các công cụ bằng đá. Đồ đá của người Đồng Đậu gồm có rìu, đục, qua, mũi tên, vòng tay, khuyên tai. Tuy nhiên, trừ việc sản xuất đồ trang sức, việc chế tác các công cụ sản xuất bằng đá ở Đồng Đậu đã bị suy thoái nhiều so với cư dân Phùng Nguyên. Ngay cả nguyên liệu chế tác đồ trang sức cũng kém nguyên liệu đá Phùng Nguyên. Đó có thể là do nguyên liệu mới là đồng thau đã chi phối và thu hút tâm trí của người cổ Đồng Đậu. Nghề thủ công làm gốm vẫn tiếp tục phát triển với nhiều loại hình hiện vật như bát, chậu, vò, bình, các loại nồi đáy tròn hay đáy bằng. Có một số motif hoa văn gốm chưa hề xuất hiện trong văn hóa Phùng Nguyên, chẳng hạn như loại hình hoa văn khuông nhạc, và đường tròn đồng tâm. Riêng hoa văn đường tròn đồng tâm của cư dân Đồng Đậu có thể là một trong những nguồn gốc của hoa văn trống đồng Đông Sơn sau này. Ngoài ra gốm còn là chứng nhân cho một nghề thủ công điêu luyện khác của cư dân Đồng Đậu, đó là nghề đan lát. Trên nhiều mảnh gốm còn để lại những dấu đan lóng mốt, lóng đôi với những nan đan được tước mỏng, vót chuốt rất cầu kỳ, tinh tế. Chỉ riêng điều này cũng giúp ta hình dung được phần nào cuộc sống ổn định và phong phú của cư dân Đồng Đậu. Không có gì phải nghi ngờ rằng người Đồng Đậu là những nhóm cư dân làm nông, hậu duệ trực tiếp của người Phùng Nguyên. Hình thức canh tác của họ có thể là cả ruộng nước lẫn ruộng khô. Tại di chỉ Đồng Đậu, nhiều mẫu gạo cháy đã được phát hiện. Chăn nuôi đã rất phát triển trong các cộng đồng làm nông Đồng Đậu. Trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa này thấy có nhiều xương răng trâu bò, lợn gà đã thuần dưỡng. Tuy nhiên săn bắt và hái lượm vẫn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế của cư dân nơi đây. Di tích xương răng thú hoang thấy trong các di chỉ Đồng Đậu gồm có voi, trâu bò rừng, gà lợn rừng, hươu nai. Các động vật thủy sinh gồm có cá cua, trai, ốc, rùa. Bộ công cụ và vũ khí săn bắt của cư dân nơi đây cũng rất phong phú, gồm có giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu bằng xương, bằng đồng. Đặc biệt nghệ thuật làm tượng của cư dân Đồng Đậu đã lấy các vật nuôi gần gũi với con người như trâu, bò, gà làm đối tượng mô tả. Đó là một dấu hiệu cho thấy sự thịnh vượng và phát triển về mặt kinh tế và xã hội của cư dân Đồng Đậu để tiến đến một trình độ cao hơn trong văn hóa Gò Mun. Cư dân giai đoạn Gò Mun: văn hóa Gò Mun còn là một trình độ hay một giai đoạn phát triển của tiền sử Việt Nam trên con đường tiến tới hình thành nền văn minh Đông Sơn. Gò Mun là tên của một địa điểm khảo cổ học tiêu biểu cho giai đoạn phát triển này, được phát hiện tại Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Giống như Đồng Đậu bắt nguồn từ Phùng Nguyên, đến lượt mình giai đọan Gò Mun lại là sự tiếp nối lịch sử cư dân Đồng Đậu. Địa bàn phân bố của người Gò Mun phần nào trùng hợp với địa bàn của các cư dân Phùng Nguyên và Đồng Đậu trước đó, nhưng chắc chắn là mật độ cư trú đậm đặc hơn. Điều này được minh chứng bởi các địa điểm Gò Mun và Gò Chiền sát nhau, đặc biệt tại Thụy Vân huyện Phong Châu (Phú Thọ) cư dân Gò Mun đã lập làng trên 5 quả đồi liền kề nhau là Gò Gai, Gò Con Cá, Gò Thế, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới. Về niên đại, có một số mẫu C14 có tuổi điển hình của giai đọan Gò Mun, đó là di chỉ Vườn Chuối (Hà Tây) thuộc giai đọan cuối Đồng Đậu, đầu Gò Mun là 3045 ± 120 năm cách ngày nay; niên đại di chỉ Gò Chùa Thông (Hà Nội) là 2655 ± 90 năm cách ngày nay. Cư dân Gò Mun thuộc giai đọan cuối của văn hóa đồng thau. Nghề đúc đồng của người Gò Mun đã có những bước tiến lớn so với cư dân Đồng Đậu. Trong giai đọan Đồng Đậu chúng ta chỉ thấy có khoảng 10 loại hình hiện vật đồng thì đến văn hóa Gò Mun đã có tới trên 20 loại công cụ, vũ khí, và các vật dụng khác nhau, trong đó đặc biệt đã phát hiện được cả liềm đồng. Các hiện vật đồng khác gồm có rìu, giáo, lao, mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dũa, liềm, tượng, lục lạc, vòng tay, trâm cài, nhẫn...vv. Người Gò Mun vẫn sử dụng công cụ đá, trước hết vẫn là rìu đá, đục đá, bàn mài. Đồ trang sức đá cũng phong phú không kém các giai đọan trước, gồm các loại vòng tay, vòng tai, khuyên tai đá với nhiều loại hình khác nhau, nhất là sự đa dạng hóa các loại hình khuyên tai bốn mấu. Một thay đổi dễ nhận ra trong bộ công cụ đá truyền thống là lao giáo đá không thấy xuất hiện, có lẽ chất liệu đồng đã hoàn toàn thay thế một cách hiệu quả cho chất liệu đá trong việc chế tác những loại hình vũ khí này. Cùng khuynh hướng đó, dường như việc sử dụng chất liệu xương thú hoang cũng giảm đi so với giai đoạn trước. Nghề thủ công làm gốm Gò Mun phát triển rất mạnh, tuy nhiên không theo hướng hoa mỹ như gốm Phùng Nguyên, mà mang tính thực dụng nhiều hơn. Đó là những đồ đựng hoặc đồ đun nấu có kích thước lớn, thành gốm dày và được nung rất chắc chắn. Một trong những cách trang trí hoa văn gốm đặc sắc của người Gò Mun là hoa văn đắp nổi; loại hoa văn này phần nào gợi lại truyền thống hoa văn đắp nổi của cư dân hậu kỳ đá mới Hạ Long, một trong những cuội nguồn văn hóa của cư dân Việt cổ. Cư dân Gò Mun là những người làm nông có kinh nghiệm lâu đời được kế thừa từ các tổ tiên hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí của mình. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những hầm chứa lương thực hoặc hạt giống ở di chỉ Đồng Đậu. Đó là những hạt gạo cháy đen ở suốt các lớp từ Phùng Nguyên muộn qua giai đọan Đồng Đậu đến giai đọan Gò Mun. Ngay tại di chỉ Gò Mun cũng phát hiện được một hầm ngũ cốc mục nát. Các nhà nghiên cứu cho rằng các cư dân này không những có đủ mà còn có thừa lương thực để sử dụng và dự trữ. Phương thức canh tác của người Gò Mun có thể là quảng canh trên một khu vực rộng lớn [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 146 – 147]. Các nghiên cứu di tích lúa gạo trong các di chỉ này cho thấy người ta đã trồng cả lúa tẻ, cả lúa nếp, cả luá ruộng và lúa nương [Đào Thế Tuấn 1988]. Có thể nghĩ rằng bên cạnh quảng canh, người Gò Mun đã thâm canh một số loại ngũ cốc nhất định. Ngoài ra, người Gò Mun còn phát triển mạnh nghề chăn nuôi gia súc. Xương răng động vật thuần dưỡng có voi, trâu, bò, lợn, gà, chó. Cách thức canh tác dùng sức động vật có lẽ vẫn là lùa các đàn gia súc (khoảng 15 – 30 con trâu, trong đó có 2 - 3 con đầu đàn được huấn luyện để dẫn dắt cả đàn, trên một diện tích 1000 m2) xuống ruộng dẫm cho thuần thục đất để gieo cấy, giống như cách thức mà người Mnông vẫn canh tác ở vùng ruộng nước xung quanh hồ Lắc (Đắc Lắc) ngày nay. Còn nữa… Tiền sử Việt Nam (VI) Người viết: Hà Hữu Nga Các cư dân thời đại kim khí ở vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ Khu vực Thanh Hóa: con đường phát triển của các cư dân thời đại kim khí tại vùng đồng bằng sông Mã có nguồn gốc từ văn hóa hậu kỳ đá mới ở đây, thuộc giai đoạn Gò Trũng của con đường đá mới Đa Bút. Trong số các cư dân hậu duệ của người hậu kỳ đá mới khu vực này, trước tiên phải kể đến người Hoa Lộc. Họ còn để lại các di tích văn hóa sơ kỳ kim khí quí giá tại khu vực bắc Thanh Hóa, gồm có Hoa Lộc, Liên Lộc, Cồn Nghè, Bái Man, Bái Cù, Bãi Trung, Thành Nghi, Ngọc Thuận. Vào đến khu vực ngã ba Sông Mã, Sông Chu có nhóm di tích Cồn Chân Tiên - Đông Khối. Người Hoa Lộc cư trú trên các dải cồn cát ven sông biển thuộc huyện Hậu Lộc. Họ sử dụng những chiếc rìu và cuốc đá có vai. Trong các di chỉ thuộc văn hóa Hoa Lộc còn tìm thấy cả dấu Bắc Sơn, bàn mài lòng máng kiểu Hạ Long. Đồ gốm Hoa Lộc đặc biệt phong phú về các motif hoa văn trang trí, trong đó phải kể đến văn trổ lỗ kiểu Hạ Long. Hoa văn gốm Hoa Lộc rất gần gũi với hoa văn gốm Mả Đống. Vì sự tương đồng đó mà niên đại C14 của Mả Đống cũng được sử dụng để tham khảo niên đại Hoa Lộc, nó có tuổi là 4145 ± 60 năm cách ngày nay, thuộc sơ kỳ kim khí. Người Hoa Lộc là các nhóm cư dân làm nông dùng cuốc canh tác trên vùng đất cát ven biển kết hợp với săn bắt thú hoang và đánh cá [Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976]. Người Hoa Lộc có những mối quan hệ văn hóa gần gũi với các nhóm cư dân Cồn Chân Tiên - Đông Khối, là đại diện của các nhóm sơ kỳ kim khí thuộc khu vực đồng bằng sông Mã. Các nhóm này chuyên chế tác công cụ đá cung cấp cho các nhóm sơ kỳ kim khí khác trong vùng, kể cả các nhóm di tích Bái Man, Qùi Chử. Người dân Bái Man đã phát triển kỹ thuật chế tác đá đến trình độ cao. Giống như các cư dân Phùng Nguyên, người Bái Man cũng làm ra những chiếc rìu bôn tứ giác và chế tác các sưu tập đồ trang sức bằng ngọc bích hoặc đá Nephrite. Gốm của họ về chất liệu có gốm thô, gốm mịn, gốm xốp, được trang trí văn thừng, văn cuống rạ, trổ lỗ, chấm dải, văn chải, sóng nước và khắc vạch. Niên đại của nhóm cư dân Bái Man muộn hơn đôi chút so với các cư dân Đông Khối và Cồn Chân Tiên. Và nó là khâu nối từ cư dân sơ kỳ đồng thau qua Bái Man lên giai đoạn hậu kỳ và trở thành Đông Sơn. Nhóm cư dân Bái Man còn bao gồm cư dân Cồn Cấu (lớp dưới), Đồng Ngầm (lớp dưới), Thiệu Dương (lớp dưới). Nhóm cư dân Qùi Chử thuộc huyện Hoàng Hóa, cư trú ở tả ngạn sông Mã. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là nhóm tiền Đông Sơn và trực tiếp phát triển thành Đông Sơn. Bộ công cụ của cư dân Qùi Chử đã hiếm thấy chế tác bằng nguyên liệu đá, xuất hiện công cụ và vũ khí bằng đồng như giáo búp đa, dao, kéo, rìu xòe cân. Cư dân Qùi Chử còn để lại các di tích Qùi Chử lớp dưới, Xóm Rú, Đông Sơn (lớp mộ sớm), Thiệu Dương (lớp dưới), Núi Nấp (lớp dưới). Nhóm cư dân này thuộc giai đọan trung và hậu kỳ thời đại đồng thau, tương đương với các giai đọan Đồng Đậu và Gò Mun ở Bắc Bộ. Khu vực Thanh Hóa còn có nhóm cư dân thời đại kim khí phân bố trên các địa điểm miền núi phía tây. Đó là các di chỉ Na Tham, Thẩm Tiên, Chòm Pheo, Hang Anh Rồ, Pha Ké...vv. Đa số các di tích này đều phân bố trong các hang động, mái đá thuộc miền Tây của tỉnh. Công cụ lao động của cư dân nơi đây thường là những chiếc rìu tứ giác và rìu có vai mài toàn thân gần giống với các sưu tập rìu mài hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí Nghệ Tĩnh, Hòa Bình, Sơn La...vv. Đồ gốm của các cư dân thời kim khí Tây Thanh Hóa giống với đồ gốm của các cư dân Cồn Chân Tiên, Hậu Lộc, Phú Lộc. Các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân thời đại kim khí Tây Thanh Hóa là những nhóm hậu Hòa Bình vẫn còn trụ lại trên vùng đất này [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 188-189]. Chắc chắn họ đã có một nền kinh tế sản xuất đã bước đầu phát triển. Bộ sưu tập cuốc tại Chòm Pheo là minh chứng cho nhận định đó. Ngoài ra họ còn là những người khai thác các nguồn tự nhiên trên vùng núi, trao đổi với các cư dân đồng bằng và ven biển. Họ là những người góp phần làm phong phú bộ mặt văn hóa và lịch sử của người Việt Cổ, đặc biệt là những tri thức về môi trường rừng núi. Khu vực Nghệ An – Hà Tĩnh: tổ tiên trực tiếp của các cư dân thời đại kim khí Nghệ – Tĩnh chí ít bao gồm hai nguồn: đó là các nhóm cư dân văn hóa Thạch Lạc và các nhóm cư dân Quỳnh Văn muộn. Trong thời đại kim khí, các nhà nghiên cứu phát hiện được ba nhóm: i) Nhóm Đền Đồi; ii) Nhóm Rú Trăn; iii) Nhóm cư dân vùng núi. Nhóm Đền Đồi phân bố chủ yếu tại khu vực Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Nhóm cư dân này sử dụng các công cụ đá mài là những chiếc rìu và bôn hình thang có kích thước nhỏ. Người Đền Đồi chế tạo gốm bằng kỹ thuật bàn xoay với các loại hình vò, bát, bình, mâm bồng, và các đồ dùng để đun nấu. Đặc biệt tại Đền Đồi cũng phát hiện được gốm tô màu đỏ, tô ánh chì. Điều đó cho thấy những mối liên hệ nguồn gốc với cư dân Thạch Lạc giai đọan sớm, dù có ý kiến xếp Thạch Lạc vào sơ kỳ kim khí [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 199 – 201]. Tại di chỉ hậu kỳ đá mới Rú Ta, Diễn Châu cũng phát hiện được các loại gốm này. Nhóm cư dân Đền Đồi được các nhà nghiên cứu cho là cùng thời với các cư dân Phùng Nguyên (Bắc Bộ), Cồn Chân Tiên (đồng bằng Sông Mã). Cùng nhóm Đền Đồi còn có các cư dân thuộc những di chỉ sau: Rú Ta lớp trên, Thạch Lâm lớp trên, Bãi Thình Thình, Bãi Điền Điền, Rú Nài, Rú Nghèn, Cồn Bến Lội. Nhóm cư dân Rú Trăn gồm có người Rú Trăn và người Rú Cật (Nam Đàn, Nghệ An). Không giống Đền Đồi, bộ sưu tập Rú Trăn rất phong phú. Riêng đồ đá có cuốc vai lệch, bàn mài, hòn ghè, mũi nhọn, mảnh đá có vết cưa...vv. Ngoài ra tại đây còn phát hiện được một số đồ đồng, gồm có hai chiếc cuốc, 1 mũi nhọn, 1 nhẫn đồng và một miếng xỉ đồng. Gốm Rú Trăn bao gồm bình, lọ, nồi, bát...vv, được trang trí bằng văn thừng, chấm dải, khắc vạch, sóng nước, chấm tròn, hoa văn đắp nổi. Đặc biệt còn phát hiện được 5 mảnh nồi nấu đồng, 29 mảnh chân giò. Rú Trăn được xem là muộn hơn và phát triển cao hơn Đền Đồi. Họ là những cư dân đã biết nấu đồng [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 199 – 201]. Cư dân Rú Trăn sống cùng thời với cư dân Gò Mun và sau đó trực tiếp phát triển thành giai đọan văn hóa Đông Sơn trong khu vực đồng bằng sông Cả. Nhóm cư dân vùng núi Nghệ An – Hà Tĩnh còn để lại di tích của họ tại các hang Ké Sang, Mé Muôn, Hà Tham, Thẩm Tiên, Bản Pun, Hang Pông (Qùi Châu). Ngoài ra còn có các hang Hoong Còn, Piếng Pò, Pò Cung...vv. Tại các di chỉ này đã tìm được rìu có vai và rìu tứ diện được mài toàn thân. Hiện vật đá khác gồm có vòng tay, vòng tai, hạt chuỗi bằng đá ngọc. Đồ gốm được trang trí bằng hoa văn khắc vạch, chấm dải bằng cách in cuống dạ, hoa văn hình chữ S. Đó là các dấu hiệu cho thấy những cư dân nơi đây đã sống trong thời đại kim khí. Tuy nhiên việc phân định được rõ ràng các nhóm cư dân kim khí miền núi Nghệ Tĩnh về mặt không gian và thời gian không phải là công việc dễ dàng, vì tư liệu hiện nay còn khá nghèo nàn. 3.3. Các cư dân thời đại kim khí ở Nam Trung Bộ Cư dân Xóm Cồn: các nhóm cư dân tiền Sa Huỳnh thuộc văn hóa Xóm Cồn phân bố chủ yếu tại khu vực Phú Yên và Khánh Hòa. Cho đến nay đã phát hiện được 8 di chỉ của cư dân này, và các nhà nghiên cứu đã phân thành hai loại hình cư trú. Đó là các khu định cư trong đất liền gồm có Xóm Cồn, Gò ốc, Giồng Đồn. Nhóm định cư ngoài đảo gồm có Bình Hưng, Bình Ca, Bích Đầm, Bãi Trủ và Đầm Gìa. Tuy nhiên dù cư trú ở loại hình nào thì môi trường thân thuộc của người Xóm Cồn vẫn là các cồn cát và biển khơi. Hiện đã có 2 niên đại C14 của di tích người Xóm Cồn, đó là một mẫu vỏ ốc ở lớp cuối di chỉ Xóm Cồn có tuổi 4140 ± 80 năm cách ngày nay, và một mẫu thuộc di chỉ Bích Đầm có tuổi 2935 ± 65 năm cách ngày nay. Người Xóm Cồn sống trong thời đại kim khí cách ngày nay từ 3500 – 3000 năm [Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996], họ dùng các công cụ đá, trong đó có cả công cụ ghè đẽo, các công cụ đá mài gồm có rìu, bôn, đục. Cư dân Xóm Cồn cũng sử dụng xương và vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ. Đặc biệt ốc tai tượng được dùng để chế tác đồ trang sức. Tại một số nước trong khu vực như Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, và Thái Lan đã tìm thấy các loại hiện vật có cùng chất liệu. Người Xóm Cồn chế tạo gốm bằng kỹ thuật dải cuộn hòn kê. Kỹ thuật bàn xoay thường được sử dụng ở công đọan cuối, để hoàn thiện hình dáng gốm. Đặc biệt họ đã biết trang trí hoa văn bằng kỹ thuật tô màu, văn chắp thêm, trong đó có loại đĩa mâm bồng được tô màu đỏ rất đẹp. Chưa có nhiều tư liệu về thành phần nhân chủng của chủ nhân Xóm Cồn, nhưng việc giám định chiếc răng ở Bình Ba cho thấy nhóm người này thuộc chủng Australo-Mongoloid, trong đó nét Mongoloid đậm hơn. Các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân Xóm Cồn đã tạo nên chiếc cầu nối văn hóa giữa miền Trung – Tây Nguyên và khu vực sông Đồng Nai, và người xóm Cồn là một trong số các tiền nhân trực tiếp của người Sa Huỳnh [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 314-315]. Cư dân Long Thạnh: nhóm cư dân tiền Sa Huỳnh tạo nên giai đoạn Long Thạnh trong tiền sử khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, cư trú dọc các dải đồng bằng ven các dòng sông và bờ biển. Giống như người Phùng Nguyên, Đồng Đậu đã chiếm lĩnh dần dần khu vực Bắc Bộ, cư dân giai đoạn Long Thạnh cũng đã nhanh chóng phát triển các di chỉ cư trú của mình suốt dọc khu vực đồng bằng ven biển. Niên đại C14 ở di chỉ Long Thạnh II là 1420 ± 40 năm trước Công nguyên, và 925 ± 60 năm trước công nguyên. Người Long Thạnh chế tác công cụ sản xuất bằng đá rất độc đáo. Đó là những chiếc cuốc to bản, lưỡi hình vòng cung, rất tiện lợi cho việc canh tác nông nghiệp trên đất cát. Bên cạnh đó, bộ công cụ sản xuất của họ còn bao gồm những chiếc rìu tứ giác, những chiếc bôn “răng trâu” rất quen thuộc đối với khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Người Long Thạnh cũng sử dụng loại rìu mài đốc hẹp, không vai, lưỡi xòe, có dáng hình tam giác. Loại hình công cụ này rất phổ biến trong các địa điểm sơ kỳ kim khí khu vực sông Đồng Nai. Người Long Thạnh không chỉ dùng đá ngọc làm đồ trang sức, mà họ còn sử dụng cả vỏ sò vào mục đích này. Trong một ngôi mộ chum thuộc di tích Mỹ Tường đã phát hiện được 800 vỏ ốc có xuyên lỗ. Đồ gốm của cư dân Long Thạnh, tại khu vực Quảng Ngãi, Bình Định được các nhà nghiên cứu đánh giá là độc đáo và đẹp nhất trong số các sưu tập gốm cùng thời. Trong đó nổi bật là loại hoa văn gốm tô ánh chì (graphite) láng bóng. Nét văn hóa đặc trưng khác của người Long Thạnh là chôn người chết bằng mộ chum ngay tại nơi cư trú với các đồ tùy táng được xếp đặt có chủ ý. Sự chênh lệch về số lượng và chất lượng của đồ tùy táng cho thấy đã có sự phân biệt đáng kể về thân phận của người chết. Nguồn gốc cư dân sơ kỳ kim khí thuộc giai đọan tiền Sa Huỳnh miền Trung được các nhà nghiên cứu lần tìm từ văn hóa Bàu Tró, dựa trên sự tương đồng của bôn răng trâu, gốm tô ánh chì [Hà Văn Tấn 1982]. Cư dân Bình Châu: nhóm cư dân này thuộc vào giai đọan phát triển hậu kỳ đồng thau Nam Trung Bộ, đã để lại các di tích của họ dọc ven biển các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Đó là các di tích Bình Châu, Bàu Trám, Bàu Hòe, Xóm ốc (đảo Lý Sơn), Gò Miếu. Giai đọan Bình Châu còn được phát hiện rải rác tại Ninh Thuận, Bình Thuận (Phú Trường). Người Bình Châu chủ yếu sống ở các đồi cát ven các cửa sông sát biển, tuy nhiên một số nhóm Bình Châu cũng đã vượt biển định cư tại các hòn đảo ngoài khơi, trong đó có đảo Lý Sơn. Người Bình Châu vẫn sử dụng phổ biến công cụ đá, trong đó có chiếc cuốc đá là công cụ canh tác hữu hiệu trên đất cát. Các nhà khảo cổ học coi chiếc cuốc này là tiêu chí xác định đặc trưng tiền Sa Huỳnh cho các di tích ven biển Nam Trung Bộ. Ngoài ra, tuy đã xuất hiện công cụ đồng, nhưng những chiếc rìu bôn đá vẫn còn đóng một vai trò đáng kể trong đời sống của cư dân Bình Châu. Trong giai đọan này, đồ trang sức bằng đá ngọc có phần giảm đi, nhưng lại xuất hiện đồ trang sức bằng gốm, đó là loại khuyên tai gốm hình con đỉa tìm thấy ở Bình Châu và Bàu Trám. Trung tâm điểm của hiện vật gốm Bình Châu vẫn là những mộ bằng gốm, trong đó thường có đồ tùy táng gốm, đó là 3-5 chiếc nồi, vò hoặc bát bồng. Người Bình Châu cũng chôn theo người chết các món đồ trang sức như khuyên tai, quả cân gốm. Loại đồ tùy táng không thể thiếu của giai đoạn này là những hiện vật bằng đồng như đục, lao, lưỡi câu, mũi tên...vv. Giống như người Long Thạnh, cư dân Bình Châu cũng có những mối quan hệ nguồn gốc văn hóa rất gần gũi với các nhóm cư dân phía Bắc như Hoa Lộc và Bàu Tró. Loại khuyên tai gốm hình con đỉa, hiện vật gốm hình quả cân và gốm tô ánh chì, mộ vò ...vv, là những bằng chứng chắc chắn cho mối quan hệ đó. Các nhà khảo cổ học cho rằng “Trong một số di tích ở Đông Nam á cũng có hiện tượng trang trí trên gốm với các màu trắng vôi, màu đen ánh chì và màu đỏ...Có thể phong cách trang trí này của Bình Châu, Phôi Phối đã tham gia vào quá trình thành tạo văn hóa của cư dân vùng hải đảo khu vực Đông Nam Á” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 336]. 3.4. Các cư dân thời đại kim khí ở Nam Bộ Với tư liệu hiện biết, hầu hết cư dân thời đại kim khí Nam Bộ đều phân bố trên các bậc thềm cổ tiếp nối các cao nguyên phía bắc, thấp dần về phía đông nam. Đó là khu vực miền Đông Nam Bộ, thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu sông Đồng Nai. Họ sống trên các khu vực cao ráo ven các sông suối lớn và vùng ven biển, với mật độ cư trú cao, tạo thành các làng xóm có một diện tích rộng từ vài vạn (di chỉ Cầu Sắt, Bến Đò) đến vài chục vạn mét vuông (di chỉ Cái Vạn), bao gồm cả các di chỉ cư trú, nghĩa địa, công xưởng chế tác vật dụng (Bưng Bạc, Suối Linh, Mỹ Lộc...vv). Tuy thuộc phạm trù thời đại kim khí, nhưng sơ kỳ kim khí Đông Nam Bộ vẫn tiếp nối truyền thống hậu kỳ đá mới rất đậm nét, với đủ các loại hình công cụ đá như rìu có vai, rìu tứ giác, bàn mài, bôn, đục, cuốc, mai, dao, hái...vv, trong đó loại hình rìu bôn có vai chiếm tỷ lệ lớn nhất [Phạm Quang Sơn 1978]. Đồ trang sức chất liệu đá của cư dân nơi đây gồm có vòng tay, khuyên tai có mấu, khuyên tai hai đầu thú bằng đá ngọc [Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995]. Loại di vật đá quan trọng nhất ở Đông Nam Bộ, là khuôn đúc đồng. Tại địa điểm Dốc Chùa đã tìm được 73 chiếc, địa điểm Bưng Bạc tìm thấy 38 chiếc [Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985]. Các hiện vật bằng đồng của cư dân thời kim khí Đông Nam Bộ xuất hiện trong các di chỉ thuộc giai đoạn muộn như Cái Vạn, Hàng Gòn, An Hưng, Võ Đông, Dốc Chùa, Suối Chồn. Cư dân Dốc Chùa đã sản xuất được đồng thau gồm có các hợp kim đồng - thiếc - chì. Bên cạnh nghề thủ công làm đá và đúc đồng, cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ vẫn phát triển mạnh nghề gốm với các loại hình rất thông dụng như nồi, vò, bình, bát. Tương tự với loại hình gốm “chân giò” ở lưu vực đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tại lưu vực sông Đồng Nai, cư dân ở đây đã sáng tạo ra loại sản phẩm gọi là chiếc cà ràng gốm, dùng để đun nấu rất tiện lợi trong điều kiện sông nước Nam Bộ. Giống như cư dân tiền Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ, cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ cũng sản xuất nhiều chum, vò gốm phục vụ cho táng thức. Tại các địa điểm Hàng Gòn, Dầu Giây, Phú Hòa, Suối Chồn phát hiện được những mộ chum hay mộ vò gốm có kích thước lớn. Tuy nhiên chúng có niên đại khá muộn, với các hiện vật tùy táng gồm có giáo, rìu, kiếm, khuyên tai, hạt chuỗi, trong đó đã có sản phẩm được chế tác từ sắt. Trong số những đồ tùy táng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện được cả thủy tinh. Cư dân nơi đây đã chế tạo loại vòng tay thủy tinh có mặt cắt hình tròn, hoặc làm khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu. Đồ thủy tinh ở đây được chế tạo bằng phương pháp đúc [Nguyễn Trường Kỳ 1983]. Trong giai đọan thời đại sắt các cư dân tiền óc Eo và óc Eo cũng đã sử dụng vàng, bạc một cách phổ biến. Ngoài ra các nhà khảo cổ học đánh giá rất cao trình độ phát triển của cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ, đặc biệt là bộ qua đồng Long Giao, gồm có 19 chiếc nguyên vẹn và 12 mảnh vỡ, được phát hiện tại xã Xuân Tân, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Nhóm qua này thể hiện nghệ thuật đúc đồng hoàn thiện của cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ [Phạm Đức Mạnh 1985]. Cho đến nay lịch sử cư dân thời kim khí Đông Nam Bộ được xem xét qua bốn giai đoạn phát triển. Đại diện cho giai đọan đầu tiên là các cư dân thuộc địa điểm Cầu Sắt. Các cư dân này sống cùng thời với các cư dân thuộc giai đọan Phùng Nguyên đồng bằng Bắc Bộ. Trong giai đoạn này cư dân Cầu Sắt sản xuất và sử dụng những công cụ đá mài có kích thước nhỏ hoặc vừa phải. Người ta vẫn sử dụng các loại dao hái chế tác bằng kỹ thuật ghè đẽo đá, hoặc kỹ thuật mài cùng với các mũi nhọn cũng được làm từ mảnh tước. Bên cạnh đó cư dân Cầu Sắt chế tạo gốm bằng kỹ thuật bàn xoay, một số loại hình gốm được làm bằng tay. Người Cầu Sắt chưa làm được các công cụ và vật dụng bằng kim loại. Giai đoạn phát triển tiếp theo do cư dân Bến Đò làm đại diện. Họ đã phát triển những công cụ lao động có kích thước lớn như cuốc, mai, các loại rìu có vai. Cư dân Bến Đò hoàn toàn chế tác gốm bằng kỹ thuật bàn xoay. Tuy nhiên giai đọan này vẫn chưa thấy cư dân ở đây sử dụng kim loại. Niên đại C14 tại địa điểm Bến Đò có tuổi 3040 ± 140 năm cách ngày nay và 3000 ± 110 năm cách ngày nay (tính đến năm 1950). Tiếp theo Bến Đò là giai đọan do cư dân Cù Lao Rùa làm đại diện. Trong giai đoạn này người dân không còn sử dụng dao hái và đục đá như trước nữa. Loại công cụ lớn có vai như cuốc, mai cũng giảm mạnh, trong khi đó người dân lại ưa dùng loại công cụ không có vai. Đặc biệt cư dân giai đọan này đã biết đúc đồng và sử dụng công cụ đồng, những hiện vật này đã được phát hiện tại di chỉ Cù Lao Rùa. Các niên đại C14 tại địa điểm Dốc Chùa có thể sử dụng để tham khảo niên đại của của cư dân Cù Lao Rùa, đó là hai mẫu có tuổi 3145 ± 105 năm cách ngày nay và 2990 ± 105 năm cách ngày nay. Tiếp theo là người Dốc Chùa với các nhóm tiêu biểu như Long Giao, Suối Chồn và Dốc Chùa lớp trên. Cư dân giai đoạn Dốc Chùa đã rất thành thạo trong việc chế tác công cụ, vũ khí và vật dụng bằng đồng thau, bao gồm rìu, giáo, lao, đồ trang sức vòng đồng, tượng động vật. Điển hình nhất là loại rìu đồng lưỡi cân, một mặt phẳng, một mặt lồi và bộ qua đồng Long Giao. Ngoài ra không nơi nào trên đất nước chúng ta lại tìm thấy nhiều khuôn đúc đồng nhiều như đã tìm thấy tại các địa điểm của cư dân Dốc Chùa [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 384-387; Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991].
-
Tiền sử Việt Nam (IV) Người viết: Hà Hữu Nga 2.3. Các con đường phát triển Hậu kỳ Đá mới miền núi Không giống với các con đường phát triển văn hoá liên tục từ trung kỳ đến hậu kỳ đá mới khu vực đồng bằng và ven biển, các con đường phát triển hậu kỳ đá mới miền núi có vẻ khó định hình về phương diện khảo cổ học, vì các di tích và di vật thường lẫn với các thời đại trước và sau nó. Tuy nhiên về phương diện lịch sử, sự tồn tại và phát triển của các bộ lạc hậu kỳ đá mới miền núi là một sự thực khách quan không thể phủ nhận, trong đó có những nền văn hoá, những khu vực văn hoá thực sự phát triển rực rỡ và có đóng góp to lớn vào lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam. Dưới đây là một số con đường phát triển đó. Văn hoá Mai Pha: nền văn hoá này được gọi theo tên di chỉ Mai Pha thuộc xã Mai Pha, thị xã Lạng Sơn [Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996]. Cho đến nay đã phát hiện được 12 di chỉ thuộc văn hoá Mai Pha gồm: Mai Pha, Ba Xã I (hang cao), Ba Xã II (hang phía đông nam), Phia Điểm (lớp trên), Mè Bạc, Phia Thình, Kéo Vãng, Ngườm Sâu, Tu Lầm, lớp mặt Hang Dơi, lớp mặt hang Lạng Nắc, Phai Vệ II [Nguyễn Cường 2002]. Cư dân Mai Pha thuộc vào giai đoạn Hậu Kỳ đá mới, phân bố chủ yếu tại các khu vực phía đông và đông nam sơn khối đá vôi Bắc Sơn, phần nào trùng với địa bàn phân bố của những nhóm người Bắc Sơn trước đó. Nhưng địa bàn phát triển nhất của người Mai Pha lại là các thung lũng lớn và thuận tiện cho việc làm nông, chăn nuôi và đặc biệt là việc phòng vệ như Mai Pha, Ba Xã, khu vực cánh đồng Chi Lăng. Sưu tập hiện vật đặc trưng của người Mai Pha gồm có các công cụ ghè đẽo kiểu Bắc Sơn, dấu Bắc Sơn, rìu bôn tứ giác, gốm màu, gốm trang trí hoa văn hoa thị kết hợp trổ lỗ. Giống như hầu hết các bộ lạc hậu kỳ thời đại đá mới, nền kinh tế của cư dân Mai Pha là một phức hợp bao gồm làm nông, chăn nuôi qui mô nhỏ, làm thủ công, trao đổi đường dài (với các cư dân thuộc các văn hoá Hạ Long, Hà Giang, và các nhóm cư dân khác đang chinh phục đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Các động vật nuôi gồm có trâu, lợn, chó. Các hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Mai Pha. Rất nhiều tàn tích xương răng động vật bị đốt cháy, bị đập vỡ, bị đẽo gọt còn bỏ lại trong các di chỉ Mai Pha. Riêng cuộc khai quật di chỉ Mai Pha cũng đã thu được hơn 20 kg xương răng động vật. Trong tất cả các địa điểm có dấu tích văn hoá Mai Pha đều tồn tại một khối lượng lớn tàn tích vỏ nhuyễn thể. Người Mai Pha còn sử dụng vỏ trai sông Kỳ Cùng để đẽo gọt thành những chiếc “bôn” có vai rất độc đáo. Dấu tích trao đổi với cư dân Hạ Long thấy rất rõ qua sưu tập “tiền cổ” làm bằng vỏ ốc biển Cypraea rất phổ biến tại vùng biển Hạ Long. Sưu tập vỏ ốc biển này thấy ở các địa điểm Mai Pha 4 tiêu bản, Lạng Nắc (lớp mặt) 2 tiêu bản, hang Ba Xã 2 tiêu bản. Trong khi đó theo báo cáo của Mansuy thì loại hiện vật này phát hiện được rất nhiều tại hang Ba Xã [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 261]. Không nghi ngờ gì nữa, chủ nhân của văn hoá Mai Pha là con cháu của những người Bắc Sơn giai đoạn muộn. Trước giai đoạn biển tiến Holocene trung, một số nhóm cư dân đã chuyển cư xuống đồng bằng ven biển, kết hợp với các nhóm cư dân trung kỳ đá mới Cái Bèo. Một số nhóm còn lại đã phát triển thịnh vượng tại một số khu vực thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn, sau đó lấp dần những chỗ trống của những nhóm đã chuyển đi. Các di chỉ Phai Vệ và Phia Điểm (thị xã Lạng Sơn) là hai trong số các mô hình này. Xã hội Mai Pha không đơn giản chỉ là một mô hình nông nghiệp thung lũng chân núi, mà còn là một xã hội phức hợp làm nông, khai thác, thu lượm, chế tác gốm, và là một trung tâm trao đổi Núi - Biển, Núi - Đồng bằng, Núi - Núi. Nhiều khả năng xã hội Mai Pha có một cơ cấu tổ chức theo mô hình dân chủ quân sự. Đó là mô hình tự bảo vệ mình khỏi các cuộc tấn công và tấn công các cộng đồng khác khi có điều kiện. Các yếu tố tạo nên xã hội này gồm có thủ lĩnh quân sự lâm thời, hội đồng người già, hội đồng những người đại diện các tiểu vùng và một hình thức hội nghị toàn dân nào đó. Chỉ có như vậy thì cư dân Mai Pha mới có thể tồn tại và phát triển được giữa một ngã tư đường của các nhóm người từ biển vào, từ đồng bằng lên, từ khu vực Tả Giang và Hữu Giang của Quảng Tây tới. Có lẽ các chiến binh cung nỏ sơn cước trong cuộc chiến chống quân Tần Hán và Triệu Đà chính là hậu duệ của những người dân Mai Pha. Và vì vậy chí ít, khi hình thành nhà nước Văn Lang, người Mai Pha cũng đã đóng góp cho nền văn hoá Việt cổ nghệ thuật quân sự, tri thức trao đổi buôn bán đường dài xuyên rừng núi...vv. Văn hoá Hà Giang: Cư dân Mai Pha là kết quả của một truyền thống văn hoá lâu đời tại vùng sơn khối đá vôi Bắc Sơn, trụ vững được tại con đường huyết mạch Tả Giảng - Hữu Giang (Quảng Tây) sang đồng bằng sông Hồng của chúng ta. Trong khi đó, văn hoá Hà Giang lại là kết quả của một sự kết hợp của các nhóm cư dân ven biển Hạ Long, trong quá trình trao đổi đường dài theo tuyến sông Hồng - sông Lô - sông Gâm đã hỗn huyết với các nhóm cư dân địa phương còn trụ lại từ thời hậu Hoà Bình. Các di tích của văn hoá Hà Giang phân bố chủ yếu tại các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, và Thái Nguyên. Đây là địa bàn giáp gianh của văn hoá Bắc Sơn và loại hình địa phương Hà Giang của văn hoá Hoà Bình. Trong văn hoá Hà Giang, ngoài các yếu tố văn hoá Hoà Bình thuộc nhóm địa phương Hà Giang còn sót lại, chúng ta thấy nổi bật những yếu tố văn hoá của người Hạ Long. Đặc biệt là loại bôn có vai, có nấc. Ngoài ra rìu, bôn, cuốc nói chung, là loại công cụ lao động điển hình của cư dân văn hoá Hà Giang. Loại hình công cụ này chiếm tới 95,4% tổng số các loại hình công cụ đá của người tiền sử Hà Giang. Người Hà Giang có lẽ là một trong số các cư dân hậu kỳ đá mới giỏi chế tác vải vỏ cây nhất trên đất Việt Nam. Trong các địa điểm thuộc văn hoá Hà Giang, cho đến nay đã thua thập được hàng chục tiêu bản thuộc loại này. Chỉ riêng di chỉ Lò Gạch, thị xã Hà Giang cũng đã phát hiện được đến 11 tiêu bản. Một nghề thủ công khác cũng rất phát triển trong cộng đồng tiền sử Hà Giang, đó là chế tác gốm. Phong cách gốm Hà Giang gợi lại phong cách gốm Phùng Nguyên. Song, gốm Hà Giang vẫn có những đặc trưng riêng, trước hết là ở chất liệu địa phương của chúng [Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990]. Đó là loại gốm pha cát hạt thô, vụn thạch anh vẫn còn cạnh sắc với các vảy mica óng ánh trên vỏ gốm. Đặc biệt gốm hang động vùng Bắc Mê như hang Bó Khiếu và Bó Buông lại có phong cách khác hẳn với gốm Hà Giang điển hình tại di chỉ Lò Gạch. Đó là loại gốm có chân đế khoan lỗ, được tranh trí bằng văn in ô vuông đã được phát hiện tại khu vực Bồ Chuyến (Hoàng Bồ) và đảo Cô Tô (Quảng Ninh). Vậy là cả hai yếu tố văn hoá chủ đạo của cư dân Hà Giang là công cụ đá và sản phẩm gốm đều có những nét gần gũi với các yếu tố cùng loại trong văn hoá Hạ Long và sau Hạ Long. Điều đó chứng tỏ rằng người Hà Giang và người Hạ Long có những mối quan hệ văn hoá rất gần gũi. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng chủ nhân văn hoá Hà Giang có thể gồm các nguồn sau: người Hạ Long theo đường sông qua cửa Bạch Đằng, Nam Triệu tiến dần lên sinh cơ lập nghiệp tại các một số vùng của văn hoá Hà Giang ở các tỉnh Việt Bắc ngày nay. Tại đây họ đã gặp gỡ và kết hợp với các nhóm cư dân địa phương còn trụ lại từ thời kỳ hậu Hoà Bình, và các nhóm người này đã làm thành một bộ lạc Hà Giang độc đáo, vừa mang bản sắc Núi, vừa mang bản sắc Biển. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các cư dân Hà Giang vẫn không ngừng giao lưu trao đổi với các bộ lạc xung quanh, đặc biệt là với các cư dân Phùng Nguyên đang bướcvào thời đại sơ kỳ kim khí tại vùng châu thổ sông Hồng và vùng Trung Du Bắc Bộ. Có lẽ cấu trúc xã hội của cư dân Hà Giang không giống với cư dân Mai Pha láng giềng, cũng không giống với cư dân Phùng Nguyên đang trên con đường bước vào thời đại kim khí. Họ có thể là những thương nhân kết nối hai chiều Núi Biển theo tuyến sông Hồng qua Yên Bái lên Lao Cai và giao tiếp với cả các bộ lạc thuộc vùng Vân Nam, và theo tuyến sông Lô, sông Gâm, sông Chảy, họ cũng kết nối hai chiều Núi Biển với vùng Qúi Châu và một phần Quảng Tây ngày nay. Vì vậy, khi nhà nước Văn Lang trở thành trung tâm thu hút các nền văn hoá ven biển và miền núi, người Hà Giang đã đóng góp cho nền văn minh Việt cổ những kinh nghiệm buôn bán đường dài theo các dòng sông mà không phải bộ lạc cũng có thể so sánh được với cư dân Hà Giang. Các cư dân hậu kỳ đá mới Tây Bắc: vùng núi rừng Tây Bắc ngày nay thuộc phạm vi ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, và Điện Biên, nhưng cho đến nay, khảo cổ học mới chủ yếu phát hiện được các di tích hậu kỳ đá mới tại tỉnh Sơn La. Cần phải khẳng định rằng hiện tượng biển tiến cực đại Holocene trung và sự bùng nổ của các trung tâm nông nghiệp đá mới trên đất nước ta là nguyên nhân phát tán ảnh hưởng văn hoá mạnh mẽ từ đồng bằng ven biển lên miền núi, mà con đường phát tán ấy không đâu khác ngoài các tuyến sông. Con đường huyết mạch từ đồng bằng ven biển Thanh Hoá lên Tây Bắc chính là dòng sông Mã, và con đường từ vùng châu thổ sông Hồng lên là sông Đà. Như vậy không có gì phải nghi ngờ rằng vào thời hậu kỳ đá mới Tây Bắc là một trong những trung tâm phát triển của các hệ thống văn hoá miền núi nước ta. Ngay từ năm 1927, một di chỉ khảo cổ học hậu kỳ đá mới đã được nhà khảo cổ học Pháp M. Colani phát hiện và khai quật. Đó là di chỉ Thôn Mòn hay bản Mòn thuộc thị trấn Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Người tiền sử Bản Mòn đã để lại những dấu tích của truyền thống Hoà Bình khá rõ ràng, đó là tầng văn hoá của di chỉ được cấu tạo bằng vỏ ốc suối, cùng với nó là chày đá, đục đá, hòn ghè, bàn mài, dùi, rìu bôn đá, hạt chuỗi, vòng tay và rất nhiều mảnh đá có dấu cưa, dăm tước đá. Sưu tập công cụ lao động của người Bản Mòn đa số là rìu bôn tứ giác, những chiếc rìu bôn có vai, thì hầu hết là vai vuông, được chế tác với sự trợ giúp của kỹ thuật cưa đá. Colani coi đây là một xưởng chế tác rìu bôn [Colani, M. 1928]. Ngoài công xưởng chế tác công cụ lao động, người tiền sử Tây Bắc còn phát triển một loại hình công xưởng khác, đó là công xưởng chế tác vòng tay Thọc Kim, thuộc xã Chiềng Sại, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Tại công xưởng này, chỉ riêng cuộc thám sát năm 1975 đã phát hiện được 175 phác vật vòng được chế tác dở dang, 1 hạt chuỗi ngọc, 1 mũi tên đá. Vòng Thọc Kim rất giống với sản phẩm cùng loại của xưởng chế tác vòng tay Hồng Đà thuộc tỉnh Phú Thọ, kể cả phong cách lẫn nguyên liệu chế tác. Cho đến nay, dù thống kê chưa đầy đủ, nhưng ở vùng Tây Bắc đã phát hiện được khoảng 50 địa điểm có công cụ hoặc đồ gốm mang đặc trưng hậu kỳ đá mới [Chử Văn Tần 1976 ; Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 294-295]. Mới đây ở Lai Châu cũng đã phát hiện được 19 rìu bôn hậu kỳ đá mới phân bố dọc thềm cổ sông Đà, hoặc trên bờ các con suối đổ ra sông Đà [Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998]. Ngoài nghề thủ công chế tác đá, người tiền sử Tây Bắc còn là những thợ gốm giỏi. Tại đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện được hai hệ thống gốm hậu kỳ đá mới. Trong đó có loại gốm văn chấm dải phần nào giống với phong cách trang trí hoa văn gốm Phùng Nguyên (Phú Thọ). Một số motif hoa văn sóng nước thậm chí còn khiến liên tưởng đến cả gốm Đồng Đậu (Vĩnh Phúc). Còn gốm văn in vỏ sò bản Gièm thì tương tự như gốm văn hoá Hoa Lộc. Trong các motif hoa văn gốm còn có loại hoa văn đắp nổi mà các nhà khảo cổ học gọi là hoa văn “nụ đinh”. Kỹ thuật đắp nổi hoa văn chính là phát minh của người thợ gốm Hạ Long. Giống như các chủ nhân văn hoá Mai Pha và Hà Giang, các nhóm cư dân hậu kỳ đá mới Tây Bắc là những nhóm hậu Hoà Bình vẫn tiếp tục trụ lại và phát triển nền văn hoá truyền thống của những thế hệ tổ tiên mình. Tuy nhiên những biến động mạnh mẽ của môi trường, đặc biệt là đợt biển tiến Holocene trung và sau đó là sự nở rộ các trung tâm hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí tại các khu vực đồng bằng và ven biển đã tác động trực tiếp đến các mối quan hệ giao lưu văn hoá giữa các trung tâm này với các trung tâm thuộc vùng núi, mà Tây Bắc là một trong số đó. Vì nhiều lý do khác nhau, chắc chắn đã có những nhóm di dân ngược lại từ vùng đồng bằng ven biển lên miền núi. Kết hợp với nó có thể còn có các thương nhân tiền sử buôn bán đường dài đã đem yếu tố văn hoá từ vùng này đến vùng khác. Chính vì vậy chúng ta có thể thấy các dấu ấn văn hoá của nhiều miền khác nhau trong các di tích hậu kỳ đá mới Tây Bắc. Chưa có đủ bằng chứng để khẳng định một cách chắc chắn mô hình phát triển nông nghiệp tiền sử Tây Bắc, nhưng việc phát hiện ra hai công xưởng chuyên chế tác công cụ đá và đồ trang sức đá tại Tây Bắc đã cho chúng ta thấy một định hướng phát triển rất rõ ràng của cư dân nơi đây. Trong một mức độ nào đó họ đã chuyên môn hoá một số sản phẩm và các sản phẩm đó có thể được sử dụng để trao đổi lấy các nhu yếu phẩm khác phục vụ cho cuộc sống của mình. Đó chính là một trong những kích thích tố để Tây Bắc hậu kỳ đá mới phát triển và không biệt lập. Các cư dân hậu kỳ đá mới Tây Nguyên: Cư dân hậu kỳ đá mới Tây Nguyên đã để lại trên mảnh đất màu mỡ này một trong những nền văn hóa đặc sắc nơi đây. Đó chính là văn hóa Biển Hồ. Cư dân tiền sử Biển Hồ cư trú trên khắp vùng cao nguyên Pleiku, thuộc địa bàn các huyện Chư Pah, Đức Cơ, Chư Prông, Mang Yang, Chư Sê và thành phố Pleiku. Hiện nay địa bàn này là nơi cư trú của người Jarai, là cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian. Văn hóa này lần đầu tiên được nhà nghiên cứu người Pháp Lafont phát hiện vào các năm 1953 – 1954 với 4 địa điểm Ia Puch, Plei Del, Plei Plier, và Tơnuêng. Sau năm 1975 cho đến gần đây, đã phát hiện được 26 địa điểm, trong số đó hai địa điểm Biển Hồ và Trà Dôm đã được khai quật. Tầng văn hóa của các di tích văn hóa Biển Hồ dày trung bình khoảng 1m, chủ yếu là đất feralite trên cao nguyên đất đỏ basalt. Người tiền sử Biển Hồ chủ yếu sử dụng nguyên liệu đá opal và phtanite để chế tác những chiếc rìu, cuốc, bôn răng trâu. Ngoài kỹ thuật ghè đẽo và kỹ thuật mài đá, người Biển Hồ còn thành thạo về kỹ thuật cưa, khoan, tiện, đánh bóng mặt đá để chế tác những món đồ trang sức rất tinh xảo. Giống nhưng người Bàu Tró và người Sa Huỳnh, người Biển Hồ cũng chế tác hoặc du nhập những chiếc khuyên tai hai đầu thú rất tinh tế. Ngoài chế tác đá, người Biển Hồ còn chế tạo gốm rất thành thạo. Gốm Biển Hồ được chế tạo bằng bàn xoay, có độ nung cao với rất nhiều loại hình như nồi, vò, bát, bát bồng, âu, liễn, bình, ấm. Hoa văn trang trí gốm của người Biển Hồ có văn thừng mịn, văn khắc vạch, văn in chấm và văn trổ lỗ. Người Biển Hồ phát huy ảnh hưởng văn hóa rộng rãi trong vùng thông qua giao lưu, trao đổi. Loại hình bôn biển hồ còn được phát hiện ở Kon Tum phía bắc và Đắc Lắc, phía nam cao nguyên Pleiku. Tuy nhiên mối quan hệ của văn hóa Biển Hồ với vùng phía bắc cao nguyên có phần gần gũi hơn. Có thể nói văn hóa Biển Hồ nằm trong vùng văn hóa miền Trung – Tây Nguyên của Việt Nam. Vì vậy rất nhiều yếu tố của các cư dân văn hóa hậu kỳ đá mới Bàu Tró cùng thời và giai đọan tiền Sa Huỳnh cũng được phát hiện trong văn hóa Biển Hồ. Có ý kiến cho rằng “Có thể Biển Hồ và các di tích tiền Sa Huỳnh ở ven biển Trung Bộ là những nguồn hợp tạo dựng văn hóa Sa Huỳnh sau này” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 289 – 290]. Đời sống kinh tế của cư dân biển hồ chủ yếu là khai thác các nguồn lợi tự nhiên bằng săn bắt, hái lượm và đánh cá. Nhiều chì lưới bằng đá đã được tìm thấy trong các cuộc khai quật và thám sát các di chỉ thuộc nền văn hóa này. Có thể đã tồn tại ở đây một nền nông nghiệp dùng cuốc trên đất khô. Số lượng cuốc đá trong văn hóa Biển Hồ là một bằng chứng cho nhận định đó. Vấn đề chủ nhân văn hóa Biển Hồ vẫn còn là một câu hỏi lớn. Đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam thì “chủ nhân văn hóa Biển Hồ là những người Jarai cổ, sau đó phân hóa thành hai nhóm; một nhóm trụ lại cao nguyên Pleiku tạo dựng văn hóa Biển Hồ với cây rìu có vai, mà con cháu của họ là người Giarai, còn một bộ phận cư trú ở Đắc Lắc và Lâm Đồng với chiếc rìu hình thang, mà con cháu của họ là người Ê Đê” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 289 – 290 ; Nguyễn Khắc Sử 1995]. Trong khi đó, các học giả Úc và New Zealand nghiên cứu tiền sử và ngôn ngữ học lịch sử khu vực Đông Nam Á lại cho rằng các cư dân nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc, mà cụ thể là từ đảo Đài Loan, họ bắt đầu phát triển ra toàn vùng Đông Nam Á vào khoảng thời gian sau 4000 năm cách ngày nay [bellwood P. 1997]. Còn có thể nêu ra một giả thiết khác: Các nhóm nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian ở Việt Nam ngày nay có nguồn gốc xa từ các cư dân văn hóa biển Việt Nam giai đọan cuối trung kỳ đá mới (Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn). Trước biển tiến Holocene Trung các nhóm này cư trú trong những khu vực văn hóa được phân định tương đối rõ ràng. Nhưng đợt biển tiến cực đại vào khoảng 5000 năm trước đã gây ra rất nhiều biến động về dân cư, đặc biệt là các nhóm cư dân biển. Đây cũng chính là giai đọan ra đời nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian lục địa Đông Nam Á. Họ là sự kết hợp của các nhóm từ ven biển Bắc Việt Nam xuống và từ ven biển Malaysia lên và dựng nghiệp tại từng tiểu vùng trong khu vực miền Trung Việt Nam. Khi các bộ lạc Tiền nhà nước thuộc văn hóa Sa Huỳnh phát triển mạnh theo khuynh hướng chuyển thành nhà nước sơ khai, một số nhóm đã rời khu vực ven biển lên cư trú trên vùng đất Tây Nguyên vào khoảng 3500-2500 trước đây. Họ sống xen kẽ với các bộ lạc thuộc nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer đã khai phá vùng này từ trước đó, mà hậu duệ có thể là những người Bahnar, Sê Đăng, Giẻ Triêng, Mnông...vv ngày nay. Đó chính là lý do làm cho các văn hóa Tây Nguyên tiền sử vừa có những nét tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt đáng kể mà chúng ta không thể chỉ lý giải một cách đơn giản bằng những nguyên nhân thích nghi với môi trường, bởi vì bên cạnh những tác động của môi trường còn có những tác động của nhân tố truyền thống văn hóa. Về mặt tổ chức xã hội, căn cứ trên các nghiên cứu so sánh dân tộc khảo cổ học hiện nay tại vùng đất Tây Nguyên, chúng ta có thể hình dung về một cấu trúc xã hội theo các nhóm, chủ yếu là thị tộc mẫu hệ. Truyền thống này được bảo lưu đậm nét tại nhiều tộc người trong vùng cho đến tận bây giờ. Đó là các dân tộc Chămpa, Raglay, Ê Đê, Jarai, Mnông...vv. Các thị tộc mẫu hệ tập trung thành các buôn làng nhỏ, có từ 3 – 5 ngôi nhà dài, mỗi ngôi nhà như vậy có khoảng từ 25 – 50 người, đôi khi nhiều hơn. Trung bình mỗi buôn làng có khoảng 150 – 200 người. Trong các thị tộc mẫu hệ, huyết thống được tính theo dòng mẹ, và những người phụ nữ già đông con cháu có quyền uy cao trong cộng đồng. Họ là một loại chủ sở hữu đại diện cho các nguồn của cải trong khu vực sinh sống của cộng đồng. Nhưng họ không trực tiếp điều hành công việc buôn làng. Họ có những người giúp việc, hoặc đại diện là đàn ông thực thi công việc đó. Những người này có thể là chồng, em trai, con rể hay bất cứ một người thạo việc nào khác mà họ tin cậy. Để điều hành giỏi công việc buôn làng, người đại diện ấy phải thông thạo luật tục của cộng đồng. Có thể nói họ là một dạng nguyên luật sư trong các xã hội tiền sử. Tại những cộng đồng song hệ, đa hệ hay chuyển tiếp từ hệ nọ sang hệ kia thì thường xuất hiện các hình thức hội đồng, chẳng hạn như hội đồng già làng, hội nghị các thủ lĩnh (trong tình trạng có chiến tranh giữa các bộ lạc, các nhóm với nhau) và cả hội nghị toàn thể dân làng nữa. Đối với các cộng đồng tiền sử Tây Nguyên từ giai đọan hậu kỳ đá mới trở đi, hội đồng già làng có một vai trò rất to lớn. Họ là đại diện cho trí tuệ, kinh nghiệm và đương nhiên là cho cả quyền lợi của toàn thể cộng đồng. Vì vậy họ là một dạng biểu tượng quyền lực chi phối cộng đồng và ra các quyết định liên quan đến những vấn đề quan trọng và thiết thân nhất đối với cộng đồng. Trong nền văn hóa Tây Nguyên truyền thống, ngôi nhà cộng đồng hay nhà Rông vừa là biểu tượng cho cộng đồng, vừa là biểu tượng cho quyền lực của người già, mà đại diện là hội đồng già làng. Các cư dân hậu kỳ đá mới khác: Phía nam Tây Nguyên, tại cao nguyên Đắc Lắc và các khu vực cao nguyên thuộc tỉnh Lâm Đồng các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện được nhiều di tích hậu kỳ đá mới tương tự với văn hóa Biển Hồ về niên đại và tính chất. Và mới đây, tại tỉnh Đắc Lắc các nhà khảo cổ học Việt Nam đã xác định được một văn hóa khảo cổ học hậu kỳ đá mới khác, đó là văn hóa Buôn Triết. Văn hóa này được đặt theo tên gọi của địa điểm khảo cổ học Buôn Triết, cạnh hồ Lắc, thuộc huyện Lắc. Tại Lâm Đồng các hiện vật thuộc thời hậu kỳ đá mới cũng được phát hiện tại Di Linh, Bảo Lộc, Lâm Hà...vv. Đặc biệt tại Kon Tum, sau cuộc khai quật lớn tại di chỉ Lung Leng thuộc huyện Sa Thầy, một văn hóa khảo cổ học mới cũng được định danh. Đó là văn hóa Lung Leng. Cư dân Lung Leng đang ở trong bước chuyển từ hậu kỳ đá mới sang thời đại kim khí, và là một trong những nhóm cư dân quan trọng nhất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Còn nữa…
-
THẾ GIAN PHÁP Một trận cuồng phong thị pháp trần Dạy người bộ lễ để tròn nhân (Thờ tổ tiên đủ lễ đã trước khi quỳ chầu "ông thánh lói dăm câu lào đó") Kính trên nhường dưới cho phải phép Hậu xét đúng sai tỏ tường phân! Dụng ngôn, dụng tự, dụng trí nhân Khuấy đảo càn khôn trí trong trần Khuấy tận đáy sâu phơi kiến chấp Tùy duyên vô lượng pháp tùy thân! THUYỀN CẠN!!! Tay che, miệng tủm tỉm cười, Tay xòe, “thuyền cạn” mời người bước lên! Tay ôm… trọn cả càn khôn, Tay buông,... gì đáng cười hơn thuyền này? Thuyền này trên cạn mà hay, Thuyền này… “thuyền cạn” đến đây độ người! Thuyền này có bốn tượng cười, Thuyền này có bốn kiểu cười khác nhau! Tay che, cười ý thâm sâu… Tay xòe, mời chúng sinh mau lên thuyền! Tay ôm, cười được (kẻ) phước duyên, Tay buông, cười kẻ chê thuyền trên khô! Thuyền trên khô nhấp nhô vượt cạn, Vượt cạn rồi khổ nạn cũng qua!!! Nam Thiên lĩnh ấn, khởi tâm trường ... Nam Thiên lĩnh ấn khởi tâm trường, Long Hoa khai hội tỏa yêu thương Đồng tâm thị hiện, tâm vô ngã Tử sinh vượt thoát, thuận vô thường. Tầm duyên, khởi ý khắp muôn phương, Khai minh, phá chấp… mở con đường Hòa nhân, quật khởi xuyên Đông hải Tụ khí, tương cầu trấn biên cương. Kiến khởi liên tâm, tạo Phật trường Tùy duyên diệu dụng, pháp tùy nương Ngữ ngôn tàng ý, muôn trùng biến Nghiệp hạnh soi đường, sáng Đông phương. Chân tâm vượt thoát giữa vô thường Như như huyễn huyễn tỏa ngát hương Hưng Đông, Tây khởi… nương tụ khí Định Nam, bình Bắc… rực ánh dương. ---------------------------------------------------- Bồ đề nhập thế, tùy duyên độ Nhất nhật khai minh, nhất dạ hành Kỳ tâm phất khởi, gieo duyên giác Khai mở kỳ môn, chí vô thường. TÌM NHAU Muôn vì sao tôn giáo trong tim anh Dẫn lối đi, dọn đường em tiếp bước Em, vì sao (28) hai mươi tám tỏa rạng Soi khắp dương gian, chiếu sáng thiên hà Hướng về nhau ngày khải hoàn hát ca Bừng cháy trong ta là khát khao chiến thắng Bao trận đánh oanh tạc bọn bóng tối Anh luôn bên em khi cái chết cận kề. Không uổng phí một kiếp đời vô nghĩa Mình gặp nhau giữa muôn triệu ánh sao Hạnh phúc ngọt ngào, vui sướng xiết bao Em muốn hét lên cho thỏa nỗi nhớ. Ôi! sự thật hay là trong giấc mơ Phải anh đó không người chiến binh thầm lặng? Ngỡ ảo ảnh muôn đời trong sâu lắng Khắc tượng người tình vác thế giới trên lưng. (Khổ thơ với lời đơn giản mà ý nghĩa rất độc đáo) Bao đêm trôi, em ướt nhòe nước mắt Giải mã giấc mơ, bài toán không lời Hôm nay lời đáp dành cho tất cả Nắm tay nhau về, Thượng đế trong ta. HienNguyen
-
VIỆT NAM - CON RỒNG CHÁU TIÊN Tôi và các bạn, chúng ta thật vinh dự và tự hào vì là công dân nước Việt trong thời khắc này. Từ thời Bàn Cổ sơ khai dân tộc Việt đã có nguồn gốc từ dòng giống Rồng, Tiên. Trải qua bao biến động của lịch sử chúng ta vẫn tiếp bước được ý chí cha ông, giữ vững sự thống nhất bình yên cho đất nước. Biết bao xương máu đã đổ xuống, biết bao Tiên Thánh giáng phàm để dọn đường cho ngày hôm nay. Rồi một ngày nào đó các bạn sẽ biết sự thật "vì sao Việt Nam nhỏ bé lại được chọn là Trung Tâm cho thế giới tương lai". Hãy nhìn vị trí địa lý của chúng ta, nằm ngay vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á mà bao kẻ thèm muốn. Hãy nhìn vào bản đồ chữ S và so sánh với hình ảnh Thái Cực Đồ. Đấy bí mật đã được gắn vào giữa, chỉ có đất nước chữ S này mới làm nên việc xoay chuyền càn khôn. Các bạn có bao giờ đặt câu hỏi, vì sao 1 đất nước nhỏ bé XHCN bị trên đe dưới búa, bị o ép bởi anh cả TQ, bị o ép bởi phương Tây mà chúng ta vẫn đứng vững và ngẩn cao đầu không? Bé hạt tiêu đang bị thử thách lòng can đảm, trí tuệ trước khi được trao món quà quý. Tôi cảm thấy xúc động muốn trào nước mắt khi viết ra những dòng này. CNXH là ước mơ thiên đường tại thế, nhưng để với tới được điều mong mỏi ấy liệu con người có đủ sức? Chỉ có bàn tay của Đấng Tạo Hóa mới ban cho chúng ta được điều ấy. Tôi không phải ca ngợi hay muốn nói về chính trị, bởi đây là vấn đề nhạy cảm trong giới tu hành như chúng tôi. Nhưng điều tôi viết ra là muốn các bạn hiểu về Việt Nam, về Cậu bé hạt tiêu đang được chọn mặt gửi vàng thì ắt hẳn phải có điều gì đó đặc biệt. Chúng ta rồi đây sẽ trở về Nguồn gốc như Thiên ý đã định. Tiếng Việt sẽ là tiếng nói chung cho cả hành tinh này, hãy nhìn xem, tiếng Việt chúng ta có đủ các dấu, có thanh bằng, trắc. 5 dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng là biểu tượng cho ngũ sắc là âm thanh của ánh sáng, nó có sự rung động trong âm tiết khi chúng ta nói, thơ ca... TÔI YÊU VIỆT NAM. Hãy nhắm mắt, cảm nhận từ trái tim anh Một thế giới mới nơi ta mãi kiếm tìm Rực rỡ, huy hoàng không bút nào tả xiết Bởi vì ta đang nắm bí mật những vì sao. Em không mơ hồ và em chẳng mơ cao Nó đang đến từng ngày như em mong ước Chạm tay vào khoảnh khắc này cho thật khẽ Em sợ rơi làm vỡ vụn giấc chiêm bao. Nhìn thế giới này em cảm thấy nôn nao Trong giấc mơ em là bản đồ sáng tỏ Ôi Việt Nam! tình yêu chưa bao giờ cạn Khắc dấu vào em đỏ chói ngàn ánh sao. Em nhìn anh, ta nắm tay nhìn thế gian God đã chọn nơi chúng mình đang đứng đấy Thử thách đã qua ngày mai trời sẽ sáng Anh nghĩ gì nếu Phật, Chúa ghé nơi đây?. Giấc mơ của em đẹp quá phải không anh? Cả thế giới đang mong chờ cho ngày ấy Nhưng nơi họ đến sẽ là nơi hóa giải Ma trận trên cao, ma trận dưới trần gian. Anh đừng bao giờ mệt mỏi và than van Phần thưởng sắp trao cho những người chiến thắng Thế giới mới, thế giới của sự tinh khiết Vất vả này xứng đáng cho những gian nan?. Hãy chờ đi anh, hãy đợi chút nữa thôi Bình minh sắp hé rạng phía cuối chân trời Kiên nhẫn giúp trái tim anh mở rộng cửa Đón ánh ban mai sáng rực mãi ngàn sau ... HienNguyen
-
Tôi lập chuyên mục này để cùng các thành viên diễn đàn cùng đàm luận. Trên Địa bàn của môn Độn Giáp, có sai số về phương vị của hai cung Tốn (4), Khôn (2) và độ số 7, 9 của hai cung Ly (7), Đoài (9) khi tham chiếu cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái/ Huyền không phi tinh phối Hà đồ của Địa cầu. Địa bàn Độn giáp có sai số: Trục quỷ môn trong phong thủy: Những ghi chú: - Khi phi tinh thuận/ nữ hay nghịch/ nam đều bắt đầu bằng sao Nhất Bạch thủy tinh/ 1 nhập trung cung nhằm xác định phi cung của một "Người" sinh năm nào đó!. - Khi phi tinh gặp cung Thổ (5) trong Độn giáo: dùng nguyên lý Dương độn/ gửi cung Tốn/ 4 (đã chuyển vị trí Tốn - Khôn) - Tử môn và Âm độn/ gửi cung Cấn/ 8 - Sinh môn (đối xứng qua Trung cung là quy tắc bất di bất dịch khi đề cập đến Âm Dương). Huyền không phi tinh nhằm xác định Phi cung Nam và nữ để tính toán Bát Trạch cũng rơi vào tình trạng này. Cấn Tốn đối xứng qua trung cung: - Trong Độn giáp, tùy Dương độn (cung Khảm, Cấn, Chấn, Khôn) hay Âm độn (cung Ly, Tốn, Đoài, Càn) thì dùng phi tinh thuận hay nghịch. - Khi tiên tri cho toàn cục thế giới trên Địa cầu, hiện chưa rõ dùng phương pháp phi tinh thuận hay nghịch -> từ đó, khi phi tinh trên địa bàn của một ngôi gia cho một năm nào đó thì chọn phương án thuận/ nghịch? Trong sách Tam Nguyên Cửu Vận của tác giả Hoàng Tuấn, thì phi tinh năm và tháng là dùng phi tinh nghịch?. Cũng theo nghiên cứu của cố giáo sư Hoàng Phương thì "Phi tinh năm" hiện đang thuộc "Chu kỳ phi nghịch". Cuốn Kỳ Môn Độn giáp của Nguyễn Mạnh Bảo có lý giải Chu kỳ phi nghịch này, tuy nhiên nếu tham chiếu đến "mốc" thiên văn, lịch pháp lại phải bắt đầu từ "Thất tinh hội tụ" hay một cái mốc cực kỳ xa xôi như của Thái Ất lên đến hơn mười triệu năm Tích tuế -> cái này thì thế giới biết chắc là không phải là "đồ cổ" của mình rồi mà là hàng "siêu hiệu" của Việt Nam. Chúng ta chưa thấy lý giải về vấn đề này đến tận cùng, tuy nhiên có thể hiểu là trong thời gian qua đã sử dụng phi tinh nghịch là phổ biến, ví dụ cho năm 2015: Huyền không phi tinh nghịch 2015 Trong Độn Giáp, Hà đồ được dùng là công thức cơ bản sử dụng trong việc tính toán tương tác, tác giả Nguyễn Mạnh Bảo cũng đã nói về vấn đề này trong cuốn Kỳ môn độn giáp trên nhưng vẫn còn sai số hai cung Tốn, Khôn và các Thiên tinh khác tùy cung.
