hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Chào Nhật Tâm + Trên trống Đồng Đông Sơn, quỹ đạo của Mộc Tinh và Thổ Tinh đều được chia vạch (tương tự trên trống đồng Phú Phương), đây tượng trưng cho việc chia ngày, tháng, năm dựa vào quỹ đạo hai hành tinh này. + Trên trống Đồng Đông Sơn, quỹ đạo của Mộc Tinh và Thổ Tinh được ghép sát nhau chứng tỏ nó liên hệ đặt biệt mật thiết với hệ lịch. Cần phải dựa vào quỹ đạo cả hai hành tinh để làm ra lịch vậy. Hình 17: Trống Đồng Đông Sơn - Việt Nam Chúng ta chú ý số vạch của các quỹ đạo hành tinh đềm hướng tâm mặt trời, số lượng vạch của mỗi vòng tròn là mức độ chính xác quan trắc phương vị nhiều hơn 1 độ / 360 độ là do quan trắc chu kỳ sao Mộc 12 năm dài và nội suy tương ứng các hành tinh khác?. Gia hội Mộc Thổ là cơ sở quan trắc Ta thấy trạm quan sát là Trái đất, Trục quy chiếu là Giao hội Mộc Thổ và quán xét các hành tinh khác (dĩ nhiên có quan trắc Xuân Hạ thu Đông) trong khi các hành tinh đều vận động, vì vậy không thể nhận biết được chính chu kỳ quay của Mộc tinh và vì vậy theo Hoangnt phải có một trục quy chiếu khác cố định trong không gian. Như vậy có thể thấy Mộc tinh và Thổ tinh lần lượt sinh 5 hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Hành mộc sinh đầu tiên có sự cộng hợp mạnh nhất và Mộc tinh có vai trò quan trọng việc hình thành ngũ hành vì vậy đặt nó trùng với phương mặt trời mọc thể hiện sự khởi đầu, sự sinh sôi. Hành Kim được đặt đối diện ở hướng tây do cùng cặp có sự biến thiên lực hấp dẫn lớn (mức độ thay đổi ảnh hưởng). Hành thủy và hỏa bố trí đối nhau, hành hỏa ở phương nam để đảm bảo nhất quan cùng chiều của vòng tương sinh và vòng vận khí và theo chiều dương quy ước của lý học Đông phương. Cách bố trí như vậy không hề làm mất tính tổng quát và không đưa thêm tham số hướng, thời gian vào trong Hà đồ. Khi độ số 5 đã ở vị trí trung tâm thì 1 đến 4 số 3 là số Dương lớn ứng với Mộc. Kim cặp bài trùng tương khắc với Mộc phải mang số Âm mạnh là 4 (điều này phù hợp với độ biến thiên lực hấp dẫn của Kim tinh nhiều hơn Mộc tinh – xem tiểu luận 1). Số 1 và 2 dành cho cặp bài trùng yếu Thủy - Hỏa vậy nên dành số 1 cho thủy ở phương được an vị ở phương bắc là phù hợp: Thủy tinh có độ biết thiên lực hấp dẫn nhỏ nhất, ít ảnh hưởng nhất và nó cũng là hành tinh đầu tiên tính từ mặt trời ra. Trong nhiều nền văn hóa người ta cho rằng Sao hỏa và sao Kim có ảnh hưởng không tốt (như Mộc và Thủy) cho con người gán cho số âm. Mộc và Thủy ngược lại ảnh hưởng tích cực nên mang số dương vậy. Tiếp theo là phép cộng số học thuần túy (đương nhiên là người xưa có lý lẽ riêng cho phép cộng này). Điều thấy rõ nhất là việc tạo ra hai sự cân bằng âm dương cho độ số của các hành. Thổ (5, 10); Kim (4, 9); Thủy (1, 6); Mộc (3, 8); Hỏa (2, 7). Chính nguyên nhân này mà Hà đồ có số 10 còn Lạc thư thì không. Hành mộc ở Phương Đông Bắc; Đông có thể là nơi thấy sao Mộc rõ nhất hoặc xa nhất tại thời gian của địa chi (tương tác mạnh nhất tới trái đất do gần nhất?), nên xem lại bởi chương trình thiên văn và cũng đúng với đặt nó trùng với phương mặt trời mọc thể hiện sự khởi đầu, sự sinh sôi. Tương tự cho các hành tinh khác. Lực hấp dẫn chắc người xưa chưa hiểu mà dùng quan niệm khác tương đương. Ta đang quán xét Trái đất do vậy các hành tinh bố trí như trên do vị trí Trái đất nằm giữa sao Thủy, Kim và Mộc Thổ Hỏa. Như vậy phải xem xét tương quan của cả mặt trời so với các vị trí này?. Ví dụ Kim đối Mộc thuận vòng tương sinh tương khắc: tạo tương tác tổng hợp Mặt trời - Kim - TRÁI ĐẤT - Mộc... Nhật Tâm có thể chỉ ra bằng hình ảnh vị trí các hành tinh để gắn ĐỘ SỐ không. Ngoài ra có thể giải thích nội dung chính của việc tạo ra lịch Can chi với 10 Can do các yếu tố nào. Thanks.
  2. Thực sự là thời gian, không gian và vật chất đã được quy về chung trong 1 hệ thống can chi, phương vị trên nền tảng là các quy luật đã được xác định từ thực tế quan sát và đo đạc. Tất cả chúng thống nhất trong Một. Ngay cả việc định lượng chúng về mặt tổ hợp cũng như tách biệt cũng được xác định chính xác trong một số lãnh vực. Chúng hiện đang tính chính xác ở mức độ giờ nói chung, còn Đông Y thì chưa rõ lắm là thời khắc nhỏ nhất là?
