hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Theo ý tôi: Đập cái bệ phía trước đi, đâu phải lúc nào cũng cần tấm bình phong. Đưa biển hiệu lên phía trên mái che, tiết giảm màu đen tối đa. Chuyển 3 cột cờ về phía tay phải (từ trong nhìn ra), trùng mép tường phải tòa nhà, nhằm chừa giao thông đi ra từ phía này, với chú ý là vị trí cột cờ cần rất thích hợp, thậm chí không cần cột cờ - bỏ luôn là tốt nhất vì làm rối loạn khí, càng nhiều cột cờ càng rối loạn.
  2. Đi cày Lịch Sơn DungHungViet Thần thoại Trung Hoa chép về Đế Thuấn, một vị vua thịnh trị thời Ngũ Đế: Thời thượng cổ có vị vua họ Diêu tên Thuấn nổi tiếng hiếu thuận từ lúc còn thơ ấu. Cha của vua Thuấn là người hung bạo, không biết phân biệt đúng sai, hay dở nên người ta đặt cho cái tên Cổ Tẩu là người mù mắt. Mẹ Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu lấy vợ bé rồi sinh ra một người con trai tên Tượng. Cả hai mẹ con Tượng đều là người độc địa, ác nghiệt, thường xuyên hành hạ và đối xử tệ bạc với Thuấn. Cha Thuấn nghe lời gièm pha của vợ bé, muốn giết Thuấn đi nên bắt Thuấn đi cày ruộng ở đất Lịch Sơn có nhiều chướng khí, dã thú và đi bắt cá ở hồ Lôi Trạch có nhiều sóng to, gió lớn. Chẳng những không trách cha mà Thuấn còn giữ tròn đạo hiếu với cha và mẹ kế và giữ hòa thuận với Tượng, riêng mình gánh chịu muôn điều cay đắng, bất công mà không một lời than thở. Tấm lòng hiếu thảo, hòa mục của Thuấn động đến lòng trời. Trời sai cả đàn voi đến giúp Thuấn cày đất, muông chim đến giúp Thuấn nhặt cỏ, làm cho hồ Lôi Trạch sóng lặng, gió im để Thuấn đánh bắt cá. Chính vì lòng hiếu thảo mà Thuấn được vua Đường Nghiêu gả cho hai người con gái yêu và truyền ngôi báu. Trong ca dao Việt và quan họ Bắc Ninh lời cổ có câu hát về Đế Thuấn: Rủ nhau đi cấy xứ đương Cấy cho vua Thuấn ở đồng Lịch Sơn. Đồng Lịch Sơn nơi vua Thuấn đi cày nằm ở đâu mà dân ca Việt lại hát vậy? Trung Quốc cho rằng Đế Thuấn đóng kinh đô ở Bồ Phản nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Thời kỳ Đế Thuấn cách đây trên 4.000 năm, ở Sơn Tây Trung Quốc làm gì có điều kiện canh tác lúa mà đi cày đồng Lịch Sơn.Thần thoại Trung Hoa chép về Đế Thuấn, một vị vua thịnh trị thời Ngũ Đế: Thời thượng cổ có vị vua họ Diêu tên Thuấn nổi tiếng hiếu thuận từ lúc còn thơ ấu. Cha của vua Thuấn là người hung bạo, không biết phân biệt đúng sai, hay dở nên người ta đặt cho cái tên Cổ Tẩu là người mù mắt. Mẹ Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu lấy vợ bé rồi sinh ra một người con trai tên Tượng. Cả hai mẹ con Tượng đều là người độc địa, ác nghiệt, thường xuyên hành hạ và đối xử tệ bạc với Thuấn. Cha Thuấn nghe lời gièm pha của vợ bé, muốn giết Thuấn đi nên bắt Thuấn đi cày ruộng ở đất Lịch Sơn có nhiều chướng khí, dã thú và đi bắt cá ở hồ Lôi Trạch có nhiều sóng to, gió lớn. Chẳng những không trách cha mà Thuấn còn giữ tròn đạo hiếu với cha và mẹ kế và giữ hòa thuận với Tượng, riêng mình gánh chịu muôn điều cay đắng, bất công mà không một lời than thở. Tấm lòng hiếu thảo, hòa mục của Thuấn động đến lòng trời. Trời sai cả đàn voi đến giúp Thuấn cày đất, muông chim đến giúp Thuấn nhặt cỏ, làm cho hồ Lôi Trạch sóng lặng, gió im để Thuấn đánh bắt cá. Chính vì lòng hiếu thảo mà Thuấn được vua Đường Nghiêu gả cho hai người con gái yêu và truyền ngôi báu. Trong ca dao Việt và quan họ Bắc Ninh lời cổ có câu hát về Đế Thuấn: Rủ nhau đi cấy xứ đương Cấy cho vua Thuấn ở đồng Lịch Sơn. Đồng Lịch Sơn nơi vua Thuấn đi cày nằm ở đâu mà dân ca Việt lại hát vậy? Trung Quốc cho rằng Đế Thuấn đóng kinh đô ở Bồ Phản nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Thời kỳ Đế Thuấn cách đây trên 4.000 năm, ở Sơn Tây Trung Quốc làm gì có điều kiện canh tác lúa mà đi cày đồng Lịch Sơn. Hình vẽ Đế Thuấn thời Hán. Liên quan đến tích vua Thuấn Việt Nam ở Lâm Thao – Phú Thọ có hội Tứ xã với trò diễn Trám. Tứ Xã là nơi có các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng thời Hùng Vương như Gò Mun, Đồng Đậu con, Gót Rẽ… Cái tên Trám được các cụ già kể lại, nơi đây ngày xưa là rừng cây trong đó có nhiều cây Trám, theo tiếng Hán gọi là “Cổ Lãm”. Hạt Trám cũng từng được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ thời Hùng Vương. Theo thư tịch Trung Hoa (Nam phương thảo mộc trạng đời Tấn) cây Trám của nước ta được chép là “Cảm Lãm”. GS. Trần Quốc Vượng từng cho rằng đây là phiên âm của tiếng Việt cổ clam có tổ hợp phụ âm kép cl. Thực ra Cổ Lãm hay Cảm Lãm là những cụm từ ký âm Nôm bằng phép phiên thiết của từ Trám. Cổ Lãm – Cảm Lãm (và cả Khả Lãm) đọc thiết âm là Cám – Chám – Trám. Trò Trám ở Tứ Xã là trò trình nghề tứ dân Sĩ – Nông – Công – Thương, trong đó có vai đóng “vua Thuấn cày voi”, hát ca trù: Vốn tôi đây dòng dõi thần minh Kẻ tên hiệu tôi là Ngu Thuấn Nghĩ cha mẹ tôi càng oán hận Hận ở điều ăn ở không cân Em dượng tôi ngạo mạn bất nhân Ân tôi phải dĩ nông vi bản Tôi cũng mong hữu gia hữu sản Nhác trông lên núi Lịch tốt thay Ân tôi phải bắt voi cày núi đá. Vua Thuấn, Ngũ Đế của Trung Hoa, mà lại đi cày ở đất Phú Thọ, lại còn nhìn thấy cả quả núi Lịch (Lịch Sơn) tươi tốt. Dân gian (ca trù, quan họ, lễ hội) Việt có “sính ngoại” quá không khi đã dùng tích của một vị vua khởi thủy được cho là của người Trung Quốc? Sự thực thì Đế Thuấn của Trung Hoa đi cày đúng ở chính đất Phú Thọ chứ chẳng phải ở bên Tàu. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong sách Vân Đài loại ngữ cho biết: “Núi Lịch ở địa phận xã Yên Lịch, huyện Sơn Dương, trấn Tuyên Quang. Mạch núi từ núi Sư Khổng, huyện Đương Đạo kéo xuống, đến đây năm, sáu ngọn núi đất bày hàng đột khởi ngay ở đồng bằng, chia một chi đổ xuống huyện Lập Thạch làm núi Sáng; còn ở mặt dưới huyện Tam Dương là núi Hoàng Chỉ“. Núi Sáng, ngọn núi đột khởi thuộc dãy Lịch Sơn nay thuộc đất huyện Sông Lô của tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Núi Sáng là ngọn cao nhất trong dãy núi Lịch, có 5-6 chỗ bằng phẳng như cung điện, có đền thờ Đế Thuấn. Xứ Ngòi Vực về bên phải, hàng năm nước sông Lô tràn vào, tương truyền chỗ ấy là bến sông ngày trước thường nặn đồ nung. Bên cạnh chỗ dân cư, có một cái giếng cổ, người ta cho là Đế Thuấn đào giếng ấy. Ở đây cũng có miếu thờ Đế Thuấn, trước miếu có ruộng chiêm, rộng chừng vài mẫu, khá sâu, người ta cho đấy là chằm Lôi Trạch, ngày trước Đế Thuấn cày ruộng và đánh cá. Trên núi Sáng cũng có đền thờ Đế Thuấn. Đằng trước núi lại đột khởi một ngọn núi đất hơi thấp, đỉnh núi như hình ghế chéo, trong núi có chỗ rộng ước dăm sào, có thể gieo được trăm bung mạ (nhổ mạ lên rồi buộc lại gọi là đon, mỗi đon phỏng 2,3 chét tay, 40 đon là một bung, bung là xâu những đon mạ gánh ra ruộng để cấy; thông thường khi xưa, cứ mỗi sào ruộng cấy 15-20 đon, trăm bung là 4000 đon gieo khoảng 5 sào. Tương truyền chỗ ấy Đế Thuấn cấy lúa, nhân dân mới gọi là Bách Bung). Khu vực Bách Bung trên núi Sáng và hồ Suối Sỏi. Thông tin của Vân đài loại ngữ đã xác định rất rõ vị trí của Lịch Sơn và sự việc Đế Thuấn đi cày. Núi Sáng trong dãy Lịch Sơn chạy từ Sơn Dương – Tuyên Quang sang phía Tây Bắc tỉnh Vĩnh Phúc. Trên núi có cả cái tên đầy cổ tích “Bách Bung” để chỉ sự kiện này. Bách Bung có miếu thờ Đế Thuấn và giếng cổ tương truyền do Đế Thuấn đào. Bên cạnh đó có núi Con Voi, liên quan đến “Đế Thuấn cày voi”. Rồi cánh đồng Lôi Trạch ở trước núi, nơi Đế Thuấn đi bắt cá theo truyền thuyết, nay là khu vực hồ Suối Sỏi của xã Lãng Công. Tương truyền nơi đây từng là nơi chế tác đồ gốm (đồ đất nung). Đế Thuấn ở vào giai đoạn cuối thời đồ đá mới, người ta mới có “đá” với “đất”, chưa có sắt hay đồng. Vậy Đế Thuấn đi cày bằng loại cày gì? Chuyện cổ Phú Lương quân của người Tày kể về Báo Luông, vị tổ khởi thủy của người Tày, có đoạn mô tả khá chi tiết việc Báo Luông nghĩ ra cách trồng lúa: Anh vào rừng chặt một cây lim nặng đem đẽo nhọn một đầu đi buộc dây vào rồi vắt lên vai cho mấy người kéo để cày đất lên. Sau đó lại lấy một khúc gỗ có nhiều mắt cho kéo làm đất nhỉ đi rồi mới gieo thóc giống… Chiếc cây vót nhọn để lật đất gọi là “thây”, tức là cái cày. Còn cây khác nhiều mắt gọi là “phưa”, tức là cái bừa. Như vậy trước khi có lưỡi cày đồng thì người dân Việt đã biết dùng gỗ đẽo làm dụng cụ cày cấy. Nền văn hóa “đồ gỗ” không lưu được dấu vết vật chất trong khảo cổ vì gỗ là loại vật liệu bị phân hủy qua thời gian. Nhưng sự sáng tạo về nghề canh nông đã bắt đầu từ trước khi con người biết làm đồ kim khí là dựa vào những vật liệu sẵn có trong tự nhiên. Một bậc Thác Bay trên núi Sáng, nơi có những khối đá cứng, trong như ngọc. Trong tục thờ Hùng Vương ở đất Phong Châu thì ba vị vua Hùng được thờ là Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Như từng xác định, Đột Ngột Cao Sơn hay Thánh tổ Cao Sơn Minh Vương là Đế Minh, người khởi đầu sử Việt trong Truyện Họ Hồng Bàng. Ất Sơn, vị vua thứ hai (trong thứ tự Giáp, Ất,…) là Đế Nghi hay Đế Nghiêu. Vị vua thứ ba Viễn Sơn là Đế Thuấn. Ngọn “Viễn Sơn” đây là Lịch Sơn hay núi Sáng. Rất có thể Sáng là từ chữ Minh mà ra. Minh Đô của thời Hùng Vương chính là đất Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc), nằm ở ngã ba sông Việt Trì. Ngũ Đế trong thần thoại Trung Hoa đều là những vị vua Hùng của người Việt, đã chinh phục thiên nhiên và lập nước từ chính khu vực đất tổ Phong Châu này. Tôi ghi chú: - Miếu thờ Đế Thuấn ở Phong Châu cực hiếm, chứng tỏ sự không phổ biến mà như một chứng tích lưu giữ. Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ Vũ người Chiết Giang, một bộ của Văn Lang trước khi thuộc Ân Thương. Đế Thuấn được ví như một hình tượng của Đạo Hiếu thời thượng cổ, được chép trong sách Thập Nhị Tứ Hiếu nước ta. - "Đế Thuấn cày voi": không có ai cày bằng voi cả. Trong văn hóa Tứ Xuyên thời Thương và trước Thương, vùng Ba Thục dùng voi tế thần Chết, đây là một nét văn hóa rất đặc trưng của vùng này, cổ vật khai quật vùng này còn lại với nhiều hố tế voi, số lượng ngà voi còn lại trong các hố tế rất nhiều. - "Lịch Sơn: sách chép "Vua Nghiêu sai người chép lấy gọi là Lịch Rùa", Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn, và Lịch Rùa chính là Âm Lịch qua quan sát thiên văn (tượng trời) để làm nông (cày ruộng). Đế Thuấn chỉ làm vua 1 đời. Do vậy, câu chuyện cày voi của Đế Thuấn liên kết chặt chẽ đến việc Việt Thường tặng Lịch Rùa cho Đế Nghiêu. - Đế Thuấn cách năm Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 TCN khoảng 700 trăm năm.
  3. Nhạc sĩ Thanh Tùng qua đời Tác giả "Em và tôi", "Giọt nắng bên thềm", "Lối cũ ta về" qua đời vào 5h45 ngày 15/3 tại bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, hưởng thọ 69 tuổi. Nhạc sĩ Thanh Tùng - ông già chải chuốt ngồi xe lăn. Anh Thông - con trai nhạc sĩ Thanh Tùng - xác nhận thông tin nhạc sĩ qua đời. Còn anh Thắng - trợ lý nhạc sĩ Thanh Tùng - cho biết nhạc sĩ nhập viện được 12 ngày trước khi mất. Lễ viếng và truy điệu nhạc sĩ Thanh Tùng được tổ chức từ 8h đến 10h30 ngày 22/3 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng (số 5, Trần Thánh Tông, Hà Nội). Lễ an táng diễn ra cùng ngày tại công viên Nghĩa trang Thiên Đức (xã Trung Giáp, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ). Năm 2008, sau trận tai biến bất ngờ, nhạc sĩ không còn đi lại được. Ông liệt bên phải, mất khả năng nói. Không chỉ chịu di chứng tai biến, ông còn bị tiểu đường và thận. Hàng tuần, ông ba lần tới chạy thận tại bệnh viện Bạch Mai. Nhạc sĩ Thanh Tùng trên xe lăn tại nhà riêng ở Hà Nội vài tháng trước. Nhiều năm qua, ông sống trên chiếc xe lăn nhưng vẫn giữ tinh thần lạc quan. Ngày thường, ông được con cháu đưa đi dạo Hồ Tây ngắm cảnh. Lần cuối cùng Thanh Tùng đứng trên sân khấu là trong liveshow Một mình 2008. Nhạc sĩ Thanh Tùng sinh ngày 15/9/1948 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Năm sáu tuổi, ông theo cha mẹ tập kết ra Bắc và lớn lên tại Hà Nội. Ông tốt nghiệp Nhạc viện Bình Nhưỡng, Triều Tiên năm 1971, khi mới 23 tuổi. Trở về nước, Thanh Tùng đảm nhận vai trò chỉ huy dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam II từ 1971 tới 1975. Sau đó, ông vào sống tại TPHCM và là một trong những người có công xây dựng Dàn nhạc nhẹ Đài truyền hình TPHCM. Ông cũng từng chỉ huy hợp xướng và chỉ đạo nghệ thuật Đoàn Ca múa Bông Sen trước khi công tác tại Hội Âm nhạc TPHCM. Sinh thời, Thanh Tùng nổi tiếng là người có tâm hồn lãng du, phóng khoáng. Ông là tác giả của nhiều tình khúc được nhiều thế hệ yêu thích như Chuyện tình của biển, Lời tỏ tình của mùa xuân, Ngôi sao cô đơn, Câu chuyện nhỏ của tôi, Hoa tím ngoài sân, Em và tôi, Phố biển, Mưa ngâu, Lối cũ ta về... Thanh Tùng mất nhưng âm nhạc của ông còn. Có lẽ, ông cũng chẳng đi đâu xa. Trái tim ca hát của ông vẫn lãng du đây đó như thường khi rồi về ngồi lặng bên thềm nhà. Ở nơi đó, thời gian qua như quy luật tự nhiên, cuộc sống trôi đi như vốn có, như những câu hát mà ông từng viết: "... Hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi Một sớm mai kia Chợt thấy hư vô trong đời Người vẫn đâu đây, người cũng đã như xa rồi Chỉ là... thế thôi...". Hoàng Anh "Lối cũ ta về" ( Nhớ nhạc sĩ Thanh Tùng của một nickname) "Lối cũ ta về" không có ai "Mưa ngâu" tí tách giọt ngắn dài "Hoa tím ngoài sân" buồn tê tái "Giọt nắng bên thềm" cũng phôi phai. "Phố biển" chờ ai trong nắng mai? Nhắc "câu chuyện nhỏ của tôi" hoài "Chuyện tình của biển" còn vang mãi "Lối cũ ta về" vương bóng ai./.
  4. Nam Triệu và Nam Chiếu DòngHùngViệt Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta. Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu. Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan. Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bổ đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”. Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập. Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ. Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.” Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập. Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.” Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm: "Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay. Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).” Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần. Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán. Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép. Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.” Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần: - Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân. - Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản. Đăng ảnh không được Bản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam … Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.” Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn. Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên… Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)." Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.” Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào. Đăng ảnh không được Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”. Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ. Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á. Tôi ghi chú: - Bài viết của tác giả DongHungViet rất hay -> dẫn đến, phải tra cứu lại địa chí. - Người Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà: hàm ý con cháu của Mỵ Châu Trọng Thủy nối dài và tất nhiên, bộ Vân Nam chính là cố quận của An Dương Vương. - Bồn Man chính là vùng có cánh đồng chum. - Họ Triệu rút về Lào, nơi không bị Tây Hán đô hộ do địa thế hiểm trở, vả lại Hán đã thôn tính được Giao Chỉ tức Phong Châu, kinh đô Văn Lang cổ là hoàn tất. - Quảng Bình thuộc bộ Chămpa của nước Văn Lang. - Bản đồ Trấn Ninh: Bản đồ Lào:
  5. Bản đồ cánh đồng chum đá nước Lào, Xiềng Khoảng, được dự đoán là mật ngữ khu vực sinh sống của hoàng tộc nhà Âu Lạc - Triệu rút lui về cố thủ khi Hán thôn tính Nam Việt. Chúng ta biết rằng, trong lịch sử nước Lào không nội thuộc nhà Hán -> do vậy, vấn đề trên chúng ta cần kiểm tra lại một cách chi rất chi tiết của dòng chảy cổ vật, mộ Hán... của thời kỳ này. Đồng thời, cũng như vậy, dòng chảy cổ vật của thời Âu Lạc và Nam Việt tại Lào là như thế nào! Chúng ta nên biết rằng, thời Nam Việt không còn sử dụng trống đồng làm biểu tượng nữa nhưng vẫn còn sử dụng vật dụng phổ biến là thạp đồng Đông Sơn theo phong cách Âu Lạc và Nam Việt. Các chum đá ở đây (khoảng 400 chiếc, dự đoán có niên đại từ 500 TCN - 200 SCN), trong hình hài tương tự như những chiếc thạp đồng Đông Sơn, tuy nhiên nó được chế tác rất to, không mang tính công dụng bình thường, chúng phân bố tập trung trên một cùng diện tích, rõ ràng chum đá chỉ mang ý nghĩa "biểu tượng" và có "ẩn ý" của tác giả ở vào thời đại đó. Hiện tượng này, có lẽ cũng giống một phần bãi đá cổ Sapa nhưng có niên đại muộn hơn rất nhiều. Số lượng người trong hoàng tộc rút lui khoảng tương đương số chum đá? Chum đá, trong điều kiện tự nhiên sẽ chứa nước mưa -> điều này cho chúng ta một mật ngữ là nói về thiên văn học - thời kỳ hệ mặt trời di chuyển vào cung Song Ngư, mặt khác thì thạp đồng Đông Sơn có nắp cũng có loại dùng để làm mộ táng. Từ đó, có thể nhận định rằng khả năng chúng chế tác trước Công nguyên, Hán thôn tính Nam Việt vào năm 111 TCN -> Trong khi đó, khoảng năm 116 TCN là bắt đầu thời kỳ Song Ngư. Rất hợp lý. Và nếu như vậy, chắc chắm trên các chum đá và một số cổ vật đồ đồng thời kỳ này sẽ có những ký họa giải thích ý nghĩa "những chiếc chum đá bí ẩn" của tác giả! Khu vực cánh đồng chum đá thuộc vùng Bồn Man - Muang Phuan. Lào, Thái và Vân Nam có cùng chung một số dân tộc! Cánh đồng chum (Plain of stone jars) Cộng Hòa Nhân Dân Lào Bồn Man [1]: là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng Nghệ An đến Quảng Bình). Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như Đại Việt, Lan Xang, Ayutthaya và sau cùng là Pháp. Khi nằm dưới sự bán cai trị của Đại Việt vùng đất này có tên là Trấn Ninh, thuộc xứ Nghệ An. Thành lập[sửa | sửa mã nguồn] Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan là một nhóm dân tộc Thái-Lào theo Phật giáo, di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến (Ai Lao) Lào. Khoảng cuối thế kỷ 13 đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở cánh đồng Chum (trên cao nguyên Xiêng Khoảng). Tiểu quốc Bồn Man của Tai Phuan này được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh - Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú. Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang[2], phía Đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man được hợp nhất vào Lan Xang dưới thời vua Fa Ngum[3][4]. Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm cai trị, với thủ đô là Xieng Khouang[5], nhưng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì thủ phủ ở Sầm Nưa (ngày nay là thị xã Sầm Nưa của Lào)[cần dẫn nguồn], dân số ước chừng 9 vạn hộ[6]. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ đã phải cống nạp thuế cho Lan Xang. Theo cuốn Lịch sử Lào của M.L. Manich: Từ thế kỷ thứ 7 thời vua Piloko, hoàng tử Chet Chuang con trai Piloko đã được gửi đến cai trị Xiêng Khoảng. Sau đó khoảng năm 698, Mường Puan hoặc Xiengkhuang được thành lập bởi hoàng tử Chet Chuang. Từ đó Chiềng Khuoang Mường Puan trở thành một quốc gia bộ lạc tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia Chiengsen, Sukhothai nối tiếp nhau của người Thái-Lào và sau đó là Lan Xang của Phà Ngừm. Đến thời Phà Ngừm, ông chinh phục được các vương quốc Lào cổ trong đó có cả Chiềng Khouang, nhập vào Lan Xang. Riêng Bồn Man vào năm 1349, Phà Ngừm thu nạp được là nhờ sự liên kết với hoàng tử Khio Kamyor, con của tù trưởng Xieng Khouang lúc đó là Chao Kamphong, chống lại cha mình. Tên của các vị tù trưởng (vua) của Bồn Man, cai trị Chiềng Khuoang sau Chet Chuang, cho đến trước thời nước Lan Xang ra đời bên cạnh Bồn Man, là: Chetchuan, Chetchod, Chetchue, Chetchan, Chetyod Yohkam, Chao Pra Yeehin, Chao Pra Kue, Chao Kamlun, Chao Kampeng, Chao Kamkhod, Chao Kamrong, Chao Kamchaek, Chao Kamphan, Chao Ruea, Chao Rueang (chỉ như là nhiếp chính), Chao Kampin (con trai của Kamphan), Chao Kamton, Chao Kamtodsak, Chao Kamkuon, Chao Kamluon, Chao Kamnah, Chao Kamtao, Chao Kamkao, Chao Kamphong.[7]
  6. CÂU CHUYỆN VỀ MỘT NGÀY SẮP XẢY ĐẾN CHO NHÂN LOẠI Bí mật của trò chơi này chính là nụ cười. Phật Di Lạc không cười có mà "chết", nhưng chẳng nhẽ chơi một mình à? Sự kết nối vĩ đại, bí mật là sự kết nối, giải thích nhiều chắc phát điên. Chúng ta đang chơi một trò chơi, chúng tôi chỉ thử thách người trái đất thôi, phải biết khổ thì khi sướng mới biết sung sướng nó như thế nào. Còn mọi thứ sẽ là miễn phí, một trò game vĩ đại... A di, Ala, A men. Xem ra trò chơi này hay đấy, sao chúng ta lại lạc về thế kỉ XXI nhỉ? Đường hầm thời gian, đúng là công trình khoa học vĩ đại của các nhà bác học bất tử. Khó giải thích với người bình thường, họ sẽ không thấy sự khác biệt vì đầu óc họ không tiến hóa, họ không ham thích khoa học và sự tìm tòi. Con người sẽ được mở các ổ khóa, sự vui chơi, giải trí và thể thao. Một xã hội hoàn hảo, một thiên đường thực sự, nhưng phải để râu tóc dài mới thiền được và có khi phải cắt tóc cạo râu. Quả thật là trò chơi khó khăn. Vì sao lúc dài lúc cắt à? Satan nó bắt cạo, những người để tóc dài là nguy hiểm đấy.Giống như con gián mất sợi râu thì chết, con người cũng chỉ là loài kí sinh thôi. Chúng ta thấy chúng ta đẹp là so với nhau thôi, còn có nhiều sinh vật cấp cao nó rất đẹp. Ví dụ như Gaia, đó là một con chim sắt khổng lồ, vậy thì đấng sáng tạo phải giỏi như thế nào chứ. Quả thật là một sự mở mang. Sức ép quá khủng khiếp, phải cầu nguyện thôi, có quá ít bằng chứng. Chỉ có sự cảm nhận, phải phát triển sự cảm nhận. Tất cả điều này là sự thật, sẽ có 3 điều ước cho người xứng đáng vì đây là khóa học kết thúc cho nhân loại. Trước khi đi làm nhiệm vụ này họ đã mô phỏng các tình huống xảy ra, nó rất khó giải thích, may ra chỉ có các nhà khoa học mới tin được điều gì đang xảy ra. Phải như thế thì con người mới biết mình nhỏ bé, sẽ chán và sợ không buồn đánh nhau nữa mà chỉ chia sẻ cho nhau thôi. Một sự khiêm nhường đến nhẫn nhục. Các siêu anh hùng sẽ đến trái đất : Superman, Batman, Spiderman, Khổng Lồ Xanh, Người Sắt sẽ đến trái đất, họ sẽ rất nguy hiểm đấy. Những bộ phim ngày càng hé lộ dần, không phải xem phim bị hoang tưởng mà đó là những câu chuyện có thật thì mới thành phim được. Nhà viết kịch bản bắt sóng phi thuyền trong não để nhận kịch bản, các đạo diễn chỉ làm theo thôi. Vì thế sẽ rất phức tạp và khó hiểu, vì công nghệ nhảy vọt vĩ đại tới 25.000 năm. Tưởng tượng tour đi 25.000 năm đi xem trái đất sẽ ra sao. Khó mà hình dung nổi sự hoàng tráng của nó nhỉ? Quả là một sự kiện vĩ đại. Hào quang đang tỏa rạng Ban ánh sáng huy hoàng Rọi chiếu khắp muôn nơi Xua màn đêm u tối. Trần gian đầy tội lỗi Xin Người giúp chúng con Trong ánh đạo nhiệm màu Ta đi tìm chân lý. Đã qua bao thế kỷ Nay sự thật phơi bày Cùng muôn loài nắm tay Bay về nơi xa ấy. Đường đến ngày vinh quang Trải đầy gai, rướm máu Nấc thang đến thiên đường Chúng mình về có nhau. Thôi tất cả hãy cố lên, sắp về đích rồi. Chúc may mắn. (Còn tiếp..) Hien Nguyen, 10.30am, ngày 15/12/2014
  7. Giải nghĩa một số địa danh trong cổ sử Việt qua phép phiên thiết Hán Nôm DòngHungViet Chữ Hán cũng như chữ Nôm là những loại chữ biểu ý, không phải biểu âm, nên để ghi chú cách đọc của các chữ này từ thời Đông Hán người ta đã dùng phép phiên thiết. Phiên thiết (反切) là dùng hai chữ riêng rẽ để ghi chú một âm của chữ khác, lấy thanh (phụ âm) của chữ đầu ghép với vận (vần) của chữ sau để tạo thành một âm. Phép phiên thiết được áp dụng không chỉ trong việc xây dựng các từ điển chữ Hán ở Trung Quốc, mà ở nước ta thời xưa đây là cách để ghi các địa danh, nhân danh trong tiếng Nôm vào văn bản. Tìm hiểu các tên chữ tạo nên bởi phép phiên thiết từ âm Nôm cho phép giải mã được ý nghĩa thật sự vốn có của các tên gọi này trong lịch sử cổ đại nước ta. Một âm Nôm thường không có chữ Hán với âm tương ứng nên thời xưa cách để ghi các âm Nôm này trong văn viết là dùng phép phiên thiết, sử dụng 2 ký tự chữ Hán để ký 1 âm Nôm. Lâu ngày, do chỉ thông qua các thư tịch lưu lại, 2 ký tự này trở thành tên gọi của địa điểm hay nhân vật thay cho âm Nôm ban đầu. Người đời sau dễ nhận nhầm rằng 2 chữ này có ý nghĩa nhất định về đối tượng được gọi đến mà quên đi rằng đó vốn chỉ là 2 ký tự ghi âm, không hề mang nghĩa liên quan. Có thể kể một loạt các làng Việt cổ có “tên chữ” là tên phiên thiết từ tên Nôm như làng Và ở xã Trung Hưng, Sơn Tây có tên chữ là Vân Già (Vân Già đọc thiết cho âm Và). Làng Dầm là thôn Xâm Dương ở xã Ninh Sở, Thường Tín (Xâm Dương đọc phản thiết Dầm). Làng Cổ Hiền, còn gọi là trại Quyền hay thành Quèn, ở xã Tuyết Nghĩa, Quốc Oai (Cổ Hiền thiết Quyền – Quèn). Nhiều tên địa danh, nhân danh của người Việt đã được giải thích là do tiếng Nôm cổ có các tổ hợp phụ âm kép nên khi chép bằng chữ Hán được phiên âm thành 2 chữ. Ví dụ, tên huyện Câu Lậu được cho là phiên âm từ klâu – trâu. Hay tên huyện Luy Lâu (Doanh Lâu) là phiên âm của cổ âm blâu/ tlâu – dâu. Nay, nếu áp dụng phép phiên thiết cho những tên gọi này sẽ cho các liên hệ đơn giản và rõ ràng, không cần vận dụng cổ âm. Câu Lậu thiết Câu – Châu – Trâu. Doanh Lâu thiết Dâu. Vận dụng phép phiên thiết kết hợp với các tư liệu dân gian cho phép giải nghĩa một số tên gọi trong cổ sử Việt. Đô kỳ đóng cõi Mê Linh Địa danh Mê Linh là nơi Hai Bà Trưng đóng đô sau khi khởi nghĩa chống giặc Hán thành công. Địa danh này được GS. Trần Quốc Vượng giải thích là tên ghi cổ âm Mling hay Mlang, mà theo tiếng các dân tộc ở Tây Nguyên có nghĩa là “một loài chim”, từ đó đi đến kết luận Hai Bà Trưng thuộc bộ tộc thờ chim làm vật tổ. Nay áp dụng phép thiết cho tên gọi này có Mê Linh thiết Minh, tức là tên Nôm của địa danh Mê Linh thực ra là Minh. Đô kỳ Mê Linh hay Minh đô của Hai Bà Trưng là nơi nào? Ở đền Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh (xã Huy Cương, Việt Trì, Phú Thọ) nay còn câu đối: 天書定分正統肇明都百粵山河惟有祖 光岳協靈故宮成萃廟三江襟帶尚朝尊 Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn. Dịch: Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt duy có tổ Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn. Câu đối này chỉ ra rằng Minh đô của các vua Hùng là đất Phong Châu, nơi có ba con sông Đà, Lô, Thao (Tam Giang) hội tụ ở ngã ba Việt Trì. Vị vua đầu tiên của người Việt được Lĩnh Nam chích quái nhắc đến trong Truyện họ Hồng Bàng là Đế Minh, là người đã lập Minh đô ở Phong Châu. Đế Minh được thờ phụng ở vùng Phú Thọ dưới tên Hùng triều Thánh tổ Cao Sơn Minh Vương trong các thần tích tại đây. Bà Trưng “quê ở Châu Phong”, thuộc dòng dõi “Lạc Hùng chính thống”, phất cờ khởi nghĩa chống giặc, dựng nước đóng ở Minh đô – Phong Châu, hoàn toàn hợp lý. Mê Linh thời Trưng Vương là cả vùng đất Tây Thổ – Phong Châu rộng lớn, không chỉ là một huyện ngoại thành Hà Nội như bây giờ. Nghi môn đền Thượng trong khu di tích đền Hùng ở Phú Thọ. Bổng và Đổng, hai vị tối linh thần nước Nam Tên gọi Phù Đổng của người anh hùng làng Dóng đã được các học giả quan tâm bàn luận khá nhiều. Cao Huy Đỉnh liên hệ tên Đổng với các tên Đùng, Tùng, Dông, với tính cách khổng lồ, dông tố, sấm sét . Còn GS. Trần Quốc Vượng cho rằng Phù Đổng là ghi âm Nôm cổ blỏng hay blổng. Áp dụng phép phiên thiết có Phù Đổng thiết Phổng hay Bổng (các phụ âm ph- và b- chuyển đổi cho nhau trong cổ âm). Lời tiếm bình Việt Điện u linh của tiến sĩ thời Lê là Cao Huy Diệu chép “Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta”. Thần Bổng, một trong 4 vị tối linh thần của nước Nam, chính là Thánh Dóng. Thánh Dóng được gọi là Phổng – Bổng bởi vì mới lên 3 tuổi ăn cơm cà của làng mà lớn “phổng”, nhanh như thổi, cưỡi ngựa sắt đánh giặc Ân. Thắng giặc ngài bỏ mũ áo lên núi Sóc Sơn rồi bay “bổng” về trời. Vậy còn vị linh thần có tên Đổng được nhắc đến là ai? Vị thần này được biết thông qua thần tích đền Bộ Đầu thuộc xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội. Nơi đây thờ Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh. Trong đền có bức tượng Đổng Thiên Vương bằng đất nung lớn, cao tới 7-8 m, đang ra tay diệt trừ thủy quái. Thần Đổng hay ông Đùng, như vậy là vị thần khổng lồ Huyền Thiên Trấn Vũ, tức là vị thần được thờ ở Quán Thánh tại Hồ Tây, Hà Nội. Sự trùng hợp giữa tên phiên âm (Đổng – Đùng) và tên phiên thiết (Phù Đổng – Bổng) đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa 2 nhân vật này trong các sự tích, cũng như trong quan niệm về Tứ bất tử nước Nam. Tượng ông Đổng ở đền Bộ Đầu. Đức thánh Chiêm Lý Ông Trọng Trong số tứ linh thần được kể đến thì thần Hương là Lý Ông Trọng ở làng Thụy Hương hay làng Chèm, nay là đất quận Từ Liêm, Hà Nội. Trong đình Chèm còn lưu bức chạm phượng hàm thư với bài thơ Tứ linh thi, tương truyền được làm từ thời Cao Biền. Cái tên Từ Liêm được GS. Trần Quốc Vượng nhận định là tên phiên âm của âm Nôm cổ tlem – trèm. Chính xác hơn, áp dụng phép phiên thiết có Từ Liêm thiết Tiêm – Chiêm – Chèm. Từ Liêm là tên phiên thiết của làng Chèm, không phải phiên âm Nôm cổ. Tên Chèm hay Chiêm ở đây có nghĩa gì? Xem lại truyện Lý Ông Trọng, người được Tần Thủy Hoàng trọng dụng, phong làm tướng trấn giữ đất Lâm Thao. Đại Nam quốc sử diễn ca kể: Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ Uy danh đã khiếp Hung Nô Người về Nam quốc hình đồ Bắc phương. Bức Phượng hàm thư với bài Tứ linh thi ở đình Chèm. Có Hung Nô đọc thiết là Hồ, 2 từ này cùng dùng chỉ quân giặc mà Lý Ông Trọng đã ngăn giữ như trong đoạn thơ trên. Khu vực liên quan tới “Chiêm” và “Hồ” thời Tần thì phải là vùng phía Nam nước ta vì truyền thuyết Việt cho biết phía Nam nước Văn Lang là nước Hồ Tôn, tiền thân của quốc gia người Chiêm sau này. Thần tích đình Chèm ghi: Lý Ông Trọng được Hùng Vương phong chức Chỉ huy sứ. Ngài giúp vua dẹp yên các loại giặc hay quấy nhiễu biên giới phía Tây và phía Nam khiến chúng sợ không dám xâm phạm bờ cõi nước Văn Lang. Thần tích đình Trạo Thôn (Đa Lộc, Ân Thi, Hải Dương, quê mẹ Lý Ông Trọng) còn viết Lý Ông Trọng đánh giặc “Ai Lao và Chiêm Thành”. Những tư liệu này cho thấy Lý Ông Trọng làm tướng nhà Tần trấn giữ vùng đất phía Tây Nam, là khu vực người Chiêm hay người Chăm. Lý Ông Trọng là người Việt, lập công nghiệp trên đất Việt, chứ không phải sang tận tỉnh Cam Túc bên Trung Quốc để chống giặc phương Bắc cho nhà Tần. Do sự lẫn lộn về chữ nghĩa tạo nên bởi phép phiên thiết (Hung Nô thiết Hồ) dẫn đến công tích và sự nghiệp của Lý Ông Trọng đã bị đặt ngược chiều Nam – Bắc. Sử dụng phép phiên thiết để đọc các tên gọi địa điểm và nhân vật trong cổ sử, kết hợp với những dữ liệu của văn hóa dân gian tại các di tích và trong các thần tích còn lưu lại cho phép hiểu đúng hơn về lịch sử nước ta thời cổ đại. TÀI LIỆU DẪN 1. Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Trần Quốc Vượng. NXB Văn học, 2003. 2. Giới thiệu khu di tích tích lịch sử đền Hùng. Vũ Kim Biên. Sở VH-TT Phú Thọ, 2008. 3. Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San phiên dịch. NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2011. 4. Đại Nam quốc sử diễn ca. Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Bản phiên âm, hiệu đính và chú giải của Nguyễn Khắc Thuần. NXB Giáo dục, 2007. 5. Người anh hùng làng Dóng. Cao Huy Đỉnh. NXB Trẻ, 2015. 6. Từ điển di tích văn hóa Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên. NXB Văn học, 2003. 7. Danh nhân Lý Ông Trọng với di tích và lễ hội đình Chèm. UBND xã thụy Phương. NXB Văn học, 2011. Tôi ghi chú: - Hồ Tôn trong Lĩnh Nam Chích Quái: Hồ Tôn là nước Ấn Độ cổ, tác giả ẩn dụ Hồ Tôn là nước có bộ sử thi Ramayana nổi tiếng của Ấn Độ, có thần khỉ anh hùng Hanuman hùng mạnh giúp hoàng tử Rama cứu công chúa Sita bằng cách dùng đá núi lấp biển tạo đường tấn công ra đảo Langka. - Phong Châu là một bộ của Văn Lang, vậy miền Bắc Việt Nam chính là bộ Phong Châu - bộ trung tâm, nơi có kinh đô. Hay còn gọi là "Đô thành của Gió", Gió tượng của phương Tây, cõi chết, hay "Đô thành của thần Chết" - bất kỳ kẻ nào tấn công tới đây đều về cõi chết. - Bách Việt Duy Có Tổ: tức việc thờ Tổ Quốc và Tổ Tông muôn đời. Cho nên có nhóm người đưa ra việc cấm thờ tổ tiên là ngu và lưu manh nhất thế giới. Và giả sử rằng, linh hồn tổ tiên còn "tồn tại" chì chuyện quái gì sẽ xảy ra??? -> Biết là đại ngu. bị ăn quả nừa dzòi!. - Lý Ông Trọng: về Nam nhưng đồ hình ở Bắc, tức người phương Bắc. Triệu Đà người Chân Định, Hà Bắc làm vua nước Nam Việt, tuy nhiên Lý Ông Trọng không phải là Triệu Vũ Đế mà chính là Trọng Thủy. Trong sử sách gốc, tên là "Trọng" chứ không có "Thủy". - Hương, Bổng, Đổng, Đằng: Đổng là Thánh Gióng, thờ ở phương Đông - ok, Lý Ông Trọng hoặc Triệu Vũ Đế, phương Bắc, -> Bổng, Tản Viên thờ ở phương Tây - Đằng và Ai thờ ở phương Nam -?...! Rõ ràng, đây là hình ảnh của 4 vị đại tướng. - Có thể, sau khi Hán thôn tính, dòng họ chính thống nhà Âu Lạc và Triệu sau này rút về vùng đất Lào (Ai Lao), vùng Bồn Man thời Lý, để lại dấu tích là cánh đồng Chum -> Chúng ta cần kiểm tra lại.
