hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Các vấn đề liên quan đến Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) chúng ta cần xử lý các vấn đề liên quan: - Dữ liệu chưa đầy đủ, đặc biệt từ các vùng đất trước đây của Văn Lang trong thời kỳ này và trước đó như: Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến. - Dữ liệu Sử ký Tư Mã Thiên: quan trọng, nhưng có một điểm bị sửa sử đó là Triệu Vũ Đế đánh Trường Sa, sau nhà Hán tấn công lại bị thua nhưng chép do chướng khí nên rút về. Đây chính là chiến công để cân bằng Việt Hán. - Sử ký Tư Mã Thiên: khi chép về Nam Việt và các bộ khác của Văn Lang đã hiệu chỉnh nhằm chia rẽ Nam Việt hay Âu Lạc: Chép Vân Nam thành lập do Trang Kiểu nước Sở; ghi Phúc Kiến ủng hộ Lưu Bang cho nên được ưu đãi... nhằm đánh tách Vân Nam - Quý Châu - Việt Nam - Quảng Đông và chống liên kết Phúc Kiến - Quảng Đông - Chiết Giang... - Chưa xác định được Âu Lạc thời An Dương Vương cho nên, không thể liên kết tới Nam Việt rõ ràng. Chưa hiểu bản chất lương duyên Trọng Thủy Mỵ Châu nên không hiểu kế hoạch của An Dương Vương. - Chưa rõ kinh đô Âu Lạc hay Văn Lang cũ, nên chưa thấy mối quan hệ địa chí. - Giải quyết trung tâm trống đồng Việt Nam - Vân Nam - Quảng Châu như thế nào? - Liên quan đến Tần tấn công Âu Lạc: trường hợp Lý Ông Trọng làm quan nhà Tần chống Hung Nô - làm sao mà xảy ra được? - Sau khi Hán lấy Nam Việt đặt trung tâm quản lý Nam Ngũ Lĩnh ở Việt Nam vậy cho rằng ở Luy Lâu là hợp lý? - Mộ Nam Việt Vương Triệu Văn Đế có hàng chục ngàn cổ vật, cả thư pháp nữa... nếu so sánh thời Đức Jesus thì còn siêu hơn, làm sao mà??? - nói đến Đạo nhập khẩu trời Tây lại càng chán. - Lịch sử, Dã sử, thần tích, gia phả, truyền thuyết và huyền thoại và đền đài tại Việt Nam còn nhiều, chưa kể các bộ khác... .... Nhiều lắm.
-
Đọc Đại Việt sử ký toàn thư, chắc chắn một điều rằng tác giả Ngô Sĩ Liên san định hay điều chỉnh từ sử liệu trước đó, từ thời Lý Trần, cuốn này có các vấn đề mà chưa thấy ai đề cập tới trong khi đó rất dễ nhận ra sự khác biệt của dòng chảy lịch sử và tính logic của các sự kiện: - Phân chia các Kỷ: dành sự ưu ái co các nhân vật Trung Hoa như Sĩ Nhiếp... - Đề cao các nhân vật Trung Hoa như Sĩ Nhiếp, dùng một vài đoạn văn của một hai nhân vật khác (cũng Tàu) để nâng Sị Nhiếp bằng với Triệu Vũ Đế. Coi Sĩ Nhiếp giống như tổ văn hóa Việt! Sau này, thời lịch sử hiện đại cũng diễn ra tương tự, tôn vinh gã linh mục Alexande Rode như "cha cố" (cưỡng từ) - một gã góp công thôn tính Việt cho Pháp từ sự nhập nhằng "người sáng tác chữ Việt hiện nay". - Sửa lại nội dung Chiếu đời đô của vua Lý Công Uẩn, nội dung tôn xưng gã tướng Cao Biền (không chắc chắn người sửa là Ngô Sĩ Liên), chiêu này thâm hiểm hết mức tuy nhiên, nếu nghiên cứu lịch sử dưới cái nhìn logic triệt để, khoa học thì hiểu ra ngay ý đồ. Liên kết vấn đề này cần phải đọc văn bia thời Lý và phải đọc Văn bia Sùng Thiện Diên Linh là chứng minh ra ngay. - Đánh giá "hơi cao" công sức các đời vua nhưng chỉ trích lại rất nặng nề, cho thấy tính hệ thống của những nhận định này với các vấn đề nêu trên. - Ngôn từ, một số nội dung coi Tàu là cha mẹ, Việt là con cái! - Sử ghi nhận: Ngô Sĩ Liên bị vua Lê đòi tự mình phải tự tử do biết đã sửa sử, sau này vua Quang Trung "đập" te tua như "trang mạng" bây giờ hay "chơi" nhau.
-
Liệt nữ truyện Dịch giả: Tích Dã Mẫu nghi Hữu Ngu nhị phi (Hán - Lưu Hướng soạn) Hai người vợ của nhà Hữu Ngu là hai con gái của vua Nghiêu, cả là Nga Hoàng, thứ là Nữ Anh. Cha của Thuấn thì ngu dốt, mẹ của Thuấn thì đần độn, cha của Thuấn là Cổ Tẩu. Em của Thuấn là Tượng, hay rong chơi mà hỗn xược, Thuấn biết cách dỗ dành em, lại đem lòng hiếu để thờ Cổ Tẩu. Mẹ ghét Thuấn mà yêu Tượng nhưng Thuấn vẫn làm các việc trong nhà, không có ý xấu. Các quan Tứ nhạc bèn tiến cử Thuấn cho vua Nghiêu, vua Nghiêu bèn đem hai con gái gả cho Thuấn để trông việc trong nhà. Hai con gái giúp Thuấn làm việc ở đồng ruộng, không vì là con gái của thiên tử mà kiêu ngạo lười nhác, lại nhún nhường tiết kiệm, dốc hết đạo làm vợ. Cổ Tẩu cùng Tượng mưu giết Thuấn, sai Thuấn sửa kho, Thuấn về bảo hai người vợ rằng: "Cha mẹ sai ta sửa kho, ta phải đến." Hai người vợ nói: "Đến đi!" Thuấn đã sửa kho xong, người ở dưới bèn bỏ thang, Cổ Tẩu đốt kho, Thuấn bèn nhảy ra. Tượng lại cùng cha mẹ bày mưu sai Thuấn đào giếng. Thuấn lại bảo hai người vợ, hai người vợ nói: "Ừ, đến đi!" Thuấn đến đào giếng, người ở trên bèn xét chỗ chỗ ra vào mà bịt lại, Thuấn bèn ngầm trèo ra. Bấy giờ bọn Cổ Tẩu đã không giết được Thuấn, lại mời Thuấn uống rượu, đợi Thuấn say thì giết, Thuấn bảo với hai người vợ, hai người vợ bèn đem thuốc giải rượu cho Thuấn uống, rồi đến, Thuấn uống rượu cả ngày không say. Em gái của Thuấn có ý thương xót Thuấn, bảo cho hai chị dâu biết. Cha mẹ muốn giết Thuấn, mà Thuấn vẫn không oán, nhưng vẫn ghét Thuấn không thôi. Thuấn đến chỗ ruộng mà kêu khóc, hằng ngày gào lên trời xanh, kêu với cha mẹ. Cha mẹ chỉ muốn hại Thuấn như thế nhưng Thuấn vẫn thương yêu cha mẹ không thôi, cũng không oán em mình, chăm sóc không mỏi. Thuấn đã được chòn làm các việc nước, làm khách ở bốn cửa của nhà vua, vào chỗ chân núi mà chọn lấy cây rừng, vua Nghiêu bày các việc để thử dùng Thuấn, hễ Thuấn có việc gì thường bày mưu với hai người vợ. Cuối cùng Thuấn đã nối ngôi vua, lên làm thiên tử, lấy Nga Hoàng làm hậu, Nữ Anh làm phi. Phong cho Tượng ở ấp Hữu Bí, thờ Cổ Tẩu vẫn như trước. Thiên hạ khen hai người vợ là người sáng suốt có lòng nhân. Thuấn đi tuần thú, chết ở ấp Thương Ngô, gọi là Trùng Hoa. Hai người vợ chết ở giữa miền sông Giang-Tương, người đời gọi là thần sông Tương. Quân tử nói: "Hai người vợ có đức tốt mà làm việc chăm chỉ." Kinh Thi chép: "Nêu rõ cái đức tốt của mình thì chư hầu bắt chước theo." Là nói về hai người vợ ấy vậy. Tụng rằng: "Hai người vợ này, con của vua Nghiêu, gả cho Hữu Ngu, theo giúp cho Thuấn, lấy tôn thờ ti, chịu đựng vất vả, vỗ về Cổ Tẩu, rút cuộc hưởng phúc." Mẫu nghi Khí mẫu Khương Nguyên (Hán - Lưu Hướng soạn) Mẹ của Khí là Khương Nguyên, là con gái của vua nước Thai. Vào thời vua Nghiêu, Khương Nguyên đi chơi thấy vết chân người lớn, thích mà dẫm lên, về nhà thì có thai, bụng ngày càng lớn, có ý lạ mà ghét việc ấy, xét bói cầu đảo để không sinh con, nhưng rút cuộc sinh con. Cho là không tốt mà vứt con ở ngõ hẻm, bò dê tránh mà không dẫm. Lại đem bỏ con ở trong rừng sâu, sau có kẻ chặt cây ở rừng sâu lót cỏ mà che cho nó. Lại đem con đặt ở trên băng lạnh, chim lại bay đến ấp ủ cho nó. Khương Nguyên cho là lạ, bèn lấy đem về, nhân đó đặt tên là Khí. Khương Nguyên có tính trong sạch chất phác, ưa trồng trọt làm ruộng. Kịp lúc Khí lớn lên, bèn dạy cho Khí trồng cây dâu-cây gai. Khí có tính sáng suốt lại có lòng nhân, biết học theo mẹ, rút cuộc nổi danh. Vua Nghiêu sai Khí làm quan coi việc việc trồng lúa, phong cho ở ấp Thai, hiệu là Hậu Tắc. Kịp lúc vua Nghiêu băng, Thuấn lên ngôi, bèn lệnh cho Khí rằng: "Khí! Dân đen đói kém, ngươi làm quan coi việc làm ruộng, theo các mùa mà trồng ngũ cốc." Dòng dõi đời sau nối nhau làm quan coi việc làm ruộng, đến thời vua Văn-Võ của nhà Chu thì nổi lên làm thiên tử. Quân tử khen Khương Nguyên có tính trong sạch mà biết dạy dỗ con. Kinh Thi chép: "Khương Nguyên sáng suốt, đức tốt không xấu, vua trời ban phúc." Lại chép: "Hậu Tắc có đức, cúng tế trời xanh, nuôi dưỡng lũ dân." Là nói về Khương Nguyên vậy. Tụng rằng: "Người mẹ Khương Nguyên, trong sạch chăm chỉ, dẫm chân có thai, vứt con ở đồng, chim thú ôm ấp, bèn thu về nuôi, cuối cùng làm quan, trọn đạo làm mẹ." Tiết mẫu Giản Địch (Hán - Lưu Hướng soạn) Mẹ của Tiết là Giản Địch, là con gái cả của vua nước Hữu Nhưng. Vào thời vua Nghiêu, Giản Địch cùng em gái tắm ở sông Huyền Khâu, có con chim đen ngậm quả trứng bay qua mả thả quả trứng xuống, có năm màu rất đẹp, Giản Địch cùng em gái tranh nhan đến nhặt lấy trứng. Giản Địch lấy được mà nuốt trứng, lỡ rồi có thai, rút cuộc sinh ra Tiết. Giản Địch có tính ưa làm việc đời, trên biết thiên văn, vui vẻ ở việc ban ân huệ. Kịp lúc Tiết lớn lên, bèn lần lượt dạy Tiết học các đạo lí. Tiết là người sáng suốt lại có lòng nhân, biết học theo mẹ, rút cuộc nổi danh. Vua Nghiêu sai Tiết làm quan Tư đồ, phong cho ở ấp Bạc. Kịp lúc vua Nghiêu băng, vua Thuấn lên ngôi, bèn lệnh cho Tiết rằng: "Tiết! Trăm họ không hòa thân, ngũ phẩm không vững, ngươi làm quan Tư đồ, hãy kính theo ngũ phẩm mà tỏ lòng rộng rãi." Dòng dõi đời sau nối nhau ở ấp Bạc, đến thời vua Thang nhà Ân thì nổi lên làm thiên tử. Quân tử khen Giản Địch đã có lòng nhân mà có lễ. Kinh Thi chép: "Hữu Nhưng sắp nổi, sinh con dựng nghiệp." Lại chép: "Trời sai chim đen, xuống sinh nhà Thương." Là nói về Giản Địch vậy. Tụng rằng: "Người mẹ Giản Địch, nhân nghĩa chất phác, nuốt trứng sinh con, rồi tự tu sửa, dạy dỗ các việc, có đức ban ân, Tiết đã làm quan, là do mẹ giúp." Khải mẫu Đồ Sơn (Hán - Lưu Hướng soạn) Mẹ của Khải là con gái cả của vua nước Đồ Sơn. Vua Vũ nhà Hạ lấy con gái cả của vua nước Đồ Sơn làm vợ, sinh ra Khải, suốt ngày tân-nhâm-bính-giáp, Khải khóc oa oa, Vũ phải đi ngăn nước lụt, chỉ nghĩ đến việc đo đạc đắp đất, ba lần qua nhà mà không vào cửa. Con gái vua nước Đồ Sơn là người sáng suốt dạy dỗ con học các đạo lí. Kịp lúc Khải lớn lên, học theo đức mà bắt chước cái đức của mẹ, rút cuộc nổi danh. Vũ làm thiên tử, lấy Khải làm người nối ngôi. Cậy vào công của Vũ mà không làm tổn hại. Quân tử khen con gái vua nước Đồ Sơn giỏi dạy dỗ con. Kinh Thi chép: "Trao cho trai gái, sinh sôi con cháu." Là nói về con gái vua nước Đồ Sơn vậy. Tụng rằng: "Người mẹ Đồ Sơn, gả cho vua Vũ, suốt ngày suốt tháng, Vũ đi ngăn lụt, Khải khóc oa oa, riêng mẹ dạy dỗ, dạy cho lẽ phải, rồi nối nghiệp cha." Sử kí Ngoại thích thế gia Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Ngoại thích là hậu phi, người trong họ của hoàng hậu cũng có người được phong tước. Hán thư thì chép trong phần liệt truyện. Vương Ẩn thì xếp vào phần bản kỉ, lại ở đầu của phần liệt truyện. Quan hệ vợ chồng là phép lớn của đạo làm người. Từ xưa đế vương vâng mệnh trời và các vị vua nối thay pháp lệnh không chỉ vì dòng họ của mình có đức tốt, mà cũng có dòng họ ngoại giúp đỡ. Nhà Hạ nổi lên cũng nhờ con gái của vua nước Đồ Sơn, Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Đồ Sơn là tên nước, là nước có con gái mà vua Vũ lấy làm vợ, tại quận Cửu Giang ngày nay." Ứng Thiệu nói: "Huyện Đương Đồ quận Cửu Giang có nền cũ của vua Vũ. Đại đái lễ chép: 'Vua Vũ lấy con gái của vua nước Đồ Sơn, tên là Kiều. Kiều sinh ra Khải'." còn vua Kiệt bị đuổi là vì yêu Mạt Hỉ. Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Vua Kiệt đánh nước Hữu Thi, người nước Hữu Thi đem dâng Muội Hỉ." Vi Chiêu nói: "Con gái của vua nước Hữu Thi, họ Hỉ." Nhà Ân nổi lên cũng nhờ con gái của vua nước Hữu Nhưng, Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Mẹ của Tiết là Giản Địch là con gái của vua nước Hữu Nhưng." mà vua Trụ bị giết cvũng vì yêu Đát Kỉ. Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Vua Tân nhà Ân đánh nước Hữu Tô, người nước Hữu Tô đem dâng người con gái là Đát Kỉ." Xét: Hữu Tô là tên nước, Kỉ là tên họ. Đát là tên chữ. Nhà Chu nổi lên cũng nhờ Khương Nguyên và Đại Nhâm, Sách ẩn: Hệ bản chép: "Vợ cả của Đế Khốc là con gái của vua nước Hữu Thi, tên là Khương Nguyên." Trịnh Huyền chú giải kinh Thi nói: "Họ Khương, tên Nguyên, dẫm lên vết chân người lớn mà sinh ra Hậu Tắc." Đại Nhâm là mẹ của Văn Vương. Kinh Thi chép: "Con gái nước Chí." Mao thi chép: "Con gái giữa của nhà họ Nhâm nước Chí." mà U Vương bị bắt là vì dâm đãng với Bao Tự. Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "U Vương đánh nước Hữu Bao, người nước Hữu Bao dâng con gái là Bao Tự." Xét: Bao là tên nước, tự là họ của vua nước ấy, Bao Tự là người con sinh ra từ nước dãi của rồng, người nước Bao nuôi lớn mà đem dâng cho U Vương. Cho nên kinh Dịch có nền là hai quẻ càn-khôn, kinh Thu mở đầu là bài Quan thư, kinh Thư khen việc gả con gái, kinh Xuân thu cợt việc không tự mình đến đón dâu. Sắp đặt lễ nghi, riêng việc cưới gả là lớn lao nhất. Bày nhạc lên phải hợp theo bốn mùa, hai khí âm-dương biến chuyển là đầu mối của muôn vật vậy. Sách ẩn: Ý nói như nhạc tấu lên thì có thể hòa hợp với bốn mùa, còn âm-dương biến chuyển thì sinh ra muôn vật. Âm-dương là vợ-chồng vậy. Vợ chồng hòa hợp thì mới làm được các việc. Muôn vật là gốc của người, cho nên nói là 'đầu mối của muôn vật'. Không đáng cận thẩn ư? Người có thể nêu cao đạo làm người, còn đối với mệnh trời thì thế nào? Lớn lao thay cái tình yêu của vợ chồng! Nhà vua còn không bắt ép được bầy tôi, người cha còn không bắt ép được người con, huống chi là kẻ thấp kém đây? Sau khi vợ chồng giao hợp, có thai thì sinh ra con cái, sinh ra con cái rồi thì cũng không biết được rút cuộc ra sao. Há chẳng phải là mệnh trời sao? Cho nên Khổng Tử ít nói về mệnh trời, có lẽ là khó nói được. Nếu không biết cái biến chuyển của âm-dương thì há biết được tính người và mệnh trời? Thái sử công nói: "Từ thời nhà Tần về trước thì cũng xa, không rõ mà không ghi chép hết được. Nhà Hán nổi lên, Lữ Nga Hủ Sách ẩn: Tên chữ của Lữ Hậu. Xét: Hán thư chép Lữ Hậu tên là Trĩ. làm hoàng hậu của Cao Tổ, con trai làm thái tử. Kịp lúc tuổi già vẻ mặt suy xấu kém đẹp thì Thích phu nhân được sủng ái, con của Thích phu nhân là Như Ý mấy lần suýt được thay làm thái tử. Kịp lúc Cao Tổ băng, Lữ Hậu diệt họ Thích, giết vua nước Triệu, cho nên trong các hậu cung của Cao Tổ thì riêng những người không được sủng ái mới được yên ổn. Con gái của của Lữ Hậu là vợ của Tuyên Bình Hầu tên là Trương Ngao, con gái của Ngao làm hoàng hậu của Hiếu Huệ Đế. Lữ thái hậu vì là thân thuộc của hoàng hậu, bày muôn cách để hoàng hậu sinh con, nhưng rút cuộc hoàng hậu không có con, liền lừa lấy con của cung nữ làm con của hoàng hậu. Kịp lúc Hiếu Huệ Đế băng, thiên hạ mới định chưa lâu, người nối ngôi chưa được nêu rõ là ai. Do đó Lữ thái hậu tôn quý họ ngoại, phong vương cho những người họ Lữ để giúp đỡ, lại lấy con gái của Lữ Lộc làm hoàng hậu của vua nhỏ, rất muốn để làm vững chắc gốc rễ nhưng không ích gì. Lữ thái hậu băng, hợp táng ở Trường Lăng. Tập giải: Quan Trung kí chép: "Lăng Cao Tổ ở phía tây, lăng Lữ Hậu ở phía đông. Hoàng đế, hoàng hậu của nhà Hán táng cùng mộ thì gọi là hợp táng, không cùng lăng. Chư hầu đều như thế." Bọn Lộc-Sản sợ bị tội, mưu làm loạn. Đại thần nhà Hán đánh chúng, trời giúp nhà Hán, rút cuộc diệt họ Lữ. Bèn đặt riêng hoàng hậu của Hiếu Hiếu Đế ở cung phía bắc. Cung này tại phía bắc cung Vị Ương, cho nên gọi là cung phía bắc. Đón lập vua nước Đại, đấy là Hiếu Văn Đế, cúng tế tông miếu của nhà Hán, đấy há chẳng phải là mệnh trời sao? Nếu chẳng phải mệnh trời thì ai nắm được ngôi ấy?" Ngoại thích thế gia Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Bạc thái hậu, cha là người quận Ngô, mang họ Bạc. Vào thời nhà Tần, cha của Bạc thái hậu thông hợp với con gái của họ hàng vua nước Ngụy là Ngụy Ảo mà sinh ra Bạc thái hậu. Cuối cùng cha của Bạc thái hậu chết ở huyện Âm Sơn, nhân đó táng ở đấy. Kịp lúc chư hầu phản nhà Tần, Ngụy Báo lập làm vua nước Ngụy, cho nên Ngụy Ảo đem con gái của mình vào cung của vua nước Ngụy, Ngụy Ảo đến chỗ Hứa Phụ xem tướng, xem tướng cho Bạc Cơ, nói là sẽ sinh ra thiên tử. Bấy giờ Hạng Vũ đang chống nhau với vua Hán ở thành Huỳnh Dương, thiên hạ chưa biết lúc nào yên. Báo lúc đầu cùng vua Hán đánh vua nước Sở, kịp lúc nghe được lời của Hứa Phụ, trong lòng mừng, nhân đó làm quay lưng lại với vua Hán mà làm phản, đứng ở giữa, rồi liên hòa với vua nước Sở. Vua Hán sai bọn Tào Tham đánh bắt được vua nước Ngụy là Báo, lấy nước ấy đặt thành quận, chở Bạc Cơ vào sở quan. Báo đã chết, vua Hán vào sở quan, thấy Bạc Cơ có vẻ đẹp, cho vào hậu cung nhưng hơn một năm không đến gặp. Lúc trước Bạc Cơ còn nhỏ, thân nhau với Quản phu nhân, Triệu Tử Nhi, thề rằng: "Sau này tôn quý thì đừng quên nhau." Rồi đến lúc Quản phu nhân, Triệu Tử Nhi được vua Hán sủng ái trước. Bấy giờ vua Hán ngồi ở đài Thành Cao trong cung Hà Nam, ở đây hai người đẹp cùng cười đùa với nhau về việc lúc trước thề với Bạc Cơ. Vua Hán nghe nói, hỏi việc cũ, hai người cùng kể việc này cho vua Hán biết. Vua Hán có lòng thương cảm, nhớ đến Bạc Cơ, hôm đó gọi đến mà sủng ái Bạc Cơ. Bạc Cơ nói: "Buổi tối hôm qua thiếp nằm mộng gặp rồng đen quấn vào bụng thiếp." Cao Tổ nói: "Đấy là điềm lành, ta vì nàng sẽ có con." Một lần gặp ấy rút cuộc sinh ra con trai, đấy là vua nước Đại. Sau đó Bạc Cơ ít gặp Cao Tổ. Cao Tổ băng, những hậu cung được sủng ái như Thích phu nhân đều bị Lữ thái hậu ghét, đều bị giam trong cung sâu, không được ra khỏi cung, còn Bạc Cơ vì ít gặp cho nên được ra, theo con đến ở nước Đại, làm thái hậu của vua nước Đại. Em trai của Bạc thái hậu là Bạc Chiêu cũng theo đến nước Đại. Vua nước Đại lập được mười bảy năm thì Lữ thái hậu băng, sau khi đại thần bàn việc lập ngôi vua, ghét thế mạnh của nhà ngoại là họ Lữ, đều khen họ Bạc có lòng nhân, cho nên đón vua nước Đại về lập làm Hiếu Văn Hoàng Đế, do đó Bạc thái hậu đổi hiệu là Hoàng thái hậu, em là Bạc Chiêu được phong làm Chỉ Hầu. Xét: Địa lí chí chép có huyện Chỉ tại quận Hà Nội, sợ rằng đất ấy xa không phải là chỗ phong. Phía đông thành Tràng An có đình Chỉ Đạo, chắc là chỗ được phong. Mẹ của Bạc thái hậu cũng chết trước, táng ở phía bắc huyện Lịch Dương. Do đó bèn truy tôn cha của Bạc thái hậu làm Linh Văn Hầu. Ở quận Cối Kê đặp ra vườn ấp có ba trăm nhà ở đấy, các quan từ bậc Trưởng-Thừa trở xuống coi giữ mộ ở đấy, trên miếu thờ như phép tắc. Lại nữa phía bắc huyện Lịch Dương cũng đặt ra vườn phu nhân của Linh Văn Hầu như vườn của Linh Văn Hầu. Bạc thái hậu cho rằng mẹ mình là dòng dõi củ vua nước Ngụy, mình lại sớm mất cha mẹ, người họ Ngụy có kẻ ra sức giúp Bạc thái hậu, do đó gọi người họ Ngụy đến mà ban thưởng đều tùy vào họ gần xa mà được nhận thưởng. Nhà họ Bạc chỉ có một người được phong tước hầu. Bạc thái hậu băng sau Văn Đế hai năm, vào năm Tiền Nguyên thứ hai thời Cảnh Đế thì băng, táng ở Nam Lăng. Sách ẩn: Miếu kí chép: "Tại phía nam Bá Lăng chục dặm, cho nên gọi là Nam Lăng." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện cũ Nam Lăng tại phía đông nam huyện Vạn Niên châu Ung hai mươi tư dặm. Huyện Nam Lăng thời Hán vốn là ấp lăng của Bạc thái hậu. Lăng ở phía đông bắc, cách huyện sáu dặm." Vì Lữ Hậu hợp táng ở Trường Lăng, cho nên được tự dựng lăng gần Bá Lăng của Hiếu Văn Hoàng Đế. Hậu Hán thư Liệt nữ truyện Lưu Tống - Phạm Diệp soạn Đường - Lí Hiền chú Vợ của người quận Trần Lưu là Đổng Tự, là con gái của người cùng quận là Sái Ung, tên là Diễm, tên chữ là Văn Cơ. Liệt nữ hậu truyện chép Diễm tên chữ là Chiêu Cơ. Học rộng có tài biện luận, lại giỏi ở âm nhạc. Ấu đồng truyện của Lưu Chiêu chép: "Ung buổi đêm gảy đàn, dây đàn bị đứt, Diễm nói: 'Là dây thứ hai.' Ung nói: 'Đoán mò mà đúng thôi.' Rồi cắt đứt một dây nữa mà hỏi Diễm. Diễm nói: 'Là dây thứ tư.' Đều không sai lầm." Lúc đầu gả cho người quận Hà Đông là Vệ Trọng Đạo. Chồng mất không có con, bèn quay về nhà. Giữa năm Hưng Bình (năm 194 - năm 195), thiên hạ tang loạn, Văn Cơ bị quân kị rợ Hồ bắt đi, lạc vào chỗ Tả Hiền Vương của nước Nam Hung Nô, ở giữa chỗ rợ Hồ mười hai năm, sinh được hai người con. Tào Tháo vốn thân với Sái Ung, thương Ung không có người nối dõi, bèn sai sứ giả đem vàng ngọc đến chuộc lại Văn Cơ, rồi gả lại cho Đổng Tự. Tự làm Đồn điền đô úy, phạm tội đáng chết, Văn Cơ đến chỗ Tào Tháo xin tha cho Tự. Bấy giờ công khanh kẻ sĩ cùng sứ giả phương xa đang ngồi đầy sân nhà, Tháo bảo tân khách rằng: "Con gái của Sái Bá Giai đang ở ngoài, nay cho các ông gặp người ấy." Kịp lúc Văn Cơ đến, xõa tóc đi chân trần, cúi đầu chịu tội, lời nói trong trẻo, ý rất đau xót, mọi người đều biến sắc mặt. Tháo nói: "Thật là đáng thương, nhưng hiệu lệnh đã ban ra, làm sao?" Văn Cơ nói: "Minh công có vạn con ngựa trong chuồng, quân sĩ nhiều như rừng, sao lại tiếc một quân kị mà không cứu giúp kẻ có tính mạng sắp chết thế!" Tháo cảm lời ấy, bèn xét kĩ tội của Tự. Bấy giờ trời đang lạnh, ban khăn đội giày tất cho Văn Cơ. Tháo nhân đó hỏi rằng: "Nghe nói tổ tiên nhà phu nhân có nhiều sách vở, phu phân còn nhớ được gì không?" Văn Cơ nói: "Ngày xưa người cha đã mất có hơn bốn ngàn quyển sách, nay đã tán lạc thành bùn tro, chẳng còn quyển nào. Nay thiếp còn nhớ được khoảng hơn bốn trăm chương mà thôi." Tháo nói: "Nay sẽ sai mười viên quan đến nhà phu nhân chép lại." Văn Cơ nói: "Thiếp nghe nói trai gái riêng biệt, theo lễ không được ở gần trao cho nhau. Xin cấp cho bút giấy, sẽ vâng mệnh chép lại." Do đó chép sách trao cho Tháo, lời văn không sai sót. Sau đó cảm thương thời li loạn, nhớ thời xưa mà đau xót, bèn làm hai bài thơ. Lời thơ rằng: "Nhà Hán mất quyền bính, Đổng Trác loạn lẽ thường. Chí muốn cướp ngôi trên, Trước giết những kẻ hiền. Bắt ép về kinh cũ, Kẹp vua để tự cường. Trong nước bèn dấy binh, Cùng nhau dẹp nhiễu nhương. Quân Trác sang miền đông, Áo giáp tỏa sáng loáng. Người Trung Nguyên yếu kém, Lính tới rặt Hồ-Khương. Rong ruổi vây thành ấp, Đến đâu đều tan hoang. Giết sạch không để sót, Xác chết nằm ngổn ngang. Bên ngựa treo đầu trai, Sau ngựa chở con gái. Ruổi dài vào cửa ải, Đường về hiểm lại ghềnh. Ngoảnh nhìn xa mờ mịt, Ruột gan đã nát tan. Hàng vạn người bị bắt, Chẳng được cùng xúm tụ. Có kẻ là thân thích, Cũng không dám chuyện riêng. Trái ý một chút thôi, Liền nói: 'Kẻ tù kia, Nếu muốn mũi đao này, Chúng tao chẳng chùn tay!' Há còn tiếc tính mệnh, Không chịu bị mắng mỏ. Liền bị thêm gậy đánh, Đau đớn giáng xuống người. Sớm vừa đi vừa khóc, Tối thì ngồi than van. Muốn chết mà không được, Muốn sống chẳng cách gì. Ta nào gây tội lỗi, Sao bị tai vạ này! Cõi hoang khác cõi ta, Thói người ít nghĩa lí. Nơi này nhiều sương tuyết, Gió thổi suốt xuân-hạ. Phiêu phiêu phất tà áo, Lồng lộng thổi vào tai. Những khi nhớ cha mẹ, Kêu than mãi không thôi. Có khách từ ngoài tới, Nghe tin thường mừng vui. Ra đón hỏi tin tức, Liền chẳng phải cùng quê. Không hẹn mà thỏa nguyện, Người thân đến đón về. Đã được tự thoát thân, Lại khó bỏ con nhỏ. Trời cố nối lòng người, Chia xa không hẹn gặp Còn mất mãi xa cách, Sao nỡ nói chia tay. Con nhỏ ôm cổ ta, Hỏi rằng: 'Mẹ muốn đi? Người bảo mẹ sẽ đi, Há còn có ngày về? Mẹ thường hay yêu thương, Sao nay chẳng như trước? Ta còn chưa thành người, Nỡ chẳng nghĩ đến ư!" Thấy thế lòng tan nát, Hoảng hốt như cuồng điên. Kêu khóc tay xoa xuýt, Sắp đi lại ngậm ngùi. Người cùng nhóm lúc trước, Cùng ra tiễn chia tay. Thấy ta được trở về, Than thở tiếng nỉ non. Ngựa đứng đấy chần chừ, Xe dừng chẳng chuyển lăn. Người đứng nhìn sùi sụt, Người đi cũng nấc nghẹn. Đi rồi cách tình duyên, Mỗi ngày càng thêm xa, Dằng dẵng ba ngàn dặm, Gặp nhau biết khi nào? Nhớ con đứt ruột đẻ, Lòng đau tựa đứt lìa. Về đến nhà trống không, Trong ngoài chẳng còn ai. Thành quách hóa rừng rú, Sân nhà mọc bụi gai. Xương trắng nào biết ai, Ngang dọc không che đậy. Ra cửa không tiếng người, Chó sói kêu lại hú. Trơ trọi cảnh vắng tanh, Buồn bã nẫu ruột gan. Lên cao nhìn xa xăm, Hồn phách bỗng bay tan. Chợt như là mạng hết, Người bên phải vỗ về. Mới như được thở lại, Dẫu sống cậy vào ai? Thân nay gửi người mới, Dốc lòng tự gắng gỏi. Trôi dạt nên thấp rẻ, Thường sợ lại vứt đi. Đời người có mấy khi, Lo buồn suốt năm tháng." Bài thứ hai rằng: "Gặp thời loạn, than cho phận mỏng, Họ hàng mất, cửa nhà vắng không. Thân bị bắt, lạc vào cõi tây, Vào nơi xa, ở chỗ Khương-Man. Khe núi hiểm, đường đi xa xăm, Ngoảnh về đông, lòng ta nấc nghẹn. Tối đáng ngủ, mà chẳng yên giấc, Đến bữa ăn, mà chẳng nuốt được. Thường khóc lóc, kẽ mắt chẳng khô. Chí mòn mỏi, nghĩ đến cái chết, Dẫu sống thừa, chẳng còn hình dáng. Lạc vào đây, xa khỏi cõi sáng, Khí âm u, tuyết rơi lác đác. Bãi cát che, bụi bay mùi mịt, Có cây cỏ, mùa đông chẳng tươi. Người như thú, ăn đồ hôi thối, Tiếng líu lo, ở nơi xăm xăm. Vào mùa đông, đi săn nơi xa, Đến đêm về, cài đóng cửa nhà. Không ngủ được, ngồi dậy hoảng hốt, Lên điện cao, ngắm nhìn sân rộng. Mây đen tụ, che lấp trăng sao, Gió bắc lùa, thổi tạt hiu hiu. Kèn Hồ réo, ngựa bên lại hí, Chim nhạn về, tiếng kêu lanh lảnh. Người tấu nhạc, đàn cầm đàn tranh. Tiếng hòa vào, điệu buồn lại trong. Lòng ngỏ ý, ngực đầy sầu muộn, Muốn thở nhẹ, sợ hãi kinh hoàng. Mang nỗi buồn, lệ rơi đẫm cổ, Người đến đón, sắp được trở về. Trên đường dài, xa con mình sinh, Con khóc mẹ, tiếng kêu nấc nghẹn. Ta bịt tai, chẳng còn nỡ nghe, Níu kéo ta, chạy theo nức nở. Ngã lại dậy, dáng người tiều tụy, Ngoảnh đầu nhìn, cõi lòng tan nát. Lòng đau xót, như chết lại sống." Hậu Hán thư Liệt nữ truyện Lưu Tống - Phạm Diệp soạn Đường - Lí Hiền chú Vợ của người quận Phù Phong là Tào Thế Thúc là con gái của người cùng quận là Ban Bưu, tên là Chiêu, tên chữ là Huệ Ban, còn có tên là Cơ. Học rộng tài cao. Thế Thúc chết sớm, giữ tiết hạn theo pháp độ. Anh của Chiêu là Cố soạn sách Hán thư, tám phần biểu và phần thiên văn chí chưa kịp xong thì chết, Hòa Đế bèn gọi Chiêu đến phòng chứa sách ở quán Đông chép tiếp mà soạn thành sách. Hòa Đế nhiều lần gọi Chiêu vào cung, sai hoàng hậu và các quý nhân theo học Chiêu, gọi là Đại Gia. Hễ có dâng cống vật lạ liền sai Chiêu làm phú tụng. Kịp lúc Đặng thái hậu nắm chính lệnh, cho Chiêu cùng bàn việc, cho tự ý ra vào, phong riêng cho con của Chiêu là Thành làm Quan Nội Hầu, ban chức đến Thừa tướng của nước Tề. Bấy giờ sách Hán thư mới ra, nhiều người không hiểu được, người cùng quận là Mã Dung nép ở dưới phòng sách, theo Chiêu tập đọc, sau lại hạ chiếu sai anh của Dung là Tục thay Chiêu mà soạn thành. Anh của Dung tên là Tục, xem ở Mã Viện truyện. Giữa năm Vĩnh Sơ (năm 107 - năm 114), anh của Thái hậu là Đại tướng quân tên là Đặng Chất vì mẹ mất mà dâng thư xin về nghỉ, Thái hậu không muốn cho phép, đem việc này hỏi Chiêu, Chiêu nhân đó dâng sớ nói: "Cúi nghĩ Hoàng thái hậu bệ hệ có cái đức đẹp tốt, nêu rõ pháp lệnh của thời Đường-Ngu, mở bốn cửa mà đón nghe lời nói của người bốn phương, chọn lời của kẻ chơi nhạc, lựa mưu kế của những kẻ kiếm củi cắt cỏ. Thiếp là Chiêu dùng cái tài kém mà thân được rạng rỡ, dám không phơi bày ruột gan để mưu báo đáp cái ân ấy? Thiếp nghe nói tính nhún nhường là cái đức chẳng gì lớn hơn, cho nên sách cũ khen là hay, thần minh ban phúc vậy. Kinh Dịch chép: "Nhún nhường là tôn quý mà rạng rỡ." Lại chép: "Qủy thần gây hại kẻ kêu căng mà ban phúc cho kẻ nhún nhường." Tả truyện chép: "Nhún nhường là cái gốc của kẻ có đức." Ngày xưa Di-Tề bỏ nước, thiên hạ khen là có đức cao, Thái Bá trốn ra ngoài, Khổng Tử khen là có ba lần nhún nhường. Cho nên nêu rõ đức tốt, truyền danh đến đời sau. Luận ngữ chép: 'Nếu biết dùng lễ nhún nhường mà trị nước thì đối với việc hiệu lệnh có khó gì?' Do đó mà nói, nếu mà nhún nhường là việc rất sâu xa. Nay bốn cậu giữ vững lòng trung hiếu, Bốn cậu là Chất, Khôi, Hoằng, Xương. duỗi thân tự rút về, thế mà bệ hạ vì việc biên giới chưa yên mà ngăn lại không cho phép, nếu sau này có việc mảy may còn hơn ngày nay thì sợ rằng việc nhún nhường chẳng còn được làm nữa. Nay có cơ hội vừa đến, cho nên dám liều chết để dốc hết tấm lồng. Tự biết nói ra không đáng để nghe dùng, chỉ là nêu ra tấm lòng son của loài sâu kiến." Thái hậu nghe theo mà cho phép, do đó bọn Chất đều về quê cũ. Chiêu soạn sách Nữ giới có bảy chương, có ích cho việc trong nhà. Mã Dung khen hay, sai vợ con học theo. Em chồng của Chiêu là Tào Phong Sinh cũng có tài năng, soạn sách để gạt hỏi sách ấy, lời lẽ cũng đáng xem. Chiêu vào lúc hơn bảy chục tuổi thì chết, Hoàng thái hậu mặc áo trắng phát tang, sai sứ giả đến coi xét việc tang. Những bài phú, tụng, minh, lụy, vấn, chú, từ, thư, luận, sớ, lệnh mà Chiêu soạn có cả thảy là mười sáu chương, cháu ngoại của Chiêu là người họ Đinh thu tập thành sách, lại làm bài Đại gia tán. Hậu Hán thư Liệt nữ truyện Lưu Tống - Phạm Diệp soạn Đường - Lí Hiền chú Người con gái có hiếu là Tào Nga, người huyện Thượng Ngu quận Cối Kê. Cha là Hu, biết đàn hát, làm thầy mo. Ngày năm tháng năm năm Hán An thứ hai (năm 143), ở huyện đi ngược sông để đón cầu đảo thần Bà Bà, chết đuối, không tìm được xác. Bấy giờ Nga mười bốn tuổi, bèn đi dọc bờ sông kêu khóc, ngày đêm không dứt tiếng, sau một tuần bảy ngày (là mười bảy ngày), cuối cùng nhảy xuống sông mà chết. Nga ném áo xuống sông, thề rằng: "Nếu xác cha ở đâu thì áo chìm ở đó." Áo trôi theo dòng nước đến một chỗ thì chìm, Nga bèn nhảy xuống chìm theo áo. Xem ở Liệt nữ truyện của Hạng Nguyên. Đến năm Nguyên Gia thứ nhất (năm 151), huyện trưởng là Độ Thượng đổi táng Tào Nga ở bên đường phía nam sông Giang, lại dựng bia vậy. Cối Kê điển lục chép: "Học trò của quan trưởng huyện Thượng Ngu tên là Độ Thượng là Hàm Đan Thuần, tên chữ là Tử Lễ. Bấy giờ đang tuổi nhược quan (con trai hai mươi tuổi thì đội mũ) mà có tài lạ. Thượng trước sai Ngụy Lãng làm bia Tào Nga, lời văn chưa xong, kịp lúc Lãng gặp Thượng, Thượng cùng hội uống rượu với Lãng, còn Tử Lễ đang rót rượu. Thượng hỏi Lãng là văn bia đã xong chưa? Lãng từ chối là mình không có tài, nhân đó xin sai Tử Lễ làm văn, liền lấy bút viết văn, không cần sửa lại, Lãng tấm tắc không thôi, bèn hủy bài văn của mình. Sau đó Sái Ung lại đề thêm tám chữ là 'hoàng viên ấu phụ, ngoại tôn tê cữu'." Người con gái có hiếu là Thúc Tiên Hùng, người quận Kiền Vi. Cha là Nê Hòa, đầu năm Vĩnh Kiến làm quan Công tào trong huyện. Huyện trưởng sai Nê Hòa làm văn đến gặp Thái thú quận Ba, đi thuyền ngã xuống nước xiết mà chết, không đem xác về được. Hùng thương cảm đau xót, kêu khóc ngày đêm, có ý không muốn sống, thường có lòng tự chìm. Sinh được hai người con đều được mấy tuổi, Hùng liền đều làm túi đựng ngọc châu đeo vào cho con nhỏ, nhiều lần nói lời chia biệt. Người trong nhà thường ngăn cấm lại, qua hơn trăm cách sau mới dần dần nguôi ý. Hùng nhân đó cưỡi thuyền nhỏ đến chỗ cha mình chết đuối mà kêu khóc, cuối cùng tự nhảy xuống sông để chết. Em của Hùng là Hiền buổi đêm nằm mộng gặp Hùng bảo rằng: "Đợi sáu ngày nữa sẽ cùng cha nổi lên." Đến hẹn ra xem, quả nhiên cùng ôm lấy cha nổi ở trên sông. Người trong quận khen ngợi, vì Hùng mà dựng bia, vẽ hình của Hùng vậy. ...