-
Thật kinh dị cho quy luật của Thái Ất có vẻ "hơi giống cả" Huyền không phi tinh và Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ của địa cầu, làm thế nào để có thể hiểu đây, phải chăng không ngoài hiểu rõ các tầng thứ thiên văn và ý nghĩa của các cấu trúc pháp môn đã sử dụng như Hậu Thiên bát quái - Hà đồ, độn giáp, huyền không, lục thập hoa giáp, các tổ hợp phân lớp Âm Dương Ngũ Hành... Thái Ất dùng công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu làm chủ chốt, nhưng phân bố hệ thống Sao Thái Ất (Tướng tinh) gồm 9 Sao, trong đó sao Thái Ất - hành mộc là sao chủ, lên 8 cung của công thức trên. Đặc biệt, cũng có phân bố Tuế tinh (sao Mộc) -> cần gỡ được mắt xích quy luật của sao Mộc này bởi vì Lục thập hoa giáp cũng được xây dựng trên sao Mộc (âm mộc) và địa cầu (dương mộc) trong hệ mặt trời. Trong khi đó, sao Thái Ất cũng có thuộc tính hành mộc. Ví dụ, Thái Ất kể năm cảu năm Giáp Ngọ thì Thái Tuế ở Ngọ. Thái Ất kể tháng của năm Mậu Thìn thì Thái Tuế ở Thìn. Thái Tuế có chu kỳ 12 năm Địa chi -> có tính tương hợp của Thái Tuế và Thái Ất. Trong 9 Tướng tinh, sao Văn Xương thuộc tính hành thổ lại tuân thủ quy luật 18 năm phối vào Bát Quái trên. Chòm Văn Xương có 9 sao, phân bố theo Huyền không phi tinh mỗi bước đi 30 năm của chu kỳ 270 năm. Trong Thái Ất còn có quy tắc 14 Thần tinh khác nữa, dùng chung cho Tứ Kể -> có vẻ lại trùng con số 14 chính tinh của Tử vi. Thái ất xuất hiện một số quy tắc "tương tự" Độn giáp. Ngay cả cụ Karajan siêu đẳng cũng đã viết về quy luật 3 năm vào 1 cung của thiên bàn Thái Ất rất mơ hồ. Dưới đây là thiên bàn của Độn giáp và Thái Ất, trong đó thiên bàn Độn giáp có sai số như đã nói và Thái ất cũng có sai số cung Tốn Khôn. Trên thiên bàn cần ghi thêm chữ Trung cung - 5, bởi Độn giáp có sử dụng Huyền không phi tinh vào trung cung này. Tham khảo lại các đồ hình. Hậu Thiên Bát Quái phố Hà đồ của Địa cầu Thiên can kết hợp với Hậu thiên Bát Quái phối Hà đồ của Địa cầu Lục thập hoa giáp đã đổi Tốn Khôn Để từ đó nhận thức: quy luật vận động của sao Thái Ất cứ 3 năm đóng 1 cung (Dòng vượng khí) trên Hà đồ là "khác biệt" so với các quy luật của các bộ môn ứng dụng khác, về bản chất không phải Huyền không phi tinh mà cũng không phải quy luật tương tác theo Hậu thiên bát quái -> có vẻ đây là một tổ hợp làm sao đó thỏa mãn cả hai vấn đề này, cùng một số quy luật thời gian lớn hơn nữa. Một ví dụ, tại chu kỳ một năm thì địa cầu chịu tương tác theo Huyền không phi tinh niên vận, trong đó thuận hay nghịch tùy thuộc vào chu kỳ Dương Âm. Đồng thời, chịu tương tác theo quy luật của Hậu Thiên bát Quái phối Hà đồ của địa cầu, vậy thì hai "quy tắc" này phải đi theo bội số chung của các quy luật như Độn giáp đã diễn giải, và vì Thái Ất bao trùm lên hai quy luật này, với chu kỳ 3 năm/ 1 cung và 24 năm đi hết một vòng Bát Quái Hậu Thiên - Hà đồ, cùng sự phối 9 sao trong hệ sao Thái Ất lên Bái Quái thì cả ba quy luật trên phải tương thích. Từ trên, cũng liên hệ thêm tới quy luật tương thích của Thái Tuế và Thái Ất -> phải chăng đây là những mắt xích chủ yếu để từng bước xem lại cấu trúc Thái Ất. Chẳng nhẽ, chúng ta có ba thiên bàn hay ba lớp tương tác (quy tắc) trong một cấu trúc thiên văn - được quy ước đầy đủ hai mặt Âm Dương (hai lớp thiên văn chuẩn: trong Dương, ngoài Âm) làm cơ bản: - Địa: Hậu Thiên Bát Quái phố Hà đồ của địa cầu và Huyền không phi tinh. - Thiên: Hậu Thiên Bát Quái phố Hà đồ của địa cầu và Huyền không phi tinh. Thiên và Địa ở đây là cấu trúc của Hệ mặt trời. - Thượng Thiên: thỏa mãn quy tắc của Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu, Huyền không phi tinh và quy luật khác của Thái Ất. Liên quan đến lịch sử, 16 cung của thiên bàn Thái Ất có 1 cung tên Đại Vũ: đây cũng là hiệu của vua Đại Vũ, nhà Hạ, Trung Quốc khoảng 2300 TCN.
-
Tiền sử Việt Nam (III) Người viết: Hà Hữu Nga 2.2. Các con đường phát triển của thời đại Đá mới sau các văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn và Soi Nhụ. Con đường Đa Bút – Quỳnh Văn – Bàu Tró: vào giai đoạn cuối của văn hoá Hoà Bình, cách ngày nay khoảng 6000 – 5000 năm, mực nước biển Đông không ngừng dâng cao, đã dần dần tạo ra một dải đồng bằng ven biển với nhiều nguồn sản vật tự nhiên của hệ thống đầm lầy, vũng vịnh và cửa sông suốt dọc bờ biển nước ta. Lúc này các nhóm cư dân tiền sử Hoà Bình vốn cư trú lâu đời tại các vùng núi đá vôi từ Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An theo các dòng sông Mã, sông Lam dần dần tiến về khai thác các nguồn tài nguyên mới ở vùng ven biển. Và chính họ là chủ nhân đầu tiên của các đồng bằng ven biển đang hình thành ấy. Theo truyền thống đã có từ hàng ngàn đời nay trên các vùng núi Hoà Bình, những nhóm người đầu tiên khi xuống đến đồng bằng ven biển vẫn giữ nguyên tập quán khai thác nguyên liệu cuội làm công cụ ghè đẽo và công cụ mài lưỡi. Chính vì điều này mà trong lần đầu tiên khai quật di chỉ Đa Bút vào năm 1926-1927, khi thấy có những công cụ cuội mài lưỡi, học giả Pháp E. Patte đã coi đây là một di chỉ ngoài trời của văn hoá Bắc Sơn [Patte E. 1932]. Đối với cư dân Đa Bút, món thực đơn quen thuộc nhất cho bữa ăn hàng ngày vẫn là nhuyễn thể, mà chủ yếu là ốc nước ngọt. Điều này được minh chứng rất rõ ràng qua các di chỉ thuộc văn hoá Đa Bút tại vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu, trong đó điển hình nhất là di chỉ Làng Còng, thuộc xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hoá), trong đó toàn bộ tầng văn hoá được cấu tạo bằng ốc đầm hồ nước ngọt. 56 công cụ ghè đẽo Làng Còng vẫn mang nguyên vẹn truyền thống chế tác công cụ cuội dùng cho các hoạt động đơn giản như ghè xương thú, đập vỏ nhuyễn thể chẳng hạn. 8 công cụ mài lưỡi kiểu Hoà Bình – Bắc Sơn vẫn còn được bảo lưu và phát triển tại đây [bùi Vinh 1993]. Khi xuống chiếm lĩnh khu vực đồng bằng ven biển đang hình thành thuộc hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá, cư dân hậu Hoà Bình - Đa Bút đã phát triển một mô thức kết hợp săn bắt, hái lượm, làm nông - chăn nuôi và nghề thủ công chế tác đá truyền thống và làm gốm. Chắc chắn rằng người Đa Bút không còn sống trong các hang động như tổ tiên trực tiếp Hoà Bình của mình nữa. Họ đã tụ cư thành một dạng xóm làng nào đó. Tư liệu mộ táng Cồn Cổ Ngựa cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Đã trở thành một qui luật: hầu hết táng thức là tấm gương phản chiếu cuộc sống trần thế. Khu mộ tập thể tại Cồn Cổ Ngựa đã gián tiếp kể lại cuộc sống cộng đồng của cư dân Đa Bút. Vào giai đoạn đầu, cho dù đã tụ cư thành làng, nhưng người Đa Bút vẫn còn là những nhóm người theo chế độ bình quân. Gần 100 mộ táng Cồn Cổ Ngựa gần như không thấy có sự phân bịêt thân phận nào. Điều đó cho thấy cuộc sống của người Đa Bút còn khá đơn giản. Đến giai đoạn Cồn Cổ Ngựa, đối tượng săn bắt của cư dân Đa Bút đã giảm đi rất nhiều. Lúc này trong thực đơn của họ không thấy có những loại thịt thú rừng như chồn, cầy, hổ, báo, hoẵng, khỉ, tê giác. Không những thế việc thu lượm nhuyễn thể cũng đã trở nên khó khăn hơn. Nếu so với Xóm Trại thì số lượng thịt nhuyễn thể mà người Cồn Cổ Ngựa sử dụng đã giảm đi một nửa. Các nhà nghiên cứu đã xác định nguyên nhân của tình trạng đó là: thức ăn thực vật khan hiếm vì nước ở khu vực này bị nhiễm mặn, cây cối khó phát triển. Như một hệ quả tất yếu, vì thiếu rừng nên các loài động vật không phát triển được hoặc bỏ đi nơi khác, vì vậy hoạt động săn bắt của cư dân Đa Bút trở nên khó khăn hơn. Lúc này thức ăn chủ yếu là hến nước ngọt, thiếu các nguyên tố vi lượng sắt (Fe) và Brom (Br). Trong khi đó quá trình tăng dân số tự nhiên của giai đoạn đầu và việc tăng dân số cơ học do các luồng di cư từ vùng núi đá vôi xuống đã làm tăng thêm sức ép về sinh kế cho cư dân Đa Bút [Nguyễn Kim Thuỷ 2004]. Và một sức ép còn lớn hơn tất cả, đó là đợt biển tiến Holocene trung diễn ra vào khoảng 5000 năm cách ngày nay đã làm xáo trộn toàn bộ cuộc sống của cư dân Đa Bút giai đoạn Cồn Cổ Ngựa [bùi Vinh 2003]. Theo những kết quả nghiên cứu gần đây, để đối phó với đợt biển tiến Holocene trung, người dân Đa Bút đã lùi lên các địa hình cao hơn về phía tây và phía bắc của vùng đồng bằng sông Mã. Trong số các nhóm cư dân chạy “nạn hồng thuỷ” này có cả người tiền sử Làng Còng, và người Đồng Vườn, Hang Sáo ở vùng chân núi Tam Điệp (Ninh Bình). Khác với giai đoạn Cồn Cổ Ngựa, buổi đầu chạy nạn, cư dân Làng Còng đã quay trở về với lối sống quen thuộc của cư dân Hoà Bình là săn bắt và hái lượm, trước hết là thu lượm nhuyễn thể, và săn bắt các động vật hoang dã. Ba cuộc khai quật Làng Còng đã thu được nhiều xương răng của các loài thú như hươu, nai, hổ, voi, khỉ, hoẵng, chồn, cầy, nhím, rùa, ba ba, cua, cá, chim và những động vật nhỏ khác. Ngoài ra ở đây còn tìm thấy xương trâu bò nhà và cả xương lợn sữa. Điều đó làm cho các nhà nghiên cứu khẳng định rằng các cộng đồng cư dân văn hoá Đa Bút đã biết đến chăn nuôi [bùi Vinh 2003; Nguyễn Kim Thuỷ 2004]. Với giai đoạn Gò Trũng, có niên đại C14 là 4790 ± 50 năm cách ngày nay, cư dân văn hoá Đa Bút đã thực hiện bước phát triển có tính chất cách mạng. Sau đợt biển tiến Holocene trung, họ đã quay trở lại chiếm lĩnh đồng bằng một lần nữa, ở một trình độ cao hơn. Lúc này cư dân văn hoá Đa Bút đã xây dựng được cho mình một mô hình phát triển hậu kỳ đá mới rất điển hình tại một môi trường sinh thái thuận lợi. Đó là mô hình kết hợp làm nông trồng lúa nước – chăn nuôi – thủ công làm gốm, chế tác đá - đánh bắt thuỷ hải sản – săn bắt hái lượm bổ sung, - và có thể đã có các hoạt động trao đổi với các nhóm cư dân bên ngoài. Các nhóm người Quỳnh Văn cũng là hậu duệ của cư dân Hoà Bình, nhưng họ lại xây dựng cho mình một mô thức khác, trong một môi trường sống khác với người Đa Bút. Có lẽ người Quỳnh Văn là những cư dân Hoà Bình sót, hoặc cũng có thể là một nhóm tách ra từ văn hoá Đa Bút, đã đến khai thác vùng ven biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) tương đối muộn. Nếu như mẫu niên đại C14 sớm nhất của văn hoá Đa Bút là 6540 ± 60 năm cách ngày nay, thì mẫu niên đại C14 sớm nhất của văn hoá Quỳnh Văn chỉ tương đương với mẫu C14 muộn nhất của văn hoá Đa Bút tại Gò Trũng. Điều đó có lẽ là hợp lý, bởi vì 20 địa điểm văn hoá Quỳnh Văn đã được phát hiện đều phân bố trên các cồn điệp. Căn cứ vào 13 mẫu niên đại C14 đã có của văn hoá này thì 10 mẫu có niên đại dao động trong khoảng từ 4785 ± 100 (mẫu có tuổi sớm nhất) đến 4030 ± 45 năm cách ngày nay. Còn lại ba mẫu từ 2010 ± 70 đến 3010 ± 90 năm cách ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng văn hoá Quỳnh Văn là kết quả của của cuộc khai thác sản vật biển sau đợt biển tiến Holocene trung. Có lẽ so với tất cả các cư dân tiền sử, người Quỳnh Văn là nhóm cư dân có đầu óc “thực tế” nhất. Trước hết họ sử dụng các nguồn đá cuội lớn tại chỗ, pha thành những mảnh khá thô, sau đó chế tác thành những công cụ rất đơn giản. Và chức năng của các công cụ đá ở đây cũng rất đơn giản: chúng được sử dụng để khai thác hà từ các tảng đá, hoặc để đập vỏ sò ốc. Nếu chỉ căn cứ vào bộ công cụ đá hình bàn là, hình mai rùa, hình rìu tay ...vv của cư dân Quỳnh Văn thì người ta có thể nghĩ rằng đây là bộ công cụ hậu kỳ đá cũ. Tuy nhiên do tồn tại cùng với gốm nên niên đại tương đối của văn hoá Quỳnh Văn ngay từ đầu cũng đã được xác định một cách chính xác. Trước đây đã có ý kiến cho rằng cư dân văn hoá Quỳnh Văn là từ ngoài biển vào. Nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam đều không chấp nhận quan điểm này. Vào những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, hầu hết các nhà nghiên cứu đều nghĩ rằng người Quỳnh Văn thuộc truyền thống đá gốc, có cội nguồn từ văn hoá Núi Đọ. Trong buổi đầu của nền khảo cổ Việt Nam thời gian đó việc đồng nhất một truyền thống văn hoá chỉ với duy nhất một tiêu chuẩn nguyên liệu chế tác công cụ (đá cuội, đá gốc) là điều bình thường. Chỉ đến những năm đầu tiên của thập kỷ 80 (thế kỷ XX) mới có những ý kiến xem xét lại nguồn gốc của cư dân Quỳnh Văn. Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng kỹ thuật chế tác đá trong văn hoá Quỳnh Văn là thuộc truyền thống chế tác đá Hoà Bình. Và từ đó định hướng tìm kiếm nguồn gốc Hoà Bình cho chủ nhân của nền văn hoá này đã trở thành dòng chính. Cho đến nay ít có nhà khảo cổ học nào nghi ngờ về điều này. Bên cạnh chế tác đá, người Quỳnh Văn còn là cư dân có nghề thủ công làm gốm rất phát triển. Đặc trưng dễ nhận ra nhất của đồ gốm Quỳnh Văn chính là ở phong cách gốm đáy nhọn. Người ta coi đây cũng là một sáng kiến thực tiễn của người Quỳnh Văn, vì họ cư trú dọc bãi biển đầy cát. Để thuận tiện cho việc đun nấu, người ta chỉ cần cắm đáy gốm xuống cát là có thể thay cho những chiếc kiềng đá, bởi vì đá cuội, đá tảng ở đây rất hiếm. Chúng phải được tận dụng để chế tác công cụ. Việc trang trí gốm của cư dân Quỳnh Văn cũng rất giản tiện và mang tính thực tế, trước hết nhằm làm cho đồ gốm kín hơn, bền hơn. Đó là loại gốm phổ biến văn chải, chiếm tới 75%, cùng với nó là táng thức chôn ngồi bó gối mang phong cách Hòa Bình - Đa Bút và gốm in đập nan rá “tàn dư Đa Bút” [Nguyễn Trung Chiến 2003]. Về phương diện văn hoá, Quỳnh Văn thuộc truyền thống Hoà Bình. Nhưng về mặt tộc thuộc thì chủ nhân văn hoá này là ai?. Câu hỏi này đã được trả lời nhờ vào phát hiện 30 mộ đất tại địa điểm cồn sò điệp Quỳnh Văn. Nghiên cứu các cốt sọ này, người ta thấy chúng mang những nét hỗn hợp chủng tộc Australo-Mongoloid. Đây là quá trình hỗn chủng xảy ra phổ biến trong khu vực Việt Nam và Đông Nam á từ sơ kỳ đá mới trở đi, và đó cũng chính là nét đặc trưng chủng tộc của chủ nhân văn hoá Đa Bút [Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966]. Qúa trình phát triển của chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn đang được các nhà tiền sử Việt Nam quan tâm. Các ý kiến mới đây nhất cho rằng vào giai đoạn phát triển phồn thịnh của mình, có những nhóm người Quỳnh Văn tách khỏi địa bàn gốc Quỳnh Lưu, theo đường biển di cư vào vùng cửa biển Thạch Hà (Hà Tĩnh) tạo nên di chỉ Phái Nam. Tại nơi lập nghiệp mới, người Phái Nam vẫn duy trì truyền thống chế tác công cụ đá của cư dân Quỳnh Văn. Ngoài ra người Phái Nam cũng đã phát triển kỹ thuật mài nhằm tăng thêm hiệu quả lao động của công cụ đá. Và di chỉ này được các nhà nghiên cứu đánh giá vừa là một loại hình địa phương của văn hoá Quỳnh Văn, vừa là một giai đoạn phát triển của nền văn hoá này để trở thành nền văn hoá Hậu kỳ đá mới Bàu Tró thông qua loại hình Thạch Lạc [Nguyễn Trung Chiến 2003, 13]. Trước khi trình bày quá trình phát triển liên tục của con đường Quỳnh Văn – Bàu Tró ở Bắc Trung Bộ, chúng ta cần xem xét một con đường phát triển khác từ phía nam của địa bàn văn hoá Bàu Tró qua loại hình Bàu Dũ ở Nam Trung Bộ. Cho đến nay, di chỉ Bàu Dũ là một địa điểm khảo cổ học hậu Hoà Bình duy nhất được phát hiện tại vùng này. Bàu Dũ nằm ở thôn Bút Đông, xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (Quảng Nam), cách bờ biển khoảng 4km, gần cửa sông Tam Kỳ. Kế tục truyền thống Hoà Bình, người Bàu Dũ đã sử dụng nguyên liệu cuội để chế tác công cụ. Vì vậy các công cụ của họ thể hiện rất rõ dáng dấp của bộ công cụ Hoà Bình. Tuy nhiên, giống hệt như người Quỳnh Văn, vì sống ở ven biển, hiếm nguyên liệu cuội nên người Bàu Dũ cũng sử dụng cả đá gốc để chế tác công cụ. Sưu tập công cụ đá Bàu Dũ gồm các công cụ nạo hình đĩa, rìu hình hạnh nhân, rìu ngắn, công cụ chặt đập thô, và 1 chiếc rìu tay ghè đẽo bằng nguyên liệu cuội. Niên đại sớm của di chỉ Bàu Dũ là 5030 ± 60 năm cách ngày nay. Phương thức kiếm sống của cư dân Bàu Dũ giai đoạn sớm là khai thác biển kết hợp với săn bắt và hái lượm. Đối tượng hoạt động kiếm sống của họ gồm có các loài động vật trên cạn như tê giác, trâu, bò rừng, hươu, nai, sơn dương, khỉ; các loài động vật thuỷ sinh biển bao gồm cá, cua, ngao, sò, điệp. Chưa thấy xương răng động vật thuần dưỡng. Mô hình hoạt động sinh nhai này cùng với bộ công cụ ghè đẽo thô sơ đã gợi lại phong cách của cư dân Quỳnh Văn, cho dù Bàu Dũ không thuộc vào nền văn hoá này. Các nhà nghiên cứu cho rằng định hướng khai thác biển đã thành hình trong phương thức sống của người Bàu Dũ. Tuy nhiên nó không lặp lại bất cứ mô hình khai thác biển nào cùng thời. Người Cái Bèo có thể đã biết đánh bắt các loài cá lớn của biển khơi; người Quỳnh Văn chủ yếu khai thác sò điệp ven bờ; trong khi đó cư dân Đa Bút thì kết hợp cả khai thác ốc nước ngọt, hến sông lẫn đánh bắt hải sản. Người Bàu Dũ chỉ khai thác biển, nhưng không định hướng riêng một loài nào mà khai thác theo “phổ tạp” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 242]. Trở lại với văn hoá Hậu kỳ đá mới Bàu Tró chúng ta thấy nền văn hoá này có những nét gần gũi với các văn hoá Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Dũ ở chỗ chúng đều là các di chỉ “đống rác bếp” cồn sò điệp. Di chỉ Bàu Tró thuộc tỉnh Quảng Bình, do E. Patte khai quật năm 1923. Cho đến nay đã phát hiện được trên 20 địa điểm thuộc văn hoá này dọc theo đồng bằng ven biển các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ngoài ra các di tích và di vật của văn hoá Bàu Tró cũng thấy ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và miền núi phía Tây Quảng Bình, Nghệ An. Nhiều sưu tập công cụ đá Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cũng mang dáng dấp và cùng chất liệu với công cụ đá Bàu Tró. Người Bàu Tró chế tác nhiều loại hình hiện vật đá, trong đó có các công cụ lao động như công cụ ghè đẽo; công cụ mài gồm rìu, bôn, cuốc, đục, dao, cưa, mũi khoan, bài mài, chày nghiền, hòn ghè...vv [Phạm Thị Ninh 1995]. Bên cạnh kỹ thuật chế tác đá cư dân Bàu Tró cũng là những người thợ tài hoa trong nghề gốm. Đặc bịêt người Bàu Tró là một trong số những thợ thủ công làm ra gốm tô màu đầu tiên trên đất Việt Nam. Đây là một trong những bằng chứng chắc chắn nhất để xem xét nguồn gốc Bàu Tró của các nhóm cư dân tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh trong thời đại kim khí. Người Bàu Tró đã phát triển thành hai loại hình văn hoá khác nhau, đó là loại hình Thạch Lạc tại khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh, và loại hình Bàu Tró tại Quảng Bình. Tất nhiên một trong những nguồn gốc của cư dân Bàu Tró chính là người Quỳnh Văn [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 283-285]. Có một điều chắc chắn là người Bàu Tró đã phân chia thành các bộ lạc mà về phương diện khảo cổ học, các nhà nghiên cứu gọi là các loại hình địa phương. Đó là các bộ lạc Thạch Hà, bộ lạc Bàu Tró và bộ lạc Minh Cầm. Không còn nghi ngờ gì về việc cư dân Bàu Tró là những người làm nông, chăn nuôi, làm nghề thủ công đá và gốm. Tất nhiên trong thời kỳ tiền sử ấy người Bàu Tró chưa thể bỏ qua các nguồn bổ sung trong hoạt động sinh nhai của mình, đó chính là các hoạt động săn sắt và hái lượm. Bên cạnh đó vẫn còn một vấn đề khác, là niên đại của văn hoá Bàu Tró. Cho đến nay mới có duy nhất một niên đại C14 cho nền văn hoá này ở Cồn Nền, có tuổi 3590 ± 80 năm cách ngày nay. Ngoài ra vấn đề chủ nhân của văn hoá Bàu Tró vẫn còn chưa rõ ràng. Khi nói rằng văn hoá Bàu Tró là hậu duệ của văn hoá Quỳnh Văn, điều đó không hoàn toàn đồng nghĩa với vấn đề là về phương diện chủng tộc, người Bàu Tró cũng chính là người Quỳnh Văn. Tuy nhiên cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng “Cư dân văn hoá Bàu Tró có nguồn gốc từ văn hoá Quỳnh Văn, có quan hệ giao lưu trao đổi rộng với cư dân văn hoá Hoa Lộc, Hạ Long ở phía Bắc, với cư dân văn hoá Xóm Cồn ở phía Nam, với các bộ lạc miền núi Tây Nghệ An, Tây Quảng Bình, Thượng Lào, và xa hơn nữa, với cư dân văn hoá Biển Hồ ở Tây Nguyên. Văn hoá Bàu Tró là một thành tố quan trọng đóng góp vào sự ra đời của văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 283 – 285]. Con đường Cái Bèo – Hạ Long: Nếu như trước đây định hướng nông nghiệp được coi là con đường phát triển duy nhất sau Hoà Bình – Bắc Sơn và mọi tiền đề cho con đường đó đã được chuẩn bị trong hai nền văn hoá này, thì ngày nay, với việc phát hiện văn hoá Soi Nhụ, chúng ta còn được chứng kiến một tất yếu khác. Đó là một mô hình phát triển phức hợp mà ở đó nông nghiệp chỉ là một trong các thành tố mà thôi. Người ta không thể phủ nhận được vai trò của kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là nền nông nghiệp làm vườn trong các văn hoá Cái Bèo và Hạ Long. Nhưng định hướng chính của con đường Cái Bèo - Hạ Long lại là khai thác biển, trong đó có cả đánh bắt hải sản lẫn trao đổi đường dài và phát triển một số nghề thủ công - đặc biệt là nghề gốm, chế tác công cụ đá và đồ trang sức. Chính môi trường biển đã tạo cho hậu duệ văn hoá Cái Bèo của văn hoá Soi Nhụ một phương thức phức hợp như vậy [Hà Hữu Nga 2000; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001]. Văn hoá trung kỳ đá mới Cái Bèo được định danh dựa trên phát hiện di chỉ Cái Bèo thuộc xã Hải Đông, thuộc thị trấn Cát Bà (Hải Phòng). Vào giai đoạn cuối của văn hoá Soi Nhụ, cách ngày nay khoảng 7000 – 6000 năm, mực nước biển Đông có nhiều biến đổi và ngày một dâng cao. Chính điều kiện đó đã giúp cho một số nhóm cư dân Soi Nhụ sống gần biển nhất, trong đó có người Cái Bèo làm quen với các hoạt động khai thác biển, và sau đó trở thành các cư dân biển thực thụ và sớm nhất trong thời tiền sử Việt Nam. Niên đại của di chỉ Cái Bèo là chứng nhân khách quan nhất cho nhận định đó. Mẫu C14 ở độ sâu 220 cm thuộc di chỉ Cái Bèo có độ tuổi 5645 ± 115 năm cách ngày nay. Đây là một bằng chứng chắc chắn khẳng định rằng trước đợt biển tiến cực đại Holocene trung, người Cái Bèo đã phát triển nền văn hoá khai thác biển trung kỳ đá mới của mình tại khu vực vịnh Hạ Long. Khi nước biển Đông dần dần dâng cao vào giai đoạn trước 5000 năm cách ngày nay, các nhóm cư dân thuộc văn hoá Cái Bèo đã lan toả dần trên toàn bộ khu vực vịnh Hạ Long. Chính cuộc triển khai này đã để lại các dấu tích rõ ràng tại các di chỉ Giáp Khẩu (phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long), Hà Giát (xã Hạ Long, đảo Vân Đồn), Hòn Ngò, Núi Hứa (huyện Ba Chẽ và Quảng Hà), lớp sớm của di chỉ Thoi Giếng (Thị xã Móng Cái). Trước hết các cư dân này đã để lại những bộ công cụ cuội ghè đẽo rất thô sơ trên các bãi triều, dọc cuộc hành trình sinh nhai của họ từ khu vực đảo Cát Bà đến khu vực vịnh Courbet, nay là vịnh Cửa Lục thuộc thành phố Hạ Long. Sở dĩ các công cụ này rất thô sơ bởi vì chúng cũng được sử dụng vào một loại hình lao động rất giản đơn là tách hà ra khỏi các vách đá vôi thuộc vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; hoặc ghè đập các loài nhuyễn thể biển khác như sò huyết, ngao...vv. Như vậy nền văn hoá Cái Bèo là giao thời của đợt biển tiến Holocene trung. Một trong những thử thách to lớn nhất đối với cư dân Cái Bèo giai đoạn muộn chính là mực nước biển dâng lên cực đại vào khoảng 5000 năm cách ngày nay, khiến cho văn hoá Cái Bèo bị phân hoá sâu sắc. Một số nhóm chạy lên các khu đất cao thuộc đảo Cát Bà. Một số nhóm khác chạy về khu đảo Hoàng Tân (Yên Hưng) nương tựa vào các dãy núi đá vôi tại đó. Một số nữa lên cư ngụ tại các hang động cao ráo thuộc khu vực vịnh Hạ Long. Có những nhóm chạy dạt lên các khu vực chân núi dọc theo đường quốc lộ 18B chạy suốt từ Yên Hưng đến Móng Cái. Và chính sự phân hoá này đã là kích thích tố để ra đời nền văn hoá Hạ Long sau đợt biển tiến Holocene trung. Đợt biển biến Holocene trung dâng lên cực đại một cách nhanh chóng và sau đó cũng rút đi nhanh chóng không kém, đã để lại nhiều đượng cát suốt các vùng ven biển từ Yên Hưng đến Móng Cái. Sau đợt biển tiến kéo dài vài trăm năm, cấu trúc kinh tế - xã hội – văn hoá của các nhóm cư dân Cái Bèo trước đó giờ đây đã bị giải thể hoàn toàn. Các nhóm cư dân cũ với lối sống và thích ứng mới đã trở thành những nhóm người Hạ Long phân bố trên một địa bàn rộng hơn địa bàn của cư dân Cái Bèo trước đó đến hai lần. Các nhóm người Hạ Long sớm đã tạo nên một hệ thống di chỉ hậu kỳ đá mới rất điển hình tại vùng phía bắc vịnh Bái Tử Long. Đó là các di chỉ Thoi Giếng, Thôn Nam, Gò Mừng, Gò Chùa, Gò Miếu Cả, Gò Mả Tổ, Gò Bảo Quế, Quất Đông Nam, Ngòi Hàu..vv đều thuộc địa phận thị xã Móng Cái và đã tạo nên bộ lạc Thoi Giếng của nền văn hoá Hạ Long. Địa bàn cư trú của bộ lạc này chủ yếu là bề mặt của các đồng bằng cổ Pleistocene, cao khoảng 6 – 8m so với mực nước biển hiện tại. Vào khoảng 4700 - 4500 trước, khi nhóm cư dân Thoi Giếng đến khai phá vùng đất này thì biển Holocene trung không còn ở mức cực đại nữa, và mực nước biển đang dần dần hạ thấp, để rồi các cư dân Hạ Long sớm lại phân chia nhau tiến dần ra các đượng cát do đợt biển tiến Holocene trung để lại, và tạo nên các nhóm cư dân Hạ Long muộn. Địa bàn cư trú của các nhóm cư dân Hạ Long muộn gồm có di chỉ hang Bái Tử Long, di chỉ Soi Nhụ (hang Dưới), và loại hình di chỉ ngoài trời gồm có các di chỉ Ngọc Vừng, Đồng Mang, Xích Thổ, Làng Bang, Minh Khai, Hoàng Tân, Đầu Dằm, Xóm Nam (Tuần Châu), Xóm Đông, Xóm Kèo, Cái Dăm, Cọc Tám, Vườn Hoa. Tất cả đều tập trung xung quanh khu vực vịnh Hạ Long và thành phố Hạ Long. Cư dân giai đoạn muộn vẫn duy trì một mô hình sống phức hợp gồm có nghề thủ công làm đá, độc đáo nhất là những chiếc rìu bôn có vai, có nấc. Nghề thủ công làm gốm cũng có những biến đổi to lớn với sản phẩm gốm xốp đặc trưng cho tài khéo của người thợ gốm Hạ Long. Đặc biệt nghề khai thác biển đã có dấu hiệu sử dụng thuyền, vì trong giai đoạn cuối của nền văn hoá này đã phát hiện được nhiều chiếc đục lớn, dài là công cụ hữu hiệu để đục đẽo những chiếc thuyền độc mộc lớn. Để có được lương thực, có lẽ các cư dân Hạ Long đã trao đổi các sản phẩm thủ công và hải sản với những nhóm làm nông ven núi thuộc huyện Hoành Bồ, khu vực Yên Hưng (Quảng Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng), và xa hơn là các cộng đồng sinh sống trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Thanh Hoá (văn hoá Hoa Lộc) và miền núi phía bắc, đặc biệt là với cư dân Mai Pha ở Lạng Sơn. Các bộ lạc thời kỳ này đã sử dụng một loại hiện vật biển đặc trưng Hạ Long là con ốc xà cừ (Cypraea) làm vật trung gian trao đổi, nó là một sản phẩm mang tính hàng hoá đặc bịêt, là một thứ “tiền tệ” trong thời tiền sử. Ngoài ra chắc chắn cư dân Hạ Long đã có đóng góp to lớn vào kho tàng lịch sử văn hoá Việt cổ bằng vốn tri thức đi biển, quan sát trăng sao, con nước, sự lên xuống của thuỷ triều. Nhờ có những kiến thức này mà hệ thống lịch pháp Việt cổ mới có thể hoàn chỉnh. Về mặt cấu trúc xã hội, ngay từ giai đoạn sớm, người Hạ Long đã cư trú tập trung thành các ngôi làng sơ khai tại khu vực xã Vạn Ninh, thuộc thị xã Móng Cái. Vào giai đoạn muộn, hình thức quần cư thành các cộng đồng làng xóm có thể thấy rất rõ tại hệ thống di chỉ Ngọc Vừng, Xích Thổ. Chính những ngôi làng này là những trạm trung chuyển văn hoá Đông á và Đông Nam á vào khu vực đồng bằng sông Hồng. Về phương diện cấu trúc gia đình, có lẽ vào giai đoạn này các hình thức thị tộc đã bước đầu phân hoá dần dần nhường chỗ cho một loại gia đình sơ khai – một hình thức cấu trúc kép, bao gồm cả gia đình hạt nhân lẫn hình thức gia đình thị tộc [Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001]. Còn nữa…
-
THUYỀN CẠN 2 Thiên thơ đang đến hồi khai bút Các vị xin mau xuất thế gian Bao kiếp tu hành vượt nguy nan Tìm về chân lý, đường đã tỏ. "Thuyền Cạn" Ta cùng nhau chèo đò Đưa người vượt thoát kiếp u mê Vững chèo tay lái, mặc ai chê Trao truyền chân giá trị bừng cháy. Thuyền Ta đích thị thuyền không đáy Chở hết sinh linh, chở muôn loài Đổi thay nhận thức toàn nhân loại Há dễ yên bình chốn lao xao? Xin mời bạn hữu nơi chốn nao Duyên lành đã điểm khởi duyên nào Đường đi đâu dễ tìm kiếp nữa Lên thuyền vượt cạn đến Non cao... HienNguyen, ngày 13/4/2015
-
BÌNH YÊN Bình yên bên nhau nghe từng con sóng vỗ Lao xao rì rào tiếng sóng của lòng nhau Nha Trang ngày về em bên biển bao la Thổn thức tình nồng xuyên qua bao ghềnh đá Trăng đã lên cao gió mơn man làn tóc Mắt môi kia em chờ đợi phút đắm say Biển trong anh trong em ngàn năm vẫn thế Cồn cào, sục sôi sâu thẳm tận cõi mê. Nơi thiên thai chỉ có tình yêu ngự trị Đôi trái tim hòa chung nhịp đập yêu đương Ta bên nhau giữa muôn vạn ánh sao trời Ngàn tinh tú đêm nay cùng ta say giấc Gối đầu lên vai em nhìn anh khẽ bảo Oh! 7 vì sao Bắc đẩu đến thế gian? Anh khẽ mỉm cười:" Đúng rồi đó em yêu! Hội Đồng Thất Tinh đã cùng anh giáng xuống Anh sao Thái Dương lãnh tụ cả quần hùng Em sao Thiên Cơ tỏa chiếu ngàn tia sáng Nắm tay nhau mình cùng xây vũ trụ mới Viết trang sử chói lòa, ngàn đời lưu danh. MỘT NỬA Giữa những vì sao xa xăm ta tìm thấy Một Một nửa mình một nửa pha lê Sáng trong em một nửa câu thề Lời xưa cũ chưa từng yêu mới Sống trong nhau những lời thơ mời gọi Tiếng thanh tao tha thiết chờ người Hỡi người yêu một nửa của tôi Em chìm đắm trong tình thương một nửa. Hiennguyen
-
Tiền sử Việt Nam (II) Người viết: Hà Hữu Nga 2. Thời đại Đá mới và các bộ lạc trồng lúa Khái niệm thời đại đá mới dùng để chỉ một giai đoạn tiền sử liên quan đến một sự thay đổi môi trường to lớn – sự rút lui dần của băng hà Wurm trên phạm vi toàn cầu. Đó cũng là giai đoạn kết thúc của thời kỳ Cánh tân (Pleistocene) để thế giới bước vào thời Toàn tân (Holocene). Các nhà địa chất thường coi mốc 10.000 năm trước đây là ranh giới giữa hai thời đó. Lúc này trái đất ấm dần lên, mưa nhiều làm cho các dòng sông suối đầy nước. Cùng với nó, mực nước biển ngày càng dâng cao làm ngập chìm một phần lãnh thổ lớn mà các nhóm người tiền sử vẫn kiếm sống. Hai quá trình môi trường trái ngược nhau đó vừa gây khó khăn, vừa tạo thuận lợi cho sự phát triển của con người. Biển tiến làm thu hẹp lãnh thổ kiếm sống, có thể tạo nên một sức ép lớn về mật độ dân số và nguồn cung cấp đồ ăn. Nhưng sự ấm dần của trái đất cũng tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để con người phát triển một nền nông nghiệp sơ khai và cuộc sống định cư. Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới nên ảnh hưởng băng hà ít hơn. Vì vậy mốc thời gian khởi đầu của văn hoá Hoà Bình có thể lùi tới 15.000 năm cách ngày nay, và thời đại đá mới kết thúc vào khoảng 4000 năm cách ngày nay. 2.1. Các văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn – Soi Nhụ và nền nông nghiệp sơ khai trên đất Việt Nam. Văn hoá Hoà Bình: đối với các nhà tiền sử thế giới khái niệm này có một nội hàm rộng lớn bao gồm bất cứ di tích, di chỉ khảo cổ học nào tại khu vực Đông Nam á có chứa các công cụ cuội dạng Sumatralith được ghè đẽo một mặt, và cùng với nó là vỏ ốc núi và ốc suối. Vì tính chất phức tạp và phạm vi phân bố rộng lớn của dạng di chỉ như vậy cho nên về sau nhiều nhà tiền sử không gọi là văn hoá Hoà Bình, mà chỉ dùng khái niệm Hoà Bình (The Hoabinhian) để chỉ loại hình văn hoá tiền sử này. Một phương án khác thay thế khái niệm văn hoá Hoà Bình bằng khái niệm “Phức hợp kỹ thuật” (Technocomplex) [Gorman C.E. 1970]. Tuy nhiên cũng giống như khái niệm kỹ nghệ, phức hợp kỹ thuật là một khái niệm mang tính kỹ trị và không thích hợp để thay thế cho khái niệm văn hoá, hoặc hệ thống văn hoá. Vì vậy hầu hết các nhà khảo cổ học Việt Nam vẫn sử dụng khái niệm văn hoá Hoà Bình. Tại Việt Nam, các di tích Hòa Bình chủ yếu phân bố tại khu vực các dải núi đá vôi chạy từ Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, vào đến tận Quảng Trị. Nhưng tập trung nhất là ở Hoà Bình (72 địa điểm), và Thanh Hoá (32 địa điểm), số còn lại được phát hiện rải rác ở Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Nghệ An, Quảng Bình và Quảng Trị [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998]. Dù thống kê chưa đầy đủ nhưng cho đến nay đã có khoảng trên 160 di tích Hoà Bình được phát hiện tại Việt Nam. Dù Hoà Bình là hậu duệ của Sơn Vi, nhưng về phương diện môi trường sinh thái thì Sơn Vi và Hoà Bình là hai mô hình cư trú trái ngược nhau. Người Sơn Vi chủ yếu sống tại các bậc thềm cổ của các dòng sông, và một ít sống trong các khu vực hang động. Ngược lại người Hoà Bình lại chủ yếu sống trong các hang động đá vôi và một ít sống ở các di chỉ ngoài trời như Sập Việt (Sơn La). Riêng di chỉ Giáp Khẩu (Quảng Ninh), vì sự nhầm lẫn của E. Saurin mà lâu nay các nhà khảo cổ học Việt Nam vẫn nghĩ đó là một di chỉ Hoà Bình ngoài trời [saurin E. 1956]. Thực ra đó là một di chỉ thuộc loại hình văn hoá Cái Bèo, với các công cụ ghè đẽo thô sơ để tách hà ra khỏi đá và đập sò ốc biển. Loại hình công cụ này phổ biến ở các địa điểm ven biển Hạ Long như Cái Bèo, Giáp Khẩu, Hà Giát, Hòn Ngò, Núi Hứa, Ba Vũng, Thoi Giếng...vv [Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999]. Tuy cư trú trong các hang động đá vôi, nhưng cư dân Hoà Bình thường chọn các hang thoáng mát, cửa hang rộng rãi, quay về hướng đông hoặc hướng nam để ở. Các hoạt động sống thường diễn ra ở cửa hang. Bằng chứng là tầng văn hoá và các di vật còn lại ở cửa hang bao giờ cũng dày đặc hơn. Di vật đặc trưng trong các hang động của người Hoà Bình cùng với công cụ cuội ghè một mặt, rìu ngắn ghè đẽo, vào giai đoạn sớm thường là vỏ ốc núi (Cyclophorus). Giai đoạn muộn thường là vỏ ốc suối (Melania, Antimelania) tồn tại cùng với công cụ ghè đẽo tinh xảo hơn, xuất hiện nhiều công cụ ghè hai mặt hơn. Ngoài ra còn có công cụ cuội mài lưỡi và một ít mảnh gốm thô trong các lớp muộn. Hòn nghiền, bàn nghiền tồn tại ở tất cả các lớp. Dù cư trú trong hang, nhưng môi trường kiếm sống của cư dân Hoà Bình lại diễn ra trong các thung lũng, ven các con suối. Tại đó họ kiếm rau quả, bắt cua ốc, săn bắt thú rừng, kiếm đá cuội tự nhiên về để chế tác công cụ. Vì vậy đã có đề xuất Hoà Bình là một nền “văn hoá thung lũng” [Trần Quốc Vượng 1986]. So với khối lượng vỏ nhuyễn thể đồ sộ, thì xương cốt động vật còn lại không nhiều trong các hang động Hoà Bình. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết chắc, người Hoà Bình đã săn bắt nhiều loài động vật khác nhau để bổ sung vào nguồn thức ăn của mình. Đó là các loài vượn (Hylobates), khỉ (Macaca sp.), nhím (Hystrix), chuột (Rattus sp.), lợn rừng (Sus sp.), hươu (Cervus), hoẵng (Muntiacus muntjac), nai (Ruse unicolor), bò rừng (Bibos sp.), trâu rừng (Bubalus), lửng (Artnyx collaris), vòi hương (Paradoxurus), hổ (Pathera tigris), voi cổ (Palaeoloxodon), tê giác (Rhinoceros sp.), lợn lùn (Porcula sp.) [Vũ Thế Long 1984]. Các hoạt động săn bắt thú rừng của người Hoà Bình đòi hỏi một kỹ năng cao về mọi phương diện. Trước hết việc săn các loại thú dữ lớn như trâu, bò, lợn, voi, tê giác, hổ...vv, cần phải có những thợ săn khoẻ mạnh, nhanh nhẹn và tháo vát. Nhưng chừng ấy chưa đủ, điều cần thiết đối với công việc đặc biệt này là tính tổ chức cao, việc phân công công việc rõ ràng, hợp lý trong tập thể các thợ săn. Một điều quan trọng không kém là sự am hiểu tập tính của thú rừng. Tri thức về thói quen của thú rừng có được qua một quá trình quan sát lâu dài và trở thành một vốn kinh nghiệm truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn tri thức và kinh nghiệm này không phải là những đúc kết lý thuyết chung chung, mà là những hiểu biết rất cụ thể; không những thế, các hiểu biết ấy phải được phân loại phù hợp với từng loại thú rừng riêng, theo từng mùa khác nhau, trong từng môi trường riêng biệt nhau. Vì vậy khái niệm săn bắt đôi khi làm cho người ta chỉ nghĩ một cách đơn giản đó là một công việc thô sơ. Trên thực tế đó là một nguồn tri thức địa phương về môi trường rất phong phú và đa dạng kết hợp với một khả năng phân loại cao của người tiền sử Hoà Bình. Hoạt động hái lượm của cư dân Hoà Bình phần nào thể hiện qua các di tích thực vật và phổ phấn hoa còn lại trong các hang động Hoà Bình. Cho đến nay các nhà nghiên cứu đã thống kê được khoảng 50 loại bào tử phấn hoa khác nhau, trong đó chưa thấy loại phấn hoa đã được con người thuần hoá. Các di tích hạt quả còn lại gồm có hạt gắm (Gnetum montanun), trám (Canarium sp.), cọ (Linstora cochinchinensis), me (Rhyllathus emblica), côm (Elacocarpus sylvestrix), chè (Thea sp.) [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 161]. Nguồn tri thức địa phương về môi trường sinh thái của người Hoà Bình còn thể hiện qua công việc hái lượm. So với hoạt động săn bắt, việc hái lượm của phụ nữ tưởng đơn giản, thụ động hơn nhiều. Tuy nhiên giờ đây các nhà nhân học nhận thức cho rằng kết luận như vậy là nhầm lẫn [Grenier L. 1998]. Ngoài nhiệm vụ kiếm rau quả củ làm đồ ăn, một phần việc quan trọng đặc biệt của người hái lượm là kiếm thuốc thảo dược để điều trị cho các bệnh nhân trong cộng đồng. Để thực hiện được hai nhiệm vụ đó, người hái lượm cần có một lượng tri thức về môi trường nhiều không kém, và thường là nhiều hơn, sâu sắc hơn so với khối lượng tri thức mà người săn bắt thú cần có. Muốn thế cùng với khả năng quan sát, người hái lượm còn phải thành thạo kỹ năng phân loại môi trường sinh thái, phân loại mùa, và đặc biệt là phân loại các đối tượng hái lượm, mà trước hết là thực vật. Chính nguồn tri thức địa phương này là một trong những sức mạnh giúp người phụ nữ trong các xã hội tiền sử, đặc biệt là các xã hội mẫu hệ có được quyền lực thực sự. Và cũng chính nguồn tri thức về môi trường và thảo dược ấy đã giúp cho người tiền sử Hoà Bình tiến dần đến một nền nông nghiệp sơ khai. Vào thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ XX, vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình là một đề tài hấp dẫn hầu hết các nhà tiền sử học Việt Nam nghiên cứu về hệ thống văn hoá này, đặc biệt là sau khi học giả Mỹ C. E. Gorman công bố những kết quả khai quật và nghiên cứu của ông tại Hang Ma (Thái Lan) [Gorman C.E. 1970, 1971] trong đó có bầu, bí, đậu được cho là những sản phẩm trồng trọt. Một số học giả Việt Nam, dựa vào các bào tử phấn hoa họ rau đậu (Leguminosae) được phát hiện tại các hang Sũng Sàm (Hà Tây), Thẩm Khương (Lai Châu) cũng nghĩ rằng “các bộ lạc Hoà Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp”. Gần đây có một xu hướng ngược lại, “không tin rằng chủ nhân văn hoá Hoà Bình đã biết nông nghiệp” [Đào Qúi Cảnh 2004]. Tuy nhiên các thảo luận đó đều dựa trên những dữ liệu không rõ ràng, hoặc không định nghĩa rõ ràng quan niệm của họ về cái gọi là nông nghiệp. Ngày nay mối quan tâm hàng đầu của các nhà tiền sử thế giới không còn là vấn đề nông nghiệp nữa, mà là vấn đề tri thức bản địa về các hệ thống sinh thái. Từ góc độ sinh thái, nông nghiệp được quan niệm là “không bắt đầu từ một nguồn duy nhất nào, mà được phát hiện dần dần ở nhiều nơi trên thế giới vào khoảng 5000 đến 9000 năm trước công nguyên” [Ruth A. Eblen and William R. Eblen, Editors 1994]. Các cư dân sớm kiếm sống bằng săn bắt, hái lượm đã thu hoạch những hạt quả ăn được, hoặc những hạt quả này được chim thú đem từ nơi nọ đến nơi kia và chúng phát triển một cách tự nhiên xung quanh nơi con người sinh sống. Qua hàng nghìn năm con người đã nhận ra rằng hoàn toàn có thể mở rộng sản xuất lương thực bằng cách reo vãi các hạt quả hoang dại tại một số địa điểm cố định để rồi chăm sóc và thu hái chúng [Ruth A. Eblen and William R. Eblen, Editors 1994]. Nếu quan niệm nông nghiệp một cách giản dị và đúng đắn như vậy thì nông nghiệp không chỉ xuất hiện trong văn hoá Hoà Bình, mà còn có thể đã xuất hiện ngay từ văn hoá Sơn Vi trước đó. Niên đại C14 của các địa điểm Hoà Bình cũng nằm trong khung xuất hiện nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới sau băng hà Wurm. Một trong những niên đại sớm của văn hoá Hoà Bình ở hang Sũng Sàm (Hà Tây) là 11365 ± 80 năm cách ngày nay. Trong khi đó niên đại muộn nhất của văn hoá này được biết cho đến giờ ở hang Đắng (rừng Cúc Phương) là 7580 ± 80 năm cách ngày nay. Trước đây các nhà dân tộc học đã đưa ra những phán đoán thuần tuý hình thức – vì vậy mà không tránh khỏi sai lầm – là lịch sử nông nghiệp Đông Nam Á được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trồng rau củ và giai đoạn trồng lúa. Những nghiên cứu mới đây về lịch sử cây lúa hoang dại tại Nam Trung Quốc, Ấn Độ, khu vực Assam và nhiều vùng thuộc Đông Nam Á đã đem lại một lối đặt vấn đề khác. Khả năng người tiền sử biết chăm sóc lúa hoang chịu hạn vào cuối thời kỳ Pleistocene, đầu Holocene không hề muộn hơn việc họ biết gieo trồng các loại rau củ. Vì vậy mà không hề có cái gọi là hoạt động hái lượm tiền sử là thuần tuý tước đoạt, bởi vì bằng sự quan sát và hiểu biết về môi trường sinh thái từ hàng vạn năm trước, người tiền sử luôn kết hợp giữa khai thác và chăm sóc các nguồn thực phẩm hoang dại để thu hái vào mùa sau. Về phương diện này, chắc chắn các cư dân tiền sử Hoà Bình cũng không phải là ngoại lệ. Ngoài ra từ quan niệm sinh thái, cần phải đính chính một lý giải sai lầm khác cho rằng nông nghiệp luôn gắn liền với định cư. Thật ra về phương diện dân tộc học đã có nhiều mô hình nông nghiệp du canh, du cư với mục đích vừa khai thác vừa nuôi dưỡng đất đai và môi trường rất điển hình của các dân tộc địa phương Tây Nguyên. Đối với tiền sử Việt Nam, vấn đề chủ nhân của văn hoá Hoà Bình có một ý nghĩa rất to lớn. Nó cung cấp cho các nhà nghiên cứu Việt Nam những cơ sở vững chắc để tìm về một trong những cội nguồn của tổ tiên người Việt cổ. Cho đến nay đã phát hiện được di cốt người trong 33 địa điểm thuộc văn hoá Hoà Bình, trong đó chỉ riêng di chỉ Làng Gạo đã phát hiện được đến 20 cốt sọ. Lâu nay các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng các sọ cổ thuộc văn hoá Hoà Bình có những đặc điểm tương tự như các sọ cổ cuối hậu kỳ Pleistocene được phát hiện ở Indonesia (Wadjak I) và Nam Trung Quốc (Liu Chiang). Chúng vừa có đặc trưng Mongoloid vừa có đặc trưng Australoid, tạo thành dạng Australo-Mongoloid còn lưu giữ nhiều đặc điểm nguyên hình chưa bị phân hoá, đã tồn tại khá lâu ở Vịêt Nam [Nguyễn Lân Cường 1996]. Trong khi đó các cốt sọ Hoà Bình tại hang Tam Pong (Lào), Sai Yok (Thái Lan), Golbaly (Malaysia), và Bindjai (Indonesia) lại có những đặc điểm gần với loại hình Indonesian phát hiện được ở Nam Trung Quốc [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 139]. Như vậy bước đầu có thể khẳng định rằng chủ nhân văn hoá Hoà Bình là những người bản địa đã có sự hoà huyết với các tộc người ở những khu vực xung quanh. Cư dân Hoà Bình đã có một tư duy khá phát triển. Họ đã có một quan niệm rất rõ ràng về hai thế giới, thế giới của người sống và thế giới của người đã chết. Tuy nhiên, đối với họ, hai thế giới này không hề cách biệt nhau, mà vẫn gần gũi với nhau, giống như thế giới của người đang thức còn thế giới kia là của những người đang ngủ vậy. Bằng chứng là người Hoà Bình chôn người chết ngay tại nơi họ đang cư trú, trong các hang động đá vôi. Người chết được chôn ở thế nằm co như đang ngủ. Người ta cũng chôn theo người chết những hiện vật rất thiết thân với mỗi thành viên của cộng đồng, đó là một công cụ ghè đẽo hoặc một công cụ cuội mài lưỡi. Tình cảm đó của người sống đối với người chết hoàn toàn bác bỏ quan niệm cho rằng vì sợ người chết về làm hại, nên người ta đã trói người chết lại trước khi đem chôn. Thật ra ngồi bó gối chính là những tư thế ngủ của người tiền sử để phản ứng nhanh khi bị thú dữ hoặc kẻ thù tấn công khi họ phải sống xa nơi ở chính. Còn nằm co là tư thế ngủ trong hang để tránh lạnh mà thôi. Táng thức của người Hoà Bình dường như đã lặp lại trạng thái này. Ngoài ra, người Hoà Bình cũng đã có một loại hình táng thức tập thể giống những người Jarai (Tây Nguyên) làm một ngôi nhà dài tại nghĩa trang để chôn tất cả những người họ hàng đã chết của mình ở đó. Trong trường hợp này mỗi khu mộ tập thể của họ tộc là một ngôi nhà, còn nghĩa trang là một “ngôi làng ma” – theo cách gọi của người Jarai ngày nay. Cư dân Hoà Bình cũng đã có một “ngôi nhà-hang ma” hoặc “ngôi làng ma” ở hang Làng Gạo (tỉnh Hoà Bình) với 20 cá thể được chôn ở đây. Có ý kiến cho rằng cấu trúc xã hội của người Hoà Bình có thể là các thị tộc mẫu hệ. Đây là một ý kiến rất đáng lưu ý, vì cuộc sống của cư dân Hoà Bình chủ yếu là định cư theo các nhóm nhỏ trong các hang động. Nguồn sống chính của họ vẫn là thu lượm nhuyễn thể và rau quả củ theo mùa, kết hợp với săn bắt. Một cơ sở kinh tế và vật chất như vậy có thể phù hợp với một chế độ thị tộc mẫu hệ. Các hang động giống như ngôi nhà dài của người Ê Đê trước đây, là nơi cư trú của một gia đình lớn do một bà già làm chủ. Tuy nhiên trong chế độ thị tộc mẫu hệ Hoà Bình chưa thể có các gia đình hạt nhân gọi là các “bếp” như trong ngôi nhà dài Ê Đê. Cuộc sống săn bắt, hái lượm đơn giản chưa có sự gia tăng sản phẩm bằng một nền sản xuất nông nghiệp ổn định khiến cho các gia đình ấy phải chia đều các sản phẩm kiếm được cho mỗi thành viên. Vì vậy không thể nào có cái gọi là gia đình nhỏ một vợ một chồng và những đứa con của hai người sống chung một “mái nhà hang” như các chị em con cháu của một bà già sống chung dưới một mái nhà dài Ê Đê được. Điều đặc biệt quan trọng là người Hoà Bình đã có một vốn tri thức biểu tượng mà người ta thường gọi một cách quá hiện đại và đơn giản – vì vậy mà có thể sai lầm - là hoạt động nghệ thuật. Bằng chứng là trên vách hang Đồng Nội (tỉnh Hoà Bình) có hình khắc một con thú được cho là loài ăn cỏ và ba cái mặt người có “sừng” ở trên đầu. Từ hình khắc “nghệ thuật” đó người ta liền đọc ý nghĩa của nó là biểu hiện của “tín ngưỡng vật tổ”, mà vật tổ là một loài ăn cỏ, có thể là hươu. Vậy thì các hình khắc đó là “nghệ thuật” hay là “biểu tượng vật tổ” hay là một loại “chữ” hay nó còn mang (những) ý nghĩa nào khác nữa? Mỗi thế hệ các nhà nghiên cứu có những cách trả lời riêng cho câu hỏi này, thậm chí mỗi nhà nghiên cứu cũng có thể đưa ra những cách “đọc” riêng của mình về các biểu tượng đó. Vì vậy khi chưa có cách đọc nào thuyết phục, chúng ta làm theo cách của các nhà ngữ nghĩa học, coi đó là một vật biểu nghĩa, thay vì coi đó là một “tác phẩm nghệ thuật”. Điều đó còn liên quan tới một khuynh hướng nghiên cứu mới trong tiền sử học. Những người đi theo khuynh hướng này cho rằng cuộc cách mạng đầu tiên của nhân loại là cuộc “cách mạng biểu tượng” đã xảy ra lần đầu tiên vào thời hậu kỳ đá cũ. Đó là các hình vẽ còn lại trong các hang động ở Pháp và Tây Ban Nha. Giờ đây người ta sử dụng môn Khảo cổ học Ngữ cảnh để đọc các tác phẩm đó, bằng cách không coi chúng là những tác phẩm nghệ thuật, mà coi chúng là những “văn bản cổ” cần phải giải nghĩa [Hodder I. 1991]. Phương pháp tiếp cận đó cũng đã được một số nhà tiền sử học Việt Nam sử dụng. Thay vì coi các xâu vỏ ốc biển trong các hang động Hoà Bình, Bắc Sơn là những đồ trang sức, các nhà nghiên cứu đã coi chúng là biểu tượng của vị thế người mang nó trong cộng đồng [Hà Hữu Nga 2004]. Trong văn hoá Hoà Bình, việc rắc thổ hoàng trong mộ và chắc là người ta còn sử dụng để bôi lên cơ thể người sống cũng có thể được xem xét từ góc độ ngữ nghĩa học: ngoài chức năng làm đẹp và tránh rét, chúng còn là một biểu tượng có ý nghĩa đối với các thành viên trong cộng đồng và với các cộng đồng khác. Văn hoá Bắc Sơn: Cho đến nay đã phát hiện được 51 địa điểm với đặc trưng nổi bật là phân bố trong các hang động đá vôi thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Tầng văn hoá không dày, cấu tạo chủ yếu bằng ốc suối và ốc núi. Tổ hợp di vật tiêu biểu của văn hoá này là công cụ cuội ghè đẽo, công cụ mảnh tước, “rìu mài lưỡi Bắc Sơn”, “dấu Bắc Sơn” (hay còn gọi là “bàn mài Bắc Sơn”) và còn phát hiện được một số mảnh gốm rất thô sơ. Trước đây đa số các nhà khảo cổ học đều coi văn hoá này là thuộc thời đại đá mới, sau văn hoá Hoà Bình và “nảy sinh từ trong lòng văn hoá Hoà Bình”. Nhưng sau gần 100 năm nghiên cứu nền văn hoá này, với 51 địa điểm đã được phát hiện và khai quật, giờ đây hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng Bắc Sơn là một nền văn hoá khảo cổ học độc lập, tồn tại đồng thời với văn hoá Hoà Bình và có quan hệ gần gũi với văn hoá Hoà Bình. Giống như các nhóm cư dân tiền sử Hoà Bình, người Bắc Sơn cũng lấy hang động đá vôi làm nơi cư trú chính thức, và môi trường kiếm sống của họ cũng là các thung lũng dưới chân các dãy núi đá vôi thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Giống như người Hoà Bình, người Bắc Sơn cũng khai thác đá cuội từ hệ thống sông suối trong vùng làm nguyên liệu chế tác công cụ đá. Giống như người Hoà Bình, thực đơn chính của người Bắc Sơn cũng là ốc núi và ốc suối. Tuy nhiên, khác với người Hoà Bình, bộ công cụ cuội trong văn hoá Bắc Sơn không phải là những Sumatralith điển hình được ghè một mặt, mà hầu hết các công cụ cuội ở đây được ghè hai hay nhiều mặt. Khác với người Hoà Bình, trong tổ hợp công cụ của cư dân Bắc Sơn có một số lượng lớn công cụ mảnh tước dạng Ngườm. Khác với người Hoà Bình, tỷ lệ rìu mài lưỡi trong văn hoá Bắc Sơn thường lớn hơn rất nhiều, trong khi đó kích thước công cụ mài lưỡi lại nhỏ hơn. Nếu hầu hết rìu mãi lưỡi Hoà Bình được chế tác từ hòn cuội thì ngược lại, hầu hết rìu mài lưỡi Bắc Sơn được làm từ các mảnh tước. Cũng khác với Hoà Bình, một trong những đặc trưng nổi bật của văn hoá Bắc Sơn là bộ sưu tập bàn mài Bắc Sơn hay “dấu Bắc Sơn” được phát hiện với khối lượng lớn, trong khi đó nó chỉ được thấy rải rác trong một số địa điểm thuộc văn hoá Hoà Bình, có lẽ là kết quả của quá trình giao lưu, trao đổi hoặc ảnh hưởng văn hoá. Một trong những thành tựu lớn nhất của cư dân Bắc Sơn là việc họ phát minh ra kỹ thuật mài. Không có gì khó để chứng minh rằng đây là một phát minh hoàn toàn bản địa của người Bắc Sơn, bởi vì kỹ thuật mài đá Bắc Sơn có nguồn gốc từ sự xuất hiện sớm của chiếc bàn mài Bắc Sơn. Cho đến nay các nhà nghiên cứu chưa khẳng định chắc chắn bàn mài Bắc Sơn có chức năng gì. Có ý kiến cho rằng đó là chiếc bàn mài để mài các mũi tên bằng gỗ hay tre nứa. Cũng có ý kiến cho rằng đó là “một loại bùa” hoặc một vật “biểu trưng tộc thuộc” để phân biệt người Bắc Sơn với các nhóm người khác. Loại hiện vật này dù có chức năng gì đi nữa thì về phương diện kỹ thuật nó vẫn là một chiếc bàn mài. Những chiếc bàn mài sớm nhất xuất hiện ngay từ lớp đáy của hang Dơi (thuộc xã Vũ Lễ huyện Bắc Sơn, giáp giới với huyện Võ Nhai, Thái Nguyên là địa bàn phân bố chính của nhóm di chỉ Ngườm), cùng với sưu tập công cụ mảnh tước dạng Ngườm. Trong lớp này không có vỏ ốc suối, không có rìu mài lưỡi Bắc Sơn và tất nhiên là cũng không có gốm. Đã có ý kiến liên hệ lớp dưới của hang Dơi với lớp trên cùng của địa tầng Ngườm, và cho rằng đó là lớp tiền Bắc Sơn, có tuổi là 17.000 năm cách ngày nay [Trình Năng Chung 1991]. Ngoài những chiếc bàn mài xuất hiện trong lớp “tiền Bắc Sơn” ở hang Dơi, chưa có bằng chứng cho thấy chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn cũng xuất hiện sớm như vậy. Tuy là một loại hiện vật phổ biến trong mọi địa điểm thuộc văn hoá Bắc Sơn, nhưng những chiếc rìu mài lưỡi sớm nhất cũng chỉ mới tìm thấy ở lớp giữa của hang Dơi, có niên đại C14 là 11.000 ± 200 năm cách ngày nay. Lớp này có niên đại tương đương với một trong những niên đại C14 đã từng được cho sớm nhất của văn hoá Hoà Bình ở hang Sũng Sàm (11.365 ± 80 năm cách ngày nay). Còn niên đại C14 muộn của văn hoá Bắc Sơn ở hang Bó Nam (Kéo Phầy) là 7875 ± 100 năm cách ngày nay, tương đương với niên đại C14 muộn của văn hoá Hoà Bình ở hang Đắng (7580 ± 80 năm cách ngày nay). Cũng giống như vấn đề đa trung tâm xuất hiện nông nghiệp sớm, vấn đề kỹ thuật mài và những chiếc rìu mài không nên và không thể được khẳng định là đặc phẩm một lần xuất hiện sớm nhất tại Bắc Sơn hay Hoà Bình để rồi từ đó nó được truyền bá sang khu vực văn hoá kia. Nếu cố làm như vậy có nghĩa là chúng ta đã ngấm ngầm thừa nhận truyền bá luận trong khi lại luôn luôn công khai chống truyền bá luận. Bằng chứng khảo cổ học Việt Nam cũng ủng hộ cho quan điểm đa trung tâm xuất hiện kỹ thuật mài. Nếu ở lớp dưới hang Dơi (tiền Bắc Sơn) đã xuất hiện kỹ thuật mài thì tại Làng Vành và hang Xóm Trại (Hoà Bình) rìu mài lưỡi cũng đã được phát hiện trong lớp có niên đại tương đương từ 16.000 đến 17.000 năm [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 164]. Hoạt động kiếm sống của cư dân Bắc Sơn đương nhiên không thể thiếu săn bắt và hái lượm. Cho đến nay tất cả các di cốt động vật do con người săn bắt làm thức ăn trong văn hoá Bắc Sơn hầu hết là các giống loài hiện đại. Tuy sống trong hang động nhưng địa bàn tìm kiếm thức ăn của người Bắc Sơn là các thung lũng, các vạt rừng, các dòng sông suối trong khu vực sơn khối đá vôi và vùng phụ cận. Xương cốt động vật bỏ lại ở hang Kéo Phầy gồm có lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê giác, voi...vv. Cuộc khai quật hang Dơi cũng tìm thấy các động vật tương tự, gồm có khỉ, vượn, hươu, nai, lửng, lợn rừng, gà rừng, tê giác [Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986]. Những di cốt này thường có vết đập vỡ, phần còn lại là những mảnh xương ống. Một số mảnh có vết ám khói, có thể bị đốt qua lửa. Đây chính là những dấu tích thải bỏ sau bữa ăn của cư dân Bắc Sơn, và những bữa ăn như vậy chính là kết quả của các hoạt động săn bắt. Trong số đồ ăn này có những loại nhỏ như gà, khỉ, vượn, nhím. Nhưng cũng có những loài động vật lớn như lợn, trâu bò rừng, tê giác, voi. Có những động vật có tốc độ rất nhanh, có những loài thú rất hung dữ. Những đối tượng săn bắt như vậy thể hiện một hoạt động săn bắt rất đa dạng của cư dân Bắc Sơn. Tuy nhiên trong số các di vật còn lại các nhà nghiên cứu chưa tìm thấy các khí cụ săn bắt thú như mũi tên, mũi lao chẳng hạn. Có thể các khí cụ này được chế tác bằng tre gỗ nên đã mục nát. Ngoài ra các đối tượng săn bắt khác nhau như vậy gợi ý cho chúng ta thấy phải có những hình thức săn vây, săn đuổi để dồn thú vào các cạm bẫy, nơi đón lõng hoặc các khe sâu. Nhìn chung trong các di tích Hoà Bình và Bắc Sơn chưa gặp xương thú lớn còn đủ cả bộ của một cá thể; cũng không có bằng chứng cho thấy có những đàn thú lớn với số lượng một loài đông đảo. Điều đó cho thấy hoạt động săn bắt của cư dân ở đây là đa tạp, không nhằm riêng vào một giống loài nào [Nguyễn Khắc Sử 1983]. Hái lượm là một hoạt động tìm kiếm thức ăn hàng ngày của cư dân Bắc Sơn. Tuy nhiên chưa có một phân tích đáng tin cậy nào về nguồn di tích thực vật trong văn hoá Bắc Sơn. Vì vậy chúng ta chỉ có thể biết rõ các hoạt động thu lượm nhuyễn thể mà thôi. Do môi trường sông suối hạn chế, nên hoạt động thu lượm nhuyễn thể trong văn hoá Bắc Sơn không phong phú và điển hình như trong văn hoá Hoà Bình. Tầng văn hoá Bắc Sơn không dày và không đầy vỏ ốc như các hang động Hoà Bình. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận được tầm quan trọng của hoạt động khai thác nhuyễn thể trong cộng đồng người Bắc Sơn. Có thể coi Hang Làng Cườm là một di tích điển hình cho hoạt động này. Địa tầng hang Làng Cườm dày tới 3 m thì ở độ sâu 3 - 2.8m hoàn toàn là ốc núi. Từ độ sâu 2.8 m trở lên chỉ phát hiện được vỏ ốc suối, gồm các loài Vivipara Melania, Cyclophorus, Hybocystis, Hylix, Unio và Anodonta [Mansuy, H. 1925]. Cư dân Hang Dơi cũng thu lượm ốc núi miệng tròn (Cyclophorus fulguratus), ốc núi thân dài (Hybocystis crossei), ốc văn thân dài sống dưới suối (Antimelania). Như vậy đối tượng thu lượm nhuyễn thể của cư dân Bắc Sơn không chỉ là các loài ốc sống trên cạn, gần núi đá, mà chủ yếu là loài sống trong môi trường sông suối. Riêng loài trai thấy nhiều tại các di tích Phai Vệ II và địa điểm Mai Pha bên sông Kỳ Cùng gần thị xã Lạng Sơn. Một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận là chủ nhân văn hoá Bắc Sơn thuộc chủng tộc nào? Trước đây, do ảnh hưởng của quan điểm thực dân, học giả người Pháp R. Verneau cho rằng ba cốt sọ ở phố Bình Gia là thuộc giống người Cro-Magnon (Pháp). Còn H. Mansuy thì cho là cốt sọ di chỉ Đồng Thuộc vừa có nét Indonesien hiện đại, lại vừa có nét người Homo sapiens châu Âu. Đó là những người đã mang kỹ thuật mài đá từ châu Âu vào văn hoá Bắc Sơn. Quan điểm này đã bị các học giả Việt Nam bác bỏ hoàn toàn [Hà Văn Tấn 1962]. Đặc biệt tại di chỉ làng Cườm phát hiện được khoảng xấp xỉ 100 cá thể người. Cho đến nay kết quả nghiên cứu 18 sọ đã được công bố và được các học giả Pháp cho là thuộc các chủng Melanesien, Indonesien, Australoide, trong đó có 4 sọ thuộc hỗn chủng Australoide-Melanesien, Indonesien-Mongoloide, Indo-Melanesien, Negrito-Melanesien [Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969; H. Mansuy 1924, 1925; Mansuy et M. Colani 1925; Saurin 1939; Verneau 1909; ]. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam coi Indonesien là loại hình trung gian giữa Mongoloide và Australo-Negroide [Nguyễn Lân Cường 1988]. Nếu những giám định trên là đúng thì chủ nhân văn hoá Bắc Sơn là kết quả hoà huyết của nhiều nguồn cư dân khác nhau, và sự hỗn chủng diễn ra khá mạnh, trong đó yếu tố đen vẫn còn đậm nét hơn yếu tố vàng. Đối với tiền sử Việt Nam, cư dân Bắc Sơn đã có những đóng góp xứng đáng. Cùng với người Hoà Bình, chính họ đã kế tục truyền thống công cụ cuội của người Sơn Vi trước đó. Cùng với người Hoà Bình, họ đã tạo nên khâu nối giữa hai dòng kỹ thuật công cụ đá cuội Việt Nam, là Hoà Bình - Bắc Sơn, và đã mở ra một thời kỳ mới có tính chất cách mạng trong kỹ thuật tiền sử, đó là việc phát triển mạnh mẽ kỹ thuật mài trên nền tảng kỹ thuật công cụ mảnh tước kế thừa từ truyền thống mảnh tước của cư dân Ngườm, để có được những công cụ mài nhỏ nhắn, định hình và khá tinh xảo. Trong một mức độ nào đó, sự phát triển mạnh kỹ thuật mài của cư dân Bắc Sơn đã có tác dụng thúc đẩy và khơi dậy tiềm năng của các cư dân láng giềng, đặc biệt là người Soi Nhụ đồng thời ở khu vực núi đá vôi vịnh Hạ Long ngày nay. Văn hoá Soi Nhụ: Các nhà địa chất cho rằng cách ngày nay khoảng 18.000 năm về trước, lúc băng hà cuối cùng (Wurm muộn) phát triển thì mực nước biển Đông vẫn còn ở độ sâu từ 110 – 120 m so với mực nước biển hiện nay. Khi băng tan vào khoảng 17.000 năm trước thì mực nước đại dương dần dần dâng lên. Người ta gọi đây là đợt biển tiến Flandrian. Nhưng vào ranh giới của Pleistocene và Holocene cách ngày nay khoảng 10.000 năm, mực biển cũng mới chỉ đạt tới độ sâu từ 50 – 60 m so với mực biển hiện tại. Khoảng 7000 đến 8000 năm trước, mực biển dao động ở độ sâu khoảng 25 – 70 m. Từ 4500 – 5000 năm trước mực biển đạt tới cực đại, cao hơn mực biển hiện nay khoảng 5m [Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985]. Vậy là vào thời kỳ văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn, trên vùng đất rộng vài nghìn km2 của tỉnh Quảng Ninh và khu vực vịnh Hạ Long ngày nay, là một đồng bằng cổ. Trong khu vực này đã tồn tại một cộng đồng cư dân tiền sử lớn. Họ sống trong các hang động đá vôi trên một địa bàn hoàn toàn độc lập so với các cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn cùng thời và đã sáng tạo ra một nền văn hoá song song tồn tại với các văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn, đó chính là nền văn hoá Soi Nhụ. Tuy được định danh muộn (1997) [Hà Hữu Nga 1998; Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999; Hà Hữu Nga 2000 ; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001], nhưng trên thực tế các di tích đầu tiên của nền văn hoá Soi Nhụ đã được phát hiện từ trước đó 60 năm. Đầu năm 1938, nhà địa chất – khảo cổ học Thuỵ Điển J. G. Andersson lần đầu tiên đến nghiên cứu khảo cổ học tại khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Tại đây ông đã phát hiện được một loạt hang động chứa đầy vỏ ốc suối nước ngọt và ốc núi. Dù xuất thân là nhà địa chất học, nhưng Andersson đã không trả lời được câu hỏi: tại sao lại có những đống tích tụ vỏ ốc nước ngọt trong các hang động giữa biển khơi mênh mông này. Lúc đó khoa học địa chất chưa biết đến đợt biển thoái vào thời băng hà Wurm, nên ông không biết rằng khu vực vịnh Hạ Long thời đó còn là đất liền. Vì vậy ông gọi sự tồn tại của vỏ ốc nước ngọt trong các hang động ở đó là một “bí ẩn” và cho rằng người tiền sử đã vượt biển vào đất liền bắt ốc về ăn. Còn đống vỏ ốc nước ngọt khổng lồ tại hang Đục (nay là hang Tiên Ông) thì được Andersson giải thích là cư dân cổ đã vượt biển sang đảo Cát Bà bắt về. Cùng năm đó, Madelaine Colani cũng phát hiện được hang Đồng Cẩu (làng Yên Mỹ, nay thuộc Hoành Bồ) có tích tụ ốc suối, bà cho đó là “đống rác bếp Bắc Sơn” vì ở độ sâu 1.2m, Colani đã tìm được ba chiếc rìu mài lưỡi. Ngoài ra bà còn phát hiện được một di tích vẫn được các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi theo E. Saurin là “Hoà Bình ngoài trời” tại Giáp Khẩu, nay thuộc phường Hà Khánh thành phố Hạ Long. Ba mươi năm sau phát hiện của Andersson và Colani, vào năm 1967 các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiến hành khai quật địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc huyện đảo Vân Đồn ngày nay. Ba nhóm di vật – tích tụ tầng văn hoá, đồ đá mài lưỡi, và đồ gốm – cho thấy Soi Nhụ bao gồm hai văn hoá thuộc hai thời đại hoàn toàn khác nhau. Hang giữa chứa trầm tích Pleistocene, các công cụ đá, những chiếc nạo bằng mảnh tước cuội, rìu mài lưỡi đơn sơ cùng với vỏ ốc nước ngọt đã chứng tỏ thời gian ấy khu vực này vẫn còn là đất liền. Các kết quả xác định niên đại C14 từ mẫu nhuyễn thể nước ngọt lấy từ hang Giữa cũng cho thấy các di tích văn hoá ở đây có niên đại Pleistocene. Mẫu có niên đại sớm là 15.650 ± 180 năm cách ngày nay. Mẫu có niên đại muộn cũng tới 12.460 ± 60 năm cách ngày nay. Tuy nhiên đó chưa phải là các niên đại C14 sớm nhất trong các hang động thuộc văn hoá Soi Nhụ. Tại mái đá Ông Bẩy (Cát Bà), một mẫu C14 vỏ ốc núi từ tầng văn hoá có niên đại 16.630 ± 120 năm cách ngày nay. Sớm nhất là mẫu ốc núi tại hang áng Mả (Cát Bà) có niên đại 25510 ± 220 năm cách ngày nay, còn sớm hơn cả những niên đại sớm nhất của các di chỉ Hoà Bình, và thậm chí còn sớm hơn cả niên đại sớm nhất của di chỉ Ngườm. Vì vậy về phương diện thời gian, những bằng chứng niên đại rất sớm đó đã giúp khẳng định rằng cư dân tiền sử khu vực văn hoá Soi Nhụ là những nhóm người tại chỗ, không phải là hậu duệ của các nhóm người Hoà Bình, Bắc Sơn, vì vậy không thể coi văn hoá Soi Nhụ đơn thuần chỉ là “nhóm di tích sau Hoà Bình - Bắc Sơn”. Hơn nữa, về phương diện không gian, “nhóm di tích” đó phân bố trên một diện tích quá rộng (hơn 2000 km2), rộng hơn cả địa bàn phân bố của văn hoá Bắc Sơn. Đó là một vùng trải suốt từ Kinh Môn (Hải Dương), Đông Triều và Yên Hưng (Quảng Ninh); từ Thuỷ Nguyên ra đến Cát Bà (Hải Phòng); bao gồm từ vịnh Hạ Long vào đến Hoành Bồ, Cẩm Phả và vươn ra toàn bộ khu vực vịnh Bái Tử Long và huyện đảo Vân Đồn. Vào giai đoạn muộn, người Soi Nhụ đã phát triển nền văn hoá của mình lên cả khu vực Ba Chẽ, Quảng Hà, tối thiểu là cho đến Móng Cái. Cho đến nay, dù thống kê chưa đầy đủ thì số lượng di tích của nền văn hoá này cũng đã lên đến hơn 30 địa điểm hang động. Về lối sống, so với các nhóm người thuộc các văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn, người Soi Nhụ sống kề với biển. Có thể nói rằng người Soi Nhụ là các nhóm cư dân tiếp xúc với biển đầu tiên trong số tất cả các nhóm cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam vào giai đoạn cuối Pleistocene - đầu Holocene. Nếu như khi bước vào đầu thời kỳ Holocene các nhóm người Hoà Bình và Bắc Sơn phát triển theo định hướng làm nông thì người tiền sử Soi Nhụ lại lựa chọn một con đường hoàn toàn khác. Lúc đó tối đa thì đường bờ biển cũng chỉ còn cách đảo Cát Bà 40 – 50 km về phía đông. Và đến khoảng 7000 – 8000 năm trước, đường bờ biển còn cách đảo Cát Bà ngày nay khoảng 15 - 20 km. Lựa chọn tối ưu của người Soi Nhụ là sống với biển, trở thành cư dân biển và khai thác biển. Không ai khác, người Cái Bèo lớp sớm ở đảo Cát Bà chính là hậu duệ trực tiếp của cư dân Soi Nhụ, và họ là các tổ tiên sớm nhất của các cư dân biển Việt Nam. Còn một vấn đề rất quan trọng khác trong các nghiên cứu tiền sử về ngôn ngữ, tộc thuộc, và vì vậy mà liên quan đến cả những vấn đề nhậy cảm sắc tộc, đó là vấn đề nguồn gốc của các cư dân sử dụng ngôn ngữ Nam Đảo (Malayo-Polynesian). Hầu hết các nhà tiền sử New Zealand và Úc đều cho rằng các cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo – trong đó có người Champa, người Raglay, người Chu Ru, người Ê Đê và người Jarai ở Vịêt Nam - có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc, mà cụ thể là từ đảo Đài Loan. Người đi tiên phong trong việc đề xướng và chứng minh cho lý thuyết này là Peter Bellwood. Ông cho rằng sự lan toả chủ yếu của nền văn hoá Đá mới từ Đài Loan ra toàn bộ Đông Nam Á Hải đảo đã diễn ra vào thời kỳ sau 4000 năm cách ngày nay. Và chính những cư dân này đã đem ngôn ngữ Malayo-Polynesian đến các khu vực khác nhau thuộc Đông Nam Á [bellwood P. 1997]. Mô hình truyền bá văn hoá của Bellwood không đủ sức thuyết phục, vì ai cũng biết rằng trước 4000 năm rất lâu, toàn bộ Đông Nam Á hải đảo đã có một nền văn hoá hậu kỳ đá cũ và sau đó phát triển thành đá mới. Vì vậy không nhất thiết phải có sự truyền bá văn hoá từ vùng khác đến thì lịch sử tộc thuộc và ngôn ngữ ở đây mới xuất hiện và phát triển. Còn Đông Nam Á lục địa thì dựa trên nền tảng văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn và Soi Nhụ đã có rất nhiều con đường đá mới hoá khác nhau để phát triển nông nghiệp, ngôn ngữ và lịch sử tộc thuộc của mình. Đối với trường hợp văn hoá Soi Nhụ, và kế thừa nó là văn hoá Cái Bèo và văn hoá Hạ Long, nếu theo truyền bá luận như Bellwood, người ta có thể vạch ra một con đường ngược lại. Bước vào sơ kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 6500 đến 6000 năm, khi mực nước biển Đông còn thấp, các cư dân Cái Bèo, hậu duệ của văn hoá Soi Nhụ chuyên khai thác biển đã men theo các dải ven biển tiến về các đảo vùng Đông Á, trong đó có Đài Loan. Tuy nhiên ngày nay, các mô hình lý giải tiền sử theo truyền bá luận đơn tuyến đã tỏ ra là không phù hợp với thực tế dữ liệu. Và nó đã được thay thế bằng lý thuyết tương tác mạng và phát triển nội sinh về phương diện văn hoá. Vì vậy sự phát sinh nông nghiệp và ngôn ngữ của Đông Nam Á hoàn toàn có thể được lý giải là những quá trình phát triển nội sinh trong mối tương tác, ảnh hưởng qua lại với các khu vực xung quanh. Tác động ảnh hưởng qua lại đó thể hiện rất rõ trong đặc điểm nhân học thể chất của các chủ nhân văn hoá Soi Nhụ. Tại Hang Soi Nhụ đã phát hiện được ít nhất là 5 cá thể người, trong đó có 3 nữ và hai nam. Qua các chỉ số cốt sọ, người cổ Soi Nhụ rất khoẻ mạnh, họ có nhiều nét gần gũi với người Quỳnh Văn thể hiện qua xương sên. Đó là loại xương ngắn và cao, với chỉ số cao – dài là 55.6, gần với chúng Negrito và người Polynesian quen thuộc tại các vùng Đông Nam Á và châu Đại Dương. Trong khi đó các số đo hàm lại gần với người Quỳnh Văn và tương đồng với chủng Mongoloid. Các đặc điểm trên giúp chúng ta có thể dự đoán về một quá trình hỗn huyết giữa các nhóm Đông Nam Á và Đông Á trong giai đoạn nước biển Đông còn rất thấp và có những chiếc cầu đất nối liền giữa các khu vực ngày nay đã bị biển cả chia cắt. Lâu nay trong tiền sử Việt Nam, hai nền văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn vẫn được coi là hai cội nguồn trực tiếp duy nhất của các văn hoá đá mới, và cũng là cội nguồn trực tiếp của cuộc cách mạng đá mới, cuộc cách mạng nông nghiệp trên đất nước ta. Đó là con đường của văn hoá Đa Bút ở Thanh Hoá; con đường của văn hoá Quỳnh Văn ở Nghệ An – Hà Tĩnh; con đường Bàu Dũ ở Quảng Nam; và con đường Cái Bèo ở Hải Phòng – Quảng Ninh . Sự tồn tại khách quan của văn hoá Soi Nhụ đồng thời với các văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn là một điểm nhấn quan trọng, một cơ sở để lý giải con đường phát triển của văn hoá Cái Bèo và tiếp đó là văn hoá Hạ Long trong khu vực cửa ngõ vùng Đông Bắc nước ta. (Còn nữa….)
-
Tiền sử Việt Nam (I) Người viết: Hà Hữu Nga Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng: 1. Bản draft này được lưu ở đây với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa. 2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ. 3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS. Trần Quốc Vượng đồng ý. 1. Thời đại đá cũ, sự phát triển từ Người vượn đến Người hiện đại ở Việt Nam Trong lịch sử trái đất, thời gian hình thành và phát triển của con người được gọi là kỷ Nhân sinh, các nhà địa chất gọi đó là kỷ thứ Tư và chia thành hai thế: Cánh tân (Pleistocene) và Toàn tân (Holocene); về phương diện lịch sử, buổi bình minh của thời tiền sử của nhân loại chính là sự khởi đầu của kỷ nhân sinh, và kết thúc với sự ra đời của chữ viết. Về cơ bản thời tiền sử bao gồm thời đại đá và thời đại đồ đồng. Hầu hết thời đại đá cũ nằm trong thế Cánh tân, từ thời đại đá mới qua thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt cho đến nay thuộc vào thế Toàn tân. Thế Cánh tân được chia thành ba giai đoạn từ sớm đến muộn: Sơ kỳ Cánh tân từ khoảng 1.800.000 đến 700.000 năm cách ngày nay. Trung kỳ Cánh tân từ khoảng 700.000 năm đến 125.000 năm cách ngày nay. Hậu kỳ Cánh tân từ khoảng 125.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay. Và ranh giới 10.000 năm thường được các nhà khảo cổ học coi là mốc kết thúc thời đại đá cũ, mở đầu thời đại đá mới. Thời đại đồ đồng bắt đầu từ khoảng 6000 năm trước và kết thúc vào khoảng 4000 – 3000 năm trước. Tiếp đó là thời đại đồ sắt và thời kỳ lịch sử của nhân loại. Vấn đề tiến hoá của muôn loài nói chung và con người nói riêng lần đầu tiên được đề cập một cách khoa học trong cuốn Nguồn gốc các loài (The Origin of Species) của Charles Darwin, xuất bản năm 1859. Theo ông thì trong bất kỳ loài nào các cá thể cũng có nhiều cách biến đổi, nhiều cá thể được sinh ra, nhưng chỉ có ít cá thể tồn tại được, là nhờ ở những đặc trưng riêng của chúng. Đó là “những cá thể thích nghi tốt nhất với môi trường sống của mình, và chúng truyền các đặc trưng riêng đó cho hậu duệ của mình. Vì vậy, nhiều loài mới xuất hiện, có những đặc trưng thích ứng tốt nhất với môi trường của chúng” [bowler S. 2001]. Qúa trình tiến hoá của người vượn trong khu vực và trên thế giới cũng có thể được hình dung như vậy. Công cuộc nghiên cứu quá trình tiến hoá của người Vượn tại khu vực Đông Nam á do Eugene Dubois khởi xướng. Ông là một nhà khảo cổ học Hà Lan, làm việc tại Đại học Leiden. Năm 1887, ông đến Sumatra (Indonesia), và đã phát hiện được một khúc xương đùi, nằm cùng với một chỏm sọ và những chiếc răng hàm ở vùng Trinil bên bờ sông Solo. Việc nghiên cứu khúc xương đùi khiến Dubois đi tới kết luận: sinh vật này đã biết đứng thẳng như một con người, vì thế Dubois gọi nó là Pithecanthropus erectus – Người vượn đi thẳng. 21 năm trước khi Dubois đến Indonesia, vào năm 1856, người ta đã tìm thấy những di cốt hoá thạch người sớm tại một vài hang động thuộc thung lũng Neander ở Đức và chúng được gọi là người Neanderthal. Giai đoạn tiếp theo, một loại hình hiện đại hơn đã được phát hiện tại Cro-Magnon nước Pháp. Cái tên người Cro-Magnon đã ra đời. Vậy là thuyết tiến hoá của Charles Darwin cùng với các phát hiện trên đã giúp cho các nhà khảo cổ và cổ nhân học xây dựng dần dần một lịch sử tiến hoá người, trong đó, căn cứ vào niên đại địa chất, Dubois cho rằng Pithecanthropus erectus sống cách ngày nay khoảng 500.000 năm. Các nhà khoa học khác cho rằng Homo neanderthalensis là dạng người sớm, sống cách ngày nay vào khoảng từ 200.000 đến 100.000 năm và sau đó đã tiến hoá thành người hiện đại Cro-Magnon - Homo sapiens (Người khôn ngoan) vào thời Băng hà cuối cùng. Vào năm 1924, một cốt sọ trẻ em đã được phát hiện tại Tauong, Nam Phi. Nhà giải phẫu học Raymond Dart nghiên cứu hoá thạch này và đặt tên cho nó là Autralopithecus Africanus (Người vượn Phương nam thuộc Châu Phi). Tiếp theo, vào năm 1930, Robert Brown cũng phát hiện được tại Nam Phi một hoá thạch khác. Ông gọi nó là Paranthrobus robustus, và sau đó được thừa nhận là Australopithecus robustus (Vượn người Phương nam Lực lưỡng). Trước đó, vào năm 1927, tại hang Chu Khẩu Điếm, gần Bắc Kinh (Trung Quốc) một đoàn nghiên cứu hỗn hợp gồm các học giả Thuỵ Điển, Canada, áo, Pháp, Mỹ, và Trung Quốc đã phát hiện được một răng hàm hominid (họ người). Đến năm 1930, một sưu tập hoá thạch đã được phát hiện tại hang này, gồm có 5 cốt sọ gần như nguyên vẹn cùng nhiều mảnh xương khác. Các nhà khoa học đã đặt tên cho chúng là Sinanthropus pekinensis (Người vượn Trung Quốc hay Người vượn Bắc Kinh). Ngày nay tập hợp này cũng được xếp vào Homo erectus. Ngoài ra, thập kỷ 30 của thế kỷ XX dưới sự chỉ đạo khoa học của Ralph von Koenigswald, người ta đã phát hiện được hoá thạch Pithecanthropus khác tại Gia Va (Indonesia) thuộc khu vực Ngandong, Sangiran và Mojokerto. Các phát hiện quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới II tại Châu Phi trước hết thuộc về công lao của gia đình Leakey tại Kenia và Tanzania, trong đó có hoá thạch người vượn tại Olduwai. Loài này sớm hơn Homo erectus, được đặt tên là Homo habilis (Người khéo léo), với niên đại vào khoảng 1.6 triệu năm trước. Cùng với các hoá thạch này, còn có các công cụ đá ghè đẽo thô sơ. Với các phát hiện tại Đông Phi, niên đại sớm của con đã được đẩy lên đến khoảng từ 2 đến 2.5 triệu năm. Kỹ nghệ đá có niên đại tương đương với Homo erestus cũng được phát hiện tại vùng Acheul nước Pháp và chúng được gọi tên là kỹ nghệ Acheulian. Đó là những chiếc rìu tay, những hòn ghè, cùng một số mảnh tước thô. Kỹ nghệ này phân bố trong một khu vực rộng lớn từ Châu Phi, Châu Âu, một số khu vực tại Trung Đông và ấn Độ. Các công cụ Acheulian tiếp tục tồn tại đến khoảng 100.000 năm trước và không biến đổi nhiều về hình dáng và kỹ thuật chế tác. Một trong những vấn đề khoa học liên quan đến lịch sử tiến hoá người được tranh luận sôi nổi nhất là sự xuất hiện của người hiện đại. Theo nhà giải phẫu học người Đức Franz Weidenreich, người lãnh đạo khai quật Chu Khẩu Điếm từ 1935 đến 1937 thì có một dòng tiến hoá liên tục từ Pithecanthropus đến Homo soloensis (Người Solo ở Indonesia) [Weidenreich, F. 1943]. Quan điểm của Weidenreich đã được nhiều người chấp nhận và họ đã phát triển thành mô hình phát tán của Homo erectus từ Châu Phi ra khắp Cựu Thế giới, gồm có châu Phi, Châu á và Châu Âu. Đối với Châu á, Homo erectus Chu Khẩu Điếm được coi là cội nguồn của đại chủng Mongoloid, còn Homo erectus Gia Va thì tiến hoá qua dạng người Ngandong để trở thành Australoid. Sau đó loại hình Mongoloid đã dần dần đẩy lùi người Australoid ở Đông Nam Á. Còn ở Châu Âu thì Homo erectus phát triển qua người Neanderthal để trở thành tổ tiên của người Châu Âu hiện đại, đó là loại hình Cro-Magnon - Homo sapiens (Người khôn ngoan). Trong những năm gần đây, các nhà sinh học phân tử đã sử dụng phương pháp nghiên cứu DNA (deoxyribonuclei acid) trong đó loại gen di truyền sinh học xác định sự biến đổi của DNA với một tốc độ không đổi, tạo ra một loại “đồng hồ phân tử”. Khi so sánh DNA ở các thành viên thuộc những cư dân khác nhau thì có thể xác định được sự chênh lệch số lượng các DNA đó, người ta cũng tính toán được khoảng thời gian cho sự chênh lệch đó. Để xác định quá trình tiến hoá của con người, các nhà khoa học đã sử dụng DNA lấy từ mitochondria (ty thể, thể hạt sợi) chỉ di truyền theo dòng nữ mà không lấy từ các nhiễm sắc thể. Với phương pháp này, các nhà nghiên cứu kết luận rằng tất cả các con người hiện đại đều sinh ra từ một tổ tiên chung ở Châu Phi trong khoảng 200.000 năm trước [bowler, Sandra 2001, 62 – 63]. Tuy nhiên tư liệu hoá thạch người dường như lại không hoàn toàn ủng hộ cho quan điểm một trung tâm phát sinh người duy nhất này. Di tích hoá thạch người Vượn ở Việt Nam Di tích hoá thạch người vượn ở Việt Nam được phát hiện và khai quật từ lớp trầm tích màu đỏ tại các hang đá vôi Thẩm Khuyên và Thẩm Hai thuộc xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Hai hang này nằm ở độ cao khoảng 20 m so với bề mặt thung lũng và cách nhau khoảng 150m. Hang Thẩm Hai được phát hiện và thám sát năm 1964, tìm thấy 1 chiếc răng hoá thạch. Năm sau Hang Thẩm Khuyên được khai quật và đã phát hiện được 9 răng hoá thạch. Các nhà khoa học đã đi đến kết luận rằng đây là những chiếc răng hoá thạch của người vượn. Cùng với các hoá thạch người còn có di tích xương cốt động vật thuộc Trung kỳ Cánh Tân. Từ các tàn tích còn lại trong các hang động đá vôi, các nhà khoa học cho biết thế Cánh tân ở Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam tồn tại các loài vật, trong đó có những động vật lớn như vượn khổng lồ (Gigantopithecus blacki), đười ươi (Pongo pygmaeus pygmaeus)...vv; voi cổ (Palaeoloxodon namadicus); voi răng kiếm (Stegodon orientalis); lợn vòi lớn (Tapirus (Megatapirus) augustus); tê giác (Rhinoceros sinenesis); gấu tre lớn (Ailuropoda melanoleuca fovealis)...vv. Quần động vật trên được đánh giá là phong phú hơn quần động vật hiện tại, và cho đến nay nhiều loài đã bị tuyệt diệt. Tuy chưa phát hiện được công cụ của người vượn và cũng chưa tìm được dấu vết của con người để lại trên xương cốt động vật hoá thạch, nhưng các nhà khoa học cho rằng những loài trên chắc chắn là đối tượng săn bắt của người vượn nơi đây. Thậm chí một học giả Mỹ còn cho rằng Người vượn (Homo erectus) và Vượn khổng lồ (Gigantopithecus) đã cạnh tranh sinh thái với nhau và Vượn khổng lồ đã bị Người vượn tiêu diệt [Ciochon R.L, 1988]. Sơ kỳ thời đại đá cũ Việt Nam Di tích Núi Đọ, Quan Yên, và Núi Nuông: các di tích này phân bố tại khu vực hữu ngạn Sông Chu, gần ngã ba sông Chu và sông Mã, thuộc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hoá, được phát hiện trong thời gian từ năm 1961 đến năm 1980. Theo các nhà địa chất thì các ngọn núi này được cấu tạo chủ yếu bằng đá ba dan (basalt) thuộc đại Trung sinh (Mézozoique) có niên đại khoảng 150-200 triệu năm cách ngày nay. Hiện vật đá của nhóm di tích này là những công cụ chặt thô (thuật ngữ tiếng Anh là choppers), các mảnh tước thô loại hình Cơ lác tôn (Clacton), các hạch đá loại hình A Sơn (Acheulian) cũng rất thô sơ được làm từ chính nguồn nguyên liệu đá ba dan được khai thác tại chỗ. Chúng được coi là những công cụ đơn giản nhất do những người vượn sơ kỳ đá cũ chế tác. Nhóm di tích Núi Đọ được coi là loại hình di chỉ xưởng, vừa là nơi con người sinh sống, vừa là nơi họ khai thác nguyên liệu và chế tác công cụ tại chỗ. Nhưng gần đây đã có những ý kiến khác nhau về sưu tập hiện vật, và niên đại của nhóm di tích Núi Đọ. Việc xác định niên đại chỉ dựa vào loại hình học hiện vật đá mà không có các bằng chứng cổ nhân, cổ sinh hoặc địa tầng đã làm cho nhiều nhà nghiên cứu băn khoăn, một số người đã đặt lại vấn đề về nhóm di tích này. Bên cạnh các hiện vật sơ kỳ đá cũ điển hình, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được cả những phác vật tiêu biểu của thời đại đồ đồng. Nhưng dẫu sao thì “nếu so sánh với những nền văn hoá đã biết trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng kỹ nghệ Núi Đọ khác và cổ hơn các kỹ nghệ Ngườm, Sơn Vi và Hoà Bình” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 60-63]. Các dấu ấn tiền sử thời sơ kỳ đá cũ trên đất nước ta còn được tìm thấy cả ở miền Đông Nam Bộ. Các địa điểm này do E. Saurin, nhà nghiên cứu người Pháp phát hiện. Đó là Hàng Gòn VI, Dầu Giây, đồi Sáu Lé, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt, Gia Tân, Phú Qúi (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc tỉnh Sông Bé cũ). Các địa điểm này phân bố rải rác trên một khu vực hoạt động của các núi lửa cổ. Riêng tại địa điểm Hàng Gòn VI, đã phát hiện được 15 công cụ đá, trong đó Saurin thấy có 3 rìu tay A Sơn (Acheulian) điển hình. Từ năm 1975 trở đi, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng phát hiện được loại hình hiện vật này tại xã Gia Tân, huyện Thống Nhất (Đồng Nai) [Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977], địa điểm An Lộc, huyện Lộc Ninh (Sông Bé), và các địa điểm Núi Đất, Cẩm Tiên, Phú Qúi [Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978]. Về mặt loại hình và kỹ thuật, những chiếc rìu tay sơ kỳ đá cũ miền Đông Nam Bộ rõ ràng là tiến bộ hơn, định hình hơn và nhỏ gọn hơn các công cụ chặt thô nhóm di tích Núi Đọ. Ngoài ra, dấu ấn ban đầu của thời sơ kỳ đá cũ còn được phát hiện ở Tây Nguyên. Các nhà nghiên cứu Viện Khảo cổ học đã công bố một số công cụ đá cũ chế tác từ đá opal có nguồn gốc núi lửa, được tìm thấy ở xã Xuân Phú, huyện Ea Kar, tỉnh Đak Lak. Việc xác định niên đại bằng cách so sánh loại hình học, đã giúp các nhà khảo cổ học đi tới kết luận sơ bộ nó có tuổi tương đương với sưu tập Jangkwanli thuộc tỉnh Jincheon (Trung Hàn Quốc) vào khoảng 85.000 - 125.000 năm cách ngày nay [Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004]. Ngoài loại nguyên liệu có nguồn gốc đá lửa, ở Tây Nguyên còn tìm thấy nhiều gỗ hoá thạch. Đây là loại nguyên liệu quí mà người tiền sử thời sơ kỳ đá cũ ở đất nước Miến Điện đã sử dụng để chế tác công cụ. Đó cũng là một gợi ý bổ ích để các nhà khảo cổ học Việt Nam định hướng tìm tòi các sưu tập công cụ sơ kỳ đá cũ Tây Nguyên từ loại nguyên liệu này. Càng ngày các nhà nghiên cứu càng phát hiện được thêm bằng chứng cho thấy khả năng đã có một quá trình tiến hoá từ vượn thành người vượn rồi trở thành người Khôn ngoan trên chính đất nước chúng ta. Theo quan điểm của các nhà nhân học nhận thức, lịch sử phát triển của con người là lịch sử phát triển của hành vi và trí tuệ thông qua sự phát triển của cơ thể và hệ thống thần kinh. Trong một cuốn sách đang có ảnh hưởng lớn tại các nước Âu Mỹ hiện nay, nhà nghiên cứu người Canada Merlin Donald cho rằng trong hai triệu năm qua, loài người đã trải qua ba giai đoạn [Donald, M. 1991]. Giai đoạn đầu tiên là quá trình các hominid (họ người) tách ra khỏi các giống vượn khác, và những con người đầu tiên đã biết sử dụng cơ thể của họ để bắt chước những người già có nhiều kinh nghiệm hơn và các thành viên tinh khôn hơn của nhóm. Giai đoạn thứ hai con người phát triển các hệ thống cơ thể về mặt giải phẫu và hệ thống thần kinh. Điều đó cho phép họ sử dụng ngôn ngữ nói để sáng tạo ra và kể lại các sự kiện, các câu truyện với đồng loại. Giai đoạn thứ ba con người hiện đại xuất hiện và họ sáng tạo ra các hệ thống ký hiệu và biểu tượng để lưu giữ thông tin vào ký ức và phát triển các loại hình văn hoá phức tạp, trong đó có nghệ thuật và khoa học. Lý giải của Donald được coi là một lý thuyết lớn và được rất nhiều học giả trên thế giới cho là một phác thảo hợp lý về nguồn gốc và lịch sử phát triển của loài người [Gardner, H. 1997]. Mô hình ba giai đoạn phát triển nhận thức tiền sử của Merlin Donald đã được các nhà khảo cổ học khai thác và ứng dụng vào lý giải sự phát triển của các loại hình tư duy tiền sử. Trong số đó nổi tiếng nhất là công trình của giáo sư khảo cổ học người Anh Steven Mithen [Mithen, Steven J. 1996]. Trong cuốn sách của ông, tương ứng với giai đoạn I của Donald là quá trình phát triển từ loại hình Australopithecus thành Homo habilis. Bước phát triển đó diễn ra từ 4.500.000 năm đến 1.800.000 năm cách ngày nay. Tương ứng với giai đoạn II của Donald là sự xuất hiện của Homo erectus từ đầu Pleistocene, cách đây 1.800.000 năm đến 100.000 năm trước. Trong giai đoạn này, não của Homo erectus lớn hơn và Những người đi thẳng ấy đã chế tác được những chiếc rìu tay đầu tiên vào khoảng 1.400.000 năm trước. Tương ứng với giai đoạn III của Donald là sự ra đời của Người khôn ngoan Homo sapiens sapiens – loại hình người hiện đại - cách ngày nay vào khoảng 100.000 năm. Theo các cách phân kỳ tiền sử như trên thì người Núi Đọ, Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Xuân Lộc...vv, thuộc trung kỳ của giai đoạn đoạn II. Đó là người Homo erectus ở giai đoạn phát triển cao. Họ không còn đơn giản là những bầy người nguyên thuỷ nữa, mà đã là các cộng đồng có tổ chức chặt chẽ, được phân chia địa vực rõ ràng. Di chỉ xưởng Núi Đọ có thể là một bằng chứng cho sự phát triển đó. Đây có thể là một trung tâm cung cấp nguyên liệu và các dạng phác vật công cụ đá ba dan cho một vùng rộng lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Nhóm di tích Núi Đọ cũng có thể gợi ý cho chúng ta về một mô hình tương tự tại khu vực Xuân Phú (huyện Ea Kar, Đak Lak) nếu các nghiên cứu tiếp theo có thể làm rõ được niên đại địa tầng, nguồn nguyên liệu đá opal và các công cụ đá thô sơ ở đó. Nếu đúng như vậy thì đây có thể là nơi cung cấp nguyên liệu và phác vật công cụ cho cả vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và một phần Đông Nam Bộ ngày nay. Về phương diện cấu trúc xã hội, chưa có bất cứ bằng chứng nào cho thấy các Homo habilis đã xây dựng “những ngôi nhà nhỏ, vừa đủ chỗ cho một đôi vợ chồng và các con nhỏ” cả. Cách hình dung về một cấu trúc xã hội Homo habilis như vậy là sự ngoại suy từ cấu trúc của mô hình gia đình hạt nhân hiện đại. Ngay cả các Homo erectus phát triển như cộng đồng người Núi Đọ cũng không có một cấu trúc gia đình hạt nhân như vậy. Trong thực tế, cấu trúc gia đình là một dạng cấu trúc xã hội, vì vậy khái niệm “gia đình hạt nhân” và “gia đình mở rộng” đều không phản ánh đúng và đầy đủ thực chất đa dạng của cấu trúc gia đình. Với tư liệu đã biết cho đến bây giờ, chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng trong giai đoạn Homo erectus không có hình thức cấu trúc gia đình hạt nhân. Các cộng đồng tiền sử sơ kỳ đá cũ có thể đã manh nha một hình thức thị tộc nào đó, nhưng không chắc chắc chỉ có hình thức gia đình mẫu quyền. Ngay cả khái niệm chế độ mẫu hệ hay mẫu quyền cũng là một nội hàm đa tạp. Đó không chỉ đơn giản là quyền của người mẹ, mà theo nữ sử gia Riane Eisler thì quyền lực thực sự lại nằm trong tay những người đàn ông phụ tá cho những người đàn bà mẫu quyền [Eisler R. 1987]. Ngày nay các nhà nghiên cứu có khuynh hướng nhìn nhận cấu trúc xã hội theo quan điểm đa mô hình, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, môi trường sống và truyền thống của từng cộng đồng. Chắc chắn rằng các cộng đồng người Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Núi Đọ, Xuân Lộc và Xuân Phú sống trong những điều kiện môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Vì vậy cấu trúc xã hội của họ cũng không hoàn toàn đồng nhất. Người Thẩm Hai, Thẩm Khuyên sống trong các hang động và mái đá thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn có thể là những nhóm nhỏ từ 15 – 20 người. Trong điều kiện rừng núi và thung lũng chia cắt khó khăn cho hoạt động kinh tế như vậy, người ta sống chủ yếu bằng săn bắt thú rừng lớn. Vì vậy quyền điều hành xã hội ấy có thể thuộc về những người đàn ông. Trong khi đó Núi Đọ là một di chỉ xưởng, việc khai thác và chế tác đá có thể tạo ra cho họ một cuộc sống ổn định hơn thông qua giao lưu, trao đổi thì vai trò của người phụ nữ là rất lớn. Vì vậy cộng đồng xã hội ở đây có thể là những nhóm khoảng 30 – 35 người và đang ở giai đoạn manh nha một hình thức thị tộc nguyên khởi. Còn những cộng đồng người Xuân Phú thì lại có thể di động kiếm sống theo mùa trên khắp vùng Tây Nguyên rộng lớn với loại hình xã hội mẫu quyền sơ khai có khoảng 45 - 50 người, nhằm duy trì sợi dây cố kết cộng đồng. Hậu kỳ thời đại đá cũ Việt Nam Lịch sử tiến hoá liên tục từ Người vượn đến người Người Khôn ngoan (Homo sapiens) giai đoạn sớm, và sau đó là Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tại Việt Nam còn được phát hiện ở các địa điểm Hang Thẩm ồm (Nghệ An) và Hang Hùm (Yên Bái). Những người khai quật Thẩm ồm định niên đại cho các hoá thạch phát hiện ở đây là từ 140.000 đến 250.000 năm cách ngày nay. Niên đại 250.000 năm được xác định dựa vào sự có mặt của một chiếc răng cửa được cho là của vượn khổng lồ (Gigantopithecus) [Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977]. Nhưng thực ra chiếc răng cửa ấy lại là của Pongo chứ không phải của vượn khổng lồ [Vũ Thế Long 1982]. Hơn nữa quần động vật Thẩm ồm không khác nhiều so với so với Hang Hùm nên niên đại của nó có thể vào khoảng cuối Trung kỳ hoặc Hậu kỳ Cánh tân. Niên đại hoá thạch Hang Hùm được xác định vào khoảng 70.000 – 60.000 năm cách ngày nay [Nguyễn Lân Cường 1988]. Các hoá thạch Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tìm thấy ở hang Thung Lang (Ninh Bình) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn), có niên đại vào khoảng 30.000 năm cách ngày nay [Nguyễn Lân Cường 1992]. Giai đoạn này Việt Nam và khu vực trở nên lạnh dữ dội. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi to lớn về môi trường sinh thái. Một số loài bị tuyệt diệt, và con người cũng phải thay đổi đáng kể phương thức sống của mình [Hà Văn Tấn 1984]. Hệ thống văn hoá Ngườm: hệ thống này bao gồm các hang động hầu hết phân bố ở phía tây nam của Sơn khối đá vôi Bắc Sơn, nằm trong địa phận tỉnh Thái Nguyên và một phần tỉnh Lạng Sơn. Đó là các hang Miệng Hổ, Nà Khù và Mái đá Ngườm (Thái Nguyên). Nằm trong hệ thống này còn có thể kể đến các hang Nà Cooc, Nà Nông (Cao Bằng), Lạng Nắc, lớp dưới Hang Dơi (Lạng Sơn)...vv. Hệ thống văn hoá này được phát hiện và khai quật lần đầu vào năm 1972 tại hang Miệng Hổ, còn gọi là hang Phiêng Tung. Hang Nà Khù, xã Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên cũng được thám sát trong đợt này. Đặc biệt là năm 1980, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã phát hiện thêm được khoảng 10 địa điểm khác xung quanh khu vực hang Miệng Hổ, trong đó quan trọng nhất là Mái Đá Ngườm. Địa điểm khảo cổ học này đã được khai quật ngay sau đó vào các năm 1981, 1982. Địa tầng di chỉ Ngườm có ba mức văn hoá phát triển liên tục từ sớm đến muộn. Mức I, sớm nhất nằm ở độ sâu từ 1.10 đến 1.45 m, cấu tạo bằng lớp sét vôi vàng nhạt, có các xương động vật bán hoá thạch của đười ươi (Pongo), lợn (Sus Scrofa), nai (Rusa sp.), nhím (Hystrix sp.). Căn cứ vào sự có mặt của Pongo và phổ bào tử phấn hoa ở đây các nhà khoa học cho rằng mức này có niên đại Pleistocene muộn. Mẫu phân tích niên đại C14 lấy ở trên lớp dăm đá vôi giáp với lớp đáy mức II có tuổi là 23.000 ± 200 và 23.100 ± 300 năm cách ngày nay. Mức II ở độ sâu 0.60 đến 1.10 m, cấu tạo từ lớp sét vôi màu xám nhạt, có chứa xương răng động vật chớm hoá thạch của Pongo, bò (Bos sp.), lửng lợn (Arctonyx collaris), khỉ (Macaca sp.) và nhiều vỏ ốc núi (Cyclophorus). Mức III, trên cùng dày trung bình 0.60m, đất sét vôi tơi xốp, màu xám xẫm, có chứa nhiều vỏ ốc suối, một số xương răng động vật. Trong mức này còn phát hiện được hai mộ với ba cá thể người chôn nằm nghiêng. Mẫu niên đại C14 lấy ở độ sâu 0.60 m có tuổi là 19.040 ± 40 và 18.000 ± 200 năm cách ngày nay. Sau hai lần khai quật Mái Đá Ngườm 1981- 1982, đã thu được 618 công cụ hạch cuội, 302 công cụ mảnh lớn, 10146 công cụ mảnh tước, 13.494 mảnh tước, và 75 hạch đá [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998]. Dựa vào đặc trưng công cụ mảnh tước của sưu tập Mái đá Ngườm, đã có đề xuất về một kỹ nghệ riêng, Kỹ nghệ Ngườm [Hà Văn Tấn 1986]. Tuy nhiên gần đây, có ý kiến cho rằng khái niệm kỹ nghệ của phương Tây thuần tuý mang tính kỹ trị và vắng bóng lịch sử của con người, vì vậy nên gọi nhóm di tích Ngườm là một Hệ thống văn hoá. Sở dĩ nó được gọi là một hệ thống văn hoá, vì quá trình cư trú của con người tiền sử nơi đây khá liên tục, từ hậu kỳ đá cũ đến giai đoạn Hoà Bình, Bắc Sơn sớm [Hà Hữu Nga 2004]. Cái gọi là “kỹ nghệ Ngườm” chỉ thích hợp cho tập hợp công cụ mảnh tước. Trong khi đó người tiền sử Ngườm là các cư dân săn bắt, hái lượm và chế tác công cụ đá, tuy chưa biết đến nông nghiệp nhưng vẫn có một quá trình lịch sử của mình. Do thời kỳ băng hà Wurm kéo dài trong khoảng thời gian 60.000 năm (từ 70.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay) nên điều kiện môi trường thay đổi từ nóng sang lạnh dữ dội. Việt Nam và Đông Nam á nằm trong vùng nhiệt đới thì chí ít cũng phải chịu ảnh hưởng của băng hà Wurm trong khoảng 50.000 năm (từ 70.000 năm đến 20.000 năm cách ngày nay). Đây là thời kỳ thiếu năng lượng mặt trời, ít mưa nên rất hiếm các nguồn nước lưu chuyển (hệ thống sông suối); các hệ thống sinh thái có thể bị tiêu diệt hoặc trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Trong điều kiện ấy những nhóm người có nguồn gốc khác nhau buộc phải co rút lại trong các “ốc đảo” sinh thái còn sót lại giống như Mái đá Ngườm để tìm nơi tránh rét, tìm đồ ăn, nước uống và các nguồn khác. Điều đó có thể gây nên tình trạng quá tải về dân số tại một số địa điểm thuận lợi. Sức ép dân số càng làm tăng thêm nguy cơ khan hiếm các nguồn. Thực tế đó đòi hỏi con người phải có những hành vi thích ứng với một môi trường khan hiếm các đầu vào, trong đó có các đầu vào nguyên liệu dùng để chế tác công cụ đá. Tình trạng ấy đã buộc các cư dân tiền sử phải tìm kiếm các giải pháp thay thế, chẳng hạn như: 1) Khai thác các mỏ đá gốc; 2) Đi thật xa để tìm nguồn nguyên liệu; 3) Tăng cường trao đổi với các cộng đồng khác; 4) Tiết kiệm, tận dụng nguyên liệu phế thải; 5) Cải tiến kỹ thuật chế tác; 6) Hạn chế sử dụng nguồn chính, tăng cường các nguồn thay thế, bổ sung; 7) Tái chế các sản phẩm cũ, hỏng. Các giải pháp trên có thể được coi là các biến số khắc phục tình trạng khan hiếm nguyên liệu chế tác công cụ trong hệ thống văn hoá Ngườm, để rồi tạo nên một truyền thống mới trong toàn bộ hệ thống sinh thái sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Như vậy, từ góc độ sinh thái, việc xác lập một truyền thống nào đó không nhất thiết chỉ được quyết định bởi các nguồn thông tin lịch sử, mà nó còn là một giải pháp tình huống nữa. Vào thời kỳ lạnh nhất mật độ cư dân nơi đây chắc chắn là rất lớn, riêng mái đá Ngườm cũng có thể lên đến trên dưới 100 người. Di tích thức ăn để lại trong tầng văn hoá chứng tỏ người tiền sử nơi đây đã có sự phân công lao động theo giới tính và lứa tuổi. Đàn ông khoẻ mạnh thì chế tác công cụ và săn bắt động vật hoang dã, phụ nữ thì thu lượm ốc núi, ốc suối và các loại rau, củ, quả. Cư dân Ngườm giai đoạn muộn cũng có thể chưa biết đến kỹ thuật mài đá. Hệ thống văn hoá Sơn Vi: Cho đến nay tối thiểu đã có khoảng 200 địa điểm văn hoá Sơn Vi được phát hiện trên hầu khắc các vùng thuộc Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, dọc theo các hệ thống sông Hồng, sông Thao, sông Lô, sông Gâm, sông Đà, sông Cầu, sông Thương, sông Kỳ Cùng ở Bắc Bộ; sông Mã, sông Chu ở Thanh Hoá, sông Lam, sông La ở Nghệ An và Hà Tĩnh, sông Thạch Hãn ở Quảng Trị...vv. Thậm chí loại hình công cụ đá văn hoá Sơn Vi còn thấy cả ở trên bề mặt laterite của di chỉ khảo cổ học thuộc thời đại kim khí Lung Leng (Sa Thầy, Kon Tum). Như vậy Sơn Vi không đơn giản là một văn hoá thuần nhất, mà nó là một phức hợp hệ thống văn hoá trải trên rất nhiều khu vực địa lý khác nhau trên đất nước ta. Về mặt môi trường sinh thái, có thể nói rằng nếu hệ thống văn hoá Ngườm là một quá trình co rút của người tiền sử vào các ốc ảo sinh thái vì lạnh và hiếm nước thì tiếp theo nó, hệ thống văn hoá Sơn Vi là một quá trình ngược lại. Cuối thời kỳ băng hà Wurm, khí hậu trái đất ấm dần lên, đặc biệt tại khu vực nhiệt đới như đất nước chúng ta, ảnh hưởng của băng hà có thể giảm đi đáng kể ngay từ khoảng 20.000 năm đến 15.000 năm trước. Lượng mưa tăng dần làm cho các hệ thống dòng chảy cổ lan tràn trên khắp mọi miền đất nước ta. Cùng với hiện tượng đó là một quá trình phát triển phong phú của các dải môi trường dọc theo các dòng sông suối. Ban đầu dọc theo các dòng chảy là những dải đồng cỏ mênh mông thụân lợi cho các loài thú ăn cỏ và ăn thịt. Sau đó là sự sinh sôi nảy nở của các khu rừng nhiệt đới. Các dòng sông suối cũng tạo ra nguồn nguyên liệu cuội vô tận cho người tiền sử khai thác để chế tác công cụ. Khi thời kỳ mưa bắt đầu, các cộng đồng cư dân thuộc hệ thống văn hoá Sơn Vi đầu tiên có thể là những người rời khỏi các khu vực tập trung dân số cao trong thời kỳ khô lạnh như Ngườm chẳng hạn. Họ kiếm sống phân tán dọc hai bờ các con sông suối lúc này đã bắt đầu có nước bằng lối sống săn bắt và thu lượm di động. Bằng chứng cho lối sống này chính là những di chỉ Sơn Vi phân bố tương đối dày đặc hai bên bờ sông Thao từ Phú Thọ lên đến Lào Cai; từ Lập Thạch (Vĩnh Phúc) dọc sông Lô lên đến Hà Giang. Tại địa điểm Đồi Thông thuộc thị xã Hà Giang đã phát hiện được hàng nghìn công cụ cuội Sơn Vi. Ngoài ra trong địa tầng sâu hơn 3 m cũng tìm được các công cụ cuội có thể cổ hơn Sơn Vi nhiều. Giống như ở di chỉ Lung Leng Kon Tum, tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ An) công cụ Sơn Vi cũng được phát hiện trên bề mặt lớp laterite. Người Sơn Vi sử dụng nguồn nguyên liệu là các hòn đá cuội quartz và quartzite có kích thước vừa phải, thuận tiện cho công việc ghè đẽo và sử dụng trong quá trình lao động. Bộ công cụ của họ là các mũi nhọn dùng để chặt cây, đào bới đất, xẻ thịt thú; công cụ một rìa cạnh, công cụ 1/4 viên cuội dùng để cắt, thái; các mảnh tước có cạnh sắc có thể sử dụng như một con dao nhỏ. Ngoài ra chắc chắn người Sơn Vi đã biết sử dụng những đoạn gỗ và tre nứa làm công cụ, vũ khí, làm cung tên và làm bẫy bắt thú...vv. Bên cạnh đó cũng có những cộng đồng Sơn Vi sống định cư trong một số hang động, hoặc sử dụng hang động như một nơi cư trú chính và họ kiếm sống di động theo mùa rồi lại trở về hang động. Điển hình cho phương thức sống này là các di chỉ Sơn Vi ở hang Nậm Tun (Phong Thổ, Lai Châu), hang Thẩm Khương và hang Bản Phố. Các di chỉ này có niên đại khá sớm. Niên đại C14 lớp dưới của hang Thẩm Khương là 23.130 ± 200 và 33.150 ± 250 năm cách ngày nay. Dấu tích Sơn Vi hang động còn được phát hiện ngay trong khu vực văn hoá Hoà Bình. Đó là các hang Con Moong, Mái đá Điều, Mái đá Nước (Thanh Hoá); hang Ông Quyền thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình. Tại các địa điểm này, các công cụ điển hình cho văn hoá Sơn Vi đều phân bố ở lớp dưới. Trong lớp này ít có ốc suối, mà chủ yếu là ốc núi và xương thú. Lớp Hoà Bình bên trên gồm có các công cụ Sumatralith (loại hình công cụ cuội văn hoá Hoà Bình điển hình lần đầu tiên được phát hiện ở đảo Sumatra Indonesia) và ốc suối. Đặc biệt tại hang Con Moong thuộc huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá, tầng văn hoá Sơn Vi có niên đại C14 khá muộn, là 11.755 ± 75 năm và 11.840 ± 75 năm cách ngày nay. Niên đại C14 trong tầng Sơn Vi hang Pông (Mộc Châu, tỉnh Sơn La) là 11.915 ± 120 năm và 11.330 ± 180 năm cách ngày nay. Đây có thể là thời điểm kết thúc của văn hoá Sơn Vi. Còn thời điểm mở đầu của hệ thống văn hoá này chưa được xác định rõ ràng, nhưng niên đại C14 hang Ông Quyền 18.390 ± 120 năm cách ngày nay là một gợi ý tin cậy. Chủ nhân của hệ thống văn hoá Sơn Vi đã được xác định thông qua một số di cốt người tìm được ở hang Con Moong. Thành phần chủng tộc của người Con Moong là Australo-Negroid (Chủng đen Phương Nam) còn cốt sọ Sơn Vi ở Mái đá Nước và Mái đá Điều là Australoid [Nguyễn Lân Cường 1977]. Trong khi đó, các cốt sọ Hoà Bình chủ yếu lại là dạng chuyển tiếp từ Australo-Mongoloid sang Vedoid và Indonesian [Nguyễn Đình Khoa 1986]. Căn cứ vào sự xác định thành phần chủng tộc của người Sơn Vi như trên, chúng ta biết chắc rằng chủ nhân văn hoá Sơn Vi là những người bản địa. Họ phân bố trên một địa bàn rộng lớn thuộc vùng Đông Nam Á và một phần các đảo thuộc châu Đại Dương. Lịch sử phát triển của các cư dân này chính là quá trình hoà huyết qua giao lưu, trao đổi hoặc hôn nhân với các chủng tộc láng giềng là các cư dân Nam á và Đông Bắc Á. Cho đến nay vẫn chưa có những bằng chứng chắc chắn để xác định cấu trúc xã hội của các nhóm cư dân Sơn Vi. Tuy nhiên trong một số hang động như Con Moong, Nậm Tun, Thẩm Khương, và Mái đá Điều đã tìm thấy dấu vết bếp lửa. Các nhà nghiên cứu đã so sánh chúng với các dấu tích bếp lửa thuộc văn hoá Hoà Bình giai đoạn sau và thấy rằng “bếp Sơn Vi có số lượng ít hơn, nhưng kích thước lớn hơn và nằm ở trung tâm hang hơn. Điều này có thể liên quan phần nào tới cơ cấu tổ chức bộ lạc” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 93]. Với một bằng chứng gián tiếp như vậy, có lẽ còn quá sớm để suy luận về một cơ cấu tổ chức bộ lạc người Sơn Vi. Tuy nhiên trong qui mô của một hang động không lớn như các hang vừa kể thì chúng ta có thể hình dung một cơ cấu nhỏ hơn bộ lạc, đó là cơ cấu nhóm cho xã hội Sơn Vi hang động này, theo mô hình do các nhà nhân học tiến hoá Mỹ Sahlins và Service đề xuất [sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960]. Đó là mô hình tiến hoá từ nhóm - bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước được các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến vì mỗi khái niệm đều được định nghĩa rất rõ ràng. Trong đó mỗi cơ cấu tổ chức xã hội được xác định dựa trên các tiêu chuẩn có liên quan, bao gồm qui mô dân số, mức độ phức tạp trong tổ chức xã hội và các phương thức kiếm sống. Theo mô hình này, nhóm là một xã hội nhỏ, bình quân chủ nghĩa, thoả mãn nhu cầu sống bằng các hoạt động săn bắn và hái lượm. Mỗi nhóm có một lãnh thổ riêng nhưng họ không sống định cư mà bằng phương thức di động kiếm sống theo mùa phù hợp với nguồn thức ăn và nước uống có thể kiếm được. Về phương diện tổ chức, mỗi nhóm là một nhóm gia đình duy nhất. Chẳng hạn như nhóm đó có những người đàn ông cùng dòng máu cùng những người vợ của họ lấy về từ các nhóm khác và những đứa con của họ. Nhóm không có hình thức tổ chức chính trị, cũng không có chuyên môn hoá về kinh tế, không có một phân cấp xã hội nào khác ngoài phân cấp dựa trên giới tính và lớp tuổi. Qui mô dân số từ khoảng 25 – 100 người [sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992]. Trong khi đó bộ lạc cũng là một cơ cấu xã hội bình quân chủ nghĩa, nhưng có qui mô dân số lớn hơn, họ có nhiều chiến lược kiếm sống hơn, vì vậy có thể duy trì được các làng định cư bền vững. Các phương thức kiếm sống chuyên biệt thường gồm có việc sản xuất lương thực – làm nông hoặc làm vườn, nhưng vẫn có thể tồn tại phương thức săn bắt, hái lượm. Hệ thống bộ lạc có các thiết chế xã hội chằng chéo, dựa trên các mối quan hệ họ hàng, liên kết các thành viên xã hội với nhau. Trong đó có cả các hội kín, các nhóm đồng tuế, các nhóm chức nghiệp chẳng hạn như chiến binh hoặc các tổ chức tôn giáo. Không có những vị trí lãnh đạo hoặc quyền lực bền vững, mặc dù một số cá nhân có thể có vai trò thủ lĩnh lâm thời trong những tình thế khẩn cấp như các thủ lĩnh của các bên tham chiến chẳng hạn. Hệ thống bộ lạc có qui mô dân số từ 500 đến vài nghìn người. Cũng có những tình huống bất thường, các bộ lạc “cô đặc” có qui mô dân số đến 10.000 người [sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992, 561-562]. Như vậy chúng ta có thể hình dung về cơ bản xã hội Sơn Vi được cấu trúc chủ yếu trên cơ sở nhóm. Có thể có những nhóm mở rộng, bao gồm cả những nhóm họ hàng khác nhau; cũng có thể có những nhóm “cô đặc” trong các tình huống bất thường như thiên tai, xung đột giữa các nhóm, hoặc thậm chí họ có thể tập trung khai thác một vài loại sản vật nào đó, theo mùa, ở một khu vực nhất định, để rồi sau đó họ lại phân tán thành những nhóm nhỏ, kiếm sống di động. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng người Sơn Vi giai đoạn muộn, sống tại khu vực thềm sông Hồng thuộc huyện Lâm Thao (Phú Thọ) đã có cấu trúc xã hội theo tổ chức bộ lạc manh nha, trên cơ sở một loại hình hoạt động kinh tế phức hợp bao gồm săn bắt, hái lượm, trao đổi sản vật và khởi đầu một nghề làm vườn sơ khai. Một nghề làm vườn thực sự và có thể cùng với nó là một nền nông nghiệp sơ khai chỉ có thể xuất hiện từ giai đoạn văn hoá Hoà Bình. (Còn nữa….) Tài liệu Tham khảo Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87. Bellwood P. 1997. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press. Bentley, G. Carter 1986. Indigenous States of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305. Bowler, Sandra 2001. Nguồn gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51. Bùi Vinh 1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51. Bùi Vinh 2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số 2 (122) (III-IV), trang 3-15. Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53. Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2, 1988. Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72. Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20. Donald, M. 1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and Cognition. Cambridge, MA: Harvard University Press. Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 64. Đào Thế Tuấn 1988. trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46. Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press. Eblen, Ruth A. and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment. The René Dubos Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston New York 1994. p. 4. Eisler R. 1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future. New York, Harper & Row, 1987. Gardner, H. 1997. Thinking about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997. Gorman C.E. 1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations. Asian Perspectives 13: 79-107. Gorman C.E. 1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent periods. World Archaeology 2 (3): 300 – 320. Grenier, Louise 1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers. International Development Research Centre, Ottawa, Canada. pp. 1-9. Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường – Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội. Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện Khảo cổ học. Hà Hữu Nga 1998. Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91. Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1999. Hà Hữu Nga 2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80. Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139. Hà Văn Tấn 1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang 168 – 202. Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới). Hà Văn Tấn 1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144. Hà Văn Tấn 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam á. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20. Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1986, trang 3-10. Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76. Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai quật lần thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95. Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63. Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38. Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press. Higham, Charles F. W. 1989. The later Prehistory of Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282. Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978. Hodder, Ian 1991. Reading the Past – Current Approaches to Interpretations in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149. Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976. Nghiên cứu di tích xương răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145. Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49. Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai. Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18. Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2. Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem (suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin). MSGI. Vol. 12, No. 2. Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3. Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol. 12, N0 1, p. 34. Mithen, Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science. Cambridge: Cambridge University Press. Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90. Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An. Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366. Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30. Nguyễn Đình Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986. Nguyễn Khắc Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương, Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20. Nguyễn Khắc Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7 – 16. Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học. Nguyễn Kim Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang 15-23. Nguyễn Lân Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977. Trang 112 Nguyễn Lân Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11. Nguyễn Lân Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39. Nguyễn Lân Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á trong thời kỳ Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12. Nguyễn Lân Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1996. Nguyễn Thị Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học. Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45. Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII), 2003, trang 11 - 12. Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 47-54. Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977. Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932. Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 37 – 68. Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40. Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình.Luận án Phó tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11. Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor: University of Michigan Press. Saurin E. 1939. Les cranes préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi. Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956. Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View, California. London . Toronto. Pp. 561-562. Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of Southeast Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181. Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, trang 421. Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81. Trần Quốc Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1986, trang 1- 6. Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993. Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65. Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000. Trình Năng Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, trang 16 – 21. Verneau R. 1909. Les cranes humains du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140. Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90. Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13. Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1982, trang 67-69. Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126. Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press. Weidenreich, F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298. Welch, David and Rudith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11. Wisseman C. Jan 1985. Theater States and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9. Wisseman C. Jan 1992. Trade and settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bankok: White Lotus. White C. Joyce. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy, eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number 6. Arlington, Va.: American Anthropological Association. Pp. 101 – 123. Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
-
Trương Vĩnh Ký là một hiện tượng có nhiều khuôn mặt? Trương Vĩnh Ký, Yêu Nước ? Đối Luận với ông Trần Hữu Tá Bùi Kha 13-Jan-2012 Bài của ông Trần Hữu Tá, đăng trên trang nhà Bô xít của trang chủ GS. Nguyễn Huệ Chi, ngoài việc tâng bốc sai lầm Nguyễn Trường Tộ còn vinh danh Trương Vĩnh Ký cẩu thả vô trách nhiệm, nên tôi có bài đối luận nầy để rộng đường dư luận (Bùi Kha) Trong nhiều thập niên qua, tên tuổi của cựu giáo sĩ Pétrus Trương Vĩnh Ký đã đi vào lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc và VNCH, người ta vinh danh ông bằng cách đặt tên đường, tên trường. Vì áp lực chính trị hoặc vì tình cảm địa phương hay vì cảm tình tôn giáo hoặc thiếu sử liệu nên tên tuổi của Sĩ-Tải Gioan Bao-ti-xi-ta Pétrus Trương Vĩnh Ký (gọi tắt là Pétrus Ký) đã được đánh giá thiếu cẩn trọng. Trong bài viết nầy, tôi sẽ cố gắng vượt ra ngoài các phạm trù chính trị, địa phương và tôn giáo để, góp phần vào việc trả lại cho Trương Vĩnh Ký cái giá trị đúng như tư duy và hành động của ông trong thời kỳ Pháp đô hộ nước ta. Để việc định vị công (nếu có) và tội của họ Trương được chính xác, tôi xử dụng các tài liệu do chính Trương đã viết cho các viên chức cao cấp của thực dân Pháp dưới hình thức những lá thư, và tài liệu của chính nhân viên trong chính phủ thuộc địa Pháp tại Việt Nam thời bấy giờ. Các tài liệu nầy được tìm thấy trong cuốn sách có tựa đề "Cuốn Sổ Bình Sinh của Trương Vĩnh Ký" từ trang 93-143 bis và từ trang 251-285. Tác giả là Nguyễn Sinh Duy, NXB Nam Sơn, Sài gòn in và phát hành tháng 3, 1975 (1). Công hoặc tội của Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký, tổng quát, cần được xét trên hai phương diện: Quan điểm chính trị, và những đóng góp văn học của ông nhằm mục đích gì? Trong phần kết luận chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao họ Trương lại có những tư duy và hành động đi ngược với quyền lợi của tổ quốc. ● Quan điểm chính trị của Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) Ngày 1.9.1858, đô đốc thực dân Pháp Rigault de Genouilly đánh Đà Nẵng. Quân dân Việt Nam nhất tề chống Pháp xâm lược. Với sự phản ứng kiên trì của Việt Nam cọng thêm khí hậu khắc nghiệt tại Đà Nẵng lúc bấy giờ, quân Pháp đã phải rút khỏi Đà Nẵng để vào Nam chiếm thành Gia Định ngày 17. 2. 1859. Sau một thời gian ngắn, trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định, còn de Genouilly thì trở ra Đà Nẵng đánh phá lần thứ nhì. 1. Trước cảnh nước mất nhà tan, Trương Vĩnh Ký đã không tham gia phong trào đánh đuổi thực dân như bao nhiêu người khác. Trái lại ông còn viết thư cho viên trung tá thực dân nói trên, yêu cầu giúp đỡ để tiêu diệt quân dân Việt Nam mà họ Trương gọi đó là kẻ thù. Thư nói trên viết tay vào cuối tháng 3.1859, lúc Trương 22 tuổi, trong đó có đoạn như sau: "... Nhưng tôi nhân danh là người đại diện cho tín hữu Ki-tô kính dâng lên Ngài lời cầu xin của chúng tôi... nỗi thống khổ mà chúng tôi hằng gánh chịu dưới bạo quyền của các quan lại triều đình gây ra... Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù* của chúng ta..." (Văn khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes. Vũ Ngự Chiêu sưu tập). Văn khố hải quân Nhằm giảm số trang, tôi chỉ cắt một đoạn thư viết tay của họ Trương và vàn đoạn tài liệu khác như trên. [Nguồn: “Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại’, Chánh Đạo, Tập I (1892-1924), in lần thứ hai. Văn Hóa, Hoa Kỳ]. Đọc đến đoạn nầy, có người sẽ nghĩ rằng vì vua quan nhà Nguyễn quá tàn ác với giáo dân Công Giáo nên Trương Vĩnh Ký phải kêu gọi thực dân giải cứu. Thực tế không phải như vậy. Sau đây là lời phát biểu của đô đốc Page, một tên thực dân cao cấp, đã viết thư cho bộ trưởng hải quân Pháp ngày 15.12.1859 như sau: "Những năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân cần với họ (các giáo dân, BK). Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương có thái độ khoan dung, rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp luật, những vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân, do các giáo sĩ lãnh đạo ngày càng xấc xược ngạo mạn đến mức độ họ không thèm biết đến cả chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn, họ tuyên bố người Công giáo không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác..." (Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam - 1858-1897, tác giả xuất bản Hoa Kỳ 1995, trang 86. Phần tiếng Pháp có thể tìm thấy trong thư khố Pháp, tài liệu Hải Quân số hiệu BB4-77). Saigon thất thủ 17 tháng 2 1859 Hình: Sài gòn bị chiếm ngày 17.2.1859 Giả sử nếu triều đình có những lúc đối xử cứng rắn với các giáo dân thì đó là điều dễ hiểu và không thể tránh được. Nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh đó; và muốn cho quốc gia được độc lập và có chủ quyền thì cũng không thể làm khác hơn. Dưới đây là lời phát biểu của một đô đốc thực dân khác, người chỉ huy tấn công Đà Nẵng. Thư đề ngày 29.1.1859 (Hai tháng trước thư của Trương Vĩnh Ký), Genouilly viết: "Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ - BK). Nếu cũng vì những yếu tố phạm pháp ấy mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền Annam trục xuất, thì báo chí của người truyền giáo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành. (Fut-elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affairs politiques, civiles et militaires qui se sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée pour les mêmes chefs d'accusation, par un autorité Vietnamien, la press des missionnaires aurait crié partout persécution." [(Dépêche du 29.1.1859, Archives Nationales Fonds Marine BB4, 769, P. 113). CHT, Christianisme et Colonialisme au Vietnam - 1867-1914]. Sau đây, tôi sẽ dẫn chứng một số văn thư khác do chính Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký chứ không phải ai khác, viết cho các viên chức thực dân, để thấy tấm lòng của họ Trương đối với quốc gia dân tộc như thế nào. 2. Thư đề ngày 28.4.1876, gởi cho tướng Pháp, quyền thống đốc, để trình bày công tác đi Bắc Kỳ. Có những đoạn họ Trương viết mà đọc kỹ sẽ thấy não trạng của ông ta. Trương mô tả sai về tình trạng xã hội và phóng đại một nhu cầu cần cải cách để cố vấn cho thực dân Pháp nên chiếm và cai trị toàn xứ Bắc kỳ: "…Và trong khi đó thì quãng đại quần chúng vô danh, những thợ thuyền, nhà nông đang rên siết trong sự nghèo đói cùng cực, từng trải qua những ngày dài không gạo và không việc làm. Và phải chăng sự khốn cùng đang bao trùm trong dân chúng, và phải chăng khắp nơi người ta đang nghe đòi hỏi những sự thay đổi và một nền cai trị hữu hiệu để duy trì trật tự, ban cho dân chúng một ngày mai, đảm bảo tài sản, cho công nghệ và thương mại có được sự an ninh và sinh hoạt cần thiết cho sự sống còn của họ, nói tóm lại, từ trong cái đói và bần cùng giải thoát một dân tộc đang cảm thấy suy vong." Sợ Pháp do dự không chịu chiếm, Gioan Bao-ti-xi-ta Pétrus Ký còn đem miếng mồi kinh tế béo bở của xứ Bắc Kỳ ra để khơi động lòng tham của thực dân Pháp: "Và tất nhiên, xứ sở chẳng thiếu tài nguyên, đất đai mà tôi dám quyết rằng có thể sánh với thổ nhưỡng của nước Pháp, ít ra là đối với Algérie, chất chứa nhiều của cải đủ để làm nên tài sản cho một quốc gia. Đất này tiện lợi cho những vụ trồng trọt các mùa thay đổi khác nhau. Những cuộc thí nghiệm trồng nho và gieo lúa mì cho thấy những kỳ vọng chắc chắn. Tôi từng thấy lúa mì mọc trong đất, cây trông đẹp, bông đầy và lớn hạt. Tôi chưa nói tới ở đây những tài nguyên khoáng chất, người ta bảo là bao la, và tôi xin được phép nói rằng dân của xứ này đã chết đói trên một chiếc giường đầy vàng". Trương lại còn cố vấn cụ thể cho thực dân Pháp phương cách bá đạo, nhưng hữu hiệu, để kết nạp các thành phần bất mãn với triều đình Việt Nam, hầu tạo nội chiến làm cho dân chúng chán chiến tranh để rồi họ mơ tưởng một cuộc sống "bình yên" như xứ bảo hộ Nam-kỳ: "Tôi tìm ra sự giải thích theo đó, các ảnh hưởng của lòng tham lam và táo bạo dễ dàng thu dụng đồ đảng, kết nạp thành đoàn và cổ võ chiến tranh phe phái v.v...và như vậy dân chúng khát khao một cuộc sống lành mạnh hơn là luôn luôn phải thất vọng, với hy vọng cuối cùng tìm thấy sự che chở để khỏi sự đói khát. Hơn thế, không thể không có một cái nhìn ham muốn, một đôi khi họ đã so sánh thân phận của họ với cuộc sống của những người dân Nam-kỳ". Cũng trong thư nầy, họ Trương còn báo cáo lại cho quan chức Pháp một cuộc đối đáp giữa Trương với các quan lại triều đình. Trong cuộc đối đáp đó, Trương đã đứng hẳn về phía thực dân để chỉ trích và hăm dọa hầu thuyết phục các viên chức triều đình: - "Làm thế nào cư xử đối với người Pháp để khả dĩ thu hoạch thắng lợi hoàn toàn?" Người ta lại hỏi tôi như vậy. - "Thưa quý vị, tôi đáp, tất cả quý vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc ấy từ lâu, một cách dễ dàng không cần phải bàn cãi gì cả. Quý vị phải hiểu rằng quí vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của một ai đó để gượng dậy. Và tốt hơn, chi bằng quí vị chỉ nên tin tưởng vào những bạn đồng minh tiếng tăm của quí vị và phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, phải không hậu ý, phải không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ, chứ không phải một cái chìa ra còn bàn tay kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những do dự của quí vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc quý vị với số phận. Nói rõ hơn, đây là hình ảnh tương tợ tôi dùng để ví: nếu một bàn tay quí vị tựa vào cánh tay của một người, còn bàn tay kia quí vị dùng để cù họ, tức nhiên cánh tay của người đó tự nó phải tuột ra; quí vị sẽ phải đón nhận một sức phản động nào đó, quí vị sẽ rơi xuống rất thấp và hầu như mãi mãi không có cơ gượng dậy được nữa. Đó là những nét nổi bật hơn cả trong các cuộc đàm thoại, nhưng tất cả những lần trò chuyện, chi tiết tôi rút ra được rằng, nói chung các quan lại, nhất là những người có thành kiến, họ không đòi hỏi gì hơn là mong theo những tư tưởng mới. Thế nhưng các truyền thống vẫn còn ngự trị mạnh mẽ, và họ ngại phô bày những tư tưởng mới vì nó mất duyên cớ chính đáng đang vây bọc quanh những truyền thống đó. Tổng quát, tất cả đều tin chắc rằng không thể chống lại người Pháp và nếu nước Pháp muốn lấy xứ này, có thể làm mà không phải mất nhiều khó khăn và tốn kém" [Phần tiếng Pháp ở cuối bài nầy (2)]. 3. Như linh mục Nguyễn Hoằng, Trương Vĩnh Ký cũng là một người Pháp tay trong, được gài bên cạnh Vua Đồng Khánh để lấy tin tức và khuynh loát ông vua bù nhìn nầy nhằm thực hiện các kế hoạch có lợi cho thực dân Pháp. Từ Huế, ngày 10.5.1886, Pétrus Trương Vĩnh Ký gởi thư cho viên thượng thư Paul Bert, trong đó có đoạn đáng lưu ý: “Tôi cũng đang lo tiếp xúc để cung cấp cho ngài những tin tức chính trị hữu ích. Tôi hết lòng tán đồng dự án hoàn mỹ của ông Pène* về công cuộc bình định thi hành bởi những yếu nhân bản xứ và, ở đây, tôi đang bám sát nhà vua cùng Viện Cơ Mật. Như sứ giả tiên khu của Chúa, tôi tìm cách dọn đường cho ngài; tôi tán dương cái uy danh mà tôi ra sức vây bọc quanh con người cũng như tên tuổi của ngài”. 4. Việc họ Trương lèo lái ông vua bù nhìn Đồng Khánh và thao túng Cơ Mật Viện của triều đình Việt Nam đã có kết quả tốt cho Pháp, đến nỗi Paul Bert trong một thư gởi Thiếu tướng thực dân Thống đốc Nam-kỳ, ngày 20.5.1886, có đoạn: "Tôi nhận thấy ở Huế, ông Trương Vĩnh Ký đã tận lực làm tròn sứ mạng công việc trong triều đình và ít nhiều ảnh hưởng trên nhà vua. Trong những điều kiện đó, tôi tin rằng sẽ có lợi cho người Pháp hiện thời nếu giữ ông ta ở lại Huế trong một thời gian tôi không dám xác định, nhưng chắc chắc cũng khá lâu..." 5. Hơn một tháng sau, vào ngày 17.6.1886, Trương Vĩnh Ký lại viết thư tiếp cho Paul Bert để thông báo công tác quan trọng của ông: "Tôi sẽ trấn áp tất cả các hảnh thần và bao vây nhà vua, tôi sẽ kiếm những người thật sự có khả năng cho Viện Cơ Mật". Một đoạn khác trong lá thư nầy, Pétrus Trương Vĩnh Ký cũng có ý kiến như Nguyễn Trường Tộ hơn 15 năm trước đó là, chính phủ Việt Nam phải thỏa hiệp với nước Pháp hầu như đó là một định luật tất yếu không thể chống lại được: "Tôi vừa minh chứng xong cho các nho sĩ thấy rằng nước An Nam không thể không cần đến nước Pháp, càng không thể chống lại nó được, phải tay trong tay cùng đi, không hậu ý và chúng ta nên chụp ngay lấy những hảo ý nảy nở trong chúng ta, của một người như ngài chẳng hạn". 6. Gần 4 tháng sau, trong một bức thư ngày 5.10.1886 gởi cho quan Thượng thư Pháp, Pétrus Ký tận dụng những kiến thức quân sự, trong sở học của mình để, cố vấn cho thực dân phương pháp tiêu diệt các phong trào Cần Vương và các lực lượng vũ trang của dân Việt Nam đang hy sinh chống Pháp cứu nước: "Vậy hãy nhanh chóng thành lập các đoàn lạp binh và võ trang cho họ; ngài không có điều gì phải quan ngại dù các nhà quân sự đã nói về việc đó, bởi vì, những quân khí do ngài cung cấp, cho mượn hoặc bán, đều thuộc trách nhiệm trực tiếp của nhà vua và chính quyền An Nam, sau cuộc bạo hành ngày 5 tháng 7, nay chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ Trung-kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của Người Bảo hộ nó và với hai thế đứng của Pháp tại Bắc và Nam-kỳ, những nghĩa cử rồi ra sẽ được củng cố và hiệu nghiệm hơn lên. Tôi hiểu những tình ý thật sự của người An Nam mà tôi dám khẳng định với ngài rằng chính sách ấy là tốt hơn cả, bởi vì, một mặt ngài có cái lợi đem lại cho nước Pháp sự mến mộ và lòng tin tưởng đã bị đánh mất từ bao năm qua, và mặt khác, ngài sẽ tìm thấy những nguồn lợi không kém phần thực tế cho các đồng bang của ngài trong cái xứ Bắc-kỳ giàu có..." Cựu giáo sĩ Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký còn ngụy biện và xuyên tạc để thực dân Pháp biết động cơ nào mà các phong trào kháng Pháp nỗi lên. Và họ Trương còn gọi các phong trào yêu nước này là quân phiến loạn: "Tôi thiết tưởng có bổn phận, cũng nhân dịp này, cống hiến cho ngài: Tư tưởng của những người phiến loạn An Nam mà tôi đã có thể tìm hiểu trên những nơi có tàu đi qua. Những kẻ phiến loạn, như tôi đã từng nhiều dịp trình với ngài, họ có lý do cho chủ nghĩa ái quốc của họ: Sự hận thù đối với các con chiên (Công giáo) mà họ cáo buộc là những hàng ngũ bên cạnh người Pháp, được dùng như những kẻ đưa đường chỉ lối". Sợ thực dân Pháp còn phân vân và không đủ quyết tâm, Pétrus Trương Vĩnh Ký đã khuyên Pháp không nên sợ vì nghĩa quân Việt Nam, mà họ Trương cũng gọi là bọn phiến loạn, chỉ có những khí giới thô sơ: "Bọn phiến loạn không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lổ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa. Cái chứng cớ phơi bày ra ở Quảng Trị và Quảng Bình, họ đã không thể cắt được, dù chỉ một lần, đường dây điện thoại. Họ rất dễ bị tiêu mòn và trở lại ngoan ngoãn..." Trương Vĩnh Ký lúc nào cũng tỏ ra sốt sắng gắn bó và tận tâm với thực dân Pháp. Ông cố gắng lèo lái thuyết phục triều đình Việt Nam nên chấp nhận hiệp ước đánh dẹp các phong trào kháng Pháp cứu quốc của dân tộc Việt. Họ Trương tỏ ra đắc lực với thực dân hơn là một người Pháp chính hiệu. Cũng trong thư nói trên, ông viết: "Tuy nhiên, tất cả những điều đó thúc đẩy tôi nhất quyết lo liệu cho cái hiệp ước mà ngài muốn chính phủ An Nam sớm chính thức đưa ra để minh định ngõ hầu chấm dứt sự trạng và quyết định chính sách sau này phải theo. Vì thế tôi xin nhắc lại ngài cái dự án bình định với những phương tiện hành động đã được mật ước, để tiến tới thành quả mà chúng ta có thể phô trương. Về phần tôi, ngài có thể luôn luôn cậy vào sự giúp sức nhỏ yếu của tôi, vì dù sao những cảm tình của giờ phút đầu tiên đã trở thành một mối nhiệt tâm chân thành đối với ngài." 7. Trong một thư khác gởi cho viên giám đốc thực dân ngày 19.1.1887, Pétrus Ký cho biết vai trò gián điệp và thuyết khách của ông lúc vào làm việc trong Cơ Mật Viện của triều đình bù nhìn Đồng Khánh "...Về phần tôi, xâm nhập vào Cơ Mật Viện của nhà vua, vai trò của tôi là làm cho nhà vua và triều thần hiểu được các ý tốt của chính phủ Pháp cũng như điều động chính sách của chính phủ An Nam đi gần với chính sách của nước Pháp." 8. Công tác chính trị của Trương Vĩnh Ký trong nhiệm vụ yểm trợ thực dân Pháp sớm ổn định chính sách cai trị dân tộc ta. Và để làm tròn nhiệm vụ gián điệp đó, Pétrus Trương Vĩnh Ký đã phải hy sinh ước mơ được vào quốc tịch Pháp. Ông tự thú như sau trong thư đề ngày 15.9.1888, gởi cho một linh mục là ông Pène Siefert, Trương Vĩnh Ký cho biết ông không muốn vào quốc tịch Pháp vì sợ bị nghi ngờ, khó làm việc: "...lúc đã gia nhập quốc tích Pháp, tôi sẽ mất hết uy tín, mất thế lực, chẳng còn được vua, triều đình và dân chúng An Nam tín nhiệm nữa". Trên đây là một số chứng cớ được trích dẫn từ tám trong nhiều bức thư do chính Trương Vĩnh Ký viết [vui lòng xem trong sách “Cuốn sổ bình sinh của Trương Vĩnh Ký, như đã trình bày ở phần đầu của bài nầy] đã cho thấy tư duy và hành trạng của ông, một trong những Việt gian đắc lực và nguy hiểm nhất trong thời Pháp đô hộ nước ta. Có người châm chế cho Trương Vĩnh Ký và phát biểu rằng ‘chỉ thuần túy về phương diện văn hóa không mà thôi, ông đã biên soạn và dịch thuật nhiều tác phẩm mà những tác phẩm đó giúp ích cho nền văn hóa nước nhà’. Đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về dụng tâm của các tác phẩm có tính văn hóa của họ Trương. ● Mục Đích Công Tác Văn Hóa Của Họ Trương. 1. Mục đích dịch thuật, sáng tác, làm tự điển của Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký được ông nói rõ trong thư gửi "Các Vị trong Ban Duyệt Xét Bản Thảo"*: "Tôi hân hạnh được gửi tới quí vị vài dòng dưới đây để giải thích mục đích mà tôi theo đuổi khi làm những việc trước tác mà tôi đệ trình xin các vị thẩm định. Có thể xét những tác phẩm này theo hai phương diện khác nhau tùy theo hai chủ đích của chúng: thu xếp ổn định thời hiện tại và gắn liền dĩ vãng với tương lai xứ sở. Đó là mục đích của tôi." "Thu xếp ổn định thời hiện tại" tức là dẹp yên các phong trào Cần Vương và các cuộc nỗi dậy chống Pháp cứu nước. Họ Trương viết tiếp: "Về phương diện chính trị và kinh tế, người Pháp là kẻ đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Người yếu cần dựa vào người mạnh để đưa mình lên bằng người khỏe*. Đó chính là mục đích cần phải theo đuổi và đạt tới. Bằng cách nào? Bằng cách đồng hóa. Và đồng hóa chỉ có thể thực hiện được bằng giáo dục và học vấn. Từ đó mới nảy sinh mối thiện cảm giữa kẻ chinh phục và người bị chinh phục, mối thiện cảm do quyền lợi chung mà có. Quyền lợi chung nầy lại chỉ được tạo ra nhờ những quan hệ hỗ tương và trực tiếp. Những quan hệ này chỉ được thiết lập giữa họ qua sự hiểu biết tiếng nói của nhau. Người Pháp với tư cách là chủ, cần biết tiếng An Nam để giảng dạy người An Nam là học trò những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo và phục sinh của người An Nam." 2. Ngày 3.9.1868, Trương Vĩnh Ký gởi thư cho ông Giám đốc Nội trị để xin từ chức. Trong đó có những câu cho thấy họ Trương không còn là người Việt nữa: "Khi trở lại đời sống tư, lòng tôi luôn luôn thuộc về nước Pháp, và những công việc phục vụ nhỏ mọn của tôi cũng thuộc về nước Pháp...Người bề tôi tận tâm và vâng lời." 3. Thư đề ngày 12.1.1882, từ Chợ Quán "Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa", Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký viết rõ hơn về mục đích các tác phẩm của ông: "Thưa quí vị, Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn. Làm như vậy, ý định của tôi là để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam” (chữ đậm là của Bùi Kha muốn nhấn mạnh). 4. Trương Vĩnh Ký rất nóng lòng muốn Pháp đồng hóa dân tộc Việt Nam nhanh hơn và toàn diện hơn, bên cạnh đó ông cũng sẽ kiếm được lợi nhuận do việc chính phủ thực dân Pháp bỏ tiền tài trợ và mua sách. Ông cũng nói rõ là nếu Pháp hỗ trợ bằng cách mua sách, ông sẽ phấn khởi và hăng hái hơn trong việc viết thêm các tác phẩm khác trong tương lai cho mục đích (đồng hóa) nói trên. Lời của chính họ Trương về chiến lược đồng hóa: "Đệ trình với quý vị những tác phẩm này, tôi khẩn xin quý vị thẩm định mục đích mà tôi đã đề ra khi soạn thảo, và nếu quí vị nghĩ rằng những tác phẩm đó có thể là một lợi khí của tiến bộ và là một phương tiện thích hợp để tạo ra trong lúc này, sự thay đổi và đồng hóa mà nhà cầm quyền đang tìm cách thực hiện ở xứ này có lợi cho những kẻ thần phục mới của nhà cầm quyền, tôi mong rằng qúy vị sẽ góp phần vào việc xuất bản những sách này. Sự chấp thuận và hơn nữa, sự xưng tụng mà quí vị dành cho những tác phẩm của tôi sẽ là phần thưởng êm dịu nhất cho những công trình tôi đã làm và là khích lệ lớn lao hơn cả cho tôi trong tương lai." Qua số văn thư vừa trích dẫn do chính Trương Vĩnh Ký viết, chúng ta đã thấy rõ tâm chất của ông. Một điều khác đáng chú ý là trong các văn thư ấy luôn luôn có các câu: "Bề tôi rất khiêm tốn và tận tụy" hoặc "Bề tôi tận tâm và vâng lời." Điều đó cho thấy mặc dầu họ Trương còn mang thân xác Việt Nam nhưng tâm hồn đã khác. 5. Sự tận tâm và đắc lực của họ Trương trong nhiệm vụ giúp thực dân Pháp dễ dàng thi hành chính sách thống trị và đồng hóa dân tộc Việt, được ông Luro, Thanh tra và Giám đốc trường Sư Phạm Thuộc Địa Pháp tại Việt Nam, trong một bản nhận xét đề ngày 16.6.1875, có đoạn nói rõ: "Ông Pétrus Ký làm việc rất nhiều...Rút cục, đó là người An Nam Pháp hóa duy nhất mà chúng ta có, và gương mẫu. Sự trợ giúp của ông thật đã rất ích lợi cho ảnh hưởng của chúng ta và cho nền học chính nói chung." Nhờ công lao phục vụ thực dân đắc lực và tận tụy nên ngày 20.5.1886, ông Paul Bert gửi thư cho Ngoại trưởng Pháp để tán đồng đề nghị của Thống Đốc Nam-kỳ, ban thưởng huy chương cao cấp cho Trương Vĩnh Ký: Đệ Ngũ Đẵng Bắc Đẩu Bội Tinh. 6. Trong thư gửi cho một bác sĩ người Pháp, Alexis Chavanne, đề ngày 6.8.1887, cho thấy cái tâm của họ Trương đến nổi chính phủ thực dân xem ông như một đứa con nuôi đầy tin tưởng. Trương viết: "Tôi càng tỏ ra biết ơn nước Cọng Hòa (Pháp) không những đã công nhận tôi là con nuôi mà còn cho tôi nhiều vinh dự và nhất là rất tin tưởng tôi." Các chứng liệu không thể chối cải nêu trên chúng ta có nên kết luận Trương Vĩnh Ký là một đại Việt gian phản quốc nguy hiểm nhất hay không? Người làm tay sai cho giặc hữu hiệu nhất trong lịch sử Việt Nam ta thời Pháp thuộc? ● Lý do nào khiến Trương Vĩnh Ký phản quốc? Tại sao một người có tài, thông minh, biết nhiều thứ tiếng lại trở thành một tên đại Việt gian như thế? Đáp số của câu hỏi nầy có lẽ là do hoàn cảnh và nền giáo dục mà Trương hấp thụ. 1. Họ Trương được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình có đạo, và "thành người" trong chính sách giáo dục của thực dân đế quốc nhằm biến đổi con người trong các xứ thuộc địa trở thành công dân của kẻ đi chinh phục. Mặc dầu có học Tứ Thư Ngũ Kinh nhưng Trương Vĩnh Ký chẳng tiếp thu được tinh thần trung quân ái quốc vì lúc đó ông ta chỉ mới 11 tuổi. 2. Nhiều tín đồ Công giáo thời bấy giờ được hiểu là "những người Pháp tay trong, lưng mềm dễ uốn, chạy theo chủ mới". Nói như giám mục Puginier: "Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gảy hết càng". (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes). Hiểm họa nội thù nầy càng làm cho triều đình Việt Nam thêm có lý do để "cấm đạo", và Trương Vĩnh Ký, một con chiên ngoan đạo, cũng càng có thêm lý do để ngã về Tây. 3. Thêm vào đó, Trương Vĩnh Ký là con của một gia đình đạo dòng, lại được một giáo sĩ thực dân nhận làm con nuôi, đưa vào đào tạo tại chủng viện Pinhalu (Nam Vang) rồi chủng viện Pénang (Mã Lai). Tại những nơi nầy, mà phần lớn do các cố đạo thực dân Pháp điều khiển, chương trình đào tạo nhắm vào hai mục tiêu chính: đào tạo cho Pháp một tập đoàn làm thông ngôn, làm thơ ký tại những vùng đã chiếm đóng để thực hiện chương trình đồng hóa và dễ dàng đi chiếm thêm những vùng còn lại. Mục đích thứ hai của nền giáo dục nầy là để đào tạo những người Việt Nam Công giáo, chứ không phải đào tạo những người Công giáo Việt Nam. Một viên chức thực dân người Pháp, đô đốc Page, cũng cho biết thêm: "Ngoài ra không một người Việt Nam nào theo Công giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ Ngài (Bộ trưởng) đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?" (Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enrôler comme soldat sous le drapeau francais, le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. "Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis?" (Depêche de l'Amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4-777. Cité par CHT, p. 129). Một người Pháp khác, đại tá Bernard cũng nhận xét: "Bị săn đuổi ra khỏi làng vì tội phạm hoặc sự khốn cùng, những kẻ lang thang đã đến đây với một lưng mềm dễ uốn, tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc, sẵn sàng phụng sự bất cứ ông chủ nào...Chính trong bọn nầy mà người ta sẽ tuyển dụng, trong số họ, tất cả những nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, phu khuân vác, làm người chạy giấy, và cả những tên thông ngôn, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo. Chính qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà đoàn thực dân và công chức vừa mới đổ bộ, đã làm quen được với dân tộc Việt nam..." (Les vagabonds", ecrit le colonel Bernard, "chassés de leur village par la misère ou le crime, arrivaient, l'échine souple; pris de l'âpre désir de vivre, insoucieux de la lutte nationale, prêts à servir tous les maitres. C'est parmi eux que l'on recruta tout le personnel nécessaire à l'administration ou aux besognes domestiques: boys, coolies, plantons, et aussi des interprètes et des copistes, grossièrement formés dans les écoles de la mission. C'est au contact de ces misérables que les colons ou les fonctionnaires fraichement débarqués firent connaissance avec le peuple d'Annam...Dẫn theo Nguyễn Xuân Thọ, trong Histoire de La Penetration Francaise au Vietnam, 1858-1897, p. 126-127). 4. Mặc dầu Trương Vĩnh Ký thông minh biết nhiều thứ tiếng, nhưng vì quá cuồng tín, bị các giáo sĩ thực dân tuyên truyền nên cứ nghĩ rằng việc Pháp chinh phục Viễn Đông, trong đó có Việt Nam, là do ý của Thượng Đế sai phái nước Pháp làm như vậy. Trong thư gởi ông Koenfen, giám đốc Viện Mỹ Thuật Paris, họ Trương viết: "Các xứ Viễn Đông...già cổi đủ thứ nên đã đến lúc phải làm cho chúng tái sinh và cải cách chúng: song ai được giao phó cho cái quyền ủy nhiệm cao quí đó? Ấy chính là nước Pháp được Thượng Đế tín cẩn giao cho..." Trong thư gởi bác sĩ A. Chavanne, nói ở một đoạn trên, cựu giáo sĩ Trương Vĩnh Ký cũng viết: "...cái vương quốc An Nam khổ sở nầy mà chính phủ Pháp sẽ làm giám hộ, là có một sự biến thuộc về Thiên ý kêu gọi đến..." Đáng tội nghiệp cho Trương Vĩnh Ký, quá ngây thơ để không biết được rằng mục đích của các đế quốc Tây phương là lợi dụng tôn giáo và dùng cuốn Thánh Kinh như một lợi khí; để đi chiếm thuộc địa và xâm thực văn hóa bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào mà họ thấy có thể. Bởi vậy, một người Phi Châu, giám mục Anh giáo Desmond Tutu, được giải thưởng Nobel hòa bình năm 1984, đã cay đắng phát biểu: "Khi người da trắng đến, họ có cuốn Kinh Thánh, chúng tôi có đất đai. Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm mắt cầu nguyện với cuốn Kinh Thánh trong tay. Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Kinh Thánh còn họ có tất cả đất đai lãnh thổ của chúng tôi". (We have our lands and they came with their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands). 5. Việc Trương Vĩnh Ký cong lưng làm tay sai cho Pháp cũng không loại bỏ một động cơ khác là vì danh và lợi. Danh, được chính phủ thực dân ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẵng Bắc Đẩu Bội Tinh, và được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách của họ Trương và cấp cho Trương bỗng lộc hậu hỉ. Lương mỗi năm của Trương là 13.800 quan, kể cả tiền dạy học, trong lúc lương của ông Thống đốc Nam-kỳ cũng chỉ có 18.000 quan. Lương ông Tổng thư ký là 15.000 quan. Như vậy lương họ Trương đứng hàng thứ ba sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. ● Kết luận Với những chứng cớ quá rõ ràng qua các văn thư do chính Trương Vĩnh Ký và các viên chức cao cấp thực dân Pháp viết, chúng ta có thể kết luận dứt khoát rằng Trương Vĩnh Ký là một người phản bội tổ quốc. Ông không có một mảy may công lao nào đối với dân tộc, ngược lại, ông hoàn toàn là kẻ có tội. Từ những ý đồ và hành động chính trị, cho đến các công trình mang tính văn hóa nói chung của họ Trương, tất cả chỉ xoáy vào một mục đích duy nhất là phục vụ cho chính sách thực dân Pháp để nô lệ và đồng hóa dân tộc ta. Do đó, những tên đường, tên trường, tên các hội ái hữu được dùng để vinh danh Trương Vĩnh Ký có cần được tháo gở và hủy bỏ hẵn để tránh bị lịch sử phê phán hay không? Thái độ nghiêm túc, dứt khoát và đúng đắn với Trương Vĩnh Ký cũng cần được áp dụng cho những tên tay sai và gián điệp khác như Nguyễn Trường Tộ, Alexandre de Rhodes (Cha Đắc Lộ), Trần Lục, Ngô Đình Diệm … để hậu thế xem đó như một bài học cần thiết cho việc vun bồi lòng yêu nước. Dẫu ai vì lý do nào đó mà vẫn còn vinh danh ông, nhưng những hành động Việt gian và gián điệp văn hóa cho thực dân Pháp của họ Trương có thể tẩy xóa ra khỏi lịch sử được không? nhất là những dữ kiện lịch sử ấy lại do chính họ Trương viết. Bùi Kha (1) Nguyễn Sinh Duy:” Trương Vĩnh Ký, Cuốn sổ bình sanh” do nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học tái bản năm 2004, được bổ sung nhiều tài liệu và hình ảnh mới. Giáo sư Trần Thanh Đạm viết lời tựa. * Các chữ đậm lúc trích dẫn là ý của chúng tôi muốn nhấn mạnh. * Pène Siefert là một linh mục người Pháp * Thư không thấy đề ngày. Còn Ban Duyệt Xét là Hội Đồng Thuộc Địa của thực dân Pháp ở Nam-kỳ. * Người yếu (An Nam) cần dựa vào người mạnh (Pháp) đưa mình lên bằng người khỏe. Còn lâu bọn thực dân mới để cho người Việt bằng với người Pháp. (2) Toàn bộ bức thư này được Giáo sư P. J. Honey ở School of Oriental and African Studies, University of London, công bố trong tác phẩm Voyage to Tonking in the Year of Ất Hợi (1876)
-
BỐN NGÀN NĂM VĂN HIẾN Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC Vấn đề dân tộc Việt Nam có “bốn ngàn năm văn hiến” như các nhà văn hóa hiện nay đã tuyên bố khiến cho trong giới thanh niên trí thức thắc mắc và nghi ngờ, không biết hai chữ “văn hiến” có ý nghĩa gì, và căn cứ vào đâu để nói với cả một tin tưởng. Nguyễn Trãi, khi giúp Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, xây dựng lại nền độc lập, tự trị của nước nhà cũng chỉ tuyên cáo với quốc dân: Duy ngã Việt chí quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực kỳ thù Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Việt, Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương. (Bình Ngô Đại Cáo) Nghĩa là: Thử xét nước nhà Đại Việt Vốn thật một nước văn hiến Núi sông khu vực đã khác biệt Phong tục phương Bắc, phương Nam không giống. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần dựng nên nước ta Với Hán, Đường, Tống, Nguyên ai nấy làm chúa một phương. Đấy là Nguyễn Trãi, muốn cổ võ cho tinh thần quốc gia dân tộc mà cũng chỉ dám kể từ nhà Triệu, tự xưng là Nam Việt vương đóng đô ở Phiên Ngung ngày nay là Quảng Châu tỉnh Quảng Đông vào năm 237 tr.cn. Như vậy thì lấy đâu ra 4000 năm văn hiến? Nói đến Văn hiến là ngụ ý có văn chương bút ký và người hiền tài, có công trình xây dựng cho nước, cho dân mà đời sau còn tôn thờ làm Anh hùng Dân tộc. Nói “Bốn ngàn năm văn hiến” của Việt Nam chẳng hóa ra ngoa ngôn cuồng tín hay sao? Khổng Phu tử xưa kia nói đến nước Hạ, nước Âu cũng chỉ dám tuyên bố: Hạ lễ ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã. Ân lễ ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã. Văn hiến bất túc, cố dã! (Luận ngữ – Bát dật) Nghĩa là: Chế độ nhà Hạ ta có thể nói được mà nước Kỷ là dòng dõi nhà Hạ không còn gì đủ chứng lời ta. Chế độ nhà Ân ta có thể nói được mà nước Tống là dòng dõi nhà Ân không còn gì đủ chứng lời ta. Xem thế đủ thấy nhà sử gia có lương tâm của một người học giả phải thận trọng điều mình nói, mình viết là nhường nào! Nay nói “bốn ngàn năm văn hiến” có nghĩa là bốn ngàn năm nước Việt Nam đã có văn học và người hiền, vậy thì lấy gì làm chứng cứ? Lại theo quốc sử, vua Trần Nhân Tông khi sai Quốc Tuấn ra chận đánh quân Nguyên có ban cho câu thơ nhắc đến Việt tộc: Cối kê cựu sự quân tu kỳ Hoan Diễn do tồn thập vạn binh. Nghĩa là: Chuyện cũ ở kinh đô Cối kê của Việt vương Câu Tiễn, ông nên nhớ, Châu Hoan, châu Diễn (Thanh Hóa, Nghệ An) còn có mười vạn quân. Ở đây, Trần Nhân Tông đã nhắc đến dòng dõi nhà Trần ngược dòng lịch sử đến thời oanh liệt và nhục nhã của ông Tổ xa xăm là Việt vương Câu Tiễn, đóng đô ở Cối Kê miền Triết Giang bên Tầu. Theo “Sử ký Tư Mã Thiên” mục “Việt vương Câu Tiễn thế gia” q.41, ch.11: “Việt vương Câu Tiễn dòng dõi vua Vũ mà là con thứ của vua Hạ hậu Thiếu Khang (2079 tr.cn) được phong ở Cối Kê để thừa tự họ Vũ. Vẽ mình cắt tóc, phá cỏ rậm để lập ấp, sau hơn 20 đời đến Ô Doãn Thường. Doãn Thường bấy giờ cùng với vua Ngô Hạp Lư đánh nhau gây thành oán thù lẫn nhau. Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn được nối ngôi làm vua Việt. Năm đầu vua nước Ngô là Hạp Lư nghe tin Doãn Thường đã chết mới kéo quân sang đánh nước Việt, Việt vương Câu Tiễn dùng mưu đem ba trăm tử tù đến trước cửa doanh vua Ngô, bầy hàng hô lên rồi tự đâm vào cổ chết. Quân vua Ngô ra xem, quân Việt nhân thế đánh tập kích quân Ngô, quân Ngô thua ở Tuy lý, quân Việt bắn trúng vua Ngô Hạp Lư, Hạp Lư bị thương rồi chết, bảo với con là Phù Sai rằng: “Không được quên mối thù đối với nước Việt!” Ba năm Câu Tiễn thấy vua Ngô Phù Sai đêm ngày luyện quân sĩ để báo thù nước Việt. Nước Việt muốn đánh Ngô trước khi nước Ngô chưa động binh. Phạm Lãi can vua rằng: “Không nên. Tôi nghe dạy rằng binh đao là đồ dữ, đánh nhau là cái đức tính ngược, tranh dành là việc hèn mạt vậy. Âm mưu, bạo ngược, thích dùng khí giới dữ tợn, đem thân thí nghiệm vào công việc hèn mạt ấy là điều Thượng Đế ngăn cấm, kẻ làm điều ấy không có lợi ích!” Vua Việt nói: “Ta đã quyết định rồi!” Vua kéo quân đi đánh nước Ngô. Vua nước Ngô được tin mới đem quân tinh nhuệ đánh quân Việt bại ở Phù tiêu. Vua Việt mới thu quân còn lại 5000 người về giữ ở Cối Kê. Vua Ngô đuổi đánh vây Côi Kê. Vua Việt gọi Phạm Lãi lại nói: “Vì không nghe lời ông cho nên đến nỗi này, biết sao bây giờ?” Lãi tâu: “Đầy mà không tràn là đạo Trời, khiêm nhường là đạo người, tiết dụng là theo phép đất: Đưa đồ lễ hậu sang, lấy lời nói nhún nhường của khúm núm, không để cho lấy nước Việt mà tự đem thân mình sang hầu hạ!” Nếu căn cứ vào dòng dõi Việt vương Câu Tiễn thì theo bộ sử cổ điển nhất của Tư Mã Thiên, một sử gia danh tiếng thế kỷ I trước công nguyên thì chủng tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhà Hạ bên Tàu (2205-1770 tr.cn) mà họ Hồng Bàng theo Việt sử có từ 2879 tr.cn, bắt đầu từ Kinh Dương Vương, truyền đến Hùng Vương tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Phong Châu theo sử cũ thì phía Đông đến bể, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam tiếp giáp với Hồ tôn. (Việt sử tiêu án) “Việt sử lược” là bộ sử đầu tiên của Việt Nam cũng viết rõ hơn: “Xưa Hoàng Đế dựng muôn nước thấy Giao Chỉ ở xa ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được bèn chia giới hạn ở góc Tây Nam". “Đến đời Thánh vương nhà Chu (1024-1005 tr.cn) Việt Thường thị mới đem dâng bạch trĩ, sách Xuân Thu, gọi là Khuyết địa Đài ký (Lễ ký Đại Đái, Tiểu Đái chú) gọi là Điêu đề". “Đến đời Trung vương nhà Chu (696-682 tr.cn) ở bộ Gia Ninh (tức là Mê Linh nhà Hán. Phong Châu đời Đường quê hương của Trưng Trắc mà theo truyền thuyết là dòng dõi Hùng Vương) có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong thục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn (505-465 tr.cn) đã sai sứ tới dụ, Hùng Vương chống cự lại. “Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu. “Cuối đời Trần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm Nam Hải, Tượng Quận, xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung, quốc hiệu là Việt, tự xưng là Vũ Vương” (Việt Sử lược I, 1b) Trong các đoạn văn sử kiện chính thức của Tàu và Ta thì có điểm nào là sự thực, điểm nào là truyền thuyết? Ông giáo sư Henri Maspéro, trường E.F.E.O, Viễn Đông bác cổ học viện, có căn cứ vào hai chữ Văn Lang để mô tả xã hội xưa của giống người Việt trên đất Giao Chỉ. Truy nguyên hai chữ Văn Lang, H.Maspéro viết: “có sự lầm lẫn giữa chữ Văn Lang với chữ Dạ Lang. Sự sai lầm không phải hoàn toàn là một giả thuyết; những bản văn chứng rằng sự lầm lẫn đó đã xảy ra thực. Sách “Thông điển” viết: “Phong châu là nước Văn Lang cũ và chú thích rằng hiện nay có con sông con gọi là sông Văn Lang” (q.184 tr.25b). Sách “Nguyên hòa quận huyện chí” lại viết: “Phong châu là tên nước Dạ Lang cũ. Thực vậy, hiện nay thuộc huyện Tân Xương có con sông Dạ Lang. thế mà vào khoảng đầu đời nhà Hán có một nước Mèo ở về phía Nam Trung Hoa tên gọi là Dạ Lang chiếm một phần tỉnh Quảng Tây và Quế Châu. Về phía Tây giáp nước Điều của người Lô Lô miền Tây tỉnh Vân Nam bấy giờ, phía Đông hồ Vân Nam. Nhưng người ta biết rằng nước Mèo đã quy phục nhà Hán năm 111 tr.cn và gọi là Kiện Vi. Sau này quận đó chia làm hai, quận Kiện Vi ở phía bắc và quận Thương Ngô ở về phía nam. Nếu muốn biết rõ biên giới của hai quận này thì cũng không khó khăn lắm. cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Vi phía Bắc và phía Tây giáp sông Dương Tử giang ngăn quận Kiện vi với quận Ba. Còn quận Thương Ngô thì phía Bắc giáp quận Kiên Vi, phía Tây giáp quận Tấn Ninh tức là nước Điền cũ, phía Đông Bắc giáp quận Vũ Lăng tức là quận Kiến Trung đời nhà Tấn. Ở đó có hồ Động Đình” (H.Maspéro, Le royaume de Văn Lang, BEFEO t.XVIII 3, 1918) “Vậy người ta có thể nói rằng, nước Dạ Lang một mặt thì giáp quận Ba Thục và một mặt thì giáp hồ Động Đình”. Đấy là Văn Lang về khu vực địa lý. Maspéro còn truy nguyên Văn Lang về ý nghĩa chủng tộc nữa như sau: “Nhưng cái tên Văn Lang ở đâu mà ra? Một tên không thấy nói đến trong văn chương đời xưa cho tới thời Đường xuất hiện một cách đột nhiên, và lúc bấy giờ đã bị lầm với tên Dạ Lang. Phải chăng người ta tự hỏi cái tên đó là do một sự lẫn lộn khác? Sách “Lâm ấp ký” đặt về phía Nam huyện Chu ngô trong hạt Nhật Nam, nơi có giống mọi gọi là Văn Lang (sách Thuỷ kinh chú, Thái bình hoàn vũ ký cũng có ghi như thế). Họ không biết xây nhà, ở trên cây, ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Họ lấy tên họ đặt cho con sông phía Nam huyện ấy. Văn Lang Cứu…. Sau này họ lại lầm Văn Lang với Dạ Lang thành thử họ cho Văn Lang ở quận Phong thuộc địa phận huyện Bạch Hạc và Việt Trì ngày nay, đồng thời lại viết lầm hai chữ mà sử gia Việt Nam đã chép theo”. Đoạn văn suy diễn trên đây của Maspéroo toàn là suy từ giả thiết lầm chữ nọ ra chữ kia của người xưa, thật cũng khó cho chúng ta tin, duy có chữ Văn Lang là tên một giống người ở phương Nam Trung Hoa là đáng cho chúng ta để ý. Sách sử ký của Tư Mã Thiên chép lại đoạn văn ở Chiến Quốc sách (q.6 tờ 21) thế kỷ thứ III tr.cn: “tiễn phát văn thân thố tí tả nhậm Âu Việt chi dân dã” (Sử ký q.43 tờ 9). Sách Hoài Nam tử (q.1 tờ 4) cũng có đoạn viết về tục người Việt, và là tài liệu xưa nhất về ký chú: “Cửu nghi chi Nam lục sự quả nhi thuỷ sự chúng. Ư thi dân nhân bị phát văn thân dĩ tượng lân trùng”. Nghĩa là: “Phía nam Cửu Nghi (tức Thương Ngô) người ta làm việc trên bộ ít mà làm việc dưới nước nhiều. Bởi thế nên nhân dân cắt tóc ngắn, vẽ mình để bắt chước thuồng luồng”. Theo giáo sư La Hương Lâm là nhà sử học danh tiếng Trung Quốc hiện đại, trong tác phẩm “Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa”: Việt tộc thời cổ lấy cắt tóc vẽ mình “bị phát văn thân” làm dấu hiệu đặc trưng duy nhất. Mặc tử thiên “Cống Mạnh” “Việt vương Câu Tiễn phát văn thân”. Hàn Phi tử thiên Thuyết lâm: “Lũ vì lý chi dã, nhi Việt nhân tiện hành, cảo vi quán chi dã, nhi Việt nhân bị phát”: “dép gai làm giầy mà người Việt đi chân, the lụa làm mũ mà người Việt búi tóc”. “Hán thư địa lý chí” viết: “Nay Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều là địa phận của người Việt, là sau vua Vũ, con thứ vua Thiếu Khang Đế, được phong ấp ở Cối Kê, vẽ mình cắt tóc để tránh cái hại về giao long, thuồng luồng, cá sấu”. Tóm lại, các sách cổ Hán văn đều ghi từ kỷ nguyên trước kỷ nguyên Thiên Chúa, ở phương Nam nước Tàu ngày nay có một giống người có tục vẽ mình, Văn Lang phân chia ra nhiều bộ lạc mà sử gia giáo thụ La Hương Lâm đã kê cứu: Ô Việt, Âu Việt, Mân Việt, Dương Việt, Sơn Việt, Nam Việt, Lạc Việt, Tây Ấu Việt, Việt Thường, Đan Việt, Đằng Việt, Điều Việt, Việt Tuỷ, Cứu Việt, Dạ Lang, Quỳ Việt v.v… Đấy là tổng danh Bách Việt vậy. Giáo sư L.E.Aurousseau trường Viễn Đông bác cổ cũng căn cứ cái tục Văn Lang, nghĩa đen là bộ lạc giống người vẽ mình để truy nguyên nói giống Việt, căn cứ vào đoạn văn Sử ký sau đây: “Tiễn phát văn thân thố tí tả nhậm Âu Việt chi dân dã” (Sử ký q.43 tờ 9) Nghĩa là: “Cắt tóc vẽ mình, khoanh tay, cài bên trái, đấy là tục của dân Âu Việt”. Và chú giải của Tư Mã Thành rằng: “Họ Lưu bảo ngày nay (đầu thế kỷ thứ VIII) người quận Châu Nhai và Đàm Nhĩ có Âu Việt”. Trương Thủ Tiết (737) giải thích: “Tôi nghĩ gọi là Âu Việt bởi vì dân ấy thuộc về Nam Việt. Theo “Dư Địa chí” thì Giao Chỉ là xứ Lạc Việt thời nhà Chu (841-256 tr.cn), đến thời nhà Tần gọi là Tây Âu. Vẽ mình, ngắn tóc để tránh rồng (cá sấu). Nếu người ta gọi là Âu Lạc phía Tây (Tây Âu Lạc) là cũng vì xứ ấy ở về Tây Nam quận Phiên Ngung. Việt với Âu Lạc đều họ Mi. Thế Bản nói người Việt họ Mi cùng với người Sở một tổ vậy.” Rồi Aurousseau suy luận rằng: “Đoạn văn sử ký Tư Mã Thiên với lời chú giải và văn trích dẫn rất đáng chú ý về nhiều mặt. Những nét phong tục phác họa ở đấy ứng dụng vào cho nhân dân miền Lưỡng Quảng và Bắc kỳ hiện nay vào thời thế kỷ thứ III thứ II tr.cn. Không có gì phân biệt giữa nhân dân trên lãnh thổ rộng lớn ấy cả. Điều ấy rất hợp cho các bộ lạc miền cực Nam là dân An nam tr.cn cho nên có thể kết luận là toàn thể nhân dân tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và