  3. Trích: Đạo: Là điểm tựa của Vũ Trụ, là chỗ Dựa của kiếp nhân sinh. Thái cực và âm dương: Trí cao tới đâu thì hiểu được tới đó. Nội dung mà Bác Vui Vui viết thật tuyệt vời, trải qua thực tế rồi mới thấy rõ. Tuy nhiên xung quanh ta còn có rất nhiều mối quan hệ ràng buộc phức tạp trong cuộc sống của mỗi con người mà ngay cả người hiểu và áp dụng được Đạo cũng phải tuân theo chúng đó ngay cả khi không muốn. Theo Hoangnt thì Đạo được xây dựng từ sự phát hiện có sự thống nhất trong tự nhiên và xã hội theo quy luật và ngay cả việc ta cảm thấy sợ hãi từ sự nhỏ bé và mong manh của kiếp nhân sinh. Đạo xuyên suốt từ điểm tựa tinh thần bằng triết lý và thực tiễn (ví dụ thờ người có công với nước, thờ ông bà...) cho tới tham gia trực tiếp ngay cả vào việc xây dựng cơ cấu quản lý xã hội chính từ học thuyết âm dương ngũ hành, cụ thể nhất vào trong triết lý giáo dục cho trẻ từ ngay tấm bé, nếu lớn rồi thì khó lắm vì mải lo kiếm sống. Chính vì các Vua Hùng đã xây dựng được một 'Chuỗi Đạo', cho nên dân tộc mới không bị đồng hóa gần 1000 năm Bắc thuộc trong đó có 'Đạo không sợ trước cái chết' vì tổ quốc. Trân trọng.
  4. Khổ và đau đầu lắm các Bác ạ. Nước ta thuộc loại nghèo nhất thế giới nhưng sữa cho trẻ em và các cụ già lại đắt nhất thế giới, chưa kể toàn bộ các vật phẩm, dịch vụ khác cũng thuộc loại Top Ten của thế giới luôn. Dịch vụ y tế thì kinh hoàng, cứ thử ra mua thuốc xem, khủng lắm. Mất phương hướng rồi, không theo Đạo nào tất, chiến lược dài hạn thường xuyên cập nhật theo từng can chi của thời, đọc xong chả hiểu muốn nói gì, toàn tương lai tít mù. Pó tay rồi, ngày càng mất niềm tin thôi.
  5. - THIÊN VIỆT Có một cuốn sách viết về Thước Lỗ Ban và dạy cách sử dụng. Theo đó thì cây thước này có độ dài 53cm chia làm 8 cung. Tính mỗi cung có hơn 6,5cm lại chia thành 5 trù, mỗi trù dài đúng 1cm. Khi đo bắt đầu đặt cây thước vào mí mép bên trái rồi đo lần sang mép bên phải. Luôn luôn phải đặt cung số 1 tức cung Quý Nhơn nằm tay trái, rồi đo lần tới chỗ nào thì coi lời giải sẽ thấy tốt xấu, kiết hung. Tám cung kiết hung được gọi như sau : - Cung đầu là Quý Nhơn, hành Mộc là cung Tốt - Cung thứ 2 là Hiểm Họa, hành Thổ là cung Xấu. - Cung thứ 3 là Thiên Tai, hành Thổ là cung Xấu. - Cung thứ 4 là Thiên Tài, hành Thủy là cung Tốt. - Cung thứ 5 là Nhơn Lộc, hành Kim là cung Tốt. - Cung thứ 6 là Cô Độc, hành Hỏa là cung Xấu. - Cung thứ 7 là Thiên Tặc, hành Hỏa là cung Xấu. - Cung thứ 8 là Tể Tướng, hành Thổ là cung Tốt. Trong 8 cung trên như đã nói, mỗi cung lại chia thành 5 trù trong đó từ đại kiết đến thứ kiết, hoặc đại hung đến thứ hung. Đó là cách đo nhà đã xây dựng, nếu chưa thì quý vị đo tới chỗ cung tốt và hạp thì dừng lại và ấn định kích thước nơi sẽ xây dựng. Ngoài việc tính kích thước ngôi nhà, chủ yếu còn phải tính kích thước của cửa chánh, cổng nhà – nếu có – (cửa ra vào còn gọi huyền quan). Nếu nhà đã xây dựng, không may gặp cửa xấu không đúng với thước Lỗ Ban, nên sửa chữa lại để gia đình làm ăn phát đạt theo như ý muốn. Thế nhưng khi đem 53cm chia cho 8, số thành là 6,5cm, lại chia cho 5 trù, số thành là 1cm thì sai số quá lớn. Cho nên thước Lỗ Ban này không được mọi người tin dùng. Bởi từ đời nhà Chu (257 năm trước Công nguyên) con người đã biết dùng Chỉ và Phân theo hệ thống Bát Phân để làm đơn vị đo chiều dài. Một Chỉ dài 0,408 mét, có 8 Phân, nên một Phân là 0,051 mét. Về sau từ con số đơn vị của Phân là 0,051 nhân cho 10 theo hệ thống Thập Phân, thành con số 0,51. Cái thước dài 0,51m hay 51cm lâu ngày trờ thành thước Lỗ Ban. Hơn 2000 năm sau, các nhà Cơ Lý Học mới tìm ra được tần số của ngoại âm là 4,9 từ đó suy ra đơn vị thời gian là 1 sec / 4,9 = 0,20408. Biết được đơn vị thời gian, các nhà toán học tính ra được Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu là 40,8 bằng cách lấy 980 nhân với bình phương của đơn vị thời gian: 0,20408. Con số 0,408 chính là đơn vị Chỉ của nền văn minh Thái cổ cũng chính là Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu tương đương với 2 lần trị số của đơn vị thời gian. Như vậy thước Lỗ Ban người xưa sử dụng để đo chỉ có độ dài 51cm, phát xuất từ cơ sở tính toán của nền Văn minh Thái Cổ. Và thước Lỗ Ban dài 51cm được chia thành 8 cung bằng nhau. Mỗi cung lại chia thành 5 trù. Như vậy 8 cung là số của Bát Quái, cũng là thứ tự của hàng đơn vị từ 1 đến 8 thuộc hệ thống Bát Phân. Còn 5 trù nhỏ thuộc Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.