-
Tôi thực sự không thể tin được ai đó tìm được "di vật khảo cổ" làm "cơ sở khoa học" để xác định Thái Cực đã thực sự tồn tại và "bát quái" là hiện tượng cuối cùng trong câu nổi tiếng của Hệ từ thượng: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh 'Bát quái'". Nếu Thái Cực là khởi nguyên của vũ trụ, sau "Giây 0" hay bigbang vũ trụ vận động với kết quả là "vạn vật" đang hiện hữu, như vậy về mặt thực tại Thái Cực là nội hàm của "vạn vật cho nên "vạn vật" là chính nó, điều này này có nghĩa rằng tất cả mọi thứ đã, đang và sẽ chứng minh cho sự hiện hữu của Thái Cực, ngay cả cái mà chúng ta cho đang là!.
-
Nhạc của Trịnh Công Sơn qua giọng ca của Khánh Ly là tuyệt vời nhất, bộ đĩa Da Vàng trước 1975 rất hay, một sồ bài được hòa tấu sau này với dàn nhạc hiện đại hơn nên cài bài ca phản chiến hùng tráng hơn và, có lẽ hay hơn nữa. , Từ nhỏ hầu hết từ Huế trở vào Nam đều nghe những bài hát của Trịnh Công Sơn, một số bài như những "lời tiên tri" như Dựng lại người, dựng lại nhà... từ nhỏ bài hát nghe "cảm" thấy cái hay của nó, khoảng 12 tuổi đó là bài Biển nhớ, lớn hơn chút nữa là bài Diễm xưa. Sau này Thanh Lam cũng hát "nhạc Trịnh", lâu lâu lại rống, hú lên rất lạ, chẳng ăn nhập gì vào dòng chảy cảm xúc cả.
-
Shanghai Art Museum From the outside, the building strikes an opulent modern pose but once inside, it is a sanctuary for ancient art appreciation. Take a look at the intricate beauty of thousand-year-old Chinese bronzes, sculptures, ceramics, jades, seals, calligraphies, coins and currencies, paintings, furniture as well as crafts of China’s ethnic minorities. Bảo tàng lịch sử Việt Nam "trộm mẫu" - có tay Tàu trong nội bộ rồi.
-
Sử ký - Tam đại Hạ - Ân - Chu bản kỉ Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Hạ bản kỉ Vua Vũ của nhà Hạ, Thụy pháp chép: "Nhận ngôi vua thành công gọi là 'Vũ'". Chính nghĩa: Hạ là tên nước phong của vua Vũ. Đế vương kỉ chép: "Vũ nhận đất phong làm Hạ Bá, ở phía nam cõi ngoài châu Dự, là huyện Dương Trạch quận Hà Nam ngày nay". tên là Văn Mệnh. Sách ẩn: Thượng thư chép: "Đức của Văn Mệnh truyền đến bốn cõi". Khổng An Quốc nói: "Truyền văn hóa đức mệnh ra ngoài". Không nói (Văn Mệnh) là tên của vua Vũ. Thái sử công đều cho là Phóng Huân, Trùng Hoa, Văn Mệnh là tên của Nghiêu, Thuấn, Vũ, đấy chưa hẳn là đúng. Khổng Tử nói: "Họ Ngu, tên Thuấn", vậy thì Nghiêu, Vũ, Thang đều là tên gọi. Có lẽ thời xưa hiệu của đế vương đều lấy từ tên gọi, đời sau lại theo đức hạnh của mỗi vua mà đặt tên thụy. Thực ra Vũ là tên. Cho nên Trương Yến nói: "Từ thời vua Thiếu Hạo về trước, hiệu của thiên hạ lấy theo tên đức của vua, từ thời vua Chuyên Húc về sau, hiệu của thiên hạ lại lấy theo tên gọi của vua". Lại xét: Hệ bản chép: "Cổn có lấy người con gái họ Tân tên là Nữ Chí, sinh ra vua Cao Mật". Tống Suy nói: "Cao Mật là nước phong của vua Vũ". Chính nghĩa: Đế vương kỉ chép: "Vợ của Cổn tên là Tu Kỉ thấy sao băng xuyên qua sao mão, nằm mơ cảm thai, lại nuốt hạt ngọc ý dĩ thần, ngực tách ra mà sinh ra Vũ, đặt tên là Văn Mệnh, tên chữ là Mật, thân dài chín thước hai tấc, vốn là người Di miền tây". Đại đái lễ chép: "Cháu của Cao Dương, con của Cổn, tên là Văn Mệnh". Thục vương bản kỉ của Dương Hùng chép: "Vũ vốn là người huyện Quảng Nhu quận Vấn Sơn, sinh ở núi Thạch Nữu". Quát địa chí chép: "Núi Thạch Nữu huyện Vấn Xuyên châu Mậu tại phía tây huyện bảy mươi ba dặm". Hoa Dương quốc chí chép: "Nay người Di cùng giữ đất ấy, trong khoảng trăm dặm không ai dám làm nhà ở đấy, đến nay vẫn không dám thả lục súc". Xét: Huyện Quảng Nhu, nhà Tùy đổi tên là huyện Vấn Xuyên. Cha của Vũ là Cổn, cha của Cổn là vua Chuyên Húc, Sách ẩn: Hoàng Phủ Mật chép: "Cổn là con của vua Chuyên Húc, tên chữ là Hi". Lại nữa Liên sơn dịch chép: "Cổn được phong ở núi Sùng", cho nên Quốc ngữ chép: "Sùng Bá tên là Cổn". Hệ bản cũng cho rằng Cổn là con của Chuyên Húc. Hán thư luật lịch chí lại chép: "Sau vua Chuyên Húc năm đời thì sinh ra Cổn". Xét: Cổn đã làm quan cho vua Nghiêu, chênh lệnh với thời vua Thuấn, mà Thuấn là cháu đời thứ sáu của Chuyên Húc, vậy thì Cổn chẳng phải là con của Chuyên Húc. Có lẽ lời của họ Ban gần với sự thật. cha của Chuyên Húc là Xương Ý, cha của Xương Ý là Hoàng Đế. Vũ là cháu chút của Hoàng Đế và cháu của vua Chuyên Húc. Ông nội của Vũ là Xương Ý và cha là Cổn đều không được nắm ngôi vua, làm bầy tôi. Ở vào thời vua Nghiêu, nước lụt tày trời, mênh mông ngập núi tràn gò, dân chúng lo sợ. Vua Nghiêu tìm người biết ngăn nước lụt, bầy tôi tứ nhạc đều nói là Cổn làm được. Nghiêu nói: "Cổn là người trái lệnh diệt tộc, không được". Tứ nhạc nói: "Chúng tôi chẳng ai giỏi bằng Cổn, mong vua thử hắn". Do đó Nghiêu nghe lời tứ nhạc, dùng Cổn ngăn lụt. Cổn làm chín năm mà nướt lụt không ngừng, công lao chẳng thành. Do đó vua Nghiêu lại tìm người, lại được Thuấn. Thuấn được chọn, nắm chính sự của thiên hạ, tuần thú, di xem chỗ Cổn trị thủy không có công trạng, bèn giết chết Cổn là núi Vũ. Chính nghĩa: Cổn ở núi Vũ hóa thành con hùng vàng, chạy vào suối ở núi Vũ, hạ ba tay xuống thành ba cái chân". Phát mông kí của của Đông Thệ chép: "Con miết có ba chân gọi là 'hùng'". Thiên hạ đều cho rằng Thuấn giết Cổn là phải. Do đó Thuấn chọn con Cổn là Vũ và sai thay nghiệp của Cổn. Nghiêu băng, vua Thuấn hỏi tứ nhạc rằng: "Ai giúp việc cho Nghiêu thành công mà làm quan được"? Tứ nhạc đều nói: "Bá Vũ làm Tư không, có thể thành công đẹp của Nghiêu". Thuấn nói: "Ồ, được"! Lệnh cho Vũ nói: "Mi dẹp bằng đất nước, phải cố gắng lên". Vũ bái tạ cúi đầu, nhường cho Tiết, Hậu Tắc, Cao Dao. Thuấn nói: "Mi đến xem việc ấy đi thôi". Vũ là người nhanh nhẹn chăm chỉ, đức của Vũ không trái, có nhân mà dễ gần, lời nói đáng tin, tiếng ra như âm luật, thân mình như phép tắc. Đã ra làm thì hăng hăng hái hái, đúng lề đúng thói. Vũ bèn cùng với Ích, Hậu Tắc vâng mệnh vua, sai chư hầu trăm họ cho người đến để chia coi đất đai, lên núi chặt gỗ, sửa định núi cao sông lớn. Tập giải: Mã Dung nói: "Sắp đặt lại việc cúng tế sai sót mà mình thấy". Vũ thương tiên nhân là Cổn làm không thành công mà bị giết, bèn lao thân khổ tứ, ở ngoài mười ba năm, qua cửa nhà không dám vào. Ăn cơm ít mặc áo mỏng, tỏ đạo hiếu với quỷ thần. Tập giải: Mã Dung nói: "Cúng tế sạch đẹp". Làm nhà cửa thấp bé để dốc của cải làm kênh rãnh. Tập giải: Họ Bao nói: "Cách một dặm thì làm một cái giếng, trong giếng có rãnh, rãnh sâu rộng bốn thước. Cách mười dặm lại đắp thành, trong thành có rạch, rạch sâu rộng tám thước". Đi bộ thì ngồi xe, đi sông thì cưỡi thuyền, lướt bùn thì dẫm khiêu, đi núi thì xỏ hài, bên trái nắm dây, bên phải cầm khuôn, dựa theo bốn mùa để mở chín châu, thông chín đường, đắp chín đầm, qua chín núi. Sai người cấp thêm lúa cho dân chúng, trồng được nơi ẩm ướt. Lại sai Hậu Tắc cấp những đồ ăn khó tìm. Đồ ăn ít, đem những đồ thừa phát cho nhau để chia đều cho chư hầu. Vũ lại đi xem từng vùng đất để đặt ra phép cống nạp cho đúng hợp và chọn những chỗ tiện lợi của sông núi. Do đó chín châu hòa đồng, bốn góc được yên, chín núi được thờ, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Các ngọn núi trong chín châu đã được mở đường mà đến cúng tế". chín sông chảy suốt, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Sông trong chín châu đã chín đầm được vét và không ứ tắc".. Bốn cõi chung hội. Sáu vật được sửa. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Lục phủ là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, lúa". Đất đai bằng phẳng, thuế cống vừa phải, đều theo luật tam nhưỡng mà cống nạp. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Tam nhưỡng là đất có ba bậc thượng, trung, hạ". Người Trung Quốc được phong họ, đất. Chư hầu nghe theo, không trái mệnh vua. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Trung Quốc là chín châu. Thiên tử đã dựng nước, chư hầu được phong đất, được ban họ, kính theo đức hạnh của thiên tử, lại không làm trái chính giao của thiên tử". Vua Thuấn cử Vũ với trời, làm người nối ngôi. Năm thứ mười bảy thì vua Thuấn băng. Để tang ba năm xong, Vũ nhường ngôi cho con của Thuấn là Thương Quân ở Dương Thành. Tập giải: Lưu Hi nói: "Là huyện Dương Thành quận Dĩnh Xuyên ngày nay". Chư hầu thiên hạ đều bỏ Thương Quân mà theo Vũ. Do đó Vũ bèn lên ngôi thiên tử, Tập giải: Hoàng Phủ Mật nói: "Đóng đô ở Bình Dương, có người nói là ở An Ấp, có kẻ nói là ở Tấn Dương". ngoảnh mặt về phía nam mà nhìn về thiên hạ, gọi tên nước là Hạ Hậu họ là họ Tự. Lễ vĩ chép: "Tổ tiên vì nuốt quả ý dĩ mà sinh ra Vũ". Vua Vũ đã lập rồi cử lấy Cao Dao, lại trao chính sự cho Cao Dao, nhưng vừa lúc Cao Dao chết. Chính nghĩa: Đế vương kỉ chép: "Cao Dao sinh ở Khúc Phủ. Khúc Phụ là chỗ cong (hình trăng khuyết), cho nên vua Nghiêu nhân đó ban cho Cao Dao lấy họ Yển. Vua Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, sai làm quan Sĩ (chủ việc hình pháp). Vua Thuấn truyền cho Vũ, Vũ lên ngôi vua, vì thấy Cao Dao là người hiền nhất, cử Cao Dao với trời, sắp có ý truyền ngôi cho. Chưa kịp truyền ngôi thì vừa lúc Cao Dao chết". Quát địa lí chép: "Mộ của Cao Dao ở phía đông thành Lục phía nam huyện An Phong châu Thọ một trăm ba mươi dặm, là ngôi mộ lớn ở trong bờ Đông Đô". Phong dòng dõi của Cao Dao ở đất Anh, đất Lục, Tập giải: Từ Quảng nói: "Sử kí chép là 'Anh', do đó Anh Bố là dòng dõi của họ". Sách ẩn: Địa lí chí chép: "Huyện Lục quận Lục An là chỗ mà dòng dõi Cao Dao họ Yển được phong. Còn đất Anh thì khuyết, không biết ở đâu, cho rằng Kình Bố là dòng dõi của họ". Chính nghĩa: "Huyện Cố Thủy châu Quang vốn là nước Lục thời Xuân thu, họ Yển, dòng dõi của Cao Dao". Tả truyện chép: "Vua Sở tên là Tiếp diệt nước Lục". Thái Khang địa chép: "Nước Lục lúc đầu ở huyện cũ Nam Dương, là thành Hồ cũ thuộc huyện Yển châu Dự, sau dời đến đấy". Quát địa chí chép: "Nước Lục xưa tại phía nam huyện An Phong châu Thọ một trăm ba mươi hai dặm. Theo kinh Xuân thu chép rằng vào mùa thu năm thứ năm thời Lỗ Văn Công thì Sở Thành Vương đại diệt nước Lục". có người được phong ở đất Hứa. Tập giải: Hoàng lãm chép: "Mộ của Cao Dao ở huyện Lục quận Lư Giang". Sách ẩn: Quát địa chí chép: "Thành Hứa cũ tại phía nam huyện Hứa Xương châu Hứa ba mươi dặm, vốn là huyện Hứa thời Hán, là nước Hứa cũ". Rồi sau đó cử Ích nắm chính sự. Năm thứ mười, vua Vũ đi tuần thú miền đông, đến tại núi Cối Kê thì băng. Tập giải: Hoàng Phủ Mật nói: "Vũ thọ hơn trăm tuổi". trao thiên hạ cho Ích. Để tang ba năm xong, Ích nhường ngôi cho con Vũ là Khải, rồi tránh đến ở tại phía nam núi Kì. Tập giải: Mạnh Tử chép 'phía nam núi' là 'phía bắc núi'. Lưu Hi nói: "Ở phía bắc núi Sùng Cao". Chính nghĩa: Xét phía bắc núi là đất Dương Thành. Quát địa chí chép: "Huyện Dương Thành ở phía bắc núi Kì ba mươi dặm". Lại sợ rằng chữ 'Kì' là lầm, vốn là chữ 'Tung', vì chữ giống nhau. Huyện Dương Thành ở phía nam núi Tung hai mươi ba dặm, tức là phía nam núi Tung". Con vua Vũ là Khải hiền, thiên hạ liền theo ý. Kịp lúc vua Vũ băng, dẫu truyền ngôi cho Ích nhưng Ích giúp vua Vũ ngày càng kém, thiên hạ chưa hòa. Cho nên chư hầu đều bỏ Ích mà theo Khải, nói: "Vua ta là con của vua Vũ". Do đó Khải bèn lên ngôi thiên tử, đấy là vua Khải nhà Hạ Hậu. Vua Khải nhà Hạ Hậu là con của vua Vũ, mẹ là con gái của họ Đồ Sơn. Họ Hữu Hỗ không phục, Tập giải: Địa lí chí chép: "Huyện Hộ quận Phù Phong là nước Hỗ xưa". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Hộ phía nam châu Ung là nước Hỗ xưa". Địa lí chí chép: "Huyện Hộ là nước Hỗ xưa, có đình Hộ". Huấn toản chép: "Ba chữ Hộ, Hỗ, Hô đều là chỉ một nước, vì xưa nay dùng chữ không giống nhau mà thôi". Khải đánh họ, đại chiến ở đất Cam. Tập giải: Mã Dung nói: "Đất Cam là chỗ ngoài phía nam của họ Hữu Hỗ". Sách ẩn: Chỗ mà vua Khải nhà Hạ đánh là đình Cam phía nam huyện Hộ ngày nay. Sắp đánh, vua Khải tác bài văn 'Cam thệ', lại gọi lục khanh đến bày tỏ. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Sáu quân của thiên tử, tướng của chúng đều gọi là khanh". Vua Khải nói: "Hê! Những kẻ coi sáu việc, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Đều nắm việc quân, cho nên nói là 'sáu việc'. ta thề báo cho các ngươi rằng: họ Hữu Hỗ uy hiếp ngũ hành, vứt bỏ tam chính, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Ngũ hành là cái thịnh đức của bốn mùa luân chuyển. Uy hiếp là làm trái ngũ hành. Tam chính là đạo chính của trời, đất, người". Thiên tử phải cắt đứt mạng nó. Nay ta cùng các ngươi thay trời phạt nó. Nếu kẻ bên trái không đánh địch bên trái, kẻ bên phải không đánh địch bên phải là kẻ đó không vâng mệnh. Nếu kẻ đánh xe ngựa mà không khiển ngựa thì kẻ đó không vâng mệnh. Nếu vâng mệnh thì thưởng ở miếu tổ. Nếu không vâng mệnh thì giết ở miếu xã, ta cũng giết cả vợ con kẻ đó". Rút cuộc diệt họ Hữu Hỗ. Thiên hạ đều theo về. Vua Khải nhà Hạ Hậu băng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Hoàng Phủ Mật cho rằng vua Khải nhà Hạ lên ngôi vào ngày giáp thìn, ngày quý sửu năm thứ mười thì băng". con là vua Thái Khang lập. Vua Thái Khang mất nước, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Vui chơi săn bắt ở ruộng, không lo việc dân, bị Hậu Nghệ đuổi, không về nước được". năm người anh em dừng ở đất Lạc Nhuế, tác bài hát 'Ngũ tử'. Tâp giải: Khổng An Quốc nói: "Năm anh em của vua Thái Khang cùng mẹ mình đợi vua Thái Khang ở phía bắc sông Lạc, oán mình không về được, cho nên tác bài ca này". Vua Thái Khang băng, em giữa là Trung Khang lập, đấy là vua Trung Khang. Vào thời vua Trung Khang, Hi-Hòa say đắm, bỏ bê việc chép ngày tháng. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Họ Hi, họ Hòa là quan coi bốn mùa trời đất. Sau thời vua Thái Khang, Hi-Hòa say đắm bởi rượu, làm loạn lịch trời, ruồng bỏ giáp ất". Dận vâng mệnh đánh Hi-Hòa, tác bài văn 'Dận chinh'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Vua của nước Dận vâng mệnh đến đánh Hi-Hòa". Trịnh Huyền nói: "Dận là tên một bầy tôi". Vua Trung Khang băng, con là vua Tương lập. Vua Tương băng, con là vua Thiếu Khang lập. Sách ẩn: Tả truyện chép Ngụy Trang Tử nói: "Ngày xưa vào buổi nhà Hạ suy, Hậu Nghệ từ ấp Tư dời sang ấp Cùng Thạch, dựa vào nhà Hạ thay ngôi nhà Hạ. Hậu Nghệ dựa vào tài bắn tên của mình, không sửa việc dân mà lại tin nghe lời kẻ gièm pha họ Bá Minh tên là Hàn Trác. Trác giết Nghệ, nấu chín cho con của Nghệ ăn, con không nỡ ăn, bèn giết ở cửa Cùng. Trác nhân đó lấy vợ của Nghệ sinh ra Kiêu và Ế, sai Kiêu diệt họ Châm Quán và họ Châm Tầm, còn Tương bị Kiêu giết, vợ là Hậu Mân chạy về nước Hữu Nhưng, sinh ra Thiếu Khang. Có bầy tôi nhà Hạ tên là Mĩ từ nước Hữu Cách thu dân còn sót của hai nước để giết Trác mà lập Thiếu Khang. Thiếu Khang giết Kiêu ở ấp Quá; Hậu Trữ giết Ế ở ấp Qua. Nước Hữu Cùng bèn mất". Vậy thì vua Tương tự bị soán ngôi mà bị giết, trung gian còn qua hai đời là Nghệ , Trác, có lẽ khoảng ba chục năm. Mà bản kỉ này không chép ra, lại chép thẳng là 'vua Tương băng, con là Thiếu Khang lập', thật là quá sơ sài. Chính nghĩa: Đế vương kỉ chép: "Hậu Nghệ họ Hữu Cùng không biết tổ tiên họ gì, từ đời vua Khốc về trước thì nắm chức Xạ chính (dạy bắn tên). Đến đời vua Khốc, ban cho cung đỏ tên trắng, phong ở ấp Tư, làm quan Tư xạ của vua Khốc. Trải qua thời nhà Ngu đến nhà Hạ, bấy giờ Nghệ học nghề bắn tên từ Cát Phủ, tay Nghệ dài, cho nên bắn tên giỏi mà nổi tiếng. Kịp lúc nhà Hạ suy, Nghệ từ ấp Tư dời đến ấp Cùng Thạch, dựa vào người Hạ mà lấy ngôi vua nhà Hạ. Vua Tương dời đến ấp Thương Khâu, nương vào chư hầu cùng họ là Châm Tầm. Nghệ ỷ vào tài bắn tên, không sửa việc dân, chìm đắm trong việc săn bắn ở ngoài ruộng, bỏ bầy tôi giỏi là Vũ La, Bá Nhân, Hùng Khôn, Bàng Ngữ mà tin Hàn Trác. Hàn Trác là kẻ nịnh nọt của họ Bá Minh. Họ Bá Minh sau đó vì Hàn Trác hay nịnh mà bỏ hắn, nhưng Nghệ dùng Hàn Trác làm Tể tướng của mình. Hàn Trác giết Nghệ ở ấp Đào Ngô rồi nấu chín cho con Nghệ ăn, con Nghệ không nỡ ăn thịt cha mình, chết ở cửa Cùng. Trác bèn chiếm lấy nhà Hạ, lập làm vua. Hàn Trác lấy hiệu nước là Hữu Cùng, lấy vợ của Nghệ sinh ra Ngạo và Ế. Ngạo sức khỏe, có thể đi thuyền trên đất đá, sai Ngạo đem quân diệt Châm Quán, Châm Tầm, giết vua Tương nhà Hạ, phong Ngạo ở ấp Quá, phong Ế ở ấp Qua. Hàn Trác cậy trí lực, không lo việc dân. Lúc trước vào buổi Ngạo giết vua Tương, có vợ của vua Tương là con gái họ Hữu Nhưng tên là Hậu Mân chạy về ấp Hữu Nhưng, sinh ra Thiếu Khang. Buổi đầu có bầy tôi cũ của nhà Hạ tên là Mĩ giúp Nghệ , sau khi Nghệ chết, trốn về ấp Hữu Cách, thu dân còn sót của hai nước Châm-Tầm mà đi giết Hàn Trác, lập Thiếu Khang, diệt Ngạo ở ấp Quá; Hậu Trữ giết Ế ở ấp Qua, nước Hữu Cùng bèn mất". Xét: Vua Tương bị cướp ngôi, trải hai đời Nghệ - Trác là bốn mươi năm mà bản kỉ không chép, cũng là chỗ mà Tư Mã Thiên chép sơ lược. Ngạo, âm là 'ngũ cáo phiên'. Ế, âm là 'hứa khí phiên'. Quát địa chí chép: "Ấp Tư cũ tại phía đông huyện Vi châu Hoạt mười dặm". Tấn địa kí chép: "Quận Hà Nam có hang Cùng, có lẽ vốn là chỗ mà họ Hữu Cùng chuyển đến ở". Quát địa chí chép: "Ấp Thương Khâu thuộc châu Tống ngày nay. Ấp Châm Quán xưa tại phía đông huyện Thọ Quang châu Thanh năm mươi tư dặm. Ấp Châm Tầm xưa là huyện Bắc Hải châu Thanh ngày nay. Đình Quá Hương tại phía tây bắc huyện Dịch châu Lai hai mươi dặm vốn là nước Quá xưa. Ấp Hữu Cách cũ tại huyện Mật châu Lạc. Đỗ Dự nói là tên nước, là huyện Cách quận Bình Nguyên ngày nay". Nước Qua tại vùng Tấn-Trịnh. Nước Hàn là đình Hàn ở phía đông huyện Bình Thọ quận Bắc Hải. Họ Bá Minh là vua nước Hàn. Thần Toản nói: "Ấp Châm Tầm tại quận Hà Nam, có lẽ sau này dời đến quận Bắc Hải. Có bài văn cổ trong ngôi mộ ở huyện Cấp chép rằng: "Vua Thái Khang cư ở ấp Châm Tầm, Nghệ cũng trú ở đó, vua Kiệt cũng ở đây". Thượng thư chép: "Thái Khang mất nước, năm người anh em đợi ở Lạc Nhuế". Tức là vua Thái Khang ở chỗ gần sông Lạc. Lại nữa Ngô Khởi đáp Ngụy Vũ Hầu rằng: "Chỗ ở của vua Kiệt nhà Hạ, bên trái là sông Hà, sông Tế, bên phải là núi Thái Hoa, cửa Y ở phía nam, núi Dương Tràng ở phía bắc". Lại nữa Chu thư độ ấp biên chép: "Ta chọn chỗ dựa vào nơi ở cua vua Kiệt nhà Hạ". Tức là quận Hà Nam. Quát địa chí chép: "Ấp Tầm cũ tại phía tây nam huyện Củng châu Lạc năm mươi tám dặm, có lẽ là chỗ vua Kiệt ở. Huyện Dương Trạch lại là chỗ Vũ được phong, làm Hạ Bá. Vua Thiếu Khang băng, con là vua Trữ lập. Sách ẩn: Đọc là 'trữ'. Tả truyện chép: "Trữ diệt Ế ở ấp Qua". Quốc ngữ chép: "Trữ có thể noi theo Vũ". Vua Trữ băng, con là vua Hòe lập. Vua Hòe băng, con là vua Mang lập. Vua Mang băng, con là vua Tiết lập. Vua Tiết băng, con là vua Bất Giáng lập. Vua Bất Giáng băng, em là vua Quynh lập. Vua Quynh băng, con là vua Cận lập. Vua Cận băng, lập con của vua Bất Giáng là Khổng Giáp, đấy là vua Khổng Giáp. Vua Khổng Giáp lập, chuộng thờ quỷ thần, làm việc dâm loạn. Họ Hạ Hậu đức suy, chư hầu phản lại. Trời giáng hai con rồng, có con cái con đực, nhưng Vua Khổng Giáp không cho ăn, cũng không tìm họ Hoạn Long. Tập giải: Giả Quỳ nói: "Hoạn là nuôi". Nhà Đào Đường đã suy nhưng dòng dõi còn có người tên là Lưu Luy, Tập giải: Phục Kiền nói: "Sau này Lưu Luy làm chư hầu, nhà Hạ Hậu ban cho họ Lưu Luy". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ Lưu Luy tại phía nam huyện Câu Thị châu Lạc năm mươi lăm dặm, là đất cũ của Lưu Luy". học nuôi rồng ở chỗ họ Hoạn Long để giúp vua Khổng Giáp. Vua Khổng Giáp ban cho Lưu Luy là họ Ngự Long, Tập giải: Phụng Kiền nói: "Ngự cũng là nuôi". nhận đất phong của dòng dõi họ Thỉ Vi. Tập giải: Bùi Nhân xét Giả Qùy nói: "Dòng giõi của Lưu Luy đến đời nhà Thương không dứt, nối thay dòng dõi của họ Thỉ Vi. Dòng dõi của họ Chúc Dung được phong ở ấp Thỉ Vi. Vua Vũ Đinh nhà Ân diệt họ Thỉ Vi, lấy dòng dõi của Lưu Luy thay họ Thỉ Vi". Sách ẩn: Hệ bản chép Thỉ Vi là họ Phòng. Một con rồng cái chết, Lưu Luy đem cho vua nhà Hạ Hậu ăn. Ăn rồi vua nhà Hạ Hậu lại sai sứ đến đòi nữa, Lưu Luy sợ mà bỏ trốn. Tập giải: Giả Qùy nói: "Nhà Hạ Hậu đã ăn rồi lại sai sứ đòi đem thịt rồng đến, Lưu Luy không có nữa mà sợ". Tả truyện chép rằng Lưu Luy trốn đến huyện Lỗ. Vua Khổng Giáp băng, con là vua Cao lập. Vua Cao băng, Tập giải: Tả truyện chép: "Mộ của vua Cao ở lăng phía nam núi Hào". con là vua Phát là vua Phát lập. Vua Phát băng, con là Lí Qúy lập, đấy là vua Kiệt. Sách ẩn: Kiệt là tên. Xét Hệ bản chép rằng vua Phát sinh Phát và Kiệt. Đây lại chép Phát sinh Kiệt. Hoàng Phủ Mật cũng như vậy. Vào thời vua Kiệt, từ thời vua Khổng Giáp đến lúc này thì có nhiều chư hầu phản nhà Hạ, vua Kiệt không tu đức mà lại dùng võ làm hại trăm họ, trăm họ chẳng chịu được. Bèn gọi Thang về mà giam ở ngục Hạ Đài, Sách ẩn: Nhà Hạ cũng gọi là ngục Quân Đài. Hoàng Phủ Mật nói: "Chỗ ấy tại huyện Dương Trạch". rồi lại thả Thang. Thang tu đức, chư hầu đều theo Thang, Thang bèn đem quân đến đánh vua Kiệt nhà Hạ. Vua Kiệt chạy đến ấp Minh Điều, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Chỗ ấy ở phía tây huyện An Ấp". rồi bị đuổi đi mà chết. Tập giải: Từ Quảng nói: "Từ đời vua Vũ đến đời vua Kiệt trải qua mười bảy đời vua, có mười bốn vua". Bùi Nhân xét Cấp trủng kỉ niên chép: "Có vua và không vua, trải bốn trăm bảy mươi mốt năm". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Sào châu Lư có hồ Sào, tức là chỗ mà Thượng thư chép 'Thành Thang đánh Kiệt, đuổi Kiệt đến ấp Nam Sào'. Hoài Nam Tử chép: "Thang đánh bại Kiệt ở núi Lệ, cùng với Muội Hỉ ngồi cùng thuyền bơi sông, trốn đến núi Nam Sào rồi chết". Quốc ngữ chép: "Vua Kiệt nhà Hạ đánh nước Hữu Thi, người Hữu Thi dâng người con gái tên là Muội Hỉ". Vua Kiệt bảo người ta rằng: "Ta hối không giết Thang ở ngục Hạ Đài cho nên đến nỗi này". Thang bèn lên ngôi thiên tử, thay nhà Hạ trị thiên hạ. Thang phong đất cho dòng dõi của nhà Hạ, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ nhà Hạ tại phía đông bắc huyện Giáp Thành châu Nhữ năm mươi tư dặm. Có lẽ là chỗ mà họ Hạ Hậu được phong". đến đời nhà Chu được phong ở ấp Kỉ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Ung Khâu châu Biện là thành nước Kỉ xưa. Chu Vũ Vương phong dòng dõi của vua Vũ, hiệu là Đông Lâu Công". Thái sử công nói: Vua Vũ lấy họ Tự, dòng dõi phân phong, lấy tên nước làm tên họ, cho nên có họ Hạ Hậu, họ Hữu Hỗ, hoh Hữu Nam, họ Châm Tầm, Tập giải: Từ Quảng nói: "Có sách chép là họ Châm, họ Tầm". họ Đồng Thành, họ Bao, họ Phí, Sách ẩn: Hệ bản không chép họ Đồng Thành và họ Bao. Xét thấy nhà Chu có Đồng Bá, có lẽ là dòng dõi họ Đồng Thành. Địa lí kí của Trương Ngao chép: "Huyện Bình Thọ quận Nhữ Nam là nước Châm Tầm xưa". họ Kỉ, họ Tăng, họ Tân, họ Minh, họ Châm. Vào lúc Khổng Tử sửa lịch nhà Hạ, nhiều học giả học chương 'Tiểu chính' của nhà Hạ. Tập giải: Lễ vận dẫn lời Khổng Tử rằng: "Ta muốn xem đạo của nhà Hạ cho nên đến nước Kỉ, nhưng không tìm được đủ, ta chỉ tìm được lịch của nhà Hạ". Trịnh Huyền nói: "Khổng Tử tìm được lịch bốn mùa của nhà Hạ, nay còn có chương 'Tiểu chính'". Sách ẩn: 'Tiểu chính' là chương của sách Đại đái lễ. Từ thời nhà Ngu, nhà Hạ việc nạp cống phú đã có. Có người nói vua Vũ hội chư hầu ở phía nam sông Giang, kể công rồi băng, nhân đó táng ở đấy, mệnh gọi là núi Cối Kê. 'Cối Kê' là 'hội họp kể công' vậy. Tập giải: Hoàng lãm chép: "Mộ của vua Vũ ở trên núi Cối Kê huyện Sơn Âm. Núi Cối Kê vốn có tên là núi Miêu, tại phía nam huyện Sơn Âm, cách huyện này bảy dặm". Việt truyện chép: "Vua Vũ đến đất Đại Việt, lên núi Miêu, đại hội chư hầu kể công, phong tước kẻ có đức, phong đất người có công, nhân đó mà đổi tên núi Miêu thành núi Cối Kê. Rồi bệnh chết, táng ở đấy, lấy lá sậy làm áo quan, đào huyệt sâu bảy thước, trên không đắp bùn lầy, dưới không chứa nước, vun đàn cao ba thước, có ba lớp đất, vòng quanh một mẫu". Lữ thị xuân thu chép: "Vũ táng ở núi Cối Kê, không làm phiền nhiều người". Mặc Tử chép: "Vũ táng ở núi Cối Kê, áo khoác ba lớp, áo quan bằng gỗ cây đồng dày ba thước". Địa lí chí chép: "Trên núi Cối Kê có giếng của Vũ, miếu thờ Vũ, tương truyền cho rằng ở đấy có bầy chim làm sạch cỏ ruộng". Sách ẩn: Lấy sậy làm áo quan, ý nói là lấy lau sậy mà bọc thây, là sai. Vũ dẫu tiết kiệm, nhưng há là vua của muôn nước mà bầy tôi chỉ lấy lây sậy bọc thây sao? Mặc Tử chép là áo quan bằng gỗ đồng dày ba thước, có lẽ đúng với ý người. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Lăng vua Vũ tại phía nam huyện Cối Kê châu Việt mười ba dặm. Miếu vua Vũ tại phía đông nam huyện mười một dặm". Vào thời vua Kiệt, Tập giải: Thụy pháp chép: "Hay giết hại người khác gọi là 'Kiệt'". từ thời vua Khổng Giáp đến lúc này thì có nhiều chư hầu phản nhà Hạ, vua Kiệt không tu đức mà lại dùng võ làm hại trăm họ, trăm họ chẳng chịu được. [www.sidneyluo.net] ----------------- ở trên cơ bản xong Hạ bản kỉ, Tích mỗ lược bỏ một số đoạn văn kể về công cuộc tung hoành chín châu có vẻ huyền hoặc của Vũ và đối thoại giữa Thuấn và Vũ, Ích, Qùy không cần thiết lắm, đợi khi khác sẽ dịch trọn... Ân bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Ân Tiết, Sách ẩn: Tiết lúc trước phong ở đất Thương, dòng dõi là Bàn Canh chuyển đến đất Ân, đất Ân ở phía nam huyện Nghiệp, bèn lấy tên Ân làm tên hiệu của thiên hạ. Tiết là ông tổ đầu tiên của nhà Ân, cho nên gọi là Ân Tiết. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện An Dương châu Tương vốn là chỗ mà Bàn Canh đóng đô, tức đất Bắc Mông. Đất Ân Khư phía nam cách thành Triều Ca một trăm bốn mươi sáu dặm". Trúc thư kỉ niên chép: "Bàn Canh từ đất Yểm dời đến đất Bắc Mông, gọi là Ân Khư, phía nam cách huyện Nghiệp bốn mươi dặm". Phía tây nam thành huyện Nghiệp cũ ba mươi dặm có sông Hoàn, cách bờ nam ba dặm có thành An Dương, phía tây có thành gọi là thành Ân Khư, là chỗ gọi là đất Bắc Mông. Nay xét thấy sông Hoàn tại phía bắc châu Tương bốn dặm, thành An Dương là thành ngoài châu Tương. mẹ là Giản Địch, Sách ẩn: Địch, âm là 'thổ lịch phiên'. là con gái họ Hữu Tung, Tập giải: Hoài Nam Tử chép: "Đất Hữu Tung tại phía bắc núi Bất Chu". Chính nghĩa: Xét Lễ kí chép: "Kiệt thua ở gò Hữu Tung". Hữu Tung tại châu Bồ ngày nay. làm vợ lẽ của vua Khốc. Ba người Giản Địch đi tắm, thấy con chim đen thả quả trứng xống, Giản Địch nhặt nuốt nó, nhân đó có thai sinh ra Tiết. Sách ẩn: Tiếu Chu nói: "Tiết sinh vào thời vua Nghiêu, vua Thuấn bắt đầu cử Tiết, vậy Tiết chắc không phải là con của vua Khốc. Vì cha Tiết không có cho nên không chép. Mẹ Tiết là con gái họ Hữu Tung, cùng ba người đàn bà họ hàng tắm ở sông, có con chim đen thả quả trứng, Giản Địch nuốt trứng, vậy thì rõ rằng Giản Địch không phải là vợ lẽ của vua Khốc". Tiết lớn lên thì giúp Vũ trị thủy có công. Vua Thuấn bèn lệnh Tiết rằng: "Trăm họ chẳng thân, ngũ phẩm chẳng dạy, ngươi làm quan Tư đồ mà kính theo ngũ giáo, ngũ giáo cốt ở khoan dung". Phong Tiết ở ấp Thương, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Nước Thương ở phía nam núi Thái Hoa". Hoàng Phủ Mật nói: "Đất Thượng Lạc ngày nay là đất Thương xưa". Sách ẩn: Vua Nghiêu phong Tiết ở ấp Thương, tức Thi Thương tụng chép: "Họ Hữu Tung đang lớn, trời cho con sinh Thương". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía đông châu Thương tám mươi dặm là huyện Thương Lạc, vốn là ấp Thương, nước Thương thời xưa, là chỗ mà con của vua Khốc là Tiết được phong". ban cho họ Tử. Tập giải: Lễ vĩ chép: "Tổ tiên được chim đen sinh con". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Tử cũ tại phía đông bắc huyện Hoa Thành châu Vị tám mươi dặm, có lẽ là ấp riêng của họ Tử". Tiết nổi lên ở thời Đường, Ngu, Đại Vũ, công nghiệp vang khắp trăm họ, trăm họ được yên. Tiết chết, con là Chiêu Minh lập. Chiêu Minh chết, con là Tương Thổ lập. Tập giải: Tống Trung nói: "Tương Thổ nối nghiệp Tiết được phong ở ấp Thương". Xuân thu Tả thị truyện chép: "Át Bá cư ở ấp Thương Khâu, Tương Thổ theo đó". Sách ẩn: Tương Thổ giúp nhà Hạ, công nổi ở ấp Thương. Thi tụng chép: "Tương Thổ hiển hách, ngoài cõi cung kính". Tả truyện chép: "Ngày xưa vào thời họ Đào Đường có quan Hỏa chính là Át Bá cư ở ấp Thương Khâu, Tương Thổ nối theo". Đấy là bắt đầu phong ở ấp Thương. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tống Thành châu Tống là ấp của Át Bá ngày xưa, tức ấp Thương Khâu, lại là đất mà Hậu Nghệ được phong". Tương Thổ chết, con là Xương Nhược lập. Xương Nhược chết, con là Tào Ngữ lập. Sách ẩn: Hệ bản chép là 'Lương Ngữ'. Tào Ngữ chết, con là Minh lập. Tập giải: Tống Trung nói: "Minh làm quan Tư không, chăm làm việc quan, chết ở giữa sông, người Ân tế Minh". Sách ẩn: Lễ kí chép: "Minh chăm việc quan mà chết ở sông". Người Ân có tổ là Tiết và dòng dõi là Minh. Minh chết, con là Chấn lập. Chấn chết, con là Vi lập. Sách ẩn: Hoàng Phủ Mật nói: "Vi, tên chữ là Thượng Giáp, vì mẹ Vi ngày giáp sinh Vi mà đặt tên ấy". Nhà Thương sinh con lấy tên ngày làm tên gọi, có lẽ bắt đầu từ Vi. Tiếu Chu cho là ngày chết Ân Tiết, Sách ẩn: Tiết lúc trước phong ở đất Thương, dòng dõi là Bàn Canh chuyển đến đất Ân, đất Ân ở phía nam huyện Nghiệp, bèn lấy tên Ân làm tên hiệu của thiên hạ. Tiết là ông tổ đầu tiên của nhà Ân, cho nên gọi là Ân Tiết. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện An Dương châu Tương vốn là chỗ mà Bàn Canh đóng đô, tức đất Bắc Mông. Đất Ân Khư phía nam cách thành Triều Ca một trăm bốn mươi sáu dặm". Trúc thư kỉ niên chép: "Bàn Canh từ đất Yểm dời đến đất Bắc Mông, gọi là Ân Khư, phía nam cách huyện Nghiệp bốn mươi dặm". Phía tây nam thành huyện Nghiệp cũ ba mươi dặm có sông Hoàn, cách bờ nam ba dặm có thành An Dương, phía tây có thành gọi là thành Ân Khư, là chỗ gọi là đất Bắc Mông. Nay xét thấy sông Hoàn tại phía bắc châu Tương bốn dặm, thành An Dương là thành ngoài châu Tương. mẹ là Giản Địch, Sách ẩn: Địch, âm là 'thổ lịch phiên'. là con gái họ Hữu Tung, Tập giải: Hoài Nam Tử chép: "Đất Hữu Tung tại phía bắc núi Bất Chu". Chính nghĩa: Xét Lễ kí chép: "Kiệt thua ở gò Hữu Tung". Hữu Tung tại châu Bồ ngày nay. làm vợ lẽ của vua Khốc. Ba người Giản Địch đi tắm, thấy con chim đen thả quả trứng xống, Giản Địch nhặt nuốt nó, nhân đó có thai sinh ra Tiết. Sách ẩn: Tiếu Chu nói: "Tiết sinh vào thời vua Nghiêu, vua Thuấn bắt đầu cử Tiết, vậy Tiết chắc không phải là con của vua Khốc. Vì cha Tiết không có cho nên không chép. Mẹ Tiết là con gái họ Hữu Tung, cùng ba người đàn bà họ hàng tắm ở sông, có con chim đen thả quả trứng, Giản Địch nuốt trứng, vậy thì rõ rằng Giản Địch không phải là vợ lẽ của vua Khốc". Tiết lớn lên thì giúp Vũ trị thủy có công. Vua Thuấn bèn lệnh Tiết rằng: "Trăm họ chẳng thân, ngũ phẩm chẳng dạy, ngươi làm quan Tư đồ mà kính theo ngũ giáo, ngũ giáo cốt ở khoan dung". Phong Tiết ở ấp Thương, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Nước Thương ở phía nam núi Thái Hoa". Hoàng Phủ Mật nói: "Đất Thượng Lạc ngày nay là đất Thương xưa". Sách ẩn: Vua Nghiêu phong Tiết ở ấp Thương, tức Thi Thương tụng chép: "Họ Hữu Tung đang lớn, trời cho con sinh Thương". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía đông châu Thương tám mươi dặm là huyện Thương Lạc, vốn là ấp Thương, nước Thương thời xưa, là chỗ mà con của vua Khốc là Tiết được phong". ban cho họ Tử. Tập giải: Lễ vĩ chép: "Tổ tiên được chim đen sinh con". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Tử cũ tại phía đông bắc huyện Hoa Thành châu Vị tám mươi dặm, có lẽ là ấp riêng của họ Tử". Tiết nổi lên ở thời Đường, Ngu, Đại Vũ, công nghiệp vang khắp trăm họ, trăm họ được yên. Tiết chết, con là Chiêu Minh lập. Chiêu Minh chết, con là Tương Thổ lập. Tập giải: Tống Trung nói: "Tương Thổ nối nghiệp Tiết được phong ở ấp Thương". Xuân thu Tả thị truyện chép: "Át Bá cư ở ấp Thương Khâu, Tương Thổ theo đó". Sách ẩn: Tương Thổ giúp nhà Hạ, công nổi ở ấp Thương. Thi tụng chép: "Tương Thổ hiển hách, ngoài cõi cung kính". Tả truyện chép: "Ngày xưa vào thời họ Đào Đường có quan Hỏa chính là Át Bá cư ở ấp Thương Khâu, Tương Thổ nối theo". Đấy là bắt đầu phong ở ấp Thương. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tống Thành châu Tống là ấp của Át Bá ngày xưa, tức ấp Thương Khâu, lại là đất mà Hậu Nghệ được phong". Tương Thổ chết, con là Xương Nhược lập. Xương Nhược chết, con là Tào Ngữ lập. Sách ẩn: Hệ bản chép là 'Lương Ngữ'. Tào Ngữ chết, con là Minh lập. Tập giải: Tống Trung nói: "Minh làm quan Tư không, chăm làm việc quan, chết ở giữa sông, người Ân tế Minh". Sách ẩn: Lễ kí chép: "Minh chăm việc quan mà chết ở sông". Người Ân có tổ là Tiết và dòng dõi là Minh. Minh chết, con là Chấn lập. Chấn chết, con là Vi lập. Sách ẩn: Hoàng Phủ Mật nói: "Vi, tên chữ là Thượng Giáp, vì mẹ Vi ngày giáp sinh Vi mà đặt tên ấy". Nhà Thương sinh con lấy tên ngày làm tên gọi, có lẽ bắt đầu từ Vi. Tiếu Chu cho là ngày chết xưng ở chủ miếu gọi 'Giáp'. Vi chết, con là Báo Đinh lập. Báo Đinh chết, con là Báo Ất lập. Báo Ất chết, con là Báo Bính lập. Báo Bính chết, con là Chủ Nhâm lập. Chủ Nhâm chết, con là Chủ Qúy lập. Chủ Qúy chết, con là Thiên Ất lập, đấy là Thành Thang. Tập giải: Trương Yến nói: "Vũ, Thang đều là tên chữ. Hai vua ấy bỏ phép của nhà Đường-Ngu, theo thói của Cao Dương, cho vua của nhà Hạ-Ân đều lấy tên làm hiệu". Thụy pháp chép: "Trừ tàn diệt ngược gọi là 'Thang'". Sách ẩn: Thang có tên là Lí. Thượng thư chép: "Con nhỏ của ta là Lí". Lại gọi Thang là Thiên Ất. Tiếu Chu nói: "Theo lễ của nhà Hạ-Ân, sống gọi tên vua, chết gọi tên chủ miếu, đều lấy tên vua ghép vào. Trời cũng là vua, người Ân tôn thờ Thang, cho nên gọi là Thiên Ất". Từ đời Tiết đến đời Thang cả thảy mười bốn đời, cho nên Quốc ngữ chép: "Vua đen sinh Thương, mười bốn đời hưng". Vua đen là Tiết. Thành Thang, từ đời Tiết đến đời Thang là tám đời dời chỗ ở. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Mười bốn đời cả thảy tám lần dời đô thành". Thang bắt đầu cư ở ấp Bạc, Tập giải: Hoàng Phủ Mật nói: "Huyện Cốc Thục nước Lương là đất Nam Bạc, là đô của Thang". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía tây nam huyện Cốc Thục châu Tống ba mươi lăm dặm là thành cũ Nam Bạc, là đô của Thang. Phía bắc châu Tống năm mươi dặm là thành Đại Mông, là đất Cảnh Bạc, là nơi mà Thang thề, có núi Cảnh cho nên đặt tên ấy. Huyện Yển Sư quận Hà Nam là đất Tây Bạc, là chỗ mà vua Khốc và Thang đóng đô, Bàn Canh cũng dời đô đến đấy". theo chỗ tiên vương mà ở, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Cha Tiết là vua Khốc đô ở đất Bạc, Thang từ ấp Thương Khâu dời đến đấy, cho nên nói là 'theo chỗ tiên vương mà ở'". Chính nghĩa: Xét thấy đất Bạc là thành Yển Sư. Thương Khâu là châu Tống. Thang lên ngôi, đô ở Nam Bạc, sau dời đến Tây Bạc. Quát địa chí chép: "Thành cũ ấp Bạc tại phía tây huyện Yển Sư châu Lạc mười bốn dặm, vốn là đô của vua Khốc, cũng là đô của vua Thang nhà Thương". tác bài văn 'Đế cáo'. Sách ẩn: Khổng An Quốc cho răng tác bài văn cáo cho tiên vương là mình đến ở đất Bạc. Thang đánh chư hầu. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Làm phương bá của nhà Hạ, được quyền đánh dẹp". Cát Bá không phục, Thang bắt đầu đánh Cát Bá. Tập giải: Mạnh Tử chép: "Thang ở đất Bạc, kề với Cát Bá". Địa lí chí chép: "Ấp Cát là làng Cát huyện Ninh Lăng nước Lương ngày nay". Thang nói: "Ta có nói rằng: người ta nhìn vào mặt nước thì thấy hình, nhìn dân thì biết nước ấy có được trị hay không"? Y Doãn nói: "Rõ thay! Nói nghe được, đạo mới truyền. Trị nước an dân, làm cho người tốt đều làm quan cho vua. Gắng lên, gắng lên"! Thang nói: "Mi không vâng mệnh được, ta phải đánh phạt mi, không có tha cho". Tác vài văn 'Thang chinh'. Y Doãn tên là A Hành. Tập giải: Tôn Tử binh thư chép: "Y Doãn tên là Chí". Khổng An Quốc nói là 'Y Chí', còn có người giải thích A Hành là tên chức quan. Xét: 'A' là nương dựa, 'Hành' là ngang bằng. Ý nói dựa vào mà ngang bằng. Thượng thư chép: "Chỉ là vua nối ngôi không hợp với A hành". Cũng nói là 'Bảo hành', đều là tên chức quan của Y Doãn, không phải là tên gọi. Hoàng Phủ Mật nói: "Y Doãn là dòng dõi của Lực Mục, sinh ở ấp Không Tang". Lại nữa Lữ thị xuân thu chép: "Có người con gái họ Hữu Sân hái lá dâu gặp được đứa trẻ con ở ấp Không Tang, mẹ cư ở sông Y, đặt tên là Y Doãn". Doãn là sửa. Ý nói Thang sai Y Doãn sửa trị thiên hạ. A Hành muốn gặp Thang mà không có cớ gì, bèn làm người hầu đưa cô dâu họ Hữu Sân, Tập giải: Liệt nữ truyện chép: "Vợ Thang là con gái họ Hữu Sân". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Nước Sân xưa tại phía đông huyện Trần Lưu châu Biện năm dặm, là thành nước Sân cũ". Trần Lưu phong tục truyện chép: "Huyện Ngoại Hoàng quận Trần Lưu có đình Sân Xương, vốn thuộc nước Tống, là ấp của họ Sân". mang mâm lễ đến nói lời hay để thuyết phục Thang, kể đạo làm vua. Có người nói Y Doãn là kẻ sĩ ở ẩn, Thang sai người rước đón, sau năm lần rồi mới chịu đến theo Thang, nói về việc làm của tố vương và cửu chủ. Tập giải: Biệt lục của Lưu Hướng chép: "Cửu chủ là vua hình pháp, vua chuyên quyền, vua nương dựa, vua chăm làm, vua công bằng, vua gửi gắm, vua phá nước, vua giữ thành, vua ba tuổi chủ xã tắc, cả thảy chín vị, vẽ hình dáng của họ". Sách ẩn: Xét 'tố vương' là vua thời xa xưa, phép tắc chất phác, cho nên gọi là 'tố vương'. Cửu chủ là Tam hoàng, Ngũ đế và vua Vũ nhà Hạ. Có người nói cửu chủ là Cửu hoàng. Nhưng xét thấy tên gọi cửu chủ mà Lưu Hướng nói trong Biệt lục rất lạ, không biết dựa vào đâu mà nói vậy. Vua hình pháp là vua dùng hình pháp nghiêm ngặt như Tần Hiếu Công và Tần Thủy Hoàng. Vua chăm làm là vua chăm chỉ giúp thiên hạ, như Vũ-Tắc. Vua công bằng là vua đặt thứ bậc khen thưởng ngang nhau, như Hán Cao Tổ phong công thần, ban tước Hầu cho Ung Xỉ. Vua nương dựa là vua không tự nắm việc được mà trao cho bầy tôi, như Yên Vương tên là Khoái dựa vào con, như Vũ trao quyền cho Ích. Vua chuyên quyền là vua tự mình xử đoán, không nghe hiền thần, như Hán Tuyên Đế. Vua phá nước là vua khinh địch dẫn giặc đến, nước mất thân diệt, như Sở Vương tên là Mậu, Ngô Vương tên là Tị. Vua gửi gắm là vua bị bầy tôi gây khó, chủ kiêu ở trên, đợi ngày đổ vỡ, cho nên Mạnh Kha mới nói là 'vua gửi gắm'. Vua giữ thành là vua ở trong thành, cậy vào giáp binh sắc bén mà không tu đức, như Tam Miêu, Trí Bá. Vua ba tuổi chủ xã tắc, là vua còn mang tã địu mà làm chủ xã tắc, như Chu Thành Vương, Hán Chiêu Đế, Hán Bình Đế. Lại có chú thích cửu chủ là vua hình pháp, vua chăm làm, vua công bằng, vua chuyên quyền, vua nương dựa, vua phá nước, vua giữ thành, lấy vua ba tuổi, vua chủ xã tắc làm hai, sợ rằng sai. Thang cử Y Doãn sửa chính sự. Y Doãn bỏ Thang sang nhà Hạ. Rồi nhà Hạ suy, lại về ở đất Bạc, từ cửa bắc đi vào, gặp Nữu Cưu, Nữ Phòng, tác bài văn 'Nữ Cưu', 'Nữ Phòng'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Hai người Cưu-Phòng là hiền thần của Thang, hai bài văn có ý nói là nhà Hạ suy cho nên quay về". Thang ra săn, thấy lưới giăng bốn bề trên cánh đồng, có kẻ chúc rằng: "Bốn bề thiên hạ đều chui vào lưới ta". Thang nói: "Hê, hết thảy rồi"! Bèn bỏ ba mặt lưới, có kẻ chúc nói: "Muốn bên trái thì giăng bên trái. Muốn bên phải thì giăng bên phải. Nếu không nghe thì cho vào lưới ta". Chư hầu nghe tin, nói: "Đức của Thang rộng lắm, trùm cả cầm thú". Thời bấy giờ, vua Kiệt nhà Hạ bạo ngược dâm hoang, cho nên chư hầu là họ Côn Ngô làm loạn. Chính nghĩa: Côn Ngô là con cả của Lục Chung thời vua Khốc, ở đây là dòng dõi họ Côn Ngô. Thế bản chép: "Côn Ngô là tổ của họ Vệ". Thang bèn dấy binh lĩnh chư hầu, Y Doãn theo Thang, Thang tự cần rìu đến đánh Côn Ngô, rồi đánh vua Kiệt. Thang nói: "Dân chúng các ngươi, đến đây, các ngươi hãy nghe lời trẫm: không phải kẻ hèn này dám đến làm loạn mà là nhà Hạ lắm tội. Ta nghe qua lời các ngươi nói là nhà Hạ có tội, ta sợ thượng đế cho nên không dám không trị.Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Không dám không trị tội của Kiệt mà giết hắn". Nay nhà Hạ lắm tội, trời sai giết hắn. Nay dân chúng của hắn nói: 'Vua ta không không giúp dân ta, bỏ việc cày ruộng lại vứt chính sự'. Chúng còn nói:'Có tội thì phải làm sao'? Vua quan nhà Hạ ngăn sức dân, cướp đoạt nhà Hạ. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Vua tôi Kiệt cùng nhau ngăn chặn sức dân, khiến cho dân không được cày cấy, cùng nhau cắt xén đất đai của nhà Hạ". Dân chúng lười nhác không hòa đồng, nói: 'Ngày nào là ngày mất, ta với vơi đều chết'! Tập giải: Thượng thư đại truyện chép: "Vua Kiệt nói: 'Trời có mặt trời như ta có người dân. Mặt trời mất được sao? Mặt trời mất thì ta mất vậy'". Đức nhà Hạ như thế, nay trẫm phải đánh. Các ngươi hãy cùng ta như một thay trời trị tội, ta sẽ thưởng cho các ngươi. Các ngươi chớ có không tin, trẫm không nói bừa. Nếu các ngươi không theo lời ta thì ta giết chết các ngươi, không có tha cho". Lại bao cho quân, tác bài văn 'Thang thệ'. Do đó Thang nói: "Ta rất oai vũ". Hiệu là 'Vũ Vương'. Tập giải: Thi chép: "Vũ Vương phất cờ, lẫy lừng tay búa". Mao truyện chép: "Vũ Vương là Thang". Kiệt thua ở gò Hữu Tung, Kiệt lại chạy đến Minh Điều, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Bãi Cao Nhai tại cửa Nam Bản phía bắc huyện An Ấp châu Bồ ba mươi dặm là bãi Minh Điều thời xưa. Chỗ xảy ra trận Minh Điều tại phía tây huyện An Ấp". quân Hạ thua vỡ, Thang bèn đánh nước Tam Tông, lấy được ngọc báu, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tam Tông là tên nước, Kiệt chạy đến giữ ở đấy, là huyện Định Đào ngày nay". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tế Âm châu Tào là đất Định Đào thời xưa, phía đông có đình Tam Tông". Nghĩa Bá, Trọng Bá tác bài văn 'Điển bảo'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Hai vị tác một bài văn 'Điển bảo', nói là bài văn thường có của đất nước".. Thang đã thắng nhà Hạ, muốn dời miếu xã của nhà Hạ nhưng không được, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Muốn đổi đặt miếu xã tắc nhưng người đời sau không ai bằng Câu Long, cho nên không được mà dừng". tác bài văn 'Hạ xã'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Ý nói về nghĩa chẳng nên chuyển miếu xã của nhà Hạ". Y Doãn báo cho chư hầu biết, do đó chư hầu đều theo mệnh, thiên hạ bình định. Thang đi về đến ấp Thái Quyển, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tên đất. Thang từ Tam Tông về đến đấy". Trọng Hôi tác bài văn cáo. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Trọng Hôi là Tả tướng của Thang, dòng dõi của Hề Trọng". Bỏ lệnh của nhà Hạ, về đất Bạc, tác bài văn 'Thang cáo' rằng: "Tháng ba, nhà vua tự đến miền đông, báo cho chư hầu bầy tôi, nói: 'Chớ không được lập công giúp dân, gắng sức làm làm việc. Nếu không ta đánh phạt các ngươi, lúc ấy chớ oán ta'. Nói: 'Ngày xưa Vũ, Cao Dao chăm chỉ ở ngoài, họ có công với dân, dân mới được yên. Phía đông vét sông Giang, phía bắc vét sông Tế, phía tây vét sông Hà, phía nam vét sông Hoài, bốn sông đã sửa, muôn dân mới ở được. Hậu Tắc gieo trồng vun xới trăm cây, ba vị ấy đều có công với dân, cho nên dòng dõi được lập. Ngày trước Si Vưu cùng các đại phu làm loạn trăm họ, đế mới không cho, có tội. Sách ẩn: Đế là trời. Ý nói Si Vưu làm loạn, trời cao không giúp, cho nên không cho. Có tội, ý nói Si Vưu tội lớn mà tỏ rõ, cho nên Hoàng Đế diệt Si Vưu. Những vị vua thời trước nói là không thể không gắng'. [sách ẩn: Những vị vua thời trước là Hoàng Đế, vua Nghiêu, vua Thuấn. Vũ, Cao Dao vì chăm chỉ lâu ngày ở ngoài cho nên dòng dõi được lập. Còn như Si Vưu làm loạn, trời không giúp Si Vưu, mới có Hoàng Đế diệt đi. Đều là những vị vua thời trước thưởng kẻ có công, phạt kẻ có tội, nói là không thể không gắng. Đây là lời Thang răn bày tôi. Nói: "Nếu không có đạo lí thì không cho ở nước, các ngươi chớ oán ta". Đem lệnh chư hầu. Y Doãn tác bài văn 'Hàm hữu nhất đức'. Tập giải: Vương Túc nói: "Ý nói vua tôi cùng một ý". Sách ẩn: Theo Thượng thư chép Y Doãn tác bài văn 'Hàm hữu nhất đức' vào thời vua Thái Giáp, mà Thái sử công chép ở đây, cho là vào thời Thành Thang, lời nay lại sai thứ tự. Cữu Đan tác bài văn 'Minh cư'. Tập giải: Mã Dung nói: "Cữu Đan là quan Tư không của Thang. Bày cách cho dân ở yên". Thang bèn đổi lịch pháp, thay màu áo, chuộng màu trắng, chọn buổi sáng đến chầu hội. Thang băng, Tập giải: Hoàng lãm chép: "Mộ vua Thang tại thành đông huyện Bạc quận Tế Âm, cách huyện ba dặm. Mộ có bốn góc, mỗi góc đều dài mười bước, cao bảy thước, bề mặt trên bằng, nơi đất bằng. Năm Kiến Bình thứ nhất thời Ai Đế nhà Hán, quan Đại tư không ngự sử là Ngự Trường Khanh đi xét nạn nước lụt, nhân đó đi qua mộ của Thang". Lưu Hướng nói: "Vua Thang nhà Ân không có đất mộ". Hoàng Phủ Mật nói: "Lên ngôi vua được mười bảy năm thì lên ngôi thiên tử, làm thiên tử mười ba năm, thọ hơn trăm tuổi thì băng". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Bãi đất phẳng ở thành đông phía bắc huyện Bồ Thành ba dặm có mộ của Thang". Xét: Tại đất Mông, tức đất Bắc Bồ. Lại chép: "Phía đông huyện Yển Sư châu Lạc sáu dặm có mộ của Thang, gần với cung Đồng, có lẽ ở đấy". thái tử là Thái Đinh chưa lập thì chết, do đó bèn lập em của Thái Đinh là Ngoại Bính, đấy là vua Ngoại Bính. Vua Ngoại Bính lên ngôi ba năm thì băng, lập em của Ngoại Bính là Trung Nhâm, đấy là vua Trung Nhâm. Vua Trung Nhâm lên ngôi bốn năm thì băng, Y Doãn bèn lập con của Thái Đinh là Thái Giáp. Chính nghĩa: Thượng thư Khổng Tử tự chép: "Thành Thang đã chết, là năm đầu đời vua Thái Giáp". Không nói có vua Ngoại Bính, vua Trung Nhâm, vậy mà Thái sử công chọn ở Hệ bản mới có chép Ngoại Bính, Trung Nhâm, hai sách không giống nhau, vậy nay tín thì truyền tín, nghi thì truyền nghi. Thái Giáp là cháu cả lớn của Thành Thang, đấy là vua Thái Giáp. Năm đầu thời vua Thái Giáp, Y Doãn tác bài văn 'Y huấn', tác bài 'Tứ mệnh', tác bài 'Tồ hậu'. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Bài văn 'Tứ mệnh' bày điều mà chính giáo nên làm. Bài văn 'Tồ hậu' nói về pháp lệnh của vua Thang". Vua Thái Giáp đã lập ba năm, không sáng, bạo ngược, không theo phép tắc của vua Thang, loạn đức, do đó Y Doãn đuổi đến ở tại cung Đồng. Tập giải: Khổng An Quốc nói :"Là chỗ mộ của Thang". Trịnh Huyền nói: "Là tên đất có cung khác của vua". Chính nghĩa: Tấn Thái Khang địa kí chép: "Phía nam làng Thi có bãi Bạc, phía đông có thành, là chỗ Thái Giáp bị đuổi đến". Được ba năm, Y Doãn nắm lấy chính sự đất nước, để coi chư hầu. Vua Thái Giáp ở cung Đồng ba năm, hối lỗi tự trách, theo thiện, do đó Y Doãn liền đón vua Thái Giáp về mà trao chính sự. Vua Thái Giáp tu đức, chư hầu đều theo nhà Ân, trăm họ được yên. Y Doãn khen Thái Giáp, bèn tác bài văn 'Thái Giáp huấn' có hai chương, khen vua Thái Giáp, xưng là Thái Tông. Thái Tông băng, con là Ốc Đinh lập. Vào thời vua Ốc Đinh thì Y Doãn chết. Đã táng Y Doãn ở đất Bạc, Tập giải: Hoàng lãm chép: "Mộ của Y Doãn tại làng Bình Lợi huyện Kỉ Thị quận Tế Âm, đất Bạc gần huyện Kỉ Thị". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Mộ của Y Doãn tại phía tây bắc huyện Yển Sư châu Lạc tám dặm". Lại chép: "Phía tây bắc huyện Sở Khâu châu Tống mười lăm dặm có mộ của Y Doãn". Sợ là không phải. Đế vương thế kỉ chép: "Y Doãn tên là Chí, làm tể tướng của vua Thang, hiệu là A Hành, sống hơn trăm tuổi thì chết, lúc chết có sương mù đặc ba ngày ngày, Ốc Đinh lấy lễ thiên tử mà táng Y Doãn". Cữu Đan bèn giảng việc của Y Doãn, tác bài văn 'Ốc Đinh'. Vua Ốc Đinh băng, em là Thái Canh lập, đấy là vua Thái Canh. Vua Thái Canh băng, con là vua Tiểu Giáp lập. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thế biểu chép vua Tiểu Giáp là em của Thái Canh". Vua Tiểu Giáp băng, em là Ung Kỉ lập, đấy là vua Ung Kỉ. Nhà Ân đạo suy, chư hầu có kẻ không đến chầu. Vua Ung Kỉ đã băng, em là Thái Mậu lập, đấy là vua Thái Mậu. Vua Thái Mậu lập Y Trắc làm tể tướng. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Y Trắc là con của Y Doãn". Ở đất Bạc có việc lạ là cây dâu cây dó cùng mọc ở miếu, một tối thì lớn lên xoắn vào nhau. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Việc lạ là yêu quái. Hai cây cùng mọc là điềm chẳng thuận". Sách ẩn: Đây nói 'một tối thì lớn lên xoắn vào nhau', nhưng Thượng thư đại truyện chép là 'bảy ngày thì lớn lên xoắn vào nhau'. So với đây không giống. Vua Thái Mậu sợ, hỏi Y Trắc. Y Trắc nói: "Thần nghe nói yêu quái không thắng được người có đức. Chính sự của nhà vua có chỗ thiếu kém sao? Nhà vua nên tu đức". Vua Thái Mậu nghe theo, do đó cây dâu lạ kia khô chết mà bỏ đi. Sách ẩn: Lưu Bá Trang nói: "Cây lạ kia khô chết mà bỏ đi không thấy nữa, nay là vì vua tu đức cho nên yêu quái bỏ đi". Y Trắc khen vua Thái Mậu với Vu Hàm. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Khen là báo cho biết. Vu Hàm là tên một bầy tôi". Chính nghĩa: Xét rằng Mộ của Vu Hàm và con là Hiền đều tại trên núi Ngu phía tây huyện Thường Thục châu Tô, có lẽ người này đều là người đất Ngô. Vu Hàm giúp nhà vua có công, tác bài văn 'Hàm nghệ', Tập giải: Mã Dung nói: "Nghệ là trị". tác bài văn 'Thái Mậu'. Vua Thái Mậu khen Vu Hàm ở miếu, nói là không đối đãi như bầy tôi, Y Trắc nhường, tác bài văn 'Nguyên mệnh'. Tập giải: Mã Dung nói: "Nguyên là tên một bầy tôi. Nói những việc mà đạo của Vũ, Thang nên sửa". Nhà Ân lại hưng, chư hầu theo về, cho nên xưng Thái Mậu là Trung Tông. Trung Tông băng, con là vua Trung Đinh lập. Vua Trung Đinh chuyển đến đất Ngao. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tên đất". Hoàng Phủ Mật nói: "Có kẻ nói là huyện Ngao Thương quận Hà Nam". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ Huỳnh Dương tại phía tây nam huyện Huỳnh Trạch châu Trịnh mười bảy dặm là đất Ngao thời Ân". Hà Đản Giáp cư ở đất Tương. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tên đất, tại miền Hà Bắc". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành nhà Ân cũ ở phía đông nam huyện Nội Hoàng châu Tương mười ba dặm, là chỗ mà Hà Đản Giáp đắp đô, cho nên gọi là thành nhà Ân". Tổ Ất chuyển đến đất Hình. Sách ẩn: Hình, đọc là 'cảnh'. Gần đây cũng chép là 'Cảnh'. Huyện Bì Thị quận Hà Đông có làng Cảnh. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía đông nam huyện Long Môn châu Giáng mười hai dặm có thành Cảnh, là nước Cảnh cũ". Vua Trung Đinh băng, em là Ngoại Nhâm lập, đấy là vua Ngoại Nhâm. Sách chép về vua Trung Đinh đã khuyết không còn. Sách ẩn: Có lẽ Thái sử công biết lúc trước có sách chép về vua Trung Đinh, nhưng naty đã lạc mất không còn. Vua Ngoại Nhâm băng, em là Hà Đản Giáp lập, đấy là vua Hà Đản Giáp. Thời vua Hà Đản Giáp, nhà Ân lại suy. Vua Hà Đản Giáp băng, con là vua Tổ Ất lập. Vua Tổ Ất lập, nhà Ân lại hưng, Vu Hàm nhậm chức. Vua Tổ Ất băng, con là vua Tổ Tân lập. Vua Tổ Tân băng, em là Ốc Giáp lập, đấy là vua Tổ Giáp. Sách ẩn: Hệ bản chép là vua Khai Giáp. Vua Ốc Giáp băng, lập con của Tổ Tân (anh của Ốc Giáp) là Tổ Đinh, đấy là vua Tổ Đinh. Vua Tổ Đinh băng, lập con của Tổ Giáp là Nam Canh, đấy là vua Nam Canh. Vua Nam Canh băng, lập con của Tổ Đinh là Dương Giáp, đấy là vua Dương Giáp. Vào thời vua Dương Giáp, nhà Ân suy. Từ thời vua Trung Đinh đến đây, vua nhà Ân bỏ con cả mà lập con của các em, con các em có kẻ tranh nhau thay lập, chín đời vua loạn, do đó chư hầu chẳng theo. Vua Dương Giáp băng, em là Bàn Canh lập, đấy là vua Bàn Canh. Vào thời vua Bàn Canh, nhà Ân đã đóng đô ở phía bắc sông Hà; Bàn Canh vượt sông Hà về phía nam, ở lại tại chỗ ở cũ của Thành Thang, bèn dời lần thứ năm, không ở cố định. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Từ đời vua Thang đến đời vua Bàn Canh là năm lần dời đô". Chính nghĩa: Từ lúc Thang ở đất Nam Bạc dời đến đất Tây Bạc; Trọng Đinh dời đến đất Ngao, Hà Đản Giáp trú ở đất Tương; Tổ Ất cư ở đất Cảnh; Bàn Canh vượt sông Hà về phía nam cư ở đất Tây Bạc, cả thảy là năm lần dời đô. Dân nhà Ân than thở đều oán, không muốn dời. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Dân không muốn đi, đều thở thở than lo buồn, cùng nhau oán vua của mình". Vua Bàn Canh bèn cáo dụ đại thần chư hầu rằng: "Ngày xưa cao tổ là Thành Thang cùng tổ tiên các ngươi cùng bình định thiên hạ, còn sửa phép tắc. Nếu bỏ mà không sửa, lấy gì để thành đức"! Rồi bèn vượt sông về phía nam, trị ở đất Bạc, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Trị ở đất cũ nhà Ân nơi đất Bạc, nhà Thương từ nơi ấy dời đi, cho nên đổi hiệu là Ân Bạc". Hoàng Phủ Mật nói: "Là huyện Yển Sư ngày nay". Làm theo chính sách của Thang, sau đó trăm họ yên ổn, đạo nhà Ân lại hưng. Chư hầu đến chầu, vì họ tôn đức của Thành Thang vậy. Vua Bàn Canh băng, em là Tiểu Tân lập, đấy là vua Tiểu Tân. Vua Tiểu Tân lập, nhà Ân lại suy. Trăm họ nhớ Bàn Canh, bèn tác bài văn 'Bàn Canh' có ba chương. Sách ẩn: Thượng thư chép: "Bàn Canh muốn đóng đô ở đất Bạc, dân nhà Ân cùng nhau than oán, tác bài văn 'Bàn Canh'". Còn đây chép "vua Bàn Canh băng, em là Tiểu Tân lập, trăm họ nhớ Bàn Canh, bèn tác bài văn 'Bàn Canh'" là do không đọc đoạn văn cổ này. Vua Tiểu Tân băng, em là Tiểu Ất lập, đấy là vua Tiểu Ất lập. Vua Tiểu Ất băng, con là vua Vũ Đinh lập. Vua Vũ Đinh lên ngôi, nghĩ cách phục hưng nhà Ân nhưng chưa được người giúp. Ba năm không nói, chính sự quyết định bởi Trủng Tể, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Trủng Tể là vị quan trông coi thiên văn giúp nhà vua". để xem phong tục của đất nước. Vua Vũ Đinh buổi đêm nằm mơ gặp được thánh nhân tên là Thuyết. Đem việc mà mình nằm mơ gặp để nhìn trăm quan bầy tôi, đều không phải. Do đó bèn sai trăm quan đi tìm ở ngoài đồng, tìm được Thuyết ở trong vách Phó. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thi Tử chép: 'Vách Phó tại bãi sông quận Bắc Hải'". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Vách Phó là chỗ Phó Thuyết đắp nên, cái hang mà Phó Thuyết ẩn náu gọi là 'hang thánh nhân', tại phía bắc huyện Hà Bắc châu Thiểm bảy dặm, tại chỗ của nước Ngu, nước Quắc. Lại có miếu thờ Phó Thuyết". Thủy kinh chú chép: "Sông Sa Giản ở phía bắc chảy ra từ núi Ngu, phía đông nam chảy qua vách Phó, qua phía trước hang ở ẩn của Thó Thuyết, tục gọi là hang thánh nhân". Bấy giờ Thuyết là kẻ phạm tội, đắp đường ở vách Phó. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Vách của họ Phó tại cõi Ngu-Quắc, chỗ mà con đường trải qua có đoạn đường lở bên sông Giản, nhà vua thường sai người phạm tội đắp sửa con đường này. Thuyết là người hiền nhưng giấu kín, làm kẻ phạm tội đắp đường để tự cấp ăn. Cho gặp với vua Vũ Đinh, vua Vũ Đinh nói là phải. Rồi cùng nói chuyện với Thuyết, quả là thánh nhân, cử làm tể tướng, nhà Ân được sửa. Do đó bèn lấy tên vách Phó làm tên họ, gọi là Phó Thuyết. Vua Vũ Đinh tế Thành Thang, buổi sáng, có con chim trĩ bay đến đậu trên tai đỉnh mà kêu, Chính nghĩa: Thi chép: "Chim trí đến kêu". vua Vũ Đinh sợ. Tổ Kỉ nói: "Nhà vua chớ lo, nên tu chính sự trước". Tổ Kỉ bèn giảng cho vua rằng: "Trời xem xét cái nghĩa của người dưới mà ban cho tuổi thọ dài và không dài, không phải là trời làm cho dân chết sớm, nửa đời dứt mạng người ta. Nếu dân không có đức, không nhận tội thì trời đã hạ lệnh sửa đức của họ, mới nói: 'Làm thế nào'? Ô hê! Nhà vua nối ngôi phải kính dân, không làm trái lẽ trời, cúng tế nên theo phép thường mà không bỏ". Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Người làm vua trị dân phải kính làm việc dân. Việc dân thường không được không theo điều mà trời cho người nối ngôi. Cúng tế có thường, không được bày vật lễ nhiều". Sách ẩn: Tế tự có thường, không được dùng lễ giết nhiều mà bỏ đi đạo thường. Vua Vũ Đinh sửa đạo tu đức, thiên hạ đều mừng, nhà Ân lại hưng. Vua Vũ Đinh băng, con là vua Tổ Canh lập. Tổ Kỉ lấy điềm chim trĩ kêu sửa đức mà khen vua Vũ Đinh, lập miếu xưng là Cao Tông, rồi tác bài văn 'Cao Tông dung nhật' và 'Cao Tông huấn'. Vua Tổ Canh băng, em là Tổ Giáp lập, đấy là vua Giáp. Vua Giáp dâm loạn, nhà Ân lại suy. Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Vua Giáp làm dâm, bảy đời thì suy". Vua Giáp băng, con là vua Lẫm Tân lập. Sách ẩn: Hán thư cổ kim nhân biểu cùng Đế vương đại kỉ đều chép là 'Phùng Tân'. Vua Lẫm Tân băng, em là Canh Đinh lập, đấy là vua Canh Đinh. Vua Canh Đinh băng, con là vua Vũ Ất lập. Nhà Ân lại bỏ đất Bạc, dời sang phía bắc sông Hà. Vua Vũ Ất vô đạo, làm người tượng, Chính nghĩa: Lấy đất gỗ làm người, đối tượng như hình người. gọi là 'thần trời', cùng nó chơi bài, sai người làm cho nó chơi, 'thần trời' không thắng, bèn làm nhục nó. Làm bao cỏ, đổ đầy máu vào, tung lên mà bắn nó, gọi là 'bắn trời'. Vua Vũ Ất săn ở miền sông Hà-Vị gặp sấm lớn, Vũ Ất kinh sợ mà chết. Con là vua Thái Đinh lập. Vua Thái Đinh băng, con là vua Ất lập. Vua Ất lập, nhà Ân càng suy. Con cả của vua Vũ Ất là Vi Tử tên Khải, Sách ẩn: Vi là tên nước, tước là Tử; Khải là tên. Khổng Tử gia ngữ chép là 'Vi', có sách chép là 'Ngụy', đọc là 'vi'. mẹ Khải hèn mọn, cho nên Khải không được nối ngôi. Sách ẩn: Đây là Khải và Trụ khác mẹ, mà Trịnh Huyền nói là cùng mẹ, xét Lữ thị xuân thu chép là lúc mẹ Khải sinh Khải vẫn chưa chính vị, kịp lúc sinh Trụ mới chính làm phi, cho nên Khải là con cả mà lại ngôi thứ, Trụ là em mà lại ngôi đích. Con út là Tân, mẹ Tân là vợ cả, cho nên Tân được nối ngôi. Vua Ất băng, con là Tân lập, đấy là vua Tân, thiên hạ gọi Tân là Trụ. Tập giải: Thụy pháp chép: "Tàn nghĩa tổn thiện gọi là 'Trụ'". Vua Trụ lời lẽ nhanh nhẹn, nghe nhìn rất mau, sức khỏe hơn người, tay bắt thú dữ; Chính nghĩa: Đế vương thế kỉ chép: "Trụ vật đổ chín con bò, rút cầu nhổ cột". trí đủ để ngăn chặn lời can gián, lời đủ để bao biện điều sai trái, cậy tài năng mà kiêu ngạo với bầy tôi, dựa danh tiếng mà tự cao với thiên hạ, cho là mọi thứ đều ở dưới thân mình. Ưa rượu thích nhạc, thích với đàn bà, yêu Đát Kỉ, Tập giải: Hoàng Phủ Mật nói: "Là người con gái đẹp họ Hữu Tô". Sách ẩn: Quốc ngữi chép: "Người con gái nước Hữu Tô, tên chữ là Đát, họ Kỉ". Đát Kỉ nói gì thì nghe theo. Do đó sai thầy nhạc chọn tác bài hát dâm mới, điệu múa thô bỉ, lời nhạc ẻo lả. Tăng phú thuế để chất thừa đài Lộc, Tập giải: Như Thuần nói: "Tân tự chép là đài Lộc to rộng ba dặm, cao nghìn thước". Toản nói: "Đài Lộc là tên đài, nay tại trong thành Triều Ca". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Đài Lộc tại phía tây nam huyện thuộc chây Vệ ba mươi hai dặm". lại chứa đầy thóc ở kho Cử Kiều. Tập giải: Phục Kiền nói: "Cự Kiều là tên kho. Hứa Thận nói: "Cây cầu lớn bắc ngang sông Cự Lộc có thóc lúa". Thu thêm chó ngựa vật lạ, lúc nhúc cung thất. Làm rộng thêm đài vườn Sa Khâu, Tập giải: Nhĩ nhã chép: "Sa Khâu miên man". Địa lí chí chép: "Sa Khâu tại phía đông bắc quận Cự Lộc bảy mươi dặm". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Đài Sa Khâu tại phía đông bắc huyện Bình Hương châu Hình hai mươi dặm". Trúc thư kỉ niên chép: "Từ thời Bàn Canh dời nhà Ân đến lúc Trụ diệt là hai trăm năm mươi ba năm lại không dời đô, bấy giờ Trụ có vẻ mở rộng ấp của mình, phía nam kề đất Triều Ca, phía bắc tiếp đất Hàm Đan và Sa Khâu, đều là cung riêng quán khác". lấy nhiều chim chóc thú hoang thả ở trong ấy. Coi nhẹ quỷ thần. Đặt bày chơi nhạc ở Sa Khâu, đổ rượu làm ao, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Ao rượu tại phía tây huyện Vệ châu Vệ hai mươi ba dặm. Thái công lục thao chép: "Trụ làm ao rượu, họp bọn vây thuyền gò cặn mà uống như bò chừng hơn ba nghìn người". treo thịt làm rừng, sai trai gái cởi trần, đuổi nhau trong đó, mở tiệc uống rượu thâu đêm. Trăm họ oán hờn mà chư hầu có kẻ phản, do đó Trụ lại chuộng hình phạt, phạt có phép phạt 'bào cách'. Tập giải: Liệt nữ truyện chép: "Bôi mỡ lên cột đồng, dưới đặt thêm than, sai kẻ có tội trèo lên, liền rơi xuống giữa than, Đát Kỉ cười, gọi là hình phạt 'bào cách'". Sách ẩn: Trâu Đản Sinh nói: "Thấy kiến bò trong chén đồng, chân gãy mà chết, do đó làm cành đồng, thổi than ở dưới, sai kẻ có tội đi trên đó". So với Liệt nữ truyện có khác chút ít. Lấy Tây Bá tên là Xương, Cửu Hầu, Tập giải: Từ Quảng nói: "Có sách chép là 'Qủy Hầu'. Huyện Nghiệp có thành Cửu Hầu". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía tây nam huyện Phũ Dương châu Tương năm mươi dặm có thành Cửu Hầu, cũng có tên là thành Qủy Hầu, có lẽ là thành Cửu Hầu thời nhà Ân". Ngạc Hầu Tập giải: Từ Quảng nói: "Có sách chép là 'Vu', đọc là 'vu'. Huyện Dã Vương có thành Vu". làm Tam công. Cửu Hầu có người con gái hiếu, dâng cho vua Trụ. Con gái Cửu Hầu không thích dâm, vua Trụ giận, giết đi rồi băm Cửu Hầu. Ngạc Hầu ra sức can ngăn, lời lẽ gay gắt, lại chém Ngạc Hầu. Tây Bá tên là Xương nghe tin, than ngầm. Sùng Hầu tên là Hổ biết được, báo cho vua Trụ, vua Trụ nhân đó bắt giam Tây Bá ở thành Dũ Lí. Tập giải: Địa lí chí chép: "Huyện Thang Âm quận Hà Nội có thành Dũ Lí, là chỗ mà Tây Bí bị bắt". Vi Chiêu nói: "Đọc là 'dậu'.". Chính nghĩa: Thành Dũ tại phía bắc huyện Thang Âm châu Tương chín dặm, là thành vua Trụ giam Tây Bá. Đế vương thế kỉ chép: "Vua Trụ giam Văn Vương, con cả của Văn Vương là Bá Ấp Khảo làm con tin ở nhà Ân, làm quan khanh của vua Trụ, vua Trụ nấu Bá Ấp Khảo làm canh, ban cho Văn Vương, nói: "Thánh nhân chẳng nên ăn canh con mình". Văn Vương ăn canh. Vua Trụ nói: "Ai nói Tây Bá là thánh? Ăn canh con mình mà không biết". Bầy tôi của Tây Bá là bọn Hoành Yểu tìm gái đẹp vật lạ ngựa tốt để dâng vua Trụ, vua Trụ mới thả Tây Bá. Tây Bá được thả rồi dâng đất phía tây sông Lạc, Chính nghĩa: Sông Lạc còn có tên là sông Tất Thư, tại đất Lạc Tây châu Đồng, là các châu Đan, Phòng miền Lạc Tây. xin bỏ hình phạt 'bào cách'. Vua Trụ liền ưng ý, ban cho cung tên búa rìu, sai được đánh dẹp, làm Tây Bá. Lại dùng Phí Trung coi chính sự. Chính nghĩa: Phí là họ, Trung là tên. Phí Trung ưa nịnh, hám lợi, người Ân chẳng thân. Vua Trụ lại dùng Ác Lai. Sách ẩn: Con của Phi Liêm, tổ tiên của vua Tần. Ác Lai hay gièm pha, do đó chư hầu thêm bỏ. Tây Bá về, bèn ngầm tu đức sửa thiện, nhiều chư hầu phản vua Trụ mà theo về Tây Bá. Tây Bá thế lớn, do đó vua Trụ càng mất quyền trọng. Vương tử là Bỉ Can can ngăn, vua Trụ không nghe. Thương Dung là người hiền, trăm họ mến ông, Trụ lại bỏ ông. Kịp lúc Tây Bá đánh nước Kì, diệt nước này. Bầy tôi của vua Trụ là Tổ Y Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Là dòng dõi của Tổ Kỉ, bầy tôi hiền". nghe tin mà ghét nhà Chu, sợ, chạy nhanh báo cho vua Trụ rằng: "Trời đã dứt mệnh nhà Ân ta, người ta bói rùa già, không có điều lành, Tập giải: Mã Dung nói: "Rùa già là rùa lớn, dài một thước hai tấc". Khổng An Quốc nói: "Người ta dựa vào việc người làm để xem nhà Ân, rùa lớn có linh thần mà xét, đều không có được điềm lành". không phải tiên vương không giúp người đời sau ta, chỉ là nhà vua dâm ngược tự hại thân, cho nên trời bỏ ta, không được ăn ngon, không biết được lẽ trời, không theo phép thường. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Vua bạo ngược với dân, khiến cho dân không ăn ngon, nghịch loạn âm dương, không vâng mệnh trời, trái với đức sáng, không sửa pháp giáo". Nay dân ta không ai không muốn mất, nói: 'Trời sao không tỏ oai, phép lớn sao không đến'? Nay nhà vua làm sao"? Vua Trụ nói: "Ta sinh ra không có mệnh từ trời vậy"! Tổ Y về, nói: "Không can ngăn được vua Trụ rồi". Tây Bá đã chết, Vũ Vương nhà Chu sang đánh miền đông, đến bãi Minh Tân, có tám trăm chư hầu phản nhà Ân theo nhà Chu. Chư hầu đều nói: "Nên đánh Trụ thôi"! Vũ Vương nói: "Các ngươi chưa biết mệnh trời". Rồi quay về. Vua Trụ ngày càng dâm loạn không dứt. Vi Tử nhiều lần can mà không nghe, bèn mưu với Đại sư, Thiếu sư, rồi bỏ đi. Bỉ Can nói: "Là bầy tôi là không nên không can ngăn đến chết". Liền gắng can vua Trụ. Vua Trụ giận nói: "Ta nghe nói tim của thánh nhân có bảy lỗ". Phanh Bỉ Can, xem tim của ông. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Bỉ Can thấy Vi Tử bỏ đi, Cơ Tử điên, bèn than rằng: 'Vua sai không can là bất trung. Sợ chết không nói là bất dũng. Thấy sai thì can, không nghe thì chết, đấy là cái trung lớn nhất vậy'. Đến can ba ngày không đi. Vua Trụ hỏi: 'Sao lại tự chống ta'? Bỉ Can nói: 'Tu thiện hành nhân, lấy nghĩa tự giữ'. Vua Trụ giận, nói: 'Ta nghe nói tim thánh nhân có bảy lỗ, vậy sao'? Liền giết Bỉ Can, xem tim của ông". Cơ Tử sợ, bèn giả cuồng làm kẻ nô bộc, vua Trụ lại bắt giam ông. Thái sư, Thiếu sư của nhà Ân lại đem các đồ cúng tế lễ nhạc trốn sang nhà Chu. Do đó Vũ Vương nhà Chu bèn lĩnh chư hầu đánh vua Trụ. Vua Trụ cũng phát binh chống ở đồng Mục Dã. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Mục Dã là tên đất ngoài thành nam của vua Trụ". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành châu Vệ ngày nay là đất Mục Dã thời nhà Ân, Vũ Vương nhà Chu đánh vua Trụ đắp nên". Ngày giáp tí, quân của vua Trụ thua, vua Trụ chạy vào giữ đài Lộc, mặc áo ngọc báu, nhảy vào lửa mà chết. Chính nghĩa: Chu thư chép: "Trụ lấy năm chuỗi ngọc diễm thiên trí quấn vào người để tự đốt". Vũ Vương nhà Chu bèn chém đầu vua Trụ, treo lên cờ trắng, giết Đát Kỉ. Cởi trói cho Cơ Tử, đắp mộ cho vua Trụ và Bỉ Can, nêu khen trước cổng làng của Thương Dung. Sách ẩn: Hoàng Phủ Mật nói: "Thương Dung cùng người Ân xem quân Chu đi vào". Vậy thì Thương Dung là tên người. Trịnh Huyền nói: "Thương Dung là quan coi nhạc của nhà Chu, biết nghi lễ, cho nên chỗ tế lễ gọi là 'đài dung'". Phong con của vua Trụ là Vũ Canh, Lục Phụ để nối dõi tế lễ nhà Ân. Tập giải: Tiếu Chu nói: "Nhà Ân trải ba mươi mốt đời vua, được hơn sáu trăm năm". Cấp trủng kỉ niên chép: "Từ lúc Thang diệt nhà Hạ đến đây là được hai mươi chín đời vua, trải bốn trăm chín mươi sáu năm". sai tu hành chính giáo của Bàn Canh. Người Ân cả mừng. Do đó Vũ Vương nhà Chu làm thiên tử. Người đời sau biếm hiệu đế, hiệu làm vương. Sách ẩn: Xét: Thiên tử nhà Hạ, Ân cũng đều xưng đế, đời sau thấy đức mỏng không bằng Ngũ đế, bắt đầu biếm hiệu đế, hiệu gọi là vương, cho nên Bản kỉ đều gọi là đế, nhưng đời sau gọi chung là 'Tam vương'. Lại phong dòng dõi nhà Ân làm chư hầu, thuộc nhà Chu. Chính nghĩa: Là Vũ Canh, Lục Phụ. Vũ Vương nhà Chu băng, Vũ Canh cùng Quản Thúc, Sái Thúc làm loạn, Thành Vương sai Chu Công đánh Vũ Canh mà lập Vi Tử ở đất Tống để nối dõi nhà Ân. Thái sử công nói: Ta dựa vào Thi tụng để chép việc của Tiết, từ đời Thành Thang về sau lại chọn ở Thư-Thi. Tiết lập họ Tử, dòng dõi phân phong, lấy tên nước làm tên họ, có họ Ân, họ Lai, họ Tống, họ Không Đồng, họ Trĩ, Sách ẩn: Xét Hệ bản chép họ Tử không có họ Trĩ. họ Bắc Ân, Sách ẩn: Hệ bản chép là 'họ Mao'. Lại có họ Thì, họ Tiêu, họ Lê. Nhưng họ Bắc Ân có lẽ là dòng dõi vua ấp Bạc mà Tần Ninh Công đánh, là dòng dõi của Thang vậy. họ Mục Di. Khổng Tử nói: "Người Ân giỏi đi xe đường, lại chuộng màu trắng". Sách ẩn: Luận ngữ Khổng Tử nói: "Ngồi xe nhà Ân". Lễ kí chép: "Người Ân chuộng màu trắng". Thái sử công chép lời tán không lấy câu văn trọn, mới chép lời này, cũng sơ lược vậy. Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Tổ tiên nhà Chu hiệu là Hậu Tắc, tên là Khí. Chính nghĩa: Nhân nơi mà Thái Vương ở tên là bãi Chu, cho nên gọi là Chu. Địa lí chí chép: "Làng Trung Thủy phía tây bắc núi Kì huyện Mĩ Dương quận Hữu Phù Phong là nơi mà Thái Vương nhà Chu ở". Quát địa chí chép: "Thành nhà Chu xưa còn có tên là thành Mĩ Dương, tại phía tây bắc huyện Vũ Công châu Ung hai mươi lăm dặm, tức thành của Thái Vương". mẹ là con gái họ Hữu Thai, tên là Khương Nguyên. Tập giải: Hàn thi chương câu chép: "Khương là họ, Nguyên là tên chữ". Có sách chép Khương Nguyên là thụy hiệu. Chính nghĩa: Thai, âm là 'thiên lai phiên'. Thuyết văn chép: "Thai là dòng dõi Viêm Đế, họ Khương, phong ở đất Thai, là nhà họ ngoại của Khí nhà Chu". Khương Nguyên là vợ cả của vua Khốc. Sách ẩn: Tiếu Chu cho rằng Khí là tên gọi của vua Khốc, cha của Khốc cũng không rõ, so với bản kỉ có khác. Khương Nguyên ra ngoài bãi, thấy dấu chân người lớn, lòng hớn hở vui mừng, muốn dẫm lên, dẫm lên liền động lòng như có thai. Đến kì thì sinh con, cho là không lành, vứt nó ở ngõ hẻm, Sách ẩn: Chép dưới đây đều là điều mà Thi đại nhã sinh dân chép là: "Đặt nó ở ngõ hẻm, bò dê mớm hít nó, đặt nó ở rừng rậm, lại chặt rừng rậm, vứt nó ở băng giá, chim lại ấp che nó". bò ngựa đi qua đều tránh mà không dẫm; dời đặt nó ở trong rừng, gặp lúc rừng núi có nhiều người, chuyển mà vứt nó ở trên băng trong rạch, chim bay lại đến ôm ấp lót cỏ cho nó. Khương Nguyên cho là thần, bèn đưa về nuôi nó lớn, lúc đầu muốn vứt nó, nhân đó đặt tên là Khí. Vào lúc Khí là trẻ con, có chí chót vót như người lớn. Khí đi chơi, ưa gieo trồng cây gai, cây đậu; cây gai, cây đậu mọc tốt. Kịp khi thành người lớn, lại ưa cày cấy, chọn chỗ đất hợp, hợp với cây lúa liền gieo trồng lúa. Dân đều noi theo Khí. Vua Nghiêu nghe tin, cử Khí làm thầy nông, thiên hạ được cái lợi này, có công. Vua Nghiêu nói: "Khí, dân đen lúc trước đói, sau đó ngươi treo trồng các giống cây lúa". Phong Khí ở đất Thai, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là làng Li tại quận Phù Phong ngày nay". Thi sinh dân chép: "Nhà họ Hữu Thai". Thai tức Li, xưa nay chép chữ khác. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Li cũ còn có tên là thành Vũ Công, tại phía tây nam huyện Vũ Công châu Ung hai mươi hai dặm, là nước Thai cổ, là chỗ mà Hậu Tắc được phong. Có miếu thờ Hậu Tắc và Khương Nguyên". Mao Trường nói: "Nước Thai là nước của Khương Nguyên, là nơi mà Hậu Tắc được sinh, cho nên phong ở nước Thai". hiệu là Hậu Tắc, họ riêng là họ Cơ. Tập giải: Lễ vĩ chép: "Tổ tiên vì dẫm lên vết chân lớn mà sinh". Hậu Tắc hưng nghiệp vào thời Đào Đường, Ngu, Hạ, đều có đức tốt. Hậu Tắc chết, Tập giải: Sơn hải kinh đại hoang kinh chép: "Giữa miền sông Hắc sông Thanh có bãi Quảng Đô, là nơi táng Hậu Tắc". Hoàng Phủ Mật nói: "Mộ của Hậu Tắc cách Trung Quốc ba vạn dặm". con là Bất Truất lập. Sách ẩn: Đế vương thế kỉ chép: "Hậu Tắc lấy con gái họ Cô, sinh ra Bất Truất". Tiếu Chu xét Quốc ngữ chép: "Hậu Tắc làm việc vào thời Ngu-Hạ". Nói là nối chức coi việc làm nông, vậy là sai với lịch đời. Nếu cho rằng Bất Truất là con của Khí, đến đời Văn Vương là hơn ngàn năm với mười bốn đời, thật là chẳng hợp sự tình. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ của Bất Truất tại phía nam huyện Hoằng Hóa châu Khánh ba dặm. Là thành mà Bất Truất cơ tại đất rợ nhung địch". Mao thi sớ chép: "Đời nhà Ngu cùng Hạ, Ân cộng là một ngàn hai trăm năm. Mỗi đời làm vua đều là tám mươi năm mới đủ được số năm. Mệnh vua dài ngắn xưa nay là một, mà nếu mười lăm đời vua giữ ngôi đều tám mươi năm, con phải sắp già mới sinh, thật là không hợp nhân tình. Theo lí mà suy thì thật khó tin được". Cuối đời Bất Truất, nhà Hạ Hậu đạo suy, bỏ quan chủ nghề nông mà không dùng, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Vua Thái Khang nhà Hạ mất nước, bỏ quan coi nghề nông, không chăm nghề nông nữa". Sách ẩn: Ý nói nhà Hạ đạo suy, Bất Truất bị bãi chức coi nghề nông, không làm nghề nông nữa. Bất Truất vì mất chức mà chạy sang miền rợ nhung địch. Bất Truất chết, con là Cúc lập. Cúc chết, con là Công Lưu lập. Công Lưu dẫu ở giữa miền rợ nhung địch nhưng sửa lại nghề của Hậu Tắc, chăm cày trồng, tìm đất hợp, từ sông Tất-Thư qua sông Vị mà lấy gỗ dùng, Chính nghĩa: Công Lưu từ sông Tất huyện Tất về phía nam qua sông Vị, đến núi Nam lấy cây gỗ mà dùng. Quát địa chí chép: "Huyện Tân Bình châu Bân là huyện Tất thời Hán. Sông Tất chảy từ suối Tất trên núi Kì phía đông nam huyện Nhuận châu Kì, chảy về phía đông vào sông Vị". người đi đường có cái dùng, người ở nhà có cất chứa, dân nhờ cái hay này. Trăm họ vui ý, nhiều người dời đến mà đi theo. Nhà Chu bắt đầu hưng từ đấy, cho nên nhà thơ ca hát nhớ đức của Công Lưu. Sách ẩn: Thi đại nhã chép: "Công Lưu dốc sức". Công Lưu chết, con là Khánh Tiết lập, dựng nước ở đất Bân. Tập giải: Từ Quảng nói: "Phía đông bắc huyện Tất huyện Tân Bình có đình Bân". Sách ẩn: Bân tức Phân, xưa nay chép khác chữ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tân Bình châu Bân là huyện Tất thời Hán. Là nước Bân mà Thi kinh nói đến, là đất mà Công Lưu ở". Khánh Tiết chết, con là Hoàng Bộc lập. Hoàng Bộc chết, con là Sai Phất lập. Sai Phất chết, con là Hủy Du lập. Sách ẩn: Hệ bản chép là 'Ngụy Du'. Hủy Du chết, con là Công Phi lập.[sách ẩn: Hệ bản chép: "Công Phi Tịch Phương". Hoàng Phủ Mật nói: "Công Phi, tên chữ là Tịch Phương". Công Phi chết, con là Cao Ngữ lập. Tập giải: Tống Suy nói: "Cao Ngữ biết noi Hậu Tắc, người Chu báo đền". Sách ẩn: Hệ bản chép: "Cao Ngữ Hầu Mâu". Cao Ngữ chết, con là Á Ngữ lập. Thế bản chép: "Á Ngữ Vân Đô". Hoàng Phủ Mật nói: "Vân Đô là tên chữ của Á Ngữ". Sách ẩn: Hán thư cổ kim biểu chép: "Vân Đô là em Á Ngữ". Xét rằng như vậy thì Tịch Phương, Hầu Mâu cũng là tên của hai người, thật là chưa rõ được. Á Ngữ chết, con là Công Thúc Tổ Loại lập. Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thái Công tên là Tổ Cám Chư Trưu". Tam đại thế biểu xưng là Thúc Loại, cả thảy bốn tên. Hoàng Phủ Mật nói: "Công Tổ còn có tên là Tổ Cám Chư Trưu, tên chữ là Thúc Loại, hiệu là Thái Công". Công Thúc Tổ Loại chết, con là Cổ Công Đản Phụ lập. Cổ Công Đản Phụ sửa lại nghề của Hậu Tắc, Công Lưu, tích đức hành nghĩa, người trong nước đều noi theo. Người nhung địch Huân Dục đánh Cổ Công Đản Phụ, muốn được của cải, bèn ban cho họ. Rồi lại đánh, muốn được dân và đất. Dân đều oán, muốn đánh lại. Cổ Công nói: "Dân chúng lập vua là muốn làm lợi cho mình. Nay rợ nhung địch tới đánh là vì muốn có dân và đất của ta. Lòng dân theo ta, trao dân cho bên nó thì có khác chi? Dân muốn vì ta mà đánh, làm cho cha con người ta bị giết mà còn làm vua nữa, ta chẳng nỡ làm". Rồi liền cùng người thân bỏ đất Bân, qua sông Tất-Thư, Tập giải: Từ Quảng nói: "Sông này tại núi Kì huyện Đỗ Dương. Huyện Đỗ Dương tại quận Phù Phong". vượt núi Lương, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Lương tại phía tây bắc huyện Hảo Chỉ châu Ung mười tám dặm". Trịnh Huyền nói: "Núi Kì tại phía tây nam núi Lương". Vậy thì núi Lương ngang dài, phía đông là đất Hạ Dương, phía tây bắc kề sông Hà, phía tây là mé đông bắc núi Kì. Từ đất Bân đến đất Chu phải qua núi ấy. dừng ở dưới núi Kì. Tập giải: Từ Quảng nói: "Núi Kì tại phía tây bắc huyện Mĩ Dương quận Phù Phong, phía nam núi có bãi Chu". Bùi Nhân xét Hoàng Phủ Mật nói: "Lập ấp ở đất Chu, cho nên bắt đầu đổi tên nước là Chu". Người đất Bân cả thảy dắt già cũng trẻ theo về Cổ Công ở dưới núi Kì. Bấy giờ người các nước kề bên nghe tin Cổ Công nhân từ, cũng nhiều người theo Cổ Công. Do đó Cổ Công bèn bỏ tục nhung địch mà đắp dựng nhà cửa thành quách, lại lập ấp chia riêng nơi ấy. Tập giải: Từ Quảng nói: "Chia ra mà làm thành ấp xóm". lập ra năm chức quan. Tập giải: Lễ kí chép: "Năm chức quan của thiên tử là Tư đồ, Tư mã, Tư không, Tư sĩ, Tư khấu, trông coi quản trị trăm họ". Trịnh Huyền nói: "Đấy là phép chế thời nhà Thương". Dân đều vui ca tụng đức của Cổ Công. Sách ẩn: Thi tụng chép: "Cháu của Hậu Tắc, sinh ta Thái Vương, phía nam núi Kì, thay bỏ nhà Thương". Cổ Công có con cả là Thái Bá, con thứ là Ngu Trọng. Thái Khương sinh ra con út là Qúy Lịch, Chính nghĩa: Quốc ngữ chú chép: "Vua bốn nước Tề, Hứa, Thân, Lữ đều họ Khương, dòng dõi của Tứ nhạc, con nhà Thái Khương. Thái Khương là vợ của Thái Vương, mẹ của Qúy Lịch". Qúy Lịch lấy Thái Nhâm, Tập giải: Liệt nữ truyện chép: "Thái Khương là con gái họ Hữu Thai. Thái Nhâm là con gái giữa của họ Chí Nhâm". Chính nghĩa: Quốc ngữ chú chép: "Vua hai nước Chí-Trù họ Nhâm. Hề Trọng là dòng dõi của Trọng Hôi, họ nhà Thái Nhâm. Thái Nhâm là vợ của Qúy Lịch, mẹ của Văn Vương". đều là vợ hiền, Chính nghĩa: Liệt nữ truyện chép: "Thái Khương được Thái Khương cưới làm vợ, sinh ra Thái Bá, Trọng Ung, Qúy Lịch. Thái Khương có đẹp lại trinh thuận, dạy dỗ các con, đến lúc thành lớn, chưa có sai sót. Thái Vương mưu việc đều tại Thái Khương, dời chuyển tất hưng. Thái Nhâm được Qúy Lịch lấy làm vợ. Tính của Thái Nhâm thì đứng đắn thành thật, làm theo đức hạnh. Kịp lúc mang thai, mắt không nhìn màu xấu, tai không nghe tiếng dâm, miệng không nói lời kiêu, dạy được con lúc có thai, rồi sinh ra Văn Vương". Đấy đều có đức hạnh. sinh ra Xương, có điềm là thánh. Chính nghĩa: Thượng thư đế mệnh nghiệm chép: "Vào ngày giáp tí tháng cuối thu, có con chim tước đỏ ngậm tờ văn mà son bay vào đất Phong. Tờ văn ấy chép: 'Kính thắng khinh thì lành, khinh thắng kính thì diệt, nghĩa thắng dục thì thuận, dục thắng nghĩa thì xấu. Làm không chắc thì cong, không kính thì không đúng, kẻ cong thì diệt, kẻ kính thì được. Lấy nhân mà được, lấy nhân mà giữ, trải đến trăm đời. Lấy bất nhân mà được, lấy nhân mà giữ, trải đến mười đời. Lấy bất nhân mà được, lấy nhân mà giữ, chẳng được đời nào". Có lẽ đây là điềm thánh. Cổ Công nói: "Đời ta chắc có kẻ hưng, ở tại Xương chăng"? Con cả là Thái Bá, Ngu Trọng biết Cổ Công muốn lập Qúy Lịch để truyền cho Xương, hai người bèn bỏ sang đất Kinh Man, Chính nghĩa: Thái Bá sang đất Ngô, thành mà mình ở là thôn Mai Lí huyện Vô Tích châu Thường cách phía bắc châu Tô năm mươi dặm, thành và mộ Thái Bá vẫn còn. Còn nói "bỏ sang đất Kinh Man" là vì Sở diệt Việt, đất Việt thuộc Sở; Tần diệt Sở, đất Sở thuộc Tần, vua Tần húy là Sở, đổi gọi là Kinh, cho nên gọi đất Ngô-Việt là 'Kinh'. Kịp lúc người miền bắc soạn sử thì chép thêm là 'Man', là điều đương nhiên. xăm mình cắt tóc, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Thường ở giữa nước, cho nên cắt tóc, xăm lên mình để giống con rồng, cho nên không bị thương hại". để nhường Qúy Lịch. Cổ Công chết, Qúy Lịch lập, đấy là Công Qúy. Công Qúy sửa đạo truyền của Cổ Công, chăm chỉ hành nghĩa, chư hầu thuận theo. Công Qúy chết, Tập giải: Hoàng Phủ Mật nói: "Táng ở núi phía nam huyện Hộ". con là Xương lập, đấy là Tây Bá. Tây Bá là Văn Vương, Chính nghĩa: Đế vương thế kỉ chép: "Văn Vương mặt rồng vai hổ, thân dài mười thước, ngực có bốn vú". Lạc thư linh chuẩn thính chép: "Thương Đế là Cơ Xương, trán vuông mũi chim, thân cao tám thước hai tấc, thánh trí từ lí". noi nghiệp của Hậu Tắc, Công Lưu, theo thói của Cổ Công, Qúy Công, hành nhân, kính già, yêu trẻ. Lấy lễ nhún nhường với người hiền, giữa ngày không rỗi ăn cơm để tiếp đãi kẻ sĩ, do đó nhiều kẻ sĩ theo Văn Vương. Bá Di, Thúc Tề tại nước Cô Trúc, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Tại huyện Linh Chi quận Liêu Tây". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ Cô Trúc tại phía nam huyện Lư Long châu Bình mười hai dặm, là nước Cô Trúc chư hầu thời nhà Thương, vua họ Mặc Thai". nghe nói Tây Bá giỏi nuôi người già, cùng đến theo Tây Bá. Bọn đại phu Thái Điên, Hoành Yểu, Tán Nghi Sinh, Dục Tử, Tân Giáp đều đến theo Tây Bá. Tập giải: Biệt lục của Lưu Hướng chép: "Dục Tử tên là Hùng, phong ở đất Sở. Tân Giáp là bầy tôi cũ của nhà Ân, thờ vua Trụ, bảy mươi lăm lần can ngăn mà không nghe, bỏ đến nhà Chu, nói chuyện với Triệu Công, cho là người hiền, báo cho Văn Vương, Văn Vương tự đến đón Tân Giáp, lấy làm công khanh, phong tước cho con cả". Con cả được phong ở chỗ trị huyện của quận Thượng Đảng ngày nay. Sùng Hầu tên là Hổ gièm Tây Bá với vua Trụ nhà Ân rằng: "Tây Bá tích thiện tu đức, chư hầu đều hướng về, sắp gây bất lợi cho nhà vua". Vua Trụ bèn giam Tây Bá ở ngục Dũ Lí. Bọn Hoành Yểu lo lắng, liền tìm người con gái họ Hữu Sân, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành nước Sân cũ tại phía nam huyện Hà Tây châu Đồng hai mươi dặm". Thế bản chép: "Vua nước Sân, họ Tự, dòng dõi vua Vũ nhà Hạ. Bọn Tán Nghi Sinh tìm người con gái đẹp nước Hữu Sân dâng cho vua Trụ". ngựa vằn của người Li Nhung, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ Li Nhung tại phía đông nam huyện Tân Phong châu Ung mười sáu dặm, là thành nước Li Nhung thời Ân-Chu". Xét loài ngựa khỏe này bờm đỏ, thân trắng, mắt như vàng ròng, Văn Vương đem dâng vua Trụ. chín cỗ xe ngựa của họ Hữu Hùng, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tân Trịnh châu Trịnh vốn là đất của họ Hữu Hùng". Xét chín cỗ xe ngựa có ba mươi sáu con ngựa. các vật lạ khác, nhờ viên sủng thần của nhà Ân là Phí Trung mà dâng cho vua Trụ. Vua Trụ cả mừng, nói: "Một vật này là đủ để thả Tây Bá, Sách ẩn: 'Một vật này' là chỉ người con gái đẹp họ Hữu Sân. Vì vua Trụ nhà Ân hiếu dâm ưa sắc cho nên biết vậy. huống chi lại nhiều thế này"! Bèn thả Tây Bá, ban cho cung tên rìu búa, sai Tây Bá được đánh dẹp, nói: "Kẻ gièm Tây Bá là Sùng Hầu tên Hổ vậy". Tây Bá liền dâng đất phía tây sông Lạc, lại xin vua Trụ bỏ hình phạt 'bào cách'. Vua Trụ nghe theo. Tây Bá thầm hành thiện, chư hầu đều đến xin xử công bằng. Do đó người nước Ngu-Nhuế có tranh kiện mà không quyết được, Tập giải: Địa lí chí chép: "Nước Ngu tại huyện Đại Dương quận Hà Đông, nước Nhuế tại huyện Lâm Tấn quận Phùng Dực". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Ngu cũ tại trên núi Ngu phía đông bắc huyện Hà Bắc châu Thiểm năm mươi dặm, là nước Ngu thời xưa. Thành Nhuế cũ tại phía tây huyện Nhuế Thành, là nước Nhuế thời xưa". Tấn Thái Khang địa kí chép: "Phía tây thành Ngu một trăm bốn mươi dặm có thành Nhuế". Quát địa chí lại chép: "Bãi đất trống tại phía tây huyện Hà Bắc sáu mươi lăm dặm". Thi chép: "Ngu-Nhuế hỏi mà xong". Mao Trường nói: "Vua hai nước Ngu-Nhuế cùng nhau tranh ruộng, lâu ngày mà không xong, bèn bảo nhau rằng: 'Tây Bá là người nhân từ, đến đấy hỏi xem". Liền cùng nhau đến nhà Chu. Vào đất Chu thì thấy người cày nhường bờ ruộng, người đi nhường đường. Vào thành ấp thì trai gái đi lối riêng, trắng đen không dìu dắt. Vào triều đình, quan sĩ nhường cho đại phu, đại phu lại nhường cho công khanh. Vua hai nước bảo nhau nói: 'Chúng ta tiểu nhân, không đáng vào triều đình của quân tử'. Rồi nhường nhau đất mà mình tranh lấy làm đất bỏ trống". Đến nay vẫn còn. bèn đến nhà Chu. Vào cõi, thấy người cày đều nhường bờ ruộng, tục dân đều nhường người già. Hai người nước Ngu-Nhuế không gặp Tây Bá, đều thẹn, bảo nhau rằng: "Cái mà ta tranh là điều mà người Chu cho là xấu hổ, còn đến làm chi mà tự chuốc lấy nhục"! Rồi về, cùng nhường rồi thôi. Chư hầu nghe tin, nói: "Tây Bá có lẽ là vua vâng mệnh từ trời". Năm sau, đánh rợ Khuyển Nhung. Tập giải: Sơn hải kinh chép: "Có người nhưng mặt người thân thú, tên là Khuyển Nhung". Chính nghĩa: Lại chép: "Hoàng Đế sinh Miêu Long, Miêu Long sinh Dung Ngô, Dung Ngô sinh Tịnh Minh, Tịnh Minh sinh Bạch Khuyển. Bạch Khuyển có hai giống, đấy là Khuyển Nhung". Thuyết văn chép: "Xích Địch vốn là loài chó". Chữ 'Địch' gồm chữ 'khuyển'. Hậu Hán thư lại chép: "Khuyển Nhung là dòng dõi của Bàn Hồ". Ở chỗ quá nửa huyện Vũ Lâm quận Trường Sa". Mao thi sớ chép: "Khuyển Nhung, Côn Di". Năm sau, đánh nước Mật Tu. Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Mật Tu là nước của vua họ Cô". Toản nói: "Tại huyện Âm Mật quận An Định". Chính nghĩa: "Thành cũ Âm Mật tại phía tây huyện Thuần Cô châu Kính, phía đông tiếp thành huyện, là nước Mật xưa". Năm sau, phá nước Kì. Chính nghĩa: Là nước Lê. Trâu Đản Sinh nói có sách chép là nước Lê. Khổng An Quốc nói: "Nước Lê tại phía đông bắc quận Thượng Đảng". Quát địa chí chép: "Thành Lê cũ là nước của Lê Hầu, tại phía đông bắc huyện Thành Lê châu Lộ mười tám dặm". Tổ Y là bầy tôi của nhà Ân, sợ, đem việc này báo chó vua Trụ, vua Trụ nói: "Ngươi không có mệnh trời sao? Thì làm được chi"! Năm sau, đánh nước Vu. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thành Vu tại phía tây bắc huyện Dã Vương, đọc là 'vu'". Tả truyện chép: "Vua các nước Vu, Tấn, Ứng, Hàn là họ hàng của Vũ Vương". Năm sau, đánh Sùng Hầu tên là Hổ. Chính nghĩa: Hoàng Phủ Mật nói: "Là chỗ mà ông Cổn nhà Hạ được phong. Thời Ngu, Hạ, Thương, Chu đều là nước Sùng, nước Sùng có lẽ ở giữa đất Phong-Hạo. Thi chép: 'Đã đánh đến nước Sùng, lập ấp ở đất Phong'. Là đất của nước ấy". Lại dựng ấp Phong. Tập giải: Từ Quảng nói: "Ấp Phong tại phía đông huyện Hộ quận Kinh Triệu. Ấp Hạo tại phía bắc Côn Minh vườn Thượng Lâm, có ao Hạo, cách ấp Phong hai mươi lăm dặm, đều tại phía nam thành Tràng An mấy chục dặm". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Cung ấp Phong là cung của Văn Vương nhà Chu, tại phía đông huyện Hộ châu Ung ba mươi lăm dặm. Ấp Hạo tại phía tây nam châu Ung ba mươi hai dặm". Từ dưới núi Kì mà dời đô đến ấp Phong. Năm sau, Tây Bá băng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Văn Vương thọ chín mươi bảy tuổi thì băng". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Mộ của Văn Vương nhà Chu trên bãi tại phía tây nam huyện Vạn Niên châu Ung hai mươi tám dặm". thái tử tên là Phát lập, đấy là Vũ Vương. Tây Bá có lẽ ở ngôi năm mươi năm. Lúc bị tù ở Dũ Lí, có lẽ chồng thêm tám quẻ của kinh Dịch mà thành sáu mươi tư quẻ. Chính nghĩa: Càn tạc độ chép: "Người bày ra cách bói cỏ thi là Phục Hi, người chồng quẻ diễn giải là Văn Vương, người dẫn thành mệnh là Khổng Tử". Dịch chính nghĩa chép: "Phục Hi chế tám quẻ, Chu Công tác hào từ, Khổng Tử tác thập dực". Xét Thái sử công nói là "có lẽ" là có ý còn ngờ vực. Văn Vương có công diễn giải kinh Dịch, tác Chu bản kỉ mà khen cái hay của ông, không dám tự ý chắc chắn là chồng quẻ, cho nên nói là "có lẽ" vậy". Nhà thơ khen Tây Bá, có lẽ vào lúc chịu mệnh làm vua là lúc xử vụ kiện của Ngu-Nhuế. Chính nghĩa: Sau khi vua hai nước nhường nhau, có hơn bốn mươi nước chư hầu theo Tây Bá, đều tôn Tây Bá làm vương. Có lẽ năm ấy là năm chịu mệnh xưng xương. Đế vương thế kỉ chép: "Văn Vương lên ngôi được bốn mươi hai năm, sao tuế ở tại sao thuần hỏa, là năm đầu Văn Vương đổi hiệu chịu mệnh, bắt đầu xưng vương". Mao thi sớ chép: "Văn Vương thọ chín mươi bảy tuổi thì mất, lúc mất đã chịu mệnh chín năm, vậy thì năm đầu chịu mệnh là lúc tám mươi chín tuổi". Mười năm sau thì băng. Chính nghĩa: 'Mười năm', đáng là 'chín năm'. thụy là Văn Vương. Thụy pháp chép: "Dọc ngang trời đất gọi là 'Văn'". Nhà Chu đổi pháp độ, chế chính sóc, truy tôn Cổ Công là Thái Vương, truy tôn Công Qúy là Vương Qúy. Chính nghĩa: Dịch vĩ chép: "Văn Vương chịu mệnh, đổi chính sóc, báo hiệu vương cho thiên hạ". Trịnh Huyền tin mà chép theo, nói là Văn Vương xưng vương, đã đổi chính sóc báo hiệu vương. Xét: Trời không có hai mặt trời, đất không có hai vương, há vua Trụ nhà Ân vẫn còn mà nhà Chu xưng vương chăng? Nếu Văn Vương tự xưng vương đổi chính sóc thì công nghiệp đã thành, cớ sao Vũ Vương còn nói là công lớn chưa lập, muốn cho xong công nghiệp của cha vậy? Lễ kí đại truyện chép: "Sau trận Mục Dã thì Vũ Vương làm xong việc lớn rồi rút, truy tôn Thái Vương tên là Đản Phụ, Vương Qúy tên là Qúy Lịch, Văn Vương tên là Xương". Xét lời văn này thì truy tôn Văn Vương, sao lại chép Văn Vương tự xưng vương đổi chính sóc được? Có lẽ nghiệp vương bắt đầu từ thời Thái Vương nổi lên vậy. Chính nghĩa: Cổ Công tại đất Phân, bị rợ Nhung Địch đánh chiếm lấy dân. Cổ Công nói: "Lòng dân theo ta, cho họ khác chi? Giết cha con người ta mà làm vua người ta, ta không nỡ làm". Bèn rời xa đất Phân, dừng ở dưới núi Kì. Hết thảy người đất Phân theo Cổ Công. Người nước khác nghe tin Cổ Công nhân từ, cũng nhiều người theo về. Lại bỏ tục Nhung Địch, làm nhà cửa thôn ấp mà chia ra ở đấy. Qúy Lịch lại sinh ra Xương, có điềm thánh. Có lẽ là nghiệp vương bắt đầy từ thời Thái Vương mà nổi lên. Nhưng từ đoạn văn "Tây Bá có lẽ ở ngôi năm mươi năm" xuống đến đoạn văn "Thái Vương nổi lên" vào lúc sau khi Tây Bá băng thì kể lại việc ấy, là không giống với kinh truyện, không thể bỏ hết, nên chép sơ qua, dẫn ở dưới đây, việc này chắc đáng ngờ, cho nên nhiều lần nói là "có lẽ". Vũ Vương lên ngôi, Chính nghĩa: Thụy pháp chép: "Đánh dẹp họa loạn gọi là 'Vũ'". Xuân thu nguyên mệnh bao chép: "Vũ Vương răng biền, đấy là cứng cỏi". Thái Công Vọng làm thái sư, Chu Công tên là Đán làm tể phụ, bọn Triệu Công, Tất Công làm Tả hữu vương, sửa trị công nghiệp của Văn Vương. Năm thứ chín, Vũ Vương dâng tế ở đất Tất. Tập giải: Mã Dung nói: "Tất là tên đất mộ của Văn Vương". Sách ẩn: Xét "Văn Vương dâng tế ở đất Tất", vậy thì 'Tất' là tên sao trời. Sao Tất chủ việc binh, cho nên xuất quân mà tế sao Tất. Chính nghĩa: Thượng thư Vũ Thành biên chép: "Cha ta là Văn Vương, sinh ứng mệnh trời để vỗ về trăm họ, năm thứ chín rồi mà đại thống chưa nối". Thái thệ biên tự chép: "Vào năm thứ mười một, Vũ Vương đánh nhà Ân". Thái thệ biên chép: "Mùa xuân năm thứ mười ba, đại hội ở Mạnh Tân". Đại đái lễ chép: "Văn Vương mười lăm tuổi sinh Vũ Vương". Vậy thì Vũ Vương ít hơn Văn Vương mười bốn tuổi. Lễ kí Văn Vương thế tử chép: "Văn Vương thọ chín mươi bảy tuổi thì mất". Xét Văn Vương băng thì Vũ Vương đã tám mươi ba tuổi rồi, tám mươi tư tuổi thì lên ngôi, đến chín mươi ba tuổi thì băng, Vũ Vương ở ngôi không quá được mười năm. Mà đây chép năm thứ mười ba đánh vua Trụ, nối Văn Vương chịu mệnh, muốn làm rõ sự nghiệp của cha. Kim đằng biên chép: "Vua đánh nhà Ân ba năm, vua có bệnh, không vui". Xét Văn Vương chịu mệnh chín năm thì băng, năm thứ mười một Vũ Vương để tang xong, giễu binh ở Mạnh Tân, năm thứ mười ba thì đánh vua Trụ, năm thứ mười lăm thì có bệnh, Chu Công xin lệnh, vua khỏi bệnh, bốn năm sau thì băng, vậy thì Vũ Vương thọ chín mươi ba tuổi. Thế mà Thái sử công chép là năm thứ chín vua giễu binh, năm thứ mười một đánh vua Trụ, vậy thì số năm Vũ Vương lên ngôi có khác với Thượng thư rất xa. Giễu binh sang miền đông, đến tại Mạnh Tân. Làm bài vị Văn Vương, lấy xe chở ở trong quân. Vũ Vương tự xưng là Thái tử Phát, nói là vâng mệnh Văn Vương đến đánh, không dám tự ý. Lại báo cho các quan Tư mã, Tư đồ, Tư không, các tướng rằng: "Ngay ngắn, nghe đây! Ta không có trí, nhờ tổ tiên có đức thần, con nhỏ nhận công nghiệp của tổ tiên, phải đặt thưởng phạt để nối được công ấy". Rồi dấy binh. Sư Thượng Phủ gọi rằng: "Thu tập quân sĩ cùng thuyền chèo của các ngươi, kẻ đến sau thì chém". Vũ Vương qua sông Hà, giữa dòng có con cá trắng nhảy lên giữa thuyền của vua, Tập giải: Mã Dung nói: "Cá là loài có vảy che, là biểu tượng của binh giáp. Màu trắng là màu ưa thích của nhà Ân, có ý nói quân dân nhà Ân giúp nhà Chu". Sách ẩn: Dưới đây đến chỗ nói có lửa rơi xuống nhà Chu tạo thành con chim, đều thấy chép ở Chu thư và Văn thái thệ. Vũ Vương cúi lấy để tế. Đã qua sông, có lửa từ trên lại rơi xuống, đến tại chỗ của vua, chuyển thành con chim màu đỏ, kêu tiếng phanh phách. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Màu đỏ là màu ưa thích của nhà Chu". Sách ẩn: Xét Văn thái thệ chép: "Chuyển thành con điêu". Điêu là chim kền kền. Mã Dung nói: "Ý nói Vũ Vương đánh Trụ được". Trịnh Huyền nói: "Con chim kia là chim hiếu, nói rằng Vũ Vương tất xong công nghiệp của cha". Bấy giờ chư hầu không hẹn mà hội ở Mạnh Tân có đến tám trăm chư hầu. Chư hầu đều nói: "Đánh vua Trụ được rồi". Vũ Vương nói: "Các ngươi chưa biết mệnh trời, chưa nên". Rồi đem quân về. Được hai năm, nghe tin vua Trụ càng thêm hôn loạn bạo ngược, giết Vương tử tênlà Bỉ Can, cầm tù Cơ Tử. Thái sư tên là Tì, Thiếu sư tên là Cương ôm đồ lễ nhạc của mình mà trốn sang nhà Chu. Do đó Vũ Vương báo khắp chư hầu rằng: "Nhà Ân tội nặng, không thể không nên đến đánh". Rồi theo phép của Văn Vương, liền phát ba trăm cỗ xe trận, ba nghìn lính hổ bôn, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Hổ bôn là hiệu của dũng sĩ. Như hổ vồ thú, nói đến sự dũng mãnh". bốn vạn năm nghìn quân giáp sĩ, đến phía đông đánh vua Trụ. Ngày mậu ngọ tháng mười hai năm thứ mười một, quân qua Mạnh Tân hết, chư hầu đều hội, Vũ Vương nói: "Hăng hái chớ lười"! Vũ Vương lại tác bài văn 'Thái thệ' báo với mọi người rằng: "Nay vua Trụ nhà Ân lại nghe lời của người vợ, tự dứt với trời, hủy hoại tam chính, Tập giải: Mã Dung nói: "Đảo ngược trời, đất, người". Chính nghĩa: Xét tam chính là tam thống. Nhà Chu lấy tháng kiến tí là thiên thống. Nhà Ân lấy tháng kiến sửu là địa thống. Nhà Hạ lấy tháng kiến dần là nhân thống. rời xa anh em thân tộc của mình, lại vứt bỏ đồ lễ nhạc của tổ tiên, tác nhạc tiếng dâm, làm biến loạn tiếng hay, cho hợp ý vợ. Cho nên nay ta cùng các người vâng mệnh trời đến phạt tội. Gắng lên các phu tử, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Phu tử là tên gọi của đàn ông". không đánh lần hai, không đánh lần ba"! Tảng sáng ngày giáp tí tháng hai, Tập giải: Từ Quảng nói: "Có sách chép là tháng giêng. Đấy là tháng kiến sửu, tháng giêng theo lịch của nhà Ân, tháng hai theo lịch của nhà Chu". Vũ Vương buổi sáng đến tại bãi Mục Dã ngoài thành nhà Thương, lại thề. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Buổi tối ngày quý hợi bày binh, buổi sáng ngày giáp tí cáo thề". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành châu Vệ, người già cũ nói là Vũ Vương nhà Chu đánh vua Trụ đến bãi Mục Dã ngoài thành nhà Thương có đắp thành ấy. Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chép: "Từ huyện Triều Ca xuống phía nam đến sông Thanh, đất đai rộng phẳng, đầm bãi miên man, đều là chỗ chăn thả được". Quát địa chí chép: "Vua Trụ đô ở Triều Ca tại phía đông bắc châu Vệ hai mươi ba dặm là thành cũ Triều Ca". Vốn là ấp Muội, vua Vũ Đinh nhà Ân lúc đầu đô ở đấy". Đế vương thế kỉ chép: "Vua Ất lại qua sông Hà lên phía bắc, dời đến Triều Ca, con là vua Trụ vẫn đô ở đấy". Vũ Vương tay trái cầm rìu vàng, tay phải nắm cờ trắng để xua quân. Nói: "Xa rồi hỡi những người con miền tây"! Vũ Vương nói: "Hầy! Những vị vua lớn của ta, các quan Tư đồ, Tư mã, Tư không, Á lữ, Sư thị, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Á là thứ. Lữ là các đại phu, ngôi vị sau quan khanh. Sư thị là quan đại phu, đem binh giữ cửa". Thiên phu trưởng, Bách phu trưởng cùng người các nước Dung, Thục, Khương, Mao, Vi, Lô, Bành, Bộc, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tám nước đều là người Man-Di-Nhun-Địch. Khương ở phía tây. Thục, Tẩu, Mao, Vi tại miền Ba-Thục. Lô-Bành tại miền tây bắc. Dung-Bộc tại phía nam sông Giang-Hán". Mã Dung nói: "Vũ Vương lĩnh quân các nước ấy đi đến đánh vua Trụ". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Trúc Sơn châu Phòng và châu Kim là nước Dung cổ. Châu Ích và các châu Ba, Lợi đều là nước Thục cổ. Các châu Mân, Thao, Tùng miền Lũng Hữu về phía tây là nước Khương. Từ Diêu Phủ về phía nam là đất của nước Mao. Phía nam Nhung Phủ là đất của ba nước Vi, Lô, Bành cổ. Nước Bộc tại phía tây nam nước Sở. Có châu Mao, châu Vi, châu Bộc. Vũ Vương đem người rợ miền tây nam đi đánh vua Trụ". giương qua lên, bày can ra, tựa mâu thẳng, nghe ta thề". Vũ Vương nói: "Người xưa có nói: 'Gà mái không báo sáng, gà mái báo sáng thì nhà trơ trọi'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Trơ trọi là hết. Ví đàn bà làm việc ngoài thì như gà mái thay gà trống gáy sáng, thì nhà tan hết". Nay vua Trụ nhà Ân theo lời đàn bà là đáng dùng, tự vứt đồ tế tự của tổ tiên mà không hỏi, bỏ đi nhà nước của mình, không dùng anh em họ hàng, chỉ chuộng những kẻ có tội trốn tránh trong bốn cõi, tin dùng chúng nó, lại làm bạo ngược với trăm họ, gây việc gian tà ở nhà Thương. Nay ta phát binh cùng vâng mệnh trời phạt tội. Việc ở hôm nay không quá sáu bước bảy bước là dừng lại sửa sang, các ngươi gắng lên! Không quá bốn nhát, năm nhát, sáu nhát, bảy nhát chém, lại dừng lại sửa sang, các ngươi gắng lên! Hãy hăng hăng như hổ như gấu, như sói như li, ở ngoài thành nhà Thương không phải chặn đánh quân địch bỏ chạy, cho họ theo về quân miền tây. Gắng kên các ngươi! Nếu các ngươi không gắng, ta sẽ bị giết các ngươi". Thề xong, bốn nghìn cỗ xe của quân chư hầu hội lại bày trận ở bãi Mục Dã. Vua Trụ nghe tin Vũ Vương đến, cũng phát bảy mươi vạn quân lính chống Vũ Vương. Vũ Vương sai Sư Thượng Phủ cùng trăm người lên đánh, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Lên đánh, phải có ý cùng đánh. Thời xưa lúc sắp đánh, sai quân dũng mãnh lên trước phạm vào quân địch". Xuân thu truyện chép: "Vua Sở sai Hứa Bá lái xe ngựa, Nhạc Bá-Nhiếp Thúc ở bên phải để xông vào quân Tấn. Hứa Bá nói: 'Ta nghe nói lên đánh là lấy được cờ tinh, phá lũy rồi về'. Nhạc Bá nói: 'Ta nghe nói lên đánh là phải tay trái bắn tên nhọn, thay người lái xe ngựa cầm dây cương, nắm lấy hau con ngựa, kéo dây cương lôi mà về'. Nhiếp Thúc nói: 'Ta nghe nói lên đánh là bên phải vào lũy, chém đầu bắt địch mà về'. Đều làm theo những điều mà mình nghe rồi quay về". đem đại tốt đuổi quân của vua Trụ. Chính nghĩa: Đại tốt là ba trăm năm mươi cỗ xe ngựa, hai vạn sáu ngàn hai trăm năm mươi quân lính, có ba ngàn quân hổ bôn. Quân vua Trụ dẫu đông nhưng đều không có ý đánh, ý muốn Vũ Vương vào nhanh. Quân vua Trụ đều cầm ngược giáo mà để đánh để đón Vũ Vương. Vũ Vương xua vào, quân vua Trụ đều vỡ phản lại vua Trụ. Vua Trụ chạy quay về lên trên đài Lộc, mặc trùm châu ngọc lên người, Chính nghĩa: Chu thư chép: "Buổi đêm ngày giáp tí, vua Trụ lấy năm chuỗi ngọc thiên trí quấn người để tự đốt". Chú: Ngọc thiên trí là ngọc tốt, quấn quanh người cho tự coi trọng. Đốt cả thảy bốn nghìn viên ngọc, các thứ ngọc khác đều tiêu, còn ngọc thiên trí không tiêu, cả thân vua Trụ không cháy hết. tự đốt trong lửa mà chết. Vũ Vương cầm cờ trắng to để hiệu chư hầu, chư hầu đều bái Vũ Vương, Vũ Vương bèn lĩnh chư hầu, chư hầu đều theo. Vũ Vương vào thành nhà Thương, Chính nghĩa: Nói là vào thành Triều Ca. trăm họ nhà Thương đều đợi ở ngoài thành. Do đó Vũ Vương sai bầy tôi cáo dụ trăm họ nhà Thương rằng: "Thiên tử ban lành"! Người nhà Thương đều cúi đầu bái lạy, Vũ Vương cũng bái lại. Sách ẩn: Vũ Vương dẫu là tôi mà đánh vua, vả lại có ý thẹn, không ưng nhận bái lạy của người nhà Thương. Thái sử công không chép. Xét lời trên thì chư hầu đều chúc mừng Vũ Vương, Vũ Vương còn đang vái chào, không rỗi xuống bái người nhà Ân. Rồi vào, đến chỗ vua Trụ chết. Vũ Vương tự bắn vào đấy, sau ba phát thì xuống xe, lấy kiếm nhẹ đâm vào, Chính nghĩa: Chu thư chép: "Lấy kiếm khinh lữ chém vào". Khinh lữ là tên kiếm. lấy rìu vàng chém đầu vua Trụ, treo ở cờ trắng to. Rồi lại đến chỗ hai người thiếp yêu của vua Trụ, hai người thiếp đều treo cổ tự sát, lấy kiếm ngắn đâm, dùng rìu đen chém, Tập giải: Tư mã pháp chép: "Nhà Hạ cầm rìu đen". Tống Quân nói: "Rìu đen làm bằng sắt, không mài nhẵn". treo đầu ở cờ trắng nhỏ. Rồi Vũ Vương lại xuất quân ra. Hôm sau đó, trừ đường, sửa miếu xã và cung thất của vua Trụ nhà Thương. Đến hẹn, trăm tên lính vác cờ xí để đi trước. Tập giải: Độc đoán của Sái Ung chép: "Đi trước có quân cầm chín lá cờ xí hình đám mây". Em của Vũ Vương là Thúc Chấn cầm lắc bày xe thường, Chu Công Đán cầm rìu lớn, Tất Công cầm rìu nhỏ. Tán Nghi Sinh, Thái Điên, Hoành Yểu đều cầm kiếm ngắn để hộ vệ Vũ Vương. Đã vào, dừng ở phía nam miếu xã, tả hữu đại tốt đều đi theo. Mao Thúc tên là Trịnh dâng nước trong, Vệ Khang Thúc trải chiếu bố tư, Triệu Công tên là Thích dâng vải màu, Sư Thượng Phủ dắt vật tế đến, Y Dật dâng biểu mừng nói: "Cháu đời cuối của nhà Ân tên là Qúy Trụ, cắt bỏ đức sáng của tổ tiên, khinh nhờn thần linh mà không tế, bạo ngược trăm họ nhà Thương, tội này đã nêu rõ tới thượng đế thiên hoàng". Do đó Vũ Vương bái lạy cúi đầu, nói: "Nhận lấy mệnh lớn mà thay nhà Ân, vâng mệnh của trời". Vũ Vương bái lạy cúi đầu nữa rồi ra. Bá Di liệt truyện (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Các học giả xem rộng sách vở còn phải tin xem ở lục nghệ (sáu kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân thu, Dịch). Thi-Thư dẫu khuyết nhưng lời văn chép về thời Ngu-Hạ vẫn biết được. Vua Nghiêu muốn thoái ngôi, nhường cho Ngu Thuấn. Giữa thời vua Thuấn-Vũ, các quan đều chọn, bèn thử họ ở ngôi, coi việc mấy chục năm, Chính nghĩa: Thuấn-Vũ đều nắm chức vụ hơn hai chục năm rồi mới lên ngôi vua. công lao đã lập, sau đó truyền ngôi. Nêu rõ thiên hạ là của nặng, đế vương là người nối dõi lớn nhất, trao thiên hạ khó như thế. Vậy nên có người nói rằng vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do,Chính nghĩa: Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật chép: "Hứa Do tên chữ là Vũ Trọng. Vua Nghiêu nghe tin mà nhường thiên hạ cho ông, nhưng ông lại lui về ở phía bắc sông Dĩnh miền trung nhạc (núi Tung), ở dưới núi Kì mà ẩn náu. Vua Nghiêu lại gọi làm người đứng đầu chín châu, Do không muốn nghe lời ấy, rửa tai ở bờ sông Dĩnh. Bấy giờ có Sào Phủ dắt bê muốn cho nó uống nước ở đấy, hỏi vì sao. Đáp rằng: 'Vua Nghiêu muốn gọi ta làm người đứng đầu chín châu, ta ghét nghe lời ấy, cho nên rửa tai'. Sào Phủ nói: 'Nếu ngài ở chỗ khe sâu vực cao, không qua lại với người đời thì ai biết ngài? Đấy là vì ngài còn phù du, muốn tìm nghe danh dự của mình. Bẩn miệng bê ta"! Dắt bê lên dòng trên mà cho nó uống. Hứa Do chết, táng ở núi ấy, cũng gọi là núi Hứa Do". Tại phía nam huyện Dương Thành châu Lạc mười ba dặm. nhưng Hứa Do không nhận, hổ thẹn mà bỏ trốn. Kịp vào thời nhà Hạ, có Biện Tùy, Vụ Quang cũng như vậy. Sao lại không khen họ? Sách ẩn: Xét: 'Có người nói' là bảo các bản chép của các nhà. Còn việc vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do, kịp đến thời nhà Hạ lại có bọn Biện Tùy, Vụ Quang; vua Thang nhà Ân nhường thiên hạ cho họ nhưng đều không nhận mà trốn đi, việc này đều chép tại Trang Chu nhượng vương biên. Chính nghĩa: Kinh sử chỉ khen Bá Di, Thúc Tề mà không nói đến Hứa Do, Biện Tùy, Vụ Quang, không chỉ thiếu mà còn ít thấy, sao lại thế? Cho nên mới nói 'sao lại không khen họ' là không khen nói về họ vậy. Thái sử công nói: Ta lên núi Kì, trên núi ấy có lẽ có mộ của Hứa Do. Khổng Tử xếp bày người hiền thánh nhân từ, bàn về những người như Ngô Thái Bá, Bá Di là rõ rồi. Ta nghe nói bọn Do-Quang có nghĩa cao lắm, Sách ẩn: Nói là Thái sử công Nghe Trang Chu nói về bọn Hứa Do, Vụ Quang vậy. Nhường thiên hạ cho Hứa Do, Do bèn trốn ở núi Kì, rửa tai ở sông Dĩnh; Biện Tùy tự nhảy xuống sông Đồng; Vụ Quang cõng đã tự chìm ở sông Lô; đấy là nghĩa cao lắm. văn chép về họ không chỉ ít mà còn ít thấy, sao vậy? Khổng Tử nói: "Dá Di, Thúc Tề không màng thù cũ, ít nói lời oán". "Tìm ý nhân từ thì được ý nhân từ, sao lại oán nhỉ"? Ta buồn cho ý của Bá Di, xem qua lời thơ thì thấy đáng cho là lạ thật đấy! Sách ẩn: Nói 'buồn' là việc anh em họ nhường nhau, lại khen cho việc không ăn thóc nhà Chu mà chết đói. Còn nói 'lạ thật đấy', xét Luận ngữ chép "tìm ý nhân từ thì được ý nhân từ, sao lại oán nhỉ", mà nay lời thơ chép "ta biết về đâu nhỉ, ô hô chết rồi, mạng ta hết rồi", là lời oán, cho nên nói là 'lạ thật đấy'. Truyện về họ rằng: Bá Di, Thúc Tề là hai con của vua nước Cô Trúc. Sách ẩn: Xét: Nói 'truyện chép về họ' có lẽ là sách Hàn thi ngoại truyện và Lữ thị xuân thu. Truyện này chép rằng: "Vua Cô Trúc được vua Thang nhà Ân phong nước vào ngày bính dần tháng ba. Truyền nhau đến đời cha của Di-Tề tên là Sơ, tên chữ là Từ Triều. Bá Di tên là Doãn, tên chữ là Công Tín. Thúc Tề tên là Trí, tên chữ là Công Đạt". Xét: Địa lí chí chép: "Thành Cô Trúc tại huyện Linh Chi quận Liêu Tây". Ứng Thiệu nói: "Là nước của Bá Di, vua nước này họ Mặc Thai". Chính nghĩa: Quát địa lí chí chép: "Thành cũ nước Cô Trúc tại phía nam huyện Lư Long mười hai dặm, thời nhà Ân là nước chư hầu Cô Trúc". Cha muốn lập Thúc Tề, kịp lúc cha chết, Thúc Tề nhường Bá Di. Bá Di nói: "Là mệnh của cha vậy". Rồi bỏ đi. Thúc Tề cũng không chịu lập mà trốn đi. Người trong nước lập con giữa của vua. Do đó Bá Di, Thúc Tề nghe nói Tây Bá tên là Xương giỏi nuôi người già, bèn theo về với. Kịp lúc đến nơi, Tây Bá chết, Vũ Vương chở bài vị Tây Bá, hiệu là Văn Vương, sang đông đánh vua Trụ. Bá Di, Thúc Tề lôi ngựa mà can rằng: "Cha chết mà không chôn, lại dùng đến can qua, có thể nói là hiếu không? Là tôi mà giết vua, có thể nói là nhân không"? Tả hữu muốn đánh hai người. Thái Công nói: "Đấy là người có nghĩa vậy". Cho người ôm mà đẩy ra. Vũ Vương đã bình loạn nhà Ân, thiên hạ thờ nhà Chu, nhưng Bá Di, Thúc Tề cho là xấu hổ, không chịu ăn thóc của nhà Chu, náu ở núi Thủ Dương, Tập giải: Mã Dung nói: "Núi Thủ Dương tại giữa chỗ gập khúc sông Hà phía bắc núi Hoa huyện Bồ Bản quận Hà Đông". Chính nghĩa: Tào Đại Gia chú U thông phú nói: "Di Tề chết đói ở núi Thủ Dương, tại đầu quận Lũng Tây". Tây chinh kí của Đái Diên Chi chép: "Núi Thủ Dương ở phía đông bắc thành Lạc Dương có miều thờ Di-Tề". Nay tại phía tây bắc huyện Yển Sư. Mạnh Tử chép: "Di-Tề tránh vua Trụ, cư ở bờ sông miền Bắc Hải". Núi Thủ Dương, theo Thuyết văn chép: "Núi Thủ Dương tại quận Liêu Tây". Sử truyện và các sách chép Di-Tề đói ở núi Thủ Dương, cả thảy có năm chỗ, đều có chứng cứ, trước sau không rõ. Trang Tử chép: "Bá Di, Thúc Tề về phía tây đến chỗ phía nam núi Kì, thấy Vũ Vương nhà Chu đánh nhà Ân, nói: 'Ta nghe nói kẻ sĩ thời xưa gặp thời trị không tránh việc làm quan, gặp thời loạn không làm việc sống cho qua. Nay thiên hạ tăm tối, nhà Chu đức suy, nếu theo nhà Chu thì làm bẩn thân ta, không bằng tránh nhà Chu để cho đức ta trong sạch'. Hai người lên phía bắc đến núi Thủ Dương, rồi đói bụng mà chết". Lại nữa phần dưới có thơ là rằng: "Lên núi tây này", là núi Thủ Dương huyện Thanh Nguyên ngày nay, tại phía tây bắc huyện Kì Dương, rõ là chỗ Di-Tề chết đói. hái rau vi mà ăn. Chính nghĩa: Mao thi thảo mộc sớ của Lục Cơ chép: "Rau vi là rau mọc trên núi, cành lá đều như cây đậu nhỏ, mọc leo, mùi nó như mùi lá đậu nhỏ, nấu canh được, cũng ăn sống được". Kịp lúc đói sắp chết, tác bài hát, lời hát rằng: "Lên núi tây này, Xét 'núi tây' là núi Thủ Dương. hái lấy rau vi. Lấy bạo để thay bạo, không biết đấy là sai. Sách ẩn: Nói là tôi bạo Vũ Vương thay vua bạo Ân Trụ mà không tự biết mình sai. Thần Nông-Ngu-Hạ, xưa đã qua đi, ta biết về đâu nhỉ? Sách ẩn: Nói là thời Phục Hi, Thần Nông, Ngu, Hạ có cái đạo nhường ngôi chân phác, đã qua lâu rồi, mất hết rồi. Nay gặp lúc vua tôi tranh cướp, cho nên nói 'ta biết về đâu'? Ô hô chết rồi, mạng ta hết rồi"! Sách ẩn: Nói là đến nay chết đói cũng là vận mệnh suy bạc, không gặp thời có đạo lớn, đến nỗi u uất mà chết đói. Cuối cùng chết đói ở núi Thủ Dương. Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Vũ Vương đem dân còn lại của nhà Ân phong cho con vua Trụ là Lộc Phủ. Vì nhà Ân mới định dân chưa an tập cho nên Vũ Vương sai em mình là Quản Thúc tên là Tiên, Sái Thúc tên là Độ cùng Lộc Phủ trị ở đất Ân. Chính nghĩa: Địa lí chí chép: "Quận Hà Nội là đô cũ của nhà Ân. Nhà Chu đã diệt nhà Ân, chia kinh kì nhà Ân làm ba nước, kinh Thi chép là ba nước Bội, Dong, Vệ. Lấy nước Bội phong cho con vua Trụ tên là Vũ Canh, lấy nước Dong phong cho Quản Thúc giữ, lấy nước Vệ phong cho Sái Thúc giữ; để trông coi dân nhà Ân; gọi là 'Tam giám'". Đế vương thế kỉ chép: "Từ đô nhà Ân về phía đông là nước Vệ, cho Quản Thúc trông coi; từ đô nhà Ân về phía tây là nước Dong, cho Sái Thúc trông coi; từ đô nhà Ân lên phía bắc là nước Bội, cho Hoắc Thúc trông coi; đấy là 'Tam giám'". Xét: Hai thuyết đều khác, không rõ. Rồi lại sai Triệu Công cởi trói cho Cơ Tử, sai Tất Công cỏi trói cho trăm họ, khen Thương Dung ở cổng ngõ; sai Nam Cung Quát chia tiền ở đài Lộc, phát thóc ở kho Cự Kiều để cấp cho người dân nghèo yếu; sai Nam Cung Quát, quan Thái sử tên là Dật bày ngọc báu cửu đỉnh; sai Hoành Yểu đắp mộ của Bỉ Can; sai quan Tông chúc cúng tế cho quân sĩ. Rồi bãi binh về miền tây. Đi tuần thú, ghi chính sự, tác bài văn 'Vũ thành'. Phong cho chư hầu, ban cho họ đồ tế tông miếu, chia các đồ vật của nhà Ân cho họ. Vũ Vương truy xét những vị vua hiền thời trước, bèn thưởng phong dòng dõi Thần Nông ở nước Tiêu, Tập giải: Địa lí chí chép: "Huyện Thiểm quận Hoằng Nông có thành Tiêu, là nước Tiêu xưa"., phong dòng dõi Hoàng Đế ở nước Chúc, Chính nghĩa: Phục Kiền nói: "Quận Đông Hải có huyện Chúc Kì". phong dòng dõi vua Nghiêu ở đất Kế, Tập giải: Địa lí chí chép: "Nước Yên có huyện Kế". phong dòng dõi vua Thuấn ở nước Trần, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Trong thành Trần tại huyện Uyển Khâu châu Trần là nước Trần xưa. Dòng dõi vua Thuấn tên là Át Phủ làm quan Đào chính của Vũ Vương nhà Chu, Vũ Vương được nhờ vào đồ dùng của Át Phủ, bèn phong cho con của Át Phủ tên là Quy Mãn ở nước Trần, đô ở bên huyện Uyển Khâu". phong dòng dõi vua Vũ ở nước Kỉ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Ung Khâu châu Biện là nước Kỉ xưa". Địa lí chí chép: "Đô của nước Kỉ xưa là thành ấy. Vũ Vương nhà Chu phong dòng dõi vua Vũ ở nước Kỉ, hiệu là Đông Lâu Công, truyền hai mươi mốt đời thì bị nước Sở diệt". Do đó phong cho công thần mưu sĩ, mà Sư Thượng Phủ được phong trước; phong Sư Thượng Phủ ở ấp Doanh Khâu, gọi là nước Tề; Chính nghĩa: Nhĩ nhã chép: "Sông chảy từ phía trước đất ấy rồi rẽ sang trái gọi là Doanh Khâu". Quách Phác nói: "Ấp Doanh Khâu của nước Tề ngày nay có sông Truy chảy qua mé nam và mé đông". Chính nghĩa: Thủy kinh chú chép: "Trong thành Lâm Truy có gò. Huyện Lâm Truy châu Thanh là ấp Doanh Khâu thời xưa. Là kinh đô nước Tề mà Lữ Vọng được phong. Ấp Doanh Khâu tại giữa ngoài thành phía bắc huyện trăm bước". Dư địa chí chép: "Nhà Tần lập thành huyện, thành này kề sông Truy cho nên đặt tên là Lâm Truy". phong em là Chu Công tên là Đán ở ấp Khúc Phụ, gọi là nước Lỗ; Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Ấp Khúc Phụ tại giữa thành Lỗ, thế đất uốn cong dài bảy, tám dặm". Chính nghĩa: Đế vương thế kỉ chép: "Viêm Đế từ đất Trần đến dựng đô ở ấp Khúc Phụ nước Lỗ. Hoàng Đế lên ngôi vua ở đất Cùng Tang, sau dời đến Khúc Phụ. Thiếu Hạo dựng ấp ở Cùng Tang, sau đó lên ngôi vị, đóng đô ở Khúc Phụ. Vua Chuyên Húc lúc đầu đô ở Cùng Tang, sau lại dời đến ấp Thương Khâu". Đất Cùng Tang tại phía bắc nước Lỗ, có người nói Cùng Tang là Khúc Phụ, lại là nước cũ của họ Đại Đình, lại là đất Yểm thời nhà Thương. Hoàng Phủ Mật nói: "Hoàng Đế sinh ở Thọ Khâu, tại phía bắc cửa đông thành Lỗ; trú ở gò Hiên Viên, theo Sơn hải kinh chép là giữa đất Cùng Tang, phía nam đất Tây Xạ". Quát địa chí chép: "Thành ngoài huyện Khúc Phụ châu Duyện là thành nước Lỗ cũ do con của Chu Công Đán tên là Bá Li đắp". phong Triệu Công tên là Thích ở nước Yên; Chính nghĩa: Thủy kinh chú chép: "Góc tây bắc trong thành Kế có gò Kế, nhân đó mà đặt tên ấy". Quát địa chí chép: "Núi Yên tại phía đông nam huyện Ngư Dương châu U sáu mươi dặm". Tông quốc đô thành kí của Từ Tài chép: "Vũ Vương nhà Chu phong Triệu Công tên là Thích ở nước Yên, đất ấy tại cánh đồng ven núi Yên, cho nên đặt làm tên nước". Xét: Nhà Chu lấy năm bậc tước mà phong chư hầu, hai nước Kế, Yên đều do Vũ Vương phong, dựa vào núi Yên, gò Kế mà đặt tên, đất ấy đủ tự dựng nước. Kịp lúc nước Kế suy nước Yên thịnh, bèn chiếm cả nước Kế, tên nước Kế bèn mất. Huyện Kế châu U ngày nay là nước Yên xưa. phong em tên là Tiên ở đất Quản; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành ngoài huyện Quản Thành châu Trịnh là nước Quản xưa, là chỗ mà em của Vũ Vương nhà Chu tên là Tiên được phong". phong em tên là Độ ở đất Sái; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía bắc châu Dự bảy mươi dặm có huyện Thượng Sái, là nước Sái cũ, Vũ Vương phong em tên là Độ ở đất Sái. Phía đông huyện mười dặm có đồi Sái, nhân đó đặt tên nước". các chư hầu còn lại lần lượt cũng được phong. Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Vũ Vương đem dân còn lại của nhà Ân phong cho con vua Trụ là Lộc Phủ. Vì nhà Ân mới định dân chưa an tập cho nên Vũ Vương sai em mình là Quản Thúc tên là Tiên, Sái Thúc tên là Độ cùng Lộc Phủ trị ở đất Ân. Chính nghĩa: Địa lí chí chép: "Quận Hà Nội là đô cũ của nhà Ân. Nhà Chu đã diệt nhà Ân, chia kinh kì nhà Ân làm ba nước, kinh Thi chép là ba nước Bội, Dong, Vệ. Lấy nước Bội phong cho con vua Trụ tên là Vũ Canh, lấy nước Dong phong cho Quản Thúc giữ, lấy nước Vệ phong cho Sái Thúc giữ; để trông coi dân nhà Ân; gọi là 'Tam giám'". Đế vương thế kỉ chép: "Từ đô nhà Ân về phía đông là nước Vệ, cho Quản Thúc trông coi; từ đô nhà Ân về phía tây là nước Dong, cho Sái Thúc trông coi; từ đô nhà Ân lên phía bắc là nước Bội, cho Hoắc Thúc trông coi; đấy là 'Tam giám'". Xét: Hai thuyết đều khác, không rõ. Rồi lại sai Triệu Công cởi trói cho Cơ Tử, sai Tất Công cỏi trói cho trăm họ, khen Thương Dung ở cổng ngõ; sai Nam Cung Quát chia tiền ở đài Lộc, phát thóc ở kho Cự Kiều để cấp cho người dân nghèo yếu; sai Nam Cung Quát, quan Thái sử tên là Dật bày ngọc báu cửu đỉnh; sai Hoành Yểu đắp mộ của Bỉ Can; sai quan Tông chúc cúng tế cho quân sĩ. Rồi bãi binh về miền tây. Đi tuần thú, ghi chính sự, tác bài văn 'Vũ thành'. Phong cho chư hầu, ban cho họ đồ tế tông miếu, chia các đồ vật của nhà Ân cho họ. Vũ Vương truy xét những vị vua hiền thời trước, bèn thưởng phong dòng dõi Thần Nông ở nước Tiêu, Tập giải: Địa lí chí chép: "Huyện Thiểm quận Hoằng Nông có thành Tiêu, là nước Tiêu xưa"., phong dòng dõi Hoàng Đế ở nước Chúc, Chính nghĩa: Phục Kiền nói: "Quận Đông Hải có huyện Chúc Kì". phong dòng dõi vua Nghiêu ở đất Kế, Tập giải: Địa lí chí chép: "Nước Yên có huyện Kế". phong dòng dõi vua Thuấn ở nước Trần, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Trong thành Trần tại huyện Uyển Khâu châu Trần là nước Trần xưa. Dòng dõi vua Thuấn tên là Át Phủ làm quan Đào chính của Vũ Vương nhà Chu, Vũ Vương được nhờ vào đồ dùng của Át Phủ, bèn phong cho con của Át Phủ tên là Quy Mãn ở nước Trần, đô ở bên huyện Uyển Khâu". phong dòng dõi vua Vũ ở nước Kỉ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Ung Khâu châu Biện là nước Kỉ xưa". Địa lí chí chép: "Đô của nước Kỉ xưa là thành ấy. Vũ Vương nhà Chu phong dòng dõi vua Vũ ở nước Kỉ, hiệu là Đông Lâu Công, truyền hai mươi mốt đời thì bị nước Sở diệt". Do đó phong cho công thần mưu sĩ, mà Sư Thượng Phủ được phong trước; phong Sư Thượng Phủ ở ấp Doanh Khâu, gọi là nước Tề; Chính nghĩa: Nhĩ nhã chép: "Sông chảy từ phía trước đất ấy rồi rẽ sang trái gọi là Doanh Khâu". Quách Phác nói: "Ấp Doanh Khâu của nước Tề ngày nay có sông Truy chảy qua mé nam và mé đông". Chính nghĩa: Thủy kinh chú chép: "Trong thành Lâm Truy có gò. Huyện Lâm Truy châu Thanh là ấp Doanh Khâu thời xưa. Là kinh đô nước Tề mà Lữ Vọng được phong. Ấp Doanh Khâu tại giữa ngoài thành phía bắc huyện trăm bước". Dư địa chí chép: "Nhà Tần lập thành huyện, thành này kề sông Truy cho nên đặt tên là Lâm Truy". phong em là Chu Công tên là Đán ở ấp Khúc Phụ, gọi là nước Lỗ; Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Ấp Khúc Phụ tại giữa thành Lỗ, thế đất uốn cong dài bảy, tám dặm". Chính nghĩa: Đế vương thế kỉ chép: "Viêm Đế từ đất Trần đến dựng đô ở ấp Khúc Phụ nước Lỗ. Hoàng Đế lên ngôi vua ở đất Cùng Tang, sau dời đến Khúc Phụ. Thiếu Hạo dựng ấp ở Cùng Tang, sau đó lên ngôi vị, đóng đô ở Khúc Phụ. Vua Chuyên Húc lúc đầu đô ở Cùng Tang, sau lại dời đến ấp Thương Khâu". Đất Cùng Tang tại phía bắc nước Lỗ, có người nói Cùng Tang là Khúc Phụ, lại là nước cũ của họ Đại Đình, lại là đất Yểm thời nhà Thương. Hoàng Phủ Mật nói: "Hoàng Đế sinh ở Thọ Khâu, tại phía bắc cửa đông thành Lỗ; trú ở gò Hiên Viên, theo Sơn hải kinh chép là giữa đất Cùng Tang, phía nam đất Tây Xạ". Quát địa chí chép: "Thành ngoài huyện Khúc Phụ châu Duyện là thành nước Lỗ cũ do con của Chu Công Đán tên là Bá Li đắp". phong Triệu Công tên là Thích ở nước Yên; Chính nghĩa: Thủy kinh chú chép: "Góc tây bắc trong thành Kế có gò Kế, nhân đó mà đặt tên ấy". Quát địa chí chép: "Núi Yên tại phía đông nam huyện Ngư Dương châu U sáu mươi dặm". Tông quốc đô thành kí của Từ Tài chép: "Vũ Vương nhà Chu phong Triệu Công tên là Thích ở nước Yên, đất ấy tại cánh đồng ven núi Yên, cho nên đặt làm tên nước". Xét: Nhà Chu lấy năm bậc tước mà phong chư hầu, hai nước Kế, Yên đều do Vũ Vương phong, dựa vào núi Yên, gò Kế mà đặt tên, đất ấy đủ tự dựng nước. Kịp lúc nước Kế suy nước Yên thịnh, bèn chiếm cả nước Kế, tên nước Kế bèn mất. Huyện Kế châu U ngày nay là nước Yên xưa. phong em tên là Tiên ở đất Quản; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành ngoài huyện Quản Thành châu Trịnh là nước Quản xưa, là chỗ mà em của Vũ Vương nhà Chu tên là Tiên được phong". phong em tên là Độ ở đất Sái; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía bắc châu Dự bảy mươi dặm có huyện Thượng Sái, là nước Sái cũ, Vũ Vương phong em tên là Độ ở đất Sái. Phía đông huyện mười dặm có đồi Sái, nhân đó đặt tên nước". các chư hầu còn lại lần lượt cũng được phong. Vũ Vương gọi quân trưởng ở khắp chín châu đến, trèo lên gò Bân để nhìn ấp của nhà Ân. Vũ Vương về đến nhà Chu, suốt đêm không ngủ. Chính nghĩa: Nhà Chu là thành Hạo. Vũ Vương đánh vua Trụ, về đến thành Hạo, lo nghĩ chưa yên định được thiên hạ, cho nên suốt đêm không ngủ được. Chu Công tên là Đán đến chỗ Vũ Vương nói: "Sao lại không ngủ"? Vũ Vương nói: "Nói cho ngươi biết: Trời không giúp nhà Ân, từ lúc Phát chưa sinh đến nay là sáu mươi năm, hưu nai ở ven thành, Tập giải: Từ Quảng nói: "Việc này chép từ Chu thư và Tùy Sào Tử, chép rằng: "Di dương tại mục". Mục là ven thành. Di dương là vật quái gở. phỉ hồng bay đầy đồng. Sách ẩn: Xét: Cao Dụ nói: "Phỉ hồng là sâu mối". Nói là sâu mối bay lấp ruộng đầy đồng, cho nên gây hại, không phải là chim hồng. Tùy Sào Tử chép là 'phi thập', phi thập là con sâu. Chính nghĩa: Phỉ đọc là 'phi' là chữ 'phi' cổ. 'Đến nay là sáu mươi năm' là từ năm thứ mười thời vua Ất đến năm đánh vua Trụ. 'Hươu nai ở ven thành' là chỉ kẻ tiểu nhân nịnh bợ ở triều đình. 'Phỉ hồng bay đầy đồng' là chỉ kẻ quân tử trung hiền bị xua đuổi. Nói là sau khi cha vua Trụ là vua Ất lên ngôi, nhà Ân càng suy, đến lúc đánh vua Trụ là trong vòng sáu mươi năm. Cho nên kinh Thi chép: "Hồng nhạn bay lên, cánh đập phành phạch, quân tử đến đánh, siêng năng ở đồng". Mao Trường nói: "Quân tử là hầu bá khanh sĩ". Trịnh Huyền nói: "Chim hồng nhạn biết tránh nóng lạnh âm dương, như dân biết bỏ kẻ vô đạo mà theo người có đạo". Trời chẳng giữ nhà Ân, nên nay mới thành công. Sách ẩn: Nói là trời giúp đỡ nhà Ân cho nên gặp tai họa, nhà Chu ta mới thành công. Trời dựng nhà Ân, tin dùng ba trăm sáu mươi kẻ sĩ, không hiển hách cũng không đến nỗi diệt vong, Sách ẩn: Ý nói là trời mới dựng nhà Ân, cũng chọn được có ba trăm sáu mươi người hiền, dẫu chẳng phải là đại hiền, chưa vực dậy được giáo hóa, cho nên nhà Ân không được sáng rõ lắm, nhưng cũng không đến nỗi bị diệt bỏ, truyền cho đến nay. truyền đến nay. Ta chưa được mệnh trời giữ, ngủ sao được"! Vũ Vương lại nói: "Muốn được mệnh trời phải theo ý trời, phải trách kẻ ác, phạt lỗi ngang như vua nhà Ân. Ngày đêm chăm chỉ giữ miền tây ta, tỏ rõ việc ta, truyền đức sáng khắp. Từ bến sông Lạc trải đến bến sông Y, đất đai chẳng vững, là nơi ở của nhà Hạ. Tập giải: Từ Quảng nói: "Nhà Hạ đóng đô ở Hà Nam, lúc đầu tại huyện Dương Thành, sau trú ở huyện Dương Trạch". Sách ẩn: Nói là từ bến sông Lạc đến bến sông Y, đất đai bằng phẳng không chắc chắn, là chỗ ở cũ của nhà Hạ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Từ vua Vũ đến vua Thái Khang so với thời Đường-Ngu đều không đổi thành đô". Vậy thì ở Dương Thành là lúc vua Vũ tránh Thương Quân, không phải đô ở đây. Đế vương thế kỉ chép: "Vũ được phong làm Hạ Bá, ở huyện Dương Trạch quận Hà Nam ngày nay". Cấp trủng cổ văn chép: "Vua Thái Khang cư ở Châm Tầm, Hậu Nghệ cũng ở đó, vua Kiệt cũng trú ở đây". Ta phía nam nhìn núi Tam Đồ, phía bắc nhìn núi Nhạc Bỉ, cúi xem sông Hà, Sách ẩn: Đỗ Dự nói: "Núi Tam Đồ tại phía nam huyện Lục Hồn. Nhạc, có lẽ là núi Thái Hàng ở phía bắc sông Hà. Bỉ là đất ven đô, là ấp gần núi lớn". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Thái Hàng, núi Hằng nối liền, phía đông bắc tiếp núi Kiệt Thạch, phía tây bắc tiếp núi Nhạc". Nói là phía bắc nhìn núi Thái Hàng, đô ấp ở ven núi Hằng. Lại chép: "Núi Hoắc ở châu Tấn còn có tên là núi Thái Nhạc, tại phía tây bắc ấp Lạc. Núi Hằng tại phía đông bắc ấp Lạc". ngẫm ngắm sông Lạc-Y, không xa kinh đô. Bèn dựng nhà Chu ở ấp Lạc, sau lại bỏ. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ của Vũ Vương còn có tên là thành Hà Nam, vốn là ấp Giáp Nhục, do Chu Công đắp mới, tại góc tây bắc trong vườn phía bắc huyện Hà Nam châu Lạc chín dặm. Từ đời Bình Vương về sau là mười hai đời vua đều đô ở thành này, đến đời Kính Vương mới dời đô ở ấp Thành Chu, đến đời Noản Vương lại đô ở thành cũ của Vũ Vương". Địa danh của Kinh Tương Phan chép: "Giáp là tên núi, Nhục là tên ấp". Thả ngựa ở phía nam núi Hoa, lùa bò vào gò rừng Đào; Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Rừng Đào tại phía đông núi Hoa". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Rừng Đào tại phía tây huyện Đào Lâm châu Thiểm". Sơn hải kinh chép: "Ở núi Khoa Phụ, phía bắc núi có rừng, tên là rừng Đào, vuông rộng ba trăm dặm, trong rừng có nhiều ngựa, sông Hồ chảy ra từ đấy, phía bắc vào sông Hà". bỏ can qua, bãi binh giải giáp, cho thiên hạ biết không dùng đến nó nữa. Vũ Vương đã thắng nhà Ân, hai năm sau, hỏi Cơ Tử nguyên nhân nhà Ân mất. Cơ Tử không nỡ nói nhà Ân xấu, lấy lẽ được mất của nhà nước mà đáp. Chính nghĩa: Cơ Tử là người nhà Ân, không nỡ nói cái xấu của nhà Ân, nói những điều nên làm của nhà Chu mà đáp Vũ Vương, tác bài 'Hồng phạm' có chín mục, Vũ Vương lấy từng mục để hỏi đạo trời. Vũ Vương cũng thẹn, cho nên lấy đạo trời để hỏi. Vũ Vương bệnh. Thiên hạ chưa yên tập, bầy tôi lo, bèn chiêm bói. Chu Công lại cầu cúng, Chính nghĩa: Cúng trừ điều chẳng lành mà cầu phúc. tự làm tin, Chính nghĩa: Chu Công cầu cúng, tự lấy vật lễ cáo Tam vương, xin bị bệnh thay Vũ Vương, bệnh Vũ Vương mới đỡ. Muốn bệnh thay Vũ Vương, Vũ Vương có đỡ bệnh. Sau thì băng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Phong thiện thư chép: 'Vũ Vương đánh nhà Ân được hai năm, thiên hạ chưa yên thì băng'". Hoàng Phủ Mật nói: "Vũ Vương lên ngôi năm đầu ất dậu, năm thứ sáu canh dần thì băng". Bùi Nhân xét: Hoàng lãm chép: "Mộ của Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công đều tại trong xã phía đông ấp Hạo huyện Trường An quận Kinh Triệu". thái tử tên là Tụng thay lập, đấy là Thành Vương. Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Thành Vương còn nhỏ, nhà Chu vừa định thiên hạ, Chu Công sợ chư hầu phản nhà Chu, Chu Công bèn nắm lấy làm việc nước. Các em là Quản Thúc, Sái Thúc ngờ Chu Công, cùng Vũ Canh làm loạn, phản nhà Chu. Chu Công vâng lệnh Thành Vương, đánh giết Vũ Canh, Quản Thúc, đuổi Sái Thúc; lấy Vi Tử tên là Khải thay làm dòng dõi nhà Ân, dựng nước ở đất Tống. Chính nghĩa: Là châu Tống ngày nay. Lại thu nạp dân còn lại của nhà Ân để phong cho em út của Vũ Vương, phong Khang Thúc ở nước Vệ. Chính nghĩa: Thượng thư Lạc cáo chép: "Ta chọn đất phía đông sông Triền, cũng tính ở bên sông Lạc để cho dân các nước Bội, Dong, Vệ ở". Đa sĩ biên tự lại chép: "Thành Thành Chu đã dựng xong, dời dân cứng đầu nhà Ân". Xét: Đấy là nhà Chu phía đông, là thành Lạc Dương cũ. Quát địa chí chép: "Thành Lạc Dương cũ tại phía đông bắc huyện Lạc Dương châu Lạc hai mươi sáu dặm, là thành mà Chu Công đắp, tức thành Thành Chu". Dư địa chí chép: "Vì đất Chu tại phía đông thành của vua, cho nên gọi là nhà Chu phía đông. Kính Vương tránh loạn Tử Triều, từ ấp Lạc sang phía đông ở đấy, cho nên vét suối Địch mà mở rộng nó". Xét: Vũ Vương diệt nhà Ân chia làm các nước Bội, Dong, Vệ, đặt Tam giám giữ lấy. Vũ Canh làm loạn, Chu Công diệt đi, dời dân của Tam giám đến thành Thành Chu, thu lấy dân còn sót ấy để phong Khang Thúc làm Vệ Hầu, là châu Vệ ngày nay. Khổng An Quốc nói: "Lấy dân còn lại của Tam giám phong cho Khang Thúc làm Vệ Hầu dựng nước. Chu Công giận họ mấy lần làm phản, cho nên sai em ruột hiền mà trị dân ấy". Tấn Đường Thúc được lúa tốt, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Hai cây cùng một bông lúa". dâng cho Thành Vương, Thành Vương đem cho Chu Công đặt ở nhà binh. Chu Công đưa cây lúa sang miền đông, nêu rõ mệnh của thiên tử. Lúc đầu, Quản-Sái phản nhà Chu, Chu Công đánh Quản-Sái, ba năm thì bình xong, cho nên mới làm bài văn 'Đại cáo', lại tác bài văn 'Vi Tử chi mệnh', nữa là 'Quy hòa', nữa là 'Gia hòa', nữa là 'Khang cáo', nữa là 'Tửu cáo', 'Tể tài', việc này ở chương chép về Chu Công. Chu Công làm việc nước bảy năm, Thành Vương lớn, Chu Công trả lại việc nước cho Thành Vương, ngoảnh mặt về phía bắc ở ngôi bầy tôi. Thành Vương ở đất Phong, sai Triệu Công dựng lại ấp Lạc như ý chỉ của Vũ Vương. Chu Công lại bói xem đất, rút cuộc đắp dựng, đặt chín đỉnh ở đấy, nói: "Đây là nơi giữa của thiên hạ, người bốn phương nạp cống đều vào đây". Tác bài văn 'Triệu cáo', 'Lạc cáo'. Thành Vương đã dời dân còn lại của nhà Ân đi, Chu Công vâng mệnh vua tuyên cáo, tác bài văn 'Đa sĩ', 'Vô trật'. Triệu Công làm Thái bảo, Chu Công làm Thái sư, sang đông đánh người Hoài Di, diệt nước Yểm, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Nước Yểm tại phía bắc nước Hoài Di". Chính nghĩa: Yểm, âm là 'ư hiểm phiên'. Quát địa chí chép: "Phía bắc huyện Từ Thành châu Tứ ba mươi dặm là nước Từ cổ, tức nước Hoài Di. Làng Yểm huyện Khúc Phụ châu Duyện là đất của nước Yểm". dời vua nước này đến ấp Bạc Cô. Tập giải: Mã Dung nói: "Thuộc đất Tề". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Bạc Cô cũ tại phía đông bắc huyện Bạc Xương châu Thanh sáu mươi dặm. Họ Bạc Cô là chư hầu của nhà Ân, được phong ở đấy, nhà Chu diệt nước ấy". Thành Vương từ nước Yểm quay về, đến tại đất Tông Chu, Chính nghĩa: Đánh nước Yểm rồi về ấp Hạo. tác bài văn 'Đa phương'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tuyên cáo chư hầu thiên hạ các phương". Đã trừ bỏ lệnh của nhà Ân, đánh úp người Hoài Di, về tại đất Phong, tác bài văn 'Chu quan'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Nói là nhà Chu bày cách đặt quan phân chức dùng người". Sửa lại lễ nhạc, đổi đặt pháp chế, do đó dân hòa mục, cất tiếng ca tụng. Thành Vương đã đánh Đông Di, người Tức Thận đến chúc mừng, Thành Vương sai Vinh Bá tác bài văn 'Hối Tức Thận chi mệnh'. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Hối là ban tặng'. Mã Dung nói: "Vinh Bá là người cùng họ nhà Chu, là chư hầu trong nước, làm Khanh đại phu". Thành Vương sắp băng, sợ Thái tử tên là Chiêu không nhận ngôi, bèn lệnh Triệu Công, Tất Công lĩnh chư hầu để giúp Thái tử mà lập ngôi. Thành Vương đã băng, hai vị suất chư hầu, đem Thái tử Chiêu đến gặp ở miếu của tiên vương, tự tuyên cáo rằng Văn Vương, Vũ Vương lập nên nghiệp vương là không dễ, chăm ở việc tiết kiệm, chớ có tham dục, dốc lòng làm việc nước, tác bài văn 'Cố mệnh'. Thái tử Chiêu bèn lập, đấy là Khang Vương. Khang Vương lên ngôi, tuyên cáo khắp chư hầu, nói rõ sự nghiệp của Văn-Vũ để coi xét, tác bài văn 'Khang cáo'. Cho nên vào thời Thành-Khang, thiên hạ yên ổn, hơn bốn chục năm không dùng hình phạt. Khang Vương sai Tất Công phát sách lệnh phân chia chỗ ở, đặt vùng ngoài thành nhà Chu, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Phân chia chỗ ở của dân, để rạch ròi thiện ác. Đặt thành cõi ngoài thành nhà Chu, để có giữ gìn". tác bài văn 'Tất Công'. Khang Vương chết, con là Chiêu Vương tên là Hà lập. Vào thời Chiêu Vương, vương đạo suy kém. Chiêu Vương tuần thú miền nam không về, chết ở sông Giang. Vương chết mà không cáo tang, kị việc này vậy. Chính nghĩa: Đế vương thế kỉ chép: "Chiêu Vương đức kém, đánh miền nam, qua sông Hán, người chèo thuyền ghét vương, lấy thuyền dán keo dâng vua, vua ngồi thuyền đến giữa dòng, keo rời thuyền vỡ, vương và Tế Công đều chìm ở giữa sông mà băng. Tả hữu của vương thương xót, nhờ tay dài lại sức khỏe bơi xuống vớt vương, người nhà Chu kị việc này". Lập con của Chiêu Vương tên là Mãn, đấy là Mục Vương. Mục Vương lên ngôi, tuổi đời đã năm mươi rồi. Vương đạo suy kém, Mục Vương xót đạo của Văn-Vũ suy, bèn sai Bá Quýnh xét làm quan Thái bộc coi việc nước, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Thái bộc, là chức quan mà Mục Vương nhà Chu đặt, có lẽ là viên quan đứng đầu các quan Thái ngự, là quan Trung đại phu". tác bài văn 'Quýnh mệnh'. Chính nghĩa: Thượng thư tự chép: "Mục Vương sai Bá Quýnh làm Thái bộc sửa việc nước". Thiên hạ lại yên. Mục Vương sắp đánh người Khuyển Nhung, Tế Công tên là Mưu Phủ Tập giải: Vi Chiêu nói: "Tế là nước trong kinh kì, dòng dõi của Chu Công, làm khanh sĩ của nhà vua, Mưu Phủ là tên chữ". Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Tế cũ tại phía đông bắc huyện Quản Thành châu Trịnh mười lăm dặm, là ấp của viên Đại phu nước Trịnh tên là Tế Trọng". Thích liệt chép: "Thành Tế tại quận Hà Nam, trong thành có kho Ngao, là chỗ mà dòng dõi Chu Công được phong". can rằng: "Không nên. Tiên vương nêu đức chẳng giễu binh. Binh nghỉ thì tùy lúc mà dấy, dấy thì ra oai, giễu thì dạo chơi, dạo chơi thì người ta chẳng sợ. Cho nên có lời khen Chu Văn Công rằng: 'Ngừng nghỉ can qua, bọc cất cung tên, ta tìm đức sáng, truyền khắp cõi Hạ, nghiệp vương được giữ'. Tiên vương đối với dân, sửa lại đức của dân mà khiến cho tính nết của họ được tốt, làm cho dân chất đầy của cải mà tìm cái lợi đồng dùng cho dân, nêu rõ cái việc lợi hại, để tu nghiệp văn, sai dân làm việc lợi mà tránh làm việc hại, làm cho dân nhớ đức mà sợ oai, cho nên giữ được sự nghiệp lâu dài. Ngày xưa tiên vương ta ở đời làm thầy nông để giúp việc cho nhà Ngu-Hạ. Kịp lúc nhà Hạ suy, bỏ nghề nông mà hông chăm việc này. Tiên vương ta là Bất Truất bị mất chức quan, nhưng tự náu ở giữa người Nhung Địch, không dám bỏ nghề, thường nêu đức mình, tu sửa nghề mình, sửa theo pháp độ, sớm tối chăm chỉ, giữ tính thật thà, vâng đức tung tín. Đời sau giữ đức, không trái ý người trước. Đến thời Văn Vương, Vũ Vương, nêu rõ đức sáng thời trước mà thêm cái tính nhân hòa, thờ thần giúp dân, không gì không vui mừng. Vua nhà Thương là vua Tân gây ác với dân, dân thường không chịu được, đi theo Vũ Vương, dẫn đến dấy binh ở bãi Mục Dã. Đấy là tiên vương không thích dùng binh, mà là chăm việc giúp dân, thương dân mà trừ hại cho dân vậy. Theo phép tắc của tiên vương, trong nước là điện phục, ngoài nước là hầu phục, hầu vệ là tân phục, Man Di là yêu phục, Nhung Địch là hoang phục. Kẻ điện phục thì tế, kẻ hầu phục thì cúng, kẻ tân phục thì nạp, kẻ yêu phục thì cống, kẻ hoang phục thì mỗi ngày tế một lần, mỗi tháng cúng một lần, mỗi quý nạp một lần, mỗi năm cống một lần, mỗi năm chầu nhà vua một lần. Theo phép chế của tiên vương, nếu có kẻ không tế thì ta tỏ ý, nếu có kẻ không cúng thì ta tỏ lời, nếu có kẻ không nạp thì ta sử phép tắc, nếu có kẻ không cống thì ta sửa chức phận, nếu có kẻ không chầu thì ta sử đức, nếu có những điều trên mà có kẻ không đến thì ta dùng hình phạt. Cho nên phạt kẻ không tế, đánh kẻ không cúng, trị kẻ không nạp, nhường kẻ không cống, tuyên cáo kẻ không chầu. Do đó mới có luật hình phạt, có quân đánh dẹp, có sắm sửa đánh dẹp, có lệnh ra oai, có lời văn tuyên cáo. Có lệnh truyền báo mà vẫn có kẻ không đến thì ta sửa thêm đức, không làm cho dân vất vả đi xa. Cho nên kẻ gần không ai không nghe, kẻ xa không ai không phục. Nay từ khi Đại Tất, Bá Sĩ chết, người Khuyển Nhung giữ phận đến chầu nhà vua. Chính nghĩa: Giả Qùy nói: "Đại Tất, Bá Sĩ là hai vị vua của người Khuyển Nhung. Sói trắng, hươu trắng là vật cống của người Khuyển Nhung". Xét: Sau khi Đại Tất, Bá Sĩ chết, người Khuyển Nhung thường giữ chức phận mà đến chầu. Thiên tử nói: 'Ta chắc nếu các người không nạp thì ta đánh các người, lại giễu binh cho các người xem'. Không nên bỏ lời dạy của tiên vương, mà vương lại xuất quân ư? Ta nghe nói người Khuyển Nhung dốc lòng thật thà, noi theo đức sáng của người xưa mà giữ vững chức phận. Họ vẫn có cớ để chống lại ta vậy". Mục Vương rút cuộc đánh người Khuyển Nhung, bắt được bốn con sói trắng, bốn con hươu trắng đem về. Từ đó kẻ hoang phục không đến. Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Có chư hầu không hòa thuận, Phủ Hầu bẩm với vua, sửa sang hình pháp. Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Kinh Thư chép Mục Vương nhà Chu lấy Phủ Hầu làm tể tướng." Vua nói: "Này, đến đây, những kẻ có tước có ấp kia, ta báo cho các ngươi biết hình pháp hay tốt. Ngày nay các ngươi vỗ về trăm họ, há chẳng chọn người hiền, há chẳng noi theo hình pháp, há chẳng dùng hình pháp đúng đắn sao? Hai bên đã đủ, quan coi ngục xem xét ngũ từ. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Hai bên là chỉ người bị giam và người làm chứng. Hai bên đã đủ thì quan coi ngục xem xét kẻ đó thuộc vào hình phạt nào." Chính nghĩa: Hán thư hình pháp chí chép: "Có năm cách xem xét, một là xét lời lẽ, hai là xem sắc mặt, ba là xem hơi thở, bốn là xem tai nghe, năm là xem mắt nhìn." Chu lễ chép: "Lời lẽ không thẳng thắn thì nói nhiều, mắt không nhìn thẳng thì nhìn lỏm, tai không nghe thẳng thì đối đáp dối gạt, sắc mặt không thẳng thắn thì thẹn thùng, hơi thở không thẳng thắn hổn hển." Đã xem xét ngũ từ rồi mới đặt định ngũ hình. Ngũ hình không hợp thì đặt định ngũ phạt. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Đã xem xét ngũ từ có chứng cứ phạm tội đặt định ngũ hình." Ngũ phạt không hợp thì đặt định ngũ quá. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Không hợp là không đáng tội. Đặt định ngũ quá là nhân đó mà tha cho." Cái xấu của việc đặt định ngũ quá là quan coi ngục có sắp đặt bên trong, bao che kẻ có tội, hình phạt ngang nhau. Nếu ngũ hình đáng ngờ thì tha, ngũ phạt đáng ngờ cũng tha, xem xét định đoạt hình phạt. Phải xem xét kĩ càng, noi theo phép tắc. Nếu không có chứng cứ thì không được trị tội, nên tỏ rõ oai trời. Nếu tội khắc chữ lên mặt có chỗ đáng ngờ thì tha, phạt chuộc một trăm xâu tiền, Tập giải: Từ Quảng nói: "Xâu là hoàn." Khổng An Quốc nói: "Sáu lạng là một hoàn. Hoàn là đồng thau." nếu xét có tội thật thì mới phạt. Nếu tội cắt mũi có chỗ đáng ngờ thì tha, phạt chuộc gấp đôi tiền, nếu xét có tội thật thì mới phạt. Nếu tội chặt xương đầu gối có chỗ đáng ngờ thì tha, phạt chuộc gấp đôi tiền nữa, nếu xét có tội thật thì mới phạt. Nếu tội thiến có chỗ đáng ngờ thì tha, phạt chuộc năm trăm xâu tiền, nếu xét có tội thật thì mới phạt. Nếu tội lớn chém đầu có chỗ đáng ngờ thì tha, phạt chuộc một ngàn xâu tiền, nếu xét có tội thật thì mới phạt. Có một điều luật của tội khắc chữ lên mặt, một ngàn điều luật của tội cắt mũi, năm trăm điều luật của tội xắt xương đầu gối, ba trăm điều luật của tội thiến, hai trăm điều luật của tội chém đầu. Cả thảy có ba ngàn điều luật của ngũ hình." Gọi hình pháp ấy là 'Phủ hình'. Mục Vương làm vua được năm mươi năm thì băng, con là Cộng Vương tên là Ê Hỗ lên thay. Sách ẩn: Hệ bản chép tên là 'Y Hỗ'. Cộng Vương đi chơi ở trên sông Kính, có Khang Công nước Mật đi theo, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Khang Công là vua của nước Mật, cũng thuộc họ Cơ." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ huyện Âm Mật tại phía tây huyện Thuần Cô châu Kính, phía đông kề thành huyện là nước Mật xưa." Có ba người con gái đến theo Khang Công nước Mật. Mẹ của Khang Công nói: "Phải đem ba đứa con gái ấy cho nhà vua. Ba con thú họp thành bầy, ba con người họp thành nhóm, ba đứa con gái họp thành phe. Không nên bắt bầy thú ở ruộng của vua, chư hầu đi chơi cũng không nên cho nhiều người theo cùng. Không nên lấy ba đứa con con gái cùng một họ của nhà vua. Ba đứa con gái ấy là người đẹp. Ba đứa con gái đẹp ấy theo về ngươi, ngươi có đức gì mà được lấy? Nhà vua còn không lấy được, huống chi ngươi là một chư hầu nhỏ nhoi đây! Chư hầu nhỏ nhoi mà lấy được người đẹp ấy thì tất mất nước thôi." Khang Công không dâng cho vua, quả nhiên được một năm thì Cộng Vương diệt nước Mật. Cộng Vương băng, con là Ý Vương tên là Hàn lên ngôi. Sách ẩn: Hệ bản chép tên là 'Kiên'. Vào thời Ý Vương, nhà Chu suy yếu, nhà thơ làm thơ chê chọc. Sách ẩn: Tống Trung nói: "Ý Vương dời đô từ ấp Hạo đến ấp Khuyển Khâu, còn gọi là ấp Phế Khâu, là huyện Hòe Lí ngày nay." Chu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Ý Vương băng, em của Cộng Vương tên là Tích Phương lên thay, đấy là Hiếu Vương. Hiếu Vương băng, chư hầu lại lập thái tử của Ý Vương tên là Tiếp lên ngôi, đấy là Di Vương. Chính nghĩa: Kỉ niên chép: "Năm thứ ba, gọi chư hầu đến họp, nấu Ai Công nước Tề ở đỉnh." Đế vương thế kỉ chép: "Năm thứ mười sáu thì băng." Di Vương băng, con là Lệ Vương tên là Hồ lên ngôi. Lệ Vương lên ngôi được mười ba năm, ham lợi, gần gũi Vinh Di Công. Đại phu là Nhuế Lương Chính can ngăn Lệ Vương rằng: "Nhà Chu sắp suy rồi chăng? Vinh Công chỉ ham lợi mà không biết họa lớn sắp đến. Món lợi là thứ mà muôn vật sinh ra, có kẻ ham nó là có hại nhiều. Muôn vật trong trời đất đều chia cho mọi người hưởng lấy, sao lại chỉ riêng mình lấy được? Rất nhiều người oán việc ấy mà không ngăn ngừa họa lớn ấy đi. Lấy cái lợi mà dạy nhà vua, nhà vua sao mà giữ ngôi lâu được? Người làm vua là phải đem cái lợi ban cho những kẻ trên dưới. Nếu muôn vật thần người không gì là không được đâu vào đấy thì như gây ra sợ hãi xót xa vậy. Cho nên có lời Tụng rằng: 'Hậu Tắc có đức, công cao tày trời, dạy dỗ dân ta, chẳng ai không theo.', có lời Đại nhã rằng: 'Ban lợi dựng Chu'. Tập giải: Đường Cố nói: "Ý nói Văn Vương ban phát của lợi để dựng nên nhà Chu." Đấy là nếu không ban của lợi thì sợ rằng sẽ có họa, cho nên dựng nhà Chu đến ngày nay. Nay nhà vua chỉ chăm đòi lợi, có nên không? Vinh Công làm như thế, nhà Chu tất suy." Lệ Công không nghe, rút cuộc lấy Vinh Công làm Khanh sĩ, nắm việc. Nhà vua làm việc bạo ngược xa xỉ, người trong nước giễu chọc nhà vua. Thiệu Công Tập giải: Vi Chiêu nói: "Dòng dõi Khang Công nước Thiệu là Mục Công tên là Hổ, làm Khanh sĩ của nhà vua." can ngăn rằng: "Dân không vâng mệnh rồi." Nhà vua giận, tìm được thầy mo nước Vệ, sai coi xét những kẻ giễu chọc, kẻ nào giễu chọc thì giết kẻ đó. Do đó kẻ giễu chọc ít dần, chư hầu không đến chầu. Năm thứ mười bốn, nhà vua càng nghiêm ngặt, người trong nước chẳng ai dám nói, đi trên đường chỉ liếc mắt nhìn nhau. Lệ Vương mừng, bảo Thiệu Công rằng: "Ta biết ngăn lời giễu chọc nên chẳng ai dám nói." Thiệu Công nói: "Đấy là cấm thôi. Chặn miệng của dân con hơn chặn nước sông. Nước ông đã bị chặn thì sẽ tràn, làm nhiều người bị thương, người dân cũng như thế. Cho nên dẫn nước thì phải khơi dòn, dạy dân làm điều phải thì phải cho dân nói. Thhiên tử coi việc để cho công khanh đến kẻ sĩ được dâng thơ, bày kế sách, quan Thái sử được chép sách, quan Thái sư được nói lời khuyên răn, người mù được ngâm vịnh, kẻ lòa được hát tụng, những người thợ được can gián, người dân thường được truyền lời, cận thần được mưu toan, thân thích được xem xét, quan coi nhạc được răn lỗi, quan Thái phó được tu sửa, nhà vua sau này nên noi theo, cho nên làm việc mà không loạn. Người dân có miệng như đất có sông núi, đồ dùng đều sinh ra từ đó, đất cũng có đồng lầy bãi trũng, cơm áo sinh ra từ đó. Miệng nên được nói, tốt hay xấu cũng sinh ra từ đó. Làm việc tốt thì ngăn việc xấu cũng như sinh ra đồ dung cơm áo vậy. Người dân lo nghĩ ở trong lòng mà thốt ra lời nói ở miệng, rồi mới làm theo lời nói. Nếu ngăn miệng nói của dân thì giữ được bao lâu?" Nhà vua không nghe. Do đó người trong nước chẳng ai dám nói ra, được ba năm bèn cùng nhau nổi loạn, đánh úp Lệ Vương, Lệ Vượng trốn ra đến ở ấp Trệ. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Ấp Trệ ở nước Tấn, là huyện thời Hán, thuộc quận Hà Đông, nay là huyện Vĩnh An." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Hoắc Ấp châu Tấn vốn là huyện Trệ thời Hán, sau đổi tên huyện Trệ thành huyện Vĩnh An. Lệ Vương từ ấp Hạo chạy đến nước Tấn." Thái tử của Lệ Vương tên là Tĩnh náo ở nhà của Thiệu Công, người trong nước nghe tin, bèn đến vây thái tử. Thiệu Công nói: "Lúc trước ta xúm lại can ngăn nhà vua nhưng nhà vua không nghe, cho nên mới có nạn ấy. Nay nếu giết thái tử của nhà vua thì nhà vua sẽ coi ta như kẻ thù mà oán giận ta đấy! Đạo thờ chúa là chúa có gây hại mà không báo thù, gây oán mà không báo oán, huống chi với nhà vua đây!" Bèn lấy thái tử của nhà vua lên thay, thái tử mới thoát được. Hai tể tướng là Thiệu Công-Chu Công nắm việc, hiệu là 'Cộng Hòa'. Sách ẩn: Cấp trủng kỉ niên chép: "Cộng Bá tên là Hòa soán ngôi vua." Cộng, đọc là 'cung'. Cộng là tên nước, Bá là tước, Hòa là tên. Soán là đoạt lấy. Ý nói là Cộng Bá nắm lấy việc của nhà vua, cho nên nói là 'soán ngôi vua'. Chính nghĩa: Cộng đọc là 'cự dụng' phiên. Vi Chiêu nói: " Vào thời xảy ra loạn nhà vua trốn đến ở ấp Trệ, công khanh cùng với nhau sửa lại việc nước, hiệu là 'Cộng Hòa'." Lỗ Liên Tử chép: "Huyện Cộng Thành châu Vệ vốn là nước của Cộng Bá thời nhà Chu. Cộng Bá tên là Hòa, ưa làm việc nhân nghĩa, chư hầu cho là người hiền. Lệ Vương nhà Chu vô đạo, người trong nước làm loạn, Lệ Vương trốn đến ở ấp Trệ, chư hầu tôn Hòa làm việc của thiên tử, hiệu là 'Cộng Hòa'. Được mười bốn năm thì Lệ Vương chết ở ấp Trệ, Cộng Bá sai chư hầu đón con của Lệ Vương tên là Tĩnh làm Tuyên Vương, rồi Cộng Bá lại về nước ở nước Vệ." Vệ thế gia chép: "Năm thứ mười ba thời Li Hầu, Lệ Vương nhà Chu trốn đến ở ấp Trệ, chư hầu Cộng Hòa nắm lấy việc nước. Năm thứ hai mươi tám, Tuyên Vương nhà Chu lên ngôi. Năm thứ bốn mươi hai, Li Hầu chết, thái tử là Cộng Bá tên là Dư lên ngôi. Em của Cộng Bá tên là Hòa đánh úp Cộng Bá ở trên mộ Li Hầu, Cộng Bá vào hầm mộ của Li Hầu tự sát, người nước Vệ nhân đó táng Cộng Bá bên cạnh mộ Li Hầu, đặt tên thụy là Cộng Bá, rồi lập Hòa làm vua của nước Vệ, đấy là Vũ Công." Xét: Lời văn này chép Cộng Bá không được lập làm vua mà Hòa được lập làm Vũ Công. Vũ Công được lập sau khi Cộng Bá chết, số năm lại không giống nhau, mà niên biểu cũng chép giống. Rõ là kỉ niên và Lỗ Liên tử chép sai. Năm thứ mười bốn thời Cộng Hòa (năm 828 TCN), Lệ Vương chết ở ấp Trệ, thái tử tên là Tĩnh lớn lên ở nhà của Thiệu Công, hai vị tể tướng bèn cùng lập Tĩnh làm vua, đấy là Tuyên Vương. Tuyên Vương lên ngôi, hai vị tể tướng giúp việc, sửa chính sự, noi theo cách trị nước truyền lại của các đời vua Văn-Vũ-Thành-Khang, do đó chư hầu lại chầu nhà Chu. Năm thứ mười hai (năm 816 TCN), Vũ Công nước Lỗ đến chầu. Tuyên Vương không cày ruộng ở bãi Thiên Mẫu, Chính nghĩa: Ứng Thiệu nói: "Thiên tử thời xưa cày ruộng ở ấp Thiên Mẫu để làm gương cho thiên hạ." Xét: Tuyên Vương không tự làm lễ cày ruộng. Quắc Văn Công Tập giải: Giả Quỳ nói: "Văn Công là dòng dõi của người em cùng mẹ của Văn Vương là Quắc Trọng, làm Khanh sĩ của Tuyên Vương." Vi Chiêu nói: "Văn Công là dòng dõi của Quắc Thúc, là vua nước Quắc ở phía tây. Tuyên Vương đóng đô ở ấp Hạo, nước Quắc thuộc miền trong kinh kì." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ nước Quắc tại phía đông huyện Trần Thương châu Kì chục dặm. Lại chép: "Bãi Thiên Mẫu tại phía bắc huyện Nhạc Dương châu Tấn chín chục dặm." can gián là không nên, Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Quắc Văn Công can gián rằng: 'Việc lớn của người ta là làm ruộng, đĩa xôi cúng Thượng Đế cũng sinh ra từ đó, người dân cũng sống được từ đó, những đồ dùng làm việc cũng sinh ra từ đó'." Nhà vua không nghe. Năm thứ mười chín (năm 789 TCN), đánh trận ở bãi Thiên Mẫu, Sách ẩn: Là tên đất, tại huyện Giới Hưu quận Tây Hà. quân của nhà vua bị người Nhung họ Khương đánh thua vỡ. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Là một nhóm người rợ phía tây, dòng dõi của Tứ nhạc." Tuyên Vương đã mất quân của miền nam, bèn gọi dân ở miền Thái Nguyên. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Mất quân vào lúc bị người Nhung họ Khương đánh thua. Miền nam là miền sông Giang-Hán." Đường Cố nói: "Miền nam là quận Nam Dương." Trọng Sơn Phủ can gián nói: "Không nên gọi dân." Tuyên Vương không nghe, rút cuộc gọi dân. Năm thứ bốn mươi sáu (năm 782 TCN), Tuyên Vương băng, Chính nghĩa: Chu xuân thu chép: "Tuyên Vương vô cớ mà giết Đỗ Bá, ba năm sau thì hội chư hầu đi săn ở vườn, giữa trưa, Đỗ Bá nhảy ra ở góc trái đường, mặc áo mũ màu đỏ, cầm cung tên màu đỏ, bắn Tuyên Vương, trúng tim xuyên qua lưng mà chết." Quốc ngữ chép: "Đỗ Bá bắn chết Tuyên Vương ở ấp Hạo." con là U Vương tên là Cung Niết lập làm vua. Năm thứ hai thời U Vương, ba con sông ở đất Tây Chu đều rúng động. Tập giải: Từ Quảng nói: "Là sông Kính, sông Vị, sông Lạc." Bùi Nhân xét: Vi Chiêu nói rằng đất động ở ấp Hạo của nhà Tây Chu cho nên ba con sông cũng động." Chính nghĩa: Hai sông Kính-Vị ở phía bắc châu Ung. Sông Lạc còn có tên là sông Tất Thư, ở phía đông bắc châu Ung, chảy về phía nam vào sông Vị. Bấy giờ gọi thành của vua ở là đất Đông Chu, ấp Hạo là đất Tây Chu. Bá Dương Phủ nói: "Nhà Chu sắp mất rồi. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Bá Dương Phủ là quan Đại phu của nhà Chu." Đường Cố nói: "Bá Dương Phủ là quan Trụ hạ sử của nhà Chu, là Lão Tử." Khí của trời đất không được làm mất trật tự, nếu sai trật tự thì dân có loạn. Khí dương náu mà không xổ ra được, khí âm ép mà không bay bốc được, cho nên đất có rúng động. Nay ba con sông động mạnh, đấy là khí dương tụ sai chỗ mà bị khí âm chèn ép. Khí dương sai chỗ ở tại chỗ khí âm, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Ở dưới khí âm." nguồn nước sông tất bị nghẽn; nguồn nước nghẽn thì nhà nước sẽ mất. Đất nước trôi chảy thì dân mới có đồ dùng. Đất không được tưới tắm thì dân thiếu đồ dùng, nhà nước mất còn đợi khi nào! Ngày xưa sông Y-Lạc cạn thì nhà Hạ mất, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Vua Vũ đóng đô ở huyện Dương Thành, ở gần sông Y-Lạc." sông Hà cạn thì nhà Thương mất. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Nhà Thương đóng đô ở nước Vệ, là chỗ sông Hà chảy qua." Nay đức của nhà Chu như thời cuối của hai nhà Hạ-Thương, nguồn nước sông của nhà Chu lại cạn, đấy là điềm báo mất nước vậy. Sông cạn íât có núi lở. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Nước sông không chảy thì cây khô mà đổ xuống." Nước mất không quá chục năm nữa, đấy là một kỉ trong vận số. Trời bỏ nhà Chu không quá một kỉ nữa." Năm đó, ba con sông cạn, núi Kì lở. Năm thứ ba (năm 779), U Vương tin yêu Bao Tự. Sách ẩn: Bao là tên nước, người nước này cùng họ với nhà Hạ. Họ Tự. Theo kinh Lễ thì gọi phu nhân của nhà vua xưng tên nước và họ. Người con gái ấy là người con gái đẹp sinh ra từ nước dãi của con rồng, có người nhặt được, người nước Bao dâng cho U Vương, cho nên gọi là Bao Tự. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ nước Bao tại phía đông huyện Bao Thành châu Lương hai trăm bước, là nước Bao xưa." Bao Tự sinh con tên là Bá Phục. U Vương muốn phế thái tử. Mẹ của thái tử là con gái của Thân Hầu được làm Thân Hậu. Sau khi U Vương có được Bao Tự, yêu Bao Tự, muốn phế Thân Hậu cùng bỏ thái tử tên là Nghi Cữu, lấy Bao Tự làm Bao Hậu, lấy Bá Phục làm thái tử. Quan Thái sử của nhà Chu là Bá Dương Phủ chép sử rằng: "Nhà Chu mất rồi." Ngày xưa vào lúc họ Hạ Hậu suy yếu có hai con rồng thần sà xuống nghỉ ở sân của vua nhà Hạ mà nói rằng: "Ta là hai vị chúa của nước Bao." Vua nhà Hạ bói xem nên giết hay là nên bỏ hay nên giữ lại, bói là chẳng lành. Thầy bói nói là lấy nước dãi của hai con rồng mà cất giữ thì mới lành. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Nước dãi là nước bột mà rồng thổ ra. Nước bọt là khí tốt của con rồng." Do đó bày tiền và thẻ cầu đảo hai con rồng, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Khắc chữ lên thẻ tre để báo cho rồng biết, xin rồng nhả nước bọt." Rồng chết thì còn nước dãi, bỏ vào rương mà cất giấu. Nhà Hạ mất, truyền thứ ấy cho nhà Ân. Nhà Ân mất, lại truyền thứ ấy cho nhà Chu. Nay là ba đời, chẳng nhà nào dám bỏ nó, đến cuối thời Lệ Vương thì mở ra mà xem. Nước dãi chảy vào sân, không rửa được. Lệ Vương sai đàn bà cởi truồng mà reo mừng. Nước dãi hóa thành con giải đen, Sách ẩn: Cũng chép là con sam. Con sam đen, là con thằn lằn. đem vào hậu cung của U Vương. Có đứa con gái trẻ đang thay răng sữa gặp được nó, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Thay răng non gọi thay răng sữa. Con gái bảy tuổi thì thay răng." đến tuổi cài trâm thì mang thai, Chính nghĩa: Lễ kí chép: "Con gái đến tuổi lấy chồng thì được cài trâm." không có chồng mà sinh con, sợ mà vứt đứa con đi. Vào thời Tuyên Vương có đứa con gái trẻ hát rằng: 'Túi cơ cung dâu, bắn diệt nhà Chu'. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Cây dâu núi gọi là cây yểm. Cung làm từ cây dâu núi. Cơ là tên cây. Túi đựng tên làm từ cây cơ." Do đó Tuyên Vương nghe tin, có vợ chồng nhà nọ đem bán thứ ấy, U Vương sai người bắt mà giết đi, vợ chồng nhà nọ trốn ở bên đường, vừa lúc thấy người trong làng là đứa con gái trẻ bỏ đứa con nhỏ ở trên đường, Chính nghĩa: Vợ chồng nhà nọ bán cây cung làm bằng gỗ cây dâu, Tuyên Vương muốn bắt giết đi, bèn trốn ở bên đường, gặp được đứa con nhỏ, thương mà lấy về nuôi. buổi đêm nghe tiếng đứa trẻ con ấy khóc, thương mà nhặt lấy. Vợ chồng nhà nọ bèn trốn sang ở nước Bao. Người nước Bao có tội, xin lấy đứa trẻ con mà đứa con gái trẻ vứt đi dâng cho U Vương để tạ tội. Chính nghĩa: Quốc ngữ chép: "U Vương nhà Chu đánh nước Bao, người nước Bao đem người con gái họ Tự dâng cho U Vương, được tin yêu ngang với Quắc Thạch Phủ." Đứa con gái bị vứt đi ấy lớn lên ở nước Bao, đấy là Bao Tự. Vào năm thứ ba thời U Vương, U Vương vào hậu cung gặp mà yêu Bao Tự, sinh con là Bá Phục, bèn bỏ Thân Hậu và thái tử, lấy Bao Tự làm Bao Hậu, lấy Bá Phục làm thái tử. Thái sử là Bá Dương Phủ nói: "Họa đã thành, không sao cứu được!" Bao Tự không thích cười, U Vương muốn bày muôn cách cho nàng cười, nhưng nàng cũng không cười. U Vương bèn đốt đuốc lửa, bày trống lớn, Chính nghĩa: Buổi ngày đốt đuốc lửa để nhìn khói lửa, buổi đêm đốt đuốc lửa để nhìn ánh lửa. Đều đặt ở trên núi, có giặc đến thì đốt lên. có giặc đến thì đốt đuốc lửa. Chư hầu đều đến, đến nơi mà không có giặc. Bao Tự mới cười lớn. U Vương mừng rỡ, nhiều lần đốt đuốc lửa. Sau đó chư hầu không tin, cũng dần dần không đến. U Vương lấy Quắc Thạch Phủ làm Khanh sĩ, coi việc nước, người trong nước đều giận. Thạch Phủ là người nịnh bợ, giỏi nói gièm ham lợi. U Vương tin dùng hắn, lại phế Thân Hậu, bỏ thái tử. Thân Hầu giận, cùng người nước Tăng, Tập giải: Tăng là tên nước, người nước này cùng họ với nhà Hạ. Chính nghĩa: Tăng, đọc là 'tự lăng' phiên. Quốc ngữ chép: "Vua nước Tăng họ Tự, dòng dõi của vua Vũ nhà Hạ." Quát địa chí chép: "Huyện Tăng ở huyện Thừa châu Nghi, là nước có vua tước hầu, dòng dõi của vua Vũ." người Khuyển Nhung phía tây đánh U Vương. U Vương đốt đuốc lửa gọi quân, quân chẳng đến. Cuối cùng giết U Vương ở dưới núi Li, Sách ẩn: Tại phía nam huyện Tân Phong là nước Li Nhung xưa. Li, trước đọc là 'lê'. Từ Quảng đọc là 'lực tri' phiên. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Li tại phía nam huyện Tân Phong châu Ung mười sáu dặm." Thổ địa kí chép: "Núi Li là núi Lam Điền." Xét: Phía nam núi Li là núi Lam Điền. bắt lấy Bao Tự, lấy hết của cải của nhà Chu rồi đi. Tập giải: Cấp trủng kỉ niên chép: "Từ khi Vũ Vương diệt nhà Ân đến thời U Vương cả thảy là hai năm năm mươi bảy năm." Chính nghĩa: Xét: Sách ở ngôi mộ ở huyện Cấp là sách cổ gồm bảy mươi lăm quyển, lấy được ở ngôi mộ của Tương Vương nước Ngụy ở huyện Cấp quận Cấp vào năm Hàm Hòa thứ năm thời nhà Tấn. Do đó chư hầu bèn theo Thân Hầu mà cùng lập thái tử cũ của U Vương tên là Nghi Cữu làm vua, đấy là Bình Vương để coi việc cúng tế tổ tiên của nhà Chu. hu bản kỉ (Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Bình Vương lên ngôi, dời đô sang phía đông đến ở ấp Lạc để tránh người Nhung đánh cướp. Chính nghĩa: "Là thành của vua, từ thời Bình Vương về trước gọi là đông đô, từ thời Kính Vương về sau đến thời Chiến quốc là đất Tây Chu. Vào thời Bình Vương, nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu lớn nuốt bé, các nước Tề, Sở, Tần, Tấn bắt đầu mạnh, chính lệnh do chư hầu đứng đầu. Tập giải: Chu lễ chép: "Chín lần hiệu lệnh chư hầu thì đứng đầu." Trịnh Huyền nói: "Chư hầu lớn làm chủ một phương." Năm thứ bốn mươi chín (năm 722 TCN), Ẩn Công nước Lỗ lên ngôi. Năm thứ năm mươi mốt (năm 720 TCN), Bình Vương băng, thái tử tên là Tiết Phủ chết sớm, lập con của thái tử tên là Lâm làm vua, đấy là Hoàn Vương. Hoàn Vương là cháu của Bình Vương. ...