  8. HỒNG BÀNG NGHĨA LÀ GÌ? Hà Văn Thùy Xưa nay, phần đông chúng ta vẫn hiểu Hồng Bàng là con chim lớn: hồng là lớn, còn bàng là chim. Nhưng mới đây, trong bài khảo cứu công phu TÊN GỌI HỌ HỒNG BÀNG, đăng trên trang Khoahocnet.com, tác giả Phan Anh Dũng cho rằng Hồng Bàng có nghĩa là Rồng Vàng. Chúng tôi xin bàn lại đôi điều. Họ Hồng Bàng xuất hiện cùng việc Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN. Cùng thời điểm này nảy sinh truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Như vậy Rồng xuất hiện từ xa xưa, với vai trò vật tổ của người Việt, là hình tượng hóa của con cá sấu. Rồng Vàng theo ta hiểu hôm nay gồm danh từ Rồng và tính từ Vàng. Rồng có nguồn cội xa xưa còn Vàng với nghĩa tôn quý ra đời khi nào? Theo tôi, trong hai hoàn cảnh sau: 1. Khi Vàng được phát minh, trở thành thứ kim loại quý hiếm, được dùng trong trang sức và nơi thờ tự linh thiêng. Điều này chỉ xuất hiện khi kỹ nghệ luyện kim cao, phát minh ra lò nung đặc biệt cùng nguồn nhiên liệu có nhiệt lượng lớn. Như vậy, vàng kim loại chỉ ra đời vào giai đoạn sau của Thời đại Kim Khí. Ta biết, hiện vật đồng sớm nhất tìm thấy ở phương Đông là con dao găm có tuổi 1850+/-50 năm TCN. Vàng phải xuất hiện sau thời điểm này. 2. Theo sách sử, chỉ vào thời Chu, khoảng 1100 năm TCN, khi các ông vua độc chiếm màu vàng cho mình và dòng họ: Hoàng long, hoàng tộc, hoàng gia, hoàng bào, hoàng ân… thì màu vàng mới là biểu tượng tôn quý. Trước đó, vua đầu tiên của Trung Hoa lấy hiệu Hoàng Đế (黃帝)thì cũng chỉ có nghĩa là vị vua của vùng Hoàng thổ. Do xuất hiện muộn như vậy nên biểu tượng Vàng không thể gắn với Hồng - rồng là danh xưng có mặt trước nó hàng nghìn năm. Mặt khác, đúng như ông Phan Anh Dũng nhận định, chữ vuông được dùng để ký âm tiếng Việt cổ, nên tình hình có thể như sau: Thời đó, do phụ âm chưa phân biệt và thanh điệu chưa xác định nên trong tiếng Việt cổ có thể có những dạng: krong à hồng à sông à long à rồng. Vậy Hồng có nghĩa là Rồng. Nhưng chữ Hồng 鴻 trong Hồng Bàng với bộ Điểu và chữ Giang, ta có thể chắc là chữ để chỉ tên loài chim nước, có thể là con ngỗng trời, còn gọi là hồng hạc. Vậy chữ Hồng cũng là chim. Thực sự có những con chim mang tên hồng: Hồng hạc, hồng hộc… Thời cổ cũng có khủng long bay, là loài rồng có cánh. Vậy, trong Hồng Bàng, Hồng là chim, là biểu trưng của Tiên. Tương tự, chữ Mang (厖)có thể là ký âm của mạng, mãng, vàng. Ta quen gọi rắn là mãng xà nhưng với người xưa thì mãng và xà cùng là rắn. Hãy nhớ tích Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghiệp để rồi cuối cùng bị con rắn chúa Vương Mãng diệt. Mang là rắn. Rắn cũng là rồng. Trong việc chọn chữ vuông để ký âm tiếng Việt cổ Hồng Bàng sau này, người đầu tiên đã dùng chữ Mang 厖 với nghĩa mãng. Nếu liên hệ tới những biến dạng khác của chữ Bàng 龐, ý nghĩa rồng rắn của từ Mang càng rõ hơn. Do vậy, Hồng Bàng là Chim và Rắn tức là Tiên Rồng. Ông Phan Anh Dũng nói: “Từ phân tích trên người viết phỏng đoán có thể Hồng Bàng là một từ phiên âm tiếng Việt cổ, được ghi lại về sau khi chữ Hán đã du nhập vào vùng Lĩnh Nam.” Tôi cho rằng, chữ Hồng Bàng được ký âm ngay từ thời Kinh Dương Vương tại kinh đô Lương Chử. Có điều đã bị thất lạc hoặc người sau không đọc được. Tại đây phát hiện nhiều chữ giáp cốt: Giáp cốt văn Lương Chử Hình tượng Si Vưu đầu rồng Khảo sát văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, mà chắc chắn đó là kinh đô nước Xích Quỷ của Hồng Bàng thị, ta cũng thấy nhiều vật bằng ngọc khắc nhân hình thú diện mà mặt thú là mặt con rồng từng gặp từ thời Tần Hán về sau. Người dân của văn hóa Lương Chử được học giả Trung Quốc xác nhận là người Lạc Việt, được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân. (羽人或羽民)。 Vũ có liên hệ tới chim. Kết hợp hai yếu tố này, ta thấy truyền thuyết về Hồng Bàng thị với vật biểu Tiên Rồng được chứng minh: Hồng Bàng là Tiên Rồng. Bài thơ trên Điện Thái Hòa ở Đại Nội Huế: Văn hiến thiên niên quốc Xa thư vạn lý đồ Hồng Bàng khai tịch hậu Nam phục nhất Đường Ngu Có thể dịch như sau: Nước nghìn năm văn hiến Muôn dặm rộng cơ đồ Từ Tiên Rồng mở cõi Trời Nam một Đường Ngu Sài Gòn, cuối Đông năm 2015
  9. Thơ - Phạm thiên Thư Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị đã từng gây xôn xao trong đời sống Âm nhạc miền Nam. Cả Thơ lẫn Nhạc đều rất tuyệt vời... Từ tiếng hát cao vút của Thái Thanh, một giọng hát được nhiều Văn nghệ sĩ cho là " Tiếng hát vượt thời gian", cùng với những ca từ của Ngày xưa Hoàng Thị chấp chới đi vào hồn người. Phải nói rằng, dạo đó thơ Phạm Thiên Thư là một hiện tượng, bởi sau thành công của Ngày xưa Hoàng Thị, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thêm liên tiếp những ca khúc từ thơ Phạm Thiên Thư: Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Gọi em là đóa hoa sầu... Người ta đua nhau tìm đọc thơ Phạm Thiên Thư - một tu sĩ Phật giáo - bởi hơi hướm Thơ vừa nhuốm mùi Thiền vừa vươn tình Trần. Chẳng thế mà tập thơ Đoạn trường Vô thanh (hậu Kiều) của ông được trao Giải nhất Văn chương - thể loại Trường ca vào năm 1973... Rồi người ta đoán già, đoán non cô Hoàng Thị Ngọ là ai mà có sức hấp dẫn đến thế, khiến cho người thơ đã nương cửa Phật vẫn phải vướng mùi tục lụy? Theo Hà Đình Nguyên: "... Phải đến 40 năm sau tôi mới có dịp diện kiến nhà thơ Phạm Thiên Thư, khác với những gì tôi mường tượng: tác giả Ngày xưa Hoàng Thị không mang dáng dấp thư sinh, nho nhã, mà đẹp như một... “lão ngoan đồng”. Ông hiện là chủ quán cà phê Hoa Vàng ở cư xá Bắc Hải, Quận 10, Saigon tên quán chắc là để nhắc nhớ đến ca khúc Đưa em tìm động hoa vàng nổi tiếng một thời? Câu đầu tiên ông “chào” tôi là một câu lục bát: “Dễ gì được một vần thơ/ Mà nghe nghiệp chướng, lại ngờ tiền oan”. Rồi ông kể về Ngọ: “Rất đơn giản, tôi tuổi Thìn (1940), còn cô ấy tuổi Ngọ (1942) cho nên được bố mẹ đặt luôn tên là Ngọ. Cách nhau 2 tuổi nhưng học cùng lớp đệ tam ở trường Trung học Văn Lang (khu Tân Định). Ngọ có dáng người thanh mảnh với mái tóc dài thả ngang vai. Mỗi khi xếp hàng vào lớp, cô ấy đứng đầu hàng bên nữ, tôi đứng cuối hàng bên nam, tha hồ ngắm... Vào lớp, cô ấy ngồi bàn đầu, tôi bàn cuối. Ngọ học rất giỏi, còn tôi chỉ giỏi... đánh lộn (gia đình tôi vốn có truyền thống võ thuật). Có lần thầy giáo gọi tôi lên trả bài, tôi không thuộc nhưng thay vì lên tận bàn thầy giáo trên bục giảng, tôi chỉ đi đến ngang chỗ Ngọ ngồi thì dừng lại. Ngọ biết ý, lén mở cuốn tập ra cho tôi... liếc, đọc vanh vách! Nhà tôi ở đường Trần Khắt Chân, nhà Ngọ ở Trần Quang Khải, cũng cùng khu Tân Định nên đi về chung đường. Mỗi lần tan trường, cô ấy ôm cặp đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Tóc Ngọ bay bay trên đôi vai gầy nhỏ nhắn. Có những hôm trời mưa lất phất, cô ấy đưa cặp lên che ngang đầu. Tôi thấy thương quá, muốn làm một cử chỉ gì đó như là để chở che nhưng... thở mạnh còn không dám, nói chi là... Đậu tú tài xong tôi vào Đại học Vạn Hạnh”... “Tại sao ông lại trở thành tu sĩ Phật giáo?”. “À, như đã nói, gia đình tôi vốn có truyền thống con nhà võ, từng lập “Học hội Hồ Quý Ly” quy tụ cả trăm người, khiến chính quyền miền Nam lúc ấy nghi ngờ, phải giải tán. Năm 1964 tôi “trôi dạt” vào “ăn cơm chay” ở các chùa: Vạn Thọ (Q.1), Kỳ Quang, Bà Đầm (Q.Phú Nhuận), rồi Đại học Vạn Hạnh... Cho dù đã nương thân vào cửa chùa nhưng mỗi lần đi ngang qua con đường cũ, hình ảnh cô học trò ôm cặp, tóc dài bay bay trong gió vẫn thấp thoáng đâu đây... Và rồi những tứ thơ tràn về: “Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Chim non giấu mỏ/ Dưới cội hoa vàng/ Bước em thênh thang/ Áo tà nguyệt bạch/ Ôm nghiêng cặp sách/ Vai nhỏ tóc dài... Em tan trường về/ Cuối đường mây đỏ/ Anh tìm theo Ngọ/ Dáng lau lách buồn... Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Trao vội chùm hoa/ Ép vào cuối vở/ Thương ơi vạn thuở... Ôi mối tình đầu/ Như đi trên cát/ Bước nhẹ mà sâu... Mười năm rồi Ngọ/ Tình cờ qua đây/ Cây xưa vẫn gầy/ Phơi nghiêng dáng đỏ/ Áo em ngày nọ/ Phai nhạt mấy màu/ Chân theo tìm nhau/ Còn là vang vọng... Dáng ai nho nhỏ/T rong cõi xa vời/ Tình ơi... Tình ơi!”... “Tại sao nhạc sĩ Phạm Duy biết thơ ông để phổ nhạc?”. “Là thế này, năm 1968, tôi có ra tập thơ đượm mùi thiền Phật giáo, in rất ít, chỉ để tặng bạn bè. Cụ Nguyễn Đức Quỳnh (nhà văn) đọc thấy thích quá mới giới thiệu với nhạc sĩ Phạm Duy, và nhạc sĩ đã phổ 10 bài đạo ca của tôi. Đó là cái duyên để đến năm 1971, nhạc sĩ Phạm Duy lại phổ nhạc bài Ngày xưa Hoàng Thị. Lạ một điều là bà xã tôi bây giờ lại rất giống Ngọ, có thể nói là một chín, một mười”. Người viết tuy ngồi trong (động) Hoa Vàng nhưng tiếc ngẩn ngơ vì không được may mắn diện kiến nữ chủ nhân để ít ra cũng có thể hình dung được một nhan sắc thuở nào…". Thơ Lục bát của Phạm Thiên Thư thật là hay, mà Thơ 4 chữ cũng không kém. Đặc biệt Ông được coi là "người thi hóa kinh Phật " (dịch kinh Phật ra thơ) và là tác giả của nhiều bài thơ phảng phất triết lý mà ông đã tin theo. Trong bài Phạm Thiên Thư, người thi hóa kinh Phật, Hà Thi viết: Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ Đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam Việt Nam) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: Em lễ chùa này, Ngày Xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu...Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa Đời nửa Đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ...Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Hoàng Nguyên Vũ trong bài Cõi lạ Phạm Thiên Thư còn cho biết thêm: Nhà thơ Phạm Thiên Thư sinh trong một gia đình bố mẹ làm nghề bốc thuốc nhưng thích thơ văn. Tuổi thơ của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho ông được những tiền đề thuận lợi, nhưng để một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm 1958, sau một biến động của cuộc đời... Chuyện là ông có nhóm bạn thơ họa Hồ Quý Ly, tụ tập đàn đúm thơ phú đêm ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ “ương ương dở dở”, cảnh sát đã giải tán. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng... Ông viết Động Hoa Vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động Hoa Vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo: Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi... Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong Văn học Việt Nam...Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ... Phạm Duy: "...Saigon 1971. Tôi gặp Phạm Thiên Thư vào lúc tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả Lại Em Yêu, Con Ðường Tình Ta Ði... Tôi được vị tu sĩ vừa cởi áo nâu sồng đưa cho một bài thơ cũng nằm trong đề tài này để phổ nhạc, chỉ khác có một điểm là cô bé trong bài thơ không mang những cái tên diễm lệ như Tuyết Nhung hay Dạ Thảo, mà mang một cái tên rất bình dị là Ngọ, Hoàng Thị Ngọ. Tôi dùng một âm giai ngũ cung và một thể nhạc kể truyện để đưa ra Tình khúc rất bụi đỏ đường mơ này. Từ đó, tôi luôn luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư như tập thơ Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng hay bài thơ Gọi Em Là Ðóa Hoa Sầu... để phổ thành những bài hát "Thanh cao nhất của thời đại". Ðối với tôi lúc đó, hình ảnh Thiền, Chùa, Động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết. Bài Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của Thi sĩ, và ta chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên non tìm Động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là để ẩn náu vậy. Lúc đó tôi tự coi mình cũng là một kẻ từ quan tìm được một nơi ẩn náu là cõi thơ Phạm Thiên Thư...". Một sáng cuối mùa Xuân ở đất nước phương Nam, một mình ngồi uống trà xanh, vừa nghe Ngày Xưa Hoàng Thị..". NNS lấy làm buồn tiếc, đã không được trải qua tuổi học trò mộng mơ, đầy kỷ niệm nơi Quê nhà một thời như Phạm Thiên Thư. Theo Mẹ ra nước ngoài từ hồi còn bé, ngồi chung lớp với những cô bạn học tóc vàng sợi nhỏ, lãng mạng đến đâu thì cũng chỉ như Cung Trầm Tưởng: "Người em mắt nâu/ Tóc vàng sợi nhỏ/ Anh thương em chín đỏ trái sầu..", chứ làm sao sánh được rung cảm như Phạm Thiên Thư: "Em tan trường về/ Cuối đường mây đỏ/ Anh tìm theo Ngọ/ Dáng lau lách buồn..". Năm nay Trời đổi mùa, nhiều mưa. Những cây Phượng tím giăng ngập lối, báo hiệu mùa Hè đến sớm trên đất nước Phước Đức phương Nam đang tạm dung. Mùa hè ở xứ người cũng có tiếng ve râm ran gợi nhớ, nhưng không có Phượng đỏ như trong Ngày Xưa Hoàng Thị trên Quê hương mình, mà là Phượng tím. NNS cố tìm chút hình ảnh "Ai mang bụi đỏ đi rồi" , nhưng biết tìm đâu: : Cây xưa vẫn gầy/ Phơi nghiêng dáng đỏ/ Áo em ngày nọ/ Phai nhạt mấy màu..., chỉ thấy màu tím (buồn rưng rưng) , phủ rợp lối về. ................................................................................................. Thơ: Phạm Thiên Thư Vết Chim Bay Ngày xưa anh đón em Nơi gác chuông chùa nọ Con chim nào qua đó Còn để dấu chân in Anh một mình gọi nhỏ Chim ơi biết đâu tìm Mười năm anh qua đó Còn vẫn dấu chân chim Anh một mình gọi nhỏ Em ơi biết đâu tìm Ngày xưa anh đón em Trên gác chuông chùa nọ Bây giờ anh qua đó Còn thấy chữ trong chuông Anh khoác áo nâu sồng Em chân trời biền biệt Tên ai còn tha thiết Trong tiếng chuông chiều đưa Ngày xưa em qua đây Cho tình anh chớm nở Như chân chim muôn thuở In mãi bực thềm rêu Cõi người có bao nhiêu Mà tình sầu vô lượng Còn chi trong giả tướng Hay một vết chim bay Thuyền Trăng Như con người thái cổ Nhìn trăng ta rùng mình Ước chi là bến đỗ Ôm cánh thuyền thuỷ tinh Sao như bầy hải âu Bay quanh thuyền ánh sáng Chở khối tình quá vãng Xuôi về đâu – về đâu Ta không là sông sâu Mà nghe hồn sóng vỗ Ta không là bến đỗ Mà sao tình vấn vương Tà áo trắng như sương Ai theo thuyền đâm độ Nỗi sầu ta nở rộ Như ngàn hương – ngàn hoa Từ một thời rất xa Mịt mù trong dã thoại Đêm nay ta gặp lại Trái tim mình trong trăng. Biếc phố Lắng nghe từng sợi mưa dài Cơn mây xõa tóc bên ngoài hè xanh Hạt nào biếc phố long lanh Hạt nào cẩn ngọc trên nhành tay hương. Lắng nghe ủ rũ con đường Mùa thu lấp ló trên tường rêu hoang Lắng nghe đôi ngọn lá vàng Xạc xào như tiếng thời gian thở dài Lắng nghe đôi cánh mày ai Dường như đậm nét cảm hoài bâng khuâng Lắng nghe hồn nhẹ lâng lâng Cảm ơn! Từng sợi tóc bồng bềnh mưa. Quét hoa Hồn rơi theo từng cánh mang mang Em bỗng đâu quét cội hoa vàng Gom tình ta vào trong rổ trúc Rồi lạnh lùng hắt xuống tràng giang Vàng tay nước vẫn trôi đi bao giờ ngơi nghỉ tình ta chung thủy chẳng như dòng này đâu em có hay buổi chiều hôm nay ta châm điếu thuốc nhớ dài ngón tay Sưu tầm
  10. TỪ ĐÀM QUÊ HƯƠNG TÔI Viết để tưởng nhớ người anh trong GĐPT và nhạc sỹ Văn Giảng (Thông Đạt) Nhạc sĩ Văn Giảng (Thông Đạt, Nguyên Thông) Tuần trước nhà văn và hoạ sỹ Trần Thị Lai Hồng có chuyển tin về nhạc sỹ Văn Giảng (Thông Đạt) tác giả bài hát bất hủ Ai Về Sông Tương vừa qua đời bên Úc, từ tấm bé chúng tôi có nghe bài này rất nhiều lần. Rồi chị cả Tâm Minh Vương Thuý Nga cho biết nhạc sỹ Văn Giảng và vợ cũng đã từng sinh hoạt trong tổ chức GĐPT (trong đoàn của chị Hoàng Thị Kim Cúc) và có pháp danh Nguyên Thông để viết nhạc. Nhưng mãi khi đọc lời chia buồn của anh Trần Trung Đạo trên facebook, mới biết nhạc sĩ Văn Giảng cũng là tác giả bài nhạc Từ Đàm Quê Hương Tôi, một bài hát mà chúng tôi những người huynh trưởng hoặc đoàn sinh GĐPT ai cũng biết. Từ Đàm Quê Hương Tôi Tác giả: Nguyên Thông Quê hương tôi miền Trung Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn Quê hương tôi là đây Sớm hôm hương trầm nhẹ bay Vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy Ôi thân yêu bóng chùa Từ Đàm Nơi Bắc Nam nối liền một nhà Tay trong tay quyết vì loài người đời lầm than Bóng ai, từng đêm, đêm về Còn nhớ thuở nào đây Câu thề cùng ước nguyện cứu đời Tiếng ai, chiều nay u hoài Trầm lắng vọng về theo Câu thề nguyện hiến mình cho đời Ai đi qua miền Trung Khoan khoan ơi người dừng chân Lắng nghe về đây hồn ai u hoài Ôi anh linh bóng chùa Từ Đàm Ôi nơi đây nắng chiều dịu dàng Ai hy sinh cứu đời phũ phàng, Từ Đàm ơi! Hãy lắng nghe nhà thơ Trần Trung Đạo tâm sự: "Tôi có một ước mơ nho nhỏ. Mai mốt khi trở về, tôi sẽ đi thăm chùa Từ Đàm. Tôi sẽ ngồi trong yên lặng trên thềm chùa, để lắng nghe từ trong lời kinh, từ trong tiếng chuông ngân, từ trong lòng đất, những lời nhắc nhở, những lời dặn dò, những tiếng chân của bao bậc tôn sư và các anh chị trưởng đang vang vọng lại trong tâm hồn tôi. Tương tự, tôi cũng tin sẽ có một ngày, các em, các cháu đoàn viên Gia Đình Phật Tử, vừa mới sinh ra, sẽ sinh ra và lớn lên trên nước Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Úc …. cũng trở về. Các em lại như tôi, ngồi bên bậc thềm chùa Từ Đàm và nói với nhau bằng tiếng Việt Nam không dấu 'Tại đây, chính từ nơi này, một trăm năm trước, hai trăm năm trước, ba trăm năm trước, có những người huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam với những chiếc áo lam giống như chúng ta và phương châm Bi Trí Dũng giống như chúng ta, đã bắt đầu hành trình đào tạo Thanh, Thiếu, Đồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần vào việc cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo, nhờ thế mà có chúng ta.' Và trong số các em, thế nào chẳng có em sẽ khe khẻ hát Quê hương tôi là đây….”. Nghe và hát Từ Đàm Quê Hương Tôi nhưng tôi chưa bao giờ thắc mắc hay đi tìm hỏi tác giả Nguyên Thông của bài hát là ai, mãi đến hôm nay, khi tác giả qua đời. Người viết bản nhạc là nhạc sĩ Văn Giảng. Ông cũng là tác giả của tình ca nỗi tiếng Ai Về Sông Tương viết vào năm 1949. Ai có về bên bến sông Tương Nhắn người duyên dáng tôi thương Bao ngày ôm mối tơ vương Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương Tâm hồn mơ bóng em luôn Mong vài lời em ngập hương... Và một bài hát mà không một người lính Việt Nam Cộng Hòa Nào mà không biết, đó là bài Lục Quân Việt Nam. Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi…" Thêm vào đó, đọc bài ‘Giấc mơ ở hai đầu biển rộng' của anh Uyên Nguyên mới biết, nhạc sỹ cũng là tác giả một bài hát bất hủ khác: "Tình Em Biển Rộng Sông Dài" mà chúng tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần từ khi còn nhỏ cho mãi đến bây giờ. Hãy nghe Uyên Nguyên kể: "Đêm choàng trở giấc mơ ở hai đầu biển rộng, tôi thấy sông và cây cầu tương tư trong nhạc của Văn Giảng chỉ là một, là nỗi khát khao Việt Nam hòa bình, giục dã, ngân dài:" Hòa bình ơi, Tình yêu em như sông biển rộng. Tình yêu em như lúa ngoài đồng. Tình yêu em tát cạn biển đông. Hòa Bình ơi, ơi hòa bình ơi Sao em nỡ lòng kẻ đợi người trông. Sao em nỡ lòng lúa khô ngoài đồng. Sao em nỡ lòng. Người về đây xin may áo cưới Tặng người yêu vui trong lúa mới. Tôi đón em đi về. Tôi đón em đi về. Xây dựng lại tình quê. Hòa bình ơi, chờ trông nhau như con chờ mẹ Chờ trông nhau như gió mùa hè Chờ trông nhau nắng đẹp tình quê Hòa bình ơi, ơi hòa bình ơi Ba mươi tuổi đời thoát từ vành nôi Ba mươi năm truờng khổ đau nhiều rồi. Về đây hỡi người ơi! Về đây hỡi người ơi…! (Thông Đạt, tức Nhạc sĩ Văn Giảng - Tình Em Biển Rộng Sông Dài) Vì mến mộ những bài nhạc trên của nhạc sỹ, nên hôm nay viết bài thơ ngắn này để tưởng đưa một người anh trong tổ chức GĐPT, một nhạc sỹ tài hoa và khiêm tốn của quê hương Việt Nam. Tiễn nhạc sỹ NGUYÊN THÔNG - Văn Giảng Tác giả bài Từ Đàm - Quê Hương Tôi Nguyên Bồ Đề tâm tỏa Thông kinh điển mây bay Ngô gia tề phước lộc Văn Tư Tu đong đầy Giảng cứu trầm luân khổ Người thăm Tịnh Độ Ta Bà Yêu thương để lại về nhà Như Lai Có thể nói sự nghiệp âm nhạc của nhạc sỹ Văn Giảng (Nguyên Thông, Thông Đạt) rất đa dạng, trầm mặc, lờ lững và khắc khoải tựa sông Hương, thanh tao và sâu sắc như biểu tượng Hoa sen trong Phật giáo. Xin cúi đầu thành kính đưa tiễn Giác linh Người và xin chân thành phân ưu cùng tang gia hiếu quyến của nhạc sỹ Ngô Văn Giảng . Sacramento, May 14th, 2013. * Tên của hai bài nhạc bất hủ nhạc sỹ Văn Giảng mà người viết rất đam mê từ nhỏ. Video: Tu Dam Que Huong Toi, GDPT Truc Lam, Chicago Video: Tình Em Biển Rộng Sông Dài. Hương Lan. Toàn những bài hát mà lũ chúng tôi (cùng những người bạn thân - cấp, I, II, III...) thích từ cấp III cho tới tận ngày nay, những bài hát tự tình của ông sẽ còn mãi mãi với dân tộc Việt Nam, đặc biệt là bài Từ Đàm quê hương tôi (chỉ tiếng hát Hương Lan là tuyệt nhất), Tình em biển rộng sông dài (chỉ tiếng hát Duy Khánh là tuyệt nhất) và Ai về sông Tương thật tuyệt diệu. Đạo Vàng trong bài hát Từ Đàm quê hương tôi: một cái tên diệu kỳ, cũng là tên cuốn sách Ánh Đạo Vàng của tác giả Võ Đình Cường.
  11. Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân và thiền gia trong một nhân cách - Trần Nhân Tông NGUYỄN HUỆ CHI – TRẦN THỊ BĂNG THANH Thứ hai, 27 Tháng 8 2012 06:27 Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một ông vua giỏi và tài hoa. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” thời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng. Nhân Tông sinh năm Mậu Ngọ (1258), lên ngôi năm Mậu Dần (1278), mới tròn hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình, nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều đã vào nề nếp,… Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song khó khăn đối với ông vua trẻ lại là cái áp lực dồn tới từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt đầu tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối cùng là hai cuộc xâm lăng năm 1285 và 1287 – 1288 ào ạt, dữ dội hiếm thấy. Trong vòng bốn năm phải đương đầu với hai trận tấn công của “giặc mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi lần con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ, trong khi phần lớn các nước trên cựu lục địa đều đã bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân Mông Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tông đã cố kết được lòng dân, phát huy được năng lực của các tướng, động viên được tài trí của cả nước đánh thắng giặc, giữ vững cương thổ, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước nhà. Vào tháng Tám năm Nhâm Ngọ (1282), khi được tin 50 vạn quân Toa Đô lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành sắp kéo vào bờ cõi, Trần Nhân Tông chủ động “ngự ra Bình Than” tổ chức cuộc “họp vương hầu và trăm quan bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu”(1). Không chỉ thế. Hai năm sau nữa, vào tháng Chạp năm Giáp Thân, khi được tin Thoát Hoan sắp đưa đạo quân chủ lực hùng mạnh tiến xuống Đại Việt, giữa giờ phút khẩn trương căng thẳng, lại có tiếp một cuộc họp mặt “phụ lão trong nước” ở điện Diên Hồng, “ban yến và hỏi kế đánh giặc”, lần này người đứng ra điều khiển là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, đã đủ sự tín nhiệm về tuổi tác để đối diện với người tuổi tác, nhưng chắc chắn ông vua trẻ vẫn ở phía sau. Có thể nói đây là hình thức hội họp đầu tiên trong lịch sử chế độ quân chủ nước ta nhằm lấy ý kiến rộng rãi về một vấn đề trọng đại của đất nước, vốn chưa có tiền lệ – mà hình như lịch sử về sau cũng không lặp lại. Quả là hai vua Trần đã có sáng kiến “không tiền tuyệt hậu”, trải lòng mình với trăm họ, khích động được tình cảm muôn dân, làm cho niềm cảm khái trong mọi tầng lớp vương hầu và dân chúng nhanh chóng dâng lên và quy tụ về một mối, từ hành vi bóp nát quả cam trong tay Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản khi không được bàn việc quân ở Bình Than vì tuổi còn quá trẻ, đến việc “các vị phụ lão có mặt [ở thềm điện Diên Hồng, trong cuộc họp sau] đều nhất loạt nói “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng”(2). Mầm mống dân chủ của xã hội nhà Trần đã khởi nguồn từ đấy mà ra chăng? Riêng Trần Nhân Tông, trong kháng chiến chống ngoại xâm, đáng được coi là một trong những anh hùng tiêu biểu – anh hùng mà không rọi hào quang ra ngoài. Công lao của vị tướng lĩnh kiệt xuất gánh vác trọng trách quân sự hàng đầu là Trần Quốc Tuấn không thể phủ nhận. Vai trò cố vấn tối cao của Thượng hoàng Trần Thánh Tông cũng khó lòng coi nhẹ. Nhưng ở vị trí một trong hai người nắm giữ quyền lực bậc nhất, lại trẻ trung xông xáo, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của xã tắc giữa giờ phút cheo leo bên bờ vực thẳm. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn và trong phối hợp chỉ đạo nội chính và quân sự, ông đã đem lại cho quân dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng. Những năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh giặc thưởng công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp tục đối phó với cuộc tấn công phục thù của địch, vận dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo và cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách ngang ngược của sứ bộ nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao cho nước mạnh dân giàu. Hơn mười bốn năm làm vua của ông (1278 – 1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông đã dành hầu hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông chặt chẽ với nhau: giang sơn tông miếu vững bền và nhân tâm an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn lịch sử đã đóng lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của người xưa, dễ dàng chỉ ra những việc nên làm và không nên làm… Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân Tông thuở đó chỉ mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh vác trách nhiệm quyết định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất còn của cả dân tộc thì mới thấy hết bản lĩnh và tầm vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu chẳng phải một kẻ địch hạng xoàng! Hốt Tất Liệt vốn là một tướng cầm quân lão luyện, giặc Thát lại là một đội quân ngang dọc vẫy vùng từng bách chiến bách thắng khắp từ Âu sang Á. Và sau khi đã làm chủ mảnh đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn tập hợp được cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều người từng là nhà ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những hoàn cảnh cụ thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và việc ông làm, trong nhiều thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người như ông. Vào khoảng cuối 1284 đầu 1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất (tính trong cả ba cuộc là lần thứ hai) diễn ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp – Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân Trần phải lùi về Vạn Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông tránh mũi dùi tấn công của giặc, giữa lúc quần thần không khỏi hoang mang, Trần Nhân Tông tuy cũng rất lo lắng nhưng khi biết tin các cánh quân của Trần Quốc Tuấn vừa kịp nhóm họp lại, thanh thế đang dần khởi sắc, ông đã viết vào đuôi thuyền hai câu: Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh. (Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ, Hoan Diễn còn kia mười vạn quân) (3) Hai câu thơ, có lẽ chỉ nhằm trấn an những bề tôi nào đó cùng đi trên thuyền trong cuộc rút lui khẩn cấp, tuy vậy đã lan truyền rất nhanh như một thông điệp về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người cột trụ Triều đình. Một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân Ngô dồn đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên, đánh bại đội quân hùng mạnh của nước Ngô. Gợi một điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình vào triển vọng của đất nước lúc bấy giờ, trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời Trần Nhân Tông cũng nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương Thanh – Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn quan trọng hơn là cái dung lượng triết lý mà câu nói của ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không phải chiếu lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng lúc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt nhìn động của một triết nhân, để họ nhận rõ xu thế chuyển hoá bên trong của cái hiện thực rối bời trước mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc chiến đấu tưởng như rất bất lợi nhưng lại đang diễn ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” – vị khách không mời mà đến, điều ấy cả ông và Trần Quốc Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài. Cũng với niềm xác tín phi thường như thế ta lại thấy buột thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào ngày khải hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu tích chiến tranh để lại còn ngổn ngang. Hai câu thơ như một âm hưởng vĩ thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền chạy giặc ngày nào mà sự đối lập động và tĩnh ở đây tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống nhất: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng) (4) Rõ ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây ra dù có ghê gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử bác bỏ. Thực tế đất nước đã vận động đúng như suy đoán tài tình của nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để trở lại thế tĩnh cân bằng. Phải nói, niềm xác tín lịch sử của Trần Nhân Tông có được chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân bản đối với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử thách thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người một cách đơn nhất hoá. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì như đã nói, khi vừa bắt gặp chiếc thuyền bán than của Trần Khánh Dư – một tướng tài nhưng cũng lắm tật – lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân Tông đã có ngay lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư đến và cho được dự vào hàng tướng soái cầm quân(5). Thái độ bao dung của vị Hoàng đế thực không uổng phí: rồi đây Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây được một tâm lý thoáng đạt cởi mở, giúp mọi chi phái quý tộc nhà Trần vốn không phải không có những chia rẽ ngấm ngầm, xích lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc. Trần Nhân Tông cũng đã không hề băn khoăn hiềm nghi Trần Quốc Tuấn khi giao phó cho Quốc Tuấn trọng trách Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội, tuy ông thừa biết Quốc Tuấn là con trai người anh ruột ông nội mình, tức là dòng trưởng mà lại không được nắm ngôi báu, còn bị “xử ép” trong nhiều chuyện, nên từng khởi loạn. Lòng tin của ông ở đây một lần nữa lại được đáp đền xứng đáng: Quốc Tuấn đã biết tự vượt lên mình, dâng hiến tài năng quân sự thiên phú cho đất nước, đẩy lùi mọi chiến dịch vây ráp ác liệt của quân Nguyên, cuối cùng hất chúng trở lại phương Bắc một cách nhẹ nhàng. Sự trung hậu được đáp lại bằng sự trung hậu, thậm chí còn hơn cả sự trung hậu khi Quốc Tuấn trả lời ông thoải mái trước khí thế hung hăng của kẻ địch kéo cả đoàn thuyền chiến cùng 70 vạn thạch lương sang phục thù lần thứ ba: “Năm nay đánh giặc nhàn”(6). Đánh giặc nhàn không vì quân giặc đã giảm nhuệ khí mà vì sự gắn bó giữa nhân chủ và bề tôi đã đạt đến độ thâm sâu nhất, hoàn toàn thấu rõ bụng nhau. Cũng vậy, sau ngày khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt được một hòm thư biểu của không ít quan lại từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan, biết tình thế muôn phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có lúc xa giá Triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng thừa hiểu tâm lý con người thường tục ai mà chẳng có chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công khen thưởng(7), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ yên lòng người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu đó, dám chắc đây là một thời đại nhân hậu vượt lên mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ cũng là một thời đại có một không hai. Chưa phải đã hết. Chính trong những tháng ngày bôn ba đánh giặc, Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực: chỉ ở những đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung thành tận tuỵ mà không chút tính toán so đo. Hộ vệ ông đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được “bọn ấy” dâng cơm hẩm trên đường rút chạy phải nhịn đói từ sáng đến chiều(8). Nhận thức về cái cao quý của người nghèo hèn đã in sâu vào trực giác của ông nên sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp gia đồng của các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi, “răn bảo vệ sĩ không được thét đuổi họ”(9); khi trị tội những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho giặc, ông chủ trương “chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết”(10); ông cũng đem những điều chiêm nghiệm đã đúc thành chân lý dụ bảo bề tôi: “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn nạn chỉ có bọn chúng là có mặt”(11). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức nhà vua, có giá trị cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết, làm nên bệ đỡ cho cả một thời đại, nói như Trần Quốc Tuấn: “vua tôi chung sức đồng lòng”. Đối với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể từ sau năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng hoàng, rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành vị tổ thứ nhất dòng Thiền Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch năm Mậu Thân (1308), đã có nhiều cách lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô sĩ Liên (thế kỷ XV) thì cho là ông đã quá “để tâm rong chơi nơi kinh Phật, tuy nói là siêu thoát, song không phải là đạo Trung dung của thánh nhân”(12). Tăng Hải Hoà tức Nguyễn Đăng Sở (thế kỷ XVIII) lại liên tưởng xa hơn, rằng thực chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc. Bởi, mặc dầu: “trong nước vô sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm… Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế chí Bồ Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh) (13) . Thoạt nhìn, cả hai lời giải đáp trái ngược xem ra đều có những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng, cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Đăng Sở lại cùng chung một nhầm lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ quan, không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của vị Hoàng đế nhà Trần. Việc Trần Nhân Tông xuất gia vốn là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ còn trẻ. Từ thuở chưa lên ngôi, có thời gian ông đã quá mải mê với việc giữ gìn giới luật đến nỗi mặt võ mình gầy, Thánh Tông thấy vậy phải nhắc: “Trẫm nay đã già rồi, chỉ trông mong vào một mình con. Nếu con như thế thì cơ nghiệp lớn của tổ tông sẽ ra sao?”(14). Nhờ đấy ông mới hiểu ra phận sự của người con trưởng dòng dõi hoàng gia là “nối nghiệp báu”, phải đặt việc ấy lên trên, và bắt đầu chuyên tâm vào “trị quốc”. Cũng như mọi người con ưu tú của Đại Việt thông hiểu lịch sử, ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước quỷ của “thiên triều” – trừ những kẻ bụng dạ u tối “tài nông đức mỏng” ngẫu nhiên rơi vào chiếc “ghế cầm cân nảy mực”, thời nào cũng vậy – nhưng thiết tưởng ông cần gì làm cái chuyện khoác áo cà sa vào lúc cuối đời để giấu giếm những hoạt động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính trị hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp nhận. Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu thoát? Không! Nếu chỉ tìm đường siêu thoát cớ sao đã đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường định bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu, bỏ bê chính sự (1299)? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng miền trong nước, ông còn sang tận Chiêm Thành trong chín tháng trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện tác hợp Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301)? v.v và v.v. Chỉ có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi ta đặt Trần Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang nặng cảm thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp Thuận đã từng khuyên vua Lê Đại Hành: “Vô vi trên điện gác – Chốn chốn tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật ngữ, không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay nói như vua Lý Nhân Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác “Không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền uyển tập anh). Kế thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm “cư trần lạc đạo” – ở giữa cõi trần mà vui đạo, cũng là một khái niệm vô vi được vận dụng cụ thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi thịnh Trần: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên – Cơ tắc xan hề khốn tắc miên – Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch – Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” / Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên – Đói cứ ăn no mệt ngủ yên – Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm – Vô tâm trước cảnh hỏi gì Thiền (Cư trần lạc đạo phú) (15). Hãy để ý đến khái niệm “tuỳ duyên” trong bài thơ kết thúc mười hội của phú Cư trần lạc đạo. Tuỳ duyên là người không khăng khăng giữ lấy một chủ kiến bất chấp hoàn cảnh sống, trái lại biết nắm lấy cơ duyên nó đưa đẩy mình đến những tình thế mình không thể cưỡng, và biết biến cái bị động thành cái chủ động để vẫn giữ được tự thể của mình mà vẫn sống được hết mình. Đó chính là “tuỳ duyên chân như”, là sự chuyển hoá vi diệu giữa bản thể trường tồn và vạn pháp(16). Nhìn ở một góc độ nào đấy thì việc Trần Nhân Tông đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo lẽ “tuỳ duyên” rất biện chứng của nhà Phật. Cũng như ông nội và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch sử của cá nhân mình. Ông đang thực hiện vô vi ngay trên ngai vàng. Khi ông rời Triều đình lên Yên Tử, con người nhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay được!). Tuy vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn ai hết quy luật sinh lão bệnh tử của tự nhiên, Trần Nhân Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự lại cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu vô vi giờ đây là thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những câu hỏi lớn: Con người là ai? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu? Thế giới có hay không? Thật hay ảo?,… Những câu hỏi ấy loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất sớm con người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích Ca Mâu Ni tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả tâm cả vật – sắc, thụ, tưởng, hành, thức, chúng ta không loại trừ ở Trần Nhân Tông – giờ đây đã mang pháp danh Trúc Lâm Đại Đầu đà – niềm khát khao được toả sáng trí tuệ theo cách riêng của ông trước những câu hỏi loại này, để từ con người vô minh của nhân thế (Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu - Cư trần lạc đạo phú) thật sự trở thành một người tự do, không còn bị thế giới ngoại vật hữu hình câu thúc: Thuỳ phọc cánh tương cầu giải thoát? Bất phàm, hà tất mịch thần tiên. Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão, Y cựu, vân trang nhất tháp thiền. Thị phi niêm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ nhàn. Hoa tận vũ tình, sơn tịch tịch, Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn. (Sơn phòng mạn hứng) (Ai trói buộc chi tìm giải thoát? Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên. Vượn nhàn ngựa mỏi, ta già lão, Như trước, am mây chốn toạ thiền. Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, Lợi danh lạnh với trận mưa đêm. Hoa tàn, mưa tạnh, non im vắng, Một tiếng chim kêu, xuân cỗi thêm) (17) nhờ đó ít nhiều ông xây đắp cho Thiền phái Trúc Lâm một cơ sở triết thuyết nó là nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần. Kiên trì gầy dựng một hệ phái Phật giáo thống nhất trong cả nước, cả về mặt tổ chức, giáo lý, cách thức đào tạo, truyền nối, lại chủ trương tách sinh hoạt tôn giáo ra khỏi sinh hoạt chính trị, mở cho Phật giáo một không gian tâm linh khoáng đãng, tự do ở nơi rừng núi, không bị quyền lực nhà nước chi phối, lấy cả một vùng Yên Sinh – Yên Tử làm nơi quy tụ,… Về phương diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm vóc của một thời đại lớn trong lịch sử. * * * Theo sử sách còn ghi được, Trần nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông thi tập, Đại Hương Hải ấn thi tập, Tăng già toái sự, Thạch thất mỵ ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập. So với nhiều nhà thơ khác thời Lý – Trần, số lượng ấy kể cũng đã không phải là nhỏ. Do điều kiện sống phải phân thân thành hai chủ thể: một con người nhập cuộc và một con người xuất thế, thơ Trần Nhân Tông cũng mang hai loại cảm hứng khác nhau: cảm hứng thế tục và cảm hứng Thiền. Tuy nhiên, do quãng đời phải chấp nhận “sống giữa cõi trần mà vui đạo” trong ông khá dài, nên ở nhiều bài thơ, cảm hứng Thiền và cảm hứng thế tục vẫn thường xoắn quyện với nhau, khó lòng tách bạch. Thời gian xen giữa mấy cuộc chiến tranh và cả sau chiến tranh, Trần Nhân Tông trong vai nhân chủ phải gánh vác trọng trách triều chính rất nặng. Ông thường xuyên tiếp sứ Nguyên mà như ta biết đấy là một công việc hết sức vất vả, phải huy động tài năng của những bậc trưởng thượng bấy giờ cùng giúp sức để đối phó với đám chính khách sừng sỏ từ bên kia phái sang, được lệnh “thiên triều” luôn luôn gây khó dễ, đòi hỏi từ nghi lễ này đến nghi lễ kia, hoạch sách hết khoản này sang khoản khác, như Trần Quốc Tuấn tố cáo trong Dụ chư tỳ tướng hịch văn: “Lén nhìn sứ nguỵ đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn tấc lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tể phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương mà hạch sách bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn”(18). Nhưng lạ thay, thơ tiếp sứ và tiễn sứ của các văn nhân thời Trần đều trong sáng, gửi gắm những ý tình sâu kín và thái độ nhũn nhặn, như thơ Trần Quang Khải. Riêng Nhân Tông, ông có đến 5 bài thơ tặng và tiễn sứ, giọng điệu thuỷ chung rất mực ân cần. Cũng có một đôi câu có chút khách sáo, nhưng đó dường như là ước lệ không tránh được của loại thơ ngoại giao mà chẳng cứ Trần Nhân Tông đều phải dùng, ngoài ra bài nào cũng mang hàm nghĩa sáng rõ, bộc lộ tình cảm đôn hậu của tác giả: Thiều tinh lưỡng điểm chiếu thiên Nam, Quang dẫn thai triều dạ nhiễu tam. Thượng quốc ân thâm tình dị cảm, Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm. (Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng) (Trời Nam sao sứ chiếu hai ngôi, Dẫn lối ba vòng, đêm sáng soi. Bên ấy, ơn sâu tình cảm động, Nơi đây lễ bạc, thẹn sơ sài)(19) Điều đáng nói là sự đôn hậu chân tình khác với loại thơ tâng bốc. Không hề thấy một lời nào tỏ ra Trần Nhân Tông khiếp uy “thiên triều”. Năm 1291, Thượng thư Trương Hiển Khanh tức Trương Lập Đạo, sang sứ Việt Nam, vẫn với mục đích cố hữu như các vị sứ trước: dụ vua Trần sang chầu, mà nếu bị từ khước, ngay năm sau Hốt Tất Liệt sẽ động binh lần thứ tư. Nhân Tông và triều đình Trần cố nhiên phải tìm cách “hoá giải” cơn giận của vị chúa tể nước lớn để sự khước từ là một nguyên tắc bất biến không gây đổ vỡ. Trương Hiển Khanh được tiếp đón nồng hậu trong dịp ấy, được chứng kiến cái Tết mồng ba tháng Ba ở Thăng Long và được Nhân Tông tặng một mâm bánh kèm theo một bài thơ ý nhị: Giá chi vũ bãi thí xuân sam, Huống trị kim triêu tam nguyệt tam. Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính, Tòng lai phong tục cựu An Nam. (Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính) (Múa giá chi rồi, thử áo xuân, Hôm nay hàn thực, buổi thanh thần. Bánh rau, xuân sắc đầy mâm ngọc, Nước Việt tục này theo cổ nhân) (20) Lời thơ rất khiêm nhường nhưng không một câu chữ nhún nhường. Cả bài là một bức tranh rực rỡ về lễ hội, có điệu múa cổ dân gian đi liền với việc người dân nô nức mặc áo mới, có mâm cỗ đầy nhiều màu sắc thanh đạm mà tươi tắn. Câu kết như một lời nhắn gửi lễ độ đến vị khách: phong tục nước chúng tôi vốn có từ xưa như thế đấy. Trần Nhân Tông không hề đưa ra một lời bình nào nhưng bằng sự sắp xếp hình ảnh cuốn theo nhau trong một hoạt cảnh sinh sắc, đã làm hé lộ cả một chiều sâu văn hoá. Quả nhiên, Trương Hiển Khanh ít nhiều bị thuyết phục. An Nam chí lược quyển XVII, chép được một bài thơ ông ta làm hoạ đáp nhà vua trong dịp này: “An Nam tuy tiểu văn chương tại – Vị khả khinh đàm tỉnh để oa” (Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương – Chưa thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng) (21) Trần Nhân Tông là người đã đi hầu khắp đất nước. Trước khi đến với Yên Tử ông đã sống cuộc đời thật sự sôi động và vương giả. Trong thơ ông còn dấu ấn của những chặng đường đời ấy. Có những vần thơ hào hùng về những ngày ruổi rong đánh giặc, cũng có những vần thơ “chinh Tây” ngay sau khi vừa đuổi xong giặc Bắc, không đừng được phải ra đi mà lòng cứ trăn trở về hiệu quả đích thực của hành động chinh phạt do mình chủ xướng, bất giác thấy rầu rĩ, nhớ về nơi cung điện, đâm ra quý cuộc sống nhàn nhã, không bị luẩn quẩn vì chiến tranh. Âm hưởng bài thơ dõng dạc ở phần đầu nhưng phần cuối lại chùng xuống, từ hướng ngoại chuyển sang hướng nội: Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai, Bồng để yêm yêm thủ bất đài. Tam giáp mộ vân vô nhạn đáo, Cửu Than minh nguyệt hữu long lai. Thê lương hành sắc thiêm cung mộng, Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi. Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng, Nam nhi cấp cấp nhược vi tai. (Tây chinh đạo trung) (Buồm gấm vèo bay hoa sóng tung, Đầu nghe mỏi mệt dưới mui bồng. Mây chiều Tam Giáp trông: không nhạn, Trăng sáng Cửu Than thấy: có rồng. Quạnh quẽ dặm xa mơ điện cũ Vấn vương sầu lắng thấm ly nồng. Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến, Lật đật nam nhi có uổng công?) (22) Thơ Trần Nhân Tông ngôn từ giản dị và súc tích, đặc biệt cách tạo dựng hình ảnh làm toát lên cái không khí của cảnh tượng khiến mình cảm xúc thì ít nhà thơ nào có thể sánh. Về thăm lăng tổ phụ ở Long Hưng, cái vẻ tôn nghiêm của đế miếu gây phấn khích nơi ông. Ông liền vẽ lên bằng vài nét: nghìn quân lính đứng vác giáo nghiêm mật và trăm quan dàn hàng trước lăng, áo mũ đồng đều. Tuy nhiên, giá thử không có thêm một mái đầu bạc trắng của người lính già say sưa nói về trận chiến oanh liệt mà mình từng theo Thượng hoàng Trần Thái Tông trực tiếp xông pha đầu mũi tên ngọn giáo từ mấy chục năm về trước, thì không khí tôn nghiêm kia vẫn chưa thật có hồn, mới là cái vẻ hình thức bề ngoài mà chưa phải là “uy linh” từ xưa vẫn còn hiển hiện. Nhà thơ đã biết dồn bút lực cho một điểm xuyết thần tình ấy: Tỳ hổ thiên môn túc, Y quan thất phẩm chung. Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. (Xuân nhật yết Chiêu lăng) (Giáo đòng nghìn cửa mật, Áo mũ, bảy phẩm chung. Người lính già đầu bạc, Kể mãi chuyện Nguyên Phong) (23) Cũng có những chuyến đi mang lại cho nhà thơ ấn tượng tinh tế mà ấm áp, chẳng hạn một buổi chiều thanh bình ở phủ Thiên Trường, nó cho ta cảm giác về một vùng quê an lạc rất đỗi quen thuộc, song không phải lúc nào cũng có được: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý quy ngưu tận, Bạch lộ nhất song phi hạ điền. (Thiên Trường vãn vọng) (Xóm trước, thôn sau tựa khói lồng, Bóng chiều dường có lại dường không. Mục đồng sáo vẳng trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)(24) Ta để ý bài thơ tả cảnh một buổi chiều ở thôn quê nhưng dường như cũng là cách giải đáp một câu hỏi đã vấn vương rất lâu trong lòng tác giả về cái “hữu” và cái “vô“ của cuộc đời trước mắt. Hai câu đầu, buổi chiều hiện ra trong trạng thái “tĩnh” và mờ mờ ảo ảo bởi một làn khói bao phủ khiến người ngắm cảnh giằng mắc rất lâu trong cái cảm giác lẫn lộn giữa “không” và “có”. Nhưng chợt từ xa hình ảnh một chú bé chăn trâu đi gần lại với tiếng sáo véo von, đánh thức tri giác rõ rệt về cái “có” – sự hiện hữu muôn đời của làng quê Việt Nam. Thêm vào đấy lại là một đàn cò trắng lấp loáng bay xuống giữa cánh đồng. Cái “hữu” lần lượt đánh bạt cái “vô“ thì cũng chính là trước mắt người ngắm cảnh, cái “động” đang thay thế cho cái “tĩnh”. Sự kết hợp tài tình của màu sắc, thanh âm xen kẽ, nối tiếp nhau, đưa nhà thơ từ không gian hư ảo đến không gian hiện thực. Cảm quan Thiền mới nhú ra trong lòng ông đã sớm được cảm quan thế tục thức tỉnh(25). Nhưng Trần Nhân Tông sẽ trở lại với những trầm tư Phật giáo trong nhiều lần ngao du khác. Vào một dịp đi chơi động Vũ Lâm cuối mùa thu, ông viết: Hoạ kiều đảo ảnh, bán khê hoành, Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại sinh. \Tịch tịch thiên sơn hồng lạc diệp, Thấp vân như mộng, viễn chung thanh. (Vũ Lâm thu vãn) (Lòng khe in ngược bóng cầu hoa, Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà. Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ, Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa)(26) Lần này, khung cảnh buổi chiều mùa thu không bị ngăn che bằng một làn khói nào nhưng lại được nhà thơ quan sát từ góc nhìn phản chiếu qua một con khe, ở đó cái gì cũng đảo ngược: bóng cầu, vệt nắng,… rất đẹp nhưng đều có vẻ là ảo ảnh. Điểm thêm vào đó còn bóng mây từ trên cao sà xuống khiến người xem mất cảm giác về thực tại mà như đang sống trong mộng, có thêm bao nhiêu lá đỏ rơi nhè nhẹ và tiếng chuông vẳng tới từ rất xa. Cũng vẫn là sự phối trí thật đặc sắc giữa màu sắc và âm thanh nó làm biến đổi cái nghĩa ngoại tại của lời thơ và tạo nên một không gian tâm linh đầy huyền hoặc, và tước bỏ trong ta cả ý niệm về thời gian. Sự đan bện giữa cảm hứng Thiền và cảm hứng thế tục ở Trần Nhân Tông thật rõ ràng. Nhân Tông còn có không ít vần thơ về quãng đời ở trong cung, khi ông còn là bậc chúa tể, “lòng còn ở trong trăm hoa mỗi khi xuân đến” (Nhất xuân tâm tại bách hoa trung – Xuân vãn). Đó là những vần thơ tươi trẻ, thể hiện trạng thái xốn xang bất ngờ nhận ra mùa xuân về từ lúc nào không hay, khi chợt nhìn thấy những cánh bướm phấp phới bên khóm hoa: Thuỵ khởi khải song phi, Bất tri xuân dĩ quy. Nhất song bạch hồ điệp, Phách phách sấn hoa phi. (Xuân hiểu) (Ngủ dậy, ngỏ song mây, Xuân về vẫn chửa hay. Song song đi bướm trắng, Phấp phới sấn hoa bay) (27) Bài thơ duy nhất có một hình ảnh, nhưng là hình ảnh động: cánh của một đôi bướm đang đập. Sự dụng công của nhà thơ là từ động tác có vẻ rối rít của màu trắng lấp loá trên những đôi cánh bướm bỗng bật lên tiếng động của âm hưởng: phách phách, và nó chính là ảnh xạ niềm vui bất ngờ hiện lên thành tiếng trong lòng người. Trần Nhân Tông có khá nhiều bài cùng chủ đề mùa xuân ở trong cung, hình như mùa xuân gây ám ảnh cho ông nhiều nhất. Ông đón nó với tất cả sự nồng say của tuổi trẻ: Hoan bá kiêu sầu phong vị trường, Đào sinh, trúc đạm, ổn long sàng. Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú, Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường. (Nhị nguyệt thập nhất dạ) (Rượu tưới sầu tan, vị đậm đà, Giường rồng chiếu trúc, trải bày ra. Trời trong như nước, trăng vằng vặc, Giấc mộng xuân dài dưới bóng hoa) (28) Cũng ở trong cung, con người tinh tế của Trần Nhân Tông đã không bỏ qua một tiếng thở dài, dù lẩn khuất đâu đây, của lớp người vốn sinh ra chỉ để phục dịch, “trang trí” cho ông: người cung nữ. Họ buồn vì sự trống trải, họ oán giận “Đông quân” thờ ơ với họ, nhưng dù vậy họ vẫn khao khát chờ đợi một chút ân sủng của vị chúa “trăm hoa” mà họ biết, với thân phận nhỏ mọn, mình không có quyền ra mặt đòi hỏi: Thuỵ khởi câu liêm khán trụy hồng, Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong. Vô đoan lạc nhật Tây lâu ngoại, Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông. (Khuê oán) (Tỉnh giấc rèm nâng, ngó rụng hồng, Hoàng oanh im tiếng, giận Đông phong. Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn, Cả bóng hoa cành ngả hướng Đông) (29) Mặt khác, sự cảm thông với “người trong cuộc” của nhà thơ lại cũng hé mở một phương diện sống khác của Trần Nhân Tông: ông không phải là một ông vua ham tìm kiếm những cuộc truy hoan. Mặc dù sống giữa ba cung sáu viện, không thiếu gì thú tiêu khiển, quanh mình đầy hương sắc, nhưng ông vẫn dành cho bản thân những buổi yên tĩnh nơi viện sách; ở đây sách, đèn, người và trăng như một thế giới của riêng ông: Bán song đăng ảnh, mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ (Nguyệt) (Nửa song đèn sáng, sách đầy giường, Đêm lạnh sân thu khí đượm sương. Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết, Trên cành hoa mộc ánh trăng vương) (30) Bài thơ nói về trăng song nhà thơ cũng cho ta hiểu thêm một đam mê khác: đọc sách, học hành. Cả lĩnh vực này nữa, ông cũng là người nghiêm túc, miệt mài. Đêm mùa thu lạnh, ông vẫn chong đèn nghiền sách đến khuya và chợp mắt trong tư thế làm việc – đèn vẫn sáng. Khi tỉnh lại đêm vẫn còn khuya, cả không gian im ắng, chỉ có mảnh trăng cuối tháng lửng lơ trên đầu cây quế và tiếng chày mơ hồ từ đâu vẳng lại báo hiệu sự sống nhân gian ngoài kia vẫn đang tiếp diễn. Nếu nói rằng trong thơ có hoạ thì các bài thơ này là những bài đạt đến trình độ ấy. Tâm hồn nhạy cảm của Trần Nhân Tông còn dành cho nhiều sự vật khác, gần xa xung quanh vườn ngự. Nhưng ta bỗng nhận ra, trong những ngày còn sống giữa cung đình, hình như từ lúc nào không biết vị vua mê say lý thuyết “sắc không” từ nhỏ đã chuyển sang thú vui “ngộ đạo” thay cho những thú vui phàm trần. Dấu hiệu lộ ra không phải ở chỗ lòng ông nguội lạnh với hoan lạc, chỉ biết đắm đuối vào đèn sách. Cái chính là ông ngày càng trở nên “vô tâm”, đúng như một vế quan trọng thứ hai trong bài thơ kết thúc Cư trần lạc đạo phú: Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền / Vô tâm trước cảnh hỏi gì Thiền. “Vô tâm”, theo quan niệm nhà Phật, là vô tâm tưởng, tức là để cho tâm yên tĩnh, “ngừng lại trong nhất thời các hoạt động của tâm thức”, chỉ còn xử lý mọi việc như một thói quen mà mình không để ý, cái đó giúp người ta lìa bỏ vọng niệm đi nhanh đến sự giác ngộ(31). Hai bài thơ khác cùng tả cảnh xuân của ông cho thấy sự “vô tâm” ngày một chi phối tâm trạng nhà thơ. Một bài là lời chiêm nghiệm về quá trình đổi thay của tâm thức thông qua từng lứa tuổi thấm hiểu dần lẽ “sắc không” nó khiến ông khám phá được “vẻ mặt thật” của Chúa xuân chẳng qua chỉ là cái “sắc” nhất thời chứ không mãi mãi quyến rũ yêu kiều như thuở tóc còn xanh mình vẫn hằng mơ tưởng: Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm tại bách hoa trung. Như kim kham phá Đông hoàng diện, Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng. (Xuân vãn) (Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không, Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng. Chúa xuân nay đã thành quen mặt, Nệm cỏ ngồi im ngó rụng hồng) (32) Một bài nữa là sự đối diện với cảnh xuân ngay trước thềm rồng mà nhà thơ là người đón khách để rồi cùng với khách hướng tâm hồn đi tận đâu đâu: Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Cộng ỷ lan can khán thuý vi. (Xuân cảnh) (Chim nhẩn nha kêu liễu trổ dày, Thềm hoa chiều rợp áng mây bay. Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế, Cùng tựa lan can nhìn núi mây) (33) Một cảnh xuân được chấm phá bằng vài nét, không có hoa đào, không có tiếng pháo, không có gì hết, chỉ có duy nhất mấy tiếng chim kêu chậm rãi trong bụi liễu đang trổ hoa, có cái hình ảnh động duy nhất của một bóng mây trôi trên bầu trời làm rợp cả thềm son, và có sự góp mặt không lời của hai con người – chủ và khách, họ không cần biết đến sự hiện diện của nhau, bởi cùng đang để hết tâm trí vào một điểm vô định nào nơi cõi mờ ảo của mây và núi. Một cảnh sắc xuân đơn sơ, thanh đạm mà lưu lại trong người đọc muôn ngàn vương vấn. Chủ thể sáng tạo không dùng đến lý tính, chỉ bằng trực giác đột ngột gợi thức ta, đưa ta rời bỏ tục niệm để cùng đi vào cái miên viễn của thời gian và cái mênh mông vô tận của đất trời, trong những phút giây mà cả vũ trụ và con người đều đang chuyển hoá. Trần Nhân Tông đã “ở giữa cõi trần mà vui đạo” như thế đó. Một bài thơ khác nói đến hoa mai hình như làm vào lúc nhà thơ đã rời bỏ cung cấm. Có biết bao thi sĩ phương Đông đã vịnh hoa mai nhưng Trần Nhân Tông vẫn đến với hoa mai bằng những rung cảm riêng, vừa thâm trầm sắc sảo, vừa tình tứ nồng nàn: Ngũ xuất viên ba kim niễn tu, San hô trầm ảnh hải lân phù. Cá tam đng bạch chi tiền diện, Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thuỷ khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu! (Tảo mai 1) (Tròn xoe năm cánh nhụy vàng tươi, Lấp lánh san hô, vẩy bạc phơi. Cành trĩu ba đông, treo trắng xoá, Lơ thơ xuân sớm, thoảng hương trời. Bướm mơ tỉnh giấc: sương thơm nức, Chim khát kêu thương: ánh nước ngời. Nếu biết trần gian hoa đẹp thế, Cung Thiềm lạnh lắm chị Hằng ơi) (34) Trong truyền thống thơ xưa người ta thường khai thác ở cây mai vẻ cứng rắn, bất chấp gió sương, song Trần Nhân Tông chỉ cực tả vẻ đẹp hồn nhiên của những cánh hoa mỏng mảnh, một vẻ đẹp tinh khiết mà lung linh, hấp dẫn: cánh trắng điểm nhị vàng, óng ánh như bóng san hô chìm, như vây cá nổi; khi nở rộ thì trắng vườn, toả hương thơm dịu ngọt, khi hết mùa còn lại vài bông thì e ấp đầu cành,… Những bông hoa mai tưởng chừng giơ tay là động đến kỳ thực lại chưa hẳn thế. Suốt ba tháng đông, hoa khoe sắc, thu hút cảm giác vạn vật, thách thức cả cây quế cung thiềm; thế mà chỉ qua vài hôm, mùa xuân chợt đến là màu trắng rạng rỡ đã tan biến đi như một phép lạ. Những đoá hoa mai gần gũi nhưng thật xa vời! Hương thơm của hoa làm cho bướm si mê phải giật mình tỉnh giấc; sắc hoa hoà ánh trăng loang loáng như nước làm cho con chim đang khát cháy cổ thêm buồn rầu; cành mai tươi đẹp rơi vào giấc mộng cố nhân khiến cho người tỉnh giấc càng bâng khuâng vì hoa chỉ là hoa trong mộng! Trần Nhân Tông đã viết những vần thơ độc đáo có một về hoa mai. Các nhà am hiểu Thiền học có thể khen Tảo mai là bài thơ Thiền đặc sắc. Bởi lẽ ở đây “cái sắc” và “cái không” quyện vào nhau bao nhiêu thì cái ham muốn và cái nhận được lại cách xa nhau bấy nhiêu. Dường như bài thơ là một lời chỉ dẫn cho đệ tử về lẽ “vô thường” của vạn vật để từ đó biết hạn chế những dục vọng trong cuộc đời! Thế nhưng nếu bằng những cảm xúc hoàn toàn thế tục, người đọc cũng không thể phủ nhận giá trị thẩm mỹ tuyệt tác của những vần thơ này và cũng như tác giả bỗng xúc động bâng khuâng trước vẻ đẹp của những cành mai nở sớm. Có thể tin đây là mai Yên Tử bởi vì đằng sau những cành mai không thấy bóng dáng một toà lâu các, một cánh rèm hoa hay những khách công hầu, những trang mỹ nữ mà chỉ có mây quan ải, trăng xóm đồi, băng trên sông và tấm lòng bạn cũ. Tuy là hoa mai Yên Tử song cảm giác về nó lại không kém thế tục. Thơ Nhân Tông như thế là vừa đạo vừa đời. * * * Nhìn chung lại Trần Nhân Tông là một con người toàn vẹn và một tài năng đa dạng. Trong ông có bản lĩnh quả quyết của một người cầm chịch quốc gia chững chạc, có cái sắc bén, thung dung của một nhà chính trị, ngoại giao, có sự sâu sắc thâm trầm của một nhà Thiền học và quán xuyến tất cả là lòng nhân ái, đôn hậu, yêu nước nồng nàn,… của con người Việt Nam cùng với một hồn thơ nhạy cảm. Trong thời thịnh Trần, ông xứng đáng là một cây bút thơ có phong cách và cũng là một đỉnh cao. Viên Mai, một nhà lý luận về thơ nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, khi bàn về thơ có nói: “Thơ nên phác, không nên xảo, nhưng phải là cái chất phác của sự tuyệt xảo. Thơ nên đạm không nên nồng nhưng phải là cái đạm sau khi đã nồng”(35). Nhiều bài thơ của Nhân Tông đã đạt đến cái chất phác của sự “tuyệt xảo” và cái vị đạm “sau khi nồng” ấy. Có điều, ngay cả những bài sắp đặt ngôn từ khéo léo như Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính, Xuân nhật yết Chiêu lăng… hay những bài mang hương vị nồng khá rõ như Xuân hiểu, Tảo mai,… chắc gì đã thua kém những bài thơ “phác” và “đạm” khác của ông. Phải nói ông không chủ trương phác hay xảo, nồng hay đạm mà hoàn toàn “tuỳ duyên” và “vô tâm”, vì thế đã đạt tới sự thẩm thấu – phác đấy mà lại cũng xảo đấy, nồng trong khi đạm và đạm ngay cả khi nồng. (Gương mặt văn học Thăng Long, bộ mới do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Hà Nội, 2010; tr. 146 – 169) N.H.C. – T.T.B.T. Chú thích ([1]) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 52. (2) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sđd; tr. 50. (3) Đào Phương Bình dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H., 1989. (4) Trần Trọng Kim dịch. Việt Nam sử lược, Nhà in Trung Bắc tân văn, H., 1920. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (5) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sđd; tr. 52 – 53. (6) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q. V; tờ 52a. Nguyên văn: 今 年 賊 閑 (Kim niên tặc nhàn). (7) Trong cuốn Trần Nhân Tông toàn tập, NXB TP. HCM, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng trong lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt được Ô Mã Nhi tại trận thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho Trần Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”, và “Hưng Trí vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản trở chúng”, những sự việc ấy “muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nước” (tr. 160). Chúng tôi nghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ là nằm trong quy chế triều đình lúc bấy giờ vốn đã được định sẵn mà thôi chứ nếu là bằng chứng của cái uy quyền tối thượng của Trần Nhân Tông thì nó lại cũng sẽ là một bằng chứng khác cho thấy tầm vóc và nhân cách Trần Nhân Tông không cao mà thấp hơn ta tưởng, vì ông tham quyền và cố chấp, ganh tỵ với cả thân phụ mình. Thực ra, theo nguyên tắc thế tập của nhà Trần, vua là người trực tiếp cầm quyền điều hành triều chính nhưng Thái thượng hoàng mới là người có quyền lực cao nhất. Cần nhớ rằng người điều khiển cuộc định công ban thưởng quân dân sau chiến thắng năm 1288 cũng là Trần Thánh Tông chứ không phải Trần Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần Thánh Tông, những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận Vân Đồn, và tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công đánh tan thuyền lương Trương Văn Hổ đều là do Trần Thánh Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng không hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa ra quyết định không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban thưởng cho các tướng đến bậc nào và ai không được ban thưởng không tuỳ tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được. (8) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sdd; tr. 55: “Lúc đó, vua ngự thuyền nhẹ ra lộ Hải Đông, ngày đã gần chiều, chưa ăn cơm sáng. Có người tiểu tốt là Trần Lai dâng cơm gạo hẩm, vua khen là trung, ban cho chức Thượng phẩm, kiêm chức Tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng”. (9), (10), (11) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sdd; tr. 75, 71. (12) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q. V; tờ 38b. Nguyên văn: 然 游 心 釋 典 。雖 曰 超 脫 而 非 聖 人 中 庸 之 道 也 (Nhiên du tâm Thích điển, tuy viết siêu thoát nhi phi thánh nhân Trung dung chi đạo dã) (13) Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, Tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1978; tr. 101 – 102. (14) Thánh đăng ngữ lục, xã Liễu Chàng in năm Tự Đức thứ nhất (1848), A. 2596. Truyện Trần triều Nhân Tông Hoàng đế. (15) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q, thượng, 1989, Sđd. (16) Nguyên văn rất dài không thể trích lược trong vài dòng. Xin xem Phật học đại từ điển 佛 學 大 辭 典, Hoa tàng Phật giáo đồ thư quán tái bản, Đài Bắc, 1989; tr. 2696 – 2697. (17) Đỗ Văn Hỷ dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. Có hiệu chỉnh. (18) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (19) Trần Lê Văn dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (20) Trần Lê Văn dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. Có hiệu chỉnh. (21) 安 南 雖 小 文 章 在 。未 可 輕 談 井 底 蛙. Trần Kinh Hoà dịch thành thơ là: “An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh - Ếch giếng khuyên đừng chế giễu ngoa”. Hai câu này lại được lặp lại trong bài thơ của Lương Tằng 梁 曾 sang sứ nước ta năm 1293 sau Trương Lập Đạo hai năm. Xem thêm An Nam chí lược, Trần Kinh Hoà khảo đính và dịch, NXB Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây tái bản có chỉnh lý, 2002; tr. 301, 309 và 514. Cần nói thêm là Thượng thư Trương Lập Đạo lúc đầu có thái độ rất hống hách. Trong khi ông ta đang ca ngợi lòng nhân của Hốt Tất Liệt với Trần Nhân Tông, đại thần Đinh Củng Viên “đỡ lời” rằng: “Thiên tử đã có ý tốt như thế thì trước kia, không động đến đồ binh khí chẳng là càng tốt hơn sao?”. Ông ta liền nạt ngay “Kẻ tạo nên mối hoạ cho nước An Nam, chưa chắc không do bọn ngươi. Đạo trời cao rộng, ngươi làm gì mà biết được!”. Rồi lập tức phất tay áo đứng dậy. Đinh Củng Viên phải xin lỗi mới chịu tiếp tục cuộc đối thoại. Xin xem thêm sách này; tr. 96, và tr. 400. Nguyên văn: 于 時 私臣丁拱 垣 曰。天 子 僊 意 如 是 。一 向 不 動 干 戈 更 好 。立 道 叱 之 曰 。成 安 南 之 禍 者 。未 必 不 由 若 等 為 之 也。天 道 闊 何 足 以 知 之 。立 道 等 拂 袖 而 起 。拱 垣 請 罪 。 (22) Trần Lê Văn dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (23) Bản dịch cũ, chưa tìm ra xuất xứ. (24) Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần, NXB Khai trí tái bản, Sài Gòn, 1960. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (25) Theo ý PGS. Trần Nghĩa thì bài thơ này là một hệ thống gồm 4 cấp độ tư duy Thiền: Có / không / vừa có vừa không / không có không không. Chúng tôi xin ghi lại để bạn đọc tham khảo. (26) Trần Thị Băng Thanh dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. Thượng, 1989, Sđd (27) Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần, 1960, Sđd. In lại trong Thơ văn Lý – Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (28), (29),(30) Trần Lê Văn dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. Thượng, 1989, Sđd. (31) Nguyên văn luận thuyết khá dài, khó trích lược trong vài dòng. Xin xem Phật học đại từ điển佛 學 大 辭 典, 1989, Sđd; tr. 2148. (32) Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần, 1960. In lại trong Thơ văn Lý – Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (33) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. (34) Nguyễn Huệ Chi dịch. (35) Nguyên văn: 詩 宜 朴 。不 宜 巧 。然 必 须 大 巧 之 朴 。詩 宜 淡 不 宜 濃。然 必 须 濃 後 之 淡 – 随 园 詩 話 。卷 五 (Thi nghi phác, bất nghi xảo, nhiên tất tu đại xảo chi phác. Thi nghi đạm bất nghi nùng, nhiên tất tu nùng hậu chi đạm - Tuỳ Viên thi thoại, Q. V).