  6. Cảm ơn Thầy. Trong cuốn 'Dương trạch thập thư, trong phần nói đến Môn Quang Tinh có 30 chữ như sau: 'Thiêm thiêm tiêu, tạc dạ vũ lâm ly, vũ quá trường sa mãn động đình, đảo tại giang hồ lưu bất tận, đắc trừng thanh xứ, thị diệc trần thanh'. 30 chữ này tương ứng với 30 vị trí trong sơ đồ hung cát Môn Quang Tinh. Tháng đủ dùng 30 chữ, tháng thiếu dùng 29 chữ bỏ chữ Tiêu. Thước Lỗ Ban còn gọi là thước Môn Quang Tinh dài 45.4cm. (Trích từ sách thước Lỗ Ban) Kính nhờ Thầy và các ACE hướng dẫn. Trân trọng.
  7. Kính chào ACE diễn đàn. Kính nhờ ai có thể giải thích các nguyên lý lập ra thước Lỗ Ban dùng trong Dương trạch không. Thanks.
  8. Chào Nhật Tâm Đồ hình bát quái nguyên thủy đã được chứng minh hoàn hảo trong cuốn' Tìm về cội nguồn kinh dịch' của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh chính là Hậu thiên bát quái đổi chỗ Tốn Khôn và phối hợp với Hà đồ. Dĩ nhiên một phần chứng minh rất quan trọng đó là kết quả thiên văn học. Nếu xác định rõ quy tắc trên thì việc giải thích Hà độ/ Lạc thư với độ số (hệ quan trắc bởi các nhóm hành tinh quan sát) sẽ dễ hiểu hơn. Việc đưa ra Hệ đa chiều theo thuyết ADNH thì có thể sẽ bao gồm sự kết hợp giữa Chiều thời gian kết hợp (thuộc tính vật chất + thời gian) và không gian kết hợp (không gian + thuộc tính vật chất). Việc nghiên cứu thiên văn trên trống đồng sẽ không tách rời việc nghiên cứu Âm lịch và sự vận hành có quy luật của các hành tinh trong hệ mặt trời, từ đấy suy ra được nguyên lý phi tinh (Lường thiên xích) để xem xét tương tác tới vùng trên trái đất hay cho một con người cụ thể. Việc phi thuận và phi nghịch của chúng cũng phải cần được xem kỹ lại. Thân mến.
  9. Kính chào Bác Lãn Miên, Bác có thể vui lòng cho diễn đàn biết các nội dung còn lại của bản Ấu học Quỳnh văn để học hỏi thêm ạ. Chân thành cảm ơn Bác nhiều. Hoangnt
  10. Theo phân tích ở trên thì khả năng bát quái đồ là chỉ duy nhất, ta xem xét ở khía cạnh tổng thể như sau: - Bát quái đồ là hệ quả của Hà đồ và Lạc thư và là ký hiệu cho sự vận động ngũ hành theo quy luật trên Hà đồ. - Nếu chấp nhận có Tiên thiên đồ và Hậu thiên đồ thì giải thích như như thế về khía cạnh: + Thời gian trước sau của hai Đồ? và mục đích gì? chứng minh mục đích theo quy luật dựa trên thuyết âm dương ngũ hành? sự khác nhau giữa phương vị Quái của hai Đồ? + Nếu Tiên thiên đồ là Khởi đầu vũ trụ theo sau Thái cực; Hậu thiên đồ là sự vận động âm dương ngũ hành sau sự khởi đầu trên thì sự kết thúc nằm ở đâu tức phải có Hạ Thiên Đồ và nó được biểu diện như thế nào? Để giải quyết các vấn đề trên thì đảm bảo là hoàn toàn bất khả, nếu ai đó cố gắng đi tìm nguyên nhân khác nhau giữa Tiên Thiên đồ và Hậu Thiên đồ thì sẽ không bao giờ tới đích vì không ai dùng một Phần của Quy luật để giải thích Quy luật được cả. Như vậy để giải thích tất cả các vấn đề nêu trên thì phải dùng chính thuyết Âm dương Ngũ hành và các nguyên lý của nó như sau: Nếu đã có khởi đầu thì thì phải có kết thúc trong quy luật tức quy luật Sinh Vượng Mộ, vì vậy Tiên - Hậu - Hạ đồ cũng phải nằm trong quy luật này, do đó tự thân chúng phải nằm trong thuyết trên. Suy ra chỉ có một Đồ hình mà thôi. Ghi chú Đồ hình này không tách rời Lạc thư, Hà đồ, chúng là 1 thể thống nhất. Như vậy tên gọi gốc là gì? Có thể là từ người sáng tạo ra nó hoặc dân tộc đã sáng tạo ra nó? Vậy thì đó có thể là Phục Hy Bát quái hoặc Bát quái Hà Lạc. Tuy nhiên Hoangnt thiên về BÁT QUÁI LẠC VIỆT (Có chú thích người sáng tạo ra nó). Chỉ có 1: BÁT QUÁI LẠC VIỆT MÀ THÔI VÀ ĐỒ HÌNH LÀ KẾT HỢP GIỮA BÁT QUÁI GỐC VÀ HÀ ĐỒ. Vì vậy chỉ có câu: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Vạn vật: còn kết thúc không nói gì. Rất phù hợp thực tế là vũ trụ đang giãn nở mãi mãi. Thân mến.
  11. Như vậy công thức bát quái sẽ là bắt buộc phải có sau Hà đồ và Lạc thư và là ký hiệu cho sự vận động ngũ hành của Hà đồ mà thôi. Ngũ hành trong Hà đồ cũng là một thể thống nhất cho nên sẽ tương ứng được cân bằng âm dương. Nếu cân bằng âm dương thì lại được cân nhắc ở khía cạnh thuộc tính ngũ hành rõ ràng là quy luật. Từ sự cân bằng này ta cân nhắc tên quái cho đặc tính sự vật, hiện tượng bao quát cho chính các hành của Hà đồ. Sẽ phân tích và chọn lựa bát quái gốc tiếp tục. Thân mến.