-
Trong 3 vòng, có một đặc biệt đó là: vòng Thái Tuế theo chiều thuận, không có vấn đề tùy thuộc dương nam hay dương nữ, ai cũng như ai! Đây phải chăng chính là mấu chốt để hiểu ý nghĩa chính xác 3 vòng sao ở trên? Vòng Thái Tuế chính là định vị bản mệnh của đương sự nam hay nữ và dương hay âm, tức chính là Lục thập hóa giáp, cho nên như vậy. Từ đó, khả năng suy ra vòng Tràng Sinh (hay Thái Âm) chính là tương tác từ Mặt trăng? Vòng Thái Dương (Lộc tồn cũ) là tương tác từ trái đất tự quay hay từ ngoài Hệ mặt trời?
-
Như đã phân tích, có sự tương ứng các Sao trong Tử vi và các chòm sao trên bầu trời. Sự thay thế sao Lộc Tồn sẽ bằng sao Thái Dương, lúc này vòng sao Lộc Tồn sẽ được gọi là vòng sao Thái Dương. Cùng với nó, chúng ta có vòng sao Thái Tuế. Ngoài ra, còn một vòng khác là vòng Trường Sinh, riêng vòng này tôi nghi ngờ do có vòng Thái Dương và Thái Tuế, cho nên sao Trường Sinh sẽ phải thay bằng sao Thái Âm, để tạo ra ba vòng sao "Thái Dương, Thái Tuế - Thái Âm". Trong 3 vòng, có một đặc biệt đó là: vòng Thái Tuế theo chiều thuận, không có vấn đề tùy thuộc dương nam hay dương nữ, ai cũng như ai! Đây phải chăng chính là mấu chốt để hiểu ý nghĩa chính xác 3 vòng sao ở trên?
-
Đây là một tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất. Chí có thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt mới thỏa mãn tất cả những tiêu chí mà các nhà khoa học hàng đầu nghĩ ra, bây giờ và trong cả tương lai. Đúng như vậy, nhưng chúng ta chú ý tinh túy nhất của học thuyết này đã bị "rút ra" và trở thành một phần của học thuyết khác - đó là đạo Phật, chẳng hạn "tính thấy". Không chỉ vậy, học thuyết này chưa được phân tích và giải thích hợp lý các hiện tượng tâm linh như "linh hồn" chẳng hạn. Nguồn gốc tôn giáo thế giới, sớm nhất là thờ thần (Thần đạo) đều xuất phát từ Văn Lang, trung tâm là Bắc Việt ngày nay. Tôi đã chứng minh, sẽ bổ sung thêm nhằm hoàn thiện đầy đủ chứng lý, tất cả các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cổ chính là các vua Hùng và tổ tiên các ngài. Độc Thần hay thờ một Thượng Đế sau này, vẫn từ Thần đạo mà ra, do sự cần thiết của mỗi dân tộc hoặc/ và những ý đồ tôn giáo khác mưu cầu quyền lực, danh tiếng và tiền bạc, bởi thực tế chưa ai tiếp kiến Thượng Đế, ngoại trừ được cho là "mặc khải" khắp nơi trên thế giới. * Đức Giesu nói: Cha ta sinh ra ta, ta ở trong cha ta. Cuộc đời Đức Jesus được viết trong Phúc Âm, do 4 vị có tên nhưng nay không rõ, viết gần giống nhau, bản của Metthew gồm 20 trang. Ngài Jesus là thầy giảng đạo Do Thái, có lẽ sau thời gian tu luyện 40 ngày tuyệt thực trong sa mạc mà phát tiết ra lời giảng. Tuy nhiên, dữ liệu lịch sử của Hy La, Lưỡng Hà, Ai Cập... hầu như bị xóa sạch, đây cũng là một chiến dịch của Ki tô giáo sau này làm cho các nhà khoa học vô cùng khó khăn khi tìm mối liên hệ đến Phúc Âm. Do Thái không cho Ngài là Đấng Cứu Thế Messiah, còn Ki tô giáo lại "cho như vậy". Đấng Cứu Thế là tiên tri có từ trong các tôn giáo cổ đại, chẳng hạn trong Thần đạo Ai Cập Đấng Cứu Thế là thần chết Osiris con của thần mặt trời Ra vĩ đại và chỉ rõ thời gian 3000 năm sau! Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện - Ngôi Nhất là thần vô hình Amun cha đẻ của thần mặt trời Ra, như vật Đấng Cứu Thế là Ngôi Ba (cuối cùng trong Tam Vị Nhất Thể) do vậy mới nói sự xuất hiện Đấng Cứu Thế là cuối cùng. Cho nên Ki tô giáo đã "gán" vai trò này vào cho Ngài, đấy là tại sao ta thấy "Ngôi Hai - Jesus". Tuy nhiên, khi gán như vậy thì "ngôi Ba" tức Chúa Thánh Linh đã không thể xác định và lẫn lộn ngôi thứ, cho nên theo dòng lịch sử vị này rối như canh hẹ, chưa kể tại sao vị này lại "hóa linh" cho bà Maria mang thai Đức Jesus, một vấn nạn vì sự gán ghép có chủ ý của các tác giả Phúc Âm từ dữ liệu lịch sử. Đấy chỉ là một lý do Ki tô giáo muốn hủy diệt văn hóa của các dân tộc, gần nhất là các quốc gia có liên quan như Hy Lạp, Lưỡng Hà, Ai Cập, châu Mỹ... thấm đẫm tội ác rồi, nhân quả đã chất cao như dãy Himalaya. Thời đại Đức Jesus chính là thời Hai Bà Trưng, ngài giảng đạo Do Thái và chết trên thập giá khoảng năm 30-33 (lý do chính trị với chế độ La Mã chứ không phải người theo đạo Do Thái là nguyên nhân chính), thì 10 năm sau Hai Bà Trưng giải phóng ách nô lệ Hán triều và Văn Lang trở về đất cũ Hùng Vương, diện tích đã đã giải phóng gấp mấy chục lần vùng đất mà Ngài Jesus đang giảng đạo, Hai Bà Trưng đây mới là "Chúa" của dân tộc Việt. Từ "Chúa" trong lịch sử văn hóa Việt dành cho người nữ, bậc thấp hơn so với..., "Bậc thầy giác ngộ Osho" đạo Jain cũng đã nghiên cứu và khẳng định ở Ấn Độ từ "Chúa" dành cho phụ nữ. Thế kỷ III TCN, Phật giáo đã đến Hy Lạp và dĩ nhiên phải vượt qua Lưỡng Hà. Cho nên có sự trùng lặp truyền thuyết trong Phúc Âm, khi Đức Jesus sinh ra có các tiên tri Đông phương tới... Sau này, mấy ông thần học gán gép thêm là 3 nhà tiên tri Đông phương, hàm ý sâu xa là Tam Giáo, tôi cho đây là sự tinh vi siêu đẳng. Lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có nhà tiên tri, nhưng chi tiết rất hay, nhưng không có tình trạng quỳ lạy đứa bé. Vì không rõ vai trò của các vị Phật, Tiên, Thần, Thánh, Bậc đắc đạo cho nên truyền thuyết Phúc Âm kể về sự hy sinh của nhiều bé trai do vua La Mã truy lùng Ngài, do những lời tiên tri, điều này cũng thể hiện vai trò của Ngài sau này có ảnh hưởng tời chế độ La Mã lúc ấy, đã khẳng định nguyên nhân chính không phải từ dân tộc Do Thái, vấn đề xã hội, chính trị như bao đời nay trên trái đất - Một vị giác ngộ ra đời không bao giờ có tình trạng tồi tệ về thiên tai, giết chóc làm báo hiệu cả "thiên nhân hợp nhất" và "đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu". Sự thêm thắt nhằm cho sự kiện thêm gay cấn mà thôi!. Cựu Ước viết: Chúa đã lấy cái xương sườn của Adam (Dương trước) làm ra người nữ là Eva (Âm sau). Tương ứng với Thái cực là cái có trước trở thành Dương khi sinh ra cái không phải nó và đối đãi với nó (Âm sau), trong Lý học Việt. Lý học Việt nói: Thái cực sinh lưỡng nghi. Thái cực sinh ra cái không phải nó và từ nó, bởi nó. Đây chỉ là hiện tượng, cũng chính vì nó mà trong Ki tô giáo trước đây, thân phận của người phụ nữ rất bi đát. Truyền thuyết nam nữ này tôi cho là dở nhất trong các truyền thuyết về loài người của các dân tộc trên thế giới, bởi đã nhiếm mùi "tôn giáo", hay nhất chính là "quả bầu" sinh ra nhân loại. Phúc Âm 20 trang giấy chỉ là những lời giảng hay nói, chưa nói lên điều gì cả, cần xem học thuyết, mục đích, lịch sử, thành quả... Ví dụ khối lượng, lịch sử nhân loại nếu được lưu lại thì ngôn từ, lời nói của vĩ nhân, chân nhân, thần thánh... chất cao như núi, bạn có tin là 20 trang giấy trong ngọn núi giấy này "cứu rỗi" bạn không? Muốn biết được, cần phải tham chiếu đến "những hiện tượng tâm linh thực tế" và vô số vấn đề khác nữa. Ngay khái niệm "Tự Do" của nền văn minh nhân loại, chính là xuất phát từ nguyên nghĩa này của vũ trụ: Tự là từ; do là bởi. Từ nó và bởi nó, chính là Tự do. Một dân tộc Tự Do là dân tộc tự quyết định tương lai của mình. Cho nên, ngay từ buổi bình minh của nhân loại, nền văn minh Hy La đã có nữ thần Tự Do. Văn minh Hy La xuất phát liên tục từ Lưỡng Hà và Ai Cập, "Tự Do" là bản dịch sau này, không đồng nghĩa trước đó không có từ Tự Do hay nữ thần Tự Do. Tại sao Tự Do là người nữ chứ không phải nam? đấy cũng là lý do truyện A Dam và E Va tôi cho là rất dở về mặt huyền thoại. Bời vì nguyên thủy của vũ trụ là "Tự nhiên, như nhiên" không do bất kỳ điều kiện nào sinh ra, ban đầu nó chứa đựng mầm mống vạn vật giống như người nữ mang thai con, cho nên chỉ có "cái Tôi" hòa nhập "đại Ngã" mới tự do đích thực. * Kinh thánh viết: Đức chúa Cha sinh Đức Chúa con và các thánh thần. Lý học Việt nói: Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng.... Đạo Đức Kinh (Hàm chứa trong Lý học Việt) viết: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Tam Vị Nhất Thể đã sai từ bản gốc. Chính từ Đạo Đức Kinh nói về ban đầu vũ trụ nguyên thủy "Mẹ". Cái gì mà con người nghĩ về nhiều nhất, chính là người Mẹ, chứ không phải Thượng Đế, chúng ta nhầm rồi. Cho nên, đạo Tổ Tông Văn Lang là trung tâm tôn giáo của thời kỳ này, ngay cả khi chết chúng ta cũng chỉ nghĩ điều này thôi. Cho nên, Eva từ xương sườn Adam là câu truyện dở nhất là vậy. Hãy chấm dứt trò chơi. * Chúa Giesu nói: Ta là khởi đầu và cũng là sự kết thúc. Việt Dịch trên bãi đá cổ Sapa cũng đã nói đến điều này.... Đức Jesus nói vậy, tôi cho không có gì gọi là đặc biệt cả, bởi ai biết khởi đầu là như thế nào? Thần chết Yama (Lạc Long Quân) đã nói: "Ngay cả Thần Thánh còn không biết linh hồn là cái gì?". * Lời nguyện viết: Chúa ở cùng Cha và ở cùng anh chị em. Lý học Việt xác định: Thái cực - tính thấy từ nguyên thủy vô thủy vô chung, hiện hữu trong tất cả vạn vật trong vũ trụ. Tự thân Thượng Đế (nếu có) cũng đang tồn tại như chúng ta, và nếu có (Thượng Đế) thì Ngài là "Đấng giác ngộ" tức đạt cấp cao nhất của sự tiến hóa trong mỗi cá nhân về nhận thức và hành động. Những đức bé có bao giờ cần tới Thượng Đế? mà cuộc đời của nó xem như một thiên đường, có lẽ khi tâm chúng ta không chấp nê, tham đắm... Tại sao lại xuất hiện Thượng Đế cho những con người khi cần? Tôi cho rằng bởi do cái "Thiếu" của con người trong cuộc sống, khi tâm rỗng thì không còn Thượng Đế, bởi tất cả chính là Thượng Đế. Kính!
-
Vô thần không đồng nghĩa với khoa học mà dễ rơi vào vô đạo đức. ( Đối thoại với Trần Chung Ngọc qua ‘Tôi đọc bài: “Đạo Công giáo với vấn đề mê tín và tệ nạn xã hội” của TS Phạm Huy Thông’ ) Nguyễn Hoàng Đức Tiến sĩ Phạm Huy Thông vừa viết bài “Đạo Công giáo với vấn đề mê tín và tệ nạn xã hội” là một bài viết khá vững chắc và tiết độ, trong đó có nhắc lại lời của một con người có công lớn nhất tạo ra chữ quốc ngữ Việt Nam, đó là ngài Alexandre de Rhodes với các vấn nạn như đốt vàng mã tốn kém ở Đằng ngoài, hay tục đa thê ở Việt Nam… liền đó tác giả Trần Chung Ngọc liền viết bài ‘Tôi đọc bài: “Đạo Công giáo với vấn đề mê tín và tệ nạn xã hội” của TS Phạm Huy Thông’. Tôi xin đối thoại với tác giả Trần Chung Ngọc một số điểm sau: 1- Cái tựa đề bài “Tôi đọc bài…” là cực kỳ ấu trĩ đến mức hầu như không được phép. Tại sao? Vì như một phương ngôn toàn cầu “Khoa học là của chúng ta”. Một bài tranh luận khoa học không cho phép bất kể ai được mang cái Tôi vào. “Tôi đọc bài…” có khác gì tôi đọc thư tình, rồi tôi suy luận a b c, thì là của tôi chứ làm sao là của công lý. Phương ngôn Latin có nói “Sự đồng tình của những người thông thái là bằng chứng cho chân lý”. Muốn đi đến chân lý mỗi cá nhân khi trình bày thì phải dựa trên cái chung và nhân danh cái chung. Nếu ai đó nói về chữ “nước” thì là cái mọi người đều hiểu là nước. Anh không thể nói, tôi, nhà tôi, làng tôi nói chữ “nước” khác cơ. Thêm nữa khi đã viết bài lên công khai đại chúng, thì ta không thể viết “tôi đọc bài…”. Mọi người khi đọc bài là muốn đọc cái gì phổ quát liên quan đến cái chung, chứ còn thư tình của “cái tôi” ư, chỉ có ai đó muốn đọc mà thôi. Triết gia Hegel nói “mọi cái cục bộ đều bỉ ổi”. Trong khoa học mà đem cái tôi ra thì càng bỉ ổi. 2- “Không có tôn giáo nào mê tín cả” – đó là sự khẳng định của sách Bách khoa thần học New Catholic. Tại sao? Bởi cái khởi đầu của mọi tôn giáo là “Kinh Bổn”, ở đó dựng lên lý thuyết tiên thiên. Lý thuyết đó không ưu tiên việc chứng minh có thế giới của thánh thần, mà chủ yếu muốn thực hành đời sống đức tin – đức lý – và đạo đức. Chẳng hạn sách Phúc Âm của đạo Thiên Chúa dạy “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, sau đó “Mến Chúa yêu người”, nhưng Yêu người còn hệ trọng hơn là mến Chúa, và “nếu anh muốn người khác làm cho anh điều gì, hãy làm điều đó cho người khác”… Đạo Phật cũng mở đầu bằng Kinh bổn. Phật Thích Ca xuất thân từ con người tại thế, nên cũng chẳng có ý định chứng tỏ nguồn gốc thần thánh, mà chủ yếu nhắm vào sự Giác ngộ của con người để trở nên “thánh hơn”. Trần Chung Ngọc trích dẫn rất nhiều đoạn để muốn chứng tỏ các tôn giáo là phi lý vì không thực chứng tồn tại. Các nhà khoa học đều thấy rằng: lần ngược về lịch sử thì tất cả mở màn lịch sử của các dân tộc đều là huyền sử, như ở Trung Quốc là bà Nữ Oa đội đá vá trời, ở Việt Nam là “con Lạc cháu Hồng”, ở Hy Lạp là thần Dớt ngự trên đỉnh Ô-lanh-pơ. Trần Chung Ngọc liệu có dám nói thẳng một lời rằng mọi huyền sử đó là phi lý, xuyên tạc, mê tín, phét lác không? Không ai dám cả! Tại sao? Vì hủy bỏ huyền sử tức là hủy bỏ ban mai của một lịch sử dân tộc. Vậy thì các Kinh sách cũng vậy, người ta không có quyền và cũng không thể chứng minh các huyền sử của nó. Vì thế mà Đức tin mới đòi hỏi “Phúc cho ai không thấy mà tin”. 3- Trần Chung Ngọc viết “Điều đáng trách là TS Phạm Huy Thông đã dùng một tài liệu từ thế kỷ 17 của tên thừa sai thực dân ngu dốt bịp bợm là Alexandre de Rhodes”. Một con người có công lớn tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt, một con người có tầm vóc văn hóa vĩ đại đến mức nhiều trí thức Việt nói, ông xứng đáng được tạc tượng. Vậy mà T C Ngọc viết như không ông là “tên thực dân ngu dốt bịp bợm”. Đây là thái độ gì, có phải là thứ đồ tể cơ bắp, lúc nào cũng sẵn sàng văng tục chửi thề chê người khác?! Mới đây cả dân tộc ta vừa rộ lên bàn việc bảo quản di vật lịch sử cầu Long Biên. Nó có phải cũng là của Thực dân Pháp không? Tại sao chúng ta lại phải bảo quản nó. Một con người như Alexandre de Rhodes mà còn bị T C Ngọc dễ dàng coi là “ngu dốt”, thì có lẽ nếu để ông T C Ngọc sưu tập bảo vật cho lịch sử Việt Nam, ông chỉ chọn những nồi hông sành dùng để tiểu tiện. Trong khoa học và đời sống, biết tôn trọng người khác mới là tinh thần quí phái. Còn chỉ giỏi nhục mạ hạ thấp người vô căn cứ chỉ là hạng cơ bắp thôi. 4- Ngoài thái độ thiếu tôn trọng người khác kể cả một trong những người là tổ sư văn hóa của người Việt, Trần Chung Ngọc còn mắc lối nói vu vạ đại khái như “[Chuyện “có một đức Chúa trời dựng nên trời và đất “ ngày nay đã trở thành một trò cười cho thiên hạ trước những bằng chứng khoa học bất khả phủ bác về nguồn gốc vũ trụ và con người mà chính Tòa Thánh cũng đã phải công nhận. TCN]. Theo những thống kê phổ biến nhất thì hơn 90% các nhà khoa học không tin vào sự hình thành sự sống của vũ trụ là do ngẫu nhiên. Các nhà khoa học còn đưa ra ranh giới bất lực của con người là không thể hiểu biết hơn bức tường Plank. Cụ thể Nhà bác học Pasteur nói: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Đức Chúa Trời”. Nhà bác học Becquerel nói: “Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin”. Nhà bác học Newton nói: “Tôi đã thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính”. Platon nói: “Những ai có một chút trí khôn, đều phải kêu cầu Đức Chúa Trời trước khi bắt đầu công việc của họ, dù việc lớn hay việc nhỏ”. Nhà bác học Duclaux nói: “Nếu sự sống đầu tiên xuất hiện trên mặt đất do tình cờ, nơi mà mọi vật đều có luật, thì sự xuất hiện tình cờ đó kỳ dị như hòn đá tự nó bò lên sườn núi”. Còn Eisteins nói “Bất cứ ai cho mình quyền phán xét thế nào là Sự thật và Tri thức đều trở thành hề đối với Chúa trời.” 5- Bằng chứng hiện thực xã hội: Người Việt cũng như thế giới đều biết cả tứ trụ triều đình gồm Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch quốc hội Việt Nam đã qua Vatican để thiết lập quan hệ ngoại giao chẳng lẽ điều đó không nói lên gì cả? Trung Quốc nước lớn nhất thế giới đã cử đoàn hợp xướng hai trăm người tập dượt rất kỹ sang Vatican để biểu diễn nhạc nhà thờ của nhạc sĩ thiên tài Mozart, thử hỏi đã có quốc gia nào được trọng thị như vậy? Hiện có ngày lễ quốc tế nào lớn hơn ngày lễ Noel, và có tháng bán hàng nào chiếm thị phần nhiều như lễ Noel. Ngày lễ Noel không của Thiên Chúa giáo thì của ai? 6- Vấn nạn vô thần ở Việt Nam: Theo các nhà triết học thì không có tôn giáo sẽ không có đỉnh chóp lý tưởng siêu việt của đạo đức. Văn hào Nga Dostoievski nói “Nếu không có Chúa người ta dám làm mọi sự”. Còn có một phương ngôn toàn cầu nổi tiếng hơn “Khởi sự của đạo đức là biết sợ”. Một người không biết sợ hãi bất kể điều gì, cũng có nghĩa tin vào chẳng có ai khỏe hơn mình, đặc biệt khi số này tập trung thành đám đông, và thế là toàn quyền làm mọi sự kể cả trà đạp người khác. Đó cũng là vô đạo đức! Khi người Việt sang I-rắc lao động trả nợ, người I-rắc hỏi bạn theo đạo nào, nghe trả lời “không”, thế là họ tản ra không muốn quan hệ, vì họ e ngại vô đạo cũng là vô đạo đức. Nhật Bản vừa qua tố cáo 40% các vụ ăn cắp ở Nhật là người Việt. Các nước xung quang đều dùng tiếng Việt cảnh báo về nạn ăn cắp cũng chỉ để giành riêng cho người Việt. Thế đã đủ để nhục chưa? Hay vẫn còn chưa đến giới hạn của phản tỉnh? Tôi cho rằng: người Việt gian manh, nói dối, bê tha, trộm cắp nhiều là do không tin vào thần thánh, cũng là vì vô thần. Bài viết của Trần Chung Ngọc chủ yếu dựa trên trích chép mà thiếu sự sống dồi dào thực chứng. Nói chung đó vẫn là cách lọ mọ kiểu học trò hay hủ nho. Tôi xin đối thoại và đợi được trao đổi trên tinh thần có phán đoán hiện thực chứ không phải cứ bệ các ngăn kéo chữ ra khoe. Nếu được vậy thì cám ơn tác giả nhiều. NHĐ 28/03/2014 Chỉ cần bản dịch của Kinh Dịch tuyệt vời, thì có thể hiểu rằng người chuyển đổi từ Nôm sang chữ Quốc ngữ bắt buộc phải là người Việt 100%, thì làm sao một người Tây phương nào đủ "thần lực" làm việc này? Không nên mơ màng về A. Drhodes, ông ta đang sám hối ở Cõi Dưới ("linh hồn ông ta" nói như vậy, vì can tội "lấy đồ của người Việt Nam"). Giáo sư Trần Chung Ngọc về cơ bản, sự nghiên cứu của ông là khách quan, bởi ông dùng chính sinh mạng của mình làm những việc nguy hiểm này, mục đích "giải mê" dân chúng Việt, sự thật là hàng đầu. Tất cả trích dẫn cá nhân, dù của ai ngay cả Phật cũng phải được xác định tính phù hợp, ít nhất so sánhlịch sử phát triển của chính nó. Lễ Noel cần phải xác định lại lịch sử, phải chăng đây là ngày phục sinh của thần Mặt Trời Vạn Thắng theo Tây lịch? Thượng Đế là ai? Có câu chuyện Thầy bói sờ voi. Đức tin mới đòi hỏi “Phúc cho ai không thấy mà tin”: Điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ, không nên chấp vào trích dẫn này nọ. Văn hào Nga Dostoievski nói “Nếu không có Chúa người ta dám làm mọi sự”: Từ thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lịch sử Ki tô giáo, chúng ta sẽ thấy "Vì cuồng tín vào Chúa nên người ta dám làm mọi sự". Do Thái giáo ăn đủ vì nhân loại cứ tin đồn nhảm nhí về dân tộc Do Thái là nguyên nhân cái chết của Đức Jesus. Cái được cho là Thiên khi ác còn ác hơn cả Ác. CHÁN LẮM! Phải đọc cả lịch sử thế giới, phải có học thuyết tổng hợp như