  12. Trong Đông Y, tức cấu trúc nội quan cơ thể con người như kinh mạch, huyệt vị và khí thì quy tắc này có đúng không: Dương tịnh Âm động? Khi các sách Đông Y viết: Dương động Âm tịnh!
  13. Truyền thuyết "Long Mã phụ Hà đồ" và "Thần Quy chở Lạc thư" được trình bày trên một cổ vật cung đình Huế. Ở đây, Hà đồ và Lạc thư được diễn họa trên hai cái đĩa tròn dính chặt với nhau, từ cấu trúc Hà đồ - dương và Lạc thư - âm thì chiếc đĩa đã diễn họa ngược lại. Sự kết hợp giữa Hà đồ và Lạc thư trên chiếc đĩa cổ đã chứng tỏ tính chất không thể tách rời của chúng nhằm trình bày ý nghĩa của hai đồ hình mà các sách đã không nói rõ. Khai gốm hoa lam vẽ hình Long mã cõng Hà đồ (trái) và Thần quy chở Lạc thư (phải) thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 – 1920).
  14. Sự tích về Đại Thế Chí Bồ Tát Trong các buổi lễ tại các chùa ở phần cuối có xướng lễ ba đức Phật Thích Ca, Di Lặc, A Di Đà, và trong số năm vị Bồ Tát, có ngài Đại Thế Chí tượng trưng cho ý chí quyết tâm giáo hóa chúng sinh. Hiện Ngài là bậc Đẳng Giác, ở cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, là một trong hai vị Đại Bồ Tát phụ với đức Phật A Di Đà để đến tiếp dẫn chúng sinh trong mười phương thế giới. Ngài luôn luôn bận rộn trong việc làm Phật sự, giáo hóa Thánh chúng tại cõi Cực lạc. Đặc điểm của Đại Thế Chí Bồ Tát Hình hoặc tượng Bồ Tát Đại Thế Chí thường đứng hai tay cầm cành hoa, cách mặc cũng giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng đứng trên hoa ở bên tay phải đức Phật A Di Đà. Trên chóp mũ thường có hình ngôi chùa đại diện cho trí tuệ của ngài. Sự tích Đại Thế Chí Bồ Tát Bồ Tát Đạt Thế Chí khi chưa học đạo, một kiếp là con thứ hai của vua Vô tránh Niệm, và là em của Thái tử Bất Huyến, tức là Bồ Tát Quán thế Âm bây giờ, tên là Ni Ma. Cũng như anh, Hoàng tử Ni Ma được Vua cha khuyến khích bố thí cúng dàng Phật Bảo Tạng và đại chúng Tăng, Ngài cúng dường không luyến tiếc của. Ngài cũng được Đại thần Bảo Hải khuyên nhủ như Thái tử Bất Huyến rằng nên bố thí để cầu phúc vô lượng, không nên cầu phúc hữu lượng không lợi ích là bao. Bồ Tát Đại Thế Chí trong hình tương tự một người nữ Hoàng tử Ni Ma được Đại thần nhắc nhở rồi thì Ngài đến chỗ Phật Bảo Tạng vái rồi nói: “Thưa đức Thế Tôn, tôi nay đem công đức cúng dường Ngài và đại chúng Tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi là: Ba điều về thân không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; bốn điều về miệng không nói dối, không nói hai chiều, không nói đâm thọc, không nói lời độc ác; ba điều về ý không tham, sân, si mê tà kiến, mà cầu phật đạo vô thượng Chính Đẳng Chính giác. Nếu sự cầu nguyện của tôi được Ngài chấp thuận thụ ký cho, thì xin giữa hư không hoa đẹp rơi rải xuống, và tôi kính cẩn lễ Ngài. Trong khi Hoàng tử thi lễ, giữa hư không hoa rải xuống như mưa bay. Thấy vậy, Hoàng tử nói: “Ngài đã thụ ký rồi, tôi kính lễ, xin Ngài làm sao để chư Phật mười phương cũng thụ ký cho tôi như Ngài đã làm”. Nói rồi, Hoàng tử lại thi lễ nữa, trong khi ấy, mười phương, kể cả cây cối núi đồi sông rạch đều rúng động, âm vang cùng khắp. Đức Phật Bảo Tạng nói: “Chư Phật mười phương đã thọ ký rằng: Tại cõi Tán Đề Lam, có người Phật tử của Phật Bảo Tạng tên Ni Ma, con thứ hai vua Vô Tránh Niệm, phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trong ba tháng, đem công đức ấy hồi hướng cầu đạo Bồ Đề và nguyện ở cõi trang nghiêm. Do đó trải qua vô số hằng sa kiếp tu hành sẽ bổ xứ thành Phật kế vị đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sinh Vương Như Lai nhập diệt” (tức là sau khi Bồ Tát Quán Thế Âm thành Phật, giáo hóa chúng sinh rồi nhập diệt, bấy giờ Ngài Đại Thế Chí là Phật kế vị ở cõi ấy, còn qúa lâu xa). Thái tử Ni Ma được Phật Bảo Tạng và chư Phật mười phương thụ ký, vui mừng phấn khởi, hằng chăm chỉ tu tập không quên. Sau khi mạng chung, đầu thai nhiều đời nhiều kiếp khi cõi người khi cõi Trời, kiếp nào cũng hằng giữ bản nguyện quyết tâm tu hành, làm hạnh mở mang trí tuệ cho chúng sinh si mê không mỏi mệt, mà bước lên đường giác. Hiện tại, Ngài mới lên tới bậc Đẳng Giác phụ với Đại Bồ Tát Quán Thế Âm, là hai vị cao nhất trong số Bồ Tát của đức Phật A Di Đà , làm Phật sự trong việc giáo hóa Thánh chúng. Ngài thường cùng Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng Thánh chúng đến mười phương tiếp đón chúng sinh về cõi Cực Lạc để giáo hóa cho họ thành Phật. Tôi ghi chú: - Bồ Tát Đại Thế Chí là em của Quan Âm Bồ Tát. - Bồ Tát Đại Thế Chí là một người nam. - Tây Phương Tam Thánh: Bồ Tát Đại Thế Chí (phải) - Phật A Di Đà (giữa) - Quan Âm Bồ Tát (trái) -> Đây là cấu trúc sắp xếp mang tính Âm Dương, Quan Âm Bồ Tát là chị nên bài trí bên trái, dương đối với trung tâm là Phật A Di Đà, còn Bồ Tát Đại Thế Chí là em, âm nên bài trí bên phải. Nên chú ý, cách bài trí này không so sánh, đối đãi Âm Dương dựa trên quy tắc Nam/ Nữ. Tây Phương Tam Thánh
  15. SỰ TÍCH PHAN TÂY NHẠC VỊ THƯỢNG THẾ TỔ HỌ PHAN VIỆT NAM Nước Văn Lang, vào đời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18, khoảng năm 258 TCN), có ông Phan Tây Nhạc là một vị tướng có công lớn đánh giặc giữ nước mà hiện nay ở xã Xuân Phương - Huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội có đình thờ tại làng Thị Cấm và làng Hoè Thị. Ngọc phả đình Thị Cấm do Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn vào đầu Hồng Đức (1470) và các tư liệu về thần tích đình Thị Cấm xã Xuân Phương có ghi chép như sau: Thời xa xưa có vua Lạc Long họ Hồng Bàng lấy nàng tiên là Âu Cơ ở Hồ Động Đình sinh 100 trứng, nở trăm con trai, 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên núi xây dựng quốc gia gồm 15 bộ. Thánh tổ trải duyệt sông núi nhiều nơi thấy đất Châu Hoan cảnh đẹp bèn lập Kinh đô và xây dựng Cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh, hơn hai nghìn năm cha truyền con nối đều lấy hiệu Hùng Vương. Ông Phan Tây Nhạc là người Hà Trung, Châu ái (Thanh Hoá). Cha mẹ ông nhà giàu có nhưng đến ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên chăm lo làm điều nhân nghĩa, cứu giúp người nghèo và đi cầu tự các nơi đình đền chùa miếu. Bà mẹ ông một hôm nằm mộng thấy một vị thần truyền bảo: Vợ chồng nhà ngươi hiền lành, ta sẽ cho một đứa bé để làm rạng rỡ tổ tông. Sau đó bà có thai sinh ra một trai, thân thể mập mạp, mặt vuông tai lớn, được đặt tên là Nhạc. Cậu lớn lên văn võ toàn tài, lại tinh thông phép thuật, không ai sánh nổi. Nghe nói núi Tản Viên là nơi trời đất sắp đặt, cảnh vật huyền diệu thiêng liêng, ở đó có Tản Viên Sơn Thánh có gậy tiên, sách thần và phép thuật biến hoá vô cùng. Phan Tây Nhạc bèn tìm đến bái yết, được Sơn Thánh tin dùng, giao cho giữ gìn mục lục của các vị Thánh Cơ, chức vụ gọi là Cơ Mục Phán Quan. Bây giờ vua Hùng Duệ Vương có 20 Hoàng Tử nhưng đều qua đời, không có người nối dõi ngôi, chỉ có 2 người con gái rất đẹp. Công chúa lớn là Tiên Dung, Công chúa thứ hai là Ngọc Hoa; Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, còn Ngọc Hoa chưa lấy ai. Đức vua mở lầu kén rể nhằm chọn người tài đức để truyền ngôi. Từ đó thuyền bè tấp nập, ngựa xe kéo đến chật đường, anh hùng tuấn kiệt đến cầu hôn rất đông, nhưng công chúa không chọn được ai vừa ý. Sơn Thánh bèn cùng Phan quan đến lầu Bạch Hạc bái yết nhà vua. Qua thử thách, Sơn Thánh thi thố có phép thuật mầu nhiệm, tay chỉ gậy thần trúc, miệng niệm thần chú, lập tức có đủ cả voi chín ngà, ngựa chín hồng mao và mọi thứ quý lạ dâng lên nhà vua. Nhà vua đồng ý gả Ngọc Hoa cho. Còn Phan quan, nhà vua thấy anh tài đặc biệt, phong độ hiên ngang bèn truyền tuyển ba người con gái có nhan sắc mỹ lệ trong số hơn trăm người cháu ngoại của Hoàng hậu đem gả cho ông, rồi cho rước về động Lăng Sương. Bấy giờ thiên hạ thái bình. Sơn Thánh cùng Phan ông ngao du sơn thuỷ, lúc dong thuyền lơ lững trên sông, lúc non cao rẽ lối, phàm nơi đi, đến, dừng xe lại nghỉ, đều lập hành cung. Qua xã Phương Canh, nay là Hương Canh (tức xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm), Sơn Thánh thấy nhân dân thuần hậu, bèn lập một toà Tây Hành cung, lưu Phan Ông đón ba Công chúa đến cùng ở đấy, để vỗ về nhân dân, dạy nghề nông và nuôi tằm dệt vải. Phan Ông chăm lo, dạy bảo nhân dân theo điều lễ nghi, sửa sang phong tục, mọi người kính yêu tôn gọi là Phan Ông Tây Nhạc. Vua Hùng Duệ Vương vì không có con nối ngôi, buồn bã say đắm tửu sắc, không chăm nom gì đến việc võ bị phòng thủ đất nước. Vua Thục thừa cơ kéo đại binh gồm 30 vạn quân sang đánh, chia làm 3 ngả tiến vào; 1 đạo vào Minh Linh, Châu Bố Chính; 1 đạo vào Châu Quỳnh Nhai Sơn; 1 đạo vào cửa bể Châu Hoan. Vua triệu Sơn Thánh hỏi kế, Sơn Thánh tâu rằng: Họ Hồng Bàng từ khi có thiên hạ đến nay đã hơn hai ngàn năm, thánh hiền nối nhau trị nước, ơn sâu đức dày thấm nhuần đã lâu, nước giàu quân mạnh đã từng, vậy mà Thục Vương chẳng biết giữ mình, dám điên cuồng gây sự xâm lăng, cơ chuốc bại trước mắt đã nghiệm rõ ràng, thần tôi đây xin ra sức giúp nhà vua, xin cho thần được chọn tướng tài và được tuỳ cơ ứng biến, như vậy ắt giữ gìn được nước. Nhà vua trao ấn kiếm cho Sơn Thánh và phán rằng: Mọi việc khó khăn ở bên ngoài đều do quyền nhà ngươi tự liệu. Sơn Thánh vâng lệnh, lạy tạ rồi tiến cử Phan Ông làm tướng. Nhà vua phong cho Phan Ông làm Nhạc Tướng Quân, giao cho cầm 3 vạn quân sĩ đi tiên phong. Ngay ngày hôm đó, ngài khao thưởng quân sĩ, rồi cho tiến thẳng lên Châu Minh Linh, hai bà Tả công chúa và Hữu công chúa cùng đi theo đánh giặc. Còn bà Hoa Dung công chúa ở lại giữ Tây Hành Cung. Sơn Thánh đốc xuất 10 vạn tinh binh, chia đường thuỷ bộ tiến đánh Châu Hoan, Châu Quỳnh Nhai Sơn, cùng bản bộ của Tây Nhạc tướng quân 4 mặt tiến đánh rất mạnh. Quân Thục đông, nhưng không chống đỡ nổi, dày xéo lên nhau, trốn chạy, thây chất thành núi. Sơn Thánh dâng biểu báo tiệp nhà vua. Nhà vua mở hội khao thưởng quân sĩ, xét công ban thưởng: Tôn phong Sơn Thánh làm nhạc phu, phong cho Phan Ông làm Tây Nhạc Đại Vương, gia phong Tả công chúa làm Tả Phi Nhân, Hữu Công chúa làm Hữu Hoàng Hậu. Còn các người khác đều khen thưởng xứng đáng theo công trạng. Vua tôi, vợ chồng, trăm họ thái bình, hết lòng phụng thờ xâ tắc. Thế nhưng được 3 năm thì vua Thục lại xâm lấn. Tháng giêng âm lịch lại vào xâm lấn. Sơn Thánh lại xuất quân, thế mạnh như chẻ tre. Quân Thục đại bại, phải viết thư cầu hoà. Sơn Thánh tâu lên nhà vua rằng: Thục Vương ngày trước đánh ta, ngày nay xin hoà, thế là biết người, biết ta, biết tiến biết lui, biết uy của nhà vua, vả lại Thục Vương trước là cháu tộc Ai Lao vốn cũng dòng dõi họ Hùng, xin nhà vua hây nhường ngôi cho Thục Vương. Kẻ hạ thần có phép thần tiên, xin nhà vua hãy cùng hạ thần dong chơi non xanh nước biếc, sinh sinh hoá hoá bất tuyệt, không nên vương vấn mãi cõi bụi trần làm gì ! Nhà vua nghe lời Sơn Thánh, nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương lên ngôi giữ lời thề, sửa sang đền miếu thờ cúng liệt thánh họ Hùng, nhằm báo đền ân đức. Các công thần, bề tôi cũ của họ Hùng đều được phong Phúc Thần và các xã xưa kia các ông ở được lập đền thờ phụng. Trải bốn triều Đinh, Lê, Lý, Trần. Phan Tây Nhạc Đại Vương đều được sắc phong, Hộ quốc cứu dân, muôn đời, hương hoả bất tuyệt. Phan Tây Nhạc sinh ngày 12/2 âm lịch, mất ngày 1 tháng chạp âm lịch. Hiện nay xã Xuân Phương, hai thôn Thị Cấm và Hoè Thị đều có đền thờ ngài. Cứ đến ngày lễ hội 12/2 âm lịch, thì nhân dân tổ chức nấu cơm thi vào ngày 8/1 âm lịch, tự túc lấy nước, kéo lửa, xay giã, dần sàng, đội nào nấu cơm chín, dẻo, ngon là thắng cuộc. Tục này ôn lại thời Phan Tướng Quân, lựa tuyển hậu cần phục vụ quân đội, vừa đi vừa nấu cơm, cấp tốc hành quân vào nơi trận địa. Ngày 23/09/2006 Phan Văn Đính
  16. Cốc Lếu là một phường thuộc thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Phường Cốc Lếu có diện tích 1,26 km², dân số năm 1999 là 7942 người,[1] mật độ dân số đạt 6303 người/km². Tên gọi Cốc Lếu bắt nguồn từ cách ký âm của các nhà địa dư Pháp trên bản đồ Liên bang Đông Dương, căn cứ vào cách phát âm của những người Vân Nam thường qua lại buôn bán tại Lào Cai. Tên gọi cổ nhất của địa phương này là Gốc Liễu. Tác giả đặt tên chợ "Cốc Lếu" cũng như chợ "Kỳ Lừa" là có lý do của nó, chứ không phải chợ "Gốc Liễu". Ở đây, chơi chữ thôi mà: - Kỳ Lừa: Tức bị "Thượng Đế" = Vũ trụ lừa, hay con người lợi dụng ngôn từ "Thượng Đế" để lừa nhau như một cái chợ bát nháo, đời lẫn đạo. "Lừa" tức "Lừa Lọc". - Cốc Lếu: Cốc tức là Không vậy, không biết rõ nguồn gốc Vũ trụ lại toàn nói láo cả, "Lếu" tức "Lếu Láo". - Kỳ tức con hươu sao, còn Cốc tức con chim cốc màu đen, chợ Cốc Lếu tại Lào Cai tức cực bắc của Việt Nam, hành thủy, màu đen. Bản đồ thu hẹp vào thời Lý Trần?.
  17. Câu này nghi ngờ quá, kim tự tháp cổ nhất khoảng 2640 CTN, và "chiếc áo lẫn trong đống vải rách... sau khi phân loại và chú ý đến nó"??? Tất nhiên, có thể có hầm mộ trước 2640 TCN, nhưng cần xác thực. Hình như các đầu nậu đã bán hết đồ cổ Ai Cập rồi... bỗng chợt phát hiện ra những cái áo!
  18. Tác giả lời ca khúc phim Tây du ký (1986) qua đời 19/02/2016 TTO - Ngày 18-2, lễ tang của nhạc sĩ Diêm Túc - tác giả lời ca khúc nhạc phim Tây du ký (1986) diễn ra tại Bát Bửu Sơn (Bắc Kinh, Trung Quốc). Tây Du Ký (1986) Hàng ngàn người hâm mộ, đồng nghiệp đưa tiễn Diêm Túc về nơi an nghỉ cuối cùng với bài hát tiễn đường Xin hỏi đường ở nơi nào? (hoặc còn dịch tiếng Việt là Đâu là đường chúng ta đi - nhạc phim truyền hình Tây Du Ký năm 1986). Theo thông tin từ trang mạng xã hội của Đoàn văn công không quân, nhà nghệ thuật lão thành Diêm Túc đã qua đời vào ngày 12-2 (nhằm mùng 5 Tết) tại nhà riêng ở Bắc Kinh, hưởng thọ 86 tuổi. Đại diện Đoàn văn công không quân bày tỏ sự thương tiếc, kính trọng đối với Diêm Túc và ca ngợi nhiệt huyết, tài đức song toàn của ông. Diêm Túc là nhà nghệ thuật có tầm ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật đương đại Trung Quốc. Ông cho ra đời hơn 1.000 bài hát mang đậm nét đặc trưng của văn hóa Trung Quốc, khích lệ và cổ vũ tinh thần cho mọi người. Diêm Túc sinh ngày 9-5-1930 tại Bảo Định - Hà Bắc. Năm 10 tuổi, ông theo cha mẹ đến Trùng Khánh sinh sống. Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông theo học khoa quản lý công thương Đại học Trùng Khánh. Thời ký giải phóng, Diêm Túc tham gia đội công tác nghệ thuật Đoàn thanh niên. Năm 1950, Diêm Túc tham gia Đoàn văn công thanh niên Tây Nam, từ đó ông làm diễn viên kịch, diễn viên múa, ca sĩ, đạo diễn. Mỗi khi có thời gian, ông còn sáng tác ca khúc, viết kịch bản… Năm 1964, vở ca kịch Giang tỷ do Diêm Túc biên soạn thành công vang dội. Tang lễ của nhạc sĩ Diêm Túc tại Bắc Kinh. Ảnh: ifeng. Năm 1986, Diêm Túc viết lời bài hát Xin hỏi đường ở nơi nào? cho bộ phim Tây du ký. Cùng với sự thành công vang dội của phim, bài hát chủ đề Xin hỏi đường ở nơi nào? cũng trở thành ca khúc bất hủ trong lòng khán giả. Nhạc sĩ Hứa Kính Thanh và nhạc sĩ Diêm Túc được nữ đạo diễn Dương Khiết mời sáng tác nhạc và lời cho ca khúc cuối phim Tây du ký. Khi vừa hoàn thành bài Xin hỏi đường ở nơi nào?, hai nhạc sĩ lập tức mang bài hát này đến giới thiệu cho đoàn làm phim. Thế nhưng nhạc sĩ Hứa Kính Thanh thất vọng khi nhiều người tỏ ra không tán thưởng, dù lời bài hát do Diêm Túc sáng tác được công nhận là có ý nghĩa, phù hợp với hành trình đi Tây thiên thỉnh kinh đầy gian nan của thầy trò Đường Tăng. Rất may là đạo diễn Dương Khiết vẫn hài lòng về giai điệu bài hát này. Bà thấy nó vừa mang nét nhạc truyền thống, lại dễ nghe, dễ hát nên chọn đưa vào phim. Ca khúc Xin hỏi đường ở nơi nào? vang lên ở mỗi đầu tập phim Tây Du Ký đã trở thành nhạc hiệu đi vào tâm trí người xem. Sức hâm mộ bài hát tương đương bộ phim. Ca khúc này do ca sĩ Tương Đại Vy thể hiện. Chất giọng của ông truyền tải được tinh thần không ngại khó khăn thử thách chuyến đi thỉnh kinh của 4 thầy trò Đường Tăng, thể hiện cảm xúc của những người chu du vạn dặm. “Đây hành lý anh mang, tôi cầm cương dắt ngựa. Nhìn ngắm trời cao chập chùng lòng bồi hồi, đường thỉnh kinh thật xa không màng hiểm nguy chân bước…” - lời Việt của ca khúc này cũng được khán giả Việt Nam yêu thích một thời. Đâu là đường chúng ta đi! Đây hành lý anh mang Tôi cầm cương dắt ngựa Nhìn ngắm trời cao chập chùng Lòng lo lắng không yên Đường thỉnh kinh còn xa Không ngại hiểm nguy cất bước Ngày tháng cùng năm trôi dần Biết đi hướng nào về đâu Biết đi hướng nào về đâu? À ha à a ha á ha a à ha Thấp thoáng nơi chân mây Mấy phương trời Thấp thoáng nơi chân mây Tít xa mù Đường Thiên Trúc còn quá xa Bao khó khăn ta vượt qua Đường Thiên Trúc còn quá xa Nguyện không lùi bước Khó khăn ta vượt qua. THỤC NGHI (Theo Sina)
  19. Trong dòng văn hóa của trang phục người phụ nữ Việt Nam thời Hùng Vương, không thể không biết đến dải yếm đào, đây là một trang phục nội y làm tăng thêm nét duyên dáng của các cô gái tuổi thanh xuân. Một nét đẹp văn hóa cổ truyền trong trang phục của người phụ nữ Việt Nam, có thể nói còn đẹp hơn cả trang phục nội y hiện đại ngày nay, còn gọi là cái coócsê, quá thực tế và cụ thể về chức năng neo giữ, cực kém sinh động và mỹ thuật. Yếm đào và nón quai thao Ảnh thế kỷ XX Vậy dẫn chứng từ đâu của thời kỳ Hùng Vương? Dưới đây là một cổ vật thời Hùng Vương tượng trưng cho dải yếm đào, mà người ta gọi là "vòng đeo ngực có lục lạc"? Biểu tượng dải yếm đào thời Hùng Vương Cổ vật Đông Sơn Theo các nhà nghiên cứu, yếm đào có lẽ xuất hiện từ thời Lý. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào cổ vật trên thì nó đã có trước đó muộn nhất là thế kỷ thứ V trước Dương lịch. Cổ vật này, ở đây là 4 chiếc chuông Đông Sơn chứ không phải là lục lạc, tượng trưng của người phụ nữ phương tây - độ số 4, hành âm kim, nam giới phương đông - độ sộ 3, hành dương mộc. Thể hiện sư đối xứng Đông Tây. Cũng cần chú ý, lớp yếm của các loại giáp xác như con cua, con ghẹ hay bất cứ một loại côn trùng nào mà có lớp cánh mỏng trước ngực và bụng. Tháng ba Tác giả: Phạm Ngọc Vĩnh Tháng Ba như mật dụ ong Như hoa dụ bướm, như đồng dụ mây Tháng Ba cái lạnh se gầy Mắt cây trổ lộc, lá quây bóng vờn. Đình chùa miếu mạo khang sơn Trống vang mõ điểm chân son bước dồn Hội làng trai xóm nữ thôn Kiệu khiêng múa rước vui hơn được mùa. Đường đi, cong vạt nắng trưa Lối về, cong cả sắc quê ngọt ngào Khai xuân thắm vạt yếm đào Nắm tay xao xuyến...ngỡ trao cho người. Hội xuân ...xuân thắm đất trời Xuân say lòng cứ bồi hồi...tháng Ba!
  20. Nhìn lại cuộc tranh luận "Nguồn gốc người Việt - người Mường" Hoàng Trực Bình Thứ tư, 18 Tháng 6 2014 10:44 Hơn một tháng đã trôi qua, giới khoa học nước nhà cũng như đông đảo cư dân mạng “nóng” lên quanh cuộc trao đổi về cuốn sách Nguồn gốc người Việt - người Mườngcủa tác giả Tạ Đức. Tạm tính từ ngày 16/ 5/ 2014 được coi là “khởi điểm” của cuộc tranh luận với bài của Trần Trọng Dương trên Tạp chí Tia sáng, đến nay, đã có trên 20 bài (thống kê chưa đầy đủ), được đưa lên các trang mạng (không tính các bài trùng nhau), thuộc các thể loại, chủ yếu là trao đổi: tin tức, phỏng vấn, bài viết dài mang tính nghiên cứu, bình luận, trả lời, thư ngỏ…; trong đó 18 bài có tính chất học thuật. Để bạn đọc nào chưa có điều kiện theo dõi liên tục cuộc tranh luận này, chúng tôi điểm lại những nét chính của các luận điểm đưa ra. Điểm đầu tiên mà bất kỳ ai khi cầm “Nguồn gốc người Việt - người Mường” cũng phải thấy là cuốn sách có nguồn tài liệu rất phong phú. Không chỉ những người ủng hộ Tạ Đức mà cả những người không đồng tình với các luận điểm của ông cũng phải nhận xét như vậy. Trần Trọng Dương cho rằng, “tác giả Tạ Đức đã làm hết sức mình với một tinh thần thuần túy vị khoa học, đó là điều rất đáng trân trọng trong bối cảnh hiện nay!”. Hà Văn Thùy coi “850 trang sách khổ to: “Nguồn gốc người Việt - người Mường” là kết quả mười năm làm việc của học giả Tạ Đức. Thật đáng nể phục về khối tư liệu đồ sộ được đưa vào sách” (Hà Văn Thùy c). Bùi Xuân Đính dù không tán đồng với các phương pháp và kết luận mà Tạ Đức đưa ra cũng phải phẳng định “sách có nguồn tài liệu phong phú” (Bùi Xuân Đính a). Bản thân học giả Tạ Đức cũng tự tin cho rằng “đã dùng một khối tư liệu mà tất cả ai đã đọc cũng phải công nhận là đồ sộ, phong phú của các ngành khảo cổ học, ngôn ngữ học, sử học, dân tộc học…Mỗi một giả thuyết đều được chứng minh bằng các bằng chứng liên ngành, với cái nhìn hệ thống-tổng thể” (Tạ Đức d). Một số luận điểm được một hai người nhận xét là sức thuyết phục, như “tác giả chấp nhận An Dương Vương là người Thục. Những trang viết đòi lại vị trí chính thống của nhà Triệu trong sử Việt thật xác đáng và thuyết phục” (Hà Văn Thùy c). Tuy nhiên, ngoài những điểm chung đó, sách của Tạ Đức có nhiều vấn đề gây tranh luận trái chiều. Dưới đây, chúng tôi điểm mấy vấn đề chính: 1. Về việc sử dụng tài liệu internet trong công trình khoa học Luận điểm của Tạ Đức và Bùi Xuân Đính là hoàn toàn “đối nghịch” nhau. Ông Đính thì cho rằng, nếu không phải là trang web của các cơ quan khoa học chính thống thì phần lớn các thông tin khoa học trên mạng là các giả thiết hay mới chỉ là ý tưởng, hoặc ý kiến mở, không cần chứng minh hay chưa chứng minh được. Một bộ phận không nhỏ các thông tin ít được hoặc không được kiểm soát, nên dễ có những sai sót nghiêm trọng. Đặc biệt, trên wikipedia (từ điển mở) thường đưa ra các thông tin giản lược, sơ bộ, ai cũng có thể dễ dàng bổ sung, thêm bớt hay thay đổi; vì thế, cùng một vấn đề, thông tin ở các thời điểm rất khác nhau. Bùi Xuân Đính đã thống kê sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường” có đến 90 trang sử dụng tài liệu wikipedia, trong đó 7 trang sử dụng 2 lần và 1 trang sử dụng 4 lần; nhiều luận điểm quan trọng của sách được dựa trên wikipedia, từ đó đưa ra nhận định “người đọc có quyền đánh dấu hỏi về những luận điểm của sách đưa ra”.Trần Trọng Dương thận trọng hơn cho rằng, “trong một công trình khoa học, việc trích dẫn những nguồn thông tin được lấy từ mạng là nên hạn chế. Tình trạng này không chỉ tồn tại ở cuốn sách của Tạ Đức mà khá phổ biến hiện nay trong giới Khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam. Bởi lẽ, thông tin trên mạng (như wikipedia) là kiểu thông tin không nguồn gốc, có thể do bất kỳ ai đưa lên mà không phải chịu trách nhiệm khoa học về những thông tin đó” và “dùng một thông tin từ một trang mạng du lịch sẽ làm phương hại đến hệ thống luận cứ và lập luận của tác giả”. Những nhận xét trên đây đã bị Tạ Đức “phản đòn” quyết liệt mà người “ăn đòn” nhiều nhất, lại toàn đòn nặng, là Bùi Xuân Đính, được nhận “đủ thứ” từ ông Đức, như “những nhận xét nêu trên (của Bùi Xuân Đính) là của một người ít hay không hề tham khảo tư liệu khoa học nước ngoài trên mạng nên hoàn toàn võ đoán, chủ quan” (tuy nhiên, ở phía dưới bài, ông Đức lại tự mâu thuẫn với mình khi viết “Tham khảo mà không trích dẫn thì là “đạo văn”. Phải chăng BXĐ nhiều lần đã áp dụng qui định này?)”, rồi “Không cập nhật kiến thức”, “Hãy nhờ người nào đó đọc, dịch trang wiki… này” và ông khuyên ông Đính “Phải dùng mới biết” … (Tạ Đức c). “Ông đồ 8 X” Trần Trọng Dương” cũng bị Tạ Đức cho là “có cái nhìn quá nặng nề và hơi kinh viện”(Tạ Đức a, B); rồi như một bậc “cha chú”, ông đã dạy “Dương” đủ điều, trong khi ông quên mất rằng, đây là tranh luận khoa học, mà đã là tranh luận thì phải bình đẳng, dựa trên tư liệu và lập luận để hướng tìm ra lẽ phải, không phải cứ số đông là thắng số ít, người cao tuổi là thắng người ít tuổi, người có chức quyền, hàm vị thắng người không có, người giàu thắng người nghèo, “người nhà nước” thắng “người ngoài nhà nước” . Trong tình hình trên, cần lấy lấy một hai ý kiến trung gian làm “trọng tài”. Có vẻ như ý kiến của Nguyễn Huỳnh Mai là thỏa đáng hơn. Người viết đưa ra vài “tập tục”mà các đại học Âu Mỹ thường gợi ý cho sinh viên và nhân viên khảo cứu của họ”. Gọi là “tập tục”, nhưng dường như đã trở thành “luật”, nghĩa là trở thành nguyên tắc bắt buộc - Nguyễn Huỳnh Mai cho biết, luật đầu tiên và … duy nhất là tài liệu tham khảo phải khả tín (tin cậy được). Chữ “khả tín” ở đây được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: phải được duyệt bởi những chuyên gia quốc tế. Hẹp đến nổi nó có thể đồng nghĩa với các bài đã được đăng trên các tập san khoa học sau khi đã qua sự bình chọn của một hội đồng “đọc” (reviewers) của tập san này.Ngay cả khi tài liệu được đăng trên các báo khoa học tín nhiệm, việc ghi rõ ngày hay năm đăng báo cũng quan trọng, vì có những khoa học, nhất là y khoa và sinh học, sự tiến bộ đi rất nhanh, một bài viết cách đây 5 năm có khi đã không còn giá trị, như vậy “khả tín bao gồm khái niệm cập nhật”.Một số tài liệu khoa học cũng có thể đọc được trên mạng, nhưng thông thường chỉ có bài tóm lược (abstract) chứ không có toàn văn (full text). Nhưng các sites, persee cũng tùy thuộc điều lệ về bản quyền của các nhà xuất bản cho ít nhất là một số tài liệu mới mà nhà xuất bản giữ bản quyền. Để bạn đọc tiếp cận các tài liệu có giá trị, tin cậy, hệ thống thư viện của các đại học lớn thường trả tiền mua dài hạn các tạp chí khoa học. Bạn đọc muốn tham khảo đương nhiên phải trả tiền. Những tài liệu khác trên internet đòi hỏi người sử dụng phải “vô cùng thận trọng vì ở đây … đá sỏi chen lẩn với đá quí”, vì bất cứ ai cũng có thể viết bất cứ cái gì rồi cho lên mạng” (Nguyễn Huỳnh Mai). Trường hợp của vikipedia thì sao? Nguyễn Huỳnh Mai cho biết, wikipedia là loại bách khoa toàn thư mà bất cứ ai cũng có thể là cộng tác viên. Có những tài liệu rất khả tín, được viết với những cẩn trọng của một bài khoa học và được viết dưới dạng hoàn chỉnh của một tài liệu khoa học - cô đọng và súc tích với danh sách tài liệu tham khảo nghiêm chỉnh. Nhưng giá trị của các bài trên wikipedia không đồng đều. Ở đây, nhà nghiên cứu cũng phải có những cẩn mật cần thiết trước khi dùng nguồn wikipedia. Như vậy, với ý kiến của một người có nhiều kinh nghiệm như Nguyễn Huỳnh Mai, việc sử dụng tài liệu internet đã rõ. Tuy nhiên, ở nước ta, dường như chưa có luật về việc này nên mới xảy ra chuyện ông Bùi Xuân Đính thì cho rằng, “wikipedia (từ điển mở) thường đưa ra các thông tin giản lược”, thì ông Tạ Đức lại cho rằng, “đa số các mục, đặc biệt bằng tiếng Anh, là những bài tổng hợp công phu, được viết gọn gàng, sáng sủa, có dẫn tư liệu gốc đàng hoàng. Còn chuyện thay đổi của thông tin theo thời gian thì đó là chuyện thường, chả cứ ở wiki mà ở các sách báo hàn lâm cũng vậy”. Ông Đức còn “dạy” ông Đính “đọc trực tiếp mục về Phùng Hưng (vi.wikipedia.org/wiki/Phùng_Hưng) mà ông Đức đã dùng để xem nhận xét của mình có đúng không” (Tạ Đức c). Nhưng, ý kiến của ông Đức đã bị một độc giả mang tên “Dân Hành Thiện” phản đối trên một trang mạng: “Khoan bàn đến chuyện ông Đức cho rằng việc thay đổi thông tin theo thời gian của wiki và sách báo hàn lâm cũng như nhau; tôi làm theo đề nghị của ông ta: đọc trực tiếp mục về Phùng Hưng”. Mục từ này, dùng 4 tài liệu tham khảo: Lịch sử Việt Nam, tập I; 2 (Phan Huy Lê, 1991), Danh tướng Việt Nam, tập IV (Nguyễn Khắc Thuần, 2007), Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục; ai cũng biết, trong 4 cuốn này đâu là sách gốc; vậy mà Tạ Đức lại dùng wiki”. Từ đó, “Dân Hành Thiện” kêu lên: “Trời đất! Liệu đó phải là nguồn tham khảo mà tác giả đã dùng để mất 10 năm viết 1 cuốn sách khảo cứu đồ sộ như như tác giả đã nói ?” (Hoàng Trực Bình thu thập). 2. Về tiếp cận các nguồn tài liệu mới của nước ngoài Có lẽ đây là một trong những hạn chế, điểm yếu của một bộ phận đông các nhà nghiên cứu Việt Nam, kể cả ông Bùi Xuân Đính, ông Tạ Đức- người được những người nhận xét, giới thiệu sách cho rằng đã ”tổng hợp, kiểm định lại toàn bộ nhận thức và vốn hiểu biết và vốn tư liệu đồ sộ của mình” (Tiến sĩ Nguyễn Việt, Nhận xét 2 sách “Nguồn gốc người Viêt - người Mường”) hay “đã tập hợp được một khối lượng tư liệu khổng lồ từ các di chỉ khảo cổ học, ngôn ngữ học lịch sử và dân tộc học” (Đỗ Lai Thúy). Tuy nhiên, sách sẽ đầy đủ tư liệu hơn nếu Tạ Đức có được cuốn “Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học” của Cung Đình Thanh do Tủ sách nghiên cứu Việt học, Nhà xuất bản Tư tưởng và Tập san Tư tưởng ấn hành năm 2003 tại Sydney (Australia)­- cuốn sách đã sử dụng các kết quả nghiên cứu mới nhất về gien để chứng minh Việt - Mường là cư dân bản địa ở Bắc Việt Nam. “Thâm ý” của ông Bùi Xuân Đính khi giới thiệu sách của Cung Đình Thành là, nếu năm 2003 (hoặc 2004 - 2005), ông Đức tiếp cận được cuốn sách này, không biết ông có từ bỏ ý định viết cuốn“Nguồn gốc người Việt - người Mường” không; hoặc nếu tiếp tục thực hiện công việc để chứng minh luận điểm “người Việt và người Mường là hai dân tộc khác nhau và đều từ Trung Quốc di cư sang”, chắc chắn ông Đức phải tìm thêm nhiều tài liệu hơn và tiếp cận theo hướng khác để chứng minh cho kỳ được công trình nghiên cứu về gien của Giáo sư người Mỹ gốc Hoa J. Y. Chu là sai. Song, trong bài phản bác lại cả ông Bùi Xuân Đính và ông Hà Văn Thùy, Tạ Đức cho rằng, dù không có cuốn sách của Cung Đình Thanh, nhưng ông đã nắm được “hồn cốt” tư tưởng của học giả này trên các thông tin internet (tuy nhiên, các thông tin này lại không có trong mục Tài liệu tham khảo sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường”) và ông cho rằng, luận điểm “Người thuộc Văn hóa Hòa Bình từ Đông Nam Á, mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp phần thành lập nước Trung Hoa” là hoàn toàn vô lý và không có bất cứ cơ sở nào về khảo cổ học và sử học (Tạ Đức d, đ). Nhân bàn về những khó khăn và bất cập trong tiếp cận các kết quả nghiên cứu (ở dạng sách, tạp chí) ở nước ngoài, tôi thấy cần tím hướng “thoát”. Ở đây, vai trò của các thư viện trong việc tiếp cận và thông tin với các thư viện nước ngoài là một hướng quan trọng. Bên cạnh đó, cần có sự trao đổi thông tin giữa các nhà khoa học và bản thân các nhà khoa học cũng phải nỗ lực tìm kiếm, đọc tài liệu. 3. Vấn đề phương pháp luận của sách Sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường” của Tạ Đức áp dụng nhiều phương pháp khác nhau. Những người ủng hộ ông Đức cho rằng, trên cơ sở khối tư liệu khổng lồ từ các di chỉ khảo cổ, sắp xếp chúng theo thời gian, rồi so sánh theo loại hình để tìm ra sự tương đồng, sự tiến triển hay thoái lùi của nhiều hiện vật, từ đó lần theo dấu chân thiên di (của các tộc người Việt) từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông (Đỗ Lai Thúy). Cũng tương tự là các nhận xét của Đào Hùng, Nguyễn Việt trong các lời nhận xét của sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường”. Tuy nhiên, có ba vấn đề về phương pháp luận trong sách đã được các bài viết chỉ ra: 1. Về việc sử dụng truyền thuyết Tạ Đức dùng các tài liệu tổng hợp (trong đó chiếm tỷ lệ lớn là các tài liệu khảo cổ học Trung Quốc) để chứng minh truyền thuyết Hồng Bàng, sự tồn tại của nước Xích Quỷ là có thật và khẳng định các luận điểm của Đào Duy Anh, Bình Nguyên Lộc coi người Việt từ Trung Quốc chuyển cư sang, không phải cư dân bản địa ở miền Bắc Việt Nam là đúng. Tuy nhiên, Bùi Xuân Đính đã coi đó là “sai lầm về phương pháp luận”, vì truyền thuyết này có nhiều yếu tố hoang đường và phi lý mà chính sử triều Nguyễn đã chỉ ra, còn luận điểm của hai học giả Đào Duy Anh và Bình Nguyên Lộc thì đâu đã được giới khoa học xã hội Việt Nam thừa nhận (Bùi Xuân Đinh a). Trần Trọng Dương cũng chỉ ra “Việc sử dụng huyền thoại (một thể loại của văn học) để nghiên cứu lịch sử - như trong sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường” không phải lúc nào cũng có kết quả thực sự chắc chắn. Công thức {huyền thoại + hiện vật khảo cổ} trước nay vẫn là công thức ưa thích ở Việt Nam, trong khi công thức nghiêm cẩn hơn {sử liệu + hiện vật khảo cổ} đến nay vẫn còn đầy rẫy những chông gai thử thách. Việc coi huyền thoại có tính sử liệu, hoặc ít nhiều phản ánh một phần sự thực lịch sử nào đó khiến mọi giả thuyết khoa học luôn đứng chông chênh trên ranh giới giữa thực và hư, giữa sử học và văn học!”. 2. Về các phương pháp cụ thể trong các luận điểm của Tạ Đức cũng không nhận được chia sẻ. Tác giả Huy Phong viết trên một facebook về cách sử dụng lý thuyết của Tạ Đức: “Ông ấy toàn dẫn các ý kiến, lý thuyết các bậc 1-2-3-4-5 rồi đưa ra một cái kết luận chả logic tý nào! cứ lý thuyết này chồng lên lý thuyết khác, rồi kết luận! mà chả có cái nào của ông ấy cả! thậm chí cả cái kết luận ấy!”(tổng hợp của HoàngTrực Bình). Trần Trọng Dương cho rằng, các bước lập luận và cứ liệu nêu ra trong sách nhằm để bắc cầu kết nối những khoảng siêu không gian, siêu thời gian, nối liền Lạc Việt với Đại Cồ Việt cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, và nối Lạc Việt với văn hóa người Đản (Giang Tô). Về việc so sánh các di vật khảo cổ học cũng có những bất ổn, như so sánh hình dáng con rái cá trên internet với con vật lạ trên thạp Đào Thịnh để chứng minh rằng “rái cá” là vật tổ của người Đản kéo dài từ thời cổ cho đến tận thời Đinh Bộ Lĩnh. (Trần Trọng Dương). Lâm Mỹ Dung thì kết luận “Nói chung là hổ lốn quá, ví dụ nối một đồ gốm Ân Thương với một đồ đồng Đông Sơn với thạp thời Trần rồi thì bảo chung một nguồn gốc sinh học thì vô lối quá. Nhiều thứ nữa”(Hoàng Trực Bình thu thập). Bùi Xuân Đính coi việc “Chỉ đem một số ít di vật trong một vài di tích có những nét tương đồng với các di tích ở Trung Quốc để so sánh và kết luận đó là do các khối cư dân ở Trung Quốc thiên di mang sang là không thỏa đáng, thậm chí là vội vàng. Sự giống nhau của các di vật trong các văn hóa khảo cổ học do nhiều nguyên nhân, hoặc do tương đồng về văn hóa, hoặc do trao đổi, có khi là quà tặng, là chiến lợi phẩm của chiến tranh, đâu phải chỉ là kết quả của thiên di” (Bùi Xuân Đính a). Trong nghiên cứu so sánh, theo Trần Trọng Dương “việc đồng quy các hiện tượng văn hóa, hay đồng quy ngôn ngữ là việc hết sức mạo hiểm”; thế nhưng, trong sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường”, Tạ Đức đã tiến hành công thức truy nguyên đồng quy hàng loạt các hiện tượng về một chỉ số gốc... Trong nhiều trang, tác giả tiến hành đồng quy nhiều hiện tượng ngôn ngữ, mà sự đồng quy nhiều khi lại dựa trên bề mặt ngữ âm... Tác giả đã dùng những cứ liệu dân tộc học để đưa ra những đẳng thức ngữ âm khá chông chênh…. Và để chứng minh/hay phản biện được những kết luận này thì cần phải có những thao tác phục nguyên (tái lập âm đọc cổ: reconstruction) một cách chuyên nghiệp, chứ chưa thể dựa trên những nét hao hao trên ký hiệu văn tự của âm Hán -Việt hay phiên âm Latin ở thời điểm hiện tại (Trần Trọng Dương). Bùi Xuân Đính cũng tán đồng “để phục nguyên nghĩa và âm của một từ, phải tuân theo một phương pháp nghiêm ngặt, có trình tự, không thể căn cứ vào sự giống nhau về âm và nghĩa ở dạng thực thể đồng đại”, không thể chỉ dẫn ra sự giống nhau về âm của một số từ trong tiếng Việt với các ngôn ngữ khác, như Cửa Lò/Kulua,lòng thung lũng/klung… để chứng minh nguồn gốc bên ngoài của các địa danh thuộc địa bàn người Việt sinh sống hiện nay (Bùi Xuân Đính a). 4. Những “câu kết” về nguồn gốc người Việt - người Mường Trong các bài trả lời, tranh luận, ông Tạ Đức khẳng định các tư liệu và luận điểm của mình là đúng, thậm chí trong bài “Về lá thư của Bùi Xuân Đính”, ông Đức còn dẫn lại lời của nhà sử học Lê Văn Lan khẳng định những điều được (ông Đức) nói “với cái gan dạ từ một tinh thần khoa học thực sự cầu thị, từ một ý chí và tấm lòng kiên định, nhiệt thành vì sự phát triển-đổi mới của khoa học lịch sử” và ông Đức “hoàn toàn tự hào và yên tâm” về những phát ngôn bị coi là “lạc dòng và ngược dòng” . Nói vậy thôi, tôi không hẳn tin ông Đức vui khi “Ông đồ 8 X” Trần Trọng Dương viết hóm hỉnh rằng:“Trong khi, cả giới khoa học đã xác quyết, người Việt - người Mường là những cư dân bản địa, thì ông (Tạ Đức) cho rằng tổ tiên trực tiếp của người Việt - người Mường là người Lạc Việt - người Phùng Nguyên, là dân di cư từ phương Bắc xuống. Trong khi, ai cũng tin rằng văn hóa Phùng Nguyên, Đông Sơn là văn hóa gốc thì ông lại cho rằng tổ tiên của họ là người Đản (Mon) cổ vốn sống ở vùng hạ lưu sông Mân (Phúc Kiến) hay có nguồn gốc từ văn hóa Dạ Lang (Thục), văn hóa Điền, Nam Việt (Nam Trung Hoa)”. Ông Bùi Xuân Đính sau khi chỉ ra “những bất cập” của Tạ Đức trong việc sử dụng nguồn tư liệu, trong phương pháp luận cũng đưa ra kết luận “Những thành tựu của khoa học xã hội trong hơn nửa thế kỷ qua đã khẳng định người Việt và người Mường (Lạc Việt) cùng với người Tày và một bộ phận Nùng, Thái cổ (Âu Việt) là các cư dân bản địa, sở tại, sinh sống từ rất lâu đời ở vùng Bắc Việt Nam, tạo lập ra các nền văn hóa mang tính liên tục để bước vào thời kỳ dựng nước với đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn rực rỡ” (Bùi Xuân Đính, a). Theo Bùi Xuân Đính, cuốn sách Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học của Cung Đình Thanh được ông giới thiệutrên Tạp chí Văn hóa Nghệ An (ngày 31/5/2014) đã làm sáng rõ vấn đề. Học giả Cung Đình Thanh (dựa trên các thành tựu khoa học đã được xác nhận) đưa ra hai kết luận quan trọng: - Văn hóa Hòa Bình là một trong ba cái nôi phát sinh trồng trọt của thế giới và là nôi của cây lúa nước. Từ Bắc Việt Nam, một nhóm cư dân ở đây đem nghề này vào lưu vực sông Hoài, gặp môi trường thuận lợi đã nhanh chóng phát triển nghề nông ở đây, phát triển nghề gốm, để trở thành nền Văn hóa Ngưỡng Thiều trong phạm vi lưu vực sông Hoài. - Theo Hà Văn Thùy, cơ sở quan trọng nhất để tìm về nguồn gốc tộc người là gien. Công trình nghiên cứu về Di truyền học do Nhà bác học người Mỹ gốc Hoa J. Y. Chu chủ trì được Cung Đình Thanh dẫn lại trong sách ông, khẳng định gốc gác của người Trung Hoa là từ Đông Nam Á di lên, sau lại lai giống với người từ Trung Á và châu Âu di cư đến, có lẽ đây là tổ tiên của người Hoa Hán lập nên nhà Thương” và như vậy, “Người thuộc Văn hóa Hòa Bình từ Đông Nam Á, mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp phần thành lập nước Trung Hoa, người Đông Nam Á không chỉ góp phần mà còn đóng vai trò chính, là bộ phận chủ đạo của nhân chủng lập nên nước Trung Hoa (Bùi Xuân Đính c). Hai luận điểm của Cung Đinh Thanh mà Bùi Xuân Đính và Hà Văn Thùy đưa ra bị Tạ Đức phản lại trong bài LẠI TRẢ LỜI BÙI XUÂN ĐÍNH VỀ CUỐN SÁCH CỦA HỌC GIẢ CUNG ĐÌNH THANH trên Văn hóa Nghệ An 10/6/2014. Về kết quả phân tích mẫu lúa ở hang Xóm Trại (Hòa Bình), Tạ Đức cho rằng, mẫu lúa này có niên đại thời Trần, không phải cách đây vài nghìn năm. Tuy nhiên, có nhà nghiên cứukhảo cổ học chorằng, mẫu lúa mà Nguyễn Việt đưa sang phân tích C14 ở Đức năm 1980 không phải mẫu chuẩn, tức không phải mẫu trong địa tầng văn hóa, mà là mẫu ở bên ngoài, có thể lúa đó do chim, chuột tha vào (!?). Vấn đề này chưa thấy ông Nguyễn Việt lên tiếng. Chắc là ông Việt không dễ dàng từ bỏ quan điểm của mình. Ý kiến về kết quả phân tích gien của học giả Mỹ gốc Hoa khẳng định người Việt ở Bắc Bộ di lên Trung Quốc chứ không phải từ Trung Quốc di xuống cũng bị Tạ Đức phản bác “là hoàn toàn vô lý và không có bất cứ cơ sở nào về khảo cổ học và sử học” Tạ Đức đ). Có thể nói, đến nay, cuộc tranh luận về “Nguồn gốc người Việt - người Mường” diễn ra gay gắt giữa một bên là ông Tạ Đức và bên kia là ông Bùi Xuân Đính, Hà Văn Thùy, Trần Trọng Dương và một số người khác. Tất cả đã bị ông Tạ Đức bác bỏ với sự tự tin đến lạ lùng. Ông Bùi Xuân Đính là người bàn đến sách của Tạ Đức trên tạp chí Dân tộc học, rồi Văn hóa Nghệ An, nhưng đã bị Tạ Đức bắt bẻ, phản đòn và tuyên bố “ông Đính thua cuộc”. Trong bài “Về lá thư của Bùi Xuân Đính”, ông Đức cho rằng, trên bàn cờ tranh luận, xe pháo mã của ông Bùi Xuân Đính đã bị ông Tạ Đức bắt hết, giờ cờ bí, ông Đính phải “dí tốt”, lá thư của ông Đính đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sớm đánh giá sách của Tạ Đức chỉ là một con tốt đáng thương, tội nghiệp (!?). Vậy là “trời chẳng chịu đất, đất không chịu trời”. Đánh giá đúng sai, hay dở, thành công hoặc không thành công cuốn sách của Tạ Đức là quyền của bạn đọc, nhất là của các nhà khoa học. Tuy nhiên, ở đây tôi vẫn cứ băn khoăn đến ba nhận xét của ông Hà Văn Thùy về sách của Tạ Đức: - “Ông Tạ Đức nói rằng, ý tưởng thiên di-truyền bá là ông nhận được từ Đào Duy Anh và Bình Nguyên Lộc. Ta có thể thấy, vào thập niên 1970, do hạn chế về tư liệu khoa học, đề xuất của các vị trên là những giả thuyết có tính tìm tòi. Nhưng nay, sau thập niên đầu của thế kỷ XXI, khoa học nhân loại đã đi những bước dài. Không chỉ cổ nhân chủng học mà cả di truyền học đều xác nhận, dân cư trên đất Việt Nam hình thành sớm và liên tục từ Sơn Vi, Hòa Bình tới Bắc Sơn, Phùng Nguyên … Do vậy, thuyết của Đào Duy Anh và Bình Nguyên Lộc không còn đất đứng.Kéo dài thêm sai lầm của những người đi trước, sách của ông Tạ Đức không chỉ trái ngược với thực tế lịch sử mà còn đẩy khoa học nhân văn Việt Nam thụt lùi một nửa thế kỷ! Không những thế, do phủ định nguồn gốc bản địa của con người và văn hóa Việt, nó gây hoang mang, làm nản lòng những ai đang gom nhặt chắt chiu từng mảnh vụn của quá khứ, khôi phục gia tài lịch sử chân thực của dân tộc” (Hà Văn Thùy B). - “Một cuốn sách lạc đường, đẩy học thuật Việt thụt lùi hơn nửa thế kỷ... Bên trong, không đủ tâm và trí để nói với nhân dân về cội nguồn cùng văn hóa đích thực của dân tộc; thậm chí vẫn ca những bài ca mốc meo về “ngã tư đường giao lưu quốc tế”, về “tiếp biến văn hóa,” về “tiếng Việt mượn 70% từ ngôn ngữ trung Hoa”… Bên ngoài, nó câm nín trước những đòn tấn công hiểm ác không chỉ xuyên tạc chính nghĩa dân tộc trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà cả những mưu toan nhân danh khoa học phủ định tới cỗi rễ dân tộc” (Hà Văn Thùy c). -“Bằng con đường sinh học, chỉ cần 1% lượng giấy ông Tạ Đức đã dùng, vấn đề nguồn gốc người Việt-người Mường được trình bày một cách chính xác, khoa học” (Hà Văn Thùy B). Liệu có đúng thế không? Có nặng nề quá không? Qua cuộc tranh luận về cuốn sách “Nguồn gốc người Việt - người Mường” cũng lộ ra những vấn đề cần được các cơ quan hữu trách, như việc xét duyệt, thẩm định bản thảo, như Lâm Mỹ Dung đã viết trên một trang mạng :“Để in những cuốn sách gọi là chuyên khảo khoa học như thế này cần có hội đồng tử tế đánh giá về mặt khoa học, không phải cái kiểu tôi tự viết, tự in và hạ thấp những cuốn sách in bằng tiền ngân sách, những dự án do nhà nước tài trợ. Nội dung cuốn sách có thật sự khoa học hay không, không phải do tiền ai tài trợ!” (tổng hợp của Hoàng Trực Bình); về tổ chức tuyên truyền giới thiệu sách, nhất là các cuốn sách có những nội dung dễ bị coi là “nhạy cảm”, nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng. Để có thể kết luận chính thức cho vấn đề, “gióng chuông hạ màn” cho những cuộc tranh luận căng thẳng, kéo dài, tôi nghĩ, cần có một trọng tài phân xử. Phải chăng, Viện Hàn lâm KHXH - cơ quan có nhiều viện chuyên ngành liên quan đến sách của Tạ Đức có đủ năng lực, sớm tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm với tinh thần khoa học, cởi mở, làm rõ những vấn đề về nguồn tư liệu, các luận điểm mà tác giả Tạ Đức đặt ra; có thế mới thúc đẩy khoa học tiến bộ và lành mạnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Trực Binh(thu thập), MỘT SỐ BÌNH LUẬN XUNG QUANH CUỐN “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT - NGƯỜI MƯỜNG” CỦA TẠ ĐỨC TRÊN CÁC BLOG THU THẬP ĐƯỢC. Trần Trọng Dương, ĐỌC “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT - NGƯỜI MƯỜNG” CỦA TẠ ĐỨC, Tạp chí Tia sáng, thứ Tư, 16/5/2014; đăng lại trên Văn hóa Nghệ An, Thứ tư, 28 tháng 5/2014. Bùi Xuân Đính a,BÀN VỀ “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT - NGƯỜI MƯỜNG”, Tạp chí Dân tộc học, số 1- 2. Bùi Xuân Đính b, THƯ NGỎ GỬI TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN VÀ BẠN ĐỌC, Văn hóa Nghệ An, thứ Sáu, 30 tháng 5/2014. Bùi Xuân Đính c,“TÌM VỀ NGUỒN GỐC VĂN MINH VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG MỚI CỦA KHOA HỌC - MỘT CUỐN SÁCH GÓP PHẦN LÝ GIẢI NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT”, Văn hóa Nghệ An, Thứ Hai, 02 tháng 6/2014. Tạ Đức a, TRAO ĐỔI VỚI TRẦN TRỌNG DƯƠNG, Văn hóa Nghệ An, thứ Tư, 28 tháng 5/2014. Tạ Đức b, TRAO ĐỔI TIẾP VỚI TRẦN TRỌNG DƯƠNG, Văn hóa Nghệ An, thứ Tư, 28 tháng 5/2014. Tạ Đức c,tRẢ LỜI Ý KIẾN CỦA BÙI XUÂN ĐÍNH VỀ CUỐN “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT-NGƯỜI MƯỜNG”, Văn hóa Nghệ An, thứ Tư, ngày 28 tháng 5/2014. Tạ Đức d,LẠI TRẢ LỜI BÙI XUÂN ĐÍNH VỀ CUỐN SÁCH CỦA HỌC GIẢ CUNG ĐÌNH THANH, Văn hóa Nghệ An, thứ Ba, ngày 10 tháng 6/2014. Tạ Đức đ,TRAO ĐỔI VỚI ÔNG HÀ VĂN THÙY VỀ “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT-NGƯỜI MƯỜNG”, Văn hóa Nghệ An, thứ Năm, 12 tháng 6/2014. Tạ Đức e, VỀ LÁ THƯ CỦA BÙI XUÂN ĐÍNH, Văn hóa Nghệ An, thứ Sáu, 13 tháng 6/2014. Nguyễn Huỳnh Mai,VẤN ĐỀ TÀI LIỆU THAM KHẢO, Văn hóa Nghệ An, thứ Năm, 29 tháng 5/2014. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, PGS.TS BÙI XUÂN ĐÍNH ĐỀ NGHỊ CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN CÓ Ý KIẾN CHÍNH THỨC VỀ SÁCH "NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT - NGƯỜI MƯỜNG" CỦA TẠ ĐỨC, Thứ năm, 12 tháng 6/2014 Cung Đình Thanh, PHẢI CHĂNG ĐÃ ĐẾN LÚC CHÚNG TA ĐÃ CÓ THỂ KHẲNG ĐỊNH ĐƯỢC NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM? Văn hóa Nghệ An, thứ Hai, 31 tháng 3/ 2014 (bài đăng lại). Hà Văn Thùy a, TRAO ĐỔI VỚI PGS.TS BÙI XUÂN ĐÍNH, Thuyhavan.blogspot. com/ 2014/05. Hà Văn Thùy b, MỘT KIẾN GIẢI SAI VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC, Văn hóa Nghệ An, Thứ Sáu, 30 Tháng 5 2014. Hà Văn Thùy c,“NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT-NGƯỜI MƯỜNG”* VÀ THỰC TRẠNG HỌC THUẬT VIỆT NAM, Thuyhavan.blogspot. com/ 2014/05. Đỗ Lai Thúy, NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT, NGƯỜI MƯỜNG - MỘT GIẢ THUYẾT KHÁC, Văn hóa Nghệ An, Thứ Ba, 27 Tháng 5/2014. Tôi ghi chú: - Nếu không sử dụng nguồn tư liệu và những ý tưởng phong phú trong cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường của Tạ Đức thì rất khó khăn khi truy tìm lại lịch sử Văn Lang thời thượng cổ. Đây là một cuốn sách biên soạn rất công phu, vấn đề lịch sử đã vượt khỏi "ranh giới Việt Nam" hiện nay, điều này không có gì khó hiểu khi biên giới Văn Lang thời Hùng Vương ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, Đại việt sử ký toàn thư, các thần tích và phả hệ dòng họ và các nguồn tư liệu khác là rất rộng lớn. - Cuốn sách Nguồn gốc người Việt người Mường và các cuốn sách và biên khảo, bài viết về lịch sử, văn hóa của các tác giả khác đã ra đời cực kỳ đúng thời điểm.