  12. Như vậy ta cũng có thể suy luận rằng: - Khả năng chỉ có 1 công thức bát quái là ký hiệu của siêu công thức của học thuyết âm dương ngũ hành: Tiên thiên đồ hoặc trụng thiên đồ hoặc hậu thiên đồ hoặc 1 bát quái na đấy khác. - Nó phải được xem xét trên quan niệm ban đầu là thiên văn và địa lý tức phải phối hợp xem xét với Hà đồ là quy luật vận động ngũ hành, dĩ nhiên cũng xem xét đến Lạc thư trong mối quan hệ hữu cơ. - Nó được xem xét trong mối quan hệ âm dương giữa các hiện tượng tự nhiên đặc trưng và bao trùm sự vận động của sự vật, hiện tượng trên trái đất nhất và mang tính chu kỳ như là mặt trời, mặt trăng... - Nếu là trống đồng mật mã thì có khả năng chỉ ra học thuyết ADNH, Âm lịch của trái đất, quan hệ lịch giữa các hành tinh quy chiếu tới trái đất... - Việc xác định chính xác công thức trên từ Âm lịch! dĩ nhiên phải được phối hợp trong sự vận động quy luật của các hành tinh trong hệ mặt trời và ta sẽ thấy công thức gốc của Phi tinh (tạm thời hiểu vậy). - Việc chọn thời điểm khởi đầu làm gốc trong chu kỳ vận động hệ mặt trời có thể theo các sách là các hành tinh trùng nhau trên một đường thẳng thì quá chuẩn tuy nhiên đã là chu kỳ thì thời điểm đặc biệt nào đấy đều có thể gọi là mốc chuẩn nếu xác định các ràng buộc cụ thể. Thân mến.
  13. Bát quái là ký hiệu của siêu công thức của học thuyết âm dương ngũ hành nên nó phải lý giải được quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Nền tảng đầu tiên chính là quy luật tự nhiên (tự nhiên- xã hội-tư duy) thông qua sự vận động có tính chu kỳ thời gian như ngày đêm; xuân hạ thu đông hàng năm của trái đất, lạc thư hoa giáp 60 năm trong quan hệ với các hành tinh của hệ mặt trời; trong quan hệ với hệ sao tử vi... Quái cũng phải mang các thuộc tính âm dương ngũ hành một cách tương ứng nào đấy. Tên quái gốc sẽ có thể thể hiện các ý nghĩa ban đầu như trên và cách thành lập quái cũng phải theo quy tắc tức tự thân chính nó cũng phải được giải thích hợp lý bởi thuyết ADNH. Quy luật vận động của trái đất sẽ được quan trắc thiên văn cũng như các hành tinh khác trong hệ mặt trời và sẽ quy đổi cho nhau nhằm xây dựng quy tắc vận động chung để cuối cùng quán xét là trái đất. Hệ mốc quan trắc là các chòm sao định vị có thể cố định thường xuyên (đang vận động nhưng mắt thường cảm giác là cố định) và nó có thể sẽ là các độ số trong hà đồ và lạc thư theo 2 chiều ngược nhau.
  14. Phương án 1 trông quen quen, gió lộng và vô khí quá. Phương án 2 là quán cafe nào thế.
  15. Chào Nhật Tâm, Ta thấy: - Hà đồ chỉ ra chiều vận động ngũ hành theo thời gian trong không gian. Ví dụ quy luật trái đất quay xung quanh mặt trời, mỗi năm lặp lại chu kỳ xuân hạ thu đông. Như vậy trong mỗi năm sẽ có ít nhất một sự vận động ngũ hành của sự vật, hiện tượng nào đó giả sử tam quán xét sinh vật là đời sống con thiêu thân chẳng hạn. Tương tự như vậy ta có thể chuyển đổi quy luật vận động xung quanh mặt trời của các sao như sao Mộc, Thổ... qua quy luật vận động của trái đất để quán xét các tương tác từ chúng. Đây chính là Huyền không phi tinh. - Thuyết ngũ hành vẫn chỉ ra vai trò trung tâm của hành Thổ và vẫn đang phân thứ tự trước sau ngũ hành theo Hà đồ và vẫn đang hợp lý hóa việc kết thúc ở thổ. Tuy nhiên trong quy luật vận động nhũ hành thì ta phải xem xét chi tiết tiếp hơn cho 1 chu kỳ vận động của một hành (trong mỗi hành có ẩn chứa các hành khác): nó vận động theo quy luật Sinh Vượng Mộ. Như vật kết hợp Hà đồ - Sunh Vượng Mộ - 1 Chu kỳ vận động ngũ hành theo thời gian của trái đất ta sẽ có bàn tử vi trong 12 tháng (Hoangnt chỉ mới hiểu như vậy trong tử vi). Trung tâm bàn tử vi dĩ nhiên là 1 người đang quán xét với các thuộc tính âm dương ngũ hành theo lạc thư hoa giáp. Hoangnt vẫn đang tìm hiểu nguyên nhân và sự khác nhau và ý nghĩa Vòng Tiên thiên và Hậu thiên bát quái. Sách kinh dịch nào cũng thấy nói nhưng đọc chả hiểu gì, tuy nhiên theo Hoangnt thì có thể là quy tắc cân bằng và vận động của 'Khí' nhằm quá xét mối tương quan giữa Khí và Hình (vật chất) hoặc là quy tắc tổng hợp Nhóm các sự vật, hiện tượng có cùng đặc tính. Nhật Tâm từng đọc bài những cuộc hành hóa khai thông huyệt đạo thời nay của bác Dienbatn (http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=6106). Không rõ việc này thực hư ra sao? Theo bài viết miêu tả thì việc chập hai vòng bát quái xoay ngược chiều đã đưa những người chứng kiến rơi vào một không gian hoàn toàn khác. Hai vòng tròn bát quái đồng tâm vân hành ngược chiều sẽ như một mũi khoan “khoan thủng” không gian 4 chiều để nối với không gian cơ sở. Nếu sự việc bài viết miêu tả là có thật thì ta sẽ có một bằng chứng thực nghiệm quan trọng khẳng định sự tồn tại khách quan của không gian cơ sở (cũng chính là không gian vũ trụ mà giả thuyết của lý học phương tây hiện nay đang hướng đến http://www.youtube.com/watch?v=ULlR_pkHjUQ). Theo lý học Đông phương thì có lẽ khái niệm về không gian cơ sở này nằm trong khái niệm về Đạo. Hy vọng Nhật Tâm sẽ may mắn có dịp được tham dự việc giải khai huyệt đạo và cảm nhận không gian cơ sở. Cảm giác có được chắc sẽ tuyệt vời hơn rất nhiều việc bay vào vũ trụ. Hoangnt sẽ đọc tiếp phần này. Tuy nhiên cũng đề nghị các cao nhân diễn đàn cho thêm ý kiến. Trân trọng.
  16. Nội dung này hay thật: Người Mỹ có câu nói: "Ở lứa tuổi 20, ta thường rất quan tâm đến suy nghĩ của người khác về mình. Ở lứa tuổi 40, ta thường mặc kệ ai muốn nghĩ sao về mình cũng được. Cho đến lứa tuổi 60, ta mới khám phá ra rằng là chẳng ai nghĩ gì về mình cả." Phải có Đạo của dân tộc nhằm khơi nguồn tinh thần tự lực, tự cường dân tộc cho mỗi cá nhân. Tiến tới Luật pháp quốc gia rõ ràng và nghiêm minh - Bất vị thân như Mỹ vậy.
  17. Qua một số hiện tượng hiện nay là các nhà ngoại cảm là có thể nói chuyện với 'Người Âm' chứng tỏ là đã có một sự tương tác vật chất giữa 'hai thế giới' cho nên hiện tượng giáng bút viết thơ cũng chỉ là một hiện tượng tương đương mà thôi, tuy nhiên ta chưa tìm ra cơ chế hoạt động trong mối tương tác này. Từ đây ta thấy có một dạng vật chất 'Âm' so với vật chất mà ta dang cảm nhận là 'Dương' có thể phù hợp với học thuyết âm dương ngũ hành chăng?. Có những bài thơ giáng bút rất chuẩn nhưng nội dung ẩn ý rất khó hiểu, phải là người trong cuộc mới thấy rõ và hiểu rất dễ dàng. Nếu có điều kiện sẽ chứng minh sau, chắc chắn chính xác 100%.
  18. Lại có người đi tìm thuốc tiên của Thái Thượng Lão Quân trong thời đại này rồi. Nếu muốn được kết quả tốt thì tối thiểu cũng phải bỏ công sức để luyện linh đan chứ.
  19. Chào Nhật Tâm. Tham khảo sách của tác giả Thiên Sứ là chủ chốt sau đó kết hợp với các sách của các tác giả khác để suy luận thêm. Không rõ tác giả quan điểm này biện luận ra sao về sự cân bằng âm dương ngũ hành trong Lạc Thư khi thiếu mất số 10? Tại sao lại bỏ nó đi? Lạc Thư cũng gặp vấn đề về bình đẳng ngũ hành khi hành Thổ lại đứng ở giữa? Mặt khác Hà Đồ đề cao 2 cặp tương khắc Kim - Mộc và Thuỷ - Hỏa như vậy nếu vận dụng tính toán thực tế thì chọn Hà Đồ hay Lạc Thư? Đúng là rất rất ít sách nào giải thích tại sao vấn đề này là như vậy, tuy nhiên theo Hoangnt hiểu thì: Từ quan sát và tổng hợp thực tế (thiên văn,...) nhận thấy nguyên lý trung tâm tức hành tinh quay xung quanh mặt trời (hệ mặt trời); trái đất chứa tất cả các hành; sự vận động của các hành trên quả đất sau khi diệt đêu trở về đất... Thổ nằm ở trung tâm và là nơi kết thúc các hành (Mộ) trong quy luật Sinh Vượng Mộ. Sau đó kiểm tra lại học thuyết bằng thực tế qua thực nghiệm, so sánh, đối chiếu... Như vậy Lạc thư có thể không cần số 10 mà chỉ Hà đồ tức quy luật vận động ngũ hành ma ta đang quán xét cần phải có sự kết thúc (Mộ) ở hành Thổ nên hình thành độ số (10). Nhật Tâm nên nghiên cứu sự khác nhau và ý nghĩa Vòng Tiên thiên và Hậu thiên bát quái? để cùng tìm hiểu xem vai trò của chúng trong học thuyết ADNH được giải thích như thế nào. Thân mến.
  20. Chào Nhật Tâm, - Hà Đồ và Lạc Thư được xây dựng dựa vào sự vận động của các hành tinh trong hệ mặt trời và các chòn sao các tương tác ảnh hưởng tới trái đất mà khả năng giới hạn của người Việt cổ cho phép. Đã có cân bằng âm dương ngũ hành theo Hoangnt là phù hợp. - Lạc Thư là vòng tương khắc của Ngũ hành và Hà đồ là ngược lại tức tương sinh. Từ đó khi ứng dụng bắt buộc phải dùng Hà đồ bởi vòng tương sinh là quy luật vận động của vũ trụ trong đó tương khắc là duy trì tính cân bằng động (chú ý vũ trụ đang giãn ra mãi mãi nên gọi là cân bằng động). - Nếu thấy cơ sở thiên văn hiện đại vào giải thích được thì very ok tuy nhiên chắc sẽ vấp vải rào cản thứ hai đó là giải thích sự khác nhau về phương vị của một số quái trong Tiên thiên và Hậu thiên và lý giải sự logic trong thuyết ADNH về Tiên thiên một cách hợp lý. Thân mến.