đảo Hải Nam là giống người Việt Nam trước thế kỷ II tr.cn. Một danh từ nhân chủng là Việt chỉ định tổng quát. “Mặt khác, một tên họ Mi thời ấy được xác nhận cho người Việt – Việt Quảng Đông và Việt Phúc Kiến. Như vậy có sự quan hệ mật thiết về dòng dõi giữa nhân dân Phúc Kiến và nhân dân các xứ Việt Nam vào thế kỷ thứ III tr.cn. “Danh từ Việt vào giữa thế kỷ thứ IV trước kỷ nguyên Thiên Chúa còn ứng dụng cho một nước mà kinh đô ở tại tỉnh Thiệu Hưng (Triết Giang) ngày nay. Theo tôi hiểu thì nhân dân của nước ấy là nước Đại Việt thuộc về nòi giống Việt phương Nam tức là giống người Việt Nam vậy. “Thực thế, Tư Mã Thiên nói ở thiên sách sử ký về “Việt thế gia!”: Tổ Câu Tiễn là dòng vua Vũ… Văn thân đoạn phát… Danh từ “văn thân đoạn phát” đúng như danh từ được dùng “Chiến Quốc sách” (thế kỷ III tr.cn) ở sử ký (cuối thế kỷ II tr.cn) và ở “Tiền Hán Thư” (thế kỷ I đầu kỷ nguyên) để nói về phong tục giống nhau của giống người Việt, Việt phương Nam và Âu Việt tức Việt Nam. “Một tác phẩm khác cổ xưa, chuyên nói về sự suy bại của nước Việt là “Việt tuyệt thư” (thế kỷ I kỷ nguyên tây lịch) cũng nói ở mục Bản sự rằng: “Vua Việt Câu Tiễn, ở miền duyên hải phía Đông và cai trị một dân mọi vẽ mình”. Cái tên Việt với tục “văn thân” giống nhau ấy là xác chứng danh từ Việt phổ thông chỉ định vào thế kỷ III tr.cn cho toàn thể chủng tộc nhân dân các tỉnh Trung Hoa miền Nam và các xứ Việt Nam. “Cùng một nhân chủng Việt, cùng một họ Mi và cùng một phong tục, như vậy phải kết luận rằng người Việt Nam nguồn gốc ở nước Việt xưa, thiết dựng tại miền Triết Giang từ bao giờ không biết và, lần đầu thấy ở trong lịch sử chính thức vào cuối thế kỷ IV trước công nguyên” (L.Aurousseau, La première conquête chinoise des pays Annamite (IIIè siècle avant notre ère) BEFEO, t.XXIX, 1929). Vậy có thể nói chắc rằng thời cổ xưa ở miền Nam nước Trung Hoa có một giống người theo tục vẽ mình gọi là “Văn thân, Văn Lang” phân biệt với giống người Hán tộc ở trên phía bắc Trung Hoa, trong lưu vực Hoàng Hà, còn lưu vực Dương Tử kể từ nước Sở trở xuống là khu vực sinh hoạt của Việt tộc Văn Lang, họ Mi gọi chung là Bách Việt, mà Việt vương Câu Tiễn ở kinh đô Cối Kê, miền Triết Giang đã từng có một thời đế bá oanh liệt. Bởi thế nên trong thơ “Sở từ” của Khuất Nguyên mới có lời ai oán, tiếc nhớ: Răng đen mình trổ dọc ngang. Và lời thơ của vua Trần Nhân Tông giữa lúc vận nước điêu linh đã nói cho thượng tướng thống lĩnh quân dân cứu quốc” Cối Kê cựu sự quân tu kỳ! Như đã dẫn trên để chứng minh nhà Trần vẫn nghĩ đến dòng dõi Việt tộc Câu Tiễn ở Triết Giang thưở xưa. Hơn nữa chính sử của ta đều chép về nhà Trần sự kiện sau đây: “Thượng hoàng (Nhân Tông) thường ra ngự cung Trùng Quang. Vua Anh Tông đến chầu có Quốc Công, Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: Dòng nhà ta vốn sống nghề thuyền chài, đời đời hùng dũng ai ai đều xâm vẽ ở đùi. Đời nọ sang đời kia chuộng võ nghệ nên phải xem xâm vẽ đùi tỏ ra không quên gốc. Bấy giờ người thợ xâm mình đang chờ ở cửa để thừa hành mệnh lệnh. Vua Anh Tông liếc thấy Thượng Hoàng nhìn đi chỗ khác bèn bỏ về cung Trùng Hoa. Một lát sau Thượng Hoàng hỏi: Vua đâu? Tả hữu tâu rằng Vua đã về cung Trùng Hoa. Thượng Hoàng nói: Vua đã trốn chăng? Mới chỉ xâm mình cho Huệ Vũ Vương, Quốc Trân Vương, Hưng Đạo Vương ở đùi cái hình rồng “loa thoa”. Từ đấy về sau các vua nối nghiệp nhà Trần không xâm vẽ đùi nữa là bắt đầu từ vua Anh Tông vậy. “Buổi đầu lập quốc nhà Trần, quân sĩ đều cùng xâm hình rồng ở bụng, ở lưng và ở hai bên đùi, gọi là “thái long”, “vẽ rồng”. Bởi vậy mà lái buôn nhà Tống thấy dân Việt ta vẽ hình rồng vào thân mình mới bảo là giống thuồng luồng biển sợ hình rồng, thuyền đi biển gặp gió chìm đắm thì thuồng luồng không dám làm hại cho nên tự gọi là “thái long, vẽ rồng” vậy”. Xem đấy đủ thấy rằng không những ở giới lãnh đạo những người hiền năng “văn hiến” thuộc người phương bắc di cư xuống Việt Nam, lai máu định cư ở đấy lâu năm với người bản xứ, mà còn có cả lớp người bình dân như dòng Việt tộc phương Nam Trung Hoa đã di cư xuống Việt Nam còn giữ những tập tục cổ truyền Văn Lang. Ngoài ra, bên cạnh cái nền Văn hiến dòng Việt Câu Tiễn trong nền Văn hiến Việt Nam kể từ thế kỷ thứ IV, thuộc về sử kiện lịch sử, ngày nay người ta lại chứng minh cách chính xác sự có thật của Văn hiến Ba Thục (Tứ Xuyên) trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Theo Lã Sĩ Bằng trong tác phẩm “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” do “Đại học Trung văn” ở Hương Cảng xuất bản có trình bày sự kiện về tiền sử văn hóa Thục Việt như sau: “Qua sự khai quật khảo cổ cận đại, người ta thấy hai khu vực văn hóa trên rất giống nhau. Sự phát hiện về tiền sử ở Tứ Xuyên có thể phân ra 4 thời kỷ đồ đá: - thời đồ đã đẽo, - thời đồ đá truốt đẽo. - thời đồ đá đẽo - thời đồ đá mài sáng Trong bốn loại ấy, thì loại thứ 1 và thứ 2 thấy ở tầng lớp vị trí trước sau rõ ràng giống hệt với văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn ở Việt Nam. Như thế có nghĩa là thời đại Trung thạch khí (Mesolithic) ở Tứ Xuyên đến thời đại Á tân thạch khí (subsolithic) thì giống với văn hóa Việt Nam thời đại Hòa Bình Trung thạch khí, và thời đại Bắc Sơn nguyên tân thạch khí. Đại thể thì kỹ thuật thời tiền sử của hai khu vực văn hóa đó là một, có đường lối thông đồng. Chủ nhân của văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam thuộc về chủng tộc “Proto-Australoid” và “Proto-Melanésoid”, còn chủ nhân của văn hóa Bắc Sơn thành phần chủ yếu thuộc về “Indonesian” và “Proto-Melanésoid”. Về văn hóa thời đại Thanh đồng thuộc đồ kim khí ở Việt Nam gọi là văn hóa Đông Sơn lấy Trống đồng đại biểu cho nên gọi là văn hóa Trống đồng. Di tích phát hiện Trống đồng thấy ở một khu vực địa lý rộng lớn chu vi gồm lục địa Đông Nam Á, bán đảo hải đảo từ Tứ Xuyên cho đến quần đảo Malacca. Theo giáo sư Lăng Thuần Thanh từng nghiên cứu thì bắt đầu khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt mà Hoa trung là địa khu từ xưa của dân tộc Bách Việt chiếm cứ sinh hoạt. Theo sự phát hiện trống đồng tối cổ ở Hoa trung thì thấy nhiều nhất ở huyện Hưng Văn tỉnh Tứ Xuyên. Còn ở bán đảo Đông Dương thì trống đồng Lạc Việt ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ là có danh tiếng hơn cả. F.Heger, nhà khảo cổ học gọi trống đồng Lạc Việt thuộc hạng thứ nhất. Khảo về dân tộc Bách Việt thời cổ, bao hàm Bách Việt miền Đông Nam với Bách Bộc miền Tây nam Trung Quốc thấy rằng thời cổ xưa khu vực địa lý của nước Thục với Bách Việt vốn liền với nhau. Theo “Hoa dương quốc chí” q.3 Thục chí: “Vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ cùng với nước Thục. Đất Thục phía đông liền với nước Ba, phía Nam giáp với nước Việt, phía bắc phân giới với nước Tần, phía Tây gồm núi Ngọ và núi Phồn, đất ấy xưng là Thiên Phủ”. Nước Thục giao thông với bên ngoài rất phát đạt. Sự giao thông ấy lấy Điền (Vân Nam) và đất Kiềm làm chủ yếu, mà sự mở mang đất Vân Nam lại hướng vào nước Thục làm trọng tâm để buôn bán mậu dịch. Vân Nam với Bắc Việt liền tiếp với nhau, từ thời cổ xưa hai miền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ Xuyên với Bắc Việt chắc hẳn là tấp nập. Bấy giờ miền hạ lưu sông Trường Giang chưa có ảnh hưởng khai hóa của Hán tộc, mãi đến thời Chiến quốc (dân mà người Hán gọi là man di phía Tây trong vùng Tứ Xuyên – Bắc Việt, và “Tây nam di ở Điền, Kiềm (Vân Nam, Quý Châu ngày nay), nước Tần, nước Sở đang đua tranh vũ lực để thôn tính, kết quả là vua nước Sở Trang Kiêu làm vua Điền (Vân Nam) nước Tần, chiếm lấy nước Ba, nước Thục, nước Kiềm tức Quý Châu. Theo Hoa dương quốc chí q.1 Ba chí viết: “Chu Thuận (Thuyến) làm vua 5 năm (316 tr.cn) vua nước Thục đánh chúa Tư, chúa Tư chạy vào nước Ba, nước Ba xin nước Tàu cứu. Vua Tần Huệ Văn sai Trương Nghi, Tư Mã Thác đi cứu nước Tư, Ba, bèn đánh nước Thục mà diệt đi. Từ Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm (316 tr.cn) nước Thục mất về nước Tàu, cho đến Chu Báo làm vua 58 năm (257 tr.cn) An Dương Vương là Thục Phán xưng vua ở Việt Nam, thời gian cách nhau là 59 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người dân nước Thục chịu sự áp bách của thế lực quân sự nhà Tần, tập đoàn chống đối quân Tân dần dần đi xuống phương Nam, đi vào bắc bộ Việt Nam, cùng với vua Hùng nước Văn Lang đánh nhau tranh dành. Lúc đầu, vì thế lực còn yếu, luôn luôn bị thua, mãi sau mới chinh phục được Văn Lang. Về việc An Dương Vương từ nước Thục đi vào nước Việt, thì sách sử của Tàu và Việt đều không ghi chép lịch trình tiến triển, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước Tần và nước Thục có thể tìm thấy dấu vết ở cuộc thiên di về phương Nam của tập đoàn vương thất nước Thục chống đối với nhà Tần. “Hoa dương quốc chí” q.3 mục Thục chí viết: Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm, quan đại phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô Uý Mặc cùng theo đường Thạch Ngưu đánh nước Thục. Vua nước Thục từ đất Hạ Manh chống cự, thất bại, vua chạy trốn đến đất Vũ Dương bị quân Tần giết hại. Tướng, Phó cùng Thái tử rút lui về Bàng Hương, chết ở dưới núi Bạch Lộc, họ Khai Minh mới hết, làm vua nước Thục 22 đời.” Lã Sĩ Bằng trong “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” suy diễn sử kiện trên đây như sau: “Xét về việc vua Thục bị ở đất Vũ Dương, ngày nay là Bái Sơn vị trí ở phía nam Thành đô, tên bờ sông Manh khoảng giữa đến như Bàng hương núi Bạch Lộc ngày nay ở đâu thì hông thể tìm xét, chỉ nên hiểu là ở phía nam núi Bành, thế nhân vì quân Tần từ phía bắc xuống miền Nam, tập đoàn ngừơi Thục chống đối quân Tần bị thua mà hướng phương Nam để thoát lui vậy. Từ đấy về sau 59 năm có lịch sử đích thực là vua Thục Phán làm vua Việt. Chúng ta có thể suy định rằng vua Thục bị bại ở Vũ Dương, quan Tướng, Phó, Thái tử đều chết ở núi Bạch Lộc, sau đấy đảng vua Thục còn lại mới suy tôn con hay cháu nhà vua lên tiếp tục chạy về phương Nam, theo hạ lưu sông Manh tiến vào khu đất tiếp giáp giữa Qúy Châu và Vân Nam thuộc phạm vi thế lực người Sở… Nhưng khu đất giao tiếp giữa Quý Châu (Kiềm) và Vân Nam (Điền) thời Hán là Trường Kha là đất thuỷ lảo nghèo nàn. Thục vốn là nước Thiên phủ, người Thục khó ở lâu tại đất ấy được, và thế lực quân Tần đang rất mạnh, dòng dõi vua Thục hết hy vọng khôi phục lại đất cũ mới tìm phát triển về phương Nam tiến vào đất bình nguyên Bắc Việt, khí hậu ôn hòa, nông sản phì nhiêu, cùng với Hùng Vương tranh chiến, nhiều phen thất bại đến đời Chu Bảo Vương năm 518 (tr.cn 257) mới chinh phục được Văn Lang. “Sách sử Trung Hoa và Việt Nam đều có ghi nhận giai đoạn lịch sử giữa Thục Phán An Dương Vương đánh nhau chinh phục Hùng Vương” Xem thế đủ biết chắc chắn là có sự cống hiến vào văn hiến nước Việt Nam của nòi giống Bách bộc bên cạnh sự cống hiến của Bách Việt. Sự hiện diện của Bách bộc do Thục An Vương với tập đoàn nhà Thục từ Tứ Xuyên đi xuống qua Quý Châu và Vân Nam phía tây bắc Bắc Việt ngày nay mà di tích là kiểu thành Cổ Loa vốn của nước Ba Thục. Một khi đã chứng nhận có Thục An Dương Vương vào thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Thiên Chúa thì phải công nhận có Hùng Vương của nước Văn Lang, là chủ nhân đất Bắc Việt trước khi tập đoàn vua Thục Phán chinh phục. Căn cứ vào kết quả của khảo cổ học của trường Viễn Đông Bác Cổ trước đây ở Thanh Hóa, Bắc Ninh (Bắc Việt Nam), và ở Óc Eo (Nam Việt Nam), giáo sư Olov Janse hội viên của Viện, đã tổng kết về “Việt Nam ngã ba của dân tộc và văn minh” (carrefour de peuples et de civilisations) ed France-Asie Tokyo 1961, tr.1645: “Theo một ý kiến thông thường trước đây thì văn minh Việt Nam hoàn toàn từ lưu vực sông Dương tử di chuyển xuống vào thế kỷ thứ IV tr.cn. Dân mới đến định cư tại Bắc Việt hiện thời đã mang theo một thứ văn hóa lai Tàu để rồi dần dần trở nên mô thức bản xứ. Thuyết ấy thiếu căn cứ, không dựa vào một cơ sở chắc chắn và không được hoặc khảo cổ học, hoặc ngữ học, hoặc nhân chủng học công nhận ấn chứng. Những phát hiện trong khoảng 30 năm gần đây chứng minh trái lại rằng văn minh Việt Nam đã tuần tự phát triển ở miền Bắc Việt và Trung Việt từ những pha trộn chủng tộc và những cống hiến văn hóa mà nguyên lai phải tìm không những ở Tàu mà là ở các biên giới phía Nam lục địa Á châu. Nếu người ta nghiên cứu về thời gian tính sự thành hình cá tính văn hóa thuần tuý Việt Nam người ta có thể phân thành được ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có một đặc tính kỹ thuật nhất định. Giai đoạn thứ nhất ngày nay gọi là văn minh Đông Sơn bao quát một thời đại giữa kỷ nguyên trước Thiên Chúa đến đầu kỷ nguyên sau Thiên Chúa. Về khu vực địa lý của kỹ thuật này thì thuộc miền tây nam Trung Hoa mà dân cư ở đấy không phải Tàu, bao hàm khắp bán đảo Đông Dương (Indochine) và một phần các xứ ngoại Ấn. Về Việt Nam thì văn minh Đông Sơn phần lớn của dân tộc Proto-Melanésoid Indonesian. Giai đoạn thứ hai là đặc trưng của kỹ thuật Lạch Trường bao quát đại khái ba thế kỷ trước và sau kỷ nguyên Thiên Chúa. Nó chi phối một khu vực không được giới hạn rõ rệt nhưng gồm một phần tây nam Trung Hoa Bắc Việt và một vài tỉnh trung Việt. Văn minh thời kỳ này là của chủng tộc phần lớn nguồn gốc Thái. Hai nhóm trên đây ảnh hưởng quyết định không những vào văn minh Việt Nam mà còn vào cả văn minh của nhân dân miền núi hiện đang sinh hoạt ở tây nam Trung Hoa và phần lớn miền Đông Nam Á. Giai đoạn thứ ba là văn minh Óc Eo mà đặc trưng là kỹ thuật thuộc thời kỳ đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên cho đến năm 500. Nó bao quát một khu vực hãy còn chưa định rõ gồm miền nam Việt Nam và cũng phải đã ảnh hưởng ít nhiều vào các dân tộc sinh hoạt thời ấy theo bờ biển phía bắc đến tận Thanh Hóa. Văn minh Óc Eo thuộc hẳn về dân tộc Ấn Độ hay là Indo-Seythe (Nguyệt thị) hình như có giao dịch thông thương trực tiếp hay gián tiếp với miền Cận Đông và Đông La Hy”. Những suy đoán trên đây của nhà khảo cổ học về tiền sử Việt Nam trên dải đất Bắc Việt có vẻ chính xác hơn là những suy luận về tài liệu sử ký Tần. Tiếp tục công cuộc khảo cổ trên đây của trường Viễn Đông, Viễn Bảo tàng Hà Nội năm 1963 có phát hiện ở vị trí Văn điển gần Hà Nội những dụng cụ thuộc về thời kỳ “Nguyên tân thạch khí” (Upper Neolithic). Và ông Văn Tân đã suy đoán rằng: “Những hình dạng, kiểu thức và kỹ thuật sản xuất của chúng, cũng như những chất liệu nhắc lại những phát hiện ở Phùng Nguyên (Phú Thọ có đền Hùng). Vị trí của nơi phát hiện ở trung tâm trung châu chứng minh rằng 5000 năm về trước Tiên tổ chúng ta đã định cư tại đấy” (The beginnings of archaeology in the Democratic Republic of Việt Nam – Xunhasaba – Hanoi) Còn về thời đại đồ đồng thì những phát hiện mới đây ở Bắc Việt vẫn theo tài liệu ông Văn Tân dịch thuật ra Anh ngữ trên đây thì: “Một kho tàng gần 10.000 đầu tên nỏ bằng đồng đã khai quật ở Cổ Loa (kinh đô Thục An Dương Vương gần Hà Nội) ngày 17 tháng 7 năm 1959. Những đầu tên ấy đều lớn khổ, ba cạnh… Tất cả những đầu tên nỏ ấy đều tương tự với đầu tên của người Tàu thời Chiến Quốc (463-200 tr.cn). Ở vị trí Việt Tiên (Phú Thọ) phát hiện năm 1961 trong khoảng đất chu vi 400 thước vuông, người ta thấy những mảnh đất gốm, trang trí rất phong phú, mà đề tài thì tương tự với đề tài trang trí trên đồ khai quật được ở Phùng Nguyên. Hơn nữa, trong sự phát hiện thấy có đến 54,3% đồ bằng đá, điều này chưa từng thấy ởo các vị trí “thời đại đồ đồng” khác. Còn đồ đồng ở đây, phần lớn bị hủy hoại, thì đại khái là đồ nhỏ như lưỡi câu và vòng khuyên hoa tai. Chúng khác hẳn với những đồ phát hiện ở Đông Sơn, do đấy mà có thể kết luận rằng Văn minh Việt tiên (hay Phùng Nguyên) có trước thời Đông Sơn và các thời đồ đồng khác đã được khám phá ở Việt Nam. Tháng 9 ngày 14 năm 1960 sẩy bờ sông lở ở vị trí Dao Thịnh (Yên Bái, phía trên Phú Thọ) làm xuất hiện một cái cóng bằng đồng có nắp cao 0,84m và rộng 0.7m. Trên sườn có trạm trổ hình thuyền, người và chim (như ở trên trống đồng Đông Sơn) trên nắp có 4 đối tượng, đàn ông đàn bà đang giao hợp… Việt lở núi ngày 24 tháng 9 năm 1962 lại làm xuất hiện một cái trống đồng lớn. Theo giáo sư khảo cổ học ngừơi Nga là Boriskoswki đã hướng dẫn Viện lịch sử Hà Nội thì sự phát hiện vị trí Núi Do ở Thanh Hóa chứng minh miền ấy là một trung tâm văn minh thạch khí thời đại cổ nhất. Nó xác nhận cái giả thuyết khoa học cho rằng Việt Nam và toàn cõi Đông Dương là một khu vực có lẽ đã là một trong những cái nôi của nhân loại”. (thuật theo tài liệu đã dẫn trên) Kết luận của khảo cổ Bắc Việt hiện thời trên đây cũng phù hợp với kết luận của nhà khảo cổ Mỹ Wihelm G.Solheim đăng tải ở tạp chí National Geographic Vol 139 n.3 tháng 3-1971, dưới nhan đề “New light on forgotten past”: “Tôi đồng ý với Sauer rằng sự thuần thục các thứ cây ở thế giới đã là công trình của nhân dân thuộc văn hóa Hòa Bình ở một địa điểm Đông Nam Á. Tôi không thấy ngạc nhiên nếu sự kiện bắt đầu sớm nhất từ 15.000 năm trước dương lịch. “Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh có sớm nhất tìm thấy ở miền Bắc châu Uc 20.000 năm trước dương lịch nguyên lai thuộc Hòa Bình. Người ta hiện biết rằng đồ gốm sớm nhất là thấy ở Nhật Bản khoảng 10.000 tr.cn. Tôi mong rằng khi nào có nhiều phát hiện về văn minh Hòa Bình với đồ gốm có dấu dây thừng được quy định thời đại tính, bấy giờ chúng ta sẽ thấy loại đồ gốm ấy là do dân ở Hòa Bình chế tạo vào trước 10.000 tr.cn. “Thuyết tập truyền cho rằng tiền sử Đông Nam Á đã di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy trái lại rằng văn hóa Nguyên tân thạch hệ (proto-neolithic) phía bắc Trung Hoa gọi là văn minh Yang-shao đã do trình độ thấp văn hóa Hòa Bình phát triển lên từ miền bắc Nam Á vào khoảng kỷ nguyên thứ VI hay thứ V tr.cn. “Tôi có ý kiến rằng văn hóa sau này được gọi là Lungshan mà người ta xưa nay vẫn cho nó xuất phát ở Yangshan phía bắc Trung Hoa, rồi mới bành trướng sang phía đông và đông nam, thì thực ra cả hai nền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản Hòa Bình. “Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã được sử dụng trên các dòng sông nhỏ ở Đông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V tr.cn. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài bể bắt đầu khoảng 4000 tr.cn tình cờ đã đi đến Đài Loan và Nhật Bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa màu khác. “Vào khoảng kỷ nguyên thứ III tr.cn các dân tộc Đông Nam Á đã lành nghề đi thuyền mới đi sang các đảo Nam Dương và Phi luật tân. Họ đem theo kiểu nghệ thuật kỷ hà học như các hình vòng tròn, xoáy ốc, hình tam giác và hình chữ nhật vẽ trên đồ gốm, trạm vào gỗ, xâm vào mình, quần áo bằng vỏ cây và sau đến là vải dệt. Đấy là những hình tượng thấy trên đồ đồng ở Đông Sơn (Thanh Hóa) mà có giả thuyết cho nó đã từ Đông Âu đưa đến. “Dân tộc Đông Nam Á cũng đã di chuyển sang phía Tây, đạt tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 trước. Có lẽ họ đã cống hiến một số cây thuần thục cho nền kinh tế miền Đông Phi châu. “Vào khoảng đồng thời ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Địa Trung Hải có lẽ qua đường biển do kết quả của việc thông thương. Một số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc từ Địa Trung Hải cũng đã được tìm thấy ở địa điểm Đông Sơn”. Kết Luận: Với những tài liệu của sử học và khảo cổ học sơ lược trên đây của học giả đáng tin cậy, có quan hệ đến cổ sử dân tộc Việt Nam chúng ta, nay có thể tạm kết luận về “Bốn ngàn năm văn hiến” của nền văn hóa dân tộc. Người ta không còn có thể hoài nghi về di tích Cổ Loa với tên nỏ bằng đồng và triều đại nhà Thục của An Dương Vương vào thế kỷ thứ III tr.cn. Như thế thì cũng không có thể phủ nhận cuộc chinh chiến giữa nhà Hồng Bàng của nước Văn Lang, nước người xâm mình ở di tích Phùng Nguyên tỉnh Phú Thọ, Yên Bái theo bờ sông Hồng Hà ngày nay. Văn hóa Phùng Nguyên đã có đồ đồng đặc biệt là cóng bằng đồng với hình thuyền và người chim trạm trước văn hóa Đông Sơn với đặc trưng biểu hiệu của Trống đồng. Đồ đồng ở đây có trước Trung Hoa 1000 năm, vậy thì Văn Lang, Hồng Bàng hay Lạc Việt ít ra phải có trên 4000 năm văn hiến kể tới nay. Đặc biệt với tinh thần truyền thống dân tộc là cái Trống đồng tiêu biểu cho nền văn hóa Đông Sơn Việt Nam đã từ một dụng cụ kỹ thuật biến thành một đối tượng tín ngưỡng tôn giáo Quốc gia như là một vị Thần linh. Quốc tổ bắt đầu với triều Lý để thành cái Quốc lễ long trọng hàng năm triều đình, từ Vua đến các quan chức đến trước Thần Núi Trống đồng “Đồng cổ sơn thần” để thề trung thành với tổ quốc. Theo Đại Nam nhất thống chí - tỉnh Thanh Hóa chép rằng: “Ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở núi Khả Lao, đêm mơ thấy thần báo mộng bảo vua: “Xin có cái trống đồng và dùi đồng giúp nhà vua thắng trận phen này!” Đến lúc ra trận thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống đồng rồi quả nhiên Vua được toàn thắng. Vua bèn sắc phong là “Đồng cổ Đại vương”. Đời vua Lý Thái Tông khi còn làm Thái tử (1020) vâng mệnh đi đánh Chiêm Thành, đêm mơ thấy một người mình mặc áo nhung, tay cầm bảo kiếm tâu vua rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ xin theo để lập công cùng Thái tử”. Tới khi bình định được giặc liền lập miếu để thờ. Sau khi thái tử lên ngôi lại mộng thấy Thần mang bài thơ đến bảo cho biết là có ba vị vương định gây loạn, sau cả quả nhiên có thật. Nhân thế mới phong chức “Thiên hạ minh chủ” thăng lên làm Thượng đẳng Thần, và hàng năm đắp đàn ở trước cửa đền sai các quan đến lễ và đọc lời thề: “Đạo làm dân một nước, làm con một nhà cốt ở luân thường! Làm con, mà bất hiếu, làm dân mà không hết lòng yêu nước, xin Thần linh ngầm xét, tiêu diệt cả họ!” Ngày nay, nghĩa là trước năm 1945, theo tường thuật của Victor Goloubew (BEFEO t.33-1933) chùa Đồng Cổ trên con đường đi Phủ Quảng, gần bến đò Yên Định sông Mã. Chùa là một ngôi Đình kiến trúc khá xưa. Cái trống đồng để thờ trong chùa ấy được đặt trên cái giá gỗ trạm và sơn son tại trong cung cấm đình trong, bề kính, 0.85m bề cao 0.58m. Bên cạnh Trống có cái biểu gỗ khắc chữ. Đây là bản dịch của Trần Văn Giáp: “Tại phía Tây tỉnh Thanh Hóa, ở làng Đan nê, huyện Yên Định có ngọn núi Đồng Cổ. Ba ngọn hình ngôi sao cho nên cũng lại gọi là núi Tam thai. Trong thung lũng, gần núi ấy có ngôi đền cổ thờ Thần. Núi mà uy linh đã nổi tiếng là huyền diệu. “Mùa xuân năm Canh Tuất (1790) theo mệnh của đức vua cha, tôi nhậm chức cai quản hạt tỉnh lỵ biên thuỳ này. Trong khi ấy dân miền núi nổi lên khiến tôi phải cầm quân hai lần dẹp giặc. Đi qua hạt này, tôi thường hay nghỉ chân trong đền và tôi có kêu cầu Thần linh. Nhờ quyền năng vô hình, quân cảu tôi tấn công được dễ dàng. Biết có thần linh đã che chở, tôi tra hỏi các bô lão trong làng để được hiểu biết ít nhiều về vị thần cũng như về cái Trống Đồng, nhưng thiếu tài liệu ký chú, tôi không được biết chi hết, thời giai đã nhòa tátcả di tích quá khứ trong ký ức mọi người. “Vào năm Canh Tuất (1800) hai ngày trước ngày hội vào 9 tháng 9 sự tình cờ khiến tôi tìm thấy trên bờ sông phía Nam một cái trống đồng, cao 0.56m và rộng 0.75m, còn nguyên vẹn, công trình khuôn đúc tỉ mỉ công phu nhưng về nguyên lai vẫn mù tịt. “Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1802) trong khi đi giám sát,tôi lại đến bái yết ngôi đền, và khi trở về tôi có ra lệnh cho Quận công Tá trị Trương Hữu Tá và cho Xuân Hoa Nguyễn Xuân cho rước cái trống đồng để dâng cúng cho đền thờ Thần”. (Bản văn viết vào năm Bảo Hưng thứ 2 (1812) của em vua là Đức Tuyên, thanh tra chính trị tỉnh Thanh Hóa, do Trần Đình Hựu khắc viết vào gỗ bởi tay Quán quan sự Hoàng Đình Đồng). Ở trên núi Tam thai nói trên đây còn một tấm bia mới dựng để kỷ niệm ngày vãn cảnh chùa của ông Pierre Pasquier. Lời bia dịch ra như sau: “Trải qua các thế hệ chúng ta đã kính thờ thần Đồng cổ. Tiền nhân truyền lại cho chúng ta biết rằng vào thời Hùng Vương (265 tr.cn) nhà vua có cầm quyền dẹp giặc, và dưới triều vua Lý (1028-1253) để thuần phong mỹ tục nhà vua có lập tòa án để phạt kẻ phạm phép. Sơn Thần Đồng cổ là đệ nhất Thượng đẳng Thần cai quản thế gian và bảo vệ hòa bình, nhân loại. Nhờ những công lao phò trợ ấy mà các Đế vương các triều đại đã ban sắc phong cho Thần. Danh tiếng của Thần được lan truyền từ ba bốn ngàn năm nay, do đấy mà nhân dân sâu lắng chúng tôi đều muốn phụng thờ Thần linh quyền năng siêu việt”. Đấy là nét trọng yếu Thần đạo và Phật đạo, Đình với Chùa hợp nhất dung thông trong tin tưởng vào một nước”Bốn ngàn năm văn hiến” mà nhân dân Việt Nam ngày nay đòi trở về nguồn tổ Hùng Vương để biểu dương tinh thần dân tộc bất diệt vậy.
-
Còn có cả nghệ thuật "làm nô lệ tư tưởng nữa": cả đời lẫn tôn giáo. Cụ Vương Hồng Sển cảm thán: chỉ có 6.000 tên Pháp mà đô hộ cả Việt Nam, thấy ít người trí dũng đứng lên giải phóng dân tộc -> Qua đó mới thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại như thế nào.
-
XỨ NGHỆ NƠI PHÁT TÍCH CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN ĐẠI Người Khôn ngoan Homo sapiens sapiens được gọi là người hiện đại để phân biệt với loài Người Đứng thẳng Homo erectus tiền nhiệm. Còn chúng ta hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại để phân biệt với Người Việt Cổ (Australoid) từng xuất hiện trong quá khứ. Các học giả người Pháp thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ cho rằng, gống người xuất hiện đầu tiên trên đất Việt Nam là Melanesien. Sau đó, người Indonesien từ Ấn Độ bị người Arien xua đuổi, đã tràn sang chiếm Đông Dương, tiêu diệt người Melanesien. Cuối cùng, khoảng năm 333 TCN, người Mongolic từ Trung Quốc xâm nhập, dồn người Indonesien lên vùng núi Tây Nguyên và ra các đảo Đông Nam Á. Kiến thức khuôn vàng thước ngọc đó được học giả Đào Duy Anh ghi lại trong Lịch sử cổ đại Việt Nam để dạy người Việt. Cho đến nay phần lớn học giả Việt Nam vẫn trung thành với giáo điều này. Cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường của tác giả Tạ Đức in mới đây là thí dụ tiêu biểu. Vào thập niên 1980 thế kỷ trước, nhân chủng học xác nhận: “Suốt thời Đồ đá, dân cư trên đất Việt Nam gồm hai chủng Indonesian, Melanesian cùng thuộc loại hình Australoid. Nhưng sang thời đại Kim khí, người Mongoloid xuất hiện và trở nên chủ thể của dân cư, người Australoid biến mất, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” [1] Tuy vậy công trình này cũng không cho thấy, nguồn gốc các chủng người có mặt trên đất nước ta cùng nguyên nhân xuất hiện hay biến mất của họ. Sang thế kỷ XXI, di truyền học đã khám phá: 70000 năm trước, hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam, sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian. 50000 năm trước, khi nhân số tăng, người Việt cổ di cư ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh đất Ấn Độ. Như vậy, ngược với quan niệm Đông tiến của Viễn Đông Bác Cổ, người Indonesian đã từ Việt Nam di cư sang đất Ấn! Khoảng 40000 năm trước, người Việt cổ đi lên khai phá đất Trung Hoa rồi từ đây chiếm lĩnh châu Mỹ. Với phát kiến này, câu hỏi về nguồn gốc hai chủng Indonesian và Melanesian được xác định. Vấn đề còn lại: người Mongoloid phương Nam từ đâu tới và vào thời điểm nào? Khảo sát các di chỉ khảo cổ trên đất Việt Nam, ta được biết, vào đầu thời kỳ Đồ Đồng, tại văn hóa Phùng Nguyên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại di chỉ Hạ Long, Mán Bạc Ninh Bình… Tại di chỉ Mán Bạc tìm được khu mộ táng với 30 di hài người Australoid và Mongoloid phương Nam được chôn chung. Khảo cổ học kết luận: Trên đất Việt Nam có sự chuyển hóa dân cư từ Australoid sang Mongoloid phương Nam hoàn tất vào 2000 năm TCN. Thời điểm 2000 năm TCN do các nhà khảo cổ đưa ra rất quan trọng nhưng chưa thỏa mãn nhà sử học: quá trình này bắt đầu từ thời gian nào và đâu là địa điểm đầu tiên người Mongoloid đặt chân tới? Đấy là những câu hỏi khó nhưng không thể không trả lời! Lý do đơn giản: những người Mongoloid phương Nam xuất hiện đầu tiên chính là thủy tổ của chúng ta và nơi thủy tổ đặt chân tới chính là đất thiêng chôn nhau cắt rốn của dân tộc. Khi khảo sát các di chỉ khảo cổ trên đất Trung Hoa, tôi nhận ra, người Mongoloid phương Nam xuất hiện đầu tiên tại di chỉ văn hóa Ngưỡng Thiều 7000 năm trước. Đó là sản phẩm hòa huyết giữa người Mongoloid phương Bắc sống ở đồng cỏ Bắc Hoàng Hà và người lạc Việt Indonesian ở bờ Nam. Cho tới 5000 năm trước, người Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể của dân cư lưu vực Hoàng Hà. Một câu hỏi nảy sinh: Người Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều có liên hệ gì với tổ tiên chúng ta? Một dấu vết mong manh đó là câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Như biết bao thế hệ đồng bào, tôi vẫn nghĩ thái sơn, trong nguồn là biểu trưng cho những gì lớn lao vô tận. Nhưng rồi một lúc nào đó, ngộ ra Thái Sơn là ngọn núi thiêng ở Sơn Đông. Vậy trong nguồn là đâu? Một câu ca nghiêm chỉnh phải có đối đăng nghiêm chỉnh. Thái Sơn là danh từ riêng thì trong nguồn không thể khác! Tôi tìm hoài trên bản đồ Trung Hoa mà không thấy. Rồi một hôm may mắn, người bạn Việt Triều Châu Đỗ Ngọc Thành từ Sacramento nói vọng về: “Trong nguồn là Trung Nguyên đó anh.” Tôi giật mình đốn ngộ. Đơn giản vậy mà sao hàng nghìn năm không ai nghĩ ra? Biết bao tên đất Việt bị biến thành địa danh Tàu! Chỉ động tác nhỏ: Trong chuyển thành Trung, Nguồn biến sang Nguyên là sự cướp đoạt hoàn tất! Như vậy là, một mối liên hệ mong manh được khám phá: Thái Sơn, Trong Nguồn chính là nới phát tích của tổ tiên. Nhưng còn phải giải những câu hỏi tiếp: các vị trở về Việt Nam thời gian nào trong thiên niên kỷ thứ III? Và đâu là nơi các vị đặt chân đầu tiên? Mấy chục năm trước, ở Rạch Giá, vị sãi cả chùa Sóc Ven đọc cho tôi nghe đoạn văn ghi trên lá thốt nốt: “Người Nàm từ biển vào. Họ hiền lành và tốt bụng, dạy người Khmer đóng thuyền ra khơi đánh cá. Cá đánh được, họ mua rồi đem bán cho người Chà Và (Java).” Đoạn sử ghi nhận bước chân đầu tiên của người Quảng Nam tới đất Kramuôn So – Rạch Giá. Sau này khi đọc Ngọc phả Hùng Vương, tôi gặp lại môtip di cư đó: “Đoàn người từ biển vào, họ rất tốt bụng, giúp nhân dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong bọn họ làm vua, gọi là Hùng vương. Lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống. Sau chuyển tới vùng Ao Việt.” Một thời gian dài, đoạn văn trên gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi liên hệ tới Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Ai trong các vị có thể đã tới xứ Nghệ? Vào thời gian nào? Trong hoàn cảnh nào? Cho tới giữa năm 2014, khi viết cuốn Tiến trình lịch sử văn hóa Việt, tôi phát hiện di chỉ văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ 3000 – 2000 năm TCN chính là kinh đô nước Xích Quỷ. Thêm một chứng cứ vững chắc cho thấy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, nước Xích Quỷ là có thực và liên hệ mật thiết với dân tộc Việt. Vậy cuộc di cư của người Thái Sơn-Trong Nguồn về Nam xảy ra khi nào? Những cuộc di cư lớn thường bột phát khi có biến cố lớn. Tìm trong cổ sử Trung Hoa, tôi biết tới trận quyết chiến Trác Lộc năm 2698 TCN, Hiên Viên kịch chiến với quân Việt. Đế Lai tử trận, quân Việt thua. Người Mông Cổ xâm chiếm Nam Hoàng Hà lập nhà nước Hoàng Đế. Một giả định nảy sinh: cuộc xâm lăng của người Mông Cổ diễn ra dai dẳng hàng nghìn năm. Để chống xâm lăng, Lạc Long Quân liên minh với người anh em của mình là Đế Lai đồng thời cũng chuẩn bị địa bàn phương Nam cho cuộc rút lui chiến lược sau này. Vì vậy, khi thất bại, Lạc Long Quân dùng thuyền đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà ra biển về phía nam rồi đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Ít người chất vấn vì sao hai nước Xích Quỷ và Văn Lang có cùng một ranh giới? Phải chăng, đó là Lạc Long Quân thực hiện việc dời đô và đổi quốc hiệu? Như vậy, hai câu hỏi lớn được giải đáp: thời điểm người Núi Thái-Trong Nguồn trở về Việt Nam là năm 2698 TCN và nơi đặt chân đầu tiên là xứ Nghệ. Ta biết rằng lúc đó, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng miền Trung chưa có nên Thanh Nghệ là cái nôi của người Việt và là nơi thuyền bè cập bến thuận lợi nhất. Tại Rào Rum-Ngàn Hống, người di cư trở về hòa huyết với người tại chỗ. Khoảng năm 2698 TCN, dân cư mang gen Mongoloid phương Nam đầu tiên sinh ra trên đất Việt, đánh dấu sự ra đời của NGƯỜI VIỆT HIỆN ĐẠI. Đây là lớp di cư đầu tiên. Sau đó, do cuộc xâm lược của người Mông Cổ mở rộng, người Việt di cư nhiều hơn, bằng thuyền và bằng đường bộ. Kết quả là tới 2000 năm TCN, có nghĩa trong vòng 700 năm, đại bộ phận dân cư Việt Nam cũng như Đông Nam Á chuyển hóa thành Mongoloid phương Nam. Một hiện tượng được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Người Việt cổ chủng Australoid không biến mất mà hóa thân thân thành người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam hôm nay. Kết luận và khuyến nghị Những điều trình bày trên, theo các nhà kinh viện, cố nhiên không phải là chính sử. Nhưng trong khả năng tri thức hiện đại mà nhân loại có được hôm nay, đó là bức tranh gần nhất với sự thực xảy ra trong quá khứ. Sẽ mất nhiều thời gian và tâm trí để suy ngẫm. Nhưng điều có thể tin chắc là Lạc Long Quân đã dẫn đoàn quân dân Núi Thái-Trong Nguồn đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ, dựng đô, thành lập nước Văn Lang. Và chính đây là nơi khai sinh của người Mongoloid phương Nam đầu tiên trên đất Việt. Sau đó kinh đô dời lên Việt Trì nhưng trong linh cảm, tôi tin rằng, Lạc Long Quân qua đời và an nghỉ nơi đây. Rào Rum-Ngàn Hống từ khi còn nhỏ tôi được nghe kể đến như miền đất thiêng. Không hiểu sao sau đó hương tàn khói lạnh. Điều lâu nay tôi tâm niệm là làm gì để Rào Rum-Ngàn Hống xứng với vai trò lịch sử và tâm linh của nó? Tìm lại rồi phục nguyên ngôi mộ của Lạc Long Quân là điều không thể nhưng tôi cứ nghĩ và mong mỏi, người dân xứ Nghệ nên chọn cuộc đất đẹp nhất nơi đây, dựng đền thờ Tổ Lạc Long Quân và đánh dấu nơi chôn nhau cắt rốn của người Việt hôm nay. Sài Gòn, Đông 2015 1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&TNCH, H. 1983 Tôi chi chú: - Thái sơn: trong Kinh Thư gọi là Đại sơn. - Trong truyện Hồng Bàng Thị của Lĩnh Nam chích quái có nói đến Đế Lai, đâu có tử trận. Thời này Lạc Long Quân đang ở Nam Dương Tử. - Kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ là kinh đô nước Xích Quỷ? - Mongoloid hóa?
-
Lịch Chăm và vài đề nghị phương pháp thống nhất Thuận Ngọc Liêm A. Đặt vấn đề: Chúng ta biết tôn giáo Bàlamôn đã du nhập vào Champa rất sớm – vào thế kỷ thứ IV – trong lúc mãi đến thế kỷ thứ X Hồi giáo manh nha ở xứ sở này và đầu thế kỷ thứ XVII mới được Chăm hóa hoàn toàn để trở thành tôn giáo Bàni. Lịch Chăm từ khi mới hình thành đều được sử dụng cho toàn dân tộc Chăm, kể cả lúc Hồi giáo đã có chân đứng tại Champa và tồn tại đến ngày nay. Lịch Hồi giáo trong thực tế không bao giờ được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo, mà chỉ được sử dụng trong phạm vi rất hẹp là để tính ngày dùng thuần cho tôn giáo tín ngưỡng như: lễ Ramưvan, lễ vào thánh đường (Ricauv), ngày mãn chay (Talaih) và lễ Vaha. Như vậy phải hiểu một cách nhất quán là toàn bộ người dân tộc Chăm từ trước đến nay dù Bàlamôn hay Bàni điều sử dụng lịch Chăm chung (không nên hiểu lầm lịch Chăm là lịch của đạo Bàlamôn). Lịch này đã được cộng đồng tôn trọng và sử dụng rộng rãi như: ngày cưới hỏi, tang chế, lễ hội, cúng kính, dựng nhà cửa, mua trâu bò và bán động sản, họp bạn, vào nhà mới, khai trương ruộng, bẻ bắp rẫy …. Ngoài ra, người Chăm còn hiểu là việc ấn định ngày tháng có tính cách thiêng liêng, nghĩa là liên quan đến Thánh, Thần của dân tộc. Như vậy chúng ta không ngạc nhiên về tầm mức chi phối của lịch này trong sinh hoạt thường ngày của người Chăm và mỗi khi có sự chênh lệch thì dễ gây xáo trộn xã hội. Thời phong kiến, mặc dầu vấn đề tôn giáo Chăm ổn định, chỉ thỉnh thoảng xảy ra sự tranh chấp về lịch Chăm, nhưng là tranh chấp do chênh lệch giữa vùng Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận) với vùng Phan Rí (tỉnh Bình Thuận) chứ không bao giờ có sự tranh chấp giữa tôn giáo với nhau, hay giữa tôn giáo này với tôn giáo khác như hôm nay. Việc này dễ hiểu: sự lãnh đạo tuyệt đối và độc tài của hai quan huyện người Chăm ở hai vùng này một cách có hiệu quả, nhưng lại khó thống nhất giữa hai quan huyện với nhau. Ngày nay, chúng ta đang đứng trước tình trạng chia rẽ vì chênh lệch lịch Chăm giữa 7 thôn Bàni với nhau và giữa khối Bàni với khối Bàlamôn tại tỉnh Ninh Thuận là do hậu quả của sự hiểu lầm của cấp chính quyền tỉnh Thuận Hải cũ, chỉ lo việc giải quyết thống nhất ngày tháng khối Bàlamôn giữa hai vùng Phan Rang và Phan Rí nhằm thống nhất ngày lễ Katê, mà không quan tâm đến giữa khối Bàlamôn với khối Bàni hoặc khối Bàni giữa hai vùng Phan Rang, Phan Rí, vì cho rằng mặc dầu khối Bàni có chênh lệch tháng với nhau nhưng khi vào Thánh đường cũng cùng một tháng, chứ không phức tạp như bên Bàlamôn. Từ đó chính quyền tỉnh Thuận Hải cũ tổ chức hội nghị để thống nhất ngày tháng giữa hai vùng Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận về mặt “lịch Bàlamôn” vào năm 1988 tại huyện Ninh Phước không mời bên Bàni tham dự. Hậu quả: hôm nay hai vùng Ninh Thuận – Bình Thuận được thống nhất về lịch Chăm cho khối Bàlamôn, nhưng khối Bàni thì không. Đáng buồn hơn là ngay trong một tỉnh (Ninh Thuận cũng như Bình Thuận) hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni lại có sự chênh lệch một tháng, mà trước đó không bao giờ xảy ra. Sau đây chúng tôi đề cập đến hai nội dung chính của vấn đề là: thống nhất lịch Chăm theo lý luận khoa học và thống nhất lịch Chăm theo yêu cầu đoàn kết dân tộc. B. Các khuynh hướng tính lịch Chăm theo khoa học (sakavi): Có 2 cách tính lịch Chăm khác nhau tạo ra hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Hai quan điểm khác biệt, khi vận dụng vào xã hội ngày càng mang tính đối kháng gay gắt. Dù vậy, nếu bình tĩnh ngồi lại chúng ta vẫn có thể giải quyết được. Tôi xin đề cập đến hai khuynh hướng này: lịch Chăm là loại lịch tính theo chu kỳ vận hành của mặt trăng đồng thời cũng phải dựa vào chu kỳ vận hành của ba ngôi sao sau: Patuk Bingu Rung (sao Mang chủng) Patuk Lingal (sao Cày) Patuk Acauv (sao Thần nông) Do dó được gọi là “âm dương hỗn hợp” cũng tính theo hệ thống một định kỳ 08 năm như lịch Aval (lịch Hồi giáo) bởi vì vốn nó là loại lịch Âm nhưng có khác với Aval là trong một định kỳ 8 năm phải có nhuần 3 lần, mỗi lần một tháng thiếu (29 ngày), tính ra ngày trong ỏ lần nhuần ta có 29 x 3 bằng 87 ngày đêm cộng với 2835 ngày của 08 năm Aval thì được 2922 ngày, tương đương với số ngày 08 năm của Dương lịch. a. Khuynh hướng thứ nhất: áp dụng theo phương thức lấy 12 con giáp làm gốc rồi hệ thống thành một bản qui định hạn kỳ của thần Chan vào ngày chùa chay niệm (Cadauv Ricauv). Cứ 03 con giáp “Ricauv” trùng một tháng, rồi tiếp 03 con giáp kế “Ricauv” trụt lại một tháng, cứ tính mãi như thế khi nào đủ 12 tháng thì được 36 năm, rồi lập lại từ đầu. Do đó các chùa Bàni cứ 03 năm lại có tổ chức lễ “Suk yơng” một lần. b. Khuynh hướng thứ hai: áp dụng theo phương thức lấy 08 thiên can làm gốc, trong 08 thiên can cũng có bản lập thành hệ thống rất khoa học trong đó có 03 năm “Nưh” mỗi năm có 355 ngày, có 05 năm “Vak” mỗi năm có 354 ngày. Một định kỳ 08 năm phải nhuần đủ 03 lần, tức là 03 năm đầu nhuần lần 1, 3 năm sau nhuần lần 2 và 2 năm cuối nhuần lần 3 và phải nhuần đúng vào năm “Nưh” tức năm có 355 ngày, còn các năm “Vak” thì không được nhuần. Có câu: Klơv thun nưh – Limư thun vak – Dalipan thun yah Ba năm tách (năm nhuần) – Năm năm móc (năm thường) Tám năm sang định lại (tính lại ngày đầu năm của nămthứ 9) C. Đặc điểm của cách tính lịch Chăm: 1. Các điểm chung: Lịch Chăm cũng như các Âm lịch có nhiều điểm trùng nhau. Thứ nhất: dùng 12 con vật để biểu hiện cho năm như: Takuh, Kabav, Rimaung… tức là (con chuột, con trâu, con hổ…) mà Âm lịch gọi là tý, sửu, dần… Thứ hai: tính theo chu kỳ của mặt trăng có 29,5 ngày và 45 phút vì có số lẻ 0,5 nên ta dồn vào tháng trước thành 30 ngày gọi là tháng đủ còn 29 ngày cho tháng sau gọi là tháng thiếu. Còn số thừa 45 phút của mỗi tháng ta dồn trong 8 năm được 3 ngày và đem cộng vào 3 năm: Hak, Dal và Jim Luc, vì vậy mà ta gọi năm “Nưh” 355 ngày, còn 5 năm “Vak” chỉ có 354 ngày. Thứ ba: số tháng trong năm củ năm thường “Vak” là 12 tháng, số tháng trong năm của năm nhuần là 13 tháng. Thứ tư: bình quân của mỗi lần nhuần là 32 tháng, được tính theo quy tắc sau đây: trong định kỳ 8 năm nhuần 3 lần, vậy một lần nhuần quy ra tháng: 8 x 12 = 96 tháng chia cho 3 = 32 tháng. Tương đương với mỗi lần nhuần của âm lịch, quy tắc của Âm lịch là 19 năm nhuần 7 lần, vậy 1 lần nhuần quy ra tháng: 19 x 12 = 228 tháng chia cho 7 = 32 tháng rưỡi. Thứ năm: số ngày trong 8 năm của lịch Chăm kể cả 3 lần nhuần là 2922 ngày, tương đương với số ngày của 8 năm Dương lịch. 2. Các điểm riêng: Ngoài những điểm chung, lịch Chăm còn có nhiều điểm mang tính đặc thù riêng của dân tộc: – Thứ nhất: căn cứ vào hiện tượng tự nhiên để xác định tháng, ngày, giờ như: ngôi sao, mặt trời, mặt trăng. Có câu: – Carah bilan glang patuk / Ikak tuk glang yang harei / Cadar harei glang yang bilan: – Chỉnh tháng thì nhìn ngôi sao / Định giờ thì nhìn mặt trời / Tính ngày thì nhìn mặt trăng “Chỉnh tháng thì dùng ngôi sao” tức ta dựa trên 3 ngôi sao này: một là sao Mang chủng (Tua rua), hai là sao Cày, ba là sao Thần nông. Mỗi ngôi sao có hạn kỳ xuất hiện nhất định của nó, vì ngôi sao Mang chủng xuất hiện trước tiên cho nên ta lấy sao Mang chủng làm gốc. Theo sách cổ để lại rằng khi nào nhìn về hướng đông vào lúc trời rạng sáng mà thấy một chòm sao Mang chủng xuất hiện trên đỉnh núi được một lúc thì tan biến bởi ánh bình minh, thì thời gian đó lịch Chăm phải gọi là tháng hai. Năm nào sao Mang chủng xuất hiện vào những ngày cuối của tháng hai thì năm đó phải nhuần tức là có tháng thứ 13, nếu không có nhuần thì năm sau sao sẽ xuất hiện vào tháng ba và nó sẽ lệch so với thời gian quy định. Mỗi năm sao Mang chủng xuất hiện chậm đi 11 ngày so với Chăm lịch, là lý do độ dài của năm Chăm lịch ngắn hơn so với độ dài của Dương lịch hoặc chu kỳ vận hành của sao Mang chủng là 11 ngày. Vì độ dài của năm Dương lịch và độ dài của chu kỳ vận hành sao Mang chủng bằng nhau, cho nên sao này luôn luôn xuất hiện đúng vào ngày 5 hoặc ngày 6 Dương lịch hằng năm. Căn cứ vào sự xuất hiện của sao Mang chủng vào tháng hai của lịch Chăm, trùng tháng 6 Dương lịch và nhằm tháng 5 Âm lịch; từ cơ sở đó ta đối chiếu tiếp cho các tháng còn lại cụ thể như sau: 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 Tháng D. lịch Tháng A. lịch: Tháng C. lịch: Thứ hai: không giống như Âm lịch có 10 thiên can: (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý), Chăm lịch chỉ có 8 thiên can gồm: (Lieh, Hak, Jim, Jưy, Dal, Bak, Vav và Jim luc). Thứ ba: các ngày trong tháng của Chăm lịch được chia thành 2 phần: Thượng tuần trăng và hạ tuần trăng. Thượng tuần trăng: tính từ ngày giữa tháng đến ngày cuối tháng gọi là “Klơm” thuộc âm. Thứ tư: ngày sử dụng chính của Chăm lịch là các ngày thứ trong tuần gồm: Adit (chủ nhật) – Thom (thứ hai) – Angar (thứ ba) – But (thứ tư) – Jip (thứ năm) – Suk (thứ sáu) – Thanưcar (thứ bảy), không giống như Âm lịch dùng 12 con giáp để tính ngày như: ngày tý, ngày sửu, ngày dần… Thứ năm: khi có năm nhuần thì luôn luôn nhuần vào tháng thứ 13 tức là nhuần vào thời gian cuối năm, chứ không nhuần vào các tháng giữa năm như Âm lịch, mà tháng thứ 13 này được gọi là “Bilan bhang” tức là tháng hạ vì tháng này thường rơi vào mùa hạ, hoặc còn gọi là tháng “Birơv” tức là tháng mới. Mỗi tên gọi có mỗi ý nghĩa khác nhau. Thứ sáu: trong quá trình nghiên cứu nhiều năm tôi đã tìm ra công thức để xác định cho năm nhuần của Chăm lịch như sau: muốn biết được năm nhuần thì ta lấy năm Dương lịch chia cho 8, khi thấy số thừa 3, thừa 5 và 0 thì năm đó đúng là năm nhuần. D. Nhận định: 1. Khuynh hướng thứ nhất: (lấy 12 con giáp làm gốc) Khuynh hướng này theo lý thuyết thì rất suôn sẻ không có vấn đề gì khó khăn, nhưng áp dụng vào thực tế thì không phù hợp. Thứ nhất: cứ tính 3 năm nhuần một lần, tức là lần nhuần nào cũng 3 năm, mà không có lần nhuần bnào 2 năm, như vậy trong 9 năm phải nhuần 3 lần mà một năm Chăm lịch ngắn hơn 11 ngày so với năm Dương lịch, vậy 9 năm ngắn đi 99 ngày mà chỉ nhuần có 3 lần tức là 90 ngày, như thế đã nhuần rồi, hay nói cách khác đã lấp rồi mà vẫn còn thiếu 9 ngày và tiếp 9 năm sau lại thiếu thêm 9 ngày nữa, như vậy biết đến khi nào lấp cho đủ. Thứ hai: số tháng bình quân cho mỗi lần nhuần tính ra là 36 tháng, so với Âm lịch thì trội hơn 4 tháng. Thứ ba: nhìn vào thiên nhiên “Glơng di ngauk tara” thì lại càng sai lệch xa, cụ thể như sao Mang chủng mới vừa xuất hiện thì đã gọi là tháng 4 rồi, thay vì phải gọi là tháng 2. Do đó giữa Chăm với nhau lại chênh lệch tới hai tháng. 2. Khuynh hướng thứ hai: (lấy 8 thiên can làm gốc) Khuynh hướng này dựa theo bảng “Takai krơk” tức là trong định kỳ 8 năm phải nhuần đủ 3 lần như đã trình bày ở phần trên và số ngày của 3 lần nhuần tương đương với số ngày thiếu của 8 năm so với Dương lịch. Còn nhìn vào thiên nhiên cũng rất khớp với thời gian quy định, tức là khi thấy sao Mang chủng xuất hiện thì nhằm đúng vào tháng 2 của lịch Chăm. E. Kết luận: Căn cứ vào những tư liệu cổ, dựa vào thiên nhiên và tính toán theo khoa học thì chúng ta thấy khuynh hướng thứ `hai rất khớp với thực tế. Vậy theo cá nhân tôi, nếu ta có thể thuyết phục để thống nhất được các đại biểu tiêu biểu của hai khuynh hướng nói trên thì đúng là khuynh hướng “lấy 8 thiên can làm gốc” có ưu điểm nổi bật, mà ta có thể dùng để tính lịch Chăm và dễ đi đến thống nhất với nhau lâu dài. Thống nhất lịch Chăm theo yêu cầu đoàn kết dân tộc: Yêu cầu chính đang của xã hội Chăm là ổn định xã hội, loại trừ sự tranh chấp chênh lệch về lịch là vấn đề phức tạp và nhậy cảm, dễ lôi cuốn mọi người Chăm cả hai tôn giáo vào cuộc. Vì vậy theo yêu cầu phải đoàn kết dân tộc là trên hết, tôi xin đề nghị các giải pháp sau đây: 1. Giữa 7 Thánh đường Bàni phải thật sự đoàn kết và thương lượng dung hoà với nhau, gạt bỏ những tự ái và định kiến cá nhân để đi đến thống nhất ngày tháng với nhau, dù chưa khẳng định được đúng hay sai hoặc chưa khớp với ngày tháng bên Chăm Bàlamôn. Vì trước mắt chúng ta nên thống nhất theo tinh thần đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau và thiểu số phục tùng đa số. 2. Khi trong nội bộ 7 Thánh đường Bàni đã thống nhất, chúng ta tiếp tục bàn đến việc thống nhất ngày tháng cả 2 tôn giáo Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni ở Ninh Thuận. 3. Sau khi đã thống nhất ngày tháng giữa Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni chúng ta sẽ mở hội thảo rộng hơn để bàn thống nhất lịch theo lý luận khoa học chung cho cả cộng đồng Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Như vậy, thống nhất lịch trong nội bộ Chăm Bàni, giữa Chăm Bàni và Chăm Bàlamôn nhằm củng cố tình đoàn kết trong nội bộ tôn giáo, dân tộc, góp phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị trong vùng Chăm. Việc thống nhất lịch không thể thực hiện một sớm một chiều mà phải có thời gian, chúng ta bắt đầu đi từ phương pháp thương lượng, đoàn kết dân tộc rồi tiếp đến phương pháp thống nhất theo lý luận khoa học.
-
Trích lại một bài "Sấm" sưu tập được của bác Lanmien: Tôi sưu tầm được một trang cổ thư của người Việt vùng Giang Nam, là một vuông chữ khoa đẩu ngoẳn ngoèo có 56 chữ, giống như các bản chữ khoa đẩu chúng ta đã gặp, tiếc rằng tôi không biết cách đưa hình lên. Cạnh đó là một bản chữ nho, cũng gồm 56 chữ, hẳn là của người đời sau còn giữ hiểu được chữ khoa đẩu dịch lại, như sau: 一 歲 兩 歲 三 歲 參。 Nhất tuế, lưỡng tuế, tam tuế tham. 一 正 兩 劃 分 頭 辦 Nhất chính, lưỡng hoạch phân đầu biện 正 寺 上 下 靈 九 天。 Chính tự thượng hạ linh cửu thiên. 半 字 兩 遺 流 八 川。 Bán tự lưỡng di lưu bát xuyên. 潛 字 左 右 留 一 萬, Tiềm tự tả hữu lưu nhất vạn, 遺 字 前 後 留 五 千。 Di tự tiền hậu lưu ngũ thiên. 八 卦 倒 傳 乾 坤 定, Bát quái đảo truyền , càn khôn định, 天 圖 地 方 才 算 完。 Thiên đồ địa phóng tài toán hoàn. Phải chăng ý người xưa muốn nhắn rằng: Phải bỏ công liên tục nhiều năm để học cho hiểu ký tự một vạch kẻ, hai vạch kẻ của Bát Quái vì nó rất linh nghiệm tới chín tầng trời. Người xưa đã di lưu lại nền văn minh ở tám dòng sông. Người xưa đã dấu lại khoảng một vạn năm nghìn con chữ ẩn náu (chắc là những văn bản bằng chữ khoa đẩu). Phải đổi ngược lại vị trí của Bát Quái thì mới đúng với qui luật của trời đất, và lúc đó cái bản đồ vũ trụ và trái đất mới coi là xong hoàn toàn (?) Bên cạnh đó còn có một bài chữ nho, như sau: 三 皇 五 帝 春 秋 史, Tam hoàng Ngũ đế Xuân Thu sử 萬 歲 天 秋 北 鬥 尊。 Vạn tuế thiên thu Bắc Đẩu tôn. 天 外 兩 星 露 中 見, Thiên ngoại lưỡng tinh lộ trung kiến 人 間 七 子 同 時 生。 Nhân gian thất tử đồng thời sinh. Phải chăng ý người xưa muốn nhắn rằng: Cứ theo như sử thời Xuân Thu thì muôn đời tôn thờ sao Bắc Đẩu như là một vật bất biến. (Thực ra sao Bắc Đẩu đang biến đổi hình dạng của nó nhưng với vòng chu kỳ rất to, bao trùm hết các vòng chu kỳ nhỏ khác của các hành tinh khác) (?). Riêng câu thứ ba và bốn thì chưa hiểu được ý của “Sấm” nói về cái gì sẽ xảy ra trong vũ trụ hay trong xã hội loài người đây (?). Kèm theo có đánh dấu sự thay đổi vị trí các sao trong chùm sao Bắc Đẩu, như sau: (có đúng như vậy không? phần này hẳn là do người đương thời vẽ đánh dấu, tại sao lại là chu kỳ 96000 năm ? ) + + + + + + + ( 96000 năm trước) + + + + + + + ( hiện tại ) + + + + + + + ( 96000 năm sau ) Theo tôi nghĩ, có phải thoạt tiên người Việt gọi sao Bắc Đẩu là sao Bảy Đầu ? Theo tư duy ngôn ngữ thì con người dùng vật mốc làm định hướng, lấy tên cái mốc đó làm tên hướng, như “hướng cây gạo”, hướng cầu ao”, “hướng sao mai”, rồi sau mới biết đến tư duy hướng địa lý. Người Việt đi biển căn theo chùm sao có bảy ngôi ấy nên lúc ban đầu gọi nó là “hướng Bảy Đầu”, sau biến âm thành “hướng Bắc Đẩu” ( QT: Bảy Đẩu=Bắc Đẩu), rồi về sau gọi tắt là “hướng Bắc”, khi đã có tư duy địa lý (?). Tôi ghi chú: - Bày đầu: lý giải của bác Lanmien là rất chuẩn, miền bắc Việt Nam còn có Lục Đầu giang. Đây là hình tượng con rắn hổ mang chúa 7 đầu che cho Phật Thích Ca Mâu Ni. - Chuyển ngược Hà đồ - Lạc thư: bắc trên nam dưới, đây chính là cấu trúc Hà đồ - Lạc thư của địa cầu -> tức đảo lại chính là quy luật "Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu". - 15.000 con chữ: đây là tổng số con chữ của 2 bộ sách Đạo Đức Kinh và Kinh Dịch cộng lại. - Thiên ngoại - Lưỡng tinh: tức mặt trời và mặt trăng, tượng trưng có hệ quy chiếu Âm Dương khi quy ước tới các hệ thiên văn từ Hệ mặt trời trở đi... cho tới vô cùng vô tận. - 96.000 năm: tác giả "Sấm" đã làm sai lệch con số của 1 Đại Nguyên: 129.600 năm. - Thất Tử: tức Hùng Vương I... Hùng Vương VII, trong đó, chúng ta đang bàn về bánh chưng bánh dầy thời Hùng Vương VII. Thất Tử không phải là "Bảy Đầu", cũng có thể hiểu là "Những đứa con của Thiên Địa tái sinh, phục sinh".