  21. Đọc quyển Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm Lê Thành Khôi Từ khi ra mắt năm đến nay, tác phẩm Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (TPHCM, 1996) của Trần Ngọc Thêm đã được tái bải nhiều lần, được coi là một trong những công trình nghiên cứu văn hoá Việt Nam quan trọng và được sử dụng như một trong những sách giáo khoa trong các chương trình giảng dạy thuộc lĩnh vực liên quan tại các trường đại học. Được sự đồng ý của Diễn Đàn (Paris), chúng tôi trân trọng giới thiệu bài phê bình của nhà sử học lão thành Lê Thành Khôi, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hoá Việt Nam, trong đó có tác phẩm Le Vietnam, Histoire et Civilisation (Paris, 1955), không những đã trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam mà còn là cuốn sách gối đầu giường của biết bao người nuớc ngoài quan tâm đến Việt Nam, đặc biệt của thế hệ 68 tại phương Tây. Cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam [*] của ông Trần Ngọc Thêm (TNT) ra mắt độc giả năm 1996 đã thu hút được sự chú trọng của dư luận và được bằng khen của ông Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Xuất bản lần 3 năm 2001, sách dày gần 700 trang. Lướt qua 6 chương, danh sách 436 tài liệu tham khảo và bảng chỉ dẫn, cảm tưởng đầu tiên là đây là một công trình nghiên cứu có hệ thống, công phu. Ðọc kĩ hơn, tôi thấy thỉnh thoảng có vài sai lầm và một số lập luận phải bàn sâu. Vậy, như tác giả đã gợi ý trong lời nói đầu, tôi xin đóng góp vài lời sau đây. Bài này chỉ liên quan đến Chương I của sách: Cơ sở lí luận cho cách nhìn hệ thống - loại hình về văn hoá Việt Nam (Cái nhìn hệ thống - loại hình là phụ đề của quyển sách). Những chương sau sẽ được bàn tiếp. Trước hết tôi muốn nói là tôi hoàn toàn đồng ý với hai quan điểm phương pháp của tác giả: một là cái nhìn hệ thống, hai là cái nhìn "độc lập", không lấy Trung Hoa hay Âu Tây làm trung tâm nhưng không phủ định ảnh hưởng của họ. Từ lâu tôi đã đi đến kết luận rằng Trung Hoa đã nhận được nhiều đóng góp của Ðông Nam Á (các văn hoá ở miền Nam sông Dương Tử), nhưng vì người Hán đã chiếm lãnh thổ ngày nay của Trung Quốc và, vì có chữ viết, đã viết lịch sử theo cách nhìn của họ (coi các dân tộc khác là man di) nên thế giới thường tưởng rằng văn hoá Trung Hoa hoàn toàn do người Hán lập ra. Mới gần đây thôi các nhà sử học và khảo cổ học mới nhận có sự đóng góp của nhiều văn hoá trong sự hình thành của văn hoá Trung Hoa, như trong 2 quyển sách xuất bản năm 1999: Yang Xiaoneng, ed., The Golden Age of Chinese Archaeology (Washington) và M. Loewe and E.L. Shangh-nessy, eds, The Cambridge History of Ancient China: From the origins of Civilization to 221 B.C. (Cambridge University Press). Trung Hoa, trong giai đoạn từ đồ đá giữa đến đồ đá mới (7000-2000 trước C.N.), nông nghiệp đã nhô lên với hai loại cốc chính: kê ở miền sông Hoàng Hà và lúa ở miền sông Dương Tử. Những vết tích sớm nhất của lúa gạo đã tìm thấy trong một động ở Hồ Nam, vào khoảng 12 000 năm trước C.N., kê thì muộn hơn một tị ở miền trung sông Hoàng Hà. Trong mỗi miền trồng trọt có 3 vùng văn hoá chính, từ Tây sang Ðông, ở miền Bắc: Yangshao, Dawenkou và Hongshan; ở miền Nam: Daxi, Liangzhu và Dapenkeng. Mỗi văn hoá có đặc trưng của mình trong hình dạng và trong trang trí của đồ gốm, đồ tạo bằng đất nung (và ngọc ở Hongshan và Liangzhu). Giữa các văn hoá có sự trao đổi, bằng chứng là một số hoa văn như là rồng rắn và mặt nạ súc vật. Ưu điểm thứ nhì của TNT là cái nhìn hệ thống, từ môn học gốc của ông là ngôn ngữ học: ngôn ngữ là một hệ thống. Nhưng nó có thể trở thành nhược điểm nếu không thấy tất cả sự phức tạp của một hệ thống khác, hệ thống xã hội: ngôn ngữ ít mâu thuẫn, xã hội nhiều mâu thuẫn. TNT viết rằng ông nhìn một cách tổng hợp, biện chứng. Nhưng chữ biện chứng ở đây dùng với nghĩa "trung cổ" của nó nghĩa là dùng mọi cách để thuyết phục đối phương chứ không với nghĩa "triết" của nó từ Héraclite, Hegel và Marx ở Âu Châu, từ hơn 2000 năm ở Á Châu với Kinh Dịch. Theo phép lí luận này phải coi 4 quy luật của sự vật: vận động không ngừng, tương tác, mâu thuẫn, chuyển từ lượng sang phẩm. Yếu tố quan trọng là sự mâu thuẫn. Hegel đã viết trong Lôgic: "Mâu thuẫn là gốc của mọi vận động... chỉ trong mức độ nó có mâu thuẫn thì một sự việc mới có thể thay đổi, hành động...". Nếu không có mâu thuẫn trong xã hội thì cũng không có lịch sử. Nếu tôi không nhầm thì TNT không dùng chữ mâu thuẫn. Và vì không nhìn thấy mâu thuẫn nên nhiều khi TNT có những khái quát quá đơn giản. Tôi sẽ trở lại vấn đề này. Một nhược điểm khác cũng đưa đến kết quả ấy là kiến thức có hạn của tác giả về lịch sử hoàn cầu để so sánh đúng đắn các văn hoá xưa và nay. Chắc tác giả không có nhiều tài liệu để tham khảo và nhiều khi tài liệu lại quá xưa. Sử học và nhất là khảo cổ học đi rất nhanh. Một bài viết cách đây 30 năm khó mà còn giá trị bây giờ (tôi nghĩ đến bài của N. Cheboksarov và W. Solheim dẫn ở tr 33-34 và 69-74). Và thỉnh thoảng người đọc có cảm tưởng rằng vì không đủ bằng chứng khoa học mà tác giả đưa ra ý kiến của một học giả có danh tiếng để bênh vực lời của mình. Nhưng, dù có danh tiếng đến đâu, ý kiến của một học giả mà không có chứng minh thư tịch hay khảo cổ, chỉ là một ý kiến hay một giả thuyết chứ không phải là một bằng chứng khoa học. Chẳng hạn, ở ta, tôi thấy nhiều người (kể cả TNT tr. 49) dẫn Karl Marx để chứng minh "công xã nguyên thuỷ". Nhưng chẳng ai biết công xã nguyên thuỷ là gì! Và cũng chẳng ai biết được vì không có gì chứng minh dù là thư tịch (chữ viết mới xuất hiện 3100 năm tr. C.N.) hay khảo cổ. Có khi TNT dẫn một tác giả không phải là một người nghiên cứu mà chỉ là một người phổ biến thôi (W. Durant). Tiện đây tôi muốn nói về "4000 năm văn hiến" của Việt Nam (tr.27). 4000 năm nghĩa từ -2000 đến bây giờ. Nếu tính có 18 vua Hùng trị vì từ -2000 đến -258 (lúc mất nước cho An Dương Vương) nghĩa là trong 1742 năm có 18 vua, mỗi vua trị vì gần 100 năm: ai tin được? Theo Việt sử lược thì nước Văn Lang ra đời vào thời Trang Vương nhà Chu (696-681). Như thế còn có thể tin được vì mỗi vua Hùng trị vì hơn 20 năm. Tất cả các truyện về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều là huyền thoại tổ tiên ta bịa ra (cũng như người Hán bịa ra Tam Hoàng) để có một "lịch sử" gần xưa bằng Trung Hoa. Nhưng huyền thoại vẫn có thể phân tích và hiểu theo góc dân tộc học. Và một huyền sử hay một giả thuyết có thể thành sự thực một khi đã được khảo cổ học chứng minh.Ta có thể lấy thí dụ nhà Hạ mà trước kia nhiều người coi là hoang đường. Nhà Hạ đã thành (một phần) sự thật trước nhà Thương từ khi đào được địa điểm Erliton ở Hà Nam. Cacbon 14 cho biết văn hoá Erliton có từ -2000 đến -1600 (nhà Thương: từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 11 trước C.N.) [1]. Một điểm khác làm tôi ngạc nhiên là TNT (và nhiều nhà dân tộc học ở Việt Nam) nhầm mẫu hệ (matrilinéarité) và mẫu quyền (matriarcat) (tr 54). Mẫu hệ nghĩa là con cái nhận tên và của cải của... giòng mẹ (mẹ, anh em mẹ....). Mẫu quyền là đàn bà cầm quyền trong xã hội. Hai sự việc khác nhau. Rất ít xã hội có mẫu quyền. Tôi đi công tác ở Phi Châu gặp nhiều tộc mẫu hệ, nhưng ở đâu cũng là đàn ông cầm quyền. Ở Vân Nam, người Naxi mà nhiều người gọi là theo mẫu quyền sự thật chỉ theo mẫu hệ. Ðàn bà tự do chọn đàn ông làm bạn, tiếp họ ban đêm, trước sáng họ đi. Con chỉ biết mẹ không biết bố. Trong gia đình quyền chia giữa mẹ và bác. Người bác có nhiều quyền hơn[2]. Dù sao, địa vị của người đàn bà trong một xã hội mẫu hệ cao hơn là trong một xã hội phụ hệ. Nay tôi đến hai vấn đề chính cho cơ sở lí luận của TNT ở Chương I: khái niệm văn hoá và loại hình văn hoá. Về khái niệm văn hoá, ai cũng biết có hàng trăm định nghĩa. TNT định nghĩa văn hoá là "một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" (tr.25) Ðịnh nghĩa này gần định nghĩa của Hồ Chí Minh mà TNT dẫn ở trang 4, nhưng rất xa câu sau của Edouard Herriot mà ông dẫn sau: "Văn hoá là cái tồn tại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả". Tôi thấy định nghĩa này, đúng về cá nhân chứ không đúng về xã hội, không những thiển cận mà còn có tính cách giai cấp: "tất cả" là gì đối với một người nhà quê và một người trí thức? Ai học được "tất cả"? Tôi định nghĩa văn hoá là "một tổng thể các sáng tạo vật chất và không vật chất của một cộng đồng người trong quá trình quan hệ với thiên nhiên và với những cộng đồng người khác, những sáng tạo mà có với họ hay với phần đông của họ một ý nghĩa riêng xuất phát từ lịch sử đã qua hay hiện hành của họ mà các cộng đồng khác không chia sẻ" (Lê Thành Khôi, Culture et Développement, Revue Tiers Monde, no97, janvier-mars 1984, tr.15). Ðịnh nghĩa này nhấn mạnh vào ý nghĩa của văn hoá. Một yếu tố cùng một gốc có thể có một ý nghĩa khác từ nước này sang nước khác, từ tộc này sang tộc khác: đạo Phật ở Tây Tạng khác đạo Phật ở Trung Hoa, đạo Phật ở Trung Hoa khác đạo Phật ở Việt Nam, ở Nhật Bản, v.v. Văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng chứ không phải của "con người": "con người" là ai? Có thể tách rời xã hội được không? Trong một xã hội có giai cấp, các "giá trị" không cùng một nghĩa cho mọi người. Giáo dục mới nhìn có thể coi là một giá trị phổ thông. Nhưng giáo dục cũng là một dụng cụ chính trị cho giai cấp thống trị nhằm thiết lập hệ tư tưởng của mình. Ðó chính là nghĩa chữ "giáo" trong nho giáo: vua "giáo" dân nhưng dân không "giáo" được vua! Trái lại giai cấp bị trị có thể dùng giáo dục để chống lại. Cố nhiên nội dung sẽ khác. Sự kiện này rất rõ ràng ở Âu Tây trong thế kỉ 19. Giai cấp công nhân đã mở những lớp phổ thông, dạy lẫn nhau, những đại học bình dân, để chống lại giai cấp tư sản. Cho nên tôi không đồng ý với TNT khi ông viết: "Văn hoá thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội... văn hoá chỉ chứa cái đẹp" (tr.21), " không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển..., là động lực cho sự phát triển " (tr.23), "thường xuyên tự điều chỉnh" (tr.24). Rõ ràng TNT không nắm được quy luật mâu thuẫn của biện chứng pháp, cái quy luật mâu thuẫn là động cơ của lịch sử. Văn hoá không phải "chỉ chứa cái đẹp", không phải thường xuyên "tự hoàn thiện", "tự điều chỉnh", "là động lực cho sự phát triển". Nếu thật như thế thì làm sao giảng nghĩa được sự suy đồi của Trung Hoa và Việt Nam ở thế kỉ 19? Chính vì văn hoá của hai nước này không biết "tự hoàn thiện" mà đã bị Âu Tây xâm lăng, biến thành bán thuộc địa và thuộc địa. Trong khi đó thì Nhật Bản với một nền văn hoá không khác mấy (ở đây Tống Nho cũng là tư tưởng thống trị) đã biết thay đổi thích nghi mà giữ được độc lập của mình. Tại sao có hai hình trạng khác nhau? Ta không được quên rằng văn hoá bao giờ cũng hành động theo cách hiểu của mỗi xã hội và nhất là của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Ở Trung Hoa và Việt Nam, giai cấp thống trị là quan lại nhà nho chọn lọc qua thi cử: nho giáo là chủ nghĩa pháp hoá quyền lực của họ. Ở Nhật thì khác: giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối: nho giáo đối với họ chỉ là một dụng cụ chính trị. Thời thế thay đổi họ có thể tìm một dụng cụ thích hợp hơn. Một đằng khác là võ sĩ thì luôn luôn phải để ý đến quan hệ lực lượng. Võ sĩ Nhật đã thấy ngay sức mạnh của Âu Mĩ và biết mình không địch được: thà rằng mở cửa và giữ độc lập còn hơn là đóng cửa và mất nước. Cuối cùng người Nhật có một truyền thống tiếp nhận những thành tựu của nước ngoài: từ thế kỉ 6 đã tiếp thu nho giáo, đạo giáo, phật giáo, chữ viết, từ Trung Hoa qua Triều Tiên; từ thế kỉ 16 tiếp thu tây học, làm súng theo kiểu Âu, đến thế kỉ 19 tiếp thu khoa học, kĩ thuật, văn học của Âu Mĩ. Trung Hoa thì kiêu căng, vẫn coi mình là trung tâm của thiên hạ, Âu Mĩ là man di. Còn Việt Nam thì chỉ biết có "thiên triều". Thật sự ở hai nước có một vài người thức thời nhưng họ không có quyền hành. Vẫn trong chiều hướng đó, tôi không tin như TNT rằng " mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hoá của mình" (tr.29). Lịch sử cho thấy nhiều văn hoá không tiếp thu những thành tựu bên ngoài vì cớ này hay cớ khác, vì muốn "giữ bản sắc của mình". Ở Trung Hoa từ thế kỉ 17 các thày tu dòng Tên (Jésuites) đã mang đến nhiều kiến thức toán, thiên văn và địa lí học tiến bộ hơn những kiến thức của người Hán, nhưng không ra khỏi triều đình nhà Thanh. Một thí dụ còn điển hình hơn là văn hoá Hồi đã tiếp nhận giấy của Trung Hoa nhưng không tiếp nhận nghề in. Năm 751 ở Trung Á cạnh sông Talas quân Ả rập thắng quân nhà Ðường đã học của người Hán nghề làm giấy và từ đó đã truyền cho châu Âu. Nhưng họ không học nghề in (xuất hiện ở Trung Hoa vào thế kỉ 9) tuy buôn bán với Trung Hoa và biết Trung Hoa biết in. Tại sao vậy? Bởi vì đối với người Hồi sách Coran là lời nói của chúa Allah, nếu in ra thì sẽ mất giá trị thiêng liêng. Cho nên đến năm 1726 mới có một nhà in của người Hồi ở Thổ Nhĩ Kì, nhưng chỉ in những sách khoa học, kĩ thuật, ngôn ngữ và lịch sử, không đựoc in sách về đạo và pháp luật (luật Hồi theo đạo). Chính vì không chịu in sách mà văn hoá Hồi, rực rỡ trong mấy thế kỉ, dần dần suy. Về loại hình văn hoá, TNT bắt đầu từ sự hình thành các chủng người trên thế giới (tr.33). Nhưng các tài liệu tham khảo viết từ 30 năm nay bây giờ đã lạc hậu! Bây giờ ai cũng nhận là loại người xưa nhất là Australo-pithecus và Homo habilis đều xuất hiện ở Phi Châu (mà chỉ thấy ở Phi Châu thôi) cách đây từ 7 triệu đến 4 triệu năm. Còn homo sapiens sapiens (người hiện nay) thì xuất hiện cách đây 40 000 năm ở Tây Á (Palestin, Syria) với nông nghiệp, du mục, đồ gốm và đá mài. Khoảng 3100 năm trước C.N. thì chữ viết ra đời gần như cùng một lúc ở Lưỡng Hà (Mésopotamie) và Ai Cập. Ở Trung Hoa thì chữ viết ra đời chậm hơn, vào khoảng 1500 năm tr. C.N. Ở đâu người cũng bắt đầu sống bằng hái lượm, săn bắn, câu cá. Trừ một vài khu địa lí không thuận tiện cho sự trồng trọt, thường thường nông nghiệp xuất hiện cùng với du mục, ở miền Lưỡng Hà cũng như ở lưu vực sông Hoàng Hà hay sông Vị (không có sách mới nào nói người Hán đến từ Trung Á). Cố nhiên sự quan trọng của nông nghiệp hay du mục tuỳ theo địa lí và khí hậu ở mỗi nơi. Cho nên tôi không tin rằng du mục một đằng, nông nghiệp đằng khác đã đưa đến hai loại hình văn hoá khác biệt, một bên trọng động vì phải "thường xuyên di chuyển" (phương Tây) một bên trọng tĩnh vì phải "lo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài" (phương Ðông). Không thể giải nghĩa hai hay ba nghìn năm văn hoá bằng tâm lí được. Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự khác biệt giữa hai văn hoá, cái "gốc" không quan trọng bằng những sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị "đương thời". Mà trong 2000 năm nông nghiệp là nghề chính của đại đa số nhân dân trên thế giới. Nếu ta coi lịch sử thế giới từ 2000 năm nay, mỗi xã hội có thời "tĩnh" và thời "động". TNT viết rằng "chính vì động cho nên văn hoá phương Tây đã chuyển biến rất nhanh" (tr.38). Sự thật mà ông quên là Âu Tây đã "tĩnh" trong 1000 năm từ sự sụp đổ của La Mã (thế kỉ 5) đến thời Phục Hưng (thế kỉ 15) từ đó mới tiến nhanh. Tinh thần chinh phục thiên nhiên mới nẩy nở từ đó chứ không phải "luôn" như ông viết (tr.39). Mà nó nẩy nở chính vì có một giai cấp tư bản (tài chính và thương mại) đã xuất hiện với một chủ nghĩa mới: chinh phục thiên nhiên để giành lợi. Lợi lộc là một động cơ rất lớn. Trước kia, thời Trung Cổ "tĩnh" vì sự thống trị của đạo Ki-tô coi việc cần của con người là sửa soạn cho thế giới "bên kia" chứ không phải là hưởng thụ "bên này". Ở phương Ðông cho đến thế kỉ 15, văn hoá Trung Hoa tiến nhanh hơn văn hoá Âu rồi sau đó suy dần cho đến nửa thế kỉ 20. Văn hoá Ả-rập thì "tĩnh" rồi "động". Ðộng cơ ở đây không phải là sự mưu cầu lợi nhuận như ở Âu Tây mà là một đạo mới, đạo Hồi, nảy nở ở thế kỉ 7. Chỉ trong hơn một thế kỉ, người Ả-rập đã lập một đế quốc rộng lớn từ miền tây Ðịa Trung Hải (gồm Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha) đến Trung Á và Sind (ở Ấn Ðộ). Ðối với họ, chiến thắng chính là dấu hiệu biểu lộ chân lí của đạo mới. Ðiều lí thú, đi trái ngược hẳn lí thuyết của TNT là dù "tĩnh" hay "động" nghề chính của người Ả-rập là du mục. Những thí dụ trên đây và nhiều thí dụ khác cho thấy sự phân chia hai loại hình văn hoá theo gốc du mục hay nông nghiệp không có cơ sở khoa học. Còn nhiều khẳng định của TNT cũng như thế, trái với sự thật lịch sử: "Tất cả những cuộc chiến tranh xâm lược đều do những dân tộc thuộc loại hình văn hoá động gây ra cho những dân tộc thuộc loại hình văn hoá trọng tĩnh (hoặc tĩnh hơn)" (tr.47). Sự thật có rất nhiều chiến tranh xâm lược do một nước "tĩnh" mạnh gây cho một nước cũng "tĩnh" nhưng yếu hơn (hay bị coi là yếu), chẳng hạn Nhật Bản đối với Triều Tiên, Việt Nam đối với Chiêm Thành hay Campuchia, chưa kể người Hán đã thôn tính bao nhiêu dân tộc, gần đây nhất là Tây Tạng. "Phương Tây coi trọng cá nhân" (tr. 35 và 48). Nói thế là không đếm xỉa gì đến bao nhiêu thế kỉ nô lệ ở Âu Châu tuy chính TNT đã dẫn Aristote viết rằng "nô bộc là hạng người sinh ra để làm công cụ cho lớp thống trị và phụ nữ là để sản xuất và nuôi con" (tr.51). Tôi thì thấy rằng địa vị phụ nữ ở Việt Nam cao hơn ở Pháp cho đến thế kỉ 20. "Trọng tĩnh là dân chủ, trọng động thì quân chủ " (tr.48). Thật lạ. Nhìn qua lịch sử thế giới từ 4-5000 năm tới nay gần như hầu hết các xã hội đều theo chế độ quân chủ cho tới thế kỉ 19 hay 20. Mà bây giờ có bao nhiêu chế độ gọi là "cộng hoà" mà thật sự là "quân chủ" lối mới, nghĩa là có một người độc tài cầm quyền. Và ở đâu cũng trọng nam hơn nữ vì sức lao động và sức chiến đấu cao hơn (cố nhiên địa vị người đàn bà có khác tuỳ theo nước). "Quy luật chung là chiến tranh thường đi từ vùng du mục hơn đến vùng nông nghiệp hơn, ngược lại văn hoá lại thường đi từ vùng nông nghiệp hơn đến vùng du mục hơn" (tr 52): quy luật thật là chiến tranh là một dụng cụ chính trị của kẻ mạnh hơn (hay nghĩ là mình mạnh hơn) gây ra cho kẻ yếu hơn (hay bị coi là yếu hơn). Giữa các nước Tây lẫn nhau, giữa các nước Ðông lẫn nhau: La Mã xâm lăng Ai Cập và Ba Tư nhưng Ba Tư trước đó đã xâm lăng Hi Lạp v.v. Còn văn hoá thì cũng đi nhiều đường từ Ðông sang Tây (không nên quên rằng đạo Ki-tô sinh ở Á Châu), từ Tây sang Ðông (văn hoá công nghiệp và kĩ thuật), từ Bắc xuống Nam (Khổng giáo), từ Nam lên Bắc (Ðạo giáo sinh ở miền Nam sông Dương Tử), từ một trung tâm nào đó lan rộng toàn thế giới (các tôn giáo lớn, khoa học hiện đại). Về toạ độ và tiến trình của văn hoá Việt Nam, tôi đã dẫn ở trên những phát minh khảo cổ gần đây và sự công nhận của giới khảo cổ học về sự đóng góp của các văn hoá không Hán cho nền văn hoá Trung Hoa. TNT dẫn một bài của Solheim viết từ 1971 trong đó Solheim đưa ra một số giả thuyết về tiền sử Ðông Nam Á châu. Bây giờ những giả thuyết đó đã bị bác bỏ. Không ai phủ nhận rằng bước đầu của văn minh loài người đã xuất phát ở Tây Á như tôi đã dẫn ở trên. Ở Ðông Á, văn hoá đồng của Ðông Sơn xuất hiện chậm hơn văn hoá đồng của người Hán, 1 thiên niên kỉ chậm hơn. Ðối với những tượng và mặt nạ bằng đồng không Hán tìm thấy ở Tứ Xuyên hay Giang Tây cũng chậm hơn từ 500 đến 700 năm (xem Yang Xiaoneng, sđd). Bây giờ không thể viết như Hà Thúc Cần (dẫn tr. 83) hay Hà Văn Tấn (dẫn tr. 85) rằng văn hoá Ðông Sơn đã ảnh hưởng Vân Nam, Quảng Tây và cả đất Sở. Năm 2001 tôi đi chơi Vân Nam được dịp xem bảo tàng Côn Minh, ở đó có trưng bày nhiều cổ vật bằng đồng của văn hoá Ðiền (tên hồ cạnh Côn Minh) tìm thấy ở những mộ vua chúa khoảng 600 đến 300 tr. C.N. Có đồ giống đồ Ðông Sơn (một số trống và chuông, có hoa văn chim, mặt trời, hình tròn ở giữa có điểm, ếch tượng trưng khả năng phồn thực, v.v.), có đồ khác (thạp đựng ốc tiền). Ðây là một vương quốc giàu, ở một giai đoạn tổ chức xã hội cao hơn Ðông Sơn còn ở tình trạng bộ lạc, buôn bán với người Hán, Ấn Ðộ, Tây Tạng, Miến Ðiện. Tôi nghĩ rằng Ðiền và Ðông Sơn cùng thuộc về một loại văn hoá đồ đồng lan rộng từ miền Nam sông Dương Tử cho tới các hải đảo (trống đồng cũng có ở Phi Luật Tân, Java, Lào, Cao Mên v.v.), khác văn hoá đồ đồng của người Hán thời Thương và Tây Chu, nhưng chịu ảnh hưởng của họ qua sự trao đổi hàng hoá (ảnh hưởng này rõ rệt ở các gương đồng, đồ nữ trang bằng ngọc tìm thấy ở Ðiền v.v.). Ở đây tôi cũng muốn nói là tôi không đồng ý với Hà Văn Tấn khi Tấn viết rằng "có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng" (dẫn tr.94-96): 20 chữ - nếu đúng là chữ viết - không đủ để thành một "hệ thống". Một "hệ thống" dùng đúng nghĩa của nó phải có vài nghìn chữ đủ để tả cảnh vật, diễn đạt tính tình và ý niệm. Ở Trung Hoa cuối thời nhà Thương (thế kỉ 11 tr. C.N.) người Hán đã có 5000 chữ. Cuối cùng có một điểm cần xét lại. Trang 90, TNT (cũng như nhiều người khác) viết rằng nhà Lí "xây Văn Miếu năm 1070, lập Quốc Tử Giám năm 1076". A.Poliakov đã nghiên cứu vấn đề này, năm 1990 ở Hà Nội có đưa cho tôi bài viết của ông, Etudes Vietnamiennes đăng ở số 3, septembre 1991, tr 27-36: "Sur la date de construction du Van Mieu".Theo Poliakov, chỉ có Ngô Sĩ Liên mới biên sự kiện này, không thấy ghi ở các sử trước (Lê Văn Hưu, Việt sử lược v.v.). Thời đó Phật giáo là quốc giáo, chưa có nhiều nhà nho để dạy học và tổ chức thi cử. Ngô Sĩ Liên viết rằng thái tử Lí đến học ở Văn Miếu sau khi Văn Miếu được xây dựng, nhưng lúc bấy giờ mới có 4 tuổi! Chỉ đến thế kỉ 13 nho giáo mới bắt đầu phát triển. Chương 2 tìm hiểu những giá trị văn hoá nhận thức, nghĩa là những triết lí giải thích bản chất của vũ trụ, cấu trúc không gian và thời gian. Theo Trần Ngọc Thêm (TNT), âm dương ngũ hành có nguồn gốc ở phương Nam, bát quái thì nguồn gốc phương Bắc, tuy người Hán (TNT dùng chữ "Hoa tộc" không đúng)" đã có công rất lớn trong việc tổng hợp tri thức rồi hệ thống hoá và phát triển chúng" (tr. 98). Lập luận của TNT không thuyết phục tôi vì những lẽ sau này : Lẽ thứ nhất rất đơn giản là không thể khái niệm hoá nếu không có chữ viết. Một vật cụ thể ai cũng nhận được không cần phải nghĩ xa xôi. Từ thượng cổ ở đâu cũng biết phân biệt nam nữ ngày đêm vì đó là tự nhiên thôi (trời sáng trời tối). Ngày đêm, sáng tối đưa đến đen trắng: ngôn ngữ nào cũng có tối thiểu là 2 màu đen và trắng (TNT dẫn khảo sát của Berlin và Kay, tr. 135). Ðó cũng là nghĩa đầu của âm và dương: âm là sườn núi tối (mặt trăng), dương là sườn núi sáng (mặt trời). Nếu nói "gốc" thì âm dương là nhận thức của mọi người chứ không phải của riêng Ðông Nam Á hay Tây Bắc Á. âm dương ( chữ Hán giản thể ) Trừu tượng hoá âm dương để thành một triết lí thì phải có chữ viết. Chữ viết không những có chức năng truyền thông rộng hơn là tiếng nói, mà còn cho phép trữ kiến thức, tăng thêm nó, phổ biến nó, và nhất là phát triển tư tưởng phê bình và khoa học. Tôi không nói là một xã hội truyền khẩu không biết phê bình. Nhưng họ chỉ biết phê bình cái gì họ nghe và thấy. Nghe một nhà hùng biện có thể bị lôi kéo mất óc phê bình. Chữ viết cho phép đọc từng dòng từng chữ, đọc đi đọc lại, có thời giờ ngẫm nghĩ suy luận, đối chiếu nhiều ý kiến. Và chữ viết cho phép trừu tượng hoá, mở đầu cho khoa học. Không có chữ viết không có khoa học, đó là một sự thật không ai chối cãi. Nhất là toán học, một dụng cụ chủ yếu của khoa học. Ta có thể làm vài tính thường trong óc. Nhưng tính phức tạp thì không được, phải viết trên giấy. Triết lí cũng vậy (chưa nói đến triết học). Triết lí cần chữ viết để trừu tượng hoá quan niệm thông thường, để dựng một hệ thống có quy củ, để xem xét, phê bình, sửa đổi. Người Việt dù có 20 chữ hay 200 chữ cũng không đủ để trừu tượng hoá âm dương thành triết lí. Người Hán thì có thể vì có chữ từ thế kỉ 16, đến thế kỉ 11 trước C. N. đã có 5000 chữ. Chữ "văn" trong văn hoá hay văn minh không có nghĩa là "đẹp" như TNT viết tr. 27, mà nghĩa là "chữ viết". Ði đôi với sự xuất hiện của chữ viết là sự xuất hiện của một loại người lấy chữ làm nghề. Ðó là loại sĩ, có người thì làm việc cho triều đình (soạn và giữ các văn kiện, bói toán, làm cố vấn cho nhà vua), có người thì dạy học, suy nghĩ, viết sách. Chỉ có nhóm này mới có thời giờ và tri thức để xây dựng một hệ thống tư tưởng triết lí. Mà nhóm này chỉ có ở người Hán. Ở Việt Nam cũng như ở tất cả miền Nam sông Dương Tử không nơi nào có những điều kiện ấy, nhất là đủ chữ và người để nghiên cứu triết lí. Có "gốc" không đủ để đi đến một quan niệm và cũng không đủ để đi đến một khái niệm. Nhất là khi "gốc" là của toàn thế giới! Trừu tượng hoá "nữ" = "tối", "nam" = "sáng" không phải văn hoá nào cũng làm (hay làm được). Và nói như TNT rằng ngũ hành và bát quái là sản phẩm của hai dân tộc khác nhau vì có sách chỉ nói đến bát quái không nói đến ngũ hành, hay vì trong ngũ hành và bát quái cùng một số hiện tượng (đất, nước, lửa) có những tên khác nhau, do đó phải xuất phát từ hai kiểu tư duy khác nhau, thì đó là chuyện thường trong văn học. Ở một trình độ nào đó trong một nước, về một vấn đề có nhiều ý nghĩ khác nhau, cùng một chữ có nhiều cách hiểu. Trong một nước Pháp có bao nhiêu sách khác nhau nói về tư tưởng của Marx! Khổng giáo và Phật giáo cũng thế. Ở Tây Tạng có 4 phái đều được coi là chính phái của Phật giáo! Nói về nước Việt ta thì phải công nhận ta không có óc triết học (người Nhật Bản cũng thế). Ngoại trừ mấy thiền sư thời Lí-Trần, ta không có một nhà triết học nào cả. Lê Quý Ðôn mà nhiều người gọi là một nhà triết học sự thật chỉ là một người sưu tập. Một lẽ cuối cùng mà TNT không nhận thấy là một mâu thuẫn lớn giữa tín ngưỡng cổ của người Hán và người Việt. TNT viết (tr. 99): "đất được đồng nhất với mẹ, trời được đồng nhất với cha" (trong quan niệm của người nông nghiệp). Sự thật người Việt cổ coi trời là mẹ chứ không phải là cha, như trong câu : Ông Trăng mà lấy Bà Trời Chính TNT cũng nói đến Bà Trời trong Chương 4, §13,2, nhưng khi viết Chương 2 thì quên đi! Chắc rằng ta nói Bà Trời, Bà Ðất, Bà Nước, v.v., vì lúc bấy giờ ta còn ở chế độ mẫu hệ trong khi người Hán đã sang chế độ phụ hệ. Sau này bị Hán xâm chiếm và ảnh hưởng, ta mới sang chế độ phụ hệ và gọi Trời là Ông. Ở thời Thượng cổ ta gọi Trăng là Ông trong khi người Hán thì coi là âm (nữ) đối với mặt trời (dương). Tất cả những lí lẽ trên đây đưa đến kết luận là triết lí âm dương ngũ hành là gốc Hán chứ không phải là gốc Việt. Từ Chương 3 đến Chương 6, TNTlần lượt phân tích văn hoá Việt Nam: tổ chức cộng đồng (đời sống tập thể và cá nhân); ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Ở đây cơ sở lập luận vững hơn là ở hai chương đầu: TNT hiểu biết văn hoá Việt Nam nhiều hơn là văn hoá nước ngoài và lịch sử thế giới. Tuy nhiên vẫn có nhiều câu không đúng khi so sánh Việt Nam với Trung Quốc hay "phương Tây" và nhất là về phương diện phương pháp luận. Trong Chương 3: "Văn hoá tổ chức cộng đồng: đời sống tập thể", khác với lời viết của TNT (tr. 180), dòng họ rất quan trọng ở Tây Âu thời La Mã và phong kiến. "Cá nhân" xuất hiện từ thời Phục Hưng (thế kỉ 15), gia đình hạt nhân thì với chủ nghĩa tư bản và công nghiệp. Ở người slav dòng họ (zadruga) quan trọng cho tới thế kỉ 19. Trung Hoa cũng coi trọng gia tộc không kém Việt Nam, nhưng đó là gia tộc phía đàn ông, trong khi Việt Nam coi trọng cả hai dòng (nội và ngoại) tuy "nội" vẫn được trọng hơn "ngoại". Tôi không chắc là "ở Việt Nam làng và họ nhiều khi đồng nhất với nhau". Nhiều tác giả thấy rằng phần đông các làng, nhất là ở trong Nam, gồm nhiều họ, dù rằng có một họ đã sáng lập. Ta có câu "láng giềng gần hơn họ xa". Tiếc rằng không có thống kê về vấn đề này. Ở tr. 181, về Tây Nguyên, nói về sự điều hành trong nhà dài của người phụ nữ chủ nhà chỉ đúng ở chế độ mẫu hệ thôi. Ngược lại, tr. 186, không phải chỉ ở phương Nam mới trọng tuổi già. Tuổi già được trọng ở mọi nơi không có chữ viết hay ít dùng chữ viết dù xã hội là du mục hay nông nghiệp, bởi lí do đơn giản là kinh nghiệm đến với tuổi tác. Khi mà chữ viết và học thức lan rộng, tuổi già không được trọng nữa vì người trẻ có thể biết nhiều hơn người già. Tr. 190-1, tôi không biết tính tự trị có phải là một đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam không. Lần đầu tiên nói đến xã là về thời Khúc Hạo (907-917). Sử viết là Khúc Hạo chia cả nước thành lộ, phủ, châu, giáp, xã: mỗi xã có một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Ðến thời Lí, khu vực hành chính gồm có lộ, phủ, huyện, hương, giáp. Ðời Trần có xã quan. Lê Thánh-tông lại đổi thành xã trưởng. Xã trưởng do dân chọn nhưng nhà nước bổ nhiệm. Cho đến 1732 nhà nước Lê Trịnh suy mới thôi kiểm tra và lúc bấy giờ làng mới hoàn toàn tự trị. Nhưng tự trị không có nghĩa là dân chủ. Dân chủ là gì? TNTkhông định nghĩa chữ ấy, chỉ kết hợp dân chủ và bình đẳng (tr. 195). Nhưng có bình đẳng đâu! Chính TNT cũng viết rằng có dân chính cư và dân ngụ cư, dân chính cư chia làm 5 hạng: chức sắc, chức dịch, lão, đinh, trẻ con. Hai hạng trên và một phần hạng thứ ba mới là quan viên. Thế thì có bình đẳng đâu! Nếu là dân chủ theo nghĩa bây giờ thì ai là tráng đinh cũng phải có quyền bầu người lãnh đạo. Cho nên nói đúng hơn đây là một tập đoàn trị (oligarchie). Theo TNT, tính cộng đồng và tính tự trị đưa đến hậu quả tốt và hậu quả xấu: óc ích kỉ, bè phái, v. v. Ở đây tôi thấy chủ quan quá. TNT chứng minh bằng một số ca dao hoàn toàn trái ngược. Ở đâu mà chả có người xấu người tốt? Trong mức độ nào? Ðó là vấn đề. Bây giờ tâm lí xã hội học đã đưa ra một số biện pháp để biết rõ hơn (tôi không nói là với kết quả hoàn toàn khoa học, tôi chỉ nói là khách quan hơn, lúc mà mình làm đúng quy tắc) tỉ số những người nghĩ thế này thế khác. Ở mục 11: "Cách tổ chức quốc gia", có nhiều câu đặt vấn đề (ngoài những điểm mà tôi đã phê bình). Tôi chỉ nêu vài ví dụ không bàn dài dòng: Tr. 200: "đơn vị trung gian giữa làng và nước không quan trọng ... thể hiện ở chỗ tên gọi ... luôn thay đổi ": chứng minh này không đủ và có thể chỉ bắt chước Trung Hoa (các tên đều lấy từ Trung Hoa). Tr. 201: "ở phương Tây, lãnh địa là trụ cột ổn định của quốc gia": hoàn toàn sai! Trái lại, các nhà vua luôn luôn ráng sức làm giảm bớt quyền lực của lãnh chúa để củng cố quốc gia. Vào thời kì phát triển tư bản đã hết lãnh địa và phong kiến từ lâu, nhà nước thống nhất chứ không phải là liên bang. Ở Ðức có nhiều vương quốc, Phổ (Prusse) thống nhất thành một Ðế quốc liên bang chứ không phải là một liên bang thực sự. Liên bang thật sự ở Âu Châu thế kỉ 19 chỉ có ở Thuỵ Sĩ do hoàn cảnh riêng của nước này. " Ở Việt Nam. . . các làng phải tập hợp nhau lại thành 'nước'". Không đúng. Ở đây cũng như ở Trung Hoa hay Âu Châu, một sức mạnh ngoài làng (một anh hùng, một tướng mạnh) đã tập hợp các làng, các vùng thành nước. Tr. 202 : "Ở phương Tây ranh giới quốc gia rất mờ". Lại sai. Chính ở đây đã xuất hiện hộ chiếu. Từ khi có Cộng đồng Âu Châu, nghĩa là từ vài chục năm nay, những người trong Cộng đồng mới đi lại dễ dàng, những người ở ngoài vẫn phải xin thị thực. "Giới tư sản các nước liên minh chặt chẽ với nhau": phải thêm là để hợp tác và cũng là để cạnh tranh. Còn công nhân thì "tinh thần quốc tế vô sản" bây giờ không còn nữa ! Tr. 206 và sau, TNT đối lập Trung Hoa với Việt Nam cho là ta vì có gốc nông nghiệp nên có một truyền thống dân chủ hơn Trung Hoa là gốc du mục. Tôi thì thấy ở đâu cũng có vua tốt vua xấu. Vua ta đã theo Trung Hoa tự coi mình là thiên tử, mặc áo vàng, đặt quan chế theo kiểu Hán. Không phải chỉ vua ta mới "coi dân như con cháu mình", người Hán cũng có câu "quan là phụ mẫu" của dân. Quan hệ huyết thống (vua anh - vua em, vua chị - vua em, vua cha - vua con) hay pháp lí (vua Lê - chúa Trịnh) không thể gọi là "lãnh đạo tập thể" được (2 người không phải là " tập thể " nhất là khi cùng dòng họ). Chế độ vua cha - vua con có thấy ở một số nước mà không gọi được là dân chủ (Nhật Bản chẳng hạn). Còn chế độ kiểu Vua Lê - Chúa Trịnh thì cũng thấy ở Nhật và nhiều nước trong đó có Pháp "gốc du mục". Tr. 213: "Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại". Không thể nói thế được vì ta chỉ bắt chước Trung Hoa là nước đầu tiên có việc này, một nước mà theo TNT có gốc vừa du mục vừa nông nghiệp. Ở Triều Tiên "gốc nông nghiệp", chỉ là quý phái mới được đi thi (thường dân không được). Ở Nhật cũng là một nước nông nghiệp, giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối hay được người trên chọn, cho tới đầu thế kỉ 20. Tr. 216-7: TNT viết rằng "truyền thống thương nghiệp Việt Nam là gian dối", tôi thấy rất là chủ quan. Một hai tục ngữ ca dao không là chứng minh được. Còn nói ở phương Tây xã hội trọng vọng và kính nể nhà doanh nghiệp hay thương nhân thì chỉ đúng từ thời Phục Hưng thôi, thời Trung Cổ họ bị khinh vì sự thống trị của đạo Ki-tô y như là với Khổng giáo ở Ðông Á. Ở hai nơi giai cấp thương nhân đã nảy nở không phải nhờ tôn giáo mà mặc dù tôn giáo chống (tới một trình độ nào tiền mạnh hơn đạo). Tr. 243 : Về lễ nam giao và lễ tịch điền, TNT lập luận rằng vì "tục thờ mặt trời có nguồn gốc ở phương Nam thì làm sao lễ tế Trời và Ðất lại bắt nguồn từ phương Bắc được?". Người ta có thể trả lời rằng chữ và quan niệm "thiên địa nhân" và "thiên tử" xuất phát ở người Hán. Vua tế trời vì tự coi là con trời (thiên tử) có mệnh của trời trị vì thiên hạ (là đất dưới trời) nhiệm vụ đầu tiên là phát triển nông nghiệp. Có rất nhiều dân tộc thờ mặt trời : Amaterasu là nữ thần mặt trời ở Nhật Bản. Người Turc và người Mông Cổ (du mục) cũng thờ Trời nhưng là một thần Nam. Trang 245: "Rồng xuất phát từ Nam Á và từ đó đã đi vào văn hoá Trung Hoa"? Khảo cổ thì có bằng chứng khác. Ở Trung Hoa, người ta đã đào được một số đồ bằng ngọc hình rồng thuộc văn hoá Hongshan (4700-2920 tr. C. N. ) tỉnh Liao-ning và Nội Mông Cổ. Hình rồng cũng có ở văn hoá Yangshao (5000-3000) và Taosi Longshan (2500-2000 tr. C. N. ). Bên cạnh hình rồng có hình rắn trên đồ đất nung[3]. Ở Việt Nam không (chưa?) tìm được hình rồng nào xưa như thế. Người Hán chẳng cần phải qua sông Dương Tử để biết rồng! Tr. 272-3, chú thích 14: Nước Sở thế kỉ 4-3 tr. C. N. dân Việt nhưng vua và quý tộc là Hán. Khuất Nguyên là người Hán không được vua nghe nên tự vẫn chứ không phải "bất bình với sự cai trị của vua nhà Hán": nhà Hán lập nghiệp năm 206 tr. C. N. , nghĩa là 70 năm sau khi Khuất Nguyên mất. Tr. 288-9: "Văn hoá gốc du mục trọng dương... thiên về văn xuôi". Sự thực phức tạp hơn nhiều. Có nơi bắt đầu bằng thơ, như ở Hi Lạp với Homère (Iliade, Odyssée) hay ở Pháp với Chanson de Roland, có nơi bắt đầu bằng vừa thơ vừa văn xuôi như ở La Mã với Lucrèce và Cicéron, v. v. Văn xuôi bắt đầu thịnh hành từ thế kỉ 18, nghĩa là khá xa với "gốc". Tr. 410 Ngọ Môn có thể được dịch bằng Porte du Midi và Midi cũng có nghĩa là hướng Nam (Chú thích của Diễn Ðàn: TNT chê dịch như vậy là sai vì ông tưởng Midi chỉ có nghĩa là giờ ngọ). Tr. 457: Tượng Phật ở chùa Phật Tích trước đây Bezacier cho là tượng Adiđà, bây giờ Trần Lâm Biền và Chu Quang Trứ cho là tượng Phật Thích Ca, tôi nghĩ đúng hơn. Tr. 467: Quan Âm là Phật Bà không những ở Việt Nam mà cả ở Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản tuy rằng họ không "thiên về nữ tính". Tr. 482 và sau: TNT viết rằng Nho giáo "ra đời và nuôi dưỡng bởi hai dòng sữa: truyền thống văn hoá du mục phương Bắc và truyền thống văn hoá nông nghiệp phương Nam". Trên đây tôi đã đưa ra nhiều chứng minh đối lập với thuyết "hai văn hoá " ấy. Ở đây chỉ cần nói rằng nhiều dân tộc du mục nhỏ ở phương Ðông (chẳng hạn ở Trung Á) không có "tham vọng bình thiên hạ" còn "trọng sức mạnh" thì cũng thấy ở nước nông nghiệp (Nhật Bản chẳng hạn). Hay là nông nghiệp "phương Bắc" khác nông nghiệp "phương Nam"? Nhật Bản khác Việt Nam vì có một chế độ phong kiến rất giống phong kiến Âu Châu. Do đó họ trọng sức mạnh, không trọng phụ nữ. Nhưng đó là kết quả của chế độ xã hội chứ không phải của nông nghiệp. Người ta cũng có thể lí luận như thế đối với "lối sống trọng tình" hay "tinh thần dân chủ", hai ý niệm rất chủ quan, hay cho người làm văn viết truyện nhưng người khoa học thì nên tránh. Tôi không nói là không có người sống trọng tình hay không có tinh thần dân chủ. Tôi chỉ phê bình sự khẳng định khái quát là nông nghiệp đưa ra lối sống trọng tình và tinh thần dân chủ. Tr. 579 "Hoa tộc (đúng hơn phải nói Hán tộc) đã thu từ phương Nam. . . cái rìu, cái nỏ, nghề nấu thuỷ tinh, phần nào nghề luyện kim đồng": không đúng. Trung Hoa cũng có rìu (một vật ở đâu cũng thấy từ thời Thượng cổ: paleolithique = đá cũ, neolithique = đá mới), có nỏ (một lợi khí đã giúp Tần thống nhất Trung Hoa), biết luyện kim đồng trước người Việt (Ðông Sơn sớm nhất là thế kỉ 6-5 tr. C. N. , nhà Thương có đồ đồng từ thế kỉ 16-15 tr. C.N.). Còn nghề nấu thuỷ tinh, tôi không biết TNT dựa vào tài liệu nào mà nói người Việt biết nghề ấy. Theo tất cả các sách khảo cổ mà tôi biết, thuỷ tinh được phát minh ở Ai Cập và Mêzopôtami trước -1500, lan ra Tây Á vào thế kỉ thứ 6 tr. C. N. , nghề thổi thuỷ tinh xuất hiện ở thế kỉ 1 ở đấy. Ðể kết luận, tôi thấy quyển sách của ông Thêm có hai phần. Phần có giá trị là khi tác giả phân tích văn hoá Việt Nam. Có những trang rất lí thú về đời sống cá nhân, văn hoá ứng xử với môi trường: ăn uống, mặc, ở và đi lại, tuy có khi người đọc có thể không đồng ý về điểm này hay điểm khác. Phần yếu của quyển sách là khi tác giả khái quát mà không có chứng minh khoa học, đặt cơ sở lí luận trên sự phân chia hai loại hình văn hoá, trọng tĩnh và trọng động, theo nguồn gốc nông nghiệp hay du mục của nó. Lịch sử thế giới không chứng minh lí luận đó: phần lớn các văn hoá khi xuất hiện ở phương Ðông cũng như ở phương Tây đều phối hợp nông nghiệp và du mục (tuy với trình độ khác nhau). Chỉ trong một số trường hợp vì hoàn cảnh địa lí khí hậu ta thấy chỉ có nông nghiệp (các đồng bằng Ðông Nam Á Châu) hay chỉ có du mục (Trung Á, Trung Phi, bán đảo Ả rập v.v.). Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự kiện lịch sử xã hội, "gốc" không quan trọng bằng các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá đương thời. Gốc là một khái niệm khái quát quá, lờ mờ quá, nhất là một gốc du mục hay nông nghiệp đưa ra nhiều xã hội khác nhau. Nhiều ý niệm khác tác giả dùng cũng không ở trong phạm trù khoa học: tính âm, tính dương, tính tĩnh, tính động, của một văn hoá là gì? Chữ tính hàm ý không thay đổi, hay không thay đổi trong một thời gian lâu, và có ở tất cả mọi người, dù là nam hay nữ, ở địa vị này hay địa vị nọ, ở đẳng cấp, giai cấp này hay đẳng cấp, giai cấp nọ. Sự thật thì cái gì cũng thay đổi, chậm hay nhanh. Có khi vì muốn đề cao văn hoá nước mình, tác giả đã quên nhiều sự kiện lịch sử. TNTcho rằng hai truyền thống quan trọng của Việt Nam là "dân chủ" và "trọng tình" (tr. 498): "vua nông nghiệp... coi dân như con cháu mình" (tr. 206: có bao nhiêu ông vua như thế?); "các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ (cả) với người Chiêm Thành" (tr. 498). Năm 1471 Lê Thánh-tông đánh Chiêm Thành để "tự vệ" hay để mở mang bờ cõi? Sau khi chiếm thủ đô Chăm, Lê Thánh-tông đã giết hơn 40000 người và bắt hơn 30000 người về để làm gia nô hay điền binh (Ðại Việt sử kí toàn thư). Ðó có phải là một hành động "trọng tình" không? Tôi thì gọi nó là dã man, lấy làm hổ thẹn, chỉ biết ... tạ lỗi với người Chăm. Gần đây cải cách ruộng đất có "trọng tình" không ? Và bây giờ các chủ nhân xí nghiệp "gốc nông nghiệp" đối xử với công nhân "trọng tình" hay "bóc lột" như người mác-xít vẫn nói? Nói chung các văn hoá "gốc nông nghiệp" bây giờ "trọng tình" hay "trọng tiền" hơn ? Ông Trần Ngọc Thêm còn nhiều thời giờ để đọc sách, nghiên cứu và suy nghĩ về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương pháp luận. Với khả năng của ông, tôi tin rằng ông sẽ vượt các khuyết điểm hiện giờ và đóng góp nhiều cho nền khoa học xã hội và nhân văn của nước nhà. [*] Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, nxb Thành phố Hồ Chí Minh, in lần thứ ba, 2001, 690 trang. [1] Xem Zou Heng, The Bronze Age of China, trong Yang Xiaoneng, sách đã dẫn, tr. 527. [2] Cai Hua, Une société sans père ni mari, Les Na de Chine, Paris, Presses Universitaires de France, 1997. Cai Hua đã đến sống với người Na để nghiên cứu xã hội của họ. [3] Xem Yang Xiaoneng ed. , The Golden Age of Chinese Archaeology, Washington, 1999, tr. 83, 84, 109-110.
  22. CHÚC MỪNG MỘT NĂM MỚI AN KHANG, THỊNH VƯỢNG, MUỐN GÌ PHÁT NẤY. "Bính Thân" xoa bụng "cụ" Di Lạc Vùng Nam Hải Uy Linh Nhất Quốc Hà Ngọc Duyên Hiền Huynh Trần Thái Xương, Chánh Trị Sự Thánh Thất Camden, New Jersey, có trao đổi ý kiến với chúng tôi nhiều lần về một quá khứ lịch sử hùng anh của dân tộc Việt nam, và một tương lai vô cùng rực rỡ của đất nước, mà trong giáo lý Cao Đài đã từng nói đến: “Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc mà sau nầy làm chủ mới là kỳ.” Hiền Huynh rất tha thiết với vấn đề đó. Hiền Huynh rất tin tưởng vào sự huyền diệu cơ bút và tin tưởng rằng nước Việt Nam đã được Đức Chí Tôn chọn để gieo hạt giống quí ắt phải là mảnh đất thiêng, dân tộc VN là dân tộc được chọn để truyền bá mối Đạo Trời ắt phải là một dân tộc xứng đáng. Như đạo Phật mở ở Ấn Độ, Đạo Thiên Chúa mở ở Do Thái vì 2 nước này là môi trường thuận lợi cho sự phát triển 2 Đạo đó, thì Đạo Cao Đài mở ở Việt Nam, ắt hẳn Việt Nam phải có một nền văn hóa phù hợp với sự phát triển mối Đạo này. Hiền Huynh tỏ ý phấn khởi với những tài liệu gần đây của nhiều nhà nghiên cứu đã làm sáng tỏ những nét rực rỡ của văn hóa Lạc Việt, và những hào khí của dân tộc VN từ thời lập quốc trong huyền sử và chính sử, mà tiềm ẩn bên trong các tài liệu đó, dù các tác giả không hề nghĩ đến, lại là những cái sâu sắc và độc đáo, vô tình làm sáng tỏ thêm giáo lý Cao Đài. Hiền Huynh có gởi cho chúng tôi mượn một số tài liệu đăng trong báo Việt gần đây ở Hoa Kỳ, và một số sách như “Trăm Việt trên vùng định mệnh” của Phạm Việt Châu, “Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa” của Vũ Hữu San, “Nữ Trung Tùng Phận chú giải” của Kim Hương, “Công đức Đức Phật Mẫu” của HT Trần Văn Rạng. Theo tinh thần của Hiền Huynh, chúng tôi tra cứu thêm sách ở Thư viện, tuy chỉ có một số ít ỏi sách liên hệ với đề tài, chúng tôi cũng đã tìm được một số chứng tích của bờ cõi và dân tộc VN cổ xưa, từ đó hiểu rộng ra các giáo lý Cao Đài. Chúng tôi viết bài này nhằm gởi cho thế hệ Cao Đài trẻ hiện nay và mai sau biết về nước mình, dân mình, Đạo mình, để tự thấy có trách nhiệm bảo tồn đất nước,làm rạng danh cho dân tộc, làm cho Đạo được hoằng khai. Thế hệ trẻ mà chúng tôi muốn nói đây là thế hệ trên dưới 30 tuổi, tức là thế hệ sinh tại VN nhưng trưởng thành dưới chế độ Cộng sản, nên đã không được học sử Việt, và thế hệ sinh từ năm 1975 trở về sau ở VN hay ở hải ngoại có thể không biết đến sử Việt. Do đó, nội dung bài này rất chi tiết về sử nước ta. Lời nhắn gửi của chúng tôi đến thế hệ Cao Đài trẻ được mượn trong 4 câu của Tứ Nương Đoàn Thị Điểm trong “Nữ Trung Tùng phận”. “Vùng Nam Hải, uy linh nhứt quốc, Cỏ rẽ hai, chia đất ráp ranh, Trời còn roi nước hùng anh, Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?” Và Tứ nương còn dạy thêm rằng: “Con phải nhớ da vàng máu đỏ Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều” Bây giờ chúng ta tìm hiểu 4 câu thơ nói trên của Tứ nương. Đoạn I: “CỎ RẼ HAI, CHIA ĐẤT RÁP RANH” chính là tinh thần bài học sông Như Nguyệt: NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ.” Tương truyền ở một vùng phân giới Hoa Việt, cỏ tranh tự nhiên mọc ngã về 2 phía, như là một biên giới thiên nhiên giữa 2 nước. Có phải vùng “cỏ rẽ hai” là ở biên giới Lạng Sơn (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Hoa)? Có thuyết cho rằng ở phía Tây Khâm Châu (nay thuộc Quảng Tây - Trung Quốc) sát biên giới Hoa Việt (Ải Nam Quan - Lạng Sơn - Việt Nam) nơi mà trước kia Mã Viện trồng đồng trụ với lời thề khắc trên đó: “Đồng trụ chết, Giao chỉ diệt”, có một núi tên là Phân Mao, là giới hạn của nước VN và Tàu (xem Phạm Văn Sơn: Việt Sử Tân Biên Q.1 (VSTB1) . Có phải tại núi Phân Mao này, cỏ tranh mọc rẽ hai, làm ranh giới giữa 2 nước? (Tưởng cũng nên nhắc lại Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu là các châu của nhà Tống đã bị Lý Thường Kiệt mang đại quân chiếm đóng (1075 - 1079), còn đồng trụ của Mã Viện đặt ở nơi nào không ai biết, có người bảo ở Nghệ an, có người bảo ở Lâm Ấp, có người bảo ở Quảng Ngãi, Phú Yên, và như vừa nói, đồng trụ ở Tây Khâm Châu v.v.. nên cụ Ưng Hòa Nguyễn Văn Tố cho rằng không nên chép lời thề của Mã Viện vào sử, và sử gia Phạm Văn Sơn cho rằng câu chuyện đồng trụ chỉ là mỹ đàm). Vùng núi Phân Mao là nơi chúng ta nên chú ý. Nếu quả thật ở đó có cỏ tranh mọc rẽ 2 phía như là ranh giới “trời định” giữa 2 nước Hoa Việt, thì điều đó làm chúng ta cần suy nghĩ nhiều về bờ cõi nước Văn Lang ta có phải đúng như ranh giới hiện nay không? Có lẽ chúng ta sẽ có nhiều thắc mắc, nếu lật lại trang sử vào thời Hùng Vương lập quốc trong cuốn “Việt Nam Sử lược” (VNSL) của học giả Trần Trọng Kim. Theo đo,ù Hùng Vương là con trưởng của Lạc Long Quân, và được phong làm Vua nước Văn Lang. Cụ Trần viết: “Văn Lang được chia làm 15 bộ: 1.- Văn Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên) , 2. Châu Diên (Sơn Tây) 3. Phúc Lộc (Sơn Tây), 4. Tân Hưng (Hưng Hóa – Tuyên Quang). 5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng) 6. Vũ Ninh (Bắc Ninh) 7. Lục Hải (Lạng Sơn) 8. Ninh Hải (Quảng Yên). 9. Dương Tuyền (Hải Dương) 10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình,) 11. Cửu Chân (Thanh Hóa) 12. Hoài Hoan (Nghệ An). 13. Cữu Đức (Hà Tĩnh). 14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị). - 15. Bình Văn (?)”. Cái thắc mắc là như vầy: 1. Bờ cõi Văn Lang chỉ gói gọn trong miền Bắc Việt và Bắc Trung Việt hay sao ? 2. Người Việt Nam thuộc giống dân Giao Chỉ, tại sao “Bộ Giao Chỉ” lại bé tí như thế? 3. Quận Việt Thường có phải là nước Việt Thường trước kia không? Nước Việt Thường tại sao ở tận Quảng Bình, Quảng Trị? Đây là những điều chúng tôi sẽ nêu trở lại ở các đoạn sau. Giải đáp về vùng “cỏ rẽ hai” ở biên giới Hoa Việt như trên xét ra không thỏa đáng. Có phải vùng “cỏ rẽ hai” ở Động Đình Hồ, lưu vực Nam sông Trường Giang? Chúng ta lại có một giải đáp khác về vùng “cỏ rẽ hai” này. Năm Quý sửu (1793) Ngô Thời Nhiệm được vua Quang Trung phái làm Chánh sứ sang Thanh Triều (hộ giá Vua Quang Trung giả sang Bắc Kinh triều kiến vua Càng Long). Trên đường đi đến Bắc Kinh để yết kiến vua Càng Long, ông có ngang qua núi Phân Mao, phía Nam Hồ Động Đình, ông thấy có một tấm biển đề “Phân Mao Lĩnh” (núi Cỏ tranh mọc rẽ 2 bên). Tương truyền đây là chỗ cỏ tranh, một nửa ngã về phía Nam, một nửa ngã về phía Bắc. Ông lại còn ghi lại rằng ở phía Nam Hồ Động Đình (Trung Hoa) có miếu thờ 2 Bà Trưng gọi là miếu Bà Trắc rất linh ứng (xem Cao Thế Dung: “Tự hào là người Việt”). Ngô Thời Nhiệm có làm bài “Yên Đài Thu Vịnh” như sau: “Nhất đới thanh sơn Sở, Việt giao, Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao. Thiên thư bất tận Hành Sơn lĩnh. Địa khí hoàn phù Nhạn Trạch mao. Trưng Trắc kiếm mang khai Động Phủ, Úy Đà quế đố lạc sơn sào. Phong lai giải uốn Tây Nam lợi, Vị hứa Hùng Bi vạn nhân cao.” Dịch nghĩa: “Một giải giang sơn giáp giới Sở, Việt, Đường trạm Hoàng Mao nhận thứ cỏ tranh rẽ Sách của Trời (nói về ranh giới) không quá núi Hành Sơn. (Thế mà) khi đất lại trôi lông chim nhạn về đầm Nhạn Trạch (về phía Nam) Lưỡi kiếm Bà Trưng Trắc khai mở ở phủ Động Đình Sâu quế của Triệu Úy Đà sa tổ từ núi xuống (ở đó) Gió tới giải cơn buồn lợi về phương Tây Nam Núi Hùng bi cao cỡ muôn người, chưa cho là cao“ (ghi chú: sâu quế: tức con cà cuống - xem Cao Thế Dung: Sđd) (Ranh giới Sở, Việt: Xem sự thành lập 2 nước Sở, Việt ở những đoạn II (tiểu đoạn 8) câu này ý nói nước Việt giáp ranh Sở tức ở Nam Trường Giang) Qua sự chứng kiến của Ngô Thời Nhiệm và qua bài thơ nói trên, chúng ta thấy rằng “vùng cỏ rẽ hai” chia đôi bờ cõi Hoa Việt ở tận phía Nam Động Đình Hồ của Trung Quốc chớ không phải ở vùng biên giới Lạng Sơn - Quảng Đông. Rồi cũng qua bài thơ đó, chúng ta lại có một thắc mắc khác: Đó là tại sao có miếu thờ Hai Bà Trưng ở phía nam Động Đình Hồ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ Trưng Vương, thì ở Phiên Ngung cũng có đền thờ Hai Bà Trưng. Phiên Ngung theo Từ Nguyên, do Tần Đế đặt ra, thuộc tỉnh Quảng Đông và phủ lỵ Quảng Châu ngày nay, là nơi Triệu Đà đóng đô, sau khi sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải thành một nước Nam Việt (xem Việt Nam Sử Lược (VNSL)). Đến vùng Động Đình Hồ tìm dấu tích Trưng Vương và Việt Tộc. Điểm 1. Gốc tích Việt Tộc ở Động Đình Hồ, lưu vực phía Nam sông Trường Giang (nay là phía Bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) người Việt Nam không ai không biết, nhưng chỉ coi là một huyền sử của dân tộc. Thật ra chính những huyền sử đó đã gói ghém những huyền lý, từ đó chúng ta định được cõi bờ Văn Lang thời xa xưa. Cũng cần nói thêm Hồ Động Đình ở vùng “Trường Giang thất tỉnh” lưu vực sông Dương Tử (tức Trường Giang) gồm 7 tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang của Trung Quốc. Theo Nhàn Hạc, Viêm Tộc là giống dân đầu tiên tiến vào khai thác vùng Động Đình (xem Nhàn Hạc : Nguồn gốc dân tộc VN – xuất bản tại Sàigòn 1970). Điểm 2: Miếu thờ Hai Bà Trưng ở phía nam Động Đình hồ, và đền thờ Hai Bà ở Phiên Ngung (Quảng Châu - Trung Quốc) thật ra trong chính sử Việt nam đã có giải đáp. Vì các bậc tiền nhân chúng ta viết sử thường tham chiếu sử sách Tàu, mà theo chúng tôi sử sách Tàu đã cắt xén, bóp méo sự thật làm mất đi những bản chất tinh hoa của dân tộc Việt với một nền văn hóa rực rỡ sáng chói ở Đông Nam Á Châu. Với tình cảm thua sút Việt tộc nhưng lại tự kiêu, người Tàu coi Việt tộc là Man di mọi rợ! Rồi khi người Âu đến Việt Nam nghiên cứu sửû Việt Nam, cũng tra cứu các sử sách Tàu vốn đã sai sót, lại còn cố tình làm lệch chiều hướng suy xét của độc giả, để họ chỉ nhận thấy nước Việt Nam chỉ là một nước lạc hậu, và dân tộc VN yếu hèn ngu dốt. Do đo,ù khi đối chiếu điểm 2 này với các quyển sử Việt Nam, kể cả cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim, ắt hẳn chúng ta sẽ thấy nhiều mâu thuẫn, từ đó, chúng tôi xin nêu 2 hoài nghi của lịch sử. Hoài nghi 1: Cuộc khởi nghĩa và tranh đấu của Hai Bà chống quân Đông Hán xảy ra cùng khắp trong địa bàn Giao Chỉ Bộ hay chỉ ở vùng Bắc Việt? Theo sử, sau khi nhà Tây Hán diệt được nước Nam Việt của nhà Triệu (năm 111 trước TL) cải Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ gồm 9 quận: 1. Nam Hải (Quảng Đông) 2. Thương Ngô (Quảng Tây) 3. Uất Lâm (Quảng Tây) 4. Hợp Phố (Quảng Đông) 5. Giao Chỉ (Bắc Việt và mấy tỉnh ở Bắc Trung Việt) 6. Cửu Chân 7. Nhật Nam 8. Châu Nhai (đảo Hải Nam) 9. Đạm Nhỉ Chúng ta đừng lầm lẫn “Giao Chỉ Bộ” và quận Giao Chỉ. Giao Chỉ là 1 quận trong Giao Chỉ Bộ. Đây là dụng ý của nhà Tây Hán để mọi người chỉ hiểu dòng giống Giao Chỉ là như thế đó, cũng giống như đời Pháp thuộc, Trung kỳ được gọi là An Nam. Theo sử, “Tô Định là Thái Thú quận Giao Chỉ tàn ác bạo ngược, người Giao Chỉ oán hận. Năm Canh Tý (40 sau TL) Tô Định giết Thi Sách là chồng của Bà Trưng Trắc. Bà cùng người em là Trưng Nhị khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định chạy về Nam Hải, chẳng bao lâu hai bà hạ được 65 thành (VNSL) rồi tự xưng là vua đóng đô ở Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lảng, Tỉnh Phúc Yên), Năm sau (41 sau TL) vua Hán Quang Vũ sai Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí sang đánh Hai Bà. Hai Bà thua chạy đến xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc (nay là tỉnh Sơn Tây), thế cùng lực tận phải tự tử ở sông Hát Giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà”(VNSL). Theo sử, địa bàn khởi nghĩa của Hai Bà chỉ trong vùng Trung du và Hạ du Bắc Việt, và sau đó Hai Bà giao chiến với quân Đông Hán cũng ở vùng đó. Tại sao sử nói Hai Bà chiếm được 65 thành, tức 9 quận Giao Chỉ Bộ? Như vậy,sẽ không đúng nếu chúng ta xét thấy Hai Bà nổi lên đánh đuổi Tô Định, mà Tô Định chỉ là một Thái Thú cai trị Quận Giao Chỉ, chớ không phải cai trị cả Giao Chỉ Bộ. Thứ sử mới coi cả Giao Chỉ Bộ, như năm Kiến Võ thứ 5 đời Hán Quang Vũ (29 năm sau TL) Đặng Nhượng làm Thứ Sử Giao Chỉ (?). Sử lẫn lộn Giao Chỉ và Giao Chỉ Bộ nên chúng ta nên hiểu Thứ Sử Giao Chỉ tức là Giao Chỉ Bộ. Thời gian khôi phục lại 65 thành quá ngắn (vài tháng) là điều đáng nghi ngờ. “Khâm định Việt sử tiền biên” dẫn Tiền Hán địa lý, chỉ nói rằng trong đời Tiền Hán (206 trước TL đến 24 sau TL) nước Nam Việt chia làm 9 quận: 2 quận ở bể, 7 quận ở đất liền. Tất cả 7 quận có 56 huyện hoặc thành chớ không phải 65 thành. Theo Ngô Thời Sỉ và sau này Trúc Khê trong quyển “Cuộc Nam Tiến của dân tộc VN” có nói rằng Nam Việt có 56 thành như sau: Nam Hải (7) Thương Ngô (11) Uất Lâm (11) Hợp Phố (5) Giao Chỉ (12) Cữu Chân (5) Nhật Nam (5), (xem VSTB - Q1). Sử gia Phạm Văn Sơn (sđd), đo đó, nhận định rằng Hai Bà chỉ thu được đất đai từ Bắc Việt đến Thanh Nghệ ngày nay, tức là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, gồm 22 thành (một thành tức 1 huyện). Điều này phù hợp với thời gian quá ngắn mà Hai bà khôi phục được các thành đó. Tuy nhiên, mặt khác, theo sử, khi Hai Bà khởi nghĩa, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cũng nổi lên về với Hai Bà (VNSL). Hợp Phố chính là một phần tỉnh Quảng Đông ngày nay. Tô Định chạy về Nam Hải, tức một phần tỉnh Quảng Đông, có lẽ Hai Bà đã truy đuổi y ra khỏi Giao Chỉ Bộ. Vậy trận chiến có lẽ nào chỉ trong vùng Bắc Việt hay sao? Ngoài ra, theo sử, từ Hán Vũ Đế đến hết đời nhà Tây Hán không thấy Sử Tàu nói gì đến Giao Chỉ. Mãi đến năm Kiến Võ thứ 5 đời Hán Quang Vũ (29 sau TL) mới thấy Sử ghi Thứ Sử Giao Chỉ là Đặng Nhượng sai sứ về cống nhà Hán. Lý do là Đặng Nhượng (Thứ Sử) Tích Quang (Thái Thú quận Giao Chỉ) Nhâm Diên (Thái Thú quận Cửu Chân), không phục Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán (VNSL). Năm năm sau (năm Kiến Võ thứ 10 Hán Quang Vũ, 34 năm sau TL), Tô Định được bổ làm Thái Thú quận Giao Chỉ, có lẽ thay Tích Quang. Không thấy sử Tàu nói đến ai làm Thứ Sử Giao Chỉ (túc Giao Chỉ Bộ), và ai làm Thái Thú các quận khác. Có thể Tô Định coi luôn Giao Chỉ Bộ không? Rõ ràng sử lầm lẫn Giao Chỉ và Giao Chỉ Bộ. Theo chúng tôi, sự tái liên lạc giữa Giao Chỉ (tức Giao Chỉ Bộ) với Tây Hán chỉ mới được 5 năm (Kiến Võ 5 đến Kiến Võ 10), vua Hán Quang Vũ mới dẹp xong Vương Mãng, chưa kịp tổ chức lại bộ máy cai trị Giao Chỉ Bộ, nên bổ nhiệm Tô Định làm Thái Thú Giao Chỉ có thể cũng là coi luôn cả Giao Chỉ Bộ. Có thể vì Hán Quang Vũ chưa ổn định tình hình Giao Chỉ Bộ nên nhân có cơ hội Hai Bà khởi nghĩa, toàn bộ Việt tộc ở 9 quận Giao Chỉ Bộ nhất tề nổi dậy, kể cả Trường Sa mong khôi phục lại bờ cõi xưa của Việt tộc. Đây là cuộc tổng khởi nghĩa, nên chỉ trong thời gian ngắn là thành công. Do đó, cuộc giao chiến giữa quân Hai Bà và Mã Viện ở cùng khắp Giao Chỉ Bộ, và có thể lan rộng lên cả quận Trường Sa thuộc Hồ Nam Trung quốc, phía nam Đông Đình Hồ. Hoài nghi 2: qua các công trình nghiên cứu vào thập niên 80, bác sĩ Trần Đại Sỹ chứng minh quân Hai Bà có giao chiến với quân Đông Hán, do Lưu Long và Mã Viện chỉ huy, ở quận Trường Sa, thủ phủ Tỉnh Hồ Nam hiện nay, về phía Nam Hồ Động Đình. Một vị bác sĩ người Việt Nam, vào năm 1978-79, đã dẫn một phái đoàn Y khoa từ Pháp sang Trung Quốc nghiên cứu các tỉnh cực Nam Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Ông khám phá được nhiều dấu vết của Việt Tộc ở các vùng này mà từ xưa chưa ai công nhận, hoặc chỉ biết lờ mờ, hoặc cho là những chuyện huyền sử. Vào dịp khai giảng niên khóa 1992-93 tại Viện Pháp Á (Institut Franco-Asiatique), ông có đọc một bài diễn văn về nguồn gốc Tộc Việt vào ngày 10-10-92, nguyên văn bằng Pháp ngữ. Bài này được dịch sang Việt ngữ và có đăng ở báo Văn Nghệ Tiền Phong số 471 ngày 15-9-95, với bút hiệu Trần Đại Sỹ. Chúng tôi không biết quý danh của vị bác sĩ này nên xin mạn phép gọi là bác sĩ Trần. Tựa của bài là: “Từ Triết học đến huyền thoại về Nguồn gốc Tộc Việt.” Các tỉnh Nam Trung Hoa thờ Vua Bà và các tướng của Hai Bà Trưng. Ông ghi lại rằng ở khắp các tỉnh cực nam Trung Quốc nói trên, không ít thì nhiều người có đạo thờ Vua Bà, mà theo ông đó là Vua Trưng. Ông không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao, nhưng cán bộ ở các địa phương đó luôn luôn đề cao Vua Bà. mà họ cũng chỉ biết là lờ mờ là Vua Bà nổi lên chống tham nhũng. Khắp 4 tỉnh, ông ghi nhận được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lãnh cũ của Vua Bà. Nhờ được sự giới thiệu từ Hội Nghiên Cứu ở Pháp, Bác sĩ Trần được tiếp đón nồng nhiệt của địa phương. Tại Hồ Nam, ông thấy nhiều di tích về đạo thờ Vua Bà. Tại Thư viện Bảo tồn di tích cổ, ông tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ 8, ghi chép sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt. Sự tích kể: “Ngày xưa có 2 công chúa ở Thiên đình sơ ý làm vở chén ngọc, phải đầu thai xuống thế vào nhà họ Trưng, tức Trưng Trắc và Trưng Nhị. Khi Trưng Trắc Trưng Nhị khởi nghĩa, có 162 anh hùng các nơi hưởng ứng vốn là 162 vị tiên ở Thượng giới. Chỉ trong một tháng Hai Bà chiếm hết 6 quận ở phía Nam sông Trường Giang: Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Hai Bà lên làm vua. Mã Viện và Lưu Long được phái sang đánh quân Hai Bà, nhưng vua Bà sai Nữ Vương Phật Nguyệt, Tổng Trấn Hồ Động Đình, đánh bại. Nữ Vương Phật Nguyệt phép tắc vô vùng, quân tướng nhà Đông Hán đánh không lại, xác chết lấp sông Trường Giang, Hồ Động Đình. Oán khí tận trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế sai Thiên Binh Thiên Tướng xuống đánh cũng không lại, nên phải cầu cứu Phật Như Lai. Đức Phật sai 18 vị Kim Cương, 3000 La Hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng Đức Quan Âm Bồ Tát tham chiến, đấu phép với Nữ Vương Phật Nguyệt 3 ngày 3 đêm bất phân thắng bại. Sau Đức Phật Quan Âm thuyết pháp, Nữ Vương Phật Nguyệt giác ngộ bỏ đi tu”. Câu chuyện đầy vẻ hoang đường, nhưng đã giải thích về cái huyền lý ở đạo thờ Vua Bà ở 5 tỉnh phía Nam Trung Quốc. Phật Nguyệt đã được thần thoại hóa, thực ra là một Nữ tướng tài ba của Hai Bà. Ông cũng tìm được một cuốn Phổ khác chép vào thời Nguyên nói rằng: Các sứ thần Lý, Trần, Lê khi ngang qua ghềnh Thẩm Giang đều đến cúng miếu thờ Trần Thiếu Lan, nữ tướng của Hai Bà. Tương truyền khi Bà Trưng Nhị cùng các Tướng Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Lại Thế Cường đánh Trường Sa vào năm 39 sau TL, thì nữ tướng Trần Thiếu Lan tử trận được chôn ở ghềnh Thẩm Giang. Thẩm Giang chính là đoạn sông ngắn tiếp nối với Hồ Động Đình (xem: Trần Đại Sĩ: Động Đình hồ ngoại sử do Nam Á Paris xuất bản 1990). Năm 1980, ông trở lại vùng này, được sở du lịch Trường Sa cung cấp một tài liệu ghi rằng: Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa miếu bị phá hủy, tượng đồng bị nấu ra, Vệ binh đỏ phá luôn bia đá. Ông cũng tìm được tại Thư viện Hồ Nam một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, chữ viết tay rất đẹp. gồm 60 trang, đầu đề ghi “Thiên đài di sư lục. Trịnh Quán, tiến sĩ Chu Minh Văn soạn” Trịnh Quán là niên hiệu vua Đường Thái Tôn, từ năm 627 tới năm 647. Tài liệu của Chu Minh Văn cũng nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương nam kết hôn với nàng Tiên sanh ra Lộc Tục. Vua lập đài tại núi đó tế cáo Trời đất. Đài đó gọi là Thiên Đài, và núi đó cũng có tên núi Thiên Đài. Chu Minh Văn cũng có ghi chuyện một tướng của Vua Bà là Đoàn Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa, Hồ Động Đình. Nữ tướng Hoàng Thiều Hoa chỉ huy cuộc rút quân đó, đã sai Đoàn Hiển Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên Đài và quyết tử chiến tại đó, làm cho Lưu Long thiệt hàng vạn người mới chiếm được núi. Theo Chu Minh Văn, về đời Đường, để xóa dấu tích Việt, Hoa, Nam, Bắc, các quan sai sang đô hộ Lĩnh Nam mới cho xây 1 ngôi chùa tại đây. Ngoài cổng chùa có ghi nhiều câu đối, bác sĩ Trần có ghi lại, xin kể 2 câu như sau: 1. Câu đối khắc vào đá: “Thiên đài đại đại phân Nam, Bắc Lĩnh địa niên niên dữ Việt Thường.” Nghĩa là: (Từ sau vụ tế cáo tại đây) Thiên Đài biết bao thời phân ra Nam, Bắc (Núi Ngũ Lĩnh) năm này qua năm khác với giồng giống Việt Thường. 2. Câu đối ở miếu thờ Tướng Đoàn Hiển Hiệu: “Nhất kiếm Nam Hồ, kinh Vũ Đế Thiên đao Bắc Lĩnh, trấn Lưu Long.” Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam Hồ Động Đình làm kinh tâm vua Vũ Đế (Hán Quang Vũ) Một nghìn đao phủ ở Bắc núi Ngũ Lĩnh trấn Lưu Long. Hai Nữ Tướng của vua Trưng là 2 vị Tiên nương trong Cữu Nương. Chúng ta thử đối chiếu ghi nhận của bác sĩ Trần, với sử Việt Nam và giáo lý Cao Đài đê làm nổi bật 2 vị nữ tướng tài ba nhất của Hai Ba,ø chính là 2 vị Tiên nương trong Cữu Nương của Đạo Cao Đài. Đó là Nữ tướng Hồ Đề (tức 1 kiếp của Bát Nương) và Nữ tướng Hoàng Thiều Hoa (tức một kiếp của Nhứt Nương). Bác sĩ Trần không nói về đạo Cao Đài nhưng công trình nghiên cứu của ông lại làm sáng tỏ giáo lý Cao Đài. Về Nhứt Nương Hoàng Thiều Hoa: Những quyển sử trước kia không thấy nói đến tên Bà Hoàng Thiều Hoa, nhưng có nói đến một nữ tướng tài ba là Thánh Thiên Công Chúa (không biết tên gì). Theo sử, Bà đem quân giao chiến ba, bốn trận giết được hơn 1000 quân giặc, quân Đông Hán phải lui về Bắc giang, Mã Viện phải dâng biểu về xin cứu viện. Trưng Vương sai Bà lên chống Mã Viện ở Tuyên Quang, Cao Bằng. Bị lầm kế của Mã Viện “điệu hổ ly sơn” dụ Bà rời xa Trưng Vương để thừa cơ đánh úp Trung Châu, Bà vội đem quân trở về cứu Trưng Vương, gặp bại binh Trưng Vương ở thành Ái Châu, huyện Thạch Đầu, tỉnh Thiện Thiên. Bà dàn quân ra cự địch (xem VSTB-Q1). Theo tài liệu của Đạo Cao Đài, bà Hoàng Thiều Hoa là nữ tướng của Trưng Vương được Hai Bà phong là Đông Cung Công Chúa và được dân tôn thờ ở chùa Phúc Khánh và Miếu thờ ở xã Song Quang (nay là tỉnh Vĩnh Phú). Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Nhứt Nương Hoàng Thiều Hoa có nhiệm vụ Phổ Độ nhơn sanh vùng thượng du và trung du Bắc Việt (xem Trần Văn Rang: Công đức Đức Phật Mẫu). Theo Bác sĩ Trần thì bà Hoàng Thiều Hoa chỉ huy đánh ở Trường Sa (Hồ Nam – Trung Hoa). Chúng tôi suy ra Thánh Thiên Công chúa trong sử Việt, chính là Đông Cung Công Chúa, tức là bà Hoàng Thiều Hoa trong giáo lý Cao Đài. Về Bát Nương Hồ Đề : Kiếp trước của bà là Hớn Liên Bạch. Bà giáng sinh trong một kiếp làm nữ tướng cho Hai Bà với tên Hồ Đề. Bà Hồ Đề sức khỏe hơn người, bắt được ngựa dữ lúc còn ít tuổi, sau bắt được voi trắng, nên dân 72 động tôn bà là “Vua Thiên Sứ”, coi Bà là Tiên Nữ giáng trần. Nhiều hào kiệt đến xin theo Bà. Bà cầm cờ xanh (màu tiên), cỡi voi trắng, cùng 2000 nghĩa binh đến Mê Linh hội quân với hai Bà, được phong Phó soái, ngang bà Trưng Nhị, ra trận nào thắng trận đó, có lần đuổi Mã Viện chạy dài ở Cao Bằng. Sau khi Hai Bà tử tiết, bà Hồ Đề một mình chống giặc, mở đường chạy tới bờ sông Nguyệt Đức, Bà hét to một tiếng, nước rẽ làm đôi đón cả người lẫn voi. Tương truyền Bà về cõi Trời. (xem Trần Văn Rạng: Công Đức Đức Phật Mẫu). Có phải bà Hồ Đề được thần thánh hóa thành Nữ Vương Phật Nguyệt theo tài liệu mà Bác sĩ Trần đã đọc được ở thư viện bảo tồn di tích cổ ở Hồ Nam (Trung Quốc)? Chúng tôi thấy tung tích của Nữ Vương Phật Nguyệt có phần giống với Nữ tướng Hồ Đề (được dân 72 dộng tôn làm Vua Thiên Sứ), nên theo chúng tôi Hồ Đề và Phật Nguyệt là một, tuy Bác sĩ Trần kể ra là 2 người. Bát nương có 1 kiếp là Bà Hồ Đề, nữ tướng của vua Trưng, nên khi giáng cơ, Bà thường biểu lộ hào khí của một anh thư và tấm lòng yêu nước thương nòi, thường hoài vọng bờ cõi xa xưa của Việt Tộc ở tận Động Đình Hồ và xứ Việt Thường. Bà mơ đến ngày phục hưng đất nước, theo đó, Bà cho biết tương lai rực rỡ của Việt Nam. “Nhẹ bước nhàn du để vẽ Hồng, Xắn tay nước Việt dậm non sông. Châu về đất Bắc đời kim khuyết Ngọc rạng thành Nam chuộc ải đồng. Mở lối Đài Vân mời trí sĩ, Dọn đàng Hồng Lạc dắt anh phong. Động đào vui thú nơi chiều ngắm, Hỏi khách tao nhân có mặn nồng’ * “Đào nguyên lại trổ trái hai lần, Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân. Cung đẩu vít xa gươm Xích Quỷ, Thiềm cung mở rộng cửa Hà ngân. Xuân Thu định vững ngôi lương tể, Phất chủ quét tan lũ nịnh thần. Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc, Mở đường quốc thể định phong vân.” * “Chờ về vắng bặt tiết thu qua, Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha. Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ, Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà” * “Hỡi nào kẻ lo lường nghiệp Đạo, Hỡi những tay nóng máu anh phong, Ngôi Thiên để dựa bóng hồng, Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên” * “Động đình chạnh lúc tạm chia đường, Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương, Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ, Biển sầu nước nhuộm một màu thương.” Bài này do Bà cảm tác bài “Tiễn biệt tình lang” của chính Bà đã giáng cơ cho Đức Thượng Sanh khi Ngài ra đề là “Tiễn biệt tình lang”. Dù nói lên cảnh chia ly người tình, (biết đâu đó cũng là hoàn cảnh của Bà vì quốc gia dân tộc Bà phải xa lìa tình lang), Bà cũng nói lên nỗi sầu của đất nước ở Động Đình Hồ xa xưa. Kết luận đoạn I: Những hoài nghi của lịch sử đang chờ thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Cao Đài xác định. Động Đình Hồ ranh giới bờ cõi Việt Tộc cổ xưa. Là dân Việt Nam, ai cũng ghi trong lòng bờ cõi xa xưa của ông cha ở mãi tận Hồ Động Đình, lưu vực phía nam sông Trường Giang Trung Quốc, tức phía Bắc tỉnh Hồ Nam ngày nay. Ý tưởng đó khắc sâu vào tâm khảm người dân Việt từ ngàn xưa thể hiện qua bài hát ru con, ngọt ngào nhưng kiêu hãnh, như nhắn nhủ thế hệ mai hậu nhớ lại nguồn gốc của mình: “Gió Động Đình mẹ ru con ngủ, Sông Tiền Đường ấp ủ năm canh, Tiết trời thu lạnh lành lanh. Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông. Bổng bồng bông, bổng bồng bông. Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.” Hồ Động Đình vốn là cương thổ Viêm tộc nơi xuất phát nền văn minh nông nghiệp đầu tiên ở Á Châu trong vùng Trường Giang thất tỉnh mênh mông (xem: Cao Thế Dung: Tự hào là người Việt). Hồ Động Đình chính là cái nôi của Việt tộc. ”Cỏ rẽ hai chia đất ráp ranh” chính là ở vùng Động Đình này. Câu này của Tứ Nương Đoàn Thị Điểm tuy nhẹ nhàng nhưng thể hiện hào khí của Việt Tộc giống như bài hịch sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc Sơn hà Nam Đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhử đẳng hành khan thủ bại thư.” Thánh Giáo Cao Đài nói nhiều đến Động Đình Hồ. Đức Lý Giáo Tông có giáng cơ cho 4 câu thi khoán thủ: “Động Đình Hồ Đại Tiên Trưởng” như sau: “ĐỘNG lòng thương xót buổi đời nguy, ĐÌNH hội Phật Tiên đã mấy kỳ. HỒ điệp mê man chưa tỉnh thức, ĐẠI TIÊN TRƯỞNG giáng hoát vô vi.” (Đại Thừa Chơn Giáo) Đức Chí Tôn cũng dạy: “ĐỘNG ĐÌNH trở gót lại ngôi xưa, Tuổi ấy quy y nhắm đã vừa.” (TNHT) Đức Lý tự xưng Động Đình Hồ Đại Tiên Trưởng, còn Đức Chí Tôn dạy trở về ngôi xưa ở Động Đình. “Động Đình” có ý nghĩa ẩn dụ là gì? Lật lại Đạo sử, lúc mấy vị Tiền khai mua đất để xây cất Tòa Thánh, Đức Lý Giáo Tông đã giáng cơ ngày 24/2/27 dạy quý vị đó cứ đi dài theo đường tới ngã ba Ao hồ (gọi là “đường dây thép” tức đường Mít Một) để mua đất, và đã giải rõ tại sao đất đó là Thánh Địa: “Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Địa: sâu hơn 300 thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng doanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là “Lục Long phò ấn”, ngay miếng đất đó đặng 3 đầu, một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia...” Hôm sau, 25/2/27, Đức Lý giảng tiếp về cuộc đất nói trên và nhắc lại: “Phải mua khoảnh đất Bàu Cà Na làm Động Đình Hồ, nghe à!” (xem Đạo Sử của Tiền Khai Hương Hiếu). Lấy Bàu Cà Na làm Động Đình Hồ, mà Động Đình Hồ là nôi của Việt Tộc, có phải TTTN sẽ tượng trưng cho cái nôi của Việt Tộc sau này không? Có phải Tòa Thánh TN là Bạch Ngọc Kinh tại thế, trở về ĐĐH là trở về BNK tại thế, tức mục tiêu để trở về với Đức Chí Tôn? Rồi đây thế giới sẽ hướng về TTTN, biểu thị ở hình ảnh ĐĐH, cái nôi của Việt Tộc, có phải nói lên ý nghĩa: “Nam phong nhử nhựt biến nhơn phong”? Những ghi chép của Ngô Thời Nhiệm trước kia và của bác sĩ Trần hiện nay, căn cứ vào sự nghiên cứu tại chỗ và các tài liệu và chứng tích cụ the,å là những điều xác tín. Thế hệ trẻ cần làm sáng tỏ hơn nữa để xác định bờ cõi Văn Lang ta. Không phải bỗng nhiên vùng Động Đình Hồ lại thờ Vua Trưng, không phải bỗng nhiên vùng Hồ Nam, Trường Sa, Quảng Châu tôn thờ Hai Bà và các nữ tướng của Hai Bà mà không có dấu ấn gì khắc sâu trong lòng họ. Điều khẳng định mà chúng tôi muốn nói với thế hệ trẻ Cao Đài, là các sử sách Tàu sửa lại lịch sử của dân tộc ta để xóa đi cái văn hóa rực rỡ của ta mà chính họ đã bắt chước (sẽ giải thích ở đoạn sau) để mọi người coi Việt tộc man di mọi rợ, rồi đến các nhà nghiên cứu Âu Châu khi nghiên cứu dân tộc ta, một phần lại căn cứ vào cái méo mó của sử Tàu, một phần cố tình viết sai về nguồn gốc dân tộc ta (sẽ nói ở đoạn sau) để mọi người hiểu dân tộc ta nhỏ nhoi lạc hậu. Vậy nhiệm vụ của thế hệ trẻ là đọc lại lịch sử Việt Nam, đặt lại một cái nhìn mới về đất nước mình dân tộc mình, tìm tòi những cái đã bị sử Tàu cố tình khuất lấp, đính chánh những gì các nhà nghiên cứu Âu Châu hiểu sai hoặc cố tình làm cho người khác hiểu sai, để làm sáng tổ những nét rực rỡ của văn hóa Lạc Việt từ cổ xưa và nói cho thế giới biết đất nước ta thực sự là ở đâu? Đức Chí Tôn mở mối Đạo tại Việt Nam, chọn dân tộc Việt Nam làm mẫu mực tức đã lấy văn hóa Việt Nam làm nền tảng, từ đó loan truyền khắp cả nhơn loại, như câu “Nam phong thử nhựt biến nhơn phong” trong giáo lý Cao Đài, chúng ta phải hãnh diện vì điều đó và phải biết tại sao chúng ta hãnh diện. Thế hệ trẻ Cao Đài phải có trách nhiệm đó. Thánh giáo Cao Đài về bờ cõi Việt tộc. 1. “Trước quốc chánh chia hai tộc chủng Núi Hoành Sơn định phỏng biên cương Bắc Nam hiệp tổ Hùng Vương, Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.” (Tứ Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ trong “Nữ Trung Tùng Phận”) Núi Hoành Sơn ở tỉnh Quảng Bình, Trung Việt. Tác giả Kim Hương giải thích núi Hoành Sơn ở câu “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (”Nữ Trung Tùng Phận” chú giải). Tôi không nghĩ núi Hoành Sơn theo nghĩa đó, vì núi Hoành Sơn đâu có chia hai tộc chủng. Vậy theo tôi núi Hoành Sơn có ý nghĩa là núi Ngũ Lĩnh. Theo BS Trần (tài liệu đã dẫn), Ngũ Lĩnh có thật và ông đã đi đến tận nơi đó quan sát. Vua Đế Minh phân lĩnh đưa Bắc Ngũ Lỉnh thuộc Đế Nghi (sau bị Hán tộc chiếm), Nam Ngũ Lĩnh thuộc Lộc Tục (thực ra Hồ Động Đình cách phía bắc núi Ngũ Lĩnh mấy trăm cây số). Theo ông, vua Đế Minh tế cáo Trời đất trên núi Quế Dương (thuộc núi Ngũ lĩnh) phân chia lãnh thổ Tàu – Việt cổ xưa. Bản cáo tế đó gọi là Thiên đài. 2. Cung đẩu vít xa gươm xích quỷ Thiềm cung mở rộng cửa Hà ngân” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) Gươm Xích Quỷ: Gươm trí huệ của người Xích quỷ, câu đầu có nghĩa là Ngọc Hư Cung (cung đẩu tức Cung Đẩu Tốt, nơi ngự của Đức Thái Thượng Lão Quân) đưa xa trí huệ bác nhã của dân Việt Nam. Thiềm cung: Cung Trăng, ý nói Diêu Trì Cung, vì Diêu Trì Cung là nơi tổ chức Hội Yến Diêu Trì. Dự Hội Yến Diêu Trì có huyền ý là đắc đạo Tiên. Cung Diêu Trì ở tầng thứ 9 là Tạo Hóa Thiên; ở đó chơn thần và thần hườn hư, hiệp một, rồi mới được lên tầng Hư Vô Thiên (cõi Phật). Muốn vào tầng Hư Vô Thiên phải qua sông Ngân Hà (Chèo thuyền bác nhã, ngân hà độ sanh). Câu 2 có nghĩa là Cung Diêu Trì mở rộng cửa đón tiếp người đắc đạo qua sông Ngân Hà. 3. “Dài đường chớ ngán con kỳ ký, Ngược gió đừng nao sức Hộc hồng” (TNHT) và “Quanh đường chớ cậy chơn kỳ ký, Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng” (TNHT) Kỳ Ký: tên con ngựa chạy rất hay, ngày chạy được ngàn dậm, còn gọi là Thiên Lý mã. Chiến quốc sách : “Kỳ ký thịnh tráng chi thời, nhất nhật nhi tri thiên lý.” Nghĩa là: Ngựa kỳ, ngựa ký lúc đang mạnh khỏe, một ngày chạy được ngàn dậm . Kỳ ký có nghĩa bóng là: người có tài giỏi vượt bực (trích Cao Đài Tự Điển) Hộc hồng: Hồng có nghĩa là lớn, mà cũng có nghĩa là chim Hồng. Hồng là ngỗng trời, Hộc là ngan trời, nên cả 2 cũng còn được gọi là Thiên Nga, hàm ý nó bay cao đến tận trời xanh. Ở vùng Dương Tử giang người ta gọi chim Hồng là Đế giang có nghĩa là vua sông Dương Tử. Sông Dương Tử cổ xưa thuộc cõi bờ Việt tộc. Sử chép dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là “Hồng Bàng Thị”. Thị không có nghĩa là họ mà là bộ tộc hay thị tộc. Hồng Bàng Thị là thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân lãnh đạo. Kinh Dương Vương dùng hình ảnh chim Hồng để nói về thị tộc của mình. Chim Hồng ở lưu vực sông Trường Giang, biểu thị ý chí bay tận trời xanh, mà cũng nói lên vùng Trường Giang là quê hương Việt Tộc. Hồng: Vừa giải thích như trên, biểu hiệu Tiên. Bàng: Có nghĩa là rộng lớn, có người còn giải thích chữ Bàng còn được đọc là “Bàn” là giống Bàn Long tức rồng quì. Vậy Bàng chỉ rồng. Hồng Bàng nói lên giống Rồng Tiên. Nên hiểu nghĩa Kinh Dương Vương là vua đất Kinh đất Dương. Đất Kinh sau này là nước Sở còn được gọi là Kinh Sở, Tàu khinh miệt gọi là Kinh Man. Ở đó rừng rú rậm rạp có nhiều xà long. Có lẻ vì thế mà Kinh Dương Vương ghép Hồng với Bàng (Bàn) để gọi tên bộ tộc mình vừa biểu thị sức mạnh (rồng) vừa biểu thị sự to lớn và ý chí bay tới trời xanh (Hồng). Hồng Hộc nghĩa bóng là mạnh dạn. Trong Kinh Đệ Lục Cữu có câu: “Minh Vương Khổng Tước cao bay. Đem chơn thần tới tận Đài Huệ Hương”, theo chúng tôi, Minh Vương tức là chim Hồng, vì như trên đã nói, chim Hồng là vua sông Dương Tử, tức Đế giang. Còn Khổng tước là con chim trĩ, nói văn chương, là con Phụng (sẽ nói rõ trong tiểu đoạn nói về Việt Thường). Bây giờ chúng tôi xin mời quý độc giả cùng hành trình về nguồn dân tộc để xác minh bờ cõi Văn Lang cổ xưa và nhận chân những nét độc đáo tuyệt vời của giống nòi Lạc Việt. ĐOẠN II: “VÙNG NAM HẢI UY LINH NHỨT QUỐC” HAY LÀ “VỀ NGUỒN DÂN TỘC ĐỂ XÁC ĐỊNH BỜ CÕI VĂN LANG.” Núi Ngũ Lĩnh phân bờ chia cõi. Sử chép: “Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Linh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra Lộc Tục. Sau, Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi Xích Quỷ bấy giờ: Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), Đông giáp biển Nam Hải.” (Việt Nam Sử Lược). Theo một tài liệu khác (BS Trần: Nguồn gốc Tộc Việt), thì triều đại Thần Nông bắt đầu từ năm 3118 trước TL (Thần Nông của Viêm Tộc). Theo các bộ sách Đại Việt sử ký, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, An Nam chí lược, Việt Sử lược, cũng ghi như trong Việt Nam Sử Lược, và có đoạn nói rằng Đế Minh dạy Đế Nghi và Lộc Tục lấy núi Ngũ Lĩnh làm cương giới, 2 người làm vua 2 nước lấy điều hiếu hòa mà ở với nhau, tuyệt đối không được xâm chiếm lẫn nhau. Ở phía Bắc Ngũ Lĩnh, các triều vua lần lượt cai trị như Vua Nghi (2889-2884 trước TL), Vua Lai (2843-2894 trước TL), Vua Ly (2795-2751 trước TL), Vua Du Võng (2752-2696 trước TL). Đến đây triều đại Thần Nông phía Bắc chấm dút, và triều đại Hiên Viên Hoàng Đế bắt đầu sau khi Hoàng Đế thắng vua Du Võng (2697 trước TL). Người Trung hoa coi Hoàng Đế là Quốc Tổ, và coi Phục Hi-Thần Nông Hoàng Đế là Tam Đại Đế. Ở phía Nam Ngũ Lĩnh, Lộc Tục lên làm vua Xích Quỷ năm 2879 trước TL, hiệu là Kinh Dương Vương, rồi lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm nối ngôi tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra 100 trứng, nở 100 con. Theo bác sĩ Trần thì Lạc Long Quân đổi tên nước là Văn Lang, Bắc tới Hồ Động Đình, Nam tới Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải. (Trần Đại Sỹ: tài liệu đã dẫn). Về cánh đồng Tương tìm mẹ Âu Cơ. Núi Ngũ Lĩnh ở phía Nam và cách Động Đình Hồ hàng mấy trăm cây số. Động Đình Hồ ở phía Nam lưu vực sông Trường Giang. Ngũ Lĩnh theo truyền thuyết là nơi xưa kia vua Đế Minh tế cáo trời đất phân chia cương giới giữa Đế Nghi và Lộc Tục. Đàn cáo tế đó trên dãy núi Quế Dương thuộc Ngũ Lĩnh, trên một ngọn núi gọi là Thiên Đài, ông có đến tận núi Thiên Đài, thật ra đó là 1 ngọn đồi cao 179m, đỉnh tròn, trên đó có một ngôi chùa bỏ hoang. Núi Thiên Đài này ở bên bờ sông Tương. Cánh đồng Tương theo huyền sử là nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ là một địa điểm có thật ở lưu vực Tương Giang này. Hồ Động Đình ở phía nam Tương Giang và cũng phía nam Trường Giang. Phía Bắc Trường Giang là tỉnh Hồ Bắc ngày nay, xưa là Kinh Châu còn phía nam Trường Giang là tỉnh Hồ Nam ngày nay. Hồ Động Đình ở tỉnh Hồ Nam, mà thủ phủ là Trường Sa. Trên lộ trình bằng thuyền từ Hồ Động Đình xuống phía Nam, ông thấy một nhánh sông Âu giang, ông cũng thấy trên sông Tương và hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Ông xuôi dòng tới Trường Sa, Tương Đầm, Chu Châu, Hành Dương, Quế Dương, tìm gặp cánh đồng Tương không khó. Ngày nay cánh đồng Tương là khu tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy. Ông đề nghị ghi núi Ngũ Lĩnh, cánh đồng Tương, Âu Cơ vào chính sử Việt Nam. Người Việt Nam tự hào có 4000 năm văn hiến là kể từ năm 2879 trước TL lúc Vua Kinh Dương Vương lên ngôi, và tự hào là con Rồng cháu tiên là do tích Lạc Long Quân (Rồng) và Âu Cơ (Tiên ). Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân và Âu Cơ chia nhau mỗi người mang 50 con: 50 theo cha xuống Nam Hải, 50 theo mẹ lên núi. Truyền thuyết này nói lên ý nghĩa nước Xích Quỷ chia ra nhiều nước gọi là Bách Việt. Rồi Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương. Văn Lang theo Việt Nam SL gồm 15 bộ như đã nói trên, như vậy Văn Lang chỉ là địa phận của Giao Châu sau này tức là phần đất Bắc Việt và Bắc Trung Việt hay sao? Do đó, chúng tôi thấy có một số hoài nghi cần đặt ra: Hoài nghi 1: Phục Hi - Thần Nông - Hoàng Đế của Trung Hoa chỉ là một chuyện huyền thoại, không có thực? Tương truyền Phục Hi (4477-4363 trước TL) nhân thấy trong sông Hoàng Hà có con long mã xuất hiện, trên lưng có vẽ nét từ số 1 đến số 10, bố trí như một bức đồ, mới phỏng theo những nét đó mà vạch ra bát quái. (Xem Nguyễn Hiến Lê Giản chi: Đại cương Triết học Trung Quốc). Vua Thần Nông trị vì từ 4480-4350 trươc TL (theo sử Tàu, xem VSTB). Còn Hoàng Đế vốn thuộc bộ tộc Hữu Hùng thị ở huyện Tân Trịnh (tỉnh Hà Nam ngày nay) được các bộ tộc khác tôn lên làm thủ lãnh để chống Suy Vưu (tức Ly Vưu) và thắng được Suy Vưu, nên được tôn làm vua hiệu là Hiên Viên Hoàng Đế (xem Đức Nguyên: Cao Đài tự điển). So chiếu 3 sách nói trên, chúng tôi có nhiều thắc mắc nhất là thời đại Thần Nông kế vị thời đại Phục Hi, nhưng niên đại lại chồng lên nhau. Theo tác giả Đức Nguyên, vua Phục Hi băng hà, truyền ngôi cho em gái là Nữ Oa, Nữ Oa làm vua 130 năm. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong đoạn 3. Chú thích: Niên đại của các Triều đại Trung Hoa ở trong một số sách lại ghi khác nhau: Theo quyển Encyclopedia America của nhà xuất bản Grolin Incorporated Hoa Kỳ, như sau: Thuấn (truyền thuyết) và Vũ (truyền thuyết) ở Thiên niên kỷ thứ ba trước TL; Hạ (1994-1523 trước TL); Thương (1523-1028 trước TL); Chu (1027-256 trước TL); Tần (221-206 trước TL); Hán (202 trước TL - 220 sau TL). Quyển The New Encyclopedia Britanica của nhà xuất bản Encyclopedia Britanica, Inc. ghi như sau: Phục Hi sanh vào thế kỷ 29 trước TL, Thần Nông sinh vào thế kỷ 28 trước TL, Hoàng đế thuộc Tam Hoàng nhưng được kể là vị vua thứ nhứt trong Ngũ đế (kéo dài từ thế kỷ 27-thế kỷ 22 trước TL) Ngũ đế ngoài Hoàng Đế (Huang Ti) còn có Chuan Hsu, Tku, Yao) và Shun. Kế đó nhà Hạ (Hsia) được lập bởi vua Vũ (Yu). Sách này chỉ ghi các niên đại kể từ năm 841 trước TL. Theo cuốn “Cao Đài Tự Điển” của Đức Nguyên: · Phục Hy: 2852 trước TL · Thần Nông: 2737 “ · Hoàng Đế: 2697 “ · Thiên Hiệu: 2597 “ · Chuyên Húc: 2513 “ · Đế Chí: 2365 “ · Nghiêu: 2341 “ · Thuấn: 2268 “ · Hạ Vũ: 2205 “ · Tam Hoàng: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng · Tam Vương: Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân · Ngũ Đế: Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn Theo “Thế Giới Sử” của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang · Hạ: 2205-1784 trước TL (từ vua Vũ đến vua Kiệt) · Thương: 1783 - 1135 trước TL (từ Thành Thang đến vua Trụ) · Chu: Tây Chu: 1135-770 Đông Chu: 770-221 Hạ Thương Chu là Tam Đại: Nghiêu: 2359-2259 Thuấn: 2259-2208 Về niên đại, các tác giả không ghi đồng nhất. Riêng tác giả Nguyễn Hiến Lê trong quyển”Đại cương triết học Trung Quốc” và sử gia Phạm Văn Sơn trong “Việt Sử Tân Biên” ghi niên đại quá xa. Tôi xin ghi ra hết để độc giả tham chiếu. Có một điều cần suy nghĩ là theo chú thích này, thời đại Kinh Dương Vương ngang thời đại Phục Hi? Sử Tàu cho Suy Vưu là man rợ tàn ác để nâng phẩm chất đạo đức của Hiên Viên Hoàng Đế, và tính cách chính thống của Hán tộc. Điều này cần đặt lại. Chúng tôi xin nêu một số việc mà nhiều người đã dẫn chứng sử Tàu nói về Phục Hi – Thần Nông – Hoàng Đế là bịa đặt: Truyền thuyết nói Phục Hi vạch ra bát quái là không đúng. Sự thực từ đời Thương trở về trước chưa có Bát Quái. Người đời Thương chưa biết bói cỏ thi, chỉ biết bói mu rùa mà thôi. Phép bói mu rùa do người đời Chu tìm ra để thay thế bói cỏ thi. Tám quẻ rùa do người đời Chu đặt ra chớ không do Phục Hi. Dịch truyện không do Khổng Tử viết, mà chỉ do một số nhà Nho đời sau Khổng Tử viết, có người nói Dịch truyện viết từ đời Tần (xem: Nguyễn Hiến Lê: sđd). Phục Hi không thuộc giống Hán mà là thuộc Viêm Tộc? Phục Hi và Nữ Oa ở Châu Từ tức thuộc bờ cõi Xích Quỷ. Theo di tích chỉ tìm được có hình Phục Hi và Nữ Oa quấn đuôi nhau, Phục Hi cầm “Qui”, Nữ Oa cầm “củ”. Linh mục Tiến Sĩ Lương Kim Định giải thích sự việc đó theo huyền lý là “Giao Chỉ” tức âm hợp dương, trong âm có dương, trong dương có âm (Phục Hi cầm Qui, Nữ Oa cầm củ), đó là quan niệm của Việt Tộc (xem Kim Định: Gốc rễ triết Việt). Giáo sư Kim Định quan niệm Phục Hi - Thần Nông - Nữ Oa đều thuộc Viêm Tộc, còn Hoàng Đế là người thuộc bộ Tứ Di ở lưu vực sông Hoàng Hà, đánh Ly Vưu thuộc Viêm Tộc ở Bắc Ngũ Lĩnh. Có phải Hoàng Đế sai Thương Hiệt chế ra chữ viết theo như sử Tàu không? (Theo bác sĩ Nguyễn Đại Bằng trong quyển “Đi tìm Kinh dịch nguyên thủy” (xuất bản tại Canada năm 1998) ở vùng An Dương (Trung Hoa) người ta khám phá ra những bộ yếm rùa và xương bò, cừu dê (đôi khi tê giác voi) có khắc chữ, hoặc sửa soạn để bói, hoặc dùng làm sách, đó là những giáp cốt văn, được coi là chữ viết đầu tiên của Tàu.) Đến đời nhà Thương mới chế ra chữ viết. Giáo Sư Kim Định cho rằng Lạc Việt có công đầu tiên trong việc đặt chữ viết, căn cứ vào việc nước Việt Thường cống vua Nghiêu con rùa trên lưng có viết cổ tự hình con nòng nọc, chép việc từ khi mới mở mang về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch. Chữ viết này gọi là Khoa đẩu có hình dạng giống như con nòng nọc đầu to đuôi nhỏ xuất hiện từ thế kỷ 23 trước TL. (Trong khi ở Tàu, chữ viết chỉ có từ đời nhà Thương bắt đầu từ 1766 tức thế kỷ 18 trước TL) (xem bài “Không có chữ Việt cổ?” đăng trong báo Đại Chúng số 43 ngày 7-1-2000). Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề nói trên khi nói về nước Việt Thường và ở đoạn 3. Hoài nghi 2.- Việt Tộc có liên hệ đến vua Thần Nông không? Lẽ dĩ nhiên Việt Tộc không liên hệ gì với truyền thuyết vua Thần Nông của Tàu (4480-4350? trước TL). Triều đại Thần Nông của Việt Nam chỉ từ 3118? trước TL). Có thuyết cho rằng Lạc Long Quân thuộc Viêm Tộc chứ không phải dòng dõi Đế Minh, vì Lạc Long là một lãnh tụ Thổ tù của các bộ tộc Viêm tộc trong lưu vực nam Trường Giang? (xem Cao Thế Dung: Tự hào là người Việt). Có lẽ vì tác giả không đồng ý Việt tộc trực thuộc vua Thần Nông vốn là một trong Tam Đại đế của Tàu. Thật ra có thuyết cho rằng Thần Nông là tổ nghề nông. Trong Kinh thư có nói đất Kinh, đất Dương có ruộng nương. Đây là khu vực của dân Văn Lang và Miêu tộc vốn biết nghề nông tức trồng lúa gạo, trong khi dân Hán lúc đó chỉ biết trồng lúa mì và kê. Nhiều người viết sử lầm lộn vị Thần nông của Viêm Tộc với vua Thần Nông của Tàu (thật ra vua Thần Nông cũng chỉ là huyền thoại), nên cho rằng các vua Hùng dòng dõi Thần Nông (xem Phạm Văn Sơn: VSTB). Nếu lấy hình ảnh nước Tàu để nói về Việt tộc là sai lầm. Nước Tàu có hình ảnh như ngày nay chỉ thực sự bắt đầu từ đời Tần (221 trước TL). Người Tàu đọc Tần là Tsin, nhân đó Âu Tây dịch là Chine, và dùng danh từ đó để gọi nước Tàu. Vào thiên niên kỷ thứ 3 trước TL (tương đương dời Kinh Dương Vương), Tàu lúc đó chỉ là một giống dân sống ở lưu vực sông Hoàng Hà, còn ở lưu vực sông Dương Tử có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có Miêu, Mán, bên bờ sông phía Nam có Vùng Động Đình và Phiên Dương có Việt tộc (tức Việt Thường) sống rải tác ở Ngũ Lĩnh đã tới trình độ xã hội canh nông. Thời đó toàn thể nước Tàu ngày nay chỉ gồm các giống dân Di, Việt, chưa có nước Tàu, chưa có giống Hoa. Giống Hoa sau này lớn mạnh gọi các giống, Di, Việt là Man Di. Có lẽ người dạy cho Việt Tộc làm nghề nông được tôn thờ như vị vua. Theo như câu chuyện Vua Đế Minh chia 2 bờ cõi cho Đế Nghi và Lộc Tục nói trên, có ý nghĩa là lúc đó hầu hết nước Tàu bây giờ thuộc Việt tộc, còn giống người sau này thành nước Tàu chỉ ở khu vực nhỏ ở lưu vực sông Hoàng Hà. Xa hơn nữa, toàn cõi nước Tàu chỉ có một giống người, một văn hóa, không phân biệt Man Di Tàu Việt gì cả. Phục Hi - Thần Nông - Hoàng Đế chỉ là truyền thuyết, không có gì minh chứng được, huống hồ huyền thoại Hoàng Đế chỉ được dựng lên từ đời Chu. Ở phía Nam, Việt Tộc còn có tên là Viêm Tộc (chữ Viêm ghép bởi 2 chữ hỏa) vì ở phương nam thuộc hỏa, bờ cõi của Kinh Dương Vương ở phía Nam Ngũ Lĩnh tức thuộc hỏa. nên có tên Xích quỷ. Xích là đỏ tức là lửa, quỷ là chủ, tức là làm chủ được lửa, tức biết áp dụng lửa vào cuộc sống (xem Kim Định: Hưng Việt). Hoàng Đế thắng Du Võng (Thần Nông Bắc), có sách nói là thắng Ly Vưu, có ý nghĩa là giống người Hán chiếm được phía Bắc Ngũ Lĩnh (2697 trước TL). Đây cũng là một truyền thuyết. Nhà Hạ (2205-1898) kéo dài 439 năm vốn là một mảnh đất nhỏ ở Nam Hoàng Hà, thường tự cho là Hoa Hạ, sau bỏ chữ Hạ còn giữ chữ Hoa đến ngày nay, và nhà Thương kéo dài 612 năm (1766-1154), văn hóa phát xuất từ Hoài Di tức văn hóa Di Việt. Quyển “The Origins of Chinese Civilization” gồm những bài thuyết trình trong Hội nghị Berkeley năm 1980, do University of California ấn hành năm 1983, có bài nói rằng, cho đến hết nhà Thương chưa có gì gọi là văn hóa Tàu. Tất cả còn là Di, chỉ từ nhà Chu (1122-225 trước TL) mới có sự biến đổi. Nhà Chu phát xuất từ Tây Di, họ Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương) về văn hóa thua sút Nhà Thương, nhưng chính nhà Chu đã biến đổi văn hóa Di Việt thành ra văn minh Tàu, và từ đấy bắt đầu phân biệt văn hóa Di, Việt. Tàu phát xuất từ Tứ Di, nhưng khi đã chinh phục được Tứ Di thì lại khinh nguồn gốc của mình (Kim Định: Hưng Việt.) Tóm lại, phía Bắc núi Ngũ Lĩnh lần lượt rơi vào giống Hoa Hạ vốn là một bộ tộc nhỏ ở lưu vực sông Hoàng Hà. Phía Nam núi Ngũ Lĩnh cho đến đầu nhà Chu vẫn còn thuộc các bộ tộc thuộc Việt tộc hay là Viêm Tộc, tôn thờ Thần Nông như một vị vua gọi là Viêm Đế, nước gọi là Viêm Bang, dân gọi là Viêm Chủng. Giáo lý Cao Đài cùng có quan niệm Thần nông là người dạy nghề nông, trong câu: “Công Thần Nông hóa dân buổi trước, dạy khôn ngoan học chước canh điền” (Kinh vào ăn cơm,) hay câu: “Nhờ Viêm Đế đức cao ân nặng, tìm lúa khoai người đặng no lòng” (Kinh sám hối). Hoài nghi 3 : Hỏa mù Bách Việt . Bách Việt có từ lúc nào? Có thuyết cho rằng các bộ tộc thuộc Viêm tộc ở nam lưu vực sông Trường Giang núi Ngũ Lĩnh gồm nhiều tộc Việt gọi là chung là Bách Việt. (Bách chỉ số nhiều chớ không hẳn là 100). Theo Ngô Thời Sĩ “cõi nam là Việt Môn có nhiều nước Việt như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt. Vì miền này ở phía Nam Dương Châu nên gọi là Nam Việt. Vùng đất từ Ngũ Lĩnh xuống phía Nam gọi là Nam Việt” (xem Việt sử Tiêu Án). Học giả Đào Duy Anh kể thêm một số địa điểm: “U Việt ở Chiết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở Việt Nam” (xem Việt Nam Văn Hóa Sử Cương). Thuyết khác cho rằng trong số các giống Việt ở Hồ Động Đình có một giống Việt sau này chia thành Bách Việt. Theo Tiến sĩ Lương Kim Định, Việt bao la ăn từ Chiết Giang lên mãi Liêu Đông, dính tới Địch và có thể là U Việt (Việt điệu U Linh). Còn phía Dương Tử Giang có Liêu Việt, Bộc Việt, Lạc Việt. Các Việt này có trước Bách Việt. Bách Việt do Việt chiết Giang tức U Việt, tức Việt ở vùng núi Ngũ Linh ở Hàng Châu (xem: Hưng Việt) đây là Việt của Việt Vương Câu Tiễn. Cũng nên biết Ngũ Lĩnh rộng mênh mông từ Thanh Giang, dưới phía Nam Trùng Khánh khá xa, tạt qua phía đông đi ngay Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Tây rồi tiến lên Đông Bắc đến Chiết Giang, Thiệu Hưng, Ninh Phố giáp lên đến bờ biển. U Việt nhiều sách cũng gọi là Ư Việt, kinh đô ở Hội Kế, có người đọc ra là Cối Kê. Chính Ư Việt đến đời Câu Tiễn lan rộng đến cả miền Giang Tô, tức Châu Từ, Hoài Giang, cũng là miền nằm trong tên chung là Dương Châu. Người Việt đất Dương Châu cũng gọi là Dương Việt, còn gọi Việt Chương. “Dương” trong tên Kinh Dương Vương. Kinh là nước Sở sau này (đời sau là Kinh Châu, ngày nay là tỉnh Hồ Bắc, còn Dương là miền sông Hoài, Châu Từ, U Việt. (xem Hưng Việt). Lãnh thổ Ư Việt thực ra ban đầu không rộng như vậy. Có phải dân VN thuộc dòng Việt của Việt Vương Câu Tiễn không? Trong đời Thương mạt, Hùng Dịch là lãnh tụ Viêm Tộc ở lưu vực sông Trường Giang có công giúp Chu Xương Cơ nên được phong chức Tử Nam, lập nên nước Sở ở đất Kinh gọi là Kinh Sở tức Châu Kinh sau này và là Tỉnh Hồ Bắc ngày nay. Người Tàu vốn bản tánh kiêu căng gọi là Kinh Man. Chữ Sở do chữ Lâm là rừng và chữ Thất, chứng tỏ vùng này ngày xưa rừng rú rậm rạp, và có nhiều xà long. Nếu xem bản đồ, Hồ Bắc ở phía Bắc Trường Giang, như vậy đất Kinh ngày xưa có thuộc các triều đại Thần Nông phía Bắc (lãnh địa của Đế Nghi không? Thiết tưởng Kinh Dương Vương có nghĩa là vua đất Kinh, đất Dương. Theo huyền sử Kinh Dương Vương (Lộc Tục) làm vua phía nam Ngũ Lĩnh, mà Ngũ Lĩnh ở dưới phía nam Động Đình Hồ cách Động Đình Hồ hàng trăm cây số (xem tài liệu của BS Trần) tức dưới phía Nam lưu vực sông Trường Giang, thì đất Kinh sao lại thuộc phía Bắc Trường Giang (Hồ Bắc), có phải là phi lý không? Chúng tôi thử bàn: ranh giới Ngũ Lĩnh, theo truyền thuyết và huyền sử nên không có gì xác định, cho nên Đế Minh phân định cõi bờ ở Nam Ngũ Lĩnh, mà sử chép bờ cõi Lộc Tục ở phía Nam Động Đình Hồ. Thực ra đất Kinh trải dài Nam và Bắc sông Trường Giang. Sau này, Hoàng Đế theo truyền thuyết đánh đuổi các triều đại Viêm tộc ở bắc Trường Giang, nên lãnh địa của Tàu lúc đó đến Bắc Trường Giang là cùng. Thế kỷ 12, Hùng Dịch thủ lĩnh Viêm tộc (1122 - 1078) có lẽ ở khu vực đất Kinh ở bắc Trường Giang lập nước Sở như đã nói trên có lẽ ở phần đất ngày nay gọi là Hồ Bắc. Đờøi chiến quốc, có lẽ Sở bị các chư hầu lấn chiếm nên lùi dần về Nam Trường Giang chiếm lĩnh Hồ Nam và Giang Tây. Đến đời Chu Hoàn Vương (717-696TTL) tức thế kỷ thứ 8 TTL, Sở Hùng Thông xưng Vương hiệu là Võ Vương. Lãnh địa của Sở lúc đó có lẽ là Hồ Nam, Hồ Bắc (?) Giang Tây. Các bộ tộc Việt khác ở Giang Tô, An Huy, Chiết Giang có lẽ sợ sự bành trướng của Sở nên lập thành quốc gia là Ngô và Việt. Nước Sở vì chung đụng với giống Hán nên sớm chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc. Bốn thế kỷ đầu, Việt chỉ là phụ dung của Ngô. Vào thế kỷ thứ 6 trước TL, vua nước Ngô là Hạp Lư đánh thắng và giết vua Việt là Doãn Thường. Con Doãn Thường là Câu Tiễn phục thù cha, giết được Hạp Lư. Con Hạp Lư là Phù Sai lại trả thù cha diệt được nước Việt nhưng không giết Câu Tiễn, để rồi Câu Tiễn phục hận diệt được Ngô và xưng bá ở vùng Giang, Hoài (402 trước TL), làm bá chủ phương đông được 3 đời. Thịnh nhất vào khoảng năm 472 trước TL gồm cả Giang Tô và phía Nam, tỉnh Sơn Đông, nhưng đến đời thứ tư thì suy, và 46 năm sau đời Câu Tiễn, Việt bị Sở diệt (333 TTL). Nước Việt trở lại hình thái bộ lạc. Dân Việt không chịu sự đồng hóa của Sở (mà Sở đã bị Hán hóa từ lâu) tản mát xuống Hoa Nam. Ông Leonard Aurousseau căn cứ sách Tàu cho rằng người VN thuộc dòng dõi Việt thời Xuân Thu tức Việt của Vua Câu Tiễn. Sau khi Sở diệt Việt, người Việt lùi xuống phía nam Trung Hoa chia làm 4 phái: 1. Đông Âu hay Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (phía nam Chiết Giang). 2. Mân Việt tụ tập ở Phúc Châu tức Phúc Kiến. 3. Nam Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây. 4. Lạc Việt hay là Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt bây giờ. Nhà Tần mưu đồ thôn tính Bách Việt nhưng không thắng được Lạc Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, đến năm Đinh Hợi (214 trước TL) Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh Bách Việt (vào khoảng tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận gọi là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc Việt). Người bản xứ đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Được ít lâu quân của Đồ Thư vốn người phương Bắc không chịu được thủy thổ phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Đồ Thư (VNSL). Tiến sĩ Cao Thế Dung viết lại đoạn sử này như sau: “Đời Tần Thủy Hoàng, Bách Việt ở Hoa Nam bị thôn tính và đồng hóa. Năm 222 trước Tây Lịch, Tần bắt đầu chinh phục lãnh thổ Bách Việt”. Theo cổ sử: “Thủy Hoàng ham lợi về sừng tê giác ngà voi, chim trĩ, ngọc thạch của tộc Việt mới phái Đô Úy Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân chia làm 5 cánh, một đóng ở núi Đàm Thanh, một giữ trại Cửu Nghi (Hồ Nam), một đóng ở Phiên Ngung (Quảng Đông) một giữ đất Nam Dã (Dự Chương), một tập trung ở sông Dư Can (Quảng Tây). Suốt 3 năm quân lính không rời áo giáp bỏ chùng dây cung. Quan Giám sử Lộc phái xuống không có đường vận lương mới cho đào một đường thủy để làm vận hà ngõ hầu chống với người Việt. Chúa Tây Âu (Lạc Việt) là Dịch Vu Hống bị giết. Tất cả người Việt vào rừng rú ở với cầm thú chớ không chịu làm nô lệ cho quân Tần. Họ chọn lấy người tài giỏi và đánh với quân Tần ban đêm. Quân Tần đại bại Đồ Thư bị giết, thây chất hàng vạn” (xem Tự hào là người Việt). Lạc Việt có thuộc Bách Việt không? Đối chiếu 2 đoạn sử của 2 tác giả nói trên, chúng tôi rút ra các nhận xét sau: 1. Sử sách VN căn cứ theo sách Tàu đã đặt Lạc Việt ra ngoài Bách Việt. Có lẽ cũng do theo sách Tàu, nhiều sách Âu Mỹ đã vẽ Bách Việt vào đời Tây Hán chỉ là một lõm ở vùng Phúc Kiến (xem Atlas Historique). Vậy là có sự phân biệt giữa Bách Việt và Âu Lạc, nhưng khi nói đánh Bách Việt lại cũng là đánh Âu Lạc. Thục Phán (Âu Việt) chiếm Lạc Việt lập ra Âu Lạc (210 TTL). 2. Đoạn sử trên nói nhà Tần đặt Bách Việt và Âu Lạc làm 3 quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Tượng Quận được ghi chú là Bắc Việt (VNSL). Theo tài liệu BS Trần thì địa giới 3 quận như sau: Nam Hải (Quảng Đông và một phần Phước Kiến) Quế Lâm (Quảng Tây và một phần Quý Châu), Tượng Quân (Vân Nam và một phần Quý Châu). Ghi nhận của BS Trần phù hợp với bản đồ nước Tàu vào đời Tần trước khi Tần Thủy Hoàng gồm thu 6 nước, theo đó các bộ tộc Việt trải dài từ biển Nam Hải tới Đại Lý (Vân Nam), phía rên là nước Sở, nước Triệu (xem Atlas Historique). 3. Thật ra theo một tài liệu khác, nhà Tần không đánh lấy được Âu Lạc nên việc An Dương Vương thần phục nhà Tần theo VNSL có lẽ không đúng. Âu Lạc chỉ bị Triệu Đà chiếm vào năm 200 trước TL lập thành nước Nam Việt. Nhà Tần chỉ chia phần đất chiếm được thành 3 quận Nam Hải - Quế Lâm - Tượng Quận, không bao gồm Bắc Việt. Xin bổ túc ý kiến của sử gia Phạm Văn Sơn (xem VSTB/Q1): Đạo quân thứ 5 theo Đường Dư Chương tiến vào lãnh thổ của Nam Việt. Còn đạo quân thứ 5 sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt đã theo đường bể do đèo Yết Dương tấn công vào Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Ba đạo quân kia tiến vào Bắc Quảng Tây, Tây Bắc Quảng Đông không gặp sức kháng cự nào đáng kể, nhưng ít lâu sau họ bị người Tây Âu chống trả kịch liệt ở Quảng Tây, phần tiếp tế khó khăn và khí hậu khắc nghiệt nên luôn 3 năm đoàn quân Tần khốn đốn. Bị ngăn ở đây, nhà Tần đặt thêm bộ máy cai trị ở các nơi đã chiếm được như Đông Việt, Mân Việt, Quảng Đông, Quảng Tây thành lập 3 quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Theo TS Cao Thế Dung (sđd) dù chúa Tây Âu là Địch Vu Hống đã bị giết, Tần Nhị Thế bãi bỏ đánh Lạc Việt vì không thắng được. Nước Văn Lang vẫn tồn tại. Bách Việt gồm cả tỉnh Hồ Nam (VNSL), và Đồ Thư chia làm 5 đạo quân đóng ở tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, tức là trận chiến xảy ra cả ở Hồ Nam. Điều này phù hợp với bài thuyết trình của giáo sư Ling Shun Sheng, đại học Đài Loan: “New Interpretation of the Decoration Designs on the Bronze Drums of Southeast Asia” (tạm dịch: Sự giải thích mới về những trang trí trên trống đồng ở Đông Nam Á) tại Hội nghị Far Eastern Prehistory Congress (Hội nghị Tiền sử Viễn Đông), tổ chức tại Phi Luật Tân vào năm 1963. Tại đây vào thế kỷ thứ 3 trước TL, Khuất Nguyên, Đại phu nước Sở bị đày tới. Trong thời gian bị lưu đày ông phóng tác ra Cửu Ca. Theo GS Ling nếu xét Cửu Ca người ta nhận thấy những hình ảnh mô tả các cuộc tế lễ địa phương này giống hệt hình ảnh đã được vẽ trên trống đồng Đông Sơn của Lạc Việt. GS Ling cũng quan niệm rằng trước kia đồng bằng sông Dương Tử là nơi cư ngụ của giống người Indonesian mà sử Tàu gọi là Bách Việt hay Lạc Việt (xem Phạm Việt Châu: Trăm Việt trên vùng định mệnh). Tinh thần bất khuất của dân Lạc Việt, thà ở với cầm thú chớ không ở với quân Tần. Tiến sĩ Cao Thế Dung nhận xét là Lạc Việt tuy bị nhà Hán chiếm, nhưng không bị chính sách đồng hóa của nhà Hán, diệt chủng như các Việt tộc khác, và vẫn còn giữ tinh thần kháng cự nhà Hán cho tới khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa (254 năm sau) và dòng giống Lạc Việt vẫn tồn tại đến nay. Đi vào hỏa mù của lịch sử Tóm lại, nghiên cứu về Bách Việt, chúng tôi đã đi vào hỏa mù của lịch sử! Bách Việt là toàn thể bộ tộc Việt thuộc trong nước Xích Quỷ, hay chỉ là một nhóm bộ tộc Việt thuộc Việt Chiết Giang, tức Ư Việt, thành hình sau khi đế quốc Việt sụp đổ từ năm 333 trước TL, vì bị nước Sở thôn tính? Theo chúng tôi, truyền thuyết Âu Cơ và 100 trứng đã nói lên ý nghĩa các bộ tộc Việt trong nước Xích Quỷ. Rồi các bộ tộc Việt đánh lẫn nhau, bộ tộc lớn nuốt bộ tộc bé, dần dần số bộ tộc kết tụ lại thành những nước nhỏ. Đến thế kỷ thứ 12 trước TL, nước Sở được thành thành lập ở vùng đất Kinh, nên được gọi là Kinh sở, Tàu gọi là Kinh Man. Sở cũng chỉ là những bộ tộc Việt trên đất Kinh. Sở sớm thấm nhuần văn hóa nhà Chu nên lần lần bị đồng hóa với giống Hán. Có lẽ những bộ tộc Việt khác ở Châu Dương gồm sau nầy là nước Việt nước Ngô cũng chịu thần phục Sở nên sử Tàu nói nước Sở gồm 6 tỉnh trong Trường Giang thất tỉnh. Thế kỷ thứ 8 trước TL, Sở Hùng Thông tiếm Vương hiệu, nên Việt, Ngô thành lập nước riêng. Rồi Việt thôn tính Ngô làm bá chủ phương Đông từ thế kỷ thứ 6 trước TL. Có lẽ vì Sở bị Hán hóa, nhiều bộ tộc Việt chống lại sự Hán hóa đó, di dân về Việt Chiết Giang. Sau khi Việt sụp đổ, một lần nữa một số bộ tộc Việt không phục tùng nước Sở, di dân xuống vùng Hoa Nam: Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến và tận đến Bắc Việt và Bắc Trung Việt và có thể xa hơn nữa là ở các vùng Đông Nam Á. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhứt nước Tàu năm 221 trước TL, nhà Tần gởi quân xuống phía Nam chinh phục Bách Việt. Lúc đó, các giống Việt gồm còn 4 nhóm: Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt (tức Tây Âu Lạc) như trên đã nói. Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, lần lượt bị Tần rồi Hán tiêu diệt và đồng hóa. Một số chịu theo Tàu, một số không chịu lại di cư về miền Phúc Kiến và Đông Bắc Quảng Đông, cho nên trong bản đồ đời Tây Hán, các nhà nghiên cứu Âu Mỹ chỉ vẽ Bách Việt ở một lõm nhỏ ở vùng nói trên. Rồi qua các triều đại Tần, Hán, Tây Âu (Đông Nam Quảng Tây) bị sáp nhập vào nước Tàu, chỉ còn Lạc Việt gồm Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Vùng này cho đến đời Hán Hiến Đế được gọi là Giao Châu. Trong thời gian đó, nhóm Bách Việt ở vùng Phúc Kiến, Quảng Đông trước sức đồng hóa tàn bạo của giống Hán, một số di cư về với Lạc Việt mang theo bản chất mongolit pha trộn vào dân Lạc Việt. Tạm giải đáp vấn đề Bách Việt như vậy, nhưng chúng tôi lại rơi vào hỏa mù khác là tại sao Việt Nam Sử Lược của cụ Trần khi viết quân Tàu đến đánh Bách Việt đã không kể Âu Lạc vào gia đình Bách Việt? Bách Việt theo cụ Trần vào thời đó là Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, tức không có phần đất của Lạc Việt. Như vậy, đi từ nguồn gốc Việt tộc ở Động Đình Hồ phía Nam núi Ngũ Lĩnh, có Tổ phụ là Lạc Long Quân và Tổ mẫu là Âu Cơ, đến đây Lạc Việt lại thành đứa con hoang vô thừa nhận! Chúng tôi lại phải giở gia phả của dòng Lạc Việt, thấy rằng người Việt Nam là giống dân Giao Chỉ. Giao Chỉ ở đâu? Phía Nam Giao Chỉ là Việt Thường. Việt Thường ở đâu? Giao Chỉ chắc chắn không phải là quận Giao Chỉ hay vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt mà sau này gọi là Giao Châu, Việt Thường cũng không phải là đất Chiêm Thành. Vậy Giao Chỉ và Việt Thường ở đâu? Tìm được địa giới Giao Chỉ, Việt Thường là xác định được bờ cõi Văn Lang. Hoài nghi 4 : Về nguồn dân tộc để tìm giới địa Giao Chỉ và Việt Thường. Tìm lãnh địa của Giao Chỉ. Theo sử, người Việt Nam thuộc giống Giao Chỉ, được hiểu theo nghĩa là giống người có 2 ngón chân cái giao nhau. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu như Bác sĩ P. Huard và A. Bigot trong bài “les Giao Chi”, vào năm 1937, nói rằng không riêng người Giao Chỉ có 2 ngón chân trái giao nhau, mà là nhiều dân tộc khác ở Á Đông cũng có như vậy. Trong sách sử Tàu, người Giao Chỉ bị coi là Man di, sinh hoạt bằng nghề chài lưới, săn bắn, có tục đặc biệt là xâm mình và hớt tóc ngắn. Theo sử sách Tàu thì người Giao Chỉ xâm hình giao long để giao long tưởng là loại cùng giống mà không giết hại, nên người Hán cho rằng nơi những người đó ở là Giao Chỉ tức là miền đất của giống người Giao Long. Nhưng có thuyết khác nói rằng tên Giao Chỉ là tiếng người phương Bắc gọi người phương Nam, có nghĩa là đối trụ với nhau (xem Phạm Văn Sơn VSTB1). Giao Chỉ ở đâu? Trong quyển VNSL, Giao Chỉ là một bộ trong 15 bộ của nước Văn Lang tức nước Việt Nam đời Hùng Vương . Nước Văn Lang lúc đó gồm lãnh địa của Bắc Việt và Bắc Trung Việt hiện nay. Bộ Giao Chỉ (theo VNSL) bao gồm Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định và Ninh Bình. Sau này Thục Phán (Âu Việt) chiếm nước Văn Lang (Lạc Việt) lập ra nước Âu Lạc. Thục Phán chiếm Văn Lang năm nào? Theo L Aurousseau, Lạc Việt mất vào tay Thục Phán vào từ khoảng 210 TTL là năm Tần Thủy Hoàng chết đến năm 207 TTL là năm Triệu Đà đang hùng cứ ở quận Nam Hải. Điều này không đúng. Thục Phán chiếm Văn Lang của Hùng Vương 18, mà Họ Hồng Bàng chấm dứt năm 258 trước TL) tức 2622 năm, sao L. Aurousseau lại viết là năm 210 TTL? Theo sử gia Trần Trọng Kim (VNSL) Thục Phán chiếm Lạc Việt năm 258 trước TL, và xưng là An Dương Vương (năm 257 trước TL) cải quốc hiệu là Âu Lạc, rồi 2 năm sau (255 trước TL), thì xây Loa Thành. Rồi Triệu Đà lại chiếm Âu Lạc (207 trước TL) nhập vào quận Nam Hải thành nước Nam Việt. Nhà Tây Hán (Vũ Đế) lại chiếm nước Nam Việt lập thành Giao Chỉ bộ gồm Quảng Đông, Quảng Tây, phần đất Bắc Việt và Bắc Trung Việt và Đảo Hải Nam. Giao Chỉ là một quận của Giao Chỉ Bộ (Lãnh địa nước Văn Lang tức Bắc Việt và Bắc Trung Việt bị chia ra 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam). Giao Chỉ chỉ có như vậy sao? Theo tài liệu Trung Hoa, vào đời Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa sớm nhất là người Giao Chỉ và thời đó đã giao thiệp với Hán Tộc. Theo các tài liệu đó thì Giao Chỉ ở về miền Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh (VSTB-Q1). Từ đời Nghiêu Thuấn có giống người Tam Miêu sống giữa Động Đình Hồ và Hồ Phiên Dương cũng đã biết nghề nông rồi. Người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của người Tam Miêu, nhưng người Giao Chỉ không phải là người Tam Miêu. Người Giao Chỉ ngoài nghề đánh cá và săn bắn, thuở đó cũng đã biết trồng trọt và làm ruộng. Nhiều công cuộc nghiên cứu cho rằng, người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng ở trong thời đại đồ đá cũ và đầu thời đại đồ đá mới. Họ làm nhà bằng cành cây hay bằng tre trên các đầm hồ, khe núi (theo Thiên Võ Cống, đất Kinh có nhiều tre, xem VSTB - Q1). Ch. Patris trong quyển “Abrégé de l' Histoire d'Annam”, cho rằng Giao Chỉ thuở xưa thuộc Dương Châu là một trong 9 quận do vua Hạ Vũ lập ra. Theo chúng tôi điều nầy không đúng, vì nhà Hạ khởi đầu từ 2205 trước TL (và chấm dứt 1766 trước TL), trong khi gốc người Việt có trước thời kỳ đó. Coi đoạn sử Việt Thường sẽ rõ. Có một điều chúng tôi thấy cần để ý là nhiều người cho rằng người Giao Chỉ sống ở vùng Hồ Động Đình qua vùng Hồ Phiên Dương và rải rác 2 bên bờ sông Dương Tử cho đến Chiết Giang (Đông Âu hay Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu, nam Chiết Giang, quê Từ Hải : “Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông” (truyện Kiều)). Tìm lãnh địa của Việt Thường. Sử chép Việt Thường ở phía Nam Giao chỉ. Trong VNSL Bộ Việt Thường ở Quảng Bình, Quảng Trị, tức phía Nam Giao chỉ. Cũng có sách nói Việt Thường ở nước Lâm Ấp (sau là Chiêm Thành) giáp giới với Văn Lang . Tại sao có sự sai biệt đó? Nhà Tây Hán lập ra Giao Chỉ bộ như đã nói trên, trong đó phần đất Văn Lang xưa trở thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Quận Nhật Nam mới được lập từ đời Tây Hán, ở phía nam quận Cửu Chân phạm vi từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân (tức đến giữa Trung Việt) tức 2 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị (gồm cả Huế), trụ sở đặt ở Tây Quyển, giáp sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. Năm 248 sau TL, Lâm Ấp cướp phá các tỉnh miền Bắc và chiếm một vùng đất Nhật Nam. Rồi từ đó Lâm Ấp luôn quấy nhiễu đất Nhật Nam, cho đến năm 340 sau TL, Lâm Ấp điều đình với nhà Tấn định quốc giới Lâm Ấp từ Hoành Sơn trở vào. Vua Tấn chưa quyết định thì năm 347 sau TL, vua Lâm Ấp là Phạm Văn chiếm luôn Hoành Sơn. Năm 353, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu đẩy lui Lâm Ấp khởi Nhật Nam (đời Tấn Mục Đế). Từ đó cho đến năm 420 sau TL, Lâm Ấp luôn luôn quấy phá. Năm 420 nhà Tấn tiến quân chiếm Lâm Ấp và bắt xưng thần (xem Lê Văn Siêu: Văn Minh Việt Nam). Theo chúng tôi, vùng Quảng Trị Quảng Bình là Việt Thường, một bộ của Văn Lang, do đó khi chiếm được Nhật Nam, Lâm Ấp cũng gọi vùng này là Việt Thường, nhưng thuộc Lâm Áp, tức sau này là Chiêm Thành. Rồi đời sau nghĩ rằng Giao Chỉ là vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt, thì Việt Thường ở phía Nam Giao Chỉ, tức Chiêm Thành. Học giả Đào Duy Anh trong quyển Hán Việt tự điển có nói về nước Việt Thường như sau: “Việt Thường là tên nước ta xưa về đời Hùng Vương, chỉ miền đất từ Thanh Hóa về miền Nam,” chỗ này ông viết không rõ ràng vì tại sao Việt Thương là tên nước ta lại là miền từ Thanh Hóa vào Nam? Một chỗ khác ông viết: “Nguyên nước ta xưa là Việt Thường, từ đời Bắc thuộc gọi là An Nam, đến đời vua Gia Long gộp 2 tên cũ thành Việt Nam”. Như vậy, theo ông Đào Duy Anh, Việt Thường là phần đất của Việt Nam, có một thời kỳ bị Lâm Ấp chiếm. Trong các quyển An Nam Vũ Cống và Việt Sử Lược đều chép nước Văn Lang có 15 bộ, trong đó có bộ Việt Thường, nhưng thứ tự các bộ trong 2 quyển đó không giống nhau. Sách An Nam Vũ Cống viết về Việt Thường như sau: a/ là một nước hoang đường đời Chu. b/ một huyện do Vũ Đế đời Tấn lập ra gọi là Việt Đường, sau này đến đời Đường đổi tên là Việt Thường (xem bài của Thịnh Quang “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương” đăng trong báo Đại Chúng số 47 ngày 17-3-2000). Nếu Việt Thường tầm thường như vậy thì tại sao Thánh giáo Cao Đài lại đề cao, như câu: “Đào Nguyên lại trở trái hai lần, Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân” (TNHT) và bác sĩ Trần Đại Sỹ khi viếng ngôi chùa ở núi Thiên Đài (Hồ Nam Trung Quốc) đã đọc thấy câu khắc vào đá: “Thiên đài đại đại, phân Nam, Bắc, Lĩnh địa niên niên dữ Việt Thường.” Vậy Việt Thường ở đâu? theo câu Việt Thường ở phía Nam Giao Chỉ, thì Giao Chỉ ở đâu, Việt Thường ở gần đó. Giao Chỉ đã được xác định ở vùng Động Đình Hồ thì Việt Thường cũng ở đâu đó. Theo VNSL, năm thứ 5 đời vua Đế Nghiêu (2352 trước TL), Việt Thường sang cống một con Rùa lớn, rồi đến đời Chu Thành Vương (1109 trước TL), Việt Thường cống chim Trĩ trắng. Chu Công Đán là chú vua Chu Thành vương phải dùng thông ngôn mới hiểu tiếng và chế xe chỉ nam tiễn sứ về nước. Như vậy, Việt Thường phải ở gần lãnh thổ của vua Nghiêu, (lúc đó kinh dô là Sơn Tây, và lãnh thổ nhà Chu (kinh đô là Tây An, Thiểm Tây) chớ không thể ở tân Lạc Việt hay Chiêm Thành được. Ngoài ra trong Kinh thư có viết đất Kinh có nhiều rùa lớn và đất Dương có nhiều chim lạ, vậy thì Việt Thường phải ở vùng đất Hồ Động Đình và Hồ Phiên Dương, mới phù hợp với việc cống chim trĩ và rùa lớn. Sử ký Tư Mã Thiên cũng viết vùng hồ Phiên Dương có đất Việt Thường. Theo sử gia Phạm Văn Sơn có lẽ Việt Thường ra đời lâu lắm, vào thế kỷ 24 trước TL, Việt Thường có kinh đô đóng ở nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh làm bá chủ vùng hồ Phiên Dương và hồ Động Đình, do đó mới có sứ sang cống rùa cho vua Nghiêu (2352 trước TL), và cống chim trĩ cho vua Chu (1109 trước TL). Ông Lê Chí Thiệp định vị trí Việt Thường ở ngay chỗ thành Nam Xương bấy giờ, căn cứ vào việc năm 508 trước TL vua nước Ngô (ở vùng Chiết Giang Tô) có thắng đạo binh Sở ở Dự Chương, cũng gọi là Việt Chương tức Việt Thường (xem VSTB/Q.1). Tương quan giữa Giao Chỉ và Việt Thường Người Việt Thường cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như người Giao Chỉ, có lẽ cũng có tục xâm mình, nhưng thông thạo nghề nông hơn. Theo Thiên Vũ Cống thì miền đất Kinh, đất Dương có nhiều sản vật như vàng bạc, gỗ quý để làm nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngựa, vải gai. Dân Việt Thường còn biết chế đồ đồng đỏ. Trình độ kỹ thuật đã tới trình độ đồ đá mới. Họ sống theo chế độ thị tộc và cũng có tín ngưỡng “tô tem” như người Giao Chỉ (xem VSTB-Q1). Người Việt Thường từ đời nhà Chu sống trên địa bàn cũ của người Tam Miêu, tức giữa Hồ Động Đình và Hồ Phiên Dương. Cho đến nay, sự liên hệ giữa Giao Chỉ và Việt Thường thế nào vẫn chưa rõ rệt, chỉ biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì Giao chỉ không còn nữa. Theo chúng tôi, có lẽ Giao Chỉ nói về giống tính, còn Việt Thường chỉ tên nước, vì rõ ràng Việt Thường và Giao Chỉ cũng sống trên cùng một địa bàn, và thời gian xuất hiện ở vùng Hồ Động Đình và Hồ Phiên Dương cũng không xa nhau lắm. Theo chúng tôi, Giao Chỉ và Việt Thường là một, cùng chỉ người Việt Nam cổ xưa và lãnh địa của tổ tiên chúng ta. Việt Thường xuất hiện khi Việt tộc đã thành hình quốc gia, có thể vào đầu thế kỷ 24 TTL, rồi làm bá chủ vùng Hồ Động Đình và Hồ Phiên Dương. Có phải vì thế mà chữ Thường có nghĩa là phi thường, Việt Thường có nghĩa là “Việt phi thường” biểu thị sự quật cường và lòng tự hào của Việt tộc? Thánh Giáo Cao Đài cũng nói đến Việt Thường như sau, để ám chỉ Việt Nam: Bay đến Hồ Dương phụng gáy chiều, Thần tiên giáng thế biết bao nhiêu, Trở chơn ít kẻ lo đi ngược, Bước đọa xem qua dấu dập dìu. (TNHT) Ghi chú: Hồ Đương gồm Động Đình Hồ, hồ Phiên Dương hoặc chỉ nói riêng hồ Phiên Dương. Phụng gáy là điềm Thánh Chúa ra đời, như trong câu “Kìa lóng non Kỳ reo tiếng Phụng” (TNHT) báo trước Chu Võ Vương ra đời ở đất Kỳ Sơn lập ra nhà Chu. Ở đây Phụng gáy báo hiệu một Đạo Thánh ra đời, như câu: “Phụng gáy non Nam đạo trổ mòi” (TNHT). Trong 4 câu trên, Phụng gáy báo hiệu đạo Cao Đài ra đời. Quan hệ Sở – Việt Trong bài “Yên Đài Thu Vịnh” của Ngô Thời Nhiệm, có câu: “ Nhất đới Thanh sơn Sở, Việt giao,” vậy Sở và Việt có tương quan với nhau thế nào? Theo sử, vào thế kỷ 12 trước TL, một lãnh tụ Việt tộc là Hùng Dịch chinh phục được dân Miêu Man ở miền sông Hán chảy vào Dương Tử giang, tổ chức thành quốc gia ở đất Kinh (lưu vực sông Dương Tử) đóng đô ở Đơn Dương gần thành Nghi Xương ngày nay. Tàu gọi đây là kinh Man sau khi nước Sở thành lập thì gọi là Kinh Sở. Hùng Dịch giúp Chu Võ Vương đánh Trụ Vương, có công được phong Tử - Nam và thành lập nước Sở, lúc đó có lẽ là vùng thuộc tỉnh Hồ Bắc và một phần tỉnh Hồ Nam ngày nay, nước Sở gần gũi Hán tộc tiêm nhiễm văn hóa Hán, dần dần bành trướng xuống phía Nam lấn chiếm các Việt tộc ở phía nam. Năm 889 trước TL (thế kỷ thứ 9trước TL), Sở Hùng Cừ chiếm Đông và Dương Việt (tức Việt Chương, trước kia là Việt Thường, đồng thời chiếm luôn nước Ngạc (Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc sau này). Hùng Cừ cho con trưởng là Khang làm vua đất Cú Bản, con thứ hai là Hồng làm vua ở đất Ngạc, con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua đất Việt Chương. Như vậy, Sở đã chiếm một vùng rộng lớn. Theo sử gia Phạm Văn Sơn , dân Việt chống không nổi Kinh Man phải tiến xuống phương Nam, một phần tiến lên núi Nam Lĩnh rồi gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng Tây, sử gọi các nhóm này là Bách Việt. Đến đời Sở Hùng Thông (717-696) tự lập làm Sở Võ Vương; ít lâu sau Viêm Tộc ở các vùng ngày nay thuộc 3 tỉnh Giang Tô, An Huy, Chiết Giang tách ra lập nước Ngô và nước Việt. Nước Việt lúc đầu chỉ ở vùng Chiết Giang và là phụ dung của Ngô từ dọc bờ Nam Hải, nam ngạn sông Dương Tử cho đến Hồ Động Đình. Sau, Việt Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô làm bá chủ phương Đông đương đầu với Sở. Nước Việt thịnh nhất vào khoảng 472 TTL gồm cả Giang Tô và phía nam tỉnh Sơn Đông (Từ Châu ở vùng này). Đến đời thứ 4 thì suy vong và bị Sở diệt. Việt tộc lại tản mác xuống phương Nam. Tóm lại, Sở và các bộ tộc Việt đều thuộc Viêm Tộc. Sở gần gũi văn hóa Hán sớm nhất và lần lần theo văn hóa Hán. Sở lấn chiếm các bộ tộc Việt, các bộ tộc này lần lần tản xuống phương Nam. Theo chúng tôi, Giao Chỉ, Việt Thường và các bộ tộc khác đều gọi chung là Bách Việt. Học giả Đào Duy Anh căn cứ thuyết của L. Aurousseau cho rằng “tổ tiên ta là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở đánh chiếm phải chạy xuống miền Nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây rồi lần lần đến Bắc Việt và Bắc Trung Việt.” (xem Đào Duy Anh: Việt Nam Văn Hóa Sử Cương). Theo các di chỉ khảo cổ, người Việt đến ở Bắc Việt không lâu lắm, vì hài cốt tìm thấy của Việt tộc nằm trên hài cốt của thổ dân giống Melanesian và Indonesian. Theo chúng tôi, Việt tộc đến vùng Bắc Việt 2 đợt: một đợt xa xưa lúc Sở bắt đầu bành trướng, và một đợt sau khi đế quốc Việt tan rã, Việt tộc từ miền Chiết Giang, Phúc Kiến xuống Quảng Đông, Quảng Tây rồi lần đến Bắc Việt, pha giống Mongolit. Tại sao Giao Chỉ, Việt Thường là nguồn gốc của người Việt Nam? Giống Lạc Việt thiên di đến vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt là giống dân Giao Chỉ và Việt Thường, còn các bộ tộc Việt khác tản mác khắp vùng Đông Nam Á (theo thuyết Phạm Việt Châu). Dân tộc Việt ngày nay còn giữ hình ảnh của Giao Chỉ và Việt Thường qua các sự tích về Rùa và chim Trĩ. Rùa thể hiện trong sự tích Thần Kim Quy cho An Dương Vương vuốt để làm nỏ thần và cho Lê Lợi thanh kiếm. Còn hình ảnh con chim trong trống đồng, biểu hiệu của văn hóa Lạc Việt, có phải là hình ảnh con Trĩ không? Hình ảnh chim Lạc được vẽ trên mặt trống đồng, vậy trống đồng có giá trị thế nào đ/v văn hóa Lạc Việt? a) Một dấu vết của Việt tộc là trống đồng. Trống đồng đã tập trung tất cả tinh thần văn hóa Lạc Việt thời đại Đông Sơn, tức thời kỳ mà Việt tộc mới chỉ là bộ lạc ấu trĩ, các phần tử còn sống chìm trong tinh thần vật tổ thần bí. Vật tổ là con chim Hồng Lạc hay Lạc Hồng. Theo kết quả khai quật, người ta đã tìm thấy ở châu thổ Bắc Việt: một cái trống ở chùa Long Hội Sơn làng Ngọc Lữ tỉnh Hà Nam, và một cái thứ hai ở làng Hoàng Hạ tỉnh Hà Đông, giáp giới tỉnh Hà Nam, cách mặt đất 1m50. Nghiên cứu trống đồng VN, người ta cho rằng cách trang trí trên trống đồng chịu ảnh hưởng của văn minh Âu Á chớ không phải do ảnh hưởng của Trung Hoa, vì khoảng thế kỷ 2 hay 3 trước TL, nghệ thuật Trung Hoa thời Hán đã bị văn minh trung bộ Á Tế Á ảnh