  21. Cùng để mọi người tham khảo: PHÁT TÍCH SINH TỤ CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ VÀ NHỮNG NGƯỜI HỌ ĐỖ 5000 NĂM TRƯỚC THEO NGHIÊN CỨU CỦA PGS ĐỖ TÒNG (1) Qua các tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) với các chứng tích mồ mả, miếu mạo, đình chùa,....mà tác giả đã nghiên cứu tìm hiểu, bước đầu có thể suy nghĩ là: Nơi phát tích sinh tụ của người Việt cổ chủ yếu là từ các vùng núi đồi, nơi gặp nhau các dòng sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã... trải dài xuống các vùng châu thổ đồng bằng đã hình thành lúc đó mà tập trung ở các miền chân núi Ba Vì, Tam Đảo,...xuống vùng đồng bằng Hà Tây...Nơi định đô của các vị Tổ đầu tiên của người Việt Cổ có thể thuộc vùng Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ... ngày nay. 1). Đế Hoà,, tức Hoà Hy hay còn gọi là Hy Thúc, Hy Hoà, Hy Hoà là bố đẻ của Phục Hy. Cụ Hy Thúc là nhà thiên văn thuyết âm dương, làm ra lịch âm Việt Nam(2). Vợ của Hoà Hy là Nữ Hoàng Anh, hiệu Diệu Quang Minh. Mộ hai cụ ở thôn Thượng Lao, xã Thượng Vực, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện nay. 2). Phục Hy (vua cả), đạo hiệu là Hư Không Giáo Chủ Đế Thiên Phục Hy định đô ở vùng thuộc Hà Tây hiện nay, nơi có bốn mùa hoa trái xanh tươi, là một trong những nơi phát tích sinh tụ, định đô của người Việt cổ. Cùng với bố là Đế Hoà, Cụ đã lập ra Kinh dịch đầu tiên. (Kinh dịch Phục Hy, NXB Khoa học Xã hội, 1997). Cụ mất Mồng 4 tháng Tư nhưng thường giỗ lệ vào mồng Một tháng Tư ở miếu Hy Sơn (đồi chùa Tây Phương). Vợ Phục Hy là cụ Trinh Nương, hiệu Diệu Thái tử. Hai Cụ sinh ra vua Thần Nông. Mộ hai Cụ ở khu mộ cổ, bên cạnh miếu xóm Đồng, xã Tiên Phương. Chương Mỹ, Hà Tây. Tục truyền đây cũng là nơi mộ Phục Hy và 14 người giúp việc (phù tá) bị Hiên Viên giết. 3). Vua Thần Nông , là con Phục Hy, bị đuổi về chợ Rồng Đất, Chương Mỹ, sau khi Hiên Viên làm phản, đi cùng với cụ Hoà Hy (ông nội). Sau nhờ các sơn quân đánh đuổi Hiên Viên, Thần Nông lên trị vì. Mộ ở phía tây đình Sở Khê, miếu thờ ở Tiên Sơn (Tiên Lữ, làng Sở). Vợ cả của vua Thần Nông có miếu thờ ở làng Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Tây. Ngày giỗ 29 tháng Chín. Hai Cụ sinh ra Tiên Đế-Đế Tiết Vương. 4). Tiên Đế - Đế Tiết Vương và vợ là Nữ Hoàng Vân, hiệu Diệu Lan, mộ và miếu thờ ở Gò Sở, Quang Lãm, Thanh Oai. Cụ sinh ra đời thứ 5 là Sở Minh công. 5). Đế Quý Công hay là Đế Thừa Sở Minh công là cháu của vua Thần Nông. Cụ đứng đầu 9 bộ lạc (gọi là Cửu Long hay Cửu Chân Chính. Toà tượng Cửu Long ở chùa Việt Nam là biểu tượng 9 ông tổ của dòng người Việt. Mộ cụ ở Gò Ruối, Quang Lãm. Cùng với Bà cả là Đại Nương, hiệu Diệu Diên, sinh ra Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Bà Hai, tên là Mỹ Lăng, hiệu Diệu Lan. Ở Gò Ruối, Quang Lãm, Thanh Oai, Hà Tây có miếu thờ và các mộ: Đế Quý công - Đế Thừa Sở Minh Công; Đế Thủ; Đế Trạch và cụ bà Đại Nương. (Trong phả cũ có chỗ ghi rất gọn một câu và thường không thấy nói đến trong các tài liệu khác, một vị là Đệ tam thúc phụ Nguyễn Nỏ, quan Thái sư.? (Đây chính là con thứ 3, con út của Sở Minh công. (Đ.T) tức Lý Long Cảnh hay ông Ba Đại vương). Cụ Sở Minh Công cùng ba con và em thu phục 72 bộ lạc, lập nước Xích Quỷ. Sau khi dẹp loạn thu phục 72 bộ lạc, các động chủ, sơn quân tôn vinh Cụ là Chủ trưởng. 6). a. Nguyễn Minh Khiết, hiệu Thái Khương Công hay Khương Thái Công, tức là Đế Minh (cháu 4 đời của Thần Nông). Sau khi nối tiếp cha làm chủ 72 bộ lạc, Cụ giao quyền cho con trưởng (Kinh Dương Vương), về nơi Phục Hy ở quê cũ (vùng làng Sở), sau Cụ về ở với bà Hai ở Khương Thượng và mất ở đấy. Mộ Cụ ở làng Đình Công (có chỗ nói là Khương Thượng), gần Đền thờ. Giỗ Cụ ngày 2 tháng Hai âm lịch tại Khương Thượng (nay thuộc Hà Nội). Miếu thờ cụ Đỗ Quí Thị Gò Thiềm thừ Bia con cóc Cụ Bà, Đỗ (Quý thị), húy là Ngoan, còn gọi là Công chúa Đoan Trang. Tục truyền Cụ là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch(3) vùng Nghi Tàm (cụ Long Đỗ về sau còn được gọi là Thần Bạch Mã, một trong tứ trấn Thăng Long thành, thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội). Cụ Bà họ Đỗ tu theo đạo Sa Bà, đạo của Đế Thiên Phục Hy Hư Không giáo chủ cách đây khoảng 5.000 năm. Cụ sinh mồng 8 tháng Tư âm lịch, hoá ngày 15 tháng Bảy âm lịch ở Nội Tích, Đại Lôi (Ba La). Mộ táng ở Ba Lôi trong chùa Bồ tát Đa tát, Ba La. Dân thờ cụ ở chùa Đại Bi. Tên hiệu của Cụ là Tín Thiền Sư, Hương Vân Cái bồ tát. Hai Cụ sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương, còn gọi là Vua cha Ngọc hoàng Thượng đế). Miếu thờ Cụ ở làng La Cả, La Khê (gần Ba La). Cụ Đỗ Quý thị có 8 người em trai là Bát Bộ Kim Cương(4). Mộ 8 vị này ở gò Thiềm Thừ (nghĩa là gò Con Cóc) vùng Ba La. Trước kia còn miếu thờ tám vị trên ở gò Thiềm Thừ (Con Cóc) vùng Ba La và có hai bia đá hình trụ (cao trên 1 mét, trụ 4 mặt, mỗi bề rộng 40cm, đỉnh trụ có một con cóc ôm quả cầu). Bốn mặt bia trụ có bài minh gồm 4 câu chữ Hán, đã được La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp dịch năm 1789 (theo ý): - Phương phần bảo vật - Vạn cổ nghiễm nhiên - Chi hạng lưu hương - Thiên thu trường tại Dịch: Lối cũ dấu thơm Nghìn xưa vẫn đó Cây to báu vật Muôn thuở còn đây. Hai bia này hiện còn ở làng Cự Khê, Cự Đà, Thanh Oai, Hà Tây, sát bờ sông Nhuệ. Tám vị Bát Bộ Kim Cương (cũng được tôn vinh thêm hai chữ Bồ Tát)(5) - Đỗ Xương, hiệu là Thanh Trừ Tai Kim Cương - Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thần Kim Cương - Đỗ Kỹ, hiệu là Hoàng Tùy Cầu Kim Cương - Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thủy Kim Cương - Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương - Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương - Đỗ Bích, hiệu là Từ Hiền Thần Kim Cương - Đỗ Trọng, hiệu là Đại Lực Thần Kim Cương b. Cụ Nguyễn Nghi Nhân tức Đế Nghi (em sinh đôi với cụ Nguyễn Minh Khiết, tức Đế Minh) được giao cai quản đất Ô Châu, lấy tên quê làng Sở đặt tên cho đất này là đất Sở (hay là nước Sở), sau thuộc Trung Quốc. Cụ mất ở nước Sở (Sở Hùng Thông), gần hồ Động Đình. Thi hài Cụ được đưa về quê cùng với một số các con cụ, trong đó có Đế Lai. Mộ để ở Khương Thượng. Cụ, anh và em Cụ hiện có tượng ban thờ ở chùa Sùng Nghiêm (Vân Nội). Đế Lai sinh ra Âu Cơ (vợ Lạc Long Quân). Một số con cháu Đế Nghi còn ở nước Sở là: Đế Ai, Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí.... Thiên Cổ miếu ( Miếu Hy Sơn) ở đồi Chùa Tây Phương. Theo truyền lại, đây là nơi thờ Phục Hy Đình thờ Lý Lang Công Mộ Kinh Dương Vương Đình thờ Lạc Long Quân c. Cụ Nguyễn Long Cảnh (em cụ Đế Nghi) còn gọi là Lý Nỏ Ba Công, Lý Lang Công, Ba Công đại vương, được giao làm chủ đất Chân Lạp, Hồ Tôn, Ai Lao, nhưng không làm, mà chỉ giúp Đế Minh, đánh giặc ở Tử Di Sơn, đánh giặc Hồ Tôn. Cụ có công lớn giúp cháu (Kinh Dương Vương). Sau khi đánh Ma Mạc, Cụ định cư ở Châu Đức (sau này là Đám Nguyệt, Thanh Trì). Đền thờ Cụ ở La Cả do vua Lý Nhân Tông lập. 7). Húy là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, (con trai của Đế Minh và Đỗ Quý Thị), tự là Phúc Lộc, được cha (Đế Minh) giao làm chủ nước Xích Quỷ(6), sau được tôn xưng là vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Cụ sinh ngày 15 tháng Tám và mất ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Mộ táng tại đình Phượng Hoàng, Hoa Cái Sơn (nay là thôn Vân Nội). Vợ Kinh Dương Vương tên tự là Thanh Minh, Động Đình Tiên Nữ, tên húy là Đăng Ngàn, hiệu Thượng Ngàn, con Động Đình quân (chủ Động Đình) đất Sở, có công dạy dân nuôi tằm dệt lụa. Mộ ở Văn La thôn, còn gọi là khu Xích Hậu, giỗ mồng 3 tháng Ba (gọi là Hội Mẹ hay gọi là giỗ Bà Tổ Chân Tĩnh Bồ Tát). Kinh Dương Vương có 5 con trai, một chết trẻ, bốn con trai còn chia làm bốn chi: 1. Hùng Nghiêm, tự Phúc Nghiêm, hiệu Pháp Phong (có chỗ gọi là Pháp Vân), mộ tại Hoa Cái Sơn (địa điểm của Cung điện cũ Phong Châu). Là Tổ chi một. Giỗ ngày 28 tháng Hai. Vợ Cụ, hiệu là Diệu Đức, mộ tại thôn Văn La, Tiên La. 2. Hùng Quyền, tự Phúc Quyền, hiệu Pháp Vân (có chỗ gọi là Pháp Vũ), mộ táng tại khu Chùa Hai, cánh đồng Thượng Khánh cùng ấp. Cụ là Tổ chi hai. Vợ Cụ là Từ Nhân, an táng tại cửa nhà thờ Thành Tiên Sơn. 3. Hùng Hiền, húy là Sùng Lãm (có chỗ gọi là Hùng Lâm), sau gọi là Lạc Long Quân. Tổ chi Ba. Mộ an táng tại ba gò đất trên đồng Bảo Cựu, sau đổi Bảo Hoa. Chi ba được thừa kế làm trưởng thay cha, lập nước Văn Lang. Cũng từ đây phân ra 100 họ, lấy Nguyễn làm Trưởng tộc Việt. Thực ra 100 họ (Bách tính) là biểu tượng số rất nhiều dòng họ, không phải nghĩa đen chỉ là 100 họ. Vợ Cụ, hiệu Từ Quý, an táng ở Tiên La, Động Hiền. Dân làm giỗ ngày 6 tháng Ba âm lịch. 4. Hùng