-
Sử ký - Thiên quan thư Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Sách ẩn: Xét: Các ngôi sao trên vòm trời có năm cung. Cung là khoảng trời của các ngôi sao. Vị trí của các ngôi sao cũng có trật tự cao thấp như thứ bậc quan lại của con người, cho nên gọi là 'thiên quan'. Chính nghĩa: Trương Hành nói: "Các ngôi sao lấp lánh trên vòm trời, có bảy ngôi sao chuyển động, đó là mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh. [1] Mặt trời là gốc của khí dương, mặt trăng là gốc của khí âm. Ngũ tinh là gốc của ngũ hành. Các ngôi sao sắp xếp, cho nên người sinh ở đất, thần thành ở trời, sắp xếp lẫn lộn, đều có chia thành nhóm. Ứng vào khoảng đất nào thì tượng trưng cho muôn vật ở đó, với triều đình thì tượng trưng cho quan lại, với con người thì tượng trưng cho sự việc. Dựa vào ngôi sao chủ mà chia thành năm cung, là có ba mươi lăm ngôi sao chủ, một chòm sao ở cung giữa, gọi là bắc đẩu; bốn chòm sao bao quanh mỗi chòm đều có bảy ngôi sao, cộng là hai mươi tám ngôi sao; mặt trời, mặt trăng chuyển động mà tỏ rõ tốt xấu vậy." 1. Cung giữa: Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung giữa có Đại Đế, sao chủ là chòm sao bắc cực. Chỗ ấy sinh khí, là nơi có cửa Lưu Tinh." Sao thiên cực [2] Sách ẩn: Xét: Nhĩ nhã chép: "Sao bắc cực còn gọi là sao bắc thần." Xuân thu hợp thành đồ chép: "Chòm sao bắc thần có năm ngôi sao, ở giữa cung Tử Vi." Vật lí luận của Dương Tuyền chép: "Sao bắc cực ở giữa vòm trời, là nơi tận cùng phía bắc của khí dương. Tận cùng phía nam là là khí dương lớn nhất, tận cùng phía bắc là khí âm lớn nhất. Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh chuyển động đến chỗ khí âm tận cùng thì không sáng, chuyển động đến chỗ khí dương tận cùng thì chiếu sáng, cho nên đấy là nơi tận cùng của sáng-tối, nóng-lạnh vậy." là một ngôi sao sáng, là vị trí của thần Thái Nhất; Sách ẩn: Xét: Xuân thu hợp thành đồ chép chép: "Cung Tử Vi là nhà của Đại Đế, là thần Thái Nhất." Chính nghĩa: Thái Nhất là tên khác của Thiên Đế. Lưu Bá Trang nói: "Thái Nhất là vị thần tôn quý nhất trong các vị thần trên trời." bên cạnh có ba ngôi sao tượng trưng cho tam công, Chính nghĩa: Ba ngôi sao tượng trưng cho tam công ở phía đông của chuôi chòm sao bắc đẩu, lại ở phía tây muỗm của chòm sao bắc đẩu, đều là tượng trưng cho Thái úy, Tư đồ, Tư không, tượng trưng cho sự biến chuyển của âm dương, tượng trưng cho sự việc quan trọng. Nếu chuyển động thì không tốt, đứng im thì tốt, nếu sao kim, sao hỏa phạm vào thì đều xấu. Có người nói ba ngôi sao ấy tượng trưng cho các con của thần Thái Nhất. Phía sau sao thiên cực có bốn ngôi sao xếp thành hình cái móc, trong đó có một ngôi sao lớn sau cùng tượng trưng cho Chính phi. Sách ẩn: Xét: Viên thần khế chép: "Ngang với chòm sao thần cực [chòm sao bắc đẩu] là bốn ngôi sao theo sau tượng trưng cho Hậu phi, có ngôi sao chiếu sáng tượng trưng cho Thái phi." Lại xét: Tinh kinh chép bốn ngôi sao xếp thành hình móc câu ở sau sao thiên cực là 'Tứ phụ'. Có sáu ngôi sao thuộc chòm sao câu trần gọi là 'Lục cung', tượng trưng cho sáu quân. So với đây không giống nhau. ba ngôi sao còn lại là tượng trưng cho bọn hậu cung. Có mười hai ngôi sao bao quanh bảo vệ tượng trưng cho bầy tôi. Các ngôi sao trên đều thuộc khoảng trời gọi là cung tía. ... [www.sidneyluo.net] ___________________ Chú giải: [1] Ngũ tinh: chỉ năm ngôi sao sáng trên bầu trời là sao hỏa, sao kim, sao mộc, sao thổ, sao thủy. [2] Sao thiên cực: là sao bắc cực. Thẳng phía trước miệng chòm sao Bắc đẩu có ba ngôi sao xếp thành hình thon dài ở đầu bắc, lúc rõ lúc không, gọi là chòm sao Âm đức, Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Chòm sao Âm đức tượng trưng cho rường mối của thiên hạ." Tống Quân cho rằng là tỏ rõ cái đức của mình là đạo thường. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Ba ngôi sao của chòm sao âm đức ở trong cung Tử Vi, ở phía tây cung Thượng Thư, tượng trưng cho người tỏ ra đức huệ, cứu giúp kẻ khốn khó. Nhìn không sáng là điềm tốt; thấy sáng là điềm vua mới lên ngôi." Lại chép: "Chòm sao Âm đức là tượng trưng cho người chủ trong cung. Nếu chòm sao này dao động là điềm báo có tranh giành trong cung, phi tần ganh ghét nhau." có một ngôi sao gọi là sao Thiên nhất. Chính nghĩa: Thiên nhất là một ngôi sao ở ngoài cửa Xương Hạp, tượng trưng cho thần Thiên Đế, tượng trưng cho thần chiến tranh, biết được tốt xấu của con người. Nếu sáng mà rõ thì âm dương dung hòa, vạn vật đẹp, con người tốt; nếu không, trái lại nếu một ngôi sao trong chòm sao Thái nhất chuyển động đến phía nam sao Thiên nhất, cũng tượng trưng cho thần Thiên Đế, đứng đầu sai khiến mười sáu vị thần, biết được mưa gió, nước lụt, khô hạn, binh cách, đói kém, bệnh dịch. Nếu thấy không sáng và chuyển động là điềm báo có tai họa. Tinh kinh chép: "Hai ngôi sao Thiên nhất, Thái nhất tượng trưng cho đế vương lên ngôi. Sao này thường không ẩn. Nếu ẩn là điềm báo việc phế lập không đúng với trật tự, tông miếu không được cúng tế." Phía trái cung tía có ba ngôi sao gọi là chòm sao Thiên thương, phía phải cung tía có năm ngôi sao gọi là chòm sao Thiên bì. Sách ẩn: Vi Chiêu đọc là 'phẫu'. Thi vĩ chép: "Ba sao thương, năm sao bì, phía trái phải chuôi đẩu, người cầm thương, kẻ cầm gậy." Tinh tán của họ Thạch chép: "Tám sao thương bì, phòng bị khác thường." Chính nghĩa: Bì, đọc là 'bàng chưởng phiên'. Năm ngôi sao của chòm sao Thiên bì ở phía đông bắc chòm sao Nữ sàng, tượng trưng cho quân tiên phong của thiên tử, đấy là quân sĩ của thiên tử. Nhìn nhòm sao này không sáng rõ là điềm báo trong nước có dấy binh. phía sau cung tía có sáu ngôi sao xếp ngang qua dải Ngân Hán đến chòm sao Doanh thất, gọi là chòm sao Các đạo. Sách ẩn: Xét: Lạc hiệp đồ chép: "Chòm sao Các đạo là chòm sai ở ngoài chòm sao Bắc đẩu." Họ Thạch nói: "Sáu ngôi sao của chòm sao Các đạo là cỗ xe mà thần trên trời cưỡi." Chính nghĩa: Dải Ngân Hán là sông trời. Chòm sao Doanh thất có bảy ngôi sao, tượng trưng cho cung của thiên tử, cũng gọi là cung đen, cũng gọi là miếu sạch, trượng trưng cho thiên tử, cũng là cung riêng nhà khác của thiên tử. Sáu ngôi sao của chòm sao Các đạo ở phía bắc chòm sao Vương lương, như con đường vắt ngang qua gác, là con đường để thiên tử muốn đi chơi đến cung riêng. Nếu thấy một ngôi sao trong chòm sao này không sáng rõ là điềm báo đường đi không thông, nếu chòm sao này dao động là điềm báo trong cung có kẻ dấy binh. Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, Sách ẩn: Xét: Xuân thu vận đẩu xu chép: "Chòm sao Bắc đẩu, một là sao Thiên xu, hai là sao Tuyền, ba là sao Ki, bốn là sao Quyền, năm là sao Hành, sáu là sao Khai dương, bảy là sao Dao quang. Từ ngôi sao thứ nhất đến ngôi sao thứ bốn là cái miệng, từ ngôi sao thứ năm đến ngôi sao thứ bảy là cái chuôi, hợp lại thành hình cái muôi." Văn diệu câu chép: "Chòm sao Bắc đẩu tượng trưng cho miệng lưỡi của trời, sao Hành thuộc cái chuôi, miệng là sao Tuyền, sao Ki." Trường lịch của Từ Chỉnh chép: "Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, mỗi ngôi sao cách nhau chín ngàn dặm. Có hai ngôi sao mờ không rõ, cách nhau tám ngàn dặm." vốn gọi là "Tuyền, Ki, Ngọc hành để sửa 'thất chính'." Sách ẩn: Thượng thư chép: "Tuyền, Ki". Mã Dung nói: "Tuyền là một thứ ngọc đẹp. Ki là máy 'hồn thiên nghi', xoay tròn được, cho nên gọi là 'Ki'. Hành là cái ống ngang trong đó. Lấy ngọc Tuyền làm máy, lấy ngọc làm ống ngang, có lẽ là coi trọng các ngôi sao trên vòm trời." Trịnh Huyền chú Đại truyện chép: "Cái ống ngang trong máy là trục xoay, khung ngoài là đòn ngọc." Thượng thư đại truyện chép: "Thất chính là nói về mùa xuân, mùa thu, mùa đông, mùa hạ, các ngôi sao trên vòm trời, đất đai, đạo làm người, cho nên phải sửa. Đạo làm người ngay thì muôn vật hòa thuận." Mã Dung chú giải Thượng thư chép: "Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, đều tượng trưng cho các sự việc. Sao thứ nhất là chủ mặt trời; sao thứ hai là chủ mặt trăng; sao thứ ba là chủ sao Hỏa, gọi là sao Huỳnh hoặc; sao thứ tư là chủ sao Sát thổ, gọi là sao Trấn; sao thứ năm là chủ sao Phạt thủy, gọi là sao Thần; sao thứ sáu chủ sao Nguy mộc, gọi là sao Tuế; sao thứ bảy chủ sao Phiếu kim, gọi là sao Thái bạch. Mặt trời, Mặt trăng, ngũ tinh đều khác, cho nên gọi là 'thất chính'." Phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu nối liền với chòm sao Long giác, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Chòm sao Long giác là chòm sao ở phía đông của vòm trời." Chính nghĩa: Xét: Chòm sao Long giác là tượng trưng cho ải trời, giữa đó là cửa trời, trong là sân trời, là chỗ mà đường hoàng đạo chạy qua, bảy ngôi sao chuyển qua. Phía trái của chòm sao Long giác là sao Lí, tượng trưng cho hình pháp, phía nam là đường thái dương; phía phải của chòm sao Long giác là sao Tướng, tượng trưng cho quân tướng. Phía bắc là đường thái âm. Đấy là ba ba cửa trời, cho nên chòm sao này sáng thì thiên hạ yên ổn, người hiền giữ ngôi vị; nếu không thì trái lại. ngôi sao Hành ở giữa chòm sao Nam đẩu, phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu dựa vào phần đầu của chòm sao Sâm. Chính nghĩa: Nói là chòm sao Bắc đẩu ở phía bắc, phần chuôi muôi ngang với phần miệng muôi dựa vào phần đầu của chòm sao Sâm; phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đầu nối liền với chòm sao Long giác. Sáu ngôi sao của chòm sao Nam đẩu tượng trưng cho miếu trời, là là vị trí tượng trưng của quan Thừa tướng, Thái tể, chủ việc tiến cử người hiền lành, trao tước bổng, lại chủ việc binh, còn gọi là chòm sao Thiên cơ. Phía nam là hai ngôi sao tượng trưng cho cầu trời; ở giữa có một ngôi sao tượng trưng cho Thừa tướng của trời; phía bắc có hai ngôi sao tượng trưng cho phủ trời, sân trời. Chòm sao Bắc đẩu sáng rõ là điềm báo pháp lệnh ôn hòa, tước lộc được ban hành; nếu không thì trái lại. Chòm sao Sâm chủ về việc chém giết, lại chủ việc tù ngục, chủ việc hình phạt. Có ba ngôi sao trong đó bày ngang hàng là tượng trưng cho ba vị tướng quân, phía đông bắc là vai trái, chủ Tả tướng quân; phía tây bắc là vai phải, chủ Hữu tướng quân; phía đông nam là chân trái, chủ Hậu tướng quân; phía tây nam là chân phải, chủ Thiên tướng quân. Ở giữa là ba ngôi sao nhỏ tượng trưng cho việc đánh dẹp, là Đô úy của trời, chủ việc trông coi các nước Nhung-Địch, thường không sáng, nếu sáng là có rối loạn, đại thần mưu phản, dấy binh, người Di-Địch đánh nhau. Buổi chiều tối thì thấy rõ phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu, phần chuôi muôi này ứng với chỗ từ núi Hoa về phía tây nam. Buổi nửa đêm thì thấy rõ phần giữa của chòm sao Bắc đẩu, phần miệng muôi này ứng với vùng sông Hà, sông Tế của Trung Quốc. Buổi sáng sớm thì thấy rõ phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu, phần miệng muôi ứng với chỗ từ miền Hải-Đại về phía đông bắc. Chòm sao Bắc đẩu tượng trưng cho cái xe của Thiên Đế, chuyển động ở chính giữa, coi xét bốn phương, phân biệt âm dương, tỏ rõ bốn mùa, cân bằng ngũ hành, thay đổi tiết độ, sắp đặt phép tắc, đều dựa vào chòm sao Bắc đẩu. Phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu đội liền sáu ngôi sao, gọi là chòm sao Văn Xương, Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Chòm sao Văn Xương tượng trưng cho phủ trời." Hiếu kinh viên thần khế chép: "Văn là chỉ các ngôi sao xếp bày, xương là chỉ rường mối của trời." một là sao Thượng tướng, hai là sao Thứ tướng, ba là sao Qúy tướng, bốn là sao Tư mệnh, năm là sao Tư trung, sáu là sao Tư lộc. Sách ẩn: Xuân thu nguyên mệnh bao chép: "Sao Thượng tướng chủ việc oai võ, sao Thứ tướng chủ việc tả hữu, sao Quý tướng chủ việc văn giáo, sao Tư lộc chủ việc thưởng công đãi sĩ, sao Tư mệnh chủ việc già trẻ, sao Tư tai chủ việc tai họa." Ở trong phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu có chòm sao Quý Nhân Lao. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Truyện chép: 'Chòm sao Thiên lí có bốn ngôi sao ở giữa phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu. Chòm sao Quý Nhân Lao còn có tên là chòm sao Thiên lí'." Chính nghĩa: Nếu thấy rõ trong phần miệng muôi có chòm sao ấy là điềm báo người tôn quý bị bắt giam. Ở dưới phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu có sáu ngôi sao, xếp thành mỗi cặp đối nhau, gọi là chòm sao Tam năng. Sách ẩn: Dưới phần miệng muôi có sáu ngôi sao, mỗi cặp đối nhau, gọi là chòm sao Tam thai. Xét: Hán thư Đông Phương Sóc truyện chép: "Xin kể sáu ngôi sao của chòm sao Thái giai." Mạnh Khang nói: "Thái giai là Tam thai." Ứng Thiệu dẫn Hoàng Đế Thái giai lục phù kinh chép: "Chòm sao Thái giai tượng trưng cho ba cái bậc thềm của thiên tử; bậc thềm trên, ngôi sao trên tượng trưng cho nam chủ; ngôi sao dưới tượng trưng cho nữ chủ; bậc thềm giữa, ngôi sao trên tượng trưng cho chư hầu tam công, ngôi sao dưới tượng trưng cho khanh đại phu; bậc thềm dưới, ngôi sao trên tượng trưng cho kẻ sĩ, ngôi sao dưới tượng trưng cho dân thường. Ba bậc thềm ngang bằng thì âm dương hòa hợp, mưa gió nhu thuận; nếu không cân bằng thì thóc lúa không mọc, đông tuyết hè sương, thiên hạ bạo ngược, ưa dấy binh giáp. Thêm cung điện, mở vườn tược, đấy là cái hại của bậc thềm trên." Chòm sao Tam năng sáng rõ ngang nhau thì vua tôi hòa đồng; không ngang nhau thì phản nghịch. Chòm sao Phụ sáng gần Tập giải: Mạnh Khang nói: "Tại bên cạnh ngôi sao thứ sáu của chòm sao Bắc đẩu." Chính nghĩa: Tượng trưng cho đại thần. Chòm sao này thường nhỏ mà sáng; nếu to mà sáng là điềm báo bầy tôi cướp ngôi vua; nếu nhỏ mà không sáng thì bầy tôi không được tin dùng; nếu to sáng ngang với chòm sao Bắc đẩu thì binh cách nổi lên; nếu mờ mà xa chòm sao Bắc đẩu thì bầy tôi không bị giết chết thì cũng cách chức; nếu cận thần chuyên quyền, bỏ hiền dùng nịnh thì chòm sao Phụ mọc sừng; cận thần nắm lấy ấn phù, mưu cướp xã tắc thì chòm sao Phụ mọc cánh; nếu không thì chết. thì đại thần được tin dùng; nếu chòm sao Phụ nhỏ xa thì đại thần yếu kém. Bên cạnh phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu có hai ngôi sao, một ở trong gọi là sao Mâu, còn gọi là sao Chiêu dao; Tập giải: Mạnh Khang nói: "Gần chòm sao Bắc đẩu có sao Chiêu dao, tượng trưng cho cái mâu của trời." Tấn chước chép: "Chòm sao Canh hà có ba ngôi sao tượng trưng cho cái mâu, đao kiếm của trời. Chiêu dao là một ngôi sao trong đó." Sách ẩn: Xét Thi kí lịch xu chép: "Trong chòm sao Canh hà có sao Chiêu dao, tượng trưng cho quân rợ Hồ." Tống Quân nói: "Ngôi sao Chiêu dao trong chòm sao Canh hà." Lạc chấp đồ chép: "Chòm sao Canh hà có sao Thiên mâu." một ở ngoài gọi là sao Thuẫn, còn gọi là sao Thiên phong. Tập giải: Tống Quân nói: "Ở ngoài là ở xa chòm sao Bắc đẩu, tại phía nam sao Chiêu dao, còn có tên là sao Huyền qua." Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Chòm sao Canh hà là chòm sao Kích kiếm, nếu sao này không rõ là điềm báo tiến thoái không ngừng, dấy lên binh đao, sẽ gây hại ở biên cảnh." Có mười lăm ngôi sao xếp thành hình cái vòng nối liền phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu, gọi là chòm sao Tiện Nhân Lao. Sách ẩn: Xét: Thi kí lịch xu chép: "Chòm sao Tiện Nhân Lao còn gọi là chòm sao Thiên ngục." Lạc chấp đồ chép: "Chòm sao Liên doanh là chòm sao Tiện Nhân Lao." Tống Quân cho rằng chòm sao Liên doanh là chòm sao Quán tác. Chính nghĩa: Chòm sao Quán tác có chín ngôi sao ở trước chòm sao Thất công, còn gọi là chòm sao Liên tác, chủ việc pháp luật, ngăn cường bạo, là chòm sao Tiện Nhân Lao. Cửa nhà ngục có một chòm sao làm cửa, tượng trưng cho muốn mở. Chòm sao này hiện rõ là điềm báo bị bắt giam; không hiện rõ là điềm báo hình phạt giảm bớt. Dao động là điềm báo dùng rìu búa, rỗng bên trong là điềm báo đổi niên hiệu; cửa mở là có tha tội. Nếu người chủ lo lắng thì thấy cửa mở, có ngôi sao sáng ở trong là có kẻ bị chết trong ngục. Thường xem vào nửa đêm, nếu một ngôi sao không hiện rõ là có việc vui nhỏ; hai ngôi sao không hiện rõ là có ban thưởng; ba ngôi sao không rõ là người chủ ra lệnh tha tội. Trong chòm sao này có nhiều ngôi sao sáng thì có nhiều người bị bắt giam, rỗng thì được thả ra. Nếu sao Thiên nhất, sao Thiên thương, sao Thiên bì, sao Mâu, sao Thuẫn dao động, tia sáng lớn thì có kẻ dấy binh. Thái sử công nói: Từ lúc mới có người dân đến nay, có vị vua nào không từng xem qua Mặt trời, Mặt trăng, các ngôi sao? Đến thời Ngũ gia, tam đại nối tiếp mà làm rõ hơn. Chính nghĩa: Xét: Ngũ gia là chỉ Hoàng Đế, Cao Dương, Cao Tân, Đường Nhiêu, Ngu Thuấn. Tam đại là chỉ Hạ, Thương, Chu. Ý nói từ lúc có dân đến nay, ai từng không xem qua Mặt trời, Mặt trăng, các ngôi sao? Cho đến đời Ngũ đế, Tam đại thì cũng được nối tiếp mà làm rõ âm dương lịch trời. Trong là dân đội mũ, ngoài là dân Di-Địch, chia vùng đất giữa thành mười hai châu, trên thì xem sao ở vòm trời, dưới thì nhìn vật ở mặt đất. Trời thì có trăng sao, đất thì có ngũ hành. Trên trời có ngũ tinh thì dưới đất có ngũ hành. Trên trời có ngôi sao thì dưới đất có bờ cõi. Tam quang [1] là gốc của âm dương, khí gốc từ đất, cho nên thánh nhân sắp đặt được nó. Từ thời U-Lệ về trước đã xưa rồi. Người các nước xem cái biến hóa của trời đều khác nhau, các nhà đoán vật lạ để hợp với sự việc, sách vở bản vẽ thời ấy đoán tốt xấu không có phép tắc gì. Cho nên Khổng Tử soạn lục kinh, chép việc lạ mà không bàn đến. Còn như chuyện mệnh trời thì không kể tới; nếu kể tới thì không đợi nói rõ; nếu kể cho kẻ không biết thì dẫu nói cũng không hiểu rõ. Ngày xưa có những người truyền lại số trời là: từ thời Cao Tân về trước thì có Trọng, Lê; Chính nghĩa: Tả truyện chép: "Sái Mặc nói: 'Con của họ Thiếu Hạo tên là Lê làm Hỏa chính, hiệu là Chúc Dung'. Là quan coi việc về hành hỏa, biết số trời. thời Đường-Ngu thì có Hi, Hòa; Chính nghĩa: Họ Hi, họ Hòa làm quan coi xét trời đất, bốn mùa. thời nhà Hạ thì có Côn Ngô; Chính nghĩa: Côn Ngô là con của Lục Chung. Ngu Phiên nói: "Côn Ngô tên là Phàn, lập nên họ Kỉ, phong ở ấp Côn Ngô." thời Ân Thương thì có Vu Hàm; Chính nghĩa: Vu Hàm là bầy tôi giỏi của nhà Ân, vốn là người nước Ngô, mộ tại trên núi Hải Ngu huyện Thường Thục châu Tô. Con tên là Hiền cũng ở đấy. nhà Chu thì có Sử Dật, Trường Hoằng; Chính nghĩa: Sử Dật là quan Thái sử tên là Doãn Dật thời Vũ Vương nhà Chu. Trường Hoằng là quan Đại phu thời Linh Vương nhà Chu. ở nước Tống thì có Tử Vi; ở nước Trịnh thì có Bì Táoơ Chính nghĩa: Bì Táo là quan Đại phu của nước Trịnh. ở nước Tề thì có Cam Công; Tập giải: Từ Quảng nói: "Có người nói Cam Công tên là Đức, vốn là người nước Lỗ." Chính nghĩa: Thất lục chép là người nước Sở, thời Chiến quốc soạn sách Thiên văn tinh chiêm có tám quyển. ở nước Sở thì có Đường Mạt; ở nước Triệu thì có Doãn Cao; ở nước Ngụy thì có Thạch Thân. Chính nghĩa: Thất lục chép Thạch Thân là người nước Ngụy, thời Chiến quốc soạn sách Thiên văn có tám quyển. Các ngôi sao chuyển động trên vòm trời, cứ ba mươi năm lại có một biến đổi nhỏ, trăm năm lại có biến đổi vừa, năm trăm năm lại có biến đổi lớn; ba lần biến đổi lớn là một kỉ, ba kỉ là một lần lớn. Đấy là số lớn vậy. Người trị nước phải coi trọng ba lần năm lượt ấy. Sách ẩn: Ba lần năm lượt là nói ba mươi năm lại có một biến đổi nhỏ, năm trăm năm lại có biến đổi lớn. Trên dưới đều trải mấy ngàn năm, sau đó người trong thiên hạ mới sửa thêm. ... [www.sidneyluo.net] ____________________ Chú giải: [1] Tam quang: chỉ Mặt trời, Mặt trăng, ngôi sao. 2. Cung đông: Tên là cung Thương Long. Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Cung đông là chỗ của Thương Đế, có thần là con rồng." Có chòm sao Phòng, chòm sao Tâm. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: Cung Đại Thần có chòm sao Phòng, chòm sao Tâm, chòm sao Vĩ." Lí Tuần nói: "Cung Đại Thần là cung Thương Long, là cung sáng nhất." Chòm sao Tâm tượng trưng cho triều đình, Sách ẩn: Xuân thu thuyết đề từ chép: "Chòm sao Phòng, chòm sao Tâm tượng trưng cho triều đình, là chỗ Thiên Vương ban bố chính lệnh." Thượng thư vận kì viên chép: "Chòm sao Phòng ở con đường của bốn vùng ven." Tống Quân nói: "Giữa bốn ngôi sao có ba con đường, là chỗ mà Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động ra vào." có một sao lớn gọi là sao Thiên Vương, trước sau nó các sao con. Sách ẩn: Hồng phạm ngũ hành truyện chép: "Có sao lớn của chòm sao Tâm tên là sao Thiên Vương. Có sao trước nó tượng trưng cho con cả; sau nó tượng trưng cho con thứ.". Ba ngôi sao này không thường thẳng hàng, nếu thẳng là điềm báo Thiên Vương lầm kế. Chòm sao Phòng tượng trưng cho phủ trời, còn gọi là chòm sao Thiên Tứ. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Thiên Tứ là chòm sao Phòng." Thi kí lịch xu chép: "Chòm sao Phòng tượng trưng cho ngựa trời, chủ việc xe ngựa." Phía bắc của nó có ngôi sao tượng trưng cho con ngựa bên phải, gọi là sao Hữu Tham. Bên cạnh có hai ngôi sao, gọi là chòm sao Câm; Sách ẩn: Chòm sao Phòng có hai ngôi sao là sao Cầm. Nguyên mệnh bao chép: "Hai sao Câu-Câm làm bờ ngăn, chủ việc xét nét, nên phòng giữ hơn thường." Chính nghĩa: Nếu sao này sáng mà gần chòm sao Phòng là điềm báo thiên hạ cùng lòng. Nếu giữa giữa sao Câu-Câm, chòm sao Phòng-Tâm có ngôi sao lạ xuất hiện và chuyển ra là điềm báo có động đất. phía bắc có một sao gọi là sao Hạt. Chính nghĩa: Thuyết văn chép: "Hạt là cái chốt trục xe. Hai đầu xuyên vào nhau." Tinh kinh chép: "Có một ngôi sao tượng trưng cho cái chốt trục, ở phía đông bắc chòm sao Phòng, chủ việc then khóa." Nếu không ở vị trí vốn có của nó là điềm bào cầu bến chẳng thông, cửa cung không được khóa; nếu đúng vị trí thì ngược lại. Phía đông bắc có mười hai ngôi sao xếp thành hình cong gọi là chòm sao Kì, Chính nghĩa: Có hai đầu tượng trưng cho cái cờ, đầu bên trái có chín ngôi sao ở phía trái chòm sao Hà Cổ; đầu bên phải có chín ngôi sao ở phía phải chòm sao Hà Cổ. Đều tượng trưng cho cờ trống của nhà trời, cho nên lấy làm lá cờ. Nếu chòm sao này sáng sủa rõ ràng thì việc quân được lành; nếu không thì việc quân gặp xấu; nếu không ở đúng vị trí vốn có của nó thì là điềm báo cầu bến không thông; nếu nó dao động là điềm báo có kẻ dấy binh. trong đó có bốn ngôi sao tượng trưng cho chợ trời, gọi là chòm sao Thiên Thị, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Thị có hai mươi ba ngôi sao, tại phía đông bắc chòm sao Phòng-Tâm, tượng trưng cho chỗ tụ hội trao đổi chợ búa của nhà nước, còn tượng trưng cho lá cờ của nhà trời. Nếu chòm sao này sáng thì điềm báo quan coi chợ nghiêm ngặt, nhà buôn không được lời; nếu hốt nhiên không sáng là điềm báo ngược lại. Nếu các ngôi sao trong đó tụ hội nhiều thì điềm báo năm đó được mùa, nếu tụ hội ít thì năm đó đói kém. Nếu có sao Huỳnh Hoặc phạm vào là điềm báo có việc giết bầy tôi bất trung. Nếu sao chổi xuất hiện xẹt qua chòm sao đó thì nên dời chợ chuyển đô. Nếu có sao lạ xuất hiện trong đó là điềm báo có kẻ dấy binh lớn; sao lạ chuyển ra ngoài là điềm báo có tang lớn. trong đó có sáu ngôi sao tượng trưng cho lầu chợ, gọi là chòm sao Thị Lâu. Nếu các ngôi sao trong chòm sao này tụ nhiều thì điềm báo có đủ của cải, nếu rỗng thì điềm báo hao tổn của cải. Có các ngôi phía nam chòm sao Phòng tượng trưng cho quan coi quân kị, gọi là chòm sao Kị Quan. Có chòm sao Giác, bên trái là sao Lí, bên phải là sao Tướng. Sách ẩn: Sao Lí tượng trưng cho quan coi việc hình pháp. Họ Thạch nói: "Ngôi sao mé trái chòm sao Giác tượng trưng cho ruộng trời. Ngôi sao mé phải chòm sao Giác tượng trưng cho cửa trời."[/color=red] Có ngôi sao Đại Giác tượng trưng cho sân đình của Thiên Vương. Sách ẩn: Xét: Viên thần khế chép: "Sao Đại Giác là là chỗ ngồi chờ." Tống Quân nói: "Là ghế ngồi của Thiên Đế." Chính nghĩa: Sao Đại Giác ở giữa chòm sao Nhiếp Đề kẹp hai bên, tượng trưng cho bậc đế vương. Nếu sáng rõ màu vàng là điềm báo thiên hạ hòa đồng. Hai bên cạnh nó đều có ba ngôi sao xếp thành hình cong như chân vạc gọi là chòm sao Nhiếp Đề. Chính nghĩa: Chòm sao Nhiếp Đề có ngôi sao kề sao Đại Giác, tượng trưng cho đại thần, thường xếp thẳng phía chuôi chòm sao Bắc Đẩu, tượng trưng cho tám tiết, xét vạn sự. Nếu màu sắc dịu dịu không sáng mà lớn là điềm báo nhà vua có lo lắng, có sao lạ xuất hiện trong đó là điềm báo có thánh nhân nhận lấy chính lệnh. Chòm sao Nhiếp Đề thẳng hướng chỉ của phần chuôi chòm sao Bắc Đẩu để tượng trưng cho mùa tiết, cho nên gọi là Nhiếp Đề Cách. Chòm sao Cang tượng trưng cho miếu ngoài, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Cang có bốn ngôi sao tượng trưng cho sân miếu." Chính nghĩa: Là chỗ vâng nghe chính lệnh. Nếu sáng rõ là điềm báo bầy tôi trung thành, thiên hạ yên ổn; nếu không là trái lại. chủ về bệnh tật. Hai đầu nam bắc nó có hai ngôi sao lớn, gọi là chòm sao Nam Môn. Chính nghĩa: Chòm sao Nam Môn có hai ngôi sao ở phía nam chòm sao Khố Lâu, tượng trưng cho cửa ngoài của nhà trời. Nếu sáng thì điềm báo rợ Đê-Khương mạnh, nếu mờ thì người Di làm phản; nếu có ngôi sao lạ xuất hiện ở giữa thì quân địch ở ngoài sắp kéo đến. Chòm sao Đê tượng trưng cho gốc của trời, Sách ẩn: Tôn Viêm cho rằng các ngôi sao phía dưới của chòm sao Giác-Cang họp thành chòm sao Đê, như là cái cây có gốc. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Chòm sao Đê có bốn ngôi sao tượng trưng cho điện chính, là chỗ mà bầy tôi nghe chầu. Nếu chòm sao này sáng rõ thì bầy tôi vâng lệnh." Hợp thành đồ chép: "Chòm sao Đê tượng trưng cho chỗ nghỉ." chủ về bệnh dịch. Sách ẩn: Tháng ba cây du, cây giáp rụng lá, cho nên chủ về bệnh dịch. Nhưng lúc ấy mọi vật dẫu sinh sôi nhưng Mặt trời mọc ở khoảng chòm sao Khuê, gây khí độc, cho nên có bệnh dịch." Chính nghĩa: Ba chòm sao Đê-Phòng-Tâm thuộc hành hỏa, theo địa chi thuộc cung mão, tại phân dã của nước Tống. Chòm sao Vĩ có chín ngôi sao tượng trưng cho chín người con, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Vĩ có chín ngôi sao, chòm sao Cơ có bốn ngôi sao, là sân bãi của hậu cung." Chính nghĩa: Chòm sao Vĩ là bến chẻ củi, theo địa chi thuộc cung dần, tại phân dã của nước Yên. Chín ngôi sao của chòm sao Vĩ tượng trưng cho hậu cung, cũng là chín người con. Một ngôi sao gần chòm sao Tâm là Hậu, ba ngôi sau là Phi, ba ngôi sao nữa là Tần, hai ngôi cuối là Thiếp. Nếu sáng đều là điềm báo lớn bé hòa thuận, hậu cung yên ổn mà có nhiều con; nếu không thì trái lại; nếu sao Kim, sao Hỏa phạm vào là điềm báo hậu cung có dấy binh; nếu sáng tối khác thường là vợ lớn-bé gây loạn, kẻ hầu gái lộn xộn. tượng trưng cho vua-tôi; nếu các ngôi sao cách xa là điềm báo bất hòa. Chòm sao Cơ tượng trưng cho người khách ngạo mạn, Sách ẩn: Tống Quân nói: "Ngạo mạn là xấc láo. Chòm sao Cơ có hình như cánh tay dương lên, tượng trưng cho vẻ xấc láo. Chòm sao Cơ lại giống như cái sọt đựng đồ, có đồ đựng đồ vứt, tượng trưng cho khách lúc đến lúc đi." Chính nghĩa: Chòm sao Cơ chủ về tám hướng gió, cũng là chỗ ở của hậu phi. Nếu chuyển động vào khoảng phân dã của vùng sông Hà là điềm báo người trong nước ăn thịt lẫn nhau; nếu sao Kim, sao Hỏa phạm vào là điềm báo thiên hạ sẽ loạn; nếu Mặt Trăng mọc ở khoảng chòm sao ấy thì có gió nổi lên. tượng trưng cho miệng lưỡi. Sách ẩn: Thi chép: "Chòm sao Cơ phía nam là miệng của ông trời." Là nói chòm sao Cơ có lưỡi, tượng trưng cho lời nói. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Giác Sách ẩn: Xét: Vi Chiêu nói: "Sao Hỏa là sao Huỳnh Hoặc." thì có chiến tranh. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Phòng-Tâm, cũng là điều mà bậc đế vương ghét. Chính nghĩa: Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Cơ-Vĩ-Đê thì nó sẽ chiếu thành tia sáng, là sẽ có việc đánh trận. Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Phòng-Tâm mà chòm sao Phòng-Tâm cũng chiếu thành tia sáng thì bậc đế vương cũng ghét việc này. 3. Cung nam: Tên là cung Chu Điểu, Chính nghĩa: Chòm sao Liễu có tám ngôi sao xếp thành hình cái mỏ chim đỏ, tượng trưng cho quan coi về nhà bếp của trời, chủ về nấu ăn và món ngon. có chòm sao Quyền, chòm sao Hành. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Cung Hiên Viên là chòm sao Quyền, cung Thái Vi là chòm sao Hành." Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Cung nam là chỗ của Xích Đế, có thần là con chim đỏ." Chính nghĩa: Bốn ngôi sao của chòm sao Quyền ở phía tây đuôi chòm sao Hiên Viên, chủ việc đốt lửa, phòng giữ lúc nguy cấp. Nếu chòm sao này sáng là việc yên ổn; nếu không sáng là có việc nguy cấp; nếu dao động chiếu tia sáng cũng có việc nguy cấp. Chòm sao Hành là cung Thái Vi. Chòm sao Hành là cung Thái Vi, là đình của tam quang. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Thái Vi là cung phía nam của Thiên Đế. Tam quang là Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh." Có mười hai ngôi sao bao quanh tượng trưng cho phiên thần. [/color=red]Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Chòm sao Thái Vi chủ việc nghi thức, có mười hai ngôi sao, chủ việc phòng giữ việc quân nguy cấp." Chính nghĩa: Ngoài chòm sao Thái Vi có mười ngôi sao ở chòm sao Dực-Chẩn, tượng trưng cgo cung đình của thiên tử, là ghế ngồi của Ngũ Đế, nhà ở của mười hai chư hầu. Ngoài nó là tượng trưng cho phiên thần, cửu khanh. Phía tây nó tượng trưng cho tướng quân; phía đông nó tượng trưng cho Thừa tướng; phía nam có bốn ngôi sao tượng trưng cho quan lại trông coi hình pháp, gọi là chòm sao Chấp Pháp; giữa nó là tượng trưng cho hai cánh cửa, phía trái phải hai cánh cửa gọi là cửa bên. Trong cửa có sáu ngôi sao tượng trưng cho chư hầu. Chính nghĩa: Trong đó có năm ngôi sao tượng trưng cho chư hầu, ở tại sân của Thiên Đế. Những ngôi sao này thường sáng sủa rõ ràng; nếu mập mờ là điềm báo các chỗ đều bị tai họa, lớn thì giết chóc, nhỏ thì chạy trốn; nếu dao động thì có kẻ chuyên quyền lấn vua. Nên xét vị trí của nó để đoán thì không lầm. Lại nói năm ngôi sao tượng trưng cho chư hầu này ở sông Ngân Hán phía bắc chòm sao Đông Tỉnh, chủ việc cất nhắc hạ xuống, nên phòng giữ việc không may. Lại nói là chủ về âm-dương, xét được-mất. Một là tượng trưng cho thầy của vua, hai là bạn của vua, ba là Tam công, bốn là Bác sĩ, năm là Thái sử. Năm kẻ ấy là kẻ mà thiên tử nên xét kĩ. Nếu sáng sủa rõ ràng thì lớn nhỏ cân bằng, là phúc của nhà nước; nếu không thì trên dưới tranh nhau, trung thần không được dùng. Trong đó có năm ngôi sao tượng trưng cho ghế ngồi của Ngũ Đế, gọi là chòm sao Ngũ Đế Tọa. Sách ẩn: Thi hàm thần vụ chép năm ngôi sao là năm vị thần, phía đông là chỗ của Thương Đế, có vị thần tên là Linh Uy Ngưỡng, thuộc giống của loài rồng xanh. Chính nghĩa: Một sao là chỗ ngồi của Hoàng Đế, ở giữa cung Thái Vi, có thần tên là Hàm Xu Nữu. Bốn ngôi sao bên cạnh ngôi sao tượng trưng cho ghế ngồi của Hoàng Đế. Thương Đế ở phía đông gọi là thần Linh Uy Ngưỡng; Xích Đế ở phía nam gọi là thần Xích Tiêu Nộ; Bạch Đế ở phía tây gọi là thần Bạch Chiêu Củ; Hắc Đế ở phía bắc gọi là thần Hiệp Quang Kỉ. Ghế của Ngũ Đế cùng đặt là điềm thần linh tụ mưu. Nếu năm ngôi sao này sáng mà rõ là điềm báo thiên tử được lòng của trời đất; nếu không thì thất lạc. Sau nó có mười lăm ngôi sao tụ họp đông đúc, tượng trưng cho vị trí của các quan Lang, gọi là chòm sao Lang Vị, Chính nghĩa: Chòm sao Lang Vị có mười lăm ngôi sao, tại phía đông chòm sao Ngũ Đế Tọa trong cung Thái Vi. Nguyên sĩ thời nhà Chu, Quang lộc, Trung tán, Gián nghị thời nhà Hán là ba quan Lang trong đó. Là quan Thượng thư lang ngày nay. Chòm sao này lớn nhỏ sáng đều, thường có sắc rõ là điềm lành. bên cạnh có một ngôi sao lớn gọi là sao Tướng Vị. Chính nghĩa: Sao Tướng Vị là một ngôi sao phía đông bắc chòm sao Lang Vị, chủ việc phòng giữ việc quân, là Tả-Hữu trung lang tướng ngày nay. Nếu to mà sáng, có tia chiếu là điềm báo tướng quân phóng túng khó đỡ được. Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động theo hướng thuận đúng đường đi, Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Đúng đường đi không trái ngược. Hướng thuận là từ phía tây sang." xét nó ra ở đâu thì giữ ở đó, bị thiên tử bắt giết. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Xét Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động ở hướng vào sao nào, quan thuộc trong khoảng không quá mười lăm ngày xin thiên tử ra lệnh đi đánh giết kẻ đó." Nếu vào ngược mà không đúng đường đi là tượng trưng cho việc trái lệnh; phạm vào chòm Ngũ Đế Tọa, tỏ rõ điềm báo, Tập giải: Tấn chước chép: "Phạm vào chỗ của nhà vua, tỏ rõ họa phúc." Sách ẩn: Tống Quân nói: "Vào ngược là từ phía đông sang, không đúng đường đi, không vào theo đường lớn. Là kẻ muốn trái lệnh, thiên tử ra lệnh bắt giết kẻ đó." Chính nghĩa: Ý nói Mặt Trăng, ngũ tinh vào ngược, không theo đúng đường, xét vào chỗ mà nó phạm vào chòm sao Ngũ Đế Tọa trong cung Thái Vi thì tất có hình phạt giết chóc, đều là điềm báo bầy tôi hùa nhau mà mưu lấn vua trên. là điềm báo bầy tôi hùa mưu làm loạn. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào thì lại càng hơn. Sách ẩn: Xét: Sao Hỏa chủ việc hại vật mà sao Kim chủ việc dấy binh, là điềm báo rất nguy cấp. Còn nếu là sao Mộc-Thủy-Thổ lại việc nhỏ. Chính nghĩa: Nếu sao Kim-Hỏa vào ngược, không theo đúng đường, phạm vào chòm Ngũ Đế Tọa thì điềm báo nguy cấp còn hơn là Mặt Trăng, sao Thủy-Thổ-Mộc phạm vào. phía tây cung Thái Vi có năm ngôi sao rủ xuống gọi là cung Thiếu Vi, tượng trưng cho Sĩ đại phu. Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Cung Thiếu Vi tượng trưng cho kẻ sĩ ở ẩn." Thiên quan chiêm chép: "Cung Thiếu Vi có một ngôi sao tượng trưng cho kẻ sĩ ở ẩn." Chính nghĩa: Cung Thiếu Vi có bốn ngôi sao, ở phía tây nam bắc của cung Thái Vi, sao thứ nhất là Xứ Sĩ, sao thứ hai là Nghị Sĩ, sao thứ ba là Bác Sĩ, sao thứ tư là Đại Phu. Nếu sáng rõ màu vàng là kẻ sĩ tài năng được dùng; nếu không sáng là trái lại; Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào là điềm báo kẻ sĩ lo lắng, đổi quan Tể tướng. Chòm sao Quyền là cung Hiên Viên. Cung Hiên Viên hình như con rồng. [/color=red]Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như con rồng bay lên." Sách ẩn: Viên thần khế chép: "Cung Hiên Viên có mười hai ngôi sao, là chỗ ở của hậu cung." Tinh tán của họ Thạch cho rằng cung Hiên Viên có hình rồng, chủ về hậu phi. Chính nghĩa: Cung Hiên Viên có mười bảy ngôi sao, tại phía bắc chòm sao Thất Tinh, có hình con rồng vàng, là thần chủ việc mưa tuyết, tượng trưng cho hậu cung. Âm dương giao cảm mà thành sấm sét, vui thành mưa, giận thành gió, loạn thành sương mù, đọng thành tuyết, tan thành sương, tụ thành khí mây, đứng thành cầu vồng, rời thành quầng sáng, chia thành vầng quang. Hai mươi tư tiết khí đều do cung Hiên Viên làm chủ. Ngôi sao lớn chủ về đàn bà, thứ đến một ngôi sao phía bắc là chủ về đàn ông, thứ đến một ngôi sao phía bắc là chủ về phi tần, các ngôi sao tiếp sau đều là thứ phi. Phía nam ngôi sao chủ đàn bà có một ngôi sao nhỏ là sao Ngự Nữ; phía trái có một ngôi sao là sao Thiếu Dân, tượng trưng cho họ hàng của thứ phi; phía phải có một ngôi sao là sao Đại Dân, tượng trưng cho họ hàng của Thái hậu. Nếu sao nhỏ sáng màu vàng là tốt; lớn sáng là điềm hậu cung tranh giành; nếu chuyển động là điềm báo người trong nước tan chạy; phía đông tây có tia sáng phát ra là điềm báo họ hàng của hậu cung bị thua vỡ; sao Thủy-Hỏa-Kim phạm vào cung Hiên Viên là điều mà đàn bà ghét. Trước có một ngôi sao lớn tượng trưng cho Thái hậu; bên cạnh có ngôi sao nhỏ tượng trưng cho bọn hậu cung người hầu. Nếu Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào nó thì xét điềm báo cũng như xét chòm sao Hành. Chòm sao Đông Tỉnh chủ về việc nước lụt. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Đông Tỉnh có tám ngôi sao, chủ việc cân bằng nước ngập." Phần khúc gấp phía tây nó có ngôi sao gọi là sao Việt. Chính nghĩa: Chòm sao Đông Tỉnh có tám ngôi sao, một ngôi sao gọi là sao Việt, có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Dư Quỷ, có một ngôi sao gọi là sao Chất tượng trưng cho đầu chim thuần, theo địa chi thuộc cung mùi, đều tại phân dã của nước Tần. Có một sao lớn nằm trên đường hoàng đạo, tượng trưng cho đình chờ của nhà trời, chủ việc nước lụt, cân bằng việc pháp lệnh. Nếu đế vương dùng pháp lệnh cân bằng thì chòm sao Tỉnh sáng mà xếp thẳng. Có sao Việt liền ở phía trước chòm sao Tỉnh, chủ việc coi xét kẻ hoang dâm mà chém kẻ đó. Thường không sáng rõ, nếu sáng mà ngay thẳng, hoặc dao động thì có điềm báo thiên tử dùng búa rìu phạt đại thần; Mặt Trăng phạm vào chòm sao này thì có nổi mưa gió. Phía bắc sao Việt có chòm sao Bắc Hà; phía nam là chòm sao Nam Hà; Chính nghĩa: Chòm sao Nam Hà có ba ngôi sao, chòm sao Bắc Hà có ba ngôi sao, chia ra ở phía nam bắc của của chòm sao Đông Tỉnh, đặt thành cái gông, chòm sao Nam Hà là cái gông phía nam, còn gọi là chòm sao Dương Môn, cũng gọi là chòm sao Việt Môn; chòm sao Bắc Hà là cái gông phía bắc, còn gọi là chòm sao Âm Môn, cũng gọi là chòm sao Hồ Môn. Giữa hai cái gông là đường đi của tam quang. Nếu chòm sao phía nam không rõ là chính đạo miền nam không thông, nếu phía bắc thì cũng vậy; nếu dao động hoặc có sao Hỏa phạm vào là điềm báo Trung Quốc có dấy binh. Lại nói nếu dao động là người Hồ-Việt gây loạn, hoặc liên kết cận thần để gây biến. giữa chòm sao Nam-Bắc Hà, chòm sao Thiên Khuyết tượng trưng cho cửa khuyết. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Xem sáu ngôi sao của hai chòm sao Nam-Bắc Hà là biết tốt xấu. Là nói cái tận cùng của cửa cầu, biết được thật giả." Chính nghĩa: Hai sao Khuyết-Khâu ở phía nam chòm sao Nam Hà tượng trưng cho cửa khuyết của của thiên tử, cửa sổ của chư hầu, cũng tượng trưng cho gác treo bảng chính lệnh. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là điềm báo có việc binh ở dưới cửa khuyết. Chòm sao Dư Quỷ chủ việc thờ quỷ; trong đó có ngôi sao sáng trắng tên là sao Chất. Tập giải: Tấn chước chép: "Chòm sao Dư Quỷ có năm ngôi sao, trong đó có một ngôi sao sáng trắng là sao Chất." Chính nghĩa: Chòm sao Dư Quỷ có bốn ngôi sao, chủ việc cúng tế, là mắt của trời, chủ việc xem xét rõ kế gian. Ngôi sao phía đông bắc chủ việc chứa ngựa, ngôi sao phía đông nam chỉ việc chứa quân, ngôi sao phía tây nam chủ việc chứa vải lụa, ngôi sao phía tây bắc chủ việc chứa vàng ngọc, tùy theo nó chuyển động mà đoán. Một ngôi sao giữa chủ việc chứa xác chết, còn có tên là sao Chất, chủ việc tang ma cúng tế. Chòm sao Quỷ sáng rõ là điềm báo được mùa thóc; không sáng là điềm báo trăm họ li tán. Sao Chất thường mờ không sáng, nếu sáng là có dấy binh, đại thần bị giết, người dưới cũng chết theo. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Nam-Bắc Hà thì có dấy binh, lúa không được mùa. Cho nên xét đức thì xem ở chòm sao Hành, xem ở chòm sao Hoàng, xét có thương tổn hay không thì xem ở sao Việt, Tập giải: Tấn chước chép: Xét có thương tổn thì xem hình ở sao Việt." Sách ẩn: Xét: Xét đức xem chòm sao Hành, chòm sao Hành cân bằng mọi vật, cho nên đức được công bình, thành hình ở ở chòn sao Hành. Xem ở chòm sao Hoàng, tượng trưng cho chỗ để xe của nhà vua, nói là nhà vua đi xem, thành hình ở chòm sao Hoàng. Thương tổn thì xem hình ở sao Việt, nếu nhà vua đức kém thì cũng hiện rõ ở sao Việt, ý nói nếu tổn kém thì dùng rìu búa mà chém đi. xét hoạ thì xem ở chòm sao Tỉnh, Tập giải: Tấn chước chép: "Chòm sao Đông Tỉnh chủ việc nước lụt, nếu sao Hỏa phạm vào thì bên cạnh thì thiên tử sẽ có họa về lửa cháy, cho nên nói là họa." xét có bị bắt giết hay không thì xem ở sao Chất. Tập giải: Tấn chước chép: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Dư Quỷ, sao Chất thì đại thần bị bắt giết." Chòm sao Liễu có hình cái mỏ chim, chủ về cây cỏ. Chính nghĩa: Chòm sao Liễu có tám ngôi sao, chòm sao Tinh có bảy ngôi sao, chòm sao Trương có sáu ngôi sao, là phần bụng của chim, theo địa chi thuộc cung ngọ, đều tại phân dã của nhà Chu. Chòm sao Liễu là phần mỏ của cung Chu Điểu, chủ việc bếp núc của nhà trời, chủ việc món ăn, trộn mùi vị. Nếu sáng rõ là lành, nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là điềm báo trong nước có dấy binh lớn. Chòm sao Thất Tinh là phần cổ chim, tượng trưng cho ống tròn, chủ việc nguy cấp. Chính nghĩa: Chòm sao Thất Tinh tượng trưng cho cái cổ chim, còn có tên là chòm sao Thiên Đô, chủ việc áo quân gấm thêu, chủ việc nguy cấp. Nếu sáng thì tốt, tối là xấu; nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có việc binh lớn. Chòm sao Trương là cái nang, tượng trưng cho nhà bếp, chủ về khách mời ăn uống. Chính nghĩa: Chòm sao Trương có sáu ngôi sao xếp thành hình cái nang, chủ việc bếp núc ăn uống mời đãi khách. Nếu sáng thì tốt, tối là xấu. Sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có dấy binh lớn. Chòm sao Dực là lông cánh, chủ về khách phương xa. Chính nghĩa: Chòm sao Dực có hai mươi hai ngôi sao; chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao, có một sao Trường Sa, chòm sao Hạt có hai ngôi sao, hợp lại là sao Chẩn có bảy ngôi sao đều là phần đuôi chim, theo địa chi thuộc cung tị, phân dã của nước Sở. Chòm sao Dực có có hai mươi hai ngôi sao tượng trưng cho phủ nhạc của nhà trời, chủ về người Di-Địch, cũng chủ về khách phương xa. Nếu sáng rõ là lễ nhạc được nổi lên, người Di bốn phương thần phục; nếu chuyển động là điềm báo thiên tử phát binh để dẹp loạn. Chòm sao Chẩn là cái xe, chủ về gió. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao ở trong, lại có hai ngôi sao làm cái chốt trục trái phải, tượng trưng cho cái xe." Chính nghĩa: Chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao, chủ về bầy tôi phụ tá, lại chủ về xe cưỡi, cũng chủ về gió. Nếu sáng rõ là dùng được xe cưỡi, nếu sao Thái Bạch phạm vào là điềm báo việc học trong thiên hạ vỡ lở, văn nho mất nghiệp, binh cách trỗi lên; nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào là điềm báo phương nam có nước không vâng lệnh, nên phát binh đánh nước đó; nếu sao Thần phạm vào là miền sông Tứ, đất Từ có chết chóc. Bên cạnh có nó có một ngôi sao nhỏ là sao Trường Sa, Chính nghĩa: Sao Trường Sa là một ngôi sao trong chòm sao Chẩn, chủ về tuổi thọ. Nếu sáng thì tuổi thọ dài, con cháu đông đúc. các ngôi sao thuộc chòm sao này thường không sáng; nếu bốn ngôi sao sáng đều và ngũ tinh phạm vào chòm sao Chẩn thì có binh cách dấy lên. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Ngũ tinh chủ việc đi sứ. Đi sứ động thì binh cách cũng động." Các ngôi sao phía nam chòm sao Chẩn họp thành chòm sao Thiên Khố Lâu; Chính nghĩa: Có chòm sao Thiên Khố, chủ về đánh giết, phân dã của nước Tần, tại chòm sao Ngũ Xa. trong đó có chòm sao Ngũ Xa. Chòm sao Ngũ Xa có tia sáng lại nhiều ngôi sao hoặc không đủ là điềm xe ngựa không đặt yên. [chỉ việc động xe ngựa là có binh loạn] 4. Cung tây: Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung tây là chỗ của Bạch Đế, có thần là con hổ trắng." Tên là cung Hàm Trì, Chính nghĩa: Cung Hàm Trì có ba ngôi sao, tại giữa chòm sao Ngũ Xa, phía nam chòm sao Thiên Hoàng, là chỗ mà chim cá dựa vào. Nếu sao Kim phạm vào là điềm báo dấy binh. Nếu sao Hỏa phạm vào là điềm báo có tai họa. còn gọi là chòm sao Thiên Ngũ Hoàng. Chòm sao Thiên Ngũ Hoàng là chỗ để xe của Ngũ Đế. Sách ẩn: Xét: Nguyên mệnh bao chép: "Cung Hàm Trì chủ về ngũ cốc, có năm ngôi sao đều chủ về một loại cây lúa. Cung Hàm Trì là nói lúa mọc ở nước, đều mọc đều ra hạt, chủ về cuối mùa thu, cho nên còn gọi là chỗ để xe của Ngũ Đế, lấy xe chở lúa mà bán vậy." Chính nghĩa: Chòm sao Ngũ Xa có năm ngôi sao, chòm sao Tam Trụ có chín ngôi sao, tại phía đông bắc chòm sao Tất, là chỗ để xe của năm thứ quân của thiên tử. Phía tây bắc nó có một ngôi sao lớn là chòm sao Thiên Khố, chủ sao Thái Bạch, là phân dã của nước Tần. Tiếp đến phía đông bắc là chòm sao Thiên Ngục, chủ sao Thần, phân dã của nước Yên-Triệu. Tiếp đến phía đông là chòm sao Thiên Thương, chủ sao Tuế, phân dã của nước Vệ-Lỗ. Tiếp đến phía đông nam là chòm sao Tư Không, chủ sao Trấn, phân dã của nước Sở. Tiếp đến phía tây nam là chòm sao Khanh, chủ sao Huỳnh Hoặc, phân dã của nước Ngụy. Nếu các sao của chòm sao Ngũ Xa cùng sáng, đều thấy chòm sao Tam Trụ là điềm báo kho tàng đầy; nếu không thì nhà nước hết lương thực, có dấy binh. Nếu chòm sao Ngũ Xa-Tam Trụ có biến thì đều dựa vào phân dã của nước nào mà xét điềm báo. Nếu chòm sao Tam Trụ ra vào một tháng thì gạo đầy gấp ba lần, trong hai năm mà ra ba tháng thì đầy gấp chục lần, trong ba năm mà chòm sao Tam Trụ ra không gần nhau với chòm sao Thiên Thương là điềm báo xuất quân, gạo đầy, chuyển thóc đi ngàn dặm; chòm sao Trụ ra ngược lại càng hơn. Nếu sao Hỏa phạm vào là điềm báo thiên hạ có khô hạn; nếu sao Kim phạm vào là điềm báo có dấy binh; nếu sao Thủy phạm vào là điềm báo có nước lụt. Nếu sao Hỏa phạm vào là có khô hạn; sao Kim phạm vào là có dấy binh; sao Thủy phạm vào là có nước lụt. Sách ẩn: Là nói sao Hỏa-Kim-Thủy phạm vào chòm sao Thiên Ngũ Hoàng, đều dẫn đến các tai họa. Xét: Tống Quân nói: "Không nói đến sao Mộc-Thổ, là vì sao Mộc-Thổ là sao có đức, không có hại ở đấy vậy." Giữa có chòm sao Tam Trụ; chòm sao Tam Trụ không thấy là có dấy binh. Chòm sao Khuê còn gọi là chòm sao Phong Thỉ, chủ về kênh rạch. Chính nghĩa: Khuê, đọc là 'khổ khuê phiên', có mười sáu ngôi sao. Chòm sao Lâu có ba ngôi sao, còn gọi là chòm sao Giáng Lâu, theo địa chi thuộc cung tuất, phân dã của nước Lỗ. Chòm sao Khuê là phủ khố của nhà trời, còn gọi là chòm sao Thiên Thỉ, cũng gọi là chòm sao Phong Thỉ, chủ về kênh rạch. Phía tây nam có một ngôi sao lớn, gọi là sao Thiên Thỉ Mục. Nếu sáng là điềm lành. Chòm sao này thường không thấy đầy đủ, nếu đầy đủ là có dấy binh. Nếu mờ là điềm báo bầy tôi chuyên quyền. Thường cũng không mở cửa không định sẵn, nếu vậy sẽ có kẻ áo vải xưng mệnh ở hang núi. Nếu ngũ tinh phạm vào chòm sao Khuê là điềm báo nhà vua kém đức, đại thần chuyên quyền, không ai ngăn được. Nếu đế vương không sửa việc cúng tế thì chòm sao Khuê dao động. Nếu có nếu long lanh có ánh sáng là điềm báo cận thần có mưu tiếm ngôi vua, cũng là điềm báo người dân thiếu đói. Nếu sao Thái Bạch phạm vào chòm sao Khuê là điềm báo người Hồ-Mạch có loạn, có thể đánh được họ. Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào là nạn nước lụt liên miên ba năm. Nếu sao Trấn-Tuế phạm vào là điềm báo có lợi cho Trung Quốc, có thể dấy binh động quân, chém diệt kẻ vô đạo. Chòm sao Lâu chủ việc tụ họp dân chúng. Chính nghĩa: Chòm sao Lâu có ba ngôi sao, chủ vườn, chăn nuôi muông thú để làm đồ cúng tế, cũng chủ việc tụ họp dân chúng. Nếu dao động là có quân dân tụ họp; sao Kim-Hỏa phạm vào là có dấy binh. Chòm sao Vị chủ về kho tàng. Chính nghĩa: Chòm sao Vị có ba ngôi sao, chòm sao Mão có bảy ngôi sao, chòm sao Tất có tám ngôi sao, họp lại thành chòm sao Đại Lương. Theo địa chi thuộc cung dậu, phân dã của nước Triệu. Chòm sao Vị chủ về kho tàng, là chỗ chứa ngũ cốc. Nếu sáng thì thiên hạ hòa bình, ngũ cốc đầy đủ; nếu không là trái lại. Có chòm sao phía nam nó là chòm sao Quái Tích. Tập giải: Như Thuần nói: "Chỗ chứa cỏ gọi là 'quái'." Chính nghĩa: Chòm sao Sô có sao ngôi sao, tại phía tây chòm sao Thiên Uyển, chủ việc chứa cỏ. Nếu không thấy là điềm báo bò ngựa bị bệnh chết, sao Hỏa phạm vào là có tai họa. Chòm sao Mão gọi là chòm sao Mao Đầu, Chính nghĩa: Chòm sao Mão có bảy ngôi sao, gọi là chòm sao Mao Đầu, chủ về người Hồ, cũng là việc tù ngục. Nếu sáng là việc xét tù ngục trong thiên hạ yên ổn; mờ là hình phạt rườm rà. Sáu ngôi sao sáng ngang với ngôi sao lớn là điềm báo nước lụt sắp lên, có quân lớn dấy lên; dao động như nhảy múa là điềm báo quân rợ Hồ dấy lên mạnh mẽ; có một sao không thấy là điềm xấu có binh cách. là chòm sao chủ về người Hồ, chủ về việc tang. Chòm sao Tất còn gọi là chòm sao Hãn Xa, Chính nghĩa: Chòm sao Tất có tám ngôi sao, gọi là chòm sao Hãn Xa, chủ về quân ở biên ải, chủ về việc săn bắt. Có ngôi sao lớn trong đó là sao Thiên Cao, chủ về tướng ở biên ải, chủ về việc vỗ về người rợ ở bốn phương. Nếu chòm sao này sáng to là thiên hạ yên, người rợ phương xa đến cống; nếu sắc kém là biên ải có loạn. Đều dao động là có dấy binh; nếu Mặt Trăng phạm vào thì mưa nhiều. chủ về quân ở biên ải, chủ về việc săn bắt. Cạnh ngôi sao lớn của nó có một ngôi sao nhỏ là sao Phụ Nhĩ. Chính nghĩa: Một ngôi sao tên là sao Phụ Nhĩ ở dưới sáu ngôi sao của chòm sao Tất, ở góc đông nam sao Thiên Cao, chủ về việc nhà vua nghe lời được mất, dò xét lỗi lầm. Nếu sao này sáng là Trung Quốc suy yếu, biên ải có giặc cướp; nếu di động là có kẻ xu nịnh; si chuyển vào chòm sao Tất là điềm báo trong nước có dấy binh. Sao Phụ Nhĩ dao động là có bầy tôi gièm pha làm loạn ở bên. Giữa chòm sao Mão-Tất có chòm sao Thiên Nhai. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Tất là bậc thềm của nhà trời." Nhĩ nhã chép: "Trong chòm sao Đại Lương có chòm sao Mão." Tôn Viêm nói: "Giữa chòm sao Mão-Tất là con đường chính để Mặt Trời, Mặt Trăng, Ngũ Tinh chuyển động ra vào, ví như cầu bến vậy." Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Nhai có hai ngôi sao, ở giữa chòm sao Tất-Mão, chủ về ranh giới của nhà nước. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là phân dã của nước Hoa-Hạ, phía bắc là phân dã của nước Di-Địch. Sao Thổ-Kim phạm vào là điềm báo quân rợ Hồ lấn vào. Phía nam nó là phân dã của nước âm; phía bắc nó là phân dã của nước dương. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Âm là phía tây nam, thuộc cung quẻ Khôn, là nước từ sông Hà núi Hoa về phía bắc; dương là nước từ sông Hà núi Hoa về phía nam." Chòm sao Sâm tượng trưng cho con hổ trắng. Chính nghĩa: Chòm sao Tuy có ba ngôi sao, chòm sao Sâm có ba ngôi sao, ngoài có bốn ngôi sao nữa họp lại thành chòm sao Thực Trầm, theo địa chi thuộc cung thân, phân dã của nước Ngụy, có hình con hổ trắng. Sâm, đọc là 'sắc lâm phiên'. Ba ngôi sao xếp thẳng hàng gọi là chòm sao Hành Thạch. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Chòm sao Sâm có ba ngôi sao, trong cung Bạch Hổ, đông tây thẳng hàng như cái cân. Dưới có ba ngôi sao, hình như cái dùi, gọi là chòm sao Phạt, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Ở giữa chòm sao Sâm, trên nhỏ dưới lớn, cho nên nói là hình cái dùi." Tấn chước chép: "Ba ngôi sao này xếp thành hình hơi vẹo, không phải hình cái dùi." chủ việc chặt chém. Ngoài nó có bốn ngôi sao, là vai trái phải, đùi trái phải. Bên cạnh có ba ngôi sao nhỏ, gọi là chòm sao Tuy Huề, tượng trưng cho đầu con hổ, chủ việc giữ quân. Chính nghĩa: Chòm sao Tuy Huề là đầu hổ, chủ việc thu giữ quân lính. Nếu sao Kim-Thủy phạm vào là nhà nước thay đổi chính lệnh, có tai họa. Phía nam nó có bốn ngôi sao, gọi là chòm sao Thiên Xí. Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Xí có bốn ngôi sao, ở phía đông sao Bính, chủ về chuồng xí. Nếu màu vàng là tốt; màu xanh và trắng là đều xấu; không thấy là có bệnh tật. Dưới chòm sao Thiên Xí có một ngôi sao gọi là sao Thiên Thỉ. Chính nghĩa: Một ngôi sao Thiên Thỉ ở phía nam chòm sao Thiên Xí, xem đoán giống với chòm sao Thiên Xí. Sao Thiên Thỉ có màu vàng là tốt; màu xanh, trắng, đen là xấu. Phía tây nó có chín ngôi sao xếp hình gấp khúc, chia làm ba phần: một phần gọi là chòm sao Thiên Kì, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Kì có chín ngôi sao ở phía tây chòm sao Sâm, tượng trưng cho lá cờ trời, chỉ việc vẫy gọi gần xa đến nghe lệnh. Nếu bậc đế vương chặt chém đúng lẽ thì chòm sao Thiên Kì thẳng cong đúng lối; nếu không thì có dấy binh ở ngoài, là việc đáng lo. Nếu sáng mà ít sao thì có nhiều người chết. hai là chòm sao Thiên Uyển, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Uyển có mười sáu ngôi sao hình vòng tròng, ở phía nam chòm sao Tất, là chỗ mà thiên tử nuôi nấng cầm thú. Nếu mờ ít sao thì có nhiều người chết. ba là chòm sao Cửu Du. Chính nghĩa: Chòm sao Cửu Du có chín ngôi sao, ở phía nam chòm sao Ngọc Tỉnh, là cờ quân của thiên tử, dùng để vẫy lệnh quân lính tiến lùi, cũng ra lệnh cho các châu quận. Thường không hay dao động, nếu dao động là chín châu chia rẽ, người dân mất mùa, hiệu lệnh đều không thông, có rối ren trong nước. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là có loạn. Phía đông nó có một ngôi sao lớn là sao Lang. Chính nghĩa: Một ngôi sao Lang ở pphía đông nam chòm sao Sâm. Sao Lang tượng trưng cho tướng ở ngoài bãi, chủ về việc cướp chiếm. Nếu không đúng vị trí thì có người dân ăăn thịt lẫn nhau; có mày vàng trắng lại sáng là điềm lành; nếu có tia sáng màu đỏ là có dấy binh, sao Kim-Mộc-Hỏa phạm vào cũng như vậy. Nếu tia sáng sao Lang đổi màu là có nhiều giặc cướp. Dưới có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Hồ, Chính nghĩa: Chòm sao Hồ có chín ngôi sao, ở phía đông nam sao Lang, là cây cung của trời vậy, dùng để đánh kẻ phản loạn trốn tránh, lại chủ việc ngăn giặc cướp và trị kẻ gian tà. Nếu chòm sao Hồ dao động hướng về sao Thiên Thỉ thì có nhiều giặc cướp; nếu sáng mà đổi màu cũng như vậy. Sao Thiên Thỉ không thẳng với sao Lang lại có nhiều giặc; nếu dãn hết cỡ là thiên hạ hết dấy binh. thẳng hướng với sao Lang. Gần mặt đất kề với sao Lang có một ngôi sao lớn gọi là sao Nam Cực Lão Nhân. Chính nghĩa: Một ngôi sao Lão Nhân ở phía nam chòm sao Hồ, còn gọi là sao Nam Cực, chủ về tuổi thọ dài ngắn của con người, thường vào buổi sớm ngày thu phân thì xuất hiện ở cung bính, buổi tối ngày xuân phân xuất hiện ở cung đinh. Nếu xuất hiện là nhà nước kéo dài, gọi là là sao Thọ Xương, thiên hạ yên ổn; nếu không thấy là điềm báo nhà vua có việc lo lắng. Sao Nam Cực Lão Nhân hiện là yên ổn; không hiện là có dấy binh. Thường vào ngày thu phân thấy được nó ở ngoài thành phía nam. Nếu sao Phụ Nhĩ phạm vào giữa chòm sao Tất là có dấy binh. 5. Cung bắc: Tên là cung Huyền Vũ, Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung bắc là chỗ của Hắc Đế, có thần tên là Huyền Vũ." Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu có sáu ngôi sao, chòm sao Khiên Ngưu có sáu ngôi sao, đều ở cung bắc, gọi là cung Huyền Vũ. có chòm sao Hư, chòm sao Nguy. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Huyền Hiêu là chòm sao Hư." Lại chép: "Bắc Lục là chòm sao Hư." Chính nghĩa: Chòm sao Hư có hai ngôi sao, chòm sao Nguy có ba ngôi sao, còn gọi là chòm sao Y Hieê, theo địa chi thuộc cung tí, phân dã của nước Tề. Chòm sao Hư chủ việc chết tang, khóc lóc, lại chủ về việc cúng tế cầu đảo ở miếu đường nơi thành ấp, là quan Trủng tể của nhà trời, chủ việc trông coi thiên hạ, cất chứa muôn vật. Nếu động là có điềm báo chết tang khóc lóc; sao Hỏa phạm vào là thiên tử sắp đem quân đi đánh; sao Thủy phạm vào là người dân đói kém; sao Kim phạm vào là bầy tôi dấy binh. Chòm sao Nguy chủ về việc cúng tế tông miếu, chủ về chợ búa, khung nhà. Nếu động là có việc đắp đất; sao Hỏa phạm vào là thiên hạ có binh cách; sao Thủy phạm vào là bầy tôi dưới mưu lấn nhà vua. Chòm sao Nguy chủ về nóc nhà; Sách ẩn: Tống Quân nói: "Phần trên của chòm sao Nguy là một ngôi sao ở vị trí cao, bên cạnh là hai ngôi sao ở dưới có hình như cái nóc nhà." Chính nghĩa: Hai ngôi sao nóc nhà ở phía nam của chòm sao Nguy, chủ về cung điện mà thiên tử ở. Sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có dấy binh; nếu có sao chổi xẹt qua lại càng xấu. chòm sao Hư chủ về việc tang khóc. Sách ẩn: Họ Diêu xét Kinh châu chiêm cho rằng chòm sao này có hai ngôi sao, ngôi sao phía nam chủ việc tang khóc. Giữa chòm sao Hư có sáu ngôi sao, thường không sáng, nếu sáng là có tang lớn. Phía nam nó có chòm sao gọi là chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân. Chính nghĩa: Chòm sao Vũ Lâm có bốn mươi lăm ngôi sao, tụ thành nhóm ba ngôi sao, phân tán tại phía nam chòm sao Lũy Bích Trận, là quân của trời, cũng là quân lính túc vệ của nhà trời. Nếu không thấy là thiên hạ loạn; sao Kim-Hỏa-Thủy phạm vào là có dấy binh. Phía tây nó là chòm sao Lũy, Chính nghĩa: Chòm sao Lũy Bích Trận có mười hai ngôi sao, xếp ngang tại phía nam chòm sao Doanh Thất, là rào lũy của quân nhà trời. Nếu ngũ tinh phạm vào đều là có dấy binh, tướng quân chết., còn gọi là chòm sao Việt. Bên cạnh có một ngôi sao lớn là sao Bắc Lạc. Nếu sao Bắc Lạc hơi mờ nhạt, mà chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân dao động có tia sáng ít sao và ngũ tinh phạm vào sao Bắc Lạc, Chính nghĩa: Một ngôi sao Bắc Lạc ở phía tây nam chòm sao Vũ Lâm, là cửa quân của nhà trời. Cửa Bắc Lạc ở thành Tràng An cũng tượng trưng như vậy. Chủ việc khác thường, để coi xét quân lính. Nếu sáng là quân yên; mờ tối là có dấy binh; sao Kim-Hỏa phạm vào là có binh cách, có quân địch phạm vào cửa ải; nếu sao Thổ-Mộc phạm vào thì lành. phạm vào chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân thì có dấy binh. Nếu sao Kim-Hỏa-Thủy phạm vào lại càng xấu. Sao Hỏa phạm vào thì việc binh có lo lắng. Sao Thủy phạm vào thì có tai họa. Sao Mộc-Thổ phạm vào thì việc quân tốt. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "sao Mộc, sao Hỏa phạm vào sao Bắc Lạc là lành." Phía đông chòm sao Nguy có sáu ngôi sao, xếp thành từng cặp giống nhau, gọi là chòm sao Tư Không. Chính nghĩa: Phía đông chòm sao Nguy có từng cặp giống nhau là chòm sao Tư Mệnh. Chỉ có một sao Tư Không mà thôi, lại không phải ở phía đông chòm sao Nguy, e rằng chữ 'Mệnh' lầm thành chữ 'Không'. Chòm sao Tư Mệnh có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Hư, chủ việc tống tang; chòm sao Tư Lộc có hai ngôi sao pử phía bắc chòm sao tư Mệnh, chủ việc quan lại; chòm sao Nguy có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Tư Lộc, chủ về nguy vong; chòm sao Tư Phi có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Nguy, chủ việc lỗi lầm, đều là chức quan sắp đặt. Nếu sáng to là vua có nỗi lo; sáng thường là lành. Chòm sao Doanh Thất là miếu thờ tổ tiên, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Doanh Thất có mười ngôi sao, chủ về các loại đất gốm, bắt đầu lập rường mối, nặn đất xây nhà." Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Doanh Thất còn gọi là chòm sao Định." Quách Phác nói: "Định là chính. Thiên hạ làm cung thất, đều lấy giữa chòm sao Doanh Thất làm chính." gọi là cung Li, cung Các Đạo. Sách ẩn: Xét: Kinh châu chiêm xét: "Cung Các Đạo là cung Vương Lương Kì, có sáu ngôi sao." Giữa sông Ngân Hán có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Thiên Tứ. Sách ẩn: Xét: Nguyên mệnh bao chép: Giữa sông Ngân Hán có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Kị, còn gọi là chòm sao Thiên Tứ. Bên cạnh có một ngôi sao gọi là sao Vương Lương. Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Sao Vương Lương chủ về ngựa của nhà trời." Chính nghĩa: Chòm sao Vương Lương có năm ngôi sao, ở giữa sông chòm sao Khuê-Bắc Hà, tượng trưng cho quan Phụng ngự của thiên tử. Nếu dao động là ruổi ngựa, là điềm quân kị đầy đồng; nếu có sao lạ phạm vào là cầu bến không thông; sao Kim-Hỏa phạm vào đều là điềm có nạn binh cách. Cạnh sao Vương Lương là sao Sách Mã, Chính nghĩa: Một ngôi sao Sách ở phía trước sao Vương Lương, chủ người đánh xe của thiên tử. Nếu dao động đến trước sao Vương Lương hoặc đến sao sao Mã, tên khác là sao Sách Mã, ruổi ngựa là động binh. Xét: Có người quận Dự Chương tên là Chu Đằng, tên chữ là Thúc Đạt, người huyện Nam Xương, làm quan Ngự sử. Vào lúc Hoàn Đế sắp đến chỗ ngoài thành phía nam, Đằng ngẩng xem thiên văn, nói: "Đế vương ứng với tượng trên trời, nay các sao cung giữa và sao Sách Mã đều không dao động, hôm sau nhà vua chắc chẳng đi ra." Đến canh tư, Hoàng thái tử chết, nhà vua bèn thôi. dao động là điềm xe ngựa đầy đồng. Bên cạnh có tám ngôi sao bắc ngang qua sông Ngân Hán, gọi là chòm sao Thiên Hoàng. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Thiên Hoàng chủ về kênh sông Hà, để cho các vị thần qua sông, đi khắp bốn phương." Tống Quân nói: "Chòm sao Thiên Hoàng là bến sông trên trời." Bên cạnh chòm sao Thiên Hoàng là chòm sao Giang Tinh. Chính nghĩa: Chòm sao Giang Tinh có bốn ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Vĩ, chủ Thái Âm. Thường không sáng, nếu sáng và dao động là có nước ngập; nếu chòm sao này sáng rõ thì không ngăn được nước lụt. Chòm sao Giang Tinh dao động là điềm người dân phải lội nước. Chòm sao Xử Cữu có bốn ngôi sao ở phía nam chòm sao Nguy. Chính nghĩa: Chòm sao Xử có ba ngôi sao, ở bên cạnh sao Trượng Nhân, chủ về lương thực của quân lính. Nếu thẳng với chòm sao Cữu là tốt, không ngang nhau với chòm sao Cữu là quân lính bị hết lương. Chòm sao Cữu ở phía nam, chủ việc giã dạo. Nếu ngược là năm đó đói to, ngưỡng lên là được mùa lớn. Có chòm sao Bào Qua, Sách ẩn: Xét: Kinh châu chiêm chép: "Chòm sao Bào Qua còn có tên là Thiên Kê, ở phía đông chòm sao Hà Cổ. Nếu chòm sao Bào Qua sáng thì năm đó được mùa to." Chính nghĩa: Bào, đọc là 'bạch bao phiên'. Chòm sao Bào Qua có năm ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Li Châu, là vườn quả của thiên tử. Nếu sáng sủa rõ ràng là năm đó được mùa, nếu không thì quả hạt không được mùa; nếu sao lạ phạm vào thì cá muối sẽ đắt. có ngôi sao ánh sáng màu xanh đen phạm vào thì cá muối sẽ đắt. Chòm sao Nam Đẩu Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu có sáu ngôi sao ở phía nam. là miếu của trời, phía bắc nó là chòm sao Kiến Tinh. Chính nghĩa: Chòm sao Kiến có sáu ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Đẩu, gần đường hoàng đạo, [1] là cửa đô của nhà trời. Giữa chòm sao Đẩu-Kiến là đường đi của thất diệu, [2] cũng chủ về xe cờ. Nếu dao động là người dân bị mệt, nếu không thì không sao; Mặt Trăng có quầng là điềm báo giao long xuất hiện, bò ngựa bị bệnh dịch; nếu Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào thì đại thần sắp mưu loạn, cửa cầu không thông và có nước ngập. Chòm sao Kiến Tinh là cờ cắm ở miếu. Chòm sao Khiên Ngưu là đồ cúng tế. Chính nghĩa: Chòm sao Khiên Ngưu là đồ cúng tế, cũng là cửa cầu. Phía bắc nó có hai ngôi sao, một là sao Tức Lộ, hai là sao Tụ Hỏa. Lại trên nó có một ngôi sao, chủ về đường đi; thứ đến có hai ngôi sao, chủ về cửa cầu; thứ đến có hai ngôi sao chủ nước Nam Việt. Nếu sáng rõ là cửa cầu thông suốt; nếu không sáng là không thông suốt, bò trong thiên hạ bị bệnh chết; nếu chuyển động vào dòng Ngân Hán thì thiên hạ sẽ loạn. Phía bắc nó là chòm sao Hà Cổ. Sách ẩn: Tôn Viêm nói: "Cờ của chòm sao Hà Cổ có mười hai ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Khiên Ngưu, có người nói chòm sao Hà Cổ là thuộc chòm sao Khiên Ngưu." Có ngôi sao lớn trong chòm sao Hà Cổ là sao Thượng Tướng; bên trái phải là sao Tả Tướng- Hữu Tướng. Chính nghĩa: Chính nghĩa: Chòm sao Hà Cổ có ba ngôi sao ở phía bắc chòm sao Khiên Ngưu, chủ việc cờ quân. Có lẽ là tượng trưng cho ba vị tướng quân của thiên tử. Ngôi sao lớn ở giữa là Đại tướng quân, phía nam là sao bên trái là Tả tướng quân, phía bắc là sao bên phải là Hữu tướng quân, chủ về sắm sửa cửa cầu và ngăn tai họa. Nếu sáng suốt rõ ràng thì tướng quân lành, dao động là gặp xấu, có quân dấy loạn; thẳng hàng là tướng lập được công; cong thì tướng lầm kế. Từ ngày xưa truyền lại chòm sao Khiên Ngưu-Chức Nữ vào ngày bảy tháng bảy gặp nhau là chòm sao ấy. Chòm sao Vụ Nữ, Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Tu Nữ gọi là chòm sao Vụ Nữ." Chính nghĩa: Chòm sao Tu Nữ có bốn ngôi sao, cũng gọi là chòm sao Vụ Nữ, là quan Thiếu phủ của nhà trời. Chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu-Vụ Nữ đều thuộc cung Tinh Kỉ, theo địa chi thuộc cung sửu, phân dã của nước Việt, nhưng chòm sao Đẩu-Ngưu là phân dã của nước Ngô. Tu Nữ là tên gọi của vợ lẽ, hạng thấp trong bọn đàn bà, chủ về vải lụa may vá cưới gả. Nếu sao Thủy phạm vào là muôn vật không tốt; sao Hỏa phạm vào là vải lụa có đầy, nhiều người chết; sao Thổ phạm vào thì có người đàn bà chết; sao Kim phạm vào thì có dấy binh. phía bắc có chòm sao Chức Nữ. Chính nghĩa: Chòm sao Chức Nữ có ba ngôi sao ở phía đông chòm sao Thiên Kỉ phía bắc sông Ngân Hán, là con gái của nhà trời, chủ về hạt quả vải lụa vật báu. Nếu đế vương có lòng hiếu thông đến thần minh thì ba ngôi sao này cùng sáng; nếu không thì mờ mà nhỏ, việc làm của đàn bà trong thiên hạ bị bỏ trễ; nếu sáng thì được tốt; nếu sao sáng to mà có tia thì vải lụa đắt lên; nếu không thấy thì có dấy binh. Tấn thư thiên văn chí chép: "Thái sử lệnh của nhà Tấn tên là Trần Trác xét sách chép về các ngôi sao mà ba nhà Cam-Thạch-Vu soạn, có cả thảy hai trăm tám mươi ba quan, một ngàn bốn trăm sáu mươi tư ngôi sao, lấy đó làm rường cột. Nay nói sơ qua như vậy để sắp đặt thiên quan." Chòm sao Chức Nữ là cháu gái của nhà trời. Sách ẩn: Chòm sao Chức Nữ là cháu của trời. Xét: Kinh châu chiêm chép: "Chòm sao Chức Nữ còn có tên là chòm sao Thiên Nữ, là con gái của thiên tử." Thái sử công tìm cái biến đổi của vòm trời thời xưa nhưng chưa có cái xét được ở ngày nay. Xét qua khoảng hai trăm bốn mươi hai năm chép trong kinh Xuân thu có thấy Mặt Trời bị che ba mươi sáu lần, sao chổi xuất hiện ba lần, Chính nghĩa: Tháng bảy năm thứ mười bốn thời Văn Công có sao phạm vào chòm sao Bắc Đẩu; mùa đông năm thứ mười bảy thời Chiêu Vương có sao chổi xẹt vào chòm sao Đại Thần; năm thứ mười ba thời Ai Công có sao chổi xuất hiện ở khoảng trời phía đông. vào thời Tương Công nước Tống có sao rơi như mưa. Chính nghĩa: Là nói ngày đầu mậu thân tháng giêng năm thứ mười sáu thời Hi Công, có năm khối đá vụn rơi xuống nước Tống. Bấy giờ thiên tử suy yếu, chư hầu dùng sức đánh dẹp, ngũ bá thay nhau nổi lên, Chính nghĩa: Triệu Kì chú giải Mạnh Tử chép: "Đấy là Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Mục Công nước Tần, Tương Công nước Tấn, Trang Vương nước Sở." đổi làm chủ mệnh, từ đó về sau người ta lấy đông hiếp ít, nước lớn chiếm nước nhỏ. Các nước Tần, Sở, Ngô, Việt là nước Di-Địch nhưng mạnh lên xưng bá. Chính nghĩa: Tổ tiên của vua nước Tần là Phi Tử lúc đầu được phong ở nước Tần, đất ấy tại chỗ rợ Nhung phía tây. Vua nước Sở tên là Dục Hùng lúc đầu được phong ở đất Đan Dương, là chỗ rợ Man châu Kinh. Vua nước Ngô là Thái Bá trú ở nước Ngô, nhà Chu nhân đó phong cho ở nước Ngô, hiệu là Câu Ngô. Tổ tiên vua nước Việt là con của vua Thiếu Khang lúc đầu được phong ở nước Việt để coi việc cúng tế vua Vũ, đất ấy là đất Việt phía đông. Đều là đất của người Nhung-Di, cho nên nói là nước Di-Địch. Sau này Mục Công nước Tần, Trang Vương nước Sở, vua Hạp Lư nước Ngô, vua Câu Tiễn nước Việt đều được phong làm bá. Họ Điền cướp ngôi vua nước Tề, Chính nghĩa: Năm thứ hai mươi ba thời An Vương nhà Chu thì Khang Công nước Tề chết, nhân đó Điền Hòa chiếm nước Tề mà lập làm vua nước Tề. ba nhà chia nước Tấn, Chính nghĩa: Năm thứ hai mươi sáu thời An Vương nhà Chu thì Vũ Hầu nước Ngụy, Văn Hầu nước Hàn, Kính Hầu nước Triệu cùng diệt Tĩnh Công nước Tấn mà chia nước Tấn làm ba nước. vào thời Chiến quốc. Tranh nhau ở việc đánh chiếm, cùng nổi binh cách, nhiều thành ấp bị phá, do đó đói kém, bệnh dịch khổ sở, vua tôi cùng lo lắng, việc cúng tế xem xét sao trời để đoán tốt xấu lại càng sốt sắng. Gần đây bảy nước mười hai chư hầu thay nhau xưng vương. Chính nghĩa: Vào năm thứ ba thời Hiếu Cảnh nhà Hán có Ngô Vương tên là Tị, Sở Vương tên là Mậu, Triệu Vương tên là Toại, Hoài Nam Vương tên là Tịch Quang, Truy Xuyên Vương tên là Hòên, Giao Đông Vương tê là Hùng Cừ. những kẻ nêu thuyết 'tung hoành' nối theo, mà những người như Cao, Đường, Cam, Thạch lại dựa vào việc xảy ra ở thời ấy để bàn về thư truyện của mình, cho nên việc bói đoán ấy lẫn lộn như gạo muối. Chính nghĩa: Lẫn lộn là lộn xộn. Gạo muối là lặt vặt. Ý nói là bọn Cao, Đường, Cam-Thạch dựa theo việc xảy ra ở thời mình mà bàn về những việc quái lạ mà thư truyện chép, cho nên việc bói đoán của họ lộn xộn lặt vặt. Có chép tại Hán thư ngũ hành chí. Hai mươi tám chòm sao chủ mười hai châu, Chính nghĩa: Hai mươi tám chòm sao trên vòm trời là nói phía đông có Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ; phía bắc có Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích; phía tây có Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tủy, Sâm; phía nam có Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Tinh kinh chép: "Giác-Cang là phân dã của nước Trịnh, chủ châu Duyện; Đê-Phòng-Tâm là phân dã của nước Tống, chủ châu Dự; Vĩ-Cơ là phân dã của của nước Yên, chủ châu U; Nam Đẩu-Khiên Ngưu là phân dã của nước Ngô-Việt, chủ châu Dương; Tu Nữ-Hư là phân dã của nước Tề, chủ châu Thanh; Nguy-Thất-Bích là phân dã của nước Vệ, chủ châu Tinh; Khuê-Lâu là phân dã của nước Lỗ, chủ châu Từ; Vị-Mão là phân dã của nước Triệu, là châu Kí; Tất-Tủy-Sâm là phân dã của nước Ngụy, chủ châu Ích; Đông Tỉnh-Dư Quỷ là phân dã của nước Tần, chủ châu Ung; Liễu-Tinh-Trương là phân dã của nhà Chu, chủ miền Tam Hà; Dực-Chẩn là phân dã của nước Sở, chủ châu Kinh." chòm sao Bắc Đẩu chủ hai mươi tám chòm sao này đã có từ xưa nay đã lâu rồi. Chính nghĩa: Ý nói chòm sao Bắc Đẩu dựng nên mười hai cung sao, chủ mười hai châu, hai mươi tám chòm sao, đã dùng từ xưa, đến nay đã lâu lắm rồi. Muốn xét điềm báo của nước Tần thì xem ở sao Thái Bạch, đoán ở sao Lang, chòm sao Hồ. Chính nghĩa: Sao Thái Bạch, sao Lang, chòm sao Hồ đều là những ngôi sao ở phía tây, cho nên xem để đoán về nước Tần. Muốn xét điềm báo của các nước Ngô-Sở thì xem ở sao Huỳnh Hoặc, đoán ở chòm sao Điểu Hành. Chính nghĩa: Sao Huỳnh Hoặc, chòm sao Điểu Hành, đều là các ngôi sao ở phía nam, cho nên xét về nước Ngô-Sở. Chòm sao Điểu Hành là chòm sao Liễu. Còn chép là chòm sao Chú Trương. Xét điềm báo về nước Yên-Tề thì xem ở sao Thần, đoán ở chòm sao Hư-Nguy. Chính nghĩa: Sao Thần, chòm sao Hư-Nguy đều là các ngôi sao ở phía bắc, cho nên xem xét nước Yên-Tề. Xét điềm báo về nước Tống-Trịnh thì xem ở sao Tuế, đoán ở chòm sao Phòng-Tâm. Chính nghĩa: Sao Tuế, chòm sao Phòng-Tâm đều là các ngôi sao ở phía đông, cho nên xem xét nước Tống-Trịnh. Xét điềm báo về nước Tấn cũng xem ở sao Thần, đoán ở chòm sao Sâm, sao Phạt. Chính nghĩa: Sao Thần, chòm sao Sâm, sao Phạt đều là các ngôi sao ở phía bắc, phía tây, cho nên xem xét nước Tấn. Kịp lúc nước Tần chiếm lấy nước Tam Tấn, nước Yên, nước Đại, từ sông-núi về phía nam là đất Trung Quốc. Chính nghĩa: Sông là sông Hà. Núi là núi Hoa. Từ núi Hoa và sông Hà về phía nam là đất Trung Quốc. Trung Quốc đối với trong bốn cõi là hướng về phía đông nam, là phía dương; Chính nghĩa: Nhĩ nhã chép: "Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man là ở trong bốn cõi." Trung Quốc từ sông núi hướng về phía đông nam là phía dương. Phía dương là Mặt Trời, sao Tuế, sao Huỳnh Hoặc, sao Trấn; Chính nghĩa: Mặt Trời là dương. Sao Tuế chủ ở phía đông, sao Huỳnh Hoặc chủ ở phía nam, sao Trấn chủ ở phía giữa, đều tại phía nam và phía đông, là phía dương. đoán ở các ngôi sao phía nam chòm sao Thiên Nhai, chòm sao Tất phía ấy. Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Nhai có hai ngôi sao, chủ chòm sao Tất-Mão, chủ về ranh giới của đất nước. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là nước của người Hoa-Hạ, phía bắc chòm sao Thiên Nhai là nước của người Di-Địch, vậy là chòm sao Tất chủ phía dương. Phía tây bắc là các nước người Hồ, Mạch, Nguyệt Chi, là dân mặc áo choàng da đeo cung tên, là phía âm; Chính nghĩa: Mạch, đọc là 'mạch'. Chi, đọc là 'chi'. Từ sông-núi về phía tây bắc là các nước Tần-Tấn, là phía âm. Phía âm là Mặt Trăng, sao Thái Bạch, sao Thần; Chính nghĩa: Mặt Trăng là âm. Sao Thái Bạch chủ phía tây, sao Thần chủ phía bắc, đều tại phía bắc và phía tây, là phía âm. đoán ở các ngôi sao phía bắc chòm sao Thiên Nhai, chòm sao Mão chủ phía ấy. Chính nghĩa: Phía bắc chòm sao Thiên Nhai là nước của người Di-Địch, vậy thì chòm sao Mão làm chủ phía ấy, là phía âm. Cho nên sông núi ở Trung Quốc thường chảy về phía đông bắc, đầu nguồn của nó là ở đất Lũng-Thục, phía cuối ngọn là ở miền Bột-Kiệt. Chính nghĩa: Ý nói sông và núi ở Trung Quốc chảy về phía đông bắc, như đầu núi Nam ở núi Thông dãy núi Côn Lôn chạy theo phía đông bắc liền núi Lũng mà đến núi Nam, núi Hoa, qua sông Hà lên phía đông bắc đến tận núi Đãng Thạch. Nguồn nước sông Hà chảy từ dãy núi Côn Lôn; sông Vị, sông Mân có nguồn từ núi Lũng, đều chảy về phía đông-đông bắc vào biển Bột. Cho nên người Tần-Tấn ưa dùng binh, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Nước Tần-Tấn ở góc tây nam lên phía bắc là phía âm, vẫn giống với dân đeo cung tên là người Hồ-Mạch, cho nên ưa dùng binh. cũng xem ở sao Thái Bạch, sao Thái Bạch chủ Trung Quốc, mà người Hồ-Mạch nhiều lần xâm lấn Trung Quốc, Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Nếu sao Thái Bạch ở phía bắc, Mặt Trăng ở phía nam thì Trung Quốc thua; nếu sao Thái Bạch ở phía nam, Mặt Trăng ở phía bắc thì Trung Quốc không thua." chỉ xem sao Thần, sao Thần chuyển động ra vào nhanh chóng, cho nên sao này thường chủ người Di-Địch, đây là lẽ thường. Đây là thay làm khách và chủ. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Sao Thần không ra thì sao Thái Bạch là khách, sao Thần ra thì sao Thái Bạch là chủ. Sao Thần, sao Thái Bạch không theo nhau, dẫu là chủ việc quân nhưng không đánh. Sao Thần mọc ở phía đông, sao Thái Bạch mọc ở phía tây, nếu sao Thần mọc ở phía tây thì sao Thái Bạch mọc ở phía đông ngăn cách, trên bãi dấu có binh nhưng không đánh, vào chòm sao nào thì mới đánh. Nếu sao Thần vào giữa sao Thái Bạch năm ngày, vào rồi ra lên phía trên thì mất quân tổn tướng, khách thắng. Nếu không ra thì khách thua. Xem cờ phất về phía nào. Sao Huỳnh Hoặc đổi màu, ngoài thì trị binh, trong thì sửa lệnh, cho nên nói: "Dẫu có thiên tử sáng suốt cũng phải xem sao Huỳnh Hoặc mọc ở đâu." Sách ẩn: Đây là dựa vào Xuân thu văn diệu câu, cho nên nói là "cho nên nói". Chư hầu thay nhau mạnh lên, bấy giờ có ghi lại những việc quái lạ nhưng không chép lại được. Vào thời Thủy Hoàng nhà Tần, trong mười lăm năm có sao chổi xuất hiện bốn lần, có lần xuất hiện lâu đến tám chục ngày, dài suốt cả vòm trời. Sau đó nhà Tần bèn đem binh diệt sáu nước, chiếm cả Trung Quốc, ngoài đánh người rợ bốn phía, người chết ngổn ngang, do đó bọn vua Trương Sở [1] cùng nổi dậy, trong vòng ba chục năm, Chính nghĩa: Từ năm thứ mười sáu thời Thủy Hoàng nhà Tần dấy binh diệt nước Hàn đến năm thứ năm thời Cao Tổ nhà Hán diệt Hạng Vũ là ba mươi năm. quân lính dẫm xéo lẫn nhau không sao kể hết. Từ thời đánh Si Vưu [2] đến nay chưa từng có như vậy. Vào lúc Hạng Vũ cứu thành Cự Lộc, sao Uổng Thỉ xẹt về phía tây, chư hầu miền Sơn Đông bèn hợp tung, sang phía tây chôn quân Tần, giết sạch người thành Hàm Dương. Nhà Hán nổi lên, ngũ tinh tụ [3] ở chòm sao Đông Tỉnh. Lúc bị vây ở huyện Bình Thành, Sách ẩn: Năm thứ bảy thời Cao Tổ nhà Hán. Mặt Trăng có bảy vòng quầng sáng ở chòm sao Sâm-Tất. Xét: Thiên văn chí chép: "Đoán rằng giữa chòm sao Tất-Mão là chòm sao Thiên Nhai. Phía bắc chòm sao Thiên Nhai là chủ rợ Hồ. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là chủ Trung Quốc. Chòm sao Mão là chủ nước Hung Nô, chòm sao Sâm là chủ nước Triệu; chòm sao Tất là chủ quân ở biên giới. Năm đó Cao Tổ tự đem quân đánh nước Hung Nô, đến huyện Bình Thành, bị Mặc Đốn vây bảy ngày mới thoát." Vậy thì vòm trời có dấu hiệu báo trước. Bảy vòng quầng sáng là điềm báo bị vây bảy ngày. Vào lúc họ Lữ làm loạn, Mặt Trời bị che lấp, buổi ngày trời tối. Bảy nước Ngô-Sở phản nghịch, sao chổi xuất hiện dài mấy trượng, sao Thiên Cẩu xẹt qua phân dã của nước Lương; kịp lúc dấy binh, rút cuộc thây phơi máu chảy ở nước ấy. Các năm Nguyên Quang, Nguyên Thú, cờ Si Vưu hai lượt xuất hiện, dài đến nửa vòm trời, sau đó ở kinh sư xuất quân đi đánh bốn lần, Chính nghĩa: Năm Nguyên Quang thứ nhất, bọn Thái trung đại phu tên là Vệ Thanh đánh nước Hung Nô; năm Nguyên Thú thứ hai, bọn Quán quân Hầu tên là Khứ Bệnh đánh rợ Hồ; năm Nguyên Đỉnh thứ năm, bọn Vệ úy tên là Lộ Bác Đức phá nước Nam Việt; kịp lúc bọn Hàn Thuyết phá nước Đông Việt và phá rợ Di miền tây nam, đặt ra hơn chục quận; năm Nguyên Phong thứ nhất, Lâu thuyền tướng quân tên là Dương Bộc đánh nước Triều Tiên. hơn chục năm đánh rợ Di-Địch, mà đánh rợ Hồ lại càng gắt hơn. Điềm báo nước Việt mất là sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Nam Đẩu; Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu là phân dã của Ngô-Việt. điềm báo nước Triều Tiên bị diệt là sao chổi xẹt qua chòm sao Nam Hà; Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Giữa năm Nguyên Phong thời Vũ Đế, sao chổi xẹt vào chòm sao Hà Thú, đoán rằng: 'Chòm sao Nam Thú là cửa của người Việt, chòm sao Bắc Thú là cửa của người Hồ'. Sau đó quân Hán đánh diệt nước Triều Tiên, lập nên quận Lạc Lãng-Huyền Thố. Nước Triều Tiên ở ngoài biển là biểu tượng như nước Việt, lại ở phía bắc là ứng với đất của rợ Hồ." Chòm sao Hà Thú là chòm sao Nam Hà-Bắc Hà. đem quân đánh nước Đại Uyển, có sao chổi xẹt vào sao Chiêu Dao. Chính nghĩa: Một ngôi sao Chiêu Dao ở sao phần chuôi của chòm sao Bắc Đẩu, chủ quân rợ Hồ. Nếu tia sáng đổi mài thì có binh cách nổi lên. Đấy là những dấu hiệu lớn rõ ràng, còn như những dấu hiệu nhỏ lặt vặt khác thì không thể kể hết. Do đó thấy rằng không có dấu hiệu nào xuất hiện trước mà không ứng với các việc xảy ra theo nó. Xem đường chuyển động của Mặt Trăng-Mặt Trời Chính nghĩa: Tấn chước chép: "Sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ trọng [1] thì sao Tuế chuyển đến ba chòm sao; sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ mạnh-tứ quý [2] thì sao Tuế chuyển đến hai chòm sao. Hai chòm sao nhân tám ngày mạnh-quý là mười sáu chòm sao. Ba chòm sao nhân bốn ngày trọng là mười hai chòm sao, cả thảy sao Tuế chuyển qua hai mươi tám chòm sao, mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." để đo sao Tuế chuyển động thuận hay nghịch. Sách ẩn: Họ Diêu xét: Thiên quan chiêm chép: "Sao Tuế còn gọi là sao Ứng, sao Kinh, sao Kỉ." Vật lí luận chép: "Mỗi năm chuyển đến một chòm sao, gọi là sao Tuế, vậy mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." Chính nghĩa: Thiên quan chép: "Sao Tuế là vị thần phương đông chủ hành mộc, tượng trưng cho Thương Đế. Màu sắc của nó sáng mà bên trong có màu vàng là thiên hạ yên ổn. Sao Tuế thường sáng mà không dao động, nếu dao động thì nghề làm ruộng bị mất mùa. Sao Tuế chuyển động nhanh chậm thì không nên đánh nước tương ứng với nó, có thể đánh nước khác; chuyển động sai đường thì nhiều người dân bị bệnh; thấy sẽ có việc vui. Vị vua của nước ở tương ứng với nó có may mắn thì nó sẽ không dao động. Nếu vua nước đó hay cáu giận thì nó sẽ tỏa tia sáng, là không có lòng nhân; sao Tuế vận chuyển ngược đường thì vua nươc đó càng nhân đức. Sao Tuế chủ nghề nông, chủ về ngũ cốc." Thiên văn chí chép: "Chủ về mùa xuân, chủ những ngày giáp-ất, chủ mùa xuân trong bốn mùa. Chủ về lòng nhân trong ngũ thường, chủ về tướng mạo trong ngũ sự. Nếu nhà vua có lỗi là tướng mạo bị lầm, khiến cho pháp lệnh trái ngược, làm tổn hại hành mộc, sẽ có sao Tuế phạt tội." Chủ về hành mộc ở phương đông, chủ mùa xuân, chủ ngày giáp-ất. Nếu nhà vua làm mất lẽ phải thì sao Tuế xuất hiện phạt tội. Sao Tuế chuyển động có lúc nhanh lúc chậm, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Ngũ tinh hễ mọc sớm gọi là chuyển động nhanh, chuyển động nhanh ứng với người khách; mọc muộn gọi là chuyển động chậm, ứng với chủ nhà. Ngũ tinh chuyển động nhanh hay chậm, tất có dấu hiệu trên vòm trời hiện ra."[.color] chuyển động đến chòm sao nào thì ứng với nước đó. Chuyển đến phân dã của nước nào thì không nên đánh nước đó, chỉ nên đánh nước khác. Nó chuyển động hơi nhanh về phía trước gọi là 'nhanh', hơi chậm gọi là 'chậm'. Nếu nhanh thì nước ứng với nó có nạn binh cách không được nghỉ ngơi; nếu chậm thì nước ứng với nó sẽ có việc lo lắng, tướng chết, quân nước đó thua vỡ. Nó chuyển đến đâu, ngũ tình đều chuyển theo mà hội tụ ở cùng một chòm sao, Sách ẩn: Xét: Năm đầu thời Cao Đế nhà Hán, ngũ tinh đều tụ ở chòm sao Đông Tỉnh. Xét Thiên văn chí cũng chép là năm đó sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh, cho nên bốn ngôi sao chuyển theo mà tụ ở đấy. là điềm báo nước tương ứng dưới nó có lẽ phải mà có được thiên hạ. ... [www.sidneyluo.net] ______________________ Chú giải: [1] Tứ trọng: chỉ bốn ngày trọng xuân là giữa mùa xuân, trọng hạ là giữa mùa hạ, trọng thu là giữa mùa thu, trọng đông là giữa mùa đông. [2] Tứ mạnh-tứ quý: chỉ bốn ngày mạnh xuân là đầu mùa muân, mạnh hạ là đầu mùa hạ, mạnh thu là đầu mùa thu, mạnh đông là đầu mùa đông; bốn ngày quý xuân là cuối mùa xuân, quý hạ là cuối mùa hạ, quý thu là cuối mùa thu, quý đông là cuối mùa đông. Xem đường chuyển động của Mặt Trăng-Mặt Trời Chính nghĩa: Tấn chước chép: "Sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ trọng [1] thì sao Tuế chuyển đến ba chòm sao; sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ mạnh-tứ quý [2] thì sao Tuế chuyển đến hai chòm sao. Hai chòm sao nhân tám ngày mạnh-quý là mười sáu chòm sao. Ba chòm sao nhân bốn ngày trọng là mười hai chòm sao, cả thảy sao Tuế chuyển qua hai mươi tám chòm sao, mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." để đo sao Tuế chuyển động thuận hay nghịch. Sách ẩn: Họ Diêu xét: Thiên quan chiêm chép: "Sao Tuế còn gọi là sao Ứng, sao Kinh, sao Kỉ." Vật lí luận chép: "Mỗi năm chuyển đến một chòm sao, gọi là sao Tuế, vậy mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." Chính nghĩa: Thiên quan chép: "Sao Tuế là vị thần phương đông chủ hành mộc, tượng trưng cho Thương Đế. Màu sắc của nó sáng mà bên trong có màu vàng là thiên hạ yên ổn. Sao Tuế thường sáng mà không dao động, nếu dao động thì nghề làm ruộng bị mất mùa. Sao Tuế chuyển động nhanh chậm thì không nên đánh nước tương ứng với nó, có thể đánh nước khác; chuyển động sai đường thì nhiều người dân bị bệnh; thấy sẽ có việc vui. Vị vua của nước ở tương ứng với nó có may mắn thì nó sẽ không dao động. Nếu vua nước đó hay cáu giận thì nó sẽ tỏa tia sáng, là không có lòng nhân; sao Tuế vận chuyển ngược đường thì vua nươc đó càng nhân đức. Sao Tuế chủ nghề nông, chủ về ngũ cốc." Thiên văn chí chép: "Chủ về mùa xuân, chủ những ngày giáp-ất, chủ mùa xuân trong bốn mùa. Chủ về lòng nhân trong ngũ thường, chủ về tướng mạo trong ngũ sự. Nếu nhà vua có lỗi là tướng mạo bị lầm, khiến cho pháp lệnh trái ngược, làm tổn hại hành mộc, sẽ có sao Tuế phạt tội." Chủ về hành mộc ở phương đông, chủ mùa xuân, chủ ngày giáp-ất. Nếu nhà vua làm mất lẽ phải thì sao Tuế xuất hiện phạt tội. Sao Tuế chuyển động có lúc nhanh lúc chậm, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Ngũ tinh hễ mọc sớm gọi là chuyển động nhanh, chuyển động nhanh ứng với người khách; mọc muộn gọi là chuyển động chậm, ứng với chủ nhà. Ngũ tinh chuyển động nhanh hay chậm, tất có dấu hiệu trên vòm trời hiện ra." chuyển động đến chòm sao nào thì ứng với nước đó. Chuyển đến phân dã của nước nào thì không nên đánh nước đó, chỉ nên đánh nước khác. Nó chuyển động hơi nhanh về phía trước gọi là 'nhanh', hơi chậm gọi là 'chậm'. Nếu nhanh thì nước ứng với nó có nạn binh cách không được nghỉ ngơi; nếu chậm thì nước ứng với nó sẽ có việc lo lắng, tướng chết, quân nước đó thua vỡ. Nó chuyển đến đâu, ngũ tình đều chuyển theo mà hội tụ ở cùng một chòm sao, Sách ẩn: Xét: Năm đầu thời Cao Đế nhà Hán, ngũ tinh đều tụ ở chòm sao Đông Tỉnh. Xét Thiên văn chí cũng chép là năm đó sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh, cho nên bốn ngôi sao chuyển theo mà tụ ở đấy. là điềm báo nước tương ứng dưới nó có lẽ phải mà có được thiên hạ. 1. Vào năm Nhiếp Đề Cách: Sách ẩn: Sao Thái Tuế [1] ở cung dần, vào buổi sáng tháng giêng, sao Tuế mọc ở phía đông. Xét: Nhĩ nhã chép: "Sao Tuế ở cung dần gọi là Nhiếp Đề Cách." Lí Tuần nói: "Ý nói là muôn vật nhận khí dương mà mọc lên, cho nên gọi là Nhiếp Đề Cách. Cách là mọc lên." Sao Tuế Âm chuyển từ bên trái sang ở cung dần. Sao Tuế chuyển từ bên phải sang ở cung sửu. Tháng giêng sao Tuế mọc ở chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu ở phía đông, gọi là sao Giám Đức. Sách ẩn: Là tên gọi của sao Tuế mọc ở phía đông vào buổi sáng tháng giêng. Từ đoạn chép dưới là xuất từ lời văn Tinh kinh của họ Thạch. Lại chép: "Sao Tuế ở chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu, nếu chuyển sai đường thì mọc ở phần chuôi của chòm sao Bắc Đẩu." Hán thư thiên văn chí chép lời của họ Thạch và lịch Thái Sơ có chỗ không giống. Màu sắc xanh sẫm có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì mọc ở chòm sao Liễu. Nếu mọc sớm thì năm đó có nước lụt, mọc muộn thì có khô hạn. Sao Tuế mọc, chuyển về phía đông mười hai độ, được trăm ngày mới thôi, lại chuyển ngược; chuyển ngược tám độ, được trăm ngày lại chuyển về phía đông. Một năm chuyển được ba mươi độ bảy phần mười sáu phân, mỗi ngày chuyển được một phần mười hai phân, mười hai năm thì chuyển tròn một vòng vòm trời. Thường mọc vào buổi sáng ở phía đông, lặn vào lúc chập tối ở phía tây. 2. Vào năm Thiền Át: Sách ẩn: Tại cung mão. Vào buổi sáng tháng hai, sao Tuế mọc ở phía đông. Nhĩ nhã chép: "Tại cung mão gọi là năm Thiền Át." Lí Tuần nói: "Khí dương đẩy muôn vậy mà mọc lên, cho nên gọi là Thiền Át. Thiền là hết. Át là dừng." Sao Tuế Âm tại cung mão, sao Tuế ở cung tí. Vào buổi sáng tháng hai thì mọc ở chòm sao Vụ Nữ-Hư-Nguy, gọi là sao Giáng Nhập. Sao lớn có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Trương, năm đó sẽ có nước lụt to. 3. Vào năm Chấp Từ: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung thìn là năm Chấp Từ." Lí Tuần nói: "Những loài ẩn nấp đều thong thả mà mọc lên, cho nên gọi là Chấp Từ. Chấp là ẩn náu. Từ là thong thả." Sao Tuế Âm ở cung thìn, sao Tuế ở cung hợi. Vào buổi sáng tháng ba mọc ở chòm sao Doanh Thất-Đông Bích, gọi là sao Thanh Chương. Sao Thanh Chương rất sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Chẩn. Nếu mọc sớm thì năm đó trời khô hạn, mọc muộn thì có nước lụt. 4. Vào năm Đại Hoang Lạc: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung tị là năm Đại Hoang Lạc." Họ Diêu nói: "Muôn vật đều phơi phới mà mọc lên, rồi chợt rời rạc, cho nên gọi là Hoang Lạc." Sao Tuế Âm ở cung tị, sao Tuế ở cung tuất. Vào buổi sáng tháng tư, sao Tuế mọc ở chòm sao Khuê-Lâu-Vị-Mão, gọi là sao Biền Chủng. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Lộ Chương." Sách ẩn: Thiên văn chép chép là Lộ Chủng. Chính nghĩa: Biền, đọc là 'bạch biên phiên'. Chủng, đọc là 'chi dũng phiên'. Sáng rừng rực màu đỏ, có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Cang. 5. Vào năm Đôn Tang: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung ngọ là năm Đôn Tang." Tôn Viêm nói: "Đôn là đầy. Tang là là khỏe. Ý nói muôn vật tươi tốt." Vi Chiêu nói: "Đôn, đọc là 'đốn'."Sao Tuế Âm ở cung ngọ, sao Tuế ở cung dậu. Vào buổi sáng tháng năm mọc ở chòm sao Vị-Mão-Tất, gọi là sao Khai Minh. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Thiên Tân." Sách ẩn: Thiên văn chí chép là sao Khải Minh. Màu sáng sực rỡ là năm đó ngưng việc quân, chỉ có lợi cho vương hầu, không có lợi cho việc quân. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Phòng. Nếu mọc sớm thì năm đó có khô hạn, mọc muộn là có nước lụt. 6. Vào năm Diệp Hiệp: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung mùi là năm Diệp Hiệp." Lí Tuần nói: "Khí dương nuôi nấng muôn vật, cho nên gọi là Hiệp Hiệp. Hiệp là hòa. Hiệp là hợp." Sao Tuế Âm ở cung mùi, sao Tuế ở cung Thân. Vào buổi sáng tháng sáu thì sao Tuế mọc ở chòm sao Tuỷ Huề-Sâm, gọi là sao Trường Liệt. Màu sáng rõ ràng là năm đó dùng binh có lợi. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Cơ. ... [www.sidneyluo.net] _________________ Chú giải: [1] Thái Tuế: còn gọi là sao Tuế Âm-Thái Âm, là một ngôi sao giả được đặt ra xem như chuyển động ngược với sao Tuế. Sao Tuế chuyển động ngược với Mặt Trời, cho nên đặt ra sao Thái Tuế chuyển động cùng chiều với Mặt Trời. 7. Vào năm Thôn Than: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung thân là năm Thôn Than." Lí Tuần nói: "Thôn Than là nói về dáng vẻ muôn vật trổ lên rồi rạp xuống." Thôn, đọc là 'tha côn phiên'. Than, đọc là 'tha đan phiên'. Sao Tuế Âm ở cung thân, sao Tuế ở cung mùi. Vào buổi sáng tháng bảy, sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh-Dư Quỷ, gọi là năm Đại Âm. Màu sắc sáng trắng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Khiên Ngưu. 8. Vào năm Tác Ngạc: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung dậu là năm Tác Ngạc." Lí Tuần nói: "Tác Ngạc là nói về dáng vẻ muôn vật đâm lên mà mọc." Ngạc, đọc là 'ngạc'. Thiên văn chí chép là Tác Ngạch, đọc là 'ngũ ngạch phiên'. So với Sử kí-Nhĩ nhã đều khác. Sao Tuế Âm ở cung dậu, sao Tuế ở cung ngọ. Vào buổi sáng tháng tám, sao Tuế mọc ở chòm sao Liễu-Thất Tinh-Trương, gọi là sao Trường Vương. Sáng rõ có tia thì nước ứng với nó việc lành, lúa chín. Nếu chuyển sai đường thì có thấy mọc ở chòm sao Nguy. Năm đó có khô hạn nhưng việc lành, có tang về đàn bà, người sân bị bệnh. 9. Vào năm Yêm Mậu: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung tuất gọi là năm Yêm Mậu." Tôn Viêm nói: "Mọi vật đều bị che lấp, cho neê gọilà Yêm Mậu. Yêm là che. Mậu là lấp." Thiên văn chí chép là Yểm Mậu. Sao Tuế Âm ở cung mậu, sao Tuế ở cung tị. Vào buổi sáng tháng chín, sao Tuế mọc ở chòm sao Dực-Chẩn, gọi là sao Thiên Huy. Sách ẩn: Họ Lưu đọc là 'huy duy phiên'. Sáng rõ màu trắng. Nếu chuyển sai đường thì có thấy ở chom sao Đông Bích. Năm đó có nước lụt, có tang về đàn bà. 10. Vào năm Đại Uyên Hiến: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung hợi là năm Đại Uyên Hiến." Tôn Viêm nói: "Uyên là sâu. Đẩy vạn vật vào chỗ sâu, nói là che lấp ở ngoài." Sao Tuế Âm ở cung hợi, sao Tuế ở cung thìn. Vào buổi sáng tháng mười, sao Tuế mọc ở chòm sao ở chòm sao Giác-Cang, gọi là sao Đại Chương. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Thiên Hoàng." Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí cũng chép là Thiên Hoàng. Màu xanh sẫm, buổi sáng sao Tuế như nhảy nhót hoặc ẩn dấu thì gọi là sao Chính Bình. Năm đó nên dấy binh được, tướng soái tất có công; nếu vua nước ứng với nó có đức thì sẽ thu lấy bốn cõi. Nếu chuyển sai đường thì sẽ thấy mọc ở chòm sao Lâu. 11. Vào năm Khốn Đôn: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Ở cung tí là năm Khốn Đôn." Tôn Viêm nói: "Khốn Đôn là lẫn lộn. Ý nói muôn vật mới mọc, lẫn lộn ở dưới suối vàng." Sao Tuế Âm ở cung Tí, sao Tuế ở cung mão. Vào buổi sáng tháng mười một, sao Tuế mọc ở chòm sao Đê-Phòng-Tâm, gọi là sao Thiên Tuyền. Rất sáng có màu vàng là có việc lành ở sông hồ, không lợi cho việc dấy binh. Nếu chuyển sai đường thì có thấy ở chòm sao Mão. 12. Vào năm Xích Phấn Nhược: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: " Tại cung sửu là năm Xích Phấn Nhược." Lí Tuần nói: "Ý nói khí dương bốc lên. Nhược là thuận." Sao Tuế Âm ở cung sửu, sao Tuế ở cung dần. Vào buổi sáng tháng mười hai, sao Tuế mọc ở chòm sao Vĩ-Cơ, gọi là sao Thiên Hạo. Sách ẩn: Hạo, đọc là 'hạo'. Đen bóng, màu đen rất sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở choò sao Sâm. Sao Tuế phải mọc đúng chỗ của nó mà lại không đúng chỗ, mọc đúng chỗ nhưng lại dao động sang bên phải hoặc sang bên trái, không nên chuyển đi lại chuyển đi, hoặc hội với sao khác thì nước ứng với nó sẽ gặp việc xấu. Nếu mọc lâu ở nước nào là điềm báo vua nước đó có đức dày. Nếu tỏa tia sáng hoặc dao động lúc to lúc nhỏ, nhiều lần đổi màu thì vua nước ứng với nó sẽ có việc buồn. Nếu sao Tuế chuyển động sai chỗ như sau: Chuyển về phía đông bắc được ba tháng thì xuất hiện chòm sao Thiên Bảng, Chính nghĩa: Bảng, đọc là 'bồ giảng phiên'. Phần cốt của sao Tuế sẽ tan ra thành chòm sao Thiên Thương-Thiên Bồi-Thiên Xung-Thiên Hoạt-Quốc Tinh-Thiên Sàm và chòm sao Đăng Thiên-Kinh Chân và chòm sao Thiên Viên, Thiên Viên, Thương Tổi, đều là điềm báo tai họa. Chòm sao Thiên Bảng còn gọi là chòm sao Giác Tinh, phần đầu giống ngôi sao mà phần đuôi lại nhọn, dài bốn trượng, mọc ở phía đông bắc, phía tây. Nếu nó mọc thì thiên hạ có nạn binh cách. dài bốn trượng, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép lời văn trên đều xuất từ Tinh kinh của họ Cam, mà Thiên văn chí cũng chép cả lời của họ Thạch, nhưng đây không chép. Họ Thạch tên là Thân, họ Cam tên là Đức. đuôi nhọn, tiến về phía đông nam, được ba tháng thì sinh ra sao chổi, Chính nghĩa: sao chổi trên bầu trời còn có tên là sao quét, phần đầu giống ngôi sao, phần đuôi giống cái chổi, nhỏ thì dài mấy thước, lớn thì suốt cả bầu trời, nhưng nó vốn không tỏa sáng, phải mượn ánh sáng của Mặt Trời mà tỏa sáng, cho nên xuất hiện vào buổi đêm thì chuyển về phía đông, xuất hiện vào buổi sáng thì chuyển về phía tây, như phía nam hoặc phía bắc của Mặt Trời đều hướng theo ánh sáng của Mặt Trời. Tỏa ra tia sáng về phía nào thì gây tai họa ở phía đó, nếu xuất hiện sẽ có dấy binh, thay cũ đổi mới, nước mà sao chổi hướng về sẽ suy yếu. dài hai trượng giống sao chổi. Nếu lùi về phía tây bắc thì ba tháng sau sinh ra chòm sao Thiên Sàm, Chính nghĩa: Sàm, đọc là 'sở hàm phiên'. Chòm sao Thiên Sàm mọc ở phía tây nam, dài bốn trượng, đuôi nhọn. Kinh Phòng nói: "Chòm sao Thiên Sàm là biểu tượng của binh cách, máu đỏ chảy trên mặt đất trải ngàn dặm, xương khô phơi la liệt." Thiên văn chí chép: "Chòm sao Thiên Thương chủ về binh loạn." dài bốn trượng, đuôi nhọn. Lùi về phía tây nam được ba tháng thì mọc ra chòm sao Thiên Thương, Chính nghĩa: Thương, đọc là 'sở hàng phiên'. Chòm sao Thiên Thương dài mấy trượng, hai đầu nhọn, mọc ở phía tây nam. Nếu nó xuất hiện thì không quá ba tháng sẽ có nạn nước loạn mất, vua nằm chết. Thiên văn chí chép: "Vào thời Hiếu Văn, vào buổi đêm có chòm sao Thiên Thương mọc ở phía tây nam, đoán rằng là điềm báo có binh loạn. Tháng mười một năm thứ sáu, người Hung Nô vào quận Thượng-Vân Trung, nhà Hán phát binh để giữ kinh sư." dài mấy trượng, hai đầu nhọn. Xem kĩ nó xuất hiện ứng với nước nào thì nước đó không nên làm việc dùng binh. Nó xuất hiện nổi rồi lại chìm thì nước ứng với nó sẽ có việc đắp đất; nếu xuất hiện chìm rồi lại nổi thì nước ứng nó sẽ mất. Nếu màu đỏ mà có tia thì nước ứng với nó sẽ có việc lành, chống giữ mà đánh nước khác sẽ không thắng được. Nếu màu đỏ vàng mà đậm thì nước ứng với nó sẽ được mùa to. Nếu màu xanh trắng hoặc đỏ thẫm thì nước ứng với nó sẽ có việc buồn. Nếu sao Tuế chuyển vào Mặt Trăng thì nước ứng với nó sẽ cách chức quan Tể tướng; nếu phạm với sao Thái Bạch thì nước ứng với nó sẽ vỡ quân. Sao Tuế còn gọi là sao Nhiếp Đề, sao Trung Hoa, sao Ứng, sao Kỉ. Chòm sao Doanh Thất là thanh miếu, sao Tuế là miếu. Sao Quốc Hoàng, Chính nghĩa: Sao Quốc Hoàng lớn mà màu đỏ như sao Nam Cực Lão Nhân, cách mặt đất ba trượng, hình như bó đuốc lửa. Nếu xuất hiện thì trong ngoài sẽ có nạn binh cách. lớn mà màu đỏ, hình như sao Nam Cực. Tập giải: Từ Quảng nói: "Là sao Lão Nhân." Xuất hiện ở đâu là ở đó có dấy binh, binh mạnh, nếu đánh chỗ ấy sẽ không có lợi. Sao Chiêu Minh, Sách ẩn: Xét: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Là thần của Xích Đế, hình như sao Thái Bạch, có bảy tia sáng." Thích danh chép là sao Bút, có một dải khí, đuôi nhọn như cái bút, cũng gọi là sao Bút. lớn mà màu trắng, không có tia sáng lúc lên lúc xuống. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như cái khung cửi va chân, trên khung có chín cái chổi hướng lên, là cốt của sao Huỳnh Hoặc. Xuất hiện ở nước nào thì nước đó có binh cách, nhiều việc. Sao Ngũ Tàn, Sách ẩn: Mạnh Khang nói: "Ngoài sao có khí màu xanh như quầng sáng, có tua, là cốt của sao Trấn." Chính nghĩa: Sao Ngũ Tàn còn gọi là sao Ngũ Phong xuất hiện ở phân dã phía chính đông miền đông. Hình như sao Thần, cách mặt đất khoảng sáu-bảy trượng. Nếu xuất hiện là điềm báo ngũ phân hủy hoại, đại thần bị bắt giết. Xuất hiện ở phân dã phía chính đông miền đông. Hình sao này giống sao Thần, cách mặt đất khoảng sáu trượng. Sao Đại Tặc, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như cái chổi, dài chín thước, là cốt của sao Thái Bạch." Chính nghĩa: Sao Đại Tặc còn gọi là sao Lục Tặc, mọc ở phía chính nam, phân dã ở phương nam. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động có tia sáng, nếu xuất hiện thì tai họa khắp thiên hạ. Xuất hiện ở phân dã phía chính nam phương nam. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động, có tia. Sao Tư Nguy, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Sao này lớn mà có đuôi, hai sừng, là cốt của sao Huỳnh Hoặc." Chính nghĩa: Sao Tư Nguy mọc ở phân dã phía chính tây phương tây. Lớn như sao Thái Bạch, cách mặt đất khoảng sáu trượng. Xuất hiện là điềm báo thiên tử làm việc bất nghĩa mất nước mà hào kiệt nổi lên. Mọc ở phân dã phía chính tây miền tây. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu trắng, giống sao Thái Bạch. Sao Ngục Hán, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Giữa màu xanh ngoài màu đỏ, dưới có hai cái chổi dọc ngang, là cốt của sao Trấn." Hán thư thiên văn chí chép sao Ngục Hán còn gọi là sao Hàm Hán. mọc ở phân dã phía chính bắc phương bắc. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động, xem kĩ phía trong có màu xanh. Trên là sao xuất hiện ở bốn phân dã, không chỉ xuất hiện ở một phương, ứng với dưới nó sẽ có binh cách, đánh không được lợi. Mạch đất có ánh sáng, xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất khoảng ba trượng, ánh sáng như Mặt Trăng mới mọc. Nếu xuất hiện ở đâu thì ở đấy có loạn; nếu loạn tất diệt, nếu có đức thì mới yên. Sao Chúc, hình như sao Thái Bạch, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Trên sao này có ba cái chổi hướng lên trên, là cốt của sao Trấn." Đã xuất hiện rồi không chuyển động. Xuất hiện rồi sẽ tự mất, ứng với thành ấp nào thì nơi đó có loạn. Giống sao mà không phải sao, như mây mà chẳng phải mây gọi là dải Quy Tà. Tập giải: Lí Kì nói: "Tà, đọc là 'xà'." Mạnh Khang nói: "Sao này có hai đầu chổi màu đỏ hướng lên trên, trên có nắp như dải khí, dưới có các sao liền kề nhau." Nếu dải Quy Tà xuất hiện thì có kẻ theo hàng. Sao là khí tan của kim, gốc của nó là lửa. Nếu sao nhiều thì tốt, sao ít thì xấu. Dòng Ngân Hán cũng là khí tan của kim, Sách ẩn: Xét: Nước sinh từ kim, khí tan là khí hơi. Hà đồ quát địa tượng chép: "Dòng Hà Tinh là dòng Thiên Hán." gốc của nó là nước. Nếu dòng Ngân Hán có nhiều sao thì có nhiều nước ngập, ít sao thì khô hạn, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Dòng Thiên Hán là dòng Hà Hán. Nước sinh từ kim. Nhiều hay ít là nói sao trong dòng Thiên Hán nhiều hay ít." đấy là lẽ thường. Tiếng Thiên Cổ là tiếng như sấm mà không phải sấm, tiếng phát ra từ đất mà không phải từ đất. Tiếng nó phát ở đâu là có binh cách ở đó Sao Thiên Cẩu, hình như dải sao băng lớn, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Sao này có đuôi, bên cạnh có cái chổi ngắn, dưới có hình như con chó, là cốt của sao Thái Bạch." có tiếng, khi xẹt xuống mặt đất thì có hình như con chó. Xẹt xuống có lửa sáng, nhìn từ xa như có lửa cháy rừng rực suốt đến bầu trời. Phần dưới nó tròn như mấy khoảnh ruộng, trên nhọn thì có màu vàng, là điềm trong ngàn dặm việc quá quân giết tướng. Sao Cách Trạch, Sách ẩn: Còn đọc là Hạc Đạc, lại đọc là Cách Trạch. Cách, đọc là 'hồ khách phiên'. như hình lửa cháy. Màu vàng trắng, mọc từ đất lên. Dưới lớn, trên nhọn. Nếu xuất hiện là điềm không cần trồng mà gặt được, không có việc đắp đất thì có cái hại lớn. Cờ Si Vưu, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Là cốt của sao Huỳnh Hoặc." Tấn chước chép: "Lữ thị xuân thu chép nó có màu vàng ở trên, màu trắng ở dưới." hình giống cái chổi nhưng đuôi cong, giống cái cờ. Xuất hiện thì bậc đế vương sẽ đánh dẹp bốn phương. Sao Tuần Thủy mọc ở cạnh chòm sao Bắc Đẩu, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là tượng trưng cho Si Vưu." Tiần, còn chép là 'Doanh'. hình như con gà trống. Lúc lớn là màu xanh đen, hình như con miết nằm. Sao Uổng Thỉ, hình như dải sao băng lớn, hình rắn lượn mà màu xanh đen, nhìn từ xa như có lông tua. Sao Trường Canh, hình như một bó vải treo trên bầu trời. Sao này xuất hiện thì có dấy binh. Sao rơi xuống đất là đá. Chính nghĩa: Xuân thu chép: "Sao rơi như mưa." Ở phía tây quận Ngô ngày nay còn có sao đá rơi xuống, loại đá này có nhiều ở trong thiên hạ. Giữa vùng sông Hà-Tế thường có sao rơi. Vào lúc trời tạnh thường có sao Cảnh. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Có đám khí vuông màu đủ và đám khí vuông màu xanh liền nhau, trong đám khí vuông màu đỏ có hai ngôi sao màu vàng, trong đám khí vuông màu xanh có một ngôi sao màu vàng, ba ngôi sao này hợp lại thành sao Cảnh." Chính nghĩa: Sao Cảnh hình như Mặt Trăng nửa, xuất hiện vào lúc đầu-cuối tháng, giúp Mặt Trăng thêm sáng. Nếu xuất hiện là điềm báo nhà vua có đức, phẩm cách sáng suốt. Sao Cảnh là sao Đức. Hình của nó không có sẵn, xuất hiện ở nước có đạo đức. Xem khí dương Tập giải: Từ Quảng nói: "Dương, còn chép là phạt." Sách ẩn: Xét: Họ Diêu dẫn Nhĩ nhã chép: "Sao Huỳnh Hoặc chủ việc coi giữ hình pháp." Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc chủ về người đứng đầu một vùng, coi xét kẻ yêu nghiệt." Vậy thì lời văn phải là: "Xét khí phạt." để xét sao Huỳnh Hoặc. Sách ẩn: Xuân thu vĩ văn diệu câu chép: "Là thần lửa cháy của Xích Đế, có vẻ chập chờn, ở tại phương nam, nếu thất lễ thì xuất hiện." Tấn chước chép: "Thường vào tháng mười thì mọc vào cung Thái Vi, vâng mệnh từ Thiên Đế mà chuyển động qua các chòm sao, coi xét kẻ vô đạo, ra vào khác thường." Thuộc hành hỏa phương nam, chủ mùa hạ, chủ ngày bính-đinh. Nếu người thất lễ thì trời phạt sẽ có sao Huỳnh Hoặc xuất hiện, sao Huỳnh Hoặc chuyển sai chỗ vậy. Nếu xuất hiện là có binh cách, ẩn nấp là thôi binh cách. Xuất hiện ở phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có họa. Sao Huỳnh Hoặc chủ về gây loạn, giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chính nghĩa: Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc là sao chỉ việc hình pháp, chuyển động khác thường, nếu chuyển đến chỗ ứng với phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chuyển động hình móc câu, có tia sáng, lung lay, lúc tiền lúc lùi, là điềm báo tai họa rất nặng. Sao Huỳnh Hoặc chủ về chết chóc, là tượng trưng cho quan Đại hồng lư; chủ về giáp binh, tượng trưng cho quan Đại tư mã; coi xét kẻ kiêu căng loạn nghịch, chủ về quan coi giữ hình pháp. Cốt của nó là thần gió, có trẻ coi hát vè đùa vui." Chuyển ngược qua hai chỗ trở lên, rồi dừng lại trong ba tháng, sẽ có tai họa, trong năm tháng thì có binh cách, trong bảy tháng thì nước ứng với nó sẽ mất nửa đất, trong chín tháng thì mất hơn nửa đất, nhân đó cùng mọc lặn thì nước đó diệt mất. Xuất hiện, họa đến nhanh thì dẫu lớn nhưng nhỏ, họa đến chậm thì dẫu nhỏ nhưng lớn. Sách ẩn: Xét: Chậm là thong thả, như vậy họa nhỏ thành lớn, ý nói như thuốc độc thấm lâu ngày. Mọc ở phía nam thì đàn ông bị họa, phía bắc là đàn bà gặp tang. Sách ẩn: Xét: Tống Quân nói: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào phía nam chòm sao Dư Quỷ thì đàn ông bị họa; phía bắc thì đàn bà gặp việc xấu." Nếu có tia dao động vòng quanh nó, hoặc có lúc tiền hoặc lùi, sang bên trái, qua bên phải thì họa càng lớn. Nếu phạm với sao khác, Chính nghĩa: "Hễ ngũ tinh phạm vào nhaui thì đều là điềm báo đánh trận, nếu không có dấy binh ở ngoài thì cũng có gây loạn ở trong. Phạm vào là nói tia sáng chiếu vào nhau. tia sáng chiếu nhau là có hại; không chiếu vào nhau là không có hại. Ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, Chính nghĩa: Nếu ba sao hội nhau là điềm đứng động đi xa, trong ngoài nước ứng với nó sẽ có binh cách và chết chóc, người dân đói thiếu, thay lập vương hầu. Bốn sao cùng tụ là loạn lớn, nước ứng với nó sẽ có nhiều binh cách chết chóc, nhà vua lo buồn, người dân vất vơ. Năm sao tụ hội là đổi ngôi vua, kẻ có đức thì nhận điềm lành, có được bốn cõi, kẻ không có đức thì chịu họa dẫn đến thua mất. nước ứng với nó có thể dùng lễ mà có thiên hạ. Sao Huỳnh Hoặc thường chuyển về phía đông qua mười sáu chòm sao rồi dừng; chuyển ngược qua hai chòm sao được sáu tuần lại chuyển về phía đông, tự chuyển qua hơn mấy chục chòm sao được mười tháng thì lặn ở phương tây; đi náu năm tháng, Tập giải: Tấn chước chép: "Náu không mọc." lại mọc ở phương đông. Nó mọc ở phương tây gọi là sao Phản Minh, người làm vua ghét sao này. Nó chuyển về phía đông nhanh, mỗi ngày chuyển được một độ rưỡi. Nó chuyển về phía đông, tây, nam, bắc đều có hại, đều có binh cách ở nước ứng với nó; nếu đánh trận thì thuận nó sẽ thắng, ngược nó sẽ thua. Nếu sao Huỳnh Hoặc mọc theo sao Thái Bạch thì việc quân có lo lắng; rời xa sao Thái Bạch thì rút quân; chuyển ở phía bắc sao Thái Bạch thì chia quân; chuyển phía nam sao Thái Bạch thì có tướng đi riêng ra đánh. Nếu lúc nó chuyển động mà có sao Thái Bạch chuyển theo sau là điềm phá quân giết tướng. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Sao Thái Bạch chủ về quân đến đánh chống." Nếu nó phạm bào cung Thái Vi, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Phạm vào trong bảy tấc thì có tia sáng chiếu vào nhau." cung Hiên Viên, chòm sao Doanh Thất là điều người làm vua ghét. Chòm sao Tâm là minh đường, là triều miếu của sao Huỳnh Hoặc. Nên xem kĩ nó. Xem khí dương Tập giải: Từ Quảng nói: "Dương, còn chép là phạt." Sách ẩn: Xét: Họ Diêu dẫn Nhĩ nhã chép: "Sao Huỳnh Hoặc chủ việc coi giữ hình pháp." Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc chủ về người đứng đầu một vùng, coi xét kẻ yêu nghiệt." Vậy thì lời văn phải là: "Xét khí phạt." để xét sao Huỳnh Hoặc. Sách ẩn: Xuân thu vĩ văn diệu câu chép: "Là thần lửa cháy của Xích Đế, có vẻ chập chờn, ở tại phương nam, nếu thất lễ thì xuất hiện." Tấn chước chép: "Thường vào tháng mười thì mọc vào cung Thái Vi, vâng mệnh từ Thiên Đế mà chuyển động qua các chòm sao, coi xét kẻ vô đạo, ra vào khác thường." Thuộc hành hỏa phương nam, chủ mùa hạ, chủ ngày bính-đinh. Nếu người thất lễ thì trời phạt sẽ có sao Huỳnh Hoặc xuất hiện, sao Huỳnh Hoặc chuyển sai chỗ vậy. Nếu xuất hiện là có binh cách, ẩn nấp là ngừng binh cách. Xuất hiện ở phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có họa. Sao Huỳnh Hoặc chủ về gây loạn, giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chính nghĩa: Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc là sao chỉ việc hình pháp, chuyển động khác thường, nếu chuyển đến chỗ ứng với phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chuyển động hình móc câu, có tia sáng, lung lay, lúc tiền lúc lùi, là điềm báo tai họa rất nặng. Sao Huỳnh Hoặc chủ về chết chóc, là tượng trưng cho quan Đại hồng lư; chủ về giáp binh, tượng trưng cho quan Đại tư mã; coi xét kẻ kiêu căng loạn nghịch, chủ về quan coi giữ hình pháp. Cốt của nó là thần gió, có trẻ coi hát vè đùa vui." Chuyển ngược qua hai chỗ trở lên, rồi dừng lại trong ba tháng, sẽ có tai họa, trong năm tháng thì có binh cách, trong bảy tháng thì nước ứng với nó sẽ mất nửa đất, trong chín tháng thì mất hơn nửa đất, nhân đó cùng mọc lặn thì nước đó diệt mất. Xuất hiện, họa đến nhanh thì dẫu lớn nhưng nhỏ, họa đến chậm thì dẫu nhỏ nhưng lớn. Sách ẩn: Xét: Chậm là thong thả, như vậy họa nhỏ thành lớn, ý nói như thuốc độc thấm lâu ngày. Mọc ở phía nam thì đàn ông bị họa, phía bắc là đàn bà gặp tang. Sách ẩn: Xét: Tống Quân nói: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào phía nam chòm sao Dư Quỷ thì đàn ông bị họa; phía bắc thì đàn bà gặp việc xấu." Nếu có tia dao động vòng quanh nó, hoặc có lúc tiền hoặc lùi, sang bên trái, qua bên phải thì họa càng lớn. Nếu phạm với sao khác, Chính nghĩa: "Hễ ngũ tinh phạm vào nhau thì đều là điềm báo đánh trận, nếu không có dấy binh ở ngoài thì cũng có gây loạn ở trong. Phạm vào là nói tia sáng chiếu vào nhau. tia sáng chiếu nhau là có hại; không chiếu vào nhau là không có hại. Ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, Chính nghĩa: Nếu ba sao hội nhau là điềm đứng động đi xa, trong ngoài nước ứng với nó sẽ có binh cách và chết chóc, người dân đói thiếu, thay lập vương hầu. Bốn sao cùng tụ là loạn lớn, nước ứng với nó sẽ có nhiều binh cách chết chóc, nhà vua lo buồn, người dân vất vơ. Năm sao tụ hội là đổi ngôi vua, kẻ có đức thì nhận điềm lành, có được bốn cõi, kẻ không có đức thì chịu họa dẫn đến thua mất. nước ứng với nó có thể dùng lễ mà có thiên hạ. Sao Huỳnh Hoặc thường chuyển về phía đông qua mười sáu chòm sao rồi dừng; chuyển ngược qua hai chòm sao được sáu tuần lại chuyển về phía đông, tự chuyển qua hơn mấy chục chòm sao được mười tháng thì lặn ở phương tây; đi náu năm tháng, Tập giải: Tấn chước chép: "Náu không mọc." lại mọc ở phương đông. Nó mọc ở phương tây gọi là sao Phản Minh, người làm vua ghét sao này. Nó chuyển về phía đông nhanh, mỗi ngày chuyển được một độ rưỡi. Nó chuyển về phía đông, tây, nam, bắc đều có hại, đều có binh cách ở nước ứng với nó; nếu đánh trận thì thuận nó sẽ thắng, ngược nó sẽ thua. Nếu sao Huỳnh Hoặc mọc theo sao Thái Bạch thì việc quân có lo lắng; rời xa sao Thái Bạch thì rút quân; chuyển ở phía bắc sao Thái Bạch thì chia quân; chuyển phía nam sao Thái Bạch thì có tướng đi riêng ra đánh. Nếu lúc nó chuyển động mà có sao Thái Bạch chuyển theo sau là điềm phá quân giết tướng. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Sao Thái Bạch chủ về quân đến đánh chống." Nếu nó phạm bào cung Thái Vi, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Phạm vào trong bảy tấc thì có tia sáng chiếu vào nhau." cung Hiên Viên, chòm sao Doanh Thất là điều người làm vua ghét. Chòm sao Tâm là minh đường, là triều miếu của sao Huỳnh Hoặc. Nên xem kĩ nó. Xem chỗ hội của chòm sao Nam Đẩu để xét vị trí của sao Trấn. Sách ẩn: Tấn chước chép: "Thường vào ngày đầu năm giáp thân thì mọc ở chòm sao Đẩu. Mỗi năm sao Trấn chuyển đến ở một chòm sao, hai mươi tám năm thì tròn một vòng vòm trời." Quảng nhã chép: "Sao Trấn còn gọi là sao Địa Hầu." Văn diệu câu chép: "Sao Trấn là thần Hàm Xu Nữu của Hoàng Đế, thân là sao Tuyền-Cơ, ở chòm sao giữa." Là hành thổ ở chính giữa, chủ cuối mùa hạ, chủ ngày mậu-kỉ, chủ Hoàng Đế, chủ đức, người chủ đàn bà. Mỗi năm sao Trấn chuyển đến một chòm sao, đến chỗ ứng với nước nào thì nước ấy có việc tốt. Không đáng dừng mà dừng, như đã chuyển đi mà lại chuyển về, chuyển về rồi dừng thì nước ứng với nó sẽ có đất, nếu không thì có con gái. Nếu đáng dừng mà lại không dừng, sau rồi lại dừng, lại chuyển đi từ đông sang tây thì nước ứng với nó sẽ mất đất, nếu không thì mất con gái, không nên làm việc dấy binh. Nếu nó dừng lại lâu thì nước ứng với nó phúc lớn, dừng lại ít thì phúc nhỏ. Sao Trấn còn có tên là sao Địa Hầu, chủ về mùa màng. Mỗi năm chuyển được mười hai độ năm phần một trăm mười hai phân, mỗi ngày chuyển được một phần hai mươi tám phân, cứ hai mươi tám năm thì chuyển tròn một vòng vòm trời. Nó mọc đâu thì ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, nước ứng với nó có thể tỏ đức dày mà có được thiên hạ. Chủ về lễ, đức, nghĩa, giết hại. Nếu hình pháp có sai thì sao Trấn sẽ vì vậy mà dao động. Mọc sớm thì người làm vua không yên. Nếu mọc muộn thì việc quân không nghỉ. Sao Trấn có màu vàng, chín tia, về âm nhạc là chủ về cung hoàng chung. Nó chuyển sai trên hai-ba chòm sao là mọc sớm, nguời chủ mệnh không thành công, nếu không thì có nước lụt to. Chuyển sai dưới hai-ba chòm sao thì hậu cung có việc buồn, năm đó không được mùa, nếu không thì trời long và đất lở. Chòm sao Nam Đẩu là cái phòng lớn của thái miếu, miếu của sao Trấn, là sao chủ thiên tử. Nếu sao Mộc hội với sao Thổ thì trong nước có loạn, đói Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Trong ngũ tinh, hễ sao Mộc hội với sao Thổ là trong nước có loạn, đói; hội với sao Thủy là có biến mưu, đổi việc; hội với sao Hỏa thì có khô hạn; hội với sao Kim thì có tang tóc." nhà vua không nên dùng binh, nếu dùng binh sẽ thua; hội với sao Thủy thì có biến mưu mà đổi việc; hội với sao Hỏa thì có khô hạn; hội với sao Kim thì có tang tóc và nước lụt. Sao Kim ở phía nam, sao Tuế ơở phía bắc như đực cái, [colỉ=red]Sách ẩn: Chính nghĩa: "Sao Kim ở phía nam, sao Mộc ở phía bắc, gọi là như đực cái, năm đó được mùa to; sao Kim ở phía bắc, sao Mộc ở phía nam thì có năm được mùa cũng có năm không được mùa." năm đó được mùa; sao Kim ở phía bắc, sao Tuế ở phía nam thì không được mùa. Sao Hỏa hội với sao Thủy thì sùi, Tập giải: Tấn chước chép: "Lửa gặp nước thì sùi hơi, cho nên nói là sùi." Sách ẩn: Xét: Là nói sao Hỏa và sao Thủy cùng theo hội với sao Trấn. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Trong ngũ tinh, hễ sao Hỏa hội với sao Thủy là sùi, làm việc dùng binh sẽ thua to; hội với sao Kim là nóng chảy, có tang tóc, không nên làm việc lớn, dùng binh theo quân sẽ có lo lắng; rời xa nhau thì lui quân; hội với sao Thổ là có lo lắng, bầy tôi bị hại; hội với sao Mộc là có đói, thua trận. hội với sao Kim là nóng chảy, tang tóc, đều không nên làm việc lớn, nếu dùng binh sẽ thua to. Hội với sao Thổ là có lo lắng, bầy tôi có hại, Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Nước gặp đất là rèn thành sắt, rèn thành sắt thì nổi lửa, nổi lửa thì còn của đất bị nung, sắt bị nấu chảy, nấu chảy thì đất như con không giúp cha, không có con giúp cha thì càng tai hại." đói to, thua trận, là quân thua, quân khốn, làm việc vỡ lở. Sao Thổ hội với sao Thủy thì được mùa mà dồn ứ, quân bị thua, nước ứng với nó không nên làm việc lớn. Nếu mọc thì mất đất; lặn thì được đất. Hội với sao Kim sẽ có bệnh tật, trong nước có dấy binh, mất đất. Nếu ba sao hội thì trong ngoài của nước ứng với chòm sao mà nó chuyển đến sẽ có binh cách, tang tóc, thay lập vương hầu. Bốn sao hội thì cùng bị binh cách, tang tóc, nhà vua lo lắng, người dân vất vơ. Năm sao hội là dễ đổi ngôi, kẻ có đức thì nhận ngôi vua, thay lập kẻ lớn, thu lấy bốn cõi, chon cháu sinh sôi; nếu không có đức thì bị họa gặp hại. Năm sao đều lớn thì việc ứng với nó cũng lớn; đều nhỏ thì việc cũng nhỏ. Mọc sớm là chuyển nhanh, chuyển nhanh là khách. Mọc muộn là chuyển chậm, chuyển chậm là người chủ, sẽ có điềm trời xuất hiện ở phần chuôi sao Bắc Đẩu. Cùng ở một chòm sao là hội họp, phạm vào nhau là đấu, gần trong vòng bảy thước tất có hại. Ngũ tinh thường hình tròn màu trắng, là biểu tượng của tang tóc; màu đỏ hình tròn là trong nước không yên, có binh cách; màu xanh hình tròn là có nạn nước ngập, bệnh tật, nhiều người chết; màu vàng hình tròn là tốt. Màu đỏ có tia là quân địch phạm vào thành ấp; màu vàng có tia là có tranh đất; màu trắng có tia là có tang tóc; màu xanh có tia là quân có việc lo; màu đen có tia là nước lụt; màu đỏ có tia nhân lúc cùng đường mà dừng quân. Ngũ tinh cùng màu là thiên hạ ngừng binh, trăm họ yên vui. Ngày gió mát mùa xuân, ngày mưa mùa thu, đem lạnh mùa đông, đêm nóng mùa hạ, hường dao động vào lúc ấy. Sao Trấn xuất hiện hai mươi ngày thì chuyển ngược về phía tây, chuyển về phía tây được hai mươi ngày lại chuyển ngược về phía đông. Mọc ba trăm ba mươi ngày lại lặn, lặn na mươi ngày rồi lại mọc ở phương đông. Sao Thái Tuế ở năm giáp dần thì sao Trấn mọc pử chòm sao Đông Bích, cho nên nói mọc ở chòm sao Doanh Thất. Xem khí mây là ngẩng mà nhìn nó, cách ba-bốn trăm dặm; nhìn ở đất bằng, ở tầm trên cây du-cây dâu, cách khoảng hơn hai ngàn dặm; nếu lên cao mà nhìn thì thấy nó ở dưới liền với mặt đất, cách ba ngàn dặm. Vùng khí mây có loài thú ở trên đó là tốt. Chính nghĩa: Khí mây mưa đều nhau. Binh thư chép: "Có đám mây như con gà trống đến gần thành là kẻ giữ thành sẽ hàng." Từ núi Hoa về phía nam, khí dưới màu đen trên màu đỏ. Ở vùng núi Sùng Cao-miền Tam Hà, khí màu đỏ thuần. Phía bắc núi Hằng, khí dưới màu đen trên màu xanh. Miền Bột-Kiệt-Hải-Đại, khí đều màu đen. Vùng sông Giang-Hoài, khí đều màu trắng. Ở chỗ có lao dịch thì khí màu trắng. Ở chỗ có việc đắp đất thì khí màu vàng. Ở chỗ có xe đi thì khí lúc lên cao khi xuống thấp, lan man mà tụ. Ở chỗ có quân kị thì khí thấp mà phân tán. Ở chỗ có lính bộ thì khí tụ hợp. Ở chỗ có khí trước thấp mà sau cao là đi nhanh; trước vuông mà sau cao là quân mạnh; rồi hạ thấp là rút lui; khí ngang bằng là quân đi thong thả. Khí trước cao mà sau thấp là không ở lại mà quay về. Khí gặp nhau là thấp hơn cao, nhọn thắng vuông. Khí hướng xuống thấp mà men theo vết xe đi thì không quá ba-bốn ngày, cách năm-sáu dặm sẽ thấy địch. Khí hướng lên cao bảy-tám thước, không quá năm-sáu ngày, cách hơn chục dặm sẽ thấy địch; khí hướng lên cao hơn hai trượng, không quá ba-bốn chục ngày, cách khoảng năm-sáu chục dặm sẽ thấy địch. Phần ngọn của khí màu trắng trong là tướng cứng cỏi, quân yếu kém. Phần gốc của khí lớn mà trải dài ra phía trước là đang có đánh nhau. Khí màu xanh trắng, phía trước hướng xuống thấp là đánh thắng; phía trước màu đỏ mà hướng lên trên là đánh không thắng; khí dàn ra như lập thành lũy, khí hình như cái thoi, Sách ẩn: Họ Diêu xét: Binh thư chép: "Trên trại địch có khí mây như cờ xí thì không nên đánh với địch." khí cuộn tụ nhọn hai đầu; khí dãn ra như dây thừng, trải về phía trước đến tận trời, một nửa cũng đến nửa vòm trời, hình như cầu vồng giống cờ khuyết. Khí cũng có hình móc câu gấp khúc. Những khí trên xuất hiện thì dựa vào năm màu sắc để đoán. Lại khí nhẵn mà rậm, Chính nghĩa: Cổ kim chú của Thôi Báo chép: "Hoàng Đế đánh với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, thường có khí mây năm màu, cành vàng lá ngọc tụ ở trên người Hoàng Đế, có hình hoa nở, do đó làm nên nên lọng hoa." Dịch triệu hậu của Kinh Phòng chép: "Xem bốn phía nếu thường có mây lớn đủ năm màu, chỗ ấy có người hiền ở ẩn. Khí màu xanh nhẵn bóng che cả Mặt Trời ở phía tây bắc là người hiền được chọn dùng." có hình xuất hiện là có biến động; khi xem được là tất có dấy binh, đánh nhau ở chỗ ấy. Vương Sóc xem khí thường nhìn khí ở cạnh Mặt Trời. Khí mây cạnh Mặt Trời là chủ về nhà vua. Chính nghĩa: Lạc thư chép: "Có mây như hình người mặc áo xanh không có tay ở phía tây của Mặt Trời là khí của thiên tử." Đều dựa vào hình của nó để xét. Cho nên khí của người rợ miền bắc như hình bầy gia súc lều rạp. Khí của người rợ miền nam giống tấm buồm thuyền chèo. Ở chỗ có nước ngập là nơi quân thua, vùng phá nuớc; chỗ có chứa tiền, ở trên vàng ngọc đều có khí, không nên không xét. Khí mây cạnh biển giống đài lầu, khí ở bãi đất rộng có hình giống cung khuyết. Khí mây đều giống người dân sông núi tụ hội ở đó. Chính nghĩa: Hoài Nam Tử chép: "Đất đai đều theo từng nơi mà sinh ra người khác nhau, cho nên khí ở miền núi thì phần lớn sinh ra người mạnh mẽ, khí nhẵn thì nhiều người câm; khí nhiều gió thì nhiều người điếc; khí từ rừng thì nhiều người khèo chân; khí từ nhiều cây thì nhiều người gù lưng; khí từ nhiều đá thì nhiều người có sức khỏe; khí hiểm trở thì nhiều người sống thọ; khí từ hang thì nhiều người bại liệt; khí từ gò thì nhiều người điên; khí từ miếu thì nhiều người có lòng nhân; khí từ lăng thì nhiều người tham, đất nhẹ thì chân nhanh, đất nặng thì chân chậm; nước trong thì nói tiếng nhỏ, nước đục thì nói tiếng to, nước chảy xiết thì người nặng; miền đất giữa có nhiều thánh nhân, đều là từ khí của đất mà ứng với muôn vật ở đó." Cho nên người xét thừa tổn thì khi vào đất nước nào đó thì xem cái ngay ngắn của ruộng đất bờ cõi, cái nhẵn bóng của cửa ngõ nhà cửa thành quách, thứ đến là xem cái cốt lõi của gia súc xe áo. Nếu đầy đủ là tốt, hao tổn là xấu. Như khói mà chẳng phải khói, như mây mà chẳng phải mây, sáng sáng rõ rõ, lởn vởn uốn lượn, gọi là mây khanh. Mây khanh xuất hiện là khí lành. Như mây mù mà chẳng phải mây mù, Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Khí trời xuống đất không hợp là mây mù." Ý nói mờ mịt không sáng. không thấm ướt vào áo mũ, xuất hiện là chỗ ấy bị binh giáp mà chạy dài. Sấm chớp điện, cầu vồng, sét đánh, tia sáng buổi đêm là khí dương chuyển động, mùa xuân-hạ thì phát ra, mùa thu-đông thì náu vào, cho nên người xem khí không thể không xét nó. Tôi ghi chú: Sao Thái Ất trên bầu trời Tử Vi Viên.
-
Bàn lại tên gọi Bánh Chưng - Bánh Giày - Bánh Tày - Bánh Tét Đăng bởi Viennhu ngày 06/12/2014 Nói đến bánh chưng bánh giày ở nước ta ai mà chẳng biết, bên cạnh là một thực phẩm, nó còn là vật phẩm biểu tượng có tính thiêng liêng dùng để cúng hiến tổ tiên trong ngày tết. Chuyện bánh chưng, bánh giày được ghi lại trong sách “Lĩnh Nam chích quái”(LNCQ), tương truyền do Trần Thế Pháp sưu tập ghi lại từ thế kĩ XV. Tuy nhiên gần đây, có lẽ do nghi ngờ nguồn gốc mà LNCQ đưa ra, các nhà nghiên cứu văn hóa (*) còn đi xa hơn trong việc tìm về cội nguồn của việc ra đời cái bánh ấy. Có thể nói những nghiên cứu ấy cung cấp cho người đọc một cái nhìn đa dạng hơn về ý nghĩa cũng như thời điểm và nơi ra đời của nó, tựu trung người ta nghiên cứu về: 1 – Nguồn gốc bánh . 2 – Ý nghĩa từ “Chưng” và các tên liên quan như Giầy – Giày - Dày – Tày - Tét 3 – Ý nghĩa của bánh thông qua hình thức mà nó thể hiện. Cùng trong hướng tìm hiểu các tiêu chí đó, tôi xin bàn lại như sau: 1 – Nguồn gốc. Theo Lĩnh Nam chích quái thì nguồn gốc Bánh chưng – Bánh giày có từ thời vua Hùng được ghi lại như sau: Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho ”. …….. “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”. ………..lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Theo sách thì câu chuyện này là một trong những câu chuyện của xứ Lĩnh Nam, như vậy không gian của nó có thể rộng khắp xứ Lĩnh Nam, mà xứ Lĩnh Nam xưa kia ở tận phía Nam sông Dương Tử nơi cộng đồng dân cư Bách Việt sinh sống, do đó nó có thể là văn hóa của cả vùng này. Tuy nhiên nhất định thuở ban đầu nó phải xuất phát từ một dân tộc nào đó rồi sau mới lan rộng ra. Vậy dân tộc đó là dân tộc nào? Theo tôi thì dân tộc nào đã sáng tạo ra Dịch học chính là dân tộc đã làm nên văn hóa này. 2 – Về tên gọi bánh Chưng – Bánh giày – Bánh Tày – Bánh Tét. Theo sách LNCQ, bánh Chưng vuông, tượng trưng cho Đất, bánh Giày tròn, tượng trưng cho Trời, khái niệm âm dương này cũng liên hệ với các tên gọi về sau như Tày, Tét. Do đó theo tôi cần phải giải thích các cặp từ ấy phù hợp với triết lí âm dương (siêu hình), đồng thời vẫn phải nói lên được tính phồn thực của nó (hữu hình), nếu không hội đủ hai tiêu chí ấy thì khó mà thuyết phục. Nghĩa từ “CHƯNG”. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895-96) tác giả Huỳnh Tịnh Của viết: 1- Bánh chưng : bánh gói bằng nếp hình vuông, còn có tên là địa bính tức bánh tượng trưng cho đất vuông. Bánh được chưng hấp nên gọi là bánh chưng. 2- Bánh chưn: bánh vuông dẹp giống cái bàn chưn, cũng gọi là địa bính. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy” Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2002) đã ghi cho chữ chưng 烝 một trong các nghĩa là “dụng hoả hồng khảo” 用火烘烤, nghĩa là dùng lửa mà nung. Như thế nghĩa chữ chưng trong bánh chưng không thích hợp với các nghĩa như đã nêu, trừ nghĩa 2 nhưng không phải với giải thích ấy. Thông thường người ta hiểu chưng có nghĩa là làm chín bằng hơi nước, nhưng trong LNCQ viết “Chử nhi thục chi” có nghĩa là nấu (Chử) chứ không phải chưng. Đồng thời trên thực tế ai cũng biết là luộc hay nấu bánh chứ chưa hề có chuyện chưng bánh chưng, ngay cả người viết LNCQ cũng hiểu thế nên mới viết là nấu. Như thế từ chưng này có thể đã có trước khi người ta mô tả về chuyện chế biến nó. Ta có thể phân tích quá trình bằng cách chiết tự chữ chưng 烝. Theo tôi chữ chưng này là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh nấu bánh, người ta đã dùng phép hội ý để ghi lại. Trước hết bên dưới là lữa =Hỏa(#), rồi mới đến một gạch ngang tượng trưng cho đáy nồi = Kim, bên trên là nước = Thủy và trên cùng là một gạch ngang nữa tượng trưng cho nắp đậy. Tất nhiên đã là nấu bánh thì phải có bánh, cho dù con chữ không thể hiện điều đó, bánh có lá màu xanh = Mộc, bên trong có nếp và ở giữa là nhụy sau khi nấu chín thường có màu đất = Thổ. Như vậy con chữ đã nói lên ngũ hành, một trong những thành phần của dịch học. Vậy ại sao gọi là “chưng”? Nếu không phải nghĩa là chưng cất thì từ chưng này có nghĩa là gì? Có liên quan gì đến đất? Theo tôi từ Chưng này có nghĩa là cái Chưn (cái chân). Ta thường nói “Đầu đội trời chân đạp đất” vì cái bánh tên là chưng, hình vuông tượng trưng cho đất thì nhất định khi đặt tên cho cái bánh ấy cũng phải có nét nghĩa liên quan đến đất. Cần thấy là triết lí âm dương ban đầu con người nghiệm từ bản thân mà ra sau đó mới tìm thấy tính phổ quát của nó trong vũ trụ, cho nên tín ngưỡng phồn thực là tôn giáo đầu tiên của con người. Chính vì chưng có nghĩa là chưn = Vuông = Âm nên các từ theo nó như giày, tày, tét phải là biểu tượng cho dương; đồng thời phải tròn. Nghĩa từ GIÀY (Giầy – dày). Như LNCQ mô tả “Lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giày” Như vậy để làm được bánh giày ta phải qua công đoạn giã, mà giã thì phải dùng chày = Dương, tất nhiên là phải để xôi trong cối = Âm. Hình ảnh và khái niệm chày cối là tượng trưng cho âm dương, hình ảnh này cũng được ghi lại trên trống đồng. Sau khi làm thành chiếc bánh rồi người ta cần một cái tên cho nó, vậy phải đặt tên như thế nào. Tất nhiên cái tên ấy phải nói lên được tính Dương và tất nhiên không thoát khỏi khái niệm phồn thực trong hình thể, cụ thể là cái chày họ đang sử dụng. Từ suy nghĩ đó họ cần có một cái tên mà nội tại cái cái tên ấy phải nó liên quan đến khái niệm chày, không gì hơn là gộp cả hai việc giã và chày lại thành một âm để đặt tên cho cái bánh và chữ Giày ra đời theo cách sau đây: GIÃ – CHÀY đọc phản thành GIÀY chã (Có lẽ từ CHÃ cũng từ đây mà có). Như vậy từ Giày có liên quan đến quá trình chế biến cái bánh tượng trưng cho Trời. Chính vì vậy từ Giày cũng mang nét nghĩa của sự giày xéo, chà đạp, làm cho nát và khi được sử dụng là danh từ này để chỉ cái thứ mà người ta mang dưới chân gọi là giày cũng mang nét nghĩa này. Giày thì phải ôm lấy chân chứ như âm với dương vậy. Nghĩa từ TÀY. Ngoài tên bánh chưng – Bánh giày còn có bánh Chưng – Bánh Tày. Vậy chữ Tày nghĩa là gì mà đi liền với từ Chưng? Ở vùng Phú Thọ và một vài vùng ven Hà Nội hiện nay vẫn còn gói bánh này gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, còn có tên khác là bánh đòn giống với bánh tét miền trung và miền nam. Vậy Tày nghĩa là gì? Theo tôi từ Tày là một từ phái sinh từ từ Tay (cánh tay). Vì từ chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưn thì việc nó đi liền với tay là chuyện bình thường, chỉ sự liên kết chặt chẽ như “Anh em như thể tay chưn” cũng như âm luôn luôn đi liền với dương vậy. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng nó bị trầm hóa, từ tay thành tày và cũng có thể do ảnh hưởng bởi từ giày trước đó. Chuyện này rất phổ biến đối với người Việt khi đọc các âm cuối không dấu như Uber = U bờ, Viber = Vai bờ, Toyota = Tô dô đà. Ngoài ra sở dĩ tôi cho tày là tay là vì câu chuyện bánh chưng bánh giày mang ý nghĩa âm dương, dịch lí. Như ta biết căn bản của dịch lí là Thái cực (lí số = 10) sinh nhị nghi – tứ tượng – Bát quái – 64 quẻ (6+4=10). Ta có thể liên tưởng 10 ngón chân trên hai bàn chân và 10 ngón tay. Tay chân là một cặp đối đãi như trên dưới, trong ngoài, phải trái, âm dương. Nghĩa từ TÉT. Bên cạnh các cặp từ Chưng – Giày, Chưng – Tày ta còn có cặp từ khác đó là Chưng – Tét. Vậy từ Tét trong trường hợp này nghĩa là gì? Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi: “ Tét : Tước ra, xé ra, tách ra ”; rồi “ Tét bánh: Dụng dây nhợ mà siết đòn bánh ra từ lát, từ khoanh ”. Bánh tét là bánh có hình tròn dài như bánh Tày và có vai trò như từ Giày – Tày do đó nó cũng có nghĩa là dương – trời, đối lại với chưng có hình vuông biểu tượng cho âm – đất. Ta có các từ liên quan như: Tước- Tách – toát – toét đều chỉ việc dùng một cái gì đó làm cho một vật khác bể ra thành hai hay nhiều phần. Định nghĩa và ví dụ trên là chính xác nhưng người đọc dễ bị định hướng do cách hiểu từ tét phải là dùng sợi dây vì vậy khó mà tìm ra ý nghĩa của nó trong trường hợp này – Bánh tét. Nếu vì bánh bị tét bởi sợi dây mà đặt tên là tét thì nó có liên quan gì đến từ chưng, mà như ta biết chưng tượng cho đất, giày, tày, tét cho trời, có nghĩa là cặp từ này phải có mối liên quan chặt chẽ như âm với dương. Theo tôi nghĩa của từ này đơn giản đã nằm trong tên bánh - Bánh tét, có nghĩa là cái bánh dùng để tét, ở đây là tét cái bánh chưng . Như đã nói trên thuyết âm dương, phồn thực ban đầu xuất phát từ sự chiêm nghiệm bản thân về sau mới thăng hoa thành triết thuyết, nhưng cho dù có phát triển như thế nào thì khái niệm ban đầu vẫn là khái niệm căn bản. Từ Tét này chỉ có ở miền trung và miền nam, có thể sau khi sử dụng Tét thay Tày, người ta lại sáng tạo nên một cặp từ khác đó là bánh Tày – Bánh Ú. Bánh tày miền trung nhỏ chỉ độ bằng gang tay, thường thì hai cái úp vào nhau, có hình hơi tròn, còn bánh ú thì giống hình cái vú, có lẽ ú là cách nói trại tù vú mà ra, tượng trưng cho âm. Tày = Dương, Ú = Âm. Bánh ú này có hình dáng giống như bánh chưng Triệu Khánh – Quảng Đông – Trung quốc. 3 - Ý Nghĩa. Tóm lại dù tên gọi và hình dáng khác nhau nhưng rõ ràng ý nghĩa của nó thống nhất. Đó là nói lên triết lí âm dương, nó không chỉ được biểu thị qua việc làm bánh để tưởng nhớ tổ tiên mà qua đó khẳng định rằng triết lí này, Dịch học, là sản phẩm của người Việt. Ngay cả các tên bánh: Chưng – Giày - Tày – Tét đều là Nôm cả và đều liên quan chặt chẽ đến tính phồn thực. Do tính tàn khốc của lịch sử, người Việt không thể nói ra điều đó trực tiếp được, nên họ tìm mọi cách để ghi lại nguồn gốc của triết thuyết đó thông qua các hình thức văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc mình như trống đồng, ông Táo, Cóc kiện Trời, Sơn Tinh - Thủy Tinh v.v.. Truyện bánh Chưng và bánh Giày không ngoài mục đích ấy. /. Tôi ghi chú: - Chưng: dạng chưng cất, ý nghĩa là chắt lọc cái tinh túy của tri thức, rút tỉa tinh hoa, tức xây dựng nên học thuyết về các quy luật thống nhất của tự nhiên, rồi dùng bánh chưng - bánh dầy làm biểu tượng. - Đồng thời, cũng là linh vật dâng cúng tổ tiên vào ngày mùng 1 tết Nguyên Đán, Âm lịch, ngày đầu năm mới và cũng là ngày tái sinh, phục sinh của Lạc Long Quân và Âu Cơ và 100 người con trai Hùng, 55 và 45 độ số của Hà đồ và Lạc thư. - Trong trận chiến vô cùng khốc liệt với giặc Ân, Hùng Vương VI nhờ có cụ già tóc bạc hóa thân của Lạc Long Quân mới biết được Thánh Gióng hài nhi. Hùng Vương VI này là đời cuối cùng trong chi Hùng Vương VI, còn sau ngài này truyền ngôi cho Lang Liêu và Lang Liêu là Hùng Vương VII (Vua chủ), với chiến thắng trong cuộc thi là bánh chưng vuông (1 cặp 2 chiếc tượng Địa: Hà đồ - Lạc thư) - bánh dầy tròn hình vòm (1 chiếc tượng Trời) đơn giản mà ý nghĩa siêu tuyệt. - Bánh chưng bánh dầy được nấu trong chiếc nồi đồng lớn thời xưa, vào ngày 30 năm cũ, mọi người cùng nhau trực đến sáng mùng 1 Tết rồi vớt ra, sau đó đưa lên bàn thờ tổ tiên và các nơi thờ tự khác của các tôn giáo Văn Lang để tổ chức cúng tế. Từ ngày 30 năm trước đến ngày mùng 1 năm sau trải qua "hai năm", tức ngày cuối năm trước đến ngày đầu năm mới, lại bắt đầu của một mùa xuân mới, mang ý nghĩa của tự tái sinh, phục sinh, cây xanh đâm chồi nảy lộc: "lộc mới". Rồng ngọc Thời Thương - Bánh dầy cần phải giã nếp trong cối, thời Hùng Vương tất nhiên đã có cối xay rồi -> cần kiểm tra hình ảnh giã gạo, nếp trên mặt trống đồng? Phải chăng dùng để làm bánh dầy thời Hùng Vương VII? - Thời điểm Hùng Vương VII, tất nhiên là văn hóa Việt chưa xuất hiện "Pháo đốt", chỉ tới thời nhà Trần, mới hình thành nên, còn ngày xưa dùng tre nứa già đốt lên, những đốt thân tre sẽ nổ toác. - Ngày đầu năm mới mùa xuân, là đầu Rồng, do vậy ngày cuối của năm cũ là đuôi con Rồng, mang hình hài vòng tròn của con Rồng, biểu tượng của sự thống nhất của "không thời gian và vật chất", con Rồng này cuộn lại như một vòng tròn, quay thuận kim đồng hồ như sự vận động của Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ của địa cầu. Sự hợp nhất này về mặt bản chất là "không thấy được". - Tổ tiên: thác là thể phách, còn là tinh anh (Kiều).
-
Chứng cứ Khảo cổ học về bánh chưng Lang Liêu Từ một phát hiện mới về lá bánh chưng thời Lang Liêu Tiến sĩ Nguyễn Việt Mẹ tôi mất rồi, nhưng không bao giờ tôi quên những câu chuyện cổ tích “Ngày xửa ngày xưa”, mẹ kể mỗi lần trước khi đi ngủ. Thuở đó tôi rất có ấn tượng với câu chuyện Lang Liêu, nhờ tài làm bánh Trưng bánh Dày mà được vua Hùng chọn làm người kế nghiệp. Vốn dĩ khi xưa tôi cũng rất thích không khí gói bánh trưng những ngày xáp tết. Ngồi cạnh mẹ, tôi cũng được tự mình gói những chiếc bánh nhỏ xíu, để khi nồi bánh chín, vớt ra, đã được nhâm nhi thưởng thức chính thành quả của mình, sau khi được mẹ tắm tất niên từ chậu nước lá mùi bốc hơi thơm nức đặt trên miệng nồi nấu bánh trưng đun bếp củi vẫn sôi ùng ục … Với những kỷ niệm sâu sắc về bánh Trưng tết và Lang Liêu như vậy, khi lớn lên, trở thành một nhà khảo cổ, tôi lại may mắn khai quật được những hạt lúa nếp cổ và cả những mảnh chõ đồ xôi thời Lang Liêu nữa. Những phát hiện đó càng thôi thúc tôi tìm kiếm những chứng cứ khảo cổ học cho câu truyện cổ tích mà dường như nó chỉ biến thành sự thực trong giấc mơ của trẻ thơ, mỗi đêm nghe mẹ thủ thỉ kể chuyện. Trống đồng Đông Sơn và mảng lúa nếp nương râu in trong lòng trống (CQK-collection) Hai ảnh bên trái là lúa hạt dài và lúa nếp hạt tròn khai quật được ở hang Xóm Trại (Hòa Bình). Ảnh còn lại là lúa nếp khai quật ở khu mộ táng Đông Sơn Động Xá (Hưng Yên) Trên quan điểm khoa học, thì câu chuyện Lang Liêu làm bánh vẫn chỉ là huyền thọai. Huyền thoại luôn như những màn khói bao trùm mỗi không gian sinh tồn tộc người. Nhưng cũng tồn tại một nguyên lý khoa học của chuyên ngành nghiên cứu văn hóa dân gian, đó là “không có lửa thì không có khói”. Màn khói huyền thoại tuy không phải là sử liệu thật, nhưng bao giờ nó cũng bắt nguồn từ một sự thực lịch sử nào đó. Đó chính là cái lõi “lửa” đã tạo nên màn khói huyền thọai đó. Thế rồi, việc phát hiện từng hạt lúa nếp, mảnh chõ khảo cổ và giờ đây cả những chiếc lá dong còn khá nguyên vẹn in hình trong chiếc nồi đồng thời Đông Sơn Âu Lạc đã giúp chúng ta vén dần màn khói huyền thọai về sự tích Lang Liêu và Bánh Trưng Bánh Dày để nhận chân lịch sử dân tộc từ hai, ba ngàn năm trước. Nói đến Bánh Trưng, Bánh Dày cũng tức là nói về việc sử dụng lúa nếp từ rất sớm của người Việt cổ. Quả thực, muộn nhất là từ 3500 năm trước, lúa trồng (Oriza Sativa) có dạng hạt bầu (large form) giống lúa nếp dính (gloutinous rice) đã tìm thấy phổ biến ở nhiều di tích khảo cổ học Việt Nam. Đến thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đông Sơn, nền văn hóa đại diện cho phát triển đỉnh cao của văn minh Văn Lang – Âu Lạc gắn với các đời Hùng Vương và An Dương Vương thì lúa nếp đã trở thành một nguồn thức ăn phổ biến, đặt nền móng cho tập tục dùng lúa nếp như một loại hình thức ăn lễ nghi dành cho tổ tiên và thần thánh của người Việt và nhiều dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam hiện nay. Ngoài dạng lúa nếp hạt bầu râu ngắn các nhà khảo cổ học còn ghi nhận dấu in lúa nếp nương râu dài trong lòng một trống đồng Đông Sơn khai quật được ở miền tây Thanh Hóa. Trên nền tảng văn hóa khảo cổ có thực đó, sự tích Lang Liêu và Bánh Trưng đã ra đời. Việc các nhà khảo cổ của Trung Tâm Tiền sử Đông Nam Á vừa phát hiện dấu in của một chiếc lá dong còn nguyên vẹn và tươi tắn càng làm “tươi” thêm sự thực Bánh Trưng từ trên 2000 năm nay. Hình dưới đây là nguyên trạng phát hiện khảo cổ học thú vị nói trên. Đó là một chiếc nồi đồng khai quật được ở Làng Vực (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thuộc phong cách Đông Sơn Âu Lạc[1] có thể định tuổi vào khoảng thế kỷ 1-2 trước Công nguyên. Trong lòng chiếc nồi đó in dấu rất nhiều lá dong ở tình trạng lót nồi. Đó là những hình lá dong nằm phẳng ở tư thế nguyên chiếc bao quanh đáy và cạnh nồi. Nhờ ô xuýt đồng từ lớp gỉ của nồi mà chiếc lá được giữ nguyên trạng, thậm chí có màu xanh như những chiếc lá còn tươi. Phục nguyên chiếc lá còn nguyên vẹn nhất, ta thấy nó có độ dài khoảng trên 30cm rộng khoảng 15cm. So sánh độ lớn và cấu trúc nhánh lá có thể nhận biết được lá thuộc họ dong riềng (Cannaceae). Loài cây này được xem như một dạng cây bản địa mọc hoang dại và được ươm trồng từ nhiều ngàn năm nay ở Việt Nam và Đông Nam Á cổ đại. Cho đến nay, cây rong riềng vẫn được coi như một loại cây cho bột, cho lá dễ trồng, năng xuất cao, có thể giúp xóa đói giảm nghèo ở nhiều vùng dân tộc miền núi nước ta. [1]Văn hóa Đông Sơn được phân định khảo cổ từ khoảng 2800 đến 1800 năm cách ngày nay. Tuy nhiên, nghệ thuật Đông Sơn thể hiện trên đồ đồng lễ nghi của nền văn hóa này xuất hiện chủ yếu từ 2400 - 2500 năm trở về sau. Thời gian đó bao gồm hai giai đoạn mà ở đây chúng tôi đặt tên là Đông Sơn Âu Lạc (thế kỷ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ 1 trước Công nguyên) và Đông Sơn Giao Chỉ (thế kỷ 1 trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ 3 sau Công nguyên). Vết in chiếc lá dong bên trong nồi đồng Đông Sơn (hình trên) và nguyên trạng phóng đại của nó (hình dưới). Việc sử dụng lá dong riềng trong các nhóm cư dân tiền sử săn bắt hái lượm ở Đông Nam Á cổ đại hẳn không có gì xa lạ. Tuy nhiên, việc phát hiện bằng chứng thật của lá dong riềng trong khung cảnh khảo cổ học giúp khẳng định niên đại muộn nhất của việc sử dụng lá dong riềng trong đời sống bếp núc quý tộc ở Việt Nam là từ khoảng thế kỷ thứ 1-2 trước Công nguyên. Cảm giác của tôi thật bồi hồi không sao kể xiết khi lần đầu gặp một hiện tượng khảo cổ kỳ thú đến như vậy. Vốn là một người làm công tác khảo cổ học và nghiên cứu các văn hóa cổ truyền, sau mỗi lần đặt lại mảnh nồi đồng còn in hình lá dong trở lại tủ kính của Bảo tàng Phạm Huy Thông[1] tôi như lại thấy hình ảnh Lang Liêu đang ở rất gần. Từ phát hiện khảo cổ về lá dong, năm nay, Chi nhánh của Bảo tàng Phạm Huy Thông đặt tại thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) sẽ tiến hành một lễ hội cổ truyền nội bộ, nằm trong nội dung nghiên cứu về truyền thống làm bánh trưng của người Việt cổ. Lễ hội sẽ bắt đầu từ sau lễ Ông Công - Ông Táo với việc cắt lá từ những cây dong riềng trên vùng núi cao Đồi Thung – Thượng Tiến ở Kim Bôi (Hòa Bình), chuẩn bị lúa nếp từ Mường Vang (Lạc Sơn, Hòa Bình) và Mộc Châu (Sơn La), thịt lợn Mường và nước lá mùi từ tỉnh Hòa Bình. Một chiếc vạc đồng bốn quai đời nhà Lang ở tỉnh Hòa Bình cũng được sử dụng để nấu bánh. Những chiếc bánh đầu tiên sẽ được dâng lên các Vua Hùng và Lang Liêu để ghi nhận công đức của người xưa. [1]Phạm Huy Thông (1916-1988) là tên vị Giáo sư, Viện sĩ đã đặt nền móng cho nền khảo cổ học hàn lâm của nước ta. Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Khảo cổ học Việt Nam. Để ghi nhận đóng góp của Ông đối với khảo cổ học nước nhà Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á từ năm 2001 đã thành lập Bảo tàng Phạm Huy Thông lưu giữ và trưng bày bút tích của Ông cũng như những hiện vật, bản thảo liên quan đến Ông và ngành Khảo cổ học nước nhà. Đây cũng là nơi lưu giữ các hiện vật khảo cổ do Trung tâm sưu tầm, nghiên cứu nhằm phục vụ công tác nghiên cứu khảo cổ học ứng dụng ở trong và ngoài nước. Bảo tàng Phạm Huy Thông (hình trái) và hình ảnh một phụ nữ Yên Giang đang gói bánh Lang Liêu Ghi chú : Đúng lịch trình, sáng ngày 27 tết, vườn sau của tòa nhà Bảo tàng Phạm Huy Thông rộn tiếng của chị em phụ nữ và các em nhỏ Yên Giang quanh bàn gói bánh do chị Tuyết và chị Nhàn phụ trách. Những chiếc lá dong rừng do anh Điện mang từ Kim Bôi về tươi tắn, xanh ngắt đã được lau rửa sẵn từ đêm hôm trước làm nổi bật màu trắng của gạo nếp và vàng xậm của đỗ xanh. Đám đàn ông thì bận rộn nốt với việc quét sơn, dọn nhà, dựng bếp, xếp củi. Chiếc sanh đồng bốn tai nhà Lang Mường được hai trai làng lực lưỡng khiêng ra, kèm theo là một chiếc chiêng đồng lớn dùng làm nắp đậy. Mọi thứ đã sẵn sàng. Chính giờ Ngọ, anh Nguyễn Hồng Kỳ, quản thủ Bảo tàng làm lễ xếp bánh, nổi lửa. Bếp lửa chất bằng những gộc cây lớn cháy suốt 12 giờ đồng hồ. Anh chị em cán bộ Bảo tàng chia nhau luân trực. Giờ Tý kết thúc, 1 giờ đêm lửa, được rút ra để lại bếp than hồng. Mọi người tắm gội nước lá mùi thơm rực. Bắt đầu giờ Sửu, những chiếc bánh đầu tiên được một cô gái mệnh Sửu vớt khỏi nồi, nhúng và rửa nhanh qua nước lạnh cho róc ráo rồi đưa vào bàn ép. Đám trẻ háo hức tranh phần những chiếc bánh chưng nhỏ xíu nhiều hình vuông, méo do chính tay chúng gói. Sáng sớm ngày 28, sau khi kiểm tra bánh đã ép kiệt và nguội hắn, mọi người chọn một cặp bánh đưa lên cùng thắp hương với mảnh nồi đồng Đông Sơn còn lưu hình chiếc lá thời Lang Liêu ở bàn thờ Đất Trời – Tổ Tiên mới được xây dựng ở trước chính sảnh Bảo tàng. Tôi ghi chú: - Mặt trống không rõ hoa văn nhưng mặt trời tâm trống có 10 cánh, nếu người xưa nấu bánh chưng trong chiếc trống đồng này thì ngụ ý Cửu Cung của Hà đồ - Lạc thư với các con số từ 1.. 10, với 10 là con số kết thúc của Hà đồ, vậy thì sự trùng hợp chọn mặt trời tâm trống 10 cánh phải chăng không phải là ngẫu nhiên?. - Trực đêm 29 (con số diễn tấu tính toán tương tác của mặt trăng) nấu bánh chưng, sáng 30 vớt ra và chuẩn bị cúng Giao thừa trừ tịch tức kết thúc 1 năm cũ bắt đầu 1 năm mới, sáng mùng 1 Tết đốt pháo, tất cả được diễn họa qua con số 10? Truyền thống dân gian nấu bánh chưng đêm 30. - Nếu có đầy đủ bản vẽ chi tiết của chiếc trống này chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn.
-
4 câu hỏi về họ hàng mới của loài người Phát hiện về họ hàng mới của loài người mang tên Homo naledi (H. naledi) trong một hang sâu ở Nam Phi làm dấy lên nhiều câu hỏi xung quanh sự tồn tại của họ. 1. Điều gì khiến loài H. naledi có đặc điểm cơ thể khác biệt? Chân dung mô phỏng người Homo naledi do họa sĩ John Gurche phục dựng từ ảnh quét các bộ xương. (Ảnh: Mark Thiessen/National Geographic). Trước đây, phần lớn các nhà nhân chủng học tin rằng kích thước não bộ và khả năng sử dụng công cụ gắn liền với sự thu nhỏ của răng, chế độ dinh dưỡng tốt hơn, cơ thể lớn hơn và chân dài hơn. Theo quan điểm này, những biến đổi ở cơ thể người nguyên thủy là kết quả từ việc thay đổi hành vi, gây ảnh hưởng đến chế độ ăn và bộ não, H.naledi là trường hợp ngoại lệ. Loài này có răng và tay nhỏ phù hợp để chế tạo công cụ nhưng cũng sở hữu bộ não nhỏ. Ngoài ra, H. naledi còn có đôi chân dài và bàn chân giống con người nhưng vai và các ngón tay có thể giúp leo trèo hiệu quả. Hình dáng cơ thể phác họa từ các mảnh xương của H. naledi (phải) đặt bên cạnh các loài khác như H. erectus (giữa) và australopithecines (trái). (Ảnh: National Geographic). 2. Loài H. naledi xuất hiện từ bao giờ? Nếu H. naledi có niên đại hơn hai triệu năm, loài mới sẽ cho thấy diện mạo sớm nhất của chi Người. Nếu họ xuất hiện cách đây gần một triệu năm, có thể suy ra vài nhóm người nguyên thủy khác nhau sinh sống đồng thời ở phía nam châu Phi, bao gồm người não nhỏ H. naledi. Các nhà nghiên cứu khám phá hốc sâu trong hang đá vôi Rising Star, nơi lưu giữ hơn 1.500 hóa thạch của loài mới. (Ảnh: National Geographic). 3. Tại sao người H. naledi vào được hốc Dinaledi trong hang đá vôi Rising Star? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Nghiên cứu địa chất chỉ ra hốc Dinaledi luôn nằm khuất trong bóng tối, và đường tiến xuống đó rất phức tạp, đòi hỏi phải xác định phương hướng giữa địa hình hiểm trở. Điều này cho thấy H. naledi có thể đã mượn ánh sáng của ngọn lửa để dẫn đường trong hang động. Một bộ xương của người H. naledi đặt giữa hàng trăm mẫu hóa thạch khác lấy từ hang Rising Star. (Ảnh: National Geographic). 4. Tại sao có nhiều bộ xương người H. naledi trong hốc Dinaledi? Câu hỏi này có ý nghĩa quan trọng. Nghiên cứu chỉ ra những bộ xương còn nguyên vẹn. Chúng có thể chìm lắng sau thời gian dài và bị đẩy vào hốc chứa nhưng cách chúng ta tiến xuống ngày nay. Nhóm nghiên cứu chưa tìm ra bằng chứng cho thấy các bộ xương là kết quả sau khi người H. naledi ngã xuống hang, bị dã thú tấn công hoặc thảm sát hàng loạt. Nó chỉ ra có thể người H. naledi tiến vào hang với ý định chôn cất xác chết ở hốc tối. Nguồn: Khoa học Phát hiện những mảnh xương cổ trong hang động núi Altai có thể là những mắt xích bị khuyết để hiểu về người gốc loài người. Các mảnh sọ và xương sườn của người có niên đại sớm được phát hiện trong các tầng có niên đại thế Pleistocence ở hang động Strashnaya. Thông tin được thông báo bởi Giáo sư Andrey Krivoshapkin, người đứng đầu về Khảo cổ học và Dân tộc học ở Đại học Novosibirsk. Các mẩu xương này được cho là không muộn hơn 50,000 năm cách ngày nay, dẫn theo lời GS. Andrey Krivoshapkin. Một mảnh khác có niên đại ít nhất là 35,000 năm cách ngày nay là một mảnh xương bàn tay-một mẩu xương ngón tay. Cảnh khai quật trong hang động ở thung lũng Altai “Năm nay may mắn là chúng tôi đã đào trúng”, GS. Andrey Krivoshapkin nói như vậy. “Trong khi làm việc ở các tầng thuộc thế Pleistocence có niên đại từ 35,000 tới 40,000 năm cách ngày nay, chúng tôi đã tìm thấy một mảnh xương ngón tay” và “khai quật sâu xuống các tầng cổ hơn là một mảnh sọ và thậm chí là mảnh xương sườn mà chúng tôi thực sự tin tưởng đó là xương người”. Vị giáo sư cũng nói thêm rằng, trong một quan niệm mang tính toàn cầu chúng ta đã có mảnh xương ngón tay thuộc về người hiện đại, chứa đựng gen của cả người Neanderthal và người Denisovan, và những phát hiện cổ hơn (mảnh sọ) thuộc về người Neanderthal, và mảnh cổ nhất - xương sườn là của người Denisovan”. Tuy nhiên, ông ấy cũng lưu ý: “Ngay bây giờ, đó chỉ là những ý nghĩ kỳ quặc của tôi. Vì chúng ta biết, kết quả phân tích có thể đưa ra các kết quả hoàn toàn không ngờ. Nhưng dù kết quả có là gì đi chăng nữa, những chứng cứ đó sẽ giúp chúng ta hiểu được những mối giao lưu của những người hiện đại, người Neanderthals và người Denisovan ở khu vực Altai.” Hang động này tọa lạc bên tả ngạn của sông Inya, khoảng 2,5km về phía bắc của làng Tigiryok ở khu vực Altai. Các cuộc khai quật được tiến hành sớm hơn trước đó đã phát hiện được rất nhiều loại hình công cụ đá, đồ đồng, đồ sắt và đồ gốm ở giai đoạn trung kỳ. Hang Strashnaya (Scary), thung lũng Altai Denisova đã là ngôi nhà qua nhiều thiên niên kỷ của cả người Neanderthals và tổ tiên của người hiện đại của chúng ta. Năm 2008, tại khu vực này phát hiện được mảng xương bàn tay của một phụ nữ trẻ đã sống vào khoảng 41,000 năm cách ngày nay và đã cho thấy rằng, cô ấy có tất cả những gen riêng biệt của cả người Nanderthals và những người hiện đại. Đây là họ người mới mà trước đó chúng ta đã không biết đến hoặc một phân loài-đã tuyệt chủng từ lâu được đặt tên thánh là người Denisovans sau tên của hang động này. Một kết luận từ nghiên cứu về những mảnh xương thời tiền sử này là một loài riêng của chúng ta, Homo sapiens thi thoảng cũng đã có sự gặp gỡ với cả người Neanderthals và người Denisovans. Nguồn: http://www.ancient-origins.net (Dịch: Phạm Thanh Sơn)