hưởng rồi (xem: Nguyễn Đăng Thục: Tư tưởng Việt Nam). Sách “Tùng Thư Địa Lý trí” viết: “Từ núi Ngũ Lĩnh đến hơn 20 quận phía Nam, các rợ đều đúc đồng làm trống lớn. Khi mới hoàn thành treo ở giữa sân, đặt rượu để mời đồng bào. Người đến dự có trai gái, nhà giàu lấy vàng bạc làm chiếc thoa lớn, cầm đánh vào trống, xong rồi để lại cho chủ nhân gọi là thoa đồng cổ. Chúng hay chém giết lẫn nhau gây nhiều thù oán. Muốn đánh nhau thì đánh vào trống ấy, người kéo đến cuồn cuộn như mây vần. Kẻ nào có trống gọi là Đô lão, quần chúng đồng tình suy tôn và tòng phục.” Trong sử nhà Minh có truyện Lưu Hiển, năm đầu vạn lịch đi đánh dẹp Từ Châu thu phục được 60 trại, bắt được trống đồng Chư Cát đến 93 chiếc (xem Nguyễn Đăng Thục: sđd). Nhiều sử gia nhận rằng trống đồng được tìm thấy ở miền Hoa Nam và ở một số nước ở Đông Nam Á, nhưng trống đồng Lạc Việt có một sắc thái riêng biệt, mà các trang trí trên trống đồng có điểm giống với văn hóa các nước ở hải đảo như Nam Dương, Mã Lai, Bornéo. La Hương Lâm trong quyển “Bách việt nguyên lưu dữ văn hóa” (Trung Hoa Tùng Thư) có viết: “Thời cổ văn hóa của Việt Tộc rất đáng được người ta chú ý là sự chế tạo trống đồng và cách sử dụng. Trống đồng của Việt tộc phải lấy kiểu của Lạc Việt làm thịnh nhất, cho nên gọi là Lạc Việt Đồng Cổ”(xem Nguyễn Đăng Thục: sđd). B) Dấu vết về hình ảnh chim Lạc Theo học giả Đào Duy Anh (trong quyển Nguồn gốc dân tộc Việt): nhóm Lạc Việt thường tự sánh mình với một giống chim hậu điểu cứ đến mùa gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ mà tiến xuống miền Nam, đến khi mùa nóng trở lại thì chim và người cùng trở về chỗ cũ. Do đó có câu: “Việt Điểu qui sào” (chim Việt trở về tổ), hoặc: “Chim Việt cành nam” hay “Việt điểu sào nam chi”. Hai câu sau này có nghĩa là con chim Việt vì nó sinh ở phía Nam, nên nó hay làm tổ ở nhánh phía Nam, cũng như ngựa Hồ sinh ở phía Bắc, nên nghe gió Bắc thì nó hét lên (Hồ mã tê bắc phong). Các câu trên đều có nghĩa là giống dân Việt không quên được tổ. Dần dần tâm lý Việt tộc phát sinh quan niệm “tô lem”. Họ nhận giống chim Lạc là vật tổ nên lấy tên giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ mang lông chim Lạc ở đầu và mình. Trên mặt trống đồng Ngọc Lữ (biểu hiệu văn hóa Việt Nam), người ta thường thấy chạm hình ảnh các con chim giăng cánh và hình chiếc hoa quỳ tượng trưng cho mặt trời ở giữa. Có thuyết cho rằng các con chim đó là chim Lạc và chim Lạc là giống hậu điểu về loài ngỗng trời tức thiên nga, mà ở đoạn trước chúng tôi có nói là chim Hồng, vua Sông Dương Tử (Đế Giang). Chim Hồng cũng biểu thị cho Hồng Bàng, tổ tiên của Việt tộc. Chúng tôi lại nghĩ rằng chim Lạc ở đây là chim Trĩ và hình chim trên trống đồng tức là chim trĩ. Hình ảnh trên trống đồng, có ý nghĩa chim Lạc bay về hướng mặt trời. Chim đó là chim trĩ chỉ có ở đất Dương của Việt tộc. Kinh thư viết: Châu Từ cống lông chim trĩ ngũ sắc. Châu Từ là đất thuộc Châu Dương của Di Việt còn gọi là Hoài Di (Di vùng sông Hoài). Sách Quảng Đông tân ngữ viết: “Tùy dương Việt trĩ”, tức là chim trĩ đi về hướng mặt trời (xem: Kim Định: nhân chủ) Trĩ chữ Hán kêu là Địch. Địch là thứ Trĩ có đuôi dài lông ngũ sắc. Ngũ sắc Hán gọi là Hạ. Đôi khi chữ Lạc đặt trước chữ Địch thành Lạc Địch, nghĩa là chim Trĩ của Lạc Việt. “Lạc địch tập kỳ tả dực” có nghĩa là chim Trĩ của Lạc Việt thu cánh bên trái (xem Kim Định: Văn Lang vũ bộ). Đây là một huyền lý thể hiện đặc tính Việt Tộc trước kia, là cài nút áo qua trái (tả nhậm), trong khi người Tàu cài nút áo qua phải (hữu nhậm). Chim Trĩ trong văn chương gọi là Phụng. Phụng bao giờ cũng vẽ theo hình Trĩ nên gọi Phụng là Trĩ. Tục ngữ có câu: “Phượng minh triều dương”, có nghĩa là: con phụng hót chào mặt trời buổi sáng. Con Phụng là con trống, con mái gọi là Loan. Đức Phật Mẫu cởi chim loan. Trong các Thánh giáo và các bài Kinh Cao Đài có nhiều điển tích về Phụng, chẳng hạn: “đằng giao khởi phụng”, “Phụng gáy non nam” v.v.. Chim Trĩ cũng chính là con Tước. Tàu chỉ biết con tước vào đời Chu nên gọi là Chu Tước, vừa có nghĩa là con tước đỏ, vừa có nghĩa là tước đời Chu. Trước đời Chu, người ta chỉ biết con Trĩ của Việt tộc. Kinh Đệ lục cữu có câu: “Minh Vương Khổng Tước cao bay” ý nói con chim Hồng (Đế giang) và con Không Tước (Trĩ) bay theo hướng mặt trời đến tận trời xanh. Hoài nghi 5: Xác định bờ cõi Văn Lang Theo VNSL, nước Văn Lang là lãnh địa của VN gồm Bắc Việt và Bắc Trung Việt, có 15 bộ. Sử gia Phạm Văn Sơn cũng viết Văn Lang có 15 bộ nhưng lãnh địa lại rộng hơn, một số bộ gần giống như trong VNSL, trừ 4 bộ như: Vũ Định (Thái Nguyên và một phần đất Hoa Nam), Lục Hải (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây), Ninh hải (Quảng Yên và một phần Quảng Đông), Bình Văn (Ninh Bình). Như vậy theo ông Phạm Văn Sơn, nước Văn Lang gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây. Nhiều sử gia đồng ý cương vực của nước Văn Lang, Bắc giáp Hồ Động Đình, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Tây giáp Tứ Xuyên, Đông giáp Nam Hải, tức lãnh địa nước Xích Quỷ. Cương giới Văn Lang co cụm dần, cho đến phần đất ở Quảng Đông, Quảng Tây cũng mất luôn, chỉ còn lãnh vực ở Bắc Việt và Bắc Trung Việt, mà sau này các triều đại Trung Hoa đặt là Giao Châu, rồi đời Đường gọi là An Nam đô hộ phủ. Ông Lê Chí Thiệp nói rằng sử sách Tàu không thấy nói tới Văn Lang. Tên này chỉ có từ niên hiệu “Thái bình ngự lãm” đời Đường. Văn Lang là từ nói chung người Kinh Man (Sở) ở dọc sông Dương Tử, người Việt Chiết Giang, người Lạc Việt là những dân có xâm mình, sống ở lưu vực sông Dương Tử, trôi giạt xuống bờ biển Nam Hải, vì vậy cổ sử mới ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp hồ Động Đình, Đông giáp Nam Hải, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Tứ Xuyên (Ba Thục). Nói chung Văn Lang thể hiện cái văn hóa sáng ngời của Viêm Tộc, mà chính Hán Tộc đã vay mượn, chiếm đoạt để làm thành văn hóa của mình. Chẳng hạn như cuộc khai quật hai ngọn đồi ở Mã Vương (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) cách nay vài thập niên (1972, hai ngọn đồi an táng gia đình Mã Vương, ông Hoàng nước Sở thời Ngũ đại Trung Quốc (907-960)), người ta tìm thấy một số di tích (đồ sơn mài, đồ chơi, nhạc cụ, dĩa, áo lụa, đồ thêu v.v...) đặt biệt là một tấm tranh lụa và 50 quyển sách kinh cổ điển: Lão tử, Chu dịch, Dịch truyện, Xuân Thu v.v... Từ đó một số nhà nghiên cứu Trung Hoa đã nhận xét các nhà Nho Trung Hoa đã diễn dịch quá xa lời dạy của Khổng Tử. Kinh dịch đã bị diễn sai lầm vì các chữ đồng âm, và tấm tranh lụa đẩy lùi lịch sử hội họa Trung Hoa, mà theo Bác sĩ Ng. Đại Bằng, trước tấm lụa vẽ này, ít ra ở phương nam, con người thời ấy tỏ ra nắm vững mọi sắc thái của một nền hội họa cao cấp (xem Ng. Đại Bằng: Đi tìm Kinh Dịch nguyên thủy). BS Bằng viết: “Nguồn gốc phương Nam của cả một nền văn minh “Nam Man” đã bị xã hội, văn hóa Nho giáo phương Bắc, vừa đàn áp, vừa vay mượn và đẩy lui vào bóng tối của lãng quên”. Ý kiến của BS Bằng làm chúng tôi nhớ lại ý kiến của Linh Mục Tiến sĩ Lương Kim Định, nguyên giáo sư đại học Văn Khoa Sàigòn, trong bộ sách gần 20 quyển. Ông tha thiết với thuyết An Vi, tức giữa Vô Vi và Hữu Vi, mà ông cho đó là bản chất của người VN (và chúng tôi có cảm tưởng ông nói về Cao Đài), và ông quyết liệt nói rằng Kinh Dịch là của Việt tộc, Hồng Phạm Cửu Trừ do từ “Việt Tỉnh Cương” của Việt Tộc mà ra, các con số 2, 3, 5, 9 là của Việt tộc và Việt nho có trước Hán nho. Ý kiến của ông được tán thành cũng nhiều, và bị chỉ trích cũng không ít vì ông bị cho là yêu nước quá độ. Chúng tôi cũng liên tưởng đến điều mà tác giả Đức Nguyên trong “Cao Đài Tự Điển “ gọi là “Bát Quái Cao Đài” tức lấy quả Càn Khôn làm trung tâm và 8 cửa của Tòa Thánh làm Bát quái. Theo tác giả, các quẻ trong Bát quái Cao Đài có thứ tự giống các quẻ trong Bát quái hậu thiên, nhưng lại chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ, tức nghịch với Bát quái hậu thiên. Theo tác giả, đó là vì “thủy hỏa ký tế.” Theo chúng tôi, nếu ý kiến về “Bát quái Cao Đài” của tác giả Đức Nguyên đúng, chúng ta phải cần suy nghĩ sâu hơn, vì thứ nhất, Kinh Dịch ngày nay bị nhiều tác giả cho là có nhiều diễn dịch sai lầm, thứ hai, nếu nói Kinh dịch của Việt tộc thì phải đọc Dịch theo triết lý của Việt tộc tức theo tả nhậm, trái với Tàu theo hữu nhậm. Bát Quái Cao Đài quay ngược Bát quái hậu thiên phải chăng là theo tả nhậm. Mong tác giả Đức Nguyên thử nghiên cứu vấn đề này, biết đâu đây là cánh cửa của triết lý Cao Đài? Tóm lại, trong văn hóa của Viêm tộc, văn hóa VN tức Lạc Việt rực rỡ hơn cả. Do đó, chúng ta cần nghiên cứu văn hóa VN để tìm hiểu tại sao Đức Chí Tôn chọn VN để gieo mối đạo Trời và Tứ nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ: 'Vùng Nam hải uy linh nhứt quốc“. Kết luận Vì khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể trình bày dài hơn nữa, nên tạm dừng nơi đây. Đoạn 3 của bài này tức giải đáp câu 3 của Tứ Nương Đoàn Thị Điểm: “Trời còn roi nước hùng anh”, tức tìm hiểu Thánh giáo “Tại sao một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc mà sao này làm chủ mới là kỳ”. Nước VN có một quá khứ lịch sử oai hùng như vừa kể, dân Lạc Việt có một tinh thần bất khuất và một nền văn hóa lâu đời trước cả Hán tộc mới xứng đáng là nơi Đức Chí Tôn chọn và là dân tộc được chọn. Đoạn 3 bài này sẽ đăng kỳ sau với tựa đề: “ĐI TÌM CHÂN DUNG ĐẠO CAO ĐÀI TRONG DÒNG LỊCH SỬ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC VIỆT”. Sau cùng, lời kết luận của chúng tôi là: “GIANG SAN LÀ ĐẤY, CÒN MÌNH Ở ĐÂU?”
  23. The Birth of Champa - Ra đời của Chămpa (Chu Lâm Anh dịch, Lâm Thị Mỹ Dung hiệu đính và chú thích ở cuối ) Tác giả của bài viết này đã sử dụng tài liệu rất cũ và lỗ mỗ, tuy nhiên đây cũng là một cách nhìn về cấu trúc của Chămpa và mối quan hệ giữa Lâm Ấp với Chămpa và cách kết nối điêu khắc, kiến trúc, bia ký với khoanh vùng thực thể chính trị. Để cập nhật thêm một số thông tin, người hiệu đính đã chú thêm ở cuối một số trang (Lâm Thị Mỹ Dung). Tóm tắt Bài viết này là kết quả tổng hợp dữ liệu nhiều năm về Lâm Ấp và Chămpa từ TK 3 đến TK 7. Bài viết đã khám phá về “Lâm Ấp” như đã được trình bày trong các sử liệu của Trung Quốc với ước tính về nguồn gốc và lãnh thổ tại tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế ngày nay. Sau đó tập trung vào vương quốc Xitu (Tây Đồ) phát triển hơn ở lưu vực sông Thu Bồn, với vị vua nổi tiếng đầu tiên Bhadravarman vào cuối TK 5. Cuối cùng, sau khi so sánh việc sử dụng từ “Chămpa” trong bia ký tại Mỹ Sơn và “Vua của Chămpa” ở bên ngoài Mỹ Sơn, bài viết đã đưa ra giả thuyết rằng Lâm Ấp, “Thành phố của người Lin”, và Champapura, “Thành phố của người Chăm[1]” đều là những vương quốc cổ toạ lạc ở miền Trung Việt Nam. Lời nói đầu Bài viết này sẽ cố gắng làm sáng tỏ nghĩa của “Lâm Ấp” và “Chămpa” là gì. Nếu có thể chỉ ra rằng đã có các chính thể dọc duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay trước khi những từ “Chăm” hay “Chămpa” xuất hiện trong các bia ký, chúng ta sẽ có thể làm rõ chính xác thời điểm ra đời của “Chămpa”. Chúng ta phải dựa vào các sử liệu của Trung Quốc cùng với các dấu vết khảo cổ học và văn bia. Việc nghiên cứu từ các nguồn tài liệu kể trên hướng tới việc xác định lãnh thổ Chăm (Cham area) như một bức khảm về các vùng lãnh thổ khác nhau hơn là một lãnh thổ thống nhất trải dọc bờ biển. Vì thế, Lâm Ấp và Chamapura là hai lãnh thổ riêng biệt, trong số một loạt lãnh thổ từng tồn tại từ khi những người Nam Đảo đầu tiên sinh sống tại các lưu vực sông duyên hải Việt Nam. Lâm Ấp trong các sử liệu Trung Quốc Lãnh thổ của người Chăm thường được nhìn nhận như là một dãy các đồng bằng phù sa mở ra biển và bị ngăn cách bởi các rào cản tự nhiên. Mỗi vùng duyên hải dường như là nơi toạ lạc của một vương quốc. Sử liệu Trung Quốc là nơi cung cấp bằng chứng duy nhất trước “Indianization/ Ấn Độ hoá” và trước khi xuất hiện chữ viết đầu tiên trong vùng trước giai đoạn cuối của TK 5. Mặc dù vậy, có sự khác biệt giữa việc sử dụng thuật ngữ “Lâm Ấp”, được sử dụng trong sử liệu Trung Quốc từ TK 3 và năm 749 và sự xuất hiện đầu tiên của cái tên “Chămpa”. Campã xuất hiện lần đầu vào năm 658 trong bia ký Chăm C.96 tại Mỹ Sơn, và vào năm 667 trong bia ký Khmer K.53 tại Kdei Ang, Prey Veng. Các cách thức mà qua đó người Chăm bị mất đi bản sắc dân tộc cũng cần phải xem xét lại. Một nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra rằng người Chăm là trong những người đi biển của Đông Nam Á tiền sử (Vickery 2005:15). Lịch sử của Chămpa có thể đã bắt đầu từ TK 3 khi người Trung Quốc lần đầu tiên đã nhắc đến sự tồn tại của một chính thể có tên là “Lâm Ấp”, mặc dù không có bất kỳ một minh chứng nào thể hiện sự tồn tại của bất kỳ một tộc người hay ngôn ngữ của chính thể đó. Các sử liệu Trung Quốc đính thêm tính từ Kunlun để chỉ những người nam “di”, có nghĩa là “những người phương nam da đen tóc xoăn” (Stein 1947: 230, 259). Những cư dân đầu tiên sinh sống ở đây được ghi chép trong sử liệu Trung Quốc hiện nay đã được xác định không phải là cư dân bản địa mà là những người Nam Đảo đi biển đổ bộ lên bờ biển của Việt Nam ngày nay từ đầu Công nguyên và họ đã tự thâm nhập vào văn hóa ngôn ngữ Mon-Khmer lục địa. Họ đến bằng đường biển, với một số ít người, họ đến và mang theo một cách tự nhiên những truyền thống của mình, đức tin và công nghệ. Đối với người Trung Quốc, các đường biên giới hạn có thể ở phía bên trong hoặc bên ngoài lãnh thổ, một không gian xã hội cho một chính quyền và trật tự xã hội. Một số ít sử liệu Trung Quốc còn tồn tại cho rằng quan điểm này xuất hiện từ sớm và “Lâm Ấp” được xem như là một thực thể chính trị. “Lâm Ấp/Linyi” hay “Thành phố của người Lin” xuất hiện trong lịch sử dưới thời đế chế Hán (năm 206-20 CN) là một thực thể chính trị hợp pháp trong khuôn khổ cai trị của Nhật Nam “phía nam mặt trời” (Taylor 1983: 30) – một lãnh thổ nằm trên vùng đất thấp ở phía Nam của đèo Ngang (“Cổng Annam” ở Đông Dương Pháp). Chắc hẳn đây là một tỉnh thành ở xa ít liên kết tới triều đình (Such a remote province must have had but a tenuous link to the imperial court). Theo chương 28 của Qian Han shu (Tiền Hán thư), biên soạn vào TK 1, Quận Nhật Nam đã được chia theo các vùng, trong đó “cực nam được gọi là Xianglin/Tượng Lâm”. Xianglin/Tượng Lâm có lẽ được đặt ngang với Linyi theo ý nghĩa xiang – “voi” và lin – “rừng”, trong khi đó lin – “rừng” và yi – “thành phố” (Stein 1947: 209, 241). Tượng Lâm, kinh đô của Nhật Nam, vì vậy còn được gọi là thị trấn “của loài voi” (Demieville 1951: 348) và còn một vùng gọi là “tỉnh voi” (Cadiere 1902: 55). Ở Trung Quốc, loài voi là biểu tượng cho vùng lãnh thổ xa xôi ở phía nam (Schafer 1967). Cái tên “Lâm Ấp” cũng được phổ biến bởi cái tên này nhắc đến những người dân của “Thị trấn Lin”; trong trường hợp này, Lâm Ấp được xem như một thực thể xã hội đặc biệt ở một lãnh thổ riêng biệt. Sự đồng nhất của Lâm Ấp và Tượng Lâm trong sử liệu Trung Quốc (Stein 1947: 75, fn. 53 trích dẫn “Tượng Lâm, chức vương của Lâm Ấp”) đã được củng cố bởi sự trùng hợp về địa lý của lãnh thổ giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân (“Đèo Mây”). Địa hình này là một dải đất thấp cắt bằng cửa sông. Tại địa bàn tỉnh Quảng Bình, cửa sông Gianh là cảng của Ba Đồn và cửa sông Nhật Lệ, Đồng Hới. Tại tỉnh Quảng Trị, các con sông Cam Lộ, Thạch Hãn, và Cửa Việt, chảy vào Đông Hà và Quảng Trị, và các huyện lớn của Gio Linh và Vĩnh Linh nằm về phía Bắc của vùng đất phù sa màu mỡ, lên đến sông Bến Hải và Cửa Tùng. Tại tỉnh Thừa Thiên – Huế, mạng lưới sông ngòi ở đây tạo nên đầm Cầu Hai, vươn ra cửa biển Tư Hiền và thành phố Huế. Đầm Cầu Hai trước đây là một vịnh kín mà vươn ra biển bởi một kênh đào nằm giữa đồi Linh Thái và một ụ đá vững chắc (Stein 1947: 82-3). Ngày nay các đầm phá tại Huế đã được phủ đất cát, và một kênh đào qua các cồn cát Thuận An vào TK 15 đã hoàn toàn thay đổi sự bảo vệ tự nhiên vốn có của kinh đô xưa. Lãnh thổ của những thể chế chính trị đầu tiên đã mở rộng ở 03 tỉnh hiện nay gồm Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Sự thiếu hụt của các cuộc khai quật khảo cổ tại một số vùng, so với những người thực hiện tại Trà Kiệu ở Quảng Nam, làm cho sự so sánh trở nên khó khăn. Những mảnh ngói lợp và các con dấu được tìm thấy ở Trà Kiệu và Gò Cấm là một kiểu của Trung Quốc và cho thấy sự thương mại với Han China trước năm 220 CN (Southworth and Prior 2010: 191)[2]. Những vùng chiếm đóng Trung Hoa tạo ra từ những cuộc xâm chiếm của Trung Quốc gồm Jiaozhi/ Giao Chỉ ở khu vực đồng bằng sông Hồng, Jiuzhen/ Cửu Chân ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Rinan/ Nhật Nam tại tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Ở những quận này quân đội chỉ có thể giám sát từ xa bởi những quản lý được sự ủng hộ từ những người đứng đầu địa phương tự trị. Trung Quốc đã nỗ lực để áp đặt một hệ thống chỉ đạo đánh thuế và điều đó đã khiêu khích các cuộc nổi dậy vào TK 2. Một trong những cuộc nổi dậy vào năm 192 CN đã gây ra việc thảm sát người đứng đầu quận Nhật Nam tại Tượng Lâm và mở ra con đường cho một nền độc lập mới, chính thể proto-Cham (sơ –Chăm) mà Trung Quốc đã nhận diện từ TK 3. Sau khi viên quan cai trị của Trung Hoa ở Tượng Lâm bị ám sát bởi con trai của một thủ lĩnh địa phương, dường như sự cai trị trực tiếp của Trung Quốc không còn có thể được mở rộng về phía Nam của Nhật Nam (Stein 1947: 24; Taylor 1983: 60), để lại một khoảng trống chính trị thuận lợi cho sự lớn mạnh của người đứng đầu địa phương tự trị. Làm thế nào mà các cư dân vùng biên của đế quốc có thể mong muốn sự công nhận chính thức từ Trung Quốc trong thế kỷ đầu tiên của Thiên niên kỷ thứ nhất? Có thể, bởi họ đã tạo ra sự liên kết về mặt kinh tế với người Trung Quốc. Vị trí của các bờ biển Việt Nam hiện nay sau đó sẽ xuất hiện trong sử liệu để đánh giá sự phát triển của chúng, mặc dù nguồn tư liệu Trung Quốc coi những “vương quốc” trên bờ biển này là “man rợ” mà với chúng những người Trung Quốc buôn bán. Vào TK3, một phái bộ Trung Quốc đã được gửi đến “các nước ở phía nam” nhằm tạo mối quan hệ thương mại đã từng được đề cập đến của hai nước Lâm Ấp và Phù Nam (Jin shu 3, 97). Như vậy trong triều đại Jin (265-420), với chính sách mở cửa thương mại của mình, lần đầu tiên Lâm Ấp được thừa nhận như một thực thể chính trị. Thông điệp của phái bộ có niên đại năm 268 CN (Jin Shu 3; Pelliot 1903: 252), cũng đã xác định rằng “Fan Xiong” như là vua của Lâm Ấp, nhưng chúng ta không có văn bản chứng thực của cái tên này từ Lâm Ấp. Mặc dù vậy, huyện Tượng Lâm chắc chắn được phân biệt với các phần còn lại của quận Nhật Nam và được triều Jin gọi là Lâm Ấp đến cuối TK 3 (Stein 1947: 75). Lâm Ấp được miêu tả như được hình thành từ “một số bộ tộc”. (Pelliot 1903: 55), điều này cho thấy một cấu trúc chính trị nhiều thủ lĩnh với một “Lâm Ấp” duy nhất là xứng đáng được đề cập đến một cách đặc biệt.Vì vậy, vào năm 285 CN, “10 vương quốc ở phương nam”, bao gồm Phù Nam (Vương quốc Khmer sớm ở vùng lưu vực sông Cửu Long), đã được vời đến triều cống cho triều đình Jin. Lâm Ấp xem ra không có biên giới cố định nhưng được tập trung quanh Tượng Lâm. Tình trạng (identity) của “Lâm Ấp” dường như đã thay đổi theo từng thời đại. Vào TK 2 và TK 4, vị trí các trị sở tại Tượng Lâm, thủ phủ của Lâm Ấp, đã được nhắc đến bởi người Trung Quốc và được xác định vị trí 400 li từ Qusu/Khu Túc, trong khu vực cảng Ba Đồn Quảng Bình (Stein 1947: 29, fn.23 và 76). Vào năm 248 CN, một đội quân từ Huế, toạ lạc ở Tượng Lâm, tấn công miền bắc Nhật Nam và chinh phục Ba Đồn hiện nay (Stein 1947: 17). Đáp trả lại, Trung Quốc đã tạo một trị sở Nhật Nam mới xa hơn về phía bắc về phía Hà Tĩnh hiện nay (Aurousseau 1914: 26). Vào TK 4, Nhật Nam đã gần như hoàn toàn bị chiếm đóng bởi Lâm Ấp cho đến cửa sông Gianh. Vào năm 344 CN, “vua của Lâm Ấp” đã tấn công phía bắc và Trung Quốc đã đáp trả bằng một cuộc tấn công trừng phạt đối với “thành trì của Lâm Ấp”, có thể khu vực gần Đồng Hới. Vào năm 353 CN, khi viên quan cai trị của Giao Chỉ tấn công Lâm Ấp, ông được cho là đã “phá hủy hơn 50 thành luỹ”. Các cuộc tấn công khác cũng đã được ghi nhận vào Ba Đồn và “thành lũy của Qusu/Khu Túc”. Trong thời gian này, Lâm Ấp được mô tả là “người hàng xóm của Phù Nam được cấu thành từ nhiều sắc tộc đối lập với nhau.” (Nguyen The Anh 1900: 7) cùng thực hiện các cuộc tấn công liên tiếp và là “vua của Lâm Ấp thậm chí xâm chiếm Nhật Nam”. Jin shu (97, 76) đưa ra hai lý do cho cuộc xâm chiếm Nhật Nam bởi Lâm Ấp trong thời gian trị vì của Fan Wen/Phạm Văn, hoàng đế của Lâm Ấp vào giữa TK 4 (Stein 1947: 131): Đầu tiên, do việc đánh thuế hàng hóa vận chuyển quá cao, thứ hai, do “Lâm Ấp có quá ít ruộng đất, và họ muốn chiếm vùng đất màu mỡ của Nhật Nam” (Stein 1947: 71, fn. 52). Trung tâm của Lâm Ấp ở đâu đó gần Huế và không thể được xác định một cách chắc chắn tại Trà Kiệu cho đến năm 605 CN (Stein 1947: 234; Vickery 2005: 19) khi hoàng đế Fan Wen/ Phạm Văn cố gắng mở rộng lãnh thổ Lâm Ấp về phía Bắc - “những đồng bằng màu mỡ trải dài từ cổng An Nam đến đèo Hải Vân”, đó là “Đất đỏ Gio Linh và đồng bằng sông Gianh” (Stein 1947: 72, fn. 52). Các cuộc tấn công và phản công vẫn tiếp tục từ giữa TK 4 đến giữa TK 5, nhưng Lâm Ấp đã thất bại trong việc giữ lãnh thổ phía Bắc Quảng Bình. Tuy nhiên sự quấy rối liên tục của đội quân Sino-Việt đã khiêu khích sự can thiệp của nhà Nam Tống (từ năm 420-479 CN). Vào năm 446, viên quan cai trị Giao Chỉ Tan Hezhi (Đàn Hoà Chi) đã được lệnh của Hoàng đế bao vây “thành lũy của Lâm Ấp” ở Qusu/Khu Túc (địa danh này có thể đã để lại dấu vết trong “Thành lũy Chăm” tại Thành Lồi, theo Cadiere 1903: 169-70) và tiếp tục cho đến khi “thành phố của người Lin” bị phá hủy (Stein 1947: 22)[3]. Một sử liệu Trung Quốc từ năm 446 CN có đề cập đến việc thu thập một số hình tượng tôn giáo trong một chiến dịch chống lại Lâm Ấp (Soper 1959: 54), trong khi những người giàu có lại bị bắt giữ bởi Đàn Hoà Chi ở cung điện hoàng gia, được mô tả lại với niềm tự hào, và chứng tỏ được sự giàu có thần kỳ của kinh đô này (Taylor 1983: 115–8).. Vào giữa TK 5 cuộc tấn công Sino-Viet dường như đã hãm lại các tham vọng của “các hoàng đế Lin” và, thật nghịch lý, sự phát triển của Lâm Ấp chỉ có thể được hiểu sau hạn chế này. Trên thực tế, chỉ từ nửa sau của TK 5, các mối quan hệ khác nhau đã được thiết lập giữa Lâm Ấp và Trung Quốc. Vào cuối TK 5, biên niên sử của triều đại Liang đã đề cập đến một “hình tượng của Amitayus” (i.e, Amitabha) mà “Hoàng đế của Lâm Ấp” đã mang đến triều đình Trung Hoa (Soper 1959: 54). Sự tiếp nhận của những sứ đoàn bởi triều đình Trung Quốc đã đề cập đến ngụ ý rằng Lâm Ấp được thừa nhận như một thể chế chính trị và xã hội đã được thành lập. Book of the Liang, được biên soạn vào TK 6, đề cập đến Lâm Ấp như một “vương quốc” (Stein 1947: 161). Một số cuộc đi sứ từ Lâm Ấp đến Trung Quốc cho thấy sự phát triển thực sự quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Nhưng khi một kinh đô gần Huế đã hoàn toàn bị cướp phá và tất cả các khu vực xung quanh cũng bị tàn phá trong năm 446 CN, khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên – Huế có lẽ không giàu có và tự trị như đã từng. Điều này sẽ giải thích cho sự xuất hiện của một thực thể chính trị mới gần sông Thu Bồn, Trung Quốc gọi là “Xitu/Tây Đồ”. Từ TK 5, các sử liệu Trung Hoa đã phân biệt giữa hai “bộ tộc” – “Lâm Ấp”, phía Bắc đèo Hải Vân”, và Xitu (Tây Đồ), phía Nam của các đèo trong thung lũng Thu Bồn. Sự mâu thuẫn (nhầm lẫn) giữa Lâm Ấp và Xitu (Tây Đồ) cũng đã sớm nảy sinh trong các sử liệu Trung Quốc. Xác định Nguồn gốc lãnh thổ của Lâm Ấp Nếu như thói quen của người Nam Đảo là di chuyển thường xuyên để duy trì sự tự cung tự cấp, thì trao đổi thương mại lục địa áp đặt tính ổn định địa lý. Việc sản xuất lúa gạo đã trở thành thường xuyên. Tại tỉnh Quảng Trị, việc canh tác lúa, cùng với các hệ thống tưới tiêu phức tạp của Gio Linh và sự quản lý đất đai quanh các vùng lân cận của Vĩnh Linh, những điều này đã tượng trưng cho giai đoạn phát triển của các thực thể chính trị dựa trên sự hợp tác của một số cộng đồng dân cư (Naerssen và Longh 1977: 37-8 đối với Java). Các bậc đá xếp và các vũng vịnh của Gio Linh đã không được xác định niên đại bởi Madeleine Colani (1940), nhưng sự tương đồng với Java và Assam đã thể hiện tình trạng của những nhà nước sơ sử và bao hàm hệ thống tinh vi của những người xây dựng chúng[4]. Các bậc đá xếp Gio Linh và vùng đất đỏ giàu có đã thể hiện trình độ cao của việc khai thác. Gio Linh là một vùng đất màu mỡ và đã được canh tác từ lâu đời. “Chúng ta không chỉ được thấy một số công trình thủy lợi mà còn thấy cả việc quản lý đất đai của toàn vùng: Đê chắn từ các khu vực trên cao, hệ thống nước tưới đầy đủ tại các khu làng, dẫn nước cho các cánh đồng lúa… Các sơ đồ vũng vịnh tỉ mỉ, việc phân loại đất đai được nghiên cứu kỹ càng, đó là một kế hoạch đã được định trước và được thực hiện với sự cẩn trọng” (Colani 1940: 11, 13-4, 40). Kết luận của Colani đã cho phép chúng ta suy luận ra rằng các kỹ sư xây dựng đã có khả năng ứng dụng công nghệ của mình vào những ràng buộc về địa lý mà có lẽ, các kỹ thuật về xây dựng của họ bắt nguồn từ một nhóm nhỏ của người Nam Đảo. (theo Colani 1940: 41, fn.2 là những người đi biển đến từ Indonesia). Nhóm người này cho thấy tinh thần sắc sảo về tổ chức (1940: pl. CXV); dựa vào sông Quảng Trị, gặp biển lớn ở Cửa Việt, sông Bến Hải và Cửa Tùng, có cảng trung chuyển ở gần cửa sông và giữ liên lạc với cả những thương gia đến bằng đường biển và những người dân miền núi để phát triển việc trao đổi (Colani 1940: 210). Nghiên cứu của Colani cũng để ý đến văn hóa nhập khẩu bởi những người định cư tại Gio Linh. Bà đã đề cập đến “bậc thang nghi thức” đến việc cúng bái thần linh, các dấu hiệu của cự thạch, thờ cây thánh giá và “mộ” tổ tiên. Bà đã ghi chép rất nhiều các nghi lễ thờ cúng thần đá gọi là Bụt – có thể là tiền thân của kut sau này– những hòn đá có trang phục “mọc lên từ lòng đất” (Cadiere 1911: 414). Kết luận của Colani đã cho rằng sự lắp đặt hệ thống thủy lợi của Gio Linh có cùng niên đại với thần đá và các di tích của tổ tiên. (1940: 78). Truyền thuyết về người thành lập ra làng xã mang tên là Ông Cao, “Ông Tổ”, và Ông Tiền Khai-Khẩn, “Người khai hoang đất đai đầu tiên”. Ông Tiền Khai-Khẩn là người đã đến trước tất cả mọi người để chiếm hữu đất đai và thiết lập ranh giới. Đến sau là Ông Hậu Khai Canh, “Người đến sau và bắt đầu làm việc”. Colani đã liên kết các di tích của những người tiên phong Ông Cao, và Ông Tiền Khai-Khẩn với di tích thần đá và tất nhiên là phong tục thờ cây. Các tên gọi trên đã cung cấp một số chứng cứ sơ sử cho sự hiểu biết về tiến trình phát triển dân cư ở các khu vực[5]. Các huyện Gio Linh và Vĩnh Linh đã đại diện cho cột mốc kinh tế của lãnh thổ, nhưng có thể không phải là mốc chính trị. Sông Cửa Việt có thể là nơi bảo vệ lãnh thổ dễ dàng hơn và do đó là một vị trí thuận lợi cho kinh đô. Có vẻ như đường thủy nội địa, trong lần đầu tiên, đã cho phép giao thông trên toàn tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế mà không nhờ vào biển. “Tàu thuyền đi lại từ lưu vực này đến lưu vực khác” (Cadiere and Cosserat 1926: 6) từ Huế cho đến điểm cận Bắc tại Vịnh ở Quảng Trị. Nếu chúng ta nhìn thấy một đồng bằng dài bao gồm các tỉnh của Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Bình giống như lãnh thổ trước đây của Lâm Ấp, với kinh đô ở gần Huế, các vùng đất màu mỡ của Gio Linh và Vĩnh Linh là vựa lúa. Ngày nay thuật ngữ “lồi” được dùng để chỉ thành lũy và các bức tượng Chăm trong khi thuật ngữ “dang” được sử dụng cho các di tích về cư trú của người Chăm (Cadiere 1905: 194-5)[6]. Thuật ngữ “dang” có lẽ giống như Cham yan, (tương đương to sri trong Sanskrit) để chỉ ra các vật linh thiêng của thần thánh, hay đền tháp. Thuật ngữ “lồi” còn được phát âm giống với Lin, những người Nam Đảo đầu tiên đặt chân đến và lập ra Lâm Ấp. Nếu như Lâm Ấp đã được tạo ra bởi “một số bộ tộc”, và trong đó chỉ một bộ tộc lớn nhất được gọi là “Lâm Ấp”, những địa điểm có niên đại thuộc giai đoạn “Chăm” có thể làm sáng tỏ về việc phân biệt giữa ít nhất hai lãnh địa trên cùng một lãnh thổ. Từ TK 5 trở đi, lãnh thổ của Lâm Ấp sẽ được sánh ngang với các nước láng giềng. Quốc vương Bhadravarman và bia ký đầu tiên tại thung lũng Thu Bồn đã xuất hiện như một trung tâm về chính trị và thương mại. Xitu/Tây Đồ ở lưu vực sông Thu Bồn Từ TK 5, ngoài Lâm Ấp, những “lãnh địa” khác cũng được đề cập đến như Xitu, Boliao và Quduqian (tên của vương quốc cuối cùng kết thúc với “...cheng guo” đã bị mất) (Vickery 2005: 19 trích dẫn Southworth). Với sự hoang tàn của “kinh đô của người Lin”, giữa TK 5 dường như đã là một bước ngoặt bởi các thực thể khác nhau đã được công nhận bởi người Trung Quốc và xuất hiện trong các sử liệu Trung Hoa khi quan hệ thương mại đường dài phát triển. Mạng lưới đường bộ được hỗ trợ về thương mại chắc chắn quan trọng đối với chính quyền khi dân cư đã được phân tán dọc theo mạng lưới đó, tạo ra sự phân biệt lãnh thổ để từ đó hình thành nên các tên gọi trong các sử liệu của Trung Hoa (Stein 1947: 116-7, 158-61) (Fig.9.1). Hình 9.1. Những vương quốc sơ Cham từ TK 5 Xitu/Tây Đồ được cho là vùng đất thấp cách Lâm Ấp 200km về phía Nam – rõ ràng lãnh thổ phía Nam đèo Hải Vân hoặc lưu vực sông Thu Bồn. Xung quanh trung tâm này là 12 vương quốc nhỏ (những man di của vương quốc Tây Đồ, người xưng vua). Theo danh sách của “vương quốc” khoảng 100km về phía Nam Xitu, chúng tôi đi tìm Boliao. Vương quốc này ở gần một thị xã Tam Kỳ hiện nay và các địa điểm lân cận của An Mỹ hay Phú Ninh. Về sau ở Chiên Đàn và An Thái đã thu được những tài liệu khảo cổ học thú vị. Hơn 300km tiếp là Quduqian, có lẽ là khu vực Bình Định. Mặc dù không thể xác định những “vương quốc” nếu không có bất kỳ một chứng cứ chính xác nào, những phát hiện về điêu khắc cho thấy các vương quốc có niên đại từ TK 5 và 6 (Zephir 2005: 178) cũng cho thấy những phong cách khác nhau, trong đó có thể chỉ ra các khu định cư sơ Chăm khác nhau. Một kiểu điêu khắc rất đáng chú ý: đó là ba tác phẩm điêu khắc bằng đá của một người đàn ông ngồi bắt chéo tay chân lên đùi (Fig. 9.2). Trong hai tác phẩm còn lại, là một người đàn ông ngồi dưới một naga. Chúng được tìm thấy tại Nha Trang tỉnh Khánh Hòa và Mỹ Sơn tỉnh Quảng Nam, hai thánh địa Chăm. Tác phẩm thứ ba có xuất xứ từ Trà Kiệu tỉnh Quảng Nam, là phù điêu một người đàn ông ngồi dưới tán lá (tác phẩm này hiện ở bảo tàng điêu khắc Champa Đà Nẵng inv.no.20.2). Chúng xuất hiện để trở thành hiện thân của năng lượng trái đất, thần học sau này được gọi trong tiếng Phạn là “yaska” (Mus 1933: 387-8). Paul Mus (1933:388) đã liên kết chúng với các vị thần Hindu và Visnu trong khi John Guy (2005: 145) lại liên kết chúng với Kubera, vị thần của cải. Vẫn còn khó khăn để khẳng định sự liên kết trực tiếp giữa các tín ngưỡng bản địa, các vị thần Hindu và các tác phẩm điêu khắc có thể là linh hồn của địa phương. Hình 9.2. Những điểm tìm thấy điêu khắc của những vương quốc sớm – những vị thần Những tác phẩm điêu khắc đá hoặc đất nung, có niên đại từ TK 5, là các tượng người, là đàn ông hoặc phụ nữ, chủ yếu là tác phẩm bán thân và đôi khi được bao quanh bởi những vầng hào quang (Fig. 9.3). Chúng mang một số chi tiết với điêu khắc Gupta niên đại TK 4 và TK 5, và đã được tìm thấy ở Khánh Hòa (Nha Trang), Phú Yên (Củng Sơn, gần Tuy Hòa), Bình Định (Thần Tài Lộc, gần Nhơn Lộc) và Quảng Nam (An My và Phu Ninh, gần Tam Kỳ, Hậu Xá, gần Hội An, và Trà Kiệu). Đây là những tác phẩm điêu khắc đầu tiên đồng đại với những bia ký đầu tiên. Chúng thể hiện tín ngưỡng của một xã hội đã có cấu trúc rõ ràng. Hình 9.3. Điểm tìm thấy một số điêu khắc sơ khai Những tác phẩm điêu khắc này đã làm rõ một số khía cạnh của các thể chế chính trị đã biết. Chúng phân bố dọc bờ biển từ Quảng Trị đến Khánh Hòa trên vùng đất thấp và xung quanh vùng cửa sông. Phong cách từng vùng có thể được thấy rõ trong các tác phẩm điêu khắc. Chúng cho thấy sự xuất hiện của các giáo phái địa phương mà trong đó các vị thần không tuân theo những hình mẫu của Ấn Độ. Quốc vương của Xitu: Bhadravarman Những bia ký đầu tiên bằng tiếng Phạn và Chăm xuất hiện vào cuối TK 5 tại lưu vực sông Thu Bồn – khu vực được gọi là Xitu/Tây Đồ bởi người Trung Quốc. Vị vua được gọi bằng cái tên Bhadravarman là người thủ mưu, nhưng chúng ta lại biết rất ít về ông. Không ai biết đến cách thức gia nhập của ông vào cung điện hoàng gia, nhưng có thể ông đã đến từ Phù Nam và tự xưng mình là người cai trị của lưu vực sông Thu Bồn. Trà Kiệu đã cho thấy nhiều vết tích có ảnh hưởng đáng kể từ Trung Quốc trong TK 2 và TK 3. (địa điểm Hoàn Châu, Yamagata 2010: 91-4), nhưng chúng ta cũng đã tìm thấy kendi từ Phù Nam[7], giống như những cái đã biết từ Óc Eo (Yamagata 2010: 9bv1). Vùng đất này đã liên tục được chiếm cư giữa TK3 và TK5 với ảnh hưởng từ Trung Quốc nhưng ảnh hưởng từ Ấn Độ thì vẫn chưa bắt đầu. Sau đó, có một người tị nạn đến từ Phù Nam tên là Jiu Chouluo, người “hợp tác với phiến quân, chinh phục Lâm Ấp và tự xưng là quốc vương” (Pelliot 1903: 258-9). Một số sử liệu đã chứng thực câu chuyện về một kẻ soán ngôi đã giết chết người đứng đầu ngự trị một địa phương và nắm quyền bằng sự xảo quyệt và vũ lực. Với việc đặt tên gọi Bhadravarman, ông đã xây dựng Tây Đồ và đã đưa vương quốc này lên vũ đài lịch sử (Fig.9.4). Hình 9.4 Bhadravarman đã tự giới thiệu về mình như một “vị vua vĩ đại của Dharma” (dharmmamahārāja). Tất cả các bia ký (trừ một cái) của ông đã được tìm thấy tại Mỹ Sơn và Trà Kiệu và những văn bia tiếng Phạn tạo lập việc thờ cúng Bhadreshvara ở Mỹ Sơn (C.72; Finot 1902: 187-90) và xác định một lãnh thổ dành riêng cho vị thần (C.105 ở Hòn Cụt và C.147 ở Chiêm Sơn; Finot 1902; 186-7, 1918: 13-4). Bia ký C.174, viết bằng tiếng Chăm ở Đông Yên Châu cách 1km về phía Tây Trà Kiệu, điều này đã làm nên sự tôn thờ “naga thần thánh” của quốc vương, là rất khác biệt. Bia ký này có thể có sự liên kết với các tác phẩm điêu khắc người đàn ông ngồi dưới naga đã được tìm thấy ở đền tháp Mỹ Sơn A1, và từ đó có thể thừa nhận một thờ cúng địa phương dành cho thần thánh, Người đứng đầu thế giới thủy cung. Bia ký cuối cùng của Bhadravarman là C.41 tại Chợ Dinh, Phú Yên. Đó là minh chứng về sự cúng tế, vật tế thần cho thần thánh ở Mỹ Sơn, Bhadresvara (Finot 1902: 185-6). Chúng ta có thể hỏi phải chăng bia ký này viết bởi một kẻ đào ngũ người Phù Nam trở thành “vua của Lâm Ấp” đánh dấu mối quan hệ thương mại giữa các vương quốc của Xitu/Tây Đồ và một vương quốc trong tỉnh Phú Yên hiện nay. Sự tồn tại của thực thể chính trị ở Phú Yên có thể giải thích qua việc tìm thấy tượng điêu khắc bán thân tại Củng Sơn, cạnh Tuy Hoà, cũng như việc tìm thấy bia ký của Chợ Dinh có nói đến quan hệ giữa hai “vương quốc” giữa cuối TK 5 và đầu TK 6. Như vậy, theo các sử liệu của Trung Quốc, hậu duệ của dòng dõi địa phương (Vua Wen Di đối với Trung Quốc, và vua Manorathavarman trong bia ký C.96 A III) đã bị ám sát bởi một kẻ soán ngôi năm 490 CN, tự xưng là “quốc vương của Lâm Ấp”, và được thừa nhận bởi triều đình Trung Quốc trong năm AD 491. Đây lại là Bhadravarman, người đã hợp pháp hoá chính thể bản địa (Xitu/Tây Đồ?) bằng cách tôn thờ Bhadresvara, một hình tượng nhân từ của Siva. Một hậu duệ trực tiếp của Bhadravarman đã đổi mới quan hệ thương mại với Trung Quốc trong những năm 526-7 CN. TK 6: Nguồn gốc của “Chămpa” tại Mỹ Sơn Việc Lâm Ấp bị đánh bại trong năm 446 CN đã dẫn đến sự phân bố lại quyền lực ở khu vực. Sự thiếu vắng của một thể chế mạnh đã tạo cơ hội cho Bhadravarman can thiệp và tái khởi động nơi buôn bán trên sông Thu Bồn. Ông đã ám sát “vua của Lâm Ấp” bởi người Trung Quốc đã xác nhận ông là dòng dõi thực sự của Manorathavarman, đến từ Huế, ngay cả khi căn cứ là ở Xitu. Điều này dường như đã được khẳng định vào năm 530, khi hậu duệ của Wen Di / Manorathavarman được thừa nhận là “vua của Lâm Ấp”. Đó là Vua Rudravarman, người đã nhiều lần cố gắng chiếm lại các vùng lãnh thổ bị mất của Lâm Ấp từ một căn cứ ở Xitu. Vào năm 543, “vua của Lâm Ấp”, Rudravarman (Lütuoluobamo; Pelliot 1904. 