Quyên, tự Phúc Quang, hiệu Pháp Điện, an táng tại Hy Sơn giếng, Liên Quyết, ấp Thủy Tiên, khu Vân Nội. Hùng Quyên là Tổ chi bốn. Vợ, hiệu Từ Thọ, an táng tại Cửa Sơn Trạch, ấp Thủy Tiên. Còn một con là Hùng Tiến, tự Pháp Vũ, hiệu Vũ Thiên, bị chết trẻ (mãnh tổ). (Đời sau tôn thụy 5 ông là Ngũ vị Tôn ông và 4 bà là Tứ vị chầu Bà) Kể từ đây Lạc Long Quân lấy họ Hùng và 18 triều đại về sau đều tôn xưng là Hùng. Và cũng từ đây, kế tiếp con cháu các đời của 18 triều Hùng, đều xưng là Lang Vương, Lang Quân (7). Người đầu tiên, tên húy là Lâm (Lâm Lang Vương), tự là Phúc Tâm, mất ngày 28 tháng Năm. * * * Chú thích (1) Nghiên cứu của Phó Giáo sư Đỗ Tòng trong bài nay đã được giới thiệu trong tập "Tài liệu tham khảo- Số 1" của BLL họ Đỗ Việt Nam ra tháng 7/2007 và được kiến giải chi tiết trong cuốn " Suy nghĩ về những khoảng trống trong thời kỳ tiền sử nước ta" của Ông, hành trạng của một số vị họ Đỗ trong nghiên cứu này gắn liền với một thời kỳ lịch sử của nước ta khi dựng nước, nên được tác giả đề cập cùng với thế thứ các vị tổ của đất nước từ các đời trước, đến hết thời các vua Hùng (Hồng Bàng - Văn Lang ). Các tài liệu hán nôm có liên quan đã được giới thiệu một phần trong chuyên mục "Sưu tầm nghiên cứu về Cụ Đỗ Quí Thị và Bát Bộ Kim Cương" của Website hodovietnam. (2) Sách cổ Trung Quốc: "Sử Ký Thiên Quan Thư", "Tả Truyện" có ghi 3 vị nổi tiếng về chiêm tinh là: Trọng Lâm, Hy Hoà và ức Bá, ở vào thời Thương - Ân. (3) Thần Long Đỗ (hay thần Bạch Mã) là một trong bốn vị thần bảo trợ cho Kinh thành Thăng Long, trấn trị ở phương Đông. Đền thờ Bạch Mã trước đây nằm ở ven bờ sông Tô Lịch, thuộc phường Hà Khẩu, nay ở phố Hàng Buồm. (4) Bát Bộ Kim Cương: ở mỗi tài liệu cũng có sự khác nhau vài điểm (về tên, về hiệu). Ở đây đã có đối chiếu với những tài liệu nguyên bản chữ Hán, T.G đính chính lại. (5) Bồ Tát: là chỉ những người có quá trình tu dưỡng, rèn luyện, tu nhân tích đức, đạo cao đức trọng, tài giỏi, chăm lo iệc cứu nhân độ thế, được tôn vinh danh hiệu cao quý là Bồ Tát. (6) Gồm cả vùng đất do 2 chú làm chủ. Chữ quỷ (theo chữ Hán) gồm 3 chữ vương ghép lại, có ý chỉ 3 vùng đất do Kinh Dương Vương làm chủ trưởng. Xem Thần tích về Triều vua Kinh Dương Vương đăng ngày 05/5/2007 trên Website hoĐovietnam (7) Xem bài Triều đại Hùng Vương đăng ngày 27/4/2007 trên Website hoĐovietnam.
  22. ACE không nên cuống lên thế. Nơi phát tích khởi thủy nhóm người Việt cổ là ở Bắc Việt Nam, khi đủ sức mạnh thì nhóm người Việt cổ này thống nhất lãnh thổ rộng lớn lấy tên là Văn Lang, diện tích bao gồm từ sông Dương Tử tới Động Đình Hồ... Thơ tâm linh rất chuẩn đấy tuy nhiên phải phân tích logic để giải thích tại sao họ nói như thế. Ví dụ bài thơ của Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nước đi leo lẻo đổ về Tây Nhị Hỏa xưng vương cũng có ngày Bê vẫy Hai đuôi mừng Ngựa đến Hoàng thành trơ trụi cỏ cùng cây Đông A nhập xuất Khôn cung thịnh Tý Khởi đầu minh sự bất thành Hổ khiếu chỉ khinh thiên hạ nội Thỏ lai Nhất Mộc dị trường thành Nói về việc đổi cung TỐN KHÔN.
  23. Chào Nhat Tam. Thực sự chưa hiểu ý tuy nhiên Hoangnt hình dung: Lạc Thư hình như là ma trận nhóm hanh tinh tương tác có quy luật tới trái đất thì phải (để xem lại). Tất cả các sự vật, hiện tượng đều liên kết chặt chẽ theo nguyên lý nhân quả và có thể được xem ở trạng thái cân bằng động và chúng luôn vận động, chuyển hoán dựa trên nguyên lý âm dương ngũ hành. Việc chọn la bàn hay hệ quy chiếu cơ sở quy ước (11 chiều - 1 chiều thời gian) làm sao mô tả được quy luật vận động ở trên. Hành thổ trung tâm do người xưa tìm ra quy tắc này do nhiêu nguyên nhân một trong nó là sự kết thúc vận động các hành đề trở về nó. Hệ không gian 4 chiều (x,y,z,t) khác biệt cơ bản so với hệ quy chiếu 11 chiều như ở trên vì nó dùng để kiểm soát sự biến đổi của vật chất tại thời điểm quán xét và nếu quy về hành thì kiểm soát hành. Hệ 11 chiều kiểm soát khía cạnh thay đổi về mặt tổng thể/ giai đoạn/ kết quả và có thể mang tính gián tiếp (ví dụ nó nắm bắt sự thay đổi hiện tượng xã hội; ví dụ sấm chớp được quy ước theo thuyết âm dương ngũ hành và các yếu tố liên quan...) còn hệ 4 chiều kiểm soát cụ thể và mang tính trực tiếp (không thể kiểm soát hiện tượng xã hội; khoa học ngày nay xác định sấm chớp do nguyên nhân cụ thể là gì, từ đâu...). Thân mến.