384, fn.6) đã tìm cách khai thác các xung đột giữa Trung Quốc và Việt. Ông đã tấn công biên giới tướng Sino-Viet Pham Tu (Liang shu, Annals section) và khôi phục lãnh thổ của Lâm Ấp ở khu vực Huế (Nguyen The Anh 1990: 9). Rudravarman được xác định trong trong bia ký C.96 (Finot 1904: 918-25) như là “cháu ngoại” của vua Manorathavarman. Ở triều đại của ông, ngôi đền của Bhadresvara ở Mỹ Sơn đã bị thiêu rụi hoàn toàn (C.73 A I. 3-4). Vị thần được Bhadravarman đưa lên đầu tiên là thần lãnh thổ (Mus 1933) và do đó không thể biến mất. Để tránh trở thành một vật tượng trưng của dòng dõi Bhadravarman, vị thần đã được tái dựng lên và đổi tên thành thần hộ mệnh của nhóm người bản địa tại Tây Đồ, mà người Trung Quốc gọi là “đất nước của (người hộ mệnh) người Chăm”. Người kế vị ngai vàng Hoàng đế Rudravarman, có lẽ là con trai ông, lên ngôi với danh hiệu Sambhuvarman (C.73 A I.10) và xây dựng lại đền thờ Bhadresvara ở Mỹ Sơn, tái dựng lại vị thần Sambhubhadresvara (C.73 A I.19) vào năm AD 557. Vị thần Sambhubhadresvara là một Siva, “người đã mang đến sự thịnh vượng cho đất nước Chăm” (Campādeśa). Cam-pa/pā, tên nguyên bản có nghĩa là đất nước của “người, hộ mệnh cho người Chăm”, là một dạng ân đức của Siva. Khái niệm “đất nước của người, hộ mệnh cho người Chăm” đã đưa ra ánh sáng tên gọi của một nhóm tộc người, “người Chăm”, trong cùng một cách với Trung Quốc đã dùng để chỉ định lãnh thổ xa hơn về phía Bắc của Lâm Ấp, “thành phố của người Lin (người Lâm Ấp)”. Vì thế, người bảo vệ - thần Bhadresvara lần đầu tiên có sự ràng buộc với cư dân được xác định là “Chăm” trong “đất nước của người Chăm” vào cuối TK 6. Cư dân này định cư tại Thu Bồn, nhưng trong một khu vực được người Trung Quốc gọi là Xitu/ Tây Đồ và được cai trị bởi “vua của Lâm Ấp”. TK 7 và “Quốc vương Chămpa” Đầu tiên Con trai cả của Sambhuvarman, được gọi Kandarpadharma trong bia ký (C.96 VII, Mỹ Sơn), là người kế vị cha mình. Chưa có thông tin chính xác về niên đại trị vì của ông nhưng dường như ông đã được hưởng lợi từ các xung đột chính trị giữa miền Nam Trung Quốc và Sông Hồng (Wang Gungwu 1958: 62), gia tăng thương mại và thậm chí là cướp biển. Sự thật là, ông đã khiêu khích một chiến dịch quân sự của hoàng đế Trung Quốc nhà Sui vào năm 604 CN (Sui shu, 53 on Linyi) Vào năm AD 605, theo Sino-Viet (tư liệu Hán Nôm) (Nguyen The Anh 1990: 9-10), có một cuộc chiến đã xảy ra giữa quyền lực Sino-Việt và của vua Fan Fanzhi, “vua của Lâm Ấp”. Các cuộc đối đầu đã diễn ra tại tỉnh Quảng Bình, không quá xa Ba Đồn. Một vị tướng của Sino-Việt tên Liu Fang/Lưu Phương đã đưa quân của ông ta đến sông Gianh, tiến đến Huế, tiến lên đèo Hải Vân và trong vòng 8 ngày đã đánh chiếm “kinh đô của Lâm Ấp”. Ông đã mang theo những chiến lợi phẩm bao gồm các tài liệu mà hoàng gia lưu trữ và một thư viện bao gồm 1350 văn kiện Phật giáo bằng “ngôn ngữ kunlun” (có thể là Sơ Cham: Wang Gungwu 1958: 64, fn.12) và “18 tấm bài vị bằng vàng của những quốc vương Lâm Ấp xưa” (Wang Gungwu 1958: 64). Tình hình ở phía Nam của “trụ đồng” của đèo Hải Vân, có lẽ là Trà Kiệu, là không rõ ràng, nhưng những dấu hiệu của việc chiếm cư ngọn đồi liền kề Bửu Châu đã biến mất vào thời điểm này. Fan Fanzhi được cho là đã bỏ chạy, nhưng một chút ánh sáng đã rọi vào những năm tháng đen tối thời đó cho đến khi triều đại nhà Đường được thành lập vào năm 618 CN. Sau đó, các sứ đoàn từ Lâm Ấp và Chenla/Chân Lạp đã được ghi nhận vào năm những năm 623, 625 và 628 CN (Jiu Tang shu, phần 197). Các sứ đoàn đã được Fan Fanzhi gửi đi, ông cũng là người đã xây dựng lại kinh đô sau khi nó bị phá hủy vào năm AD 605. Tấm bia C.111 (Huber 1905) do Hoàng đế Kandarpadharma (“người có Luật của Kama”) dựng ở Thừa Thiên – Huế hiến tặng cho vị thần Kandarparpuresvara, i.e., vị thần của Kandarpapura (“thành phố {nơi Siva thiêu rụi} Kama”). Thành phố của Kandarpadharma, tất nhiên, được gọi là Kandarpapura và có thể cũng nằm ở phía Tây Nam cố đô Huế trên lãnh thổ Lâm Ấp. Kandarpadharman (xem phả hệ, Fig 9.5) là vị vua đầu tiên được đặt là “chúa tể của Champa” (campeśvara in C.111) và “Chúa tể của vùng đất Champa” (campāpṛthivībhujaś C.73 A I.12) và được ca ngợi vì đã “bảo vệ vùng đất của mình” (C.96 A VIII). Do đó có thể tập hợp các dữ liệu khảo cổ và sử liệu bởi một yêu cầu tái lập lại dòng dõi của các vua Xitu (từ lưu vực sông Thu Bồn) tại lãnh thổ của Lâm Ấp, mà có lẽ đã bị suy yếu dần bởi những cuộc tấn công từ Trung Quốc. Vị vua này từ “đất nước Champa” (Campādeśa) được mô tả như “vua của Lâm Ấp” phải được trả lại cho đất nước của Lin, có lẽ ở sự mời mọc của họ. Những người Lin có thể sẽ cảm thấy sự cần thiết trong việc tìm kiếm đồng minh trong số các nước láng giềng xung quanh, trong trường hợp tiếp tục có sự tấn công từ phía Bắc. Đó có thể là một dòng họ có nguồn gốc từ khu vực này còn tồn tại trên vùng đất màu mỡ của Gio Linh. Hình 9.5. Phả hệ của dòng Gandesvara Hầu hết trong TK 7I, Lâm Ấp (Hình 9.6) vẫn thường xuyên duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại với nhà Đường – những chuyến đi sứ thường xuyên từ năm 623 đến 684 CN. Chúng tôi cũng biết rằng vị vua mới của Lâm Ấp được gọi là “Fan Touli” đã lên nắm quyền vào năm 630 CN, trong khi người kế thừa của Kandarpadharma có tên Prabhāśadharma trong bia ký Chăm. Do đó có thể suy luận rằng thủ đô mới Kandarpadharma của Kandarpapura ở đất nước của người Lin đã được thiết lập vào khoảng thời gian giữa các cuộc tấn công của Trung Quốc vào năm 605 CN và khi triều đại của ông kết thúc vào năm 630 CN. Hình 9.6. Bản đồ phân bố những địa điểm thế kỷ 7 Vị Hoàng đế tiếp theo lên nắm quyền vào năm 640 CN có tên gọi là “Fan Zhenlong” trong các sử liệu Trung Quốc, trong đó cũng nói rằng ông đã bị ám sát bởi một tướng quân của mình trong năm 645 CN. Mặc dù vậy, trong bia ký C96 (mặt A st. XIII – XIV), dòng dõi của quốc vương Bhadresvaravarman đã bị gián đoạn bởi vị tể tướng khi đó đã ra lệnh cho “tất cả con cháu nam” trong dòng họ phải chết. Tuy nhiên một người cháu của nhà vua đã cố gắng thoát khỏi cái chết, và ẩn náu tại Bhavapura (Sambor Prei Kuk) ở Chenla/Chân Lạp, vương quốc đã tách ra từ Phù Nam từ nửa sau TK 6 (C.96 A, st.XV). Trong khi lưu vong, vị hoàng tử này, Jagaddharma, đã lấy Śarvānī, con gái của người sáng lập Chân Lạp, Quốc vương Īśānavarman (C.96, st.XXIII), và đã sinh ra một người con trai tên Prakāśādharma. Các sử liệu của Trung Quốc đã chép rằng quyền lực của Hoàng gia khi đó đã được trao cho Prabhāśadharma, con trai của Fan Touli, sau cuộc khủng hoảng năm 645 CN. Họ cũng ghi chép lại rằng Vua Zhugedi – người bị đày ải là con trai của một người cô bên nội của Fan Touli và có thể là cháu của Kandarpadharma (con trai của chị gái ông ta) và là anh em họ của Prabhāśadharma. Chị gái của Kandarpadharma được cho là đã kết hôn với một vị vua gần đó mà kinh đô đã được để giữ chỗ cho con trai họ là Jagaddharma, khi lưu vong trở về, cùng với cháu của họ Prakāśādharma. Tôi cho rằng có một mối quan hệ giữa các khu vực của Quảng Trị hiện nay, nơi chốn của người Lin, và người Khmers (Phù Nam đầu Chân Lạp từ TK 2 đến TK 6). Trong khi Prakāśādharma, là hậu duệ của dòng dõi địa phương, con trai của Jagaddharma và cháu của Kandarpadharma đã tuyên bố lên ngai vàng của Lâm Ấp vào những năm 650, lãnh thổ của gia đình ông đã cho phép ông quyền làm như vậy. Nhưng nếu con gái của Kandarpadharma kết hôn với Vaishinava – vua nước láng giềng ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, thì có thể cha mẹ của Prakāśādharma đã trị vì tại kinh đô đó, mà sau này được gọi là Viṣṇupura. Vaishnavism (Visnu giáo), tôn giáo của Chân Lạp, chỉ phát triển ở Quảng Trị. Vào năm 658 CN, Prakāśādharma đã lấy danh hiệu “Vị hoàng đế vĩ đại, Chúa tể của Campapura” (mahārāja Campāpuraparameśvara trong C.96 B, I.13). Trong bia ký C.96 tại Mỹ Sơn, khi ông lấy tên hiệu triều Vikrāntavarman tại buổi lễ lên ngôi của mình, chúng tôi đã tìm thấy toàn bộ gia phả của ông. Tại Trà Kiệu, ông đã tôn vinh những ký ức về Kandarpadharma, tổ tiên của ông (C.137 ở Trà Kiệu và C.73 ở Mỹ Sơn; Huber 1911a: 262-4) với việc xây dựng hai ngôi đền thờ Visnu. Mỹ Sơn sau đó là trung tâm của sự tôn kính thần hộ mệnh bảo vệ đất nước và Trà Kiệu, và cùng với các trung tâm chính trị liên kết và hợp thành trung tâm của Xitu/Tây Đồ, nơi vẫn bị người Trung Quốc gọi nhầm thành Lâm Ấp. Sau các sự kiện của những năm đầu TK 7, vị trí của ngọn đồi Bửu Châu ở Trà Kiệu không được chiếm lại và có một ngọn đồi khác đã được lựa chọn, mà Jean-Yves Clayeys đã xác định là các điểm A và B. Thậm chí thú vị hơn là những bằng chứng từ Kandarpapura, trung tâm chính của vương quốc của vua Kandarpadharma ở Thừa Thiên – Huế và tỉnh Quảng Trị. Ở đây chúng tôi đã thấy sự di chuyển chủ ý địa điểm kinh đô và sự hồi phục của vùng lãnh thổ đó đã cho phép Prakāśādharma gọi mình là “vua của các vị vua”; cha của ông là Jagaddharma là hậu duệ của Lin và mẹ ông là người Chăm. Sự kiện rằng đất nước của người Chăm được nhắc trong những văn liệu Chăm (C.96 năm 658) và Khmer (K.53 năm 667) trong khi việc sử dụng tiếp tục “Lâm Ấp” tiếng Trung Quốc có thể được giải thích bởi hành động của Prakāśādharma thống nhất các vùng lãnh thổ dưới sự cai trị của ông. “Chăm” trở nên chiếm lợi thế trong bia ký, nhờ vào ánh hào quang bởi vị thần hộ mệnh của Mỹ Sơn và dòng dõi mà ông bảo vệ. Khái niệm/kiểu thể hiện “đất nước của người bảo hộ người Chăm” (Campāpura hay Campānagara) tập hợp thể chế chính trị, một nhóm tộc người và một vị thần bảo hộ. Bất kỳ vị vua nào muốn thiết lập quyền lực của mình cũng phải đặt mình dưới sự hộ mệnh của vị thần Mỹ Sơn, như quốc vương Kandarpadharma, “Chúa tể của Champa” (Campeśvara) khi ông thành lập Kandarpura vượt ra bên ngoài lãnh thổ Xitu (Tây Đồ/Tây Đô). Tầm quan trọng của Tỉnh Quảng Trị hiện nay Chúng tôi chỉ có bằng chứng gián tiếp về sự chiếm giữ lâu dài vùng đất Quảng Trị và vị trí của Quảng Trị trong thế giới Chăm. Từ TK 6, chúng ta có thể so sánh các bằng chứng về khảo cổ học và cổ tự với các sử liệu của Trung Quốc và xác định sự tồn tại của một vùng lãnh thổ có tên gọi là Lâm Ấp, cái nôi của dòng dõi sơ –chăm xác thực (hình 9.7) Hình 9.7. Những địa điểm Vaishnava ở tỉnh Quảng Trị, thế kỷ 10 Một chiếc bình tinh xảo (purṇagātha)[8] đã được tìm thấy tại Đa Nghi-Nhan Biều, Quảng Trị, mà Thierry Zephir (2005:179) định niên đại vào khoảng TK 6. Được trang trí với những biểu tượng của màu mỡ và dư dả. Những thứ khác đã được tìm thấy ở dọc bờ biển, đồng thời chứng tỏ việc chiếm đóng các vùng đất. Các trung tâm sản xuất của Gio Linh và Vĩnh Linh đã liên kết với nhau để giao dịch tại các vùng cửa sống và các tuyến đường núi mang trong mình những lâm sản quý hiếm (Bronson 1977; Miksic 2009). Các trung tâm đã tích lũy sự giàu có là kinh đô- thành luỹ Đa Nghi – Nhan Biều. Vào TK 7, tỉnh Quảng Trị đã cho thấy một số bằng chứng cho thấy dấu vết Vaishnava có quan hệ với Zhenla/Chenla/Chân Lạp. Một pho tượng Visnu đã được tìm thấy ở làng Đa Nghi – Nhan Biều (Chronique BEFEO 1916: 97-8; 1917: 45-6), đó là “nhân chứng duy nhất cho kỹ thuật nguyên khởi” (Boisselier 1963: 55-7, fig.22). Bên kia sông là vị trí của Thạch Hãn, nơi mà một bức tượng cao lớn đã được tìm thấy từ một thánh địa mà có sự khác biệt rõ rệt so với kalan thông thường (Boisselier 1963: 59-60). Về phía Nam của Thừa Thiên – Huế, một chiếc trống với hình tượng Vaishnava đã được tìm thấy trong đền tháp Mỹ Xuyên. Bia ký muộn hơn đã chỉ ra rằng có một thành lũy và thị trấn được gọi là Viṣṇupura (C.142 Hoa Quê, Huber 1911b: 299-311) hay Trivakramapura (C.149 Nhan Biều, Huber 1911b: 299–311) ở Cổ Thành gần Nhan Biều/Đa Nghi. Khu vực này là cái nôi của một dòng dõi hoàng gia và một nhóm các chỉ số chứng minh cho tầm quan trọng của mình vào đầu TK 10. Trong vùng đất Gio Linh màu mỡ, chúng tôi đã tìm thấy bia ký AD 916, C.113 của Hà Trung tại Navap (Huber 1911b: 298-9). Trong một ngôi đền dành riêng cho Indrakanteśvara, một ngẫu tượng linga (pratimaliṅga) đứng ở trên một bệ tượng lớn (Baptise 2005: 115-6). Bức tượng này do Nữ hoàng Tribhuvanadevi dâng hiến, bà là góa phụ của Quốc vương Jaya Simhavarman của Indrapura, anh trai bà là người tự xưng “vua của các vị vua” và bản thân bà là người rất được kính trọng trong dòng dõi Vṛddhakula (Schweyer 2006: 154, fn.201). Những dòng cuối của bia ký đã cung cấp chi tiết các vùng đất hiến tặng và, lần duy nhất đối với văn bia Chăm, cho thấy rằng đây là mặt bằng tương xứng với địa hình rất đặc biệt của Gio Linh. Chúng ta được nghe về những dải đất mặn, một trong số đó xuôi xuống “vùng cát của biển lớn”, vùng đất thấp cần được làm lại và vùng đất cao hơn sẽ là nơi trồng trọt mới. Nữ hoàng Tribhuvanadevi đã thừa hưởng đất đai từ mẹ mình kế thừa từ dòng dõi Viṣṇupura / Trivikramapura. Vào TK 10, sự đồng hóa của các nhóm xã hội khác nhau được hình thành dọc theo bờ biển trong thời kỳ sơ sử đã xảy ra. Đến thời điểm này, dòng dõi đã hoàn toàn trở thành quan hệ chính trị và không còn thêm hàm súc tộc người. Người Chăm đã chiếm ưu thế. Kết luận: Sự tiến hóa của Chămpa. Vào năm 749, Quốc vương Rudravarman đã gửi cống vật cho Trung Quốc. Sau đó trong các sử liệu của Trung Quốc không còn nhắc tới Lâm Ấp. Từ năm AD 757 to 859, sử liệu Trung Quốc đã sử dụng cụm từ Houan Wang (Hoàn Vương) (“circle of kings) để miêu tả các vương quốc ven biển có điểm cực Bắc là sông Gianh trên biên giới Đại Việt – chính xác như Lâm Ấp ở TK 4 (Stein 1947: 80). Sau đó các vương quốc Mendu (chưa xác định được) và Guda (Kauṭhāra và Nha Trang) xuất hiện. “Lãnh thổ” của Bentuolang, “một ngày trên con thuyền đi xa” bao gồm Pāṇḍuraṅga, xung quanh Phan Rang, không được coi là “Chăm” (Schweyer 2009: 18-9). Trong vương quốc Guda/ Kauṭhāra, các nhà vua đều tự gọi mình là vua “của đất nước Chăm” (campāpura parameśvara) (Schweyer 2009: 18,22). Sau năm 859 CN, sử liệu Trung Quốc sử dụng từ Zhan Cheng (Chiêm Thành), có nghĩa là “thành phố của Chăm”, phiên âm từ Campānagara hoặc Campāpura cũng được tìm thấy trong bia ký. Thuật ngữ mới này đã gây ấn tượng cho một địa phương thống nhất và một tộc Chăm duy nhất. Với sự thay đổi của thuật ngữ thành Zhen Chang “thành phố của người Chăm”, những người Trung Quốc sau một thời gian dài gọi Lâm Ấp “thành phố của người Lin”, cuối cùng đã công nhận một nhóm Huế-Quảng Trị như một sự ưu thế Chăm. Các “thành phố” (pura) phát triển mạnh mẽ trở lại từ TK 11 nhưng những nhà vua vẫn tự gọi họ là “Chăm” cho dù lãnh thổ của họ là ở đâu đi chăng nữa. Do đó, đất nước của người Chăm đã thực sự tồn tại từ TK 9 không chỉ dựa trên một cơ sở lãnh thổ mà còn là một thực thể xã hội riêng biệt và phát triển lớn mạnh. Nguồn: Anne-Valerie Schweyer 2010, The Birth of Champa in trong Conneting Empires and States, Selected Papers from the 13th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Volume 2, Edited by Dominik Bonatz, Andreas Reinecke & Mai Lin Tjoa-Bonatz, NUS Press, National University of Singapore: 102-118 [1] Chăm là dịch từ từ Cham trong bản tiếng Anh, chỉ cư dân của vương quốc Chămpa trong lịch sử, không phải chỉ người Chăm hiện nay (Lâm Thị Mỹ Dung) [2] Thương mại đường dài (long-distance trade) mà trong trường hợp miền Trung Việt Nam đã phát triển trong thời kỳ cuối của văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá khảo cổ sơ kỳ thời đại đồ sắt, thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN, hàng hoá từ Trung Quốc và Ấn Độ và một số vùng xa hơn đã được tìm thấy trong cá khu mộ táng và khu cư trú của cư dân Sa Huỳnh, mối quan hệ thương mại với Trung Quốc trong thời kỳ đầu của Chămpa là sự tiếp nối và tăng cưòng từ thời kỳ Sa Huỳnh với một số điểm đáng lưu ý, thời kỳ Sa Huỳnh thương mại chưa gắn với chính trị và tư tưởng như thời kỳ Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung). [3] Kết quả nghiên cứu mới nhất về Thành Lồi và khu vực Huế xem thêm Lâm Thị Mỹ Dung, Miền Trung Việt Nam thời kỳ hình thành nhà nước sớm qua nghiên cứu phân bố và tính chất của các địa điểm khảo cổ học, in trong Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội, sô 1 (10/2015): 1-15) http://dzunglam.blogspot.com/2015/11/mien-trung-viet-nam-thoi-ky-hinh-thanh.html [4] Cho đến nay vấn đề niên đại và chủ nhân dựng lên những công trình khai thác nước ở vùng đất đỏ Gio Linh, Vĩnh Linh vẫn còn rất nhiều tranh luận và những chứng cứ khảo cổ học rất thiếu hụt để có thể khẳng định một cách chắc chắn. Mặc dù các nhà nghiên cứu thiên về chủ nhân là người Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung Các công trình khai thác nước dùng đá xếp ở Quảng Trị phần I, II, III, http://dzunglam.blogspot.com/2011/03/cac-cong-trinh-khai-thac-nuoc-dung-xep.html.....), nhưng niên đại khởi dựng không thể xác định chính xác. [5] Thực ra ở đây Colani đã không phân biệt trật tự niên đại giữa tục thờ Tiền hiền của người Việt (sau này) với sự hình thành các hệ thống thuỷ lợi bằng đá xếp (được cho là của cư dân Chămpa hay sớm hơn Chămpa), bà Anne Valerie dùng tài liệu của các học giả Pháp mà không cập nhật những nghiên cứu từ sau nửa sau của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 (Lâm Thị Mỹ Dung) [6] Trên thực tế, “dàng hay giàng” cũng dùng để chỉ những dấu tích đền tháp Chămpa (Lâm Thị Mỹ Dung) [7] Tài liệu khảo cổ học từ các địa điểm Chămpa sớm (khoảng TK 3,4 về sau) và Chămpa sau thế kỷ 5 cung cấp một khối lượng khổng lồ mảnh của loại hình kendi (bình có vòi không quai dùng trong nghi lễ và đời thường). Kendi có nhiều khả năng có nguyên mẫu từ Ấn Độ và đã được đưa vào Đông Nam Á cùng lúc với quá trình truyền bá Hindu giáo và Phật Giáo, kendi ở Trà kiệu và ở những địa điểm Chămpa khác ở Miền Trung Việt Nam đa phần được sản xuất tại chỗ, những tương đồng trong loại hình gốm này giữa Phù Nam (Óc Eo) và Chămpa không nên được diễn giải theo kiểu cư dân Chămpa nhập hàng từ Phù Nam (Óc Eo) một cách khiên cưỡng và tư biện như trên (Lâm Thị Mỹ Dung). [8] Một kiểu bình Kendi, có nguyên mẫu từ Kundika Ấn Độ, thường dùng trong nghi lễ và rất phổ biến (bằng đất nung) trong các địa điểm Chămpa (từ sau thế kỷ 3) và Óc Eo, trong các sưu tập tư nhân và trưng bày bảo tàng loại Kendi bằng kim loại cũng rất nhiều (Lâm Thị Mỹ Dung). P/S. Bình purṇagātha, Đa Nghi, Quảng Trị
  24. Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử ? LTS - Vừa qua, bạn đọc cả nước xôn xao trước loạt bài “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” của tác giả Hoàng Hải Vân đăng trên báo Thanh niên số ra từ 26-2 đến 5-3-2008. Để dư luận hiểu rõ hơn về những vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc và khoa học lịch sử, báo Hànộimới xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á. Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi xin lược bỏ những tên sách chú dẫn trong bài... Với tư cách một người đang nghiên cứu về thời kỳ tiền sử và tiền sử muộn của Việt Nam và Đông Nam á, tôi cũng đã quan tâm khảo cứu về những thời kỳ lịch sử nước nhà có liên quan đến một số nhận xét của thiền sư Lê Mạnh Thát từ cách đây trên 45 năm, mà nhà báo Hoàng Hải Vân vừa khơi lại. 1- Lạc Việt, Tây Âu và nước Nam Việt “Việt” được ghi trong các văn tự nước ngoài là “Yue” bắt đầu được nhắc đến nhiều trong thư tịch Trung Quốc vào khoảng thời Xuân Thu, khi mà quá trình vận động kết tinh của các xã hội thời kỳ hậu bộ lạc của người Hoa Hạ sống ở vùng trung, hạ lưu sông Hoàng Hà đã tương đối ổn định, một khối Hoa Hạ tương đối chặt chẽ về văn hóa, chữ viết, chính trị đã hình thành với mô hình Nhà Chu (Thiên tử) và các tiểu quốc chư hầu thần thuộc. Từ đó các xã hội ngoài thế giới Hoa Hạ đó được tăng cường ghi chép mô tả trong xu hướng mở rộng bang giao với các nước láng giềng. Mối bang giao với Việt Nam hiện có bằng chứng chính thức từ khoảng 3500 năm cách ngày nay với việc khai quật được những chiếc “nha chương” – hiện vật bằng đá, biểu tượng quyền uy thời Thương Chu bên Trung Quốc, tại Xóm Rền, Phùng Nguyên (Phú Thọ). Khi đó, cả một khối cư dân lớn, gồm nhiều tộc người khác nhau, sống ở phía Nam khu vực phân bố những người tộc Hoa Hạ được ghi chép chung chung là Yue mà chúng ta hay dịch là Việt. Tôi xin kể ra đây một câu chuyện nhằm để phân biệt quan niệm khác nhau của Yuê và Việt về thuật từ khoa học. Năm 2002, trong một hội thảo ở Malaysia nhan đề “Văn hóa Đông Sơn và Truyền thống Đông Sơn”, đến phiên tôi tham gia chủ tịch đoàn, diễn ra tranh luận giữa Giáo sư Surin Pokajorn của một trường ĐH Thái Lan với Giáo sư Diệp Đình Hoa, đại biểu Trung tâm Tiền sử Đông Nam á Việt Nam. Gs.Pokajorn không thống nhất quan điểm dùng chữ “Việt” cho chủ nhân văn hóa Đông Sơn của Gs. Diệp. Nhưng khi tôi đưa ra thuật từ Yuê thì mọi người lại nhất trí ngay. Trong quan niệm của vị giáo sư người Thái kia, cũng giống nhiều nhà nghiên cứu khác, trong thuật ngữ Yuê bao hàm cả tổ tiên các nhóm tộc Nam Trung Quốc khác nữa, như Dai (Tày, Thái, Choang, Đồng...), Hmông, Dao và các nhóm Việt khác, mà người Việt hiện nay chỉ là một trong số đó. Vì thế, sau này mới có Bách Việt. Bách không phải là con số tròn 100, mà là một quan niệm chỉ số nhiều, tương tự “Vườn Bách Thảo, vườn Bách Thú” vậy. Và vào thời đại trống đồng Đông Sơn, tổ tiên người Thái Lan hiện nay cũng dùng trống. Việt hiện nay trở thành thuật từ ám chỉ những cộng đồng người hiện đại : Thái (chủ yếu ở Thái Lan), Choang (chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây - Trung Quốc), Việt (chủ yếu ở Việt Nam)... Vào cuối thời Xuân Thu, tại khu vực ngoài Hoa Hạ xuất hiện ba tiểu quốc khác Hoa Hạ là Sở, Ngô và Việt, ở trung và hạ lưu sông Trường Giang hiện nay. Sử sách từ đó bắt đầu xuất hiện những loại từ để phân biệt các nhóm Việt khác với những người Yuê đã lập quốc, ví dụ Đông Âu, Mân Việt ở phía Nam nước Việt (Câu Tiễn), vùng Phúc Kiến hiện nay, Âu Việt chỉ những nhóm Yuê ở quanh vùng Ngũ Lĩnh nói chung (thậm chí cả đảo Hải Nam), Lạc Việt chỉ khối Yuê sống ở Nam, Đông Nam Ngũ Lĩnh, bao gồm Lưỡng Quảng, bắc Việt Nam (Ngũ Lĩnh là dải núi cao hiểm trở ngăn giữa vùng Hồ Nam, Tứ Xuyên với vùng Lưỡng Quảng, có ý nghĩa quan trọng làm thành ranh giới tự nhiên của các tộc người và quốc gia cổ đại Nam Trung Quốc). Tùy vào từng tác giả ở từng địa vực khác nhau mà những khái niệm chỉ tên phụ loài tộc Yuê cũng khác nhau. Ví dụ từ Yang Yue (Dương Việt) hàm chỉ một khối Việt chung rất lớn gồm từ hồ Động Đình tới Ngũ Lĩnh. Sự thâm nhập trực tiếp của người Hoa Hạ vào khu vực Lạc Việt diễn ra rõ rệt nhất vào thời Tần (Thủy Hoàng), cuối thế kỷ III trước Công nguyên. Tuy nhiên cố gắng lớn nhất của Tần Thủy Hoàng chỉ là lập được một tuyến quận huyện Tần từ Trường Sa đến Nam Hải, tức là chinh phục được các nhóm Yuê ở Bắc ( một phần Âu Việt) và Nam Ngũ Lĩnh (một phần Lạc Việt) (Hồ Nam, Quế Lâm, Quảng Đông, Quảng Tây), lập thành quận Nam Hải. Các nhóm Yuê ở phía Đông (Đông Âu, Mân Việt) và phía Tây, Tây Nam Ngũ Lĩnh (Tâu Âu), chính là chủ nhân của văn hóa lúa nước và trống đồng Văn Sơn (Vân Nam), Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng nước ta, cũng như toàn bộ phần Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng miền Bắc Việt Nam vẫn ngoài chế độ quận, huyện của nhà Tần. Trong quá trình nhà Tần suy yếu, Hán Sở tranh hùng, Nhâm Ngao (là chủ soái của Triệu Đà) cùng Triệu Đà âm mưu cát cứ để lập một quốc gia riêng của người Yuê ở vùng Nam Hải. Khi Lưu Bang, Hạng Vũ diệt Tần thì Ngao, Đà trở thành tướng lưu vong. Họ đã cùng người Yuê ở Nam Hải lập một quốc gia Yuê riêng, chứ không phải lập một nhà nước Hoa Hạ. Sử liệu thời này đều phản ánh nhiều quốc luật Nam Việt không giống luật Tây Hán. Một phần vì nhóm tướng lĩnh Tần người Hoa Hạ chỉ mới đến đây được chừng mười năm, phần khác họ có ý thức đối lập với Tây Hán, triều đại đã tiêu diệt nhà Tần của họ. Khi khảo sát về các đơn vị đo lường (dung lượng, trọng lượng) thống kê trên các đồ đồng đào được trong các mộ táng thời Nam Việt chúng tôi nhận thấy sự khác biệt khá rõ về dung lượng Nam Việt với đơn vị chính thống Tây Hán. Như vậy, nếu đọc Sử ký của Tư Mã Thiên, chúng ta bắt gặp rất nhiều yếu tố phi Hán, chống Hán của nhiều thành phần thủ lĩnh nước Nam Việt chứ không chỉ riêng Triệu Đà. Bản thân Triệu Đà là người Hoa Hạ (chứ không phải người Hán. Thuật từ “người Hán” đại diện cho giống Hoa Hạ chỉ có giá trị sau khi triều đại người Hoa Hạ của Lưu Bang tồn tại kéo dài khoảng 400 năm) – một dạng người Hoa Hạ mất nước, lưu vong sống chung và sống nhờ vào người Yuê. Ông đã cùng bộ máy quân sự và hành chính quận huyện mất nước đó để cùng các thủ lĩnh người Yuê trong vùng lập ra một quốc gia hơi có màu sắc Hoa Hạ (kiểu Tần) cho người Yuê. Về mặt khảo cổ học, tôi có thể chỉ ra một tỷ lệ rất cao những hiện vật phát hiện trong mộ táng Nam Việt giống các hiện vật trong mộ táng Đông Sơn đào được ở Việt Nam. Ngay trong mộ Triệu Hồ và các phu nhân chôn ở Quảng Châu và mộ một viên quan cao cấp của nước Nam Việt ở La Bạc Loan, huyện Quý (Quảng Tây) cũng mang theo trống đồng, thạp đồng bảo vật của người Yuê. Khảo sát kiểu chữ khắc trên gần một trăm hiện vật đồng khai quật thời Nam Việt, chúng tôi nhận ra một hệ thống chữ Hán khắc kiểu Nam Việt song song tồn tại với kiểu khắc chữ Hán truyền thống. Đa phần chữ Hán khắc kiểu Nam Việt xuất hiện trên các loại hình đồ đồng bản địa. Chữ Hán khắc trên trống Cổ Loa và thạp đồng Đông Sơn trong mộ Triệu Hồ và trên thạp lưu ở Bảo tàng Barbier – Muller (Geneve, Thụy Sĩ) đều thuộc kiểu khắc Nam Việt. Các chuyên gia cổ AND của Trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) khi nghiên cứu AND chủ nhân các mộ táng vùng nước Nam Việt cũ đã nhận ra ưu thế vượt trội của “gen” người Yuê bản địa. Chính Triệu Đà đã lấy vợ người Việt ( quê Đồng Xâm, Thái Bình, nay còn đền thờ bà và Nam Việt Vương họ Triệu đó). Điều này giống tình trạng của những người Minh lưu vong do Trương Ngạn Địch, Trần Thường Xuyên đã sang nước ta cùng chúa Nguyễn xây dựng Tổ quốc mới. Đó là lý do tại sao nhiều sử gia Việt Nam sau này đã coi nhà Triệu là một giai đoạn trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đó cũng là nguyên nhân các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về nước Nam Việt, văn hóa Nam Việt lại đặc biệt quan tâm đến Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng, với những bằng chứng trên, tôi không muốn diễn đạt rằng Việt Nam là một phần của nước Nam Việt, mà trái lại đủ bằng chứng để xác nhận mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Nam Việt với văn hóa Đông Sơn, một quan hệ văn hóa hòa nhập, không đối kháng. Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử ? (tiếp theo) (HNM) - Sau khi đăng bài viết: “Về việc thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động - Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử ?” của TS Nguyễn Việt, chúng tôi nhận được hồi âm của nhiều độc giả muốn biết thêm về những tài liệu, công trình nghiên cứu trích dẫn trong bài. Để có thêm tư liệu tham khảo, độc giả có thể xem thêm các nghiên cứu sau đây: Minh văn chữ Hán sớm nhất (Minh văn trên trống đồng Đông Sơn) của tác giả Nguyễn Việt trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 5-2007; Địa điểm xóm Rền (Phú Thọ) của tác giả Hán Văn Khẩn trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 3-2007 và một số nghiên cứu của Hà Văn Tấn (năm 1987), Diệp Đình Hoa (2005) và Nguyễn Việt (2006). 2- Âu Lạc, Nam Việt, Thành Cổ Loa và An Dương Vương Sử Ký là cuốn sử có độ tin cậy vào loại cao nhất đương thời, trong đó, những thông tin về Triệu Đà, nước Nam Việt được ghi chép nhiều nhất. Tuy nhiên, có hai điểm lưu ý: Thứ nhất, Tư Mã Thiên đi nhiều nhưng chưa từng đặt chân đến Nam Hải. Thứ hai, khoảng thời gian từ thời Triệu Đà đến khi ông hoàn thành cuốn sách cũng xa gần bằng khoảng cách giữa chúng ta với Hoàng Hoa Thám. Điều đó có nghĩa rằng “sử sách” dù thế nào cũng chỉ là tư liệu lịch sử. Thiền sư Lê Mạnh Thát cũng như chúng tôi đều đánh giá rất cao cuốn sử này. Tư Mã Thiên đã nhiều lần nhắc gián tiếp đến Tây Âu, Tây Âu Lạc trong mối quan hệ đến Triệu Đà và nước Nam Việt. Tôi cũng đã dựa vào Tư Mã Thiên để xác định Tây Âu (Vu) như đã viết ở phần trước. Đọc bức thư của Triệu Đà gửi vua Hán, giải thích việc xung đột với Tây Âu ta thấy có một sự việc rõ ràng là có xung đột nhằm thâu tóm Tây Âu và Nam Việt. Dưới sức ép của nhà Tây Hán, thì nước Nam Việt, Tây Âu, Đông Âu, Mân Việt đều là những vùng đất mà nhà Tây Hán chưa đặt được ách thống trị trực tiếp. Vì vậy chúng tôi xem xét quan hệ Nam Việt (thủ lĩnh Triệu Đà) và Tây Âu (thủ lĩnh Thục Phán) là quan hệ giữa các tiểu quốc người Yuê với nhau, chứ không phải là đụng độ trực tiếp của nhà nước Hoa Hạ (Hán) với nhà nước sơ khai Yuê. Trước sức ép của Nam Việt, thủ lĩnh Tây Âu đã sáp nhập với thủ lĩnh Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng sông Hồng. Cuộc sáp nhập này chỉ được lưu ảnh trong truyền thuyết. Chứng cứ văn hóa khảo cổ không phát hiện những biến động văn hóa lớn nào tương tự biến động sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng do Mã Viện và nhà Đông Hán mang lại. Tuy nhiên, hiện tượng mộ táng thân cây khoét rỗng với bộ tùy táng Đông Sơn phảng phất nét văn hóa Yuê kiểu Tứ Xuyên, Vân Nam, Nam Việt xuất hiện khá ồ ạt ở đồng bằng thấp sông Hồng trong khoảng thời gian từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên (đồ sơn then, một số đồ đựng đồng...) gợi ý cho sự gia tăng quan hệ nội bộ người Yuê ở sông Hồng với các văn hóa Yuê ở Nam Trung Quốc. Chúng tôi đang có một giả thuyết công tác: Đó là dấu hiệu vật chất của sự liêm minh Tây Âu - Lạc Việt (phần còn lại của Lạc Việt chưa bị Hoa Hạ tác động trực tiếp – có thể chính là nước Văn Lang trong thư tịch Việt sau này) để lập ra nhà nước Âu Lạc mà thủ lĩnh Tây Âu nắm quyền thủ lĩnh: An Dương Vương. Tôi tán thành quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khi xác nhận truyền thuyết Tày cổ vùng Cao Bằng gắn với Thục Phán An Dương Vương và tiểu quốc Tây Âu. Nhiều nhà ngôn ngữ cũng tìm thấy sự tương đồng giữa Tây Âu và Tây Vu. Sử sách cũng chép thủ lĩnh Tây Vu là con cháu Thục Phán An Dương Vương. Mối quan hệ của họ Thục với “Tục Pắn” hay với văn hóa Ba Thục Tứ Xuyên đã có vài tia sáng thông qua sự xuất hiện nhiều vũ khí và đồ đựng đồng kiểu “Dạ Lang” trong bộ đồ Đông Sơn thế kỷ I-III trước Công nguyên. Chữ Tây Vu còn tìm được trên đồ gốm tùy táng ở Quảng Châu thời Tây Hán và trên trống đồng Đông Sơn đào được ở Cổ Loa bên trong chứa nhiều vũ khí hình tim kiểu lưỡi cày (cũng thường thấy ở Vân Nam, Trung Quốc). Tương tự, khảo cổ học chưa tìm thấy bằng chứng trực tiếp của cuộc đụng độ quân sự Nam Việt - Âu Lạc, nhưng sự gia tăng vũ khí đồng thường dùng (rìu, giáo, dao găm), những cảnh mô tả chiến binh, tù binh, đầu lâu người... từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên trong văn hóa Đông Sơn phản ánh rõ sự gia tăng khả năng đụng độ quân sự đương thời. Việc phát hiện kho hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh (tên chuyên dùng cho nỏ) và nhất là gần đây, khuôn đúc những mũi tên đó cùng lò nấu đồng được phát hiện trong tầng văn hóa thuộc thế kỷ II-III trước Công nguyên ngay trong phạm vi đền thờ An Dương Vương ở thành nội của Cổ Loa mà ít tìm được ở các địa điểm khảo cổ khác, đã làm tăng thêm dữ kiện kết nối truyền thuyết và lịch sử về nước Âu Lạc và An Dương Vương. Mọi việc cũng chưa có thể khẳng định ngay được, nhưng để loại trừ An Dương Vương khỏi lịch sử chỉ bằng những chứng cứ thư tịch mà thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra thì thật vội vàng quá. Tuy nhiên, khảo cổ học còn những hạn chế của nó, chúng ta thực sự chưa tách bạch được những dấu vết văn hóa của khoảng mấy chục năm từ sau khi nước Âu Lạc thất thủ đến khi Nam Việt mất vào tay nhà Tây Hán. Sự hiện diện của Triệu Đà và nước Nam Việt chỉ đọng lại trong hai ngôi đền thờ ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình) và những di vật giống nhau “y hệt” tìm được cả trong mộ Nam Việt ở Lưỡng Quảng lẫn trong mộ Đông Sơn ở đồng bằng sông Hồng. Những bằng chứng khảo cổ học thời Tây Hán thì đã thấy khá nhiều, từ Quảng Nam, Thanh Hóa và rất nhiều ở miền bắc nước ta (gương đồng, đồ đựng rượu và thức ăn, đồ lễ khí, giáo, dao, kiếm đồng, sắt, “can” sắt...). Nhưng ngay tại Cổ Loa, liệu đâu là của những thời thái thú như Nhâm Diên, Tích Quang thì còn là một bài toán khó cho nền khảo cổ học Việt Nam non trẻ. Nhưng trong tình hình hiện nay, con đường tiếp cận khảo cổ học rõ ràng là công cụ để tiến sát đến sự thực lịch sử đáng tin cậy hơn cả. Những tiến bộ trong việc nghiên cứu nhân học hiện đại mở ra triển vọng lần tìm trong các khu mộ táng đương thời những bằng chứng xác nhận chi tiết hơn các vi nhóm loại hình chủng tộc, góp phần giải mã các hiện tượng lịch sử. 3 - Thời Hùng Vương: Vấn đề chữ viết Dù yêu nước thế nào chăng nữa, chúng ta cũng cần rất dè dặt khi nói về thời Hùng Vương. Không phải chỉ nước ta, ngay cả Trung Quốc, nơi chữ viết và sử sách ra đời rất sớm, thời nhà Hạ vẫn là một thời chưa thể rõ ràng và càng không thể viết dễ dàng mô tả về nó. Đó là những thời mà chỉ có tư liệu khảo cổ học mới có thể dần làm sáng tỏ. Những phát hiện gần đây nhất về bộ nha chương và bộ đồ gốm lễ nghi ở Xóm Rền (Phú Thọ) đã thu hút được nhiều sự tán đồng của các nhà nghiên cứu, rằng đây có những yếu tố là nơi ở của thủ lĩnh. Bởi vì nha chương thường được sản xuất ở Trung Quốc dưới thời Thương Chu và dùng nó như một lễ vật biểu trưng cho quyền lực “thiên tử” giao cho sứ giả mang đi thần phục đất chư hầu. Người ta đã thấy nó rải rác trên một vùng rất rộng lớn, từ Tây Vực sang Triều Tiên, Nhật Bản xuống tận Việt Nam. Những nha chương đẹp nhất ở Xóm Rền là thuộc loại đó. Niên đại những nha chương này, như đã nói ở phần trên, ở vào khoảng 3.500 năm. Bằng chứng này, chỉ giúp chúng ta liên tưởng với sự việc mà sách Việt sử lược (đời Trần) có chép đến sự kiện ra đời nước Văn Lang của các vua Hùng: Đời Chu Trang Vương ở bộ Gia Ninh có người giỏi làm yêu thuật áp phục được các bộ khác, lên làm thủ lĩnh lập nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu... Khả năng lần tìm cái lõi của truyền thuyết Hùng Vương bắt đầu hé mở từ những vật chứng thật trong lòng đất Xóm Rền đó. Chúng ta đã khai quật hàng trăm di tích cùng thời và sau đó kéo đến tận khi nước Âu Lạc ra đời. Địa điểm của thủ lĩnh nhà nước Văn Lang huyền thoại đầu tiên có thể là Xóm Rền, nhưng sau đó, từ 3500 năm về sau, thủ lĩnh Văn Lang đi đâu, chúng ta cần tìm kiếm tiếp. Phải chăng là Đồng Đậu (Minh Tân, Vĩnh Phúc) rồi sau đó quay về Làng Cả (Việt Trì). Hiện tại, tất cả đều còn là giả thiết khoa học. Nhưng sự tồn tại thật của chất lửa trong văn hóa Phùng Nguyên đã biến thành màn khói trong huyền thoại vua Hùng (không có lửa sao có khói) là điều chúng ta đã chứng thực từ 50 năm nay. Tuy nhiên vội vã để vẽ cho thời đại này một bộ “Việt Luật” và hệ thống chữ viết để ghi luật và thơ ca (“Việt Ca”) như thày LMT thì cũng có thể thông cảm, vì cũng vào những năm thày LMT viết “Lục độ tập kinh và ...” (1972) thì số nhà nghiên cứu viết những điều tương tự cũng nhiều lắm. Chỉ có điều, sự tiến bộ của khoa học đã dần làm mai một những kết luận thiếu căn cứ đó. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn không ngừng tìm kiếm những bằng chứng có hay không về chữ viết thời xa xưa, nhưng không phải với một mệnh đề có sẵn: Thời Hùng Vương đã có “vua” (vương) ắt phải có nhà nước và bộ máy quan lại “lạc hầu, lạc tướng”... vậy phải có chữ viết. Xin nhấn mạnh ở đây rằng, cho đến tận ngày hôm nay, các nhà nghiên cứu vẫn còn vật lộn một cách nghiêm túc và có trách nhiệm với câu hỏi: Cuộc sống được thể hiện qua các làng xóm, mộ táng, vũ khí, đồ trang sức... như chúng ta đang có từ Phùng Nguyên đến đỉnh cao Đông Sơn thực chất là trạng thái cấu trúc xã hội như thế nào. Câu trả lời chắc chắn và dễ chấp nhận nhất, đó là một chế độ xã hội thủ lĩnh tiền nhà nước, mà trong văn đàn khoa học thế giới hiện nay thường dùng từ pre-state chiefdom. Công trình nghiên cứu mới nhất của chúng tôi dựa trên thu thập các chữ viết giữ lại trên các hiện vật đồng, đá, gốm trong thời Đông Sơn cho phép tạm kết luận, đến khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, chữ Hán bắt đầu ảnh hưởng đến Việt Nam thông qua những minh văn sớm nhất hiện biết trên đồ đồng Đông Sơn. Những loại hình văn tự khác hiện chưa có bằng chứng chắc chắn. Chúng tôi hiện giữ một đoạn thừng chập đôi có 4 nút buộc phát hiện trong ngôi mộ Châu Can 2000-M1, nhưng cũng chưa dám kết luận đó là “văn tự kết nút” hay chỉ là những đoạn dây buộc các túm tua trang trí trên quần áo. Mặc dầu vậy, chúng ta đều hết sức nâng niu, trân trọng mọi phát hiện, từ mọi nguồn thông tin để dần làm sáng tỏ các khoảng trống của lịch sử. TS Nguyễn Việt Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Tôi ghi chú: - Nếu không rõ An Dương Vương là ai thì chúng ta đã có một khoảng trống lịch sử vẫn chưa xác định: đây là một mắt xích vô cùng quan trọng. - An Dương Vương lập nước Âu Lạc, ông có phải là một vị Hùng Vương không: một vấn đề tiếp theo. - Nếu lên ngôi Âu Lạc, để tiếp quản cố đô Hùng Vương, khả năng ông "phải" cưới một công chúa con của Hùng Duệ Vương không. - An Dương Vương phải chăng chính là thủ lĩnh của nước Âu Lạc chống lại quân Tần. - Cổ Loa và cố đô Văn Lang có quan hệ chăng, vai trò của nó nếu có một kinh thành của Văn Lang. - Cương vực của Âu Lạc thời An Dương Vương. - Truyền thuyết về một loại nỏ có khả năng bắn nhiều mũi tên đồng. - Những chiếc ấn truyền quốc của Hùng Vương và của An Dương Vương hiện ở đâu. - Sự phân rã sau này của Lâm Ấp trong mối quan hệ lịch sử như thế nào. - Tất nhiên, trong mối quan hệ không tách rời với nước Nam Việt sau này. -...
  25. Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học. Cũng lại rất ngạc nhiên khi giáo sư Chu Hảo lại trích một câu nói vô thưởng vô phạt của Thomas Aquine, nhà triết học kinh viện tức chỉ ngồi trong thư viện đọc sách rồi viết 5 cách chứng minh Thượng Đế, nhưng không hiểu Thượng Đế là ai hay còn gọi là chưa định hình được khái niệm này, trong mối liên hệ với thực tế phản ánh sự vật, hiện tượng vận động như thế nào trong không gian (ở đây, chúng ta cần tách biệt về mặt bản chất giữa sự vật, hiện tượng và không gian, vì rằng "cái gì" nảy sinh ra không gian hay tự thân nó?... Do vậy, ngoài vấn đề muôn thuở vật chất và ý thức phải thấy được vật chất - ý thức và không gian nữa, còn không đều sai. Ví dụ, ai cũng nói đến cái "tuyệt đối", vậy nó quan hệ với không gian như thế nào!). Chưa chắc việc nhân loại hiểu Thượng Đế là khởi nguyên vũ trụ - hay hiểu là sáng tạo ra vạn vật là chính xác với khái niệm của người xưa, vì còn có "Nhà thiết kế thông minh khác" là cha của Thượng Đế - "Người sáng tạo ra không gian?". Các tôn giáo độc thần với lịch sử man rợ của mình, đang lợi dụng "thương hiệu" này và đủ mọi loại "công xưởng sản xuất thánh" đã gây những núi tội ác đối với toàn nhân loại trong lịch sử của mình. Những cách lý luận suông kiểu này của Aquine bị triết gia Kant (nhớ không chắc) đập cho tơi tả, có gì đâu mà "Thánh", chưa cần đến văn minh Việt. Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”. Đây là kết luận vô cùng cẩu thả của giáo sư. Người Việt đang rơi vào tình cảnh hết sức quái đản: "Thấy Tây thì kinh - kẻ từng nô lệ mình, đâu cũng toàn là Thánh Cha cả. Thấy Tàu thì sợ - kẻ cũng từng nô lệ mình, đâu cũng là văn hóa rực rỡ, toàn Thần hết". Nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn đã cảm thán: "Người nô lệ da vàng, ngủ quên, ngủ quên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ. Ngủ quên, không thấy quê hương, ngửa tay, xin áo xin cơm. Bao giờ đập tan gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc dân ta. Bao giờ đập tan gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc tự do". Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân dậu niên lai kiến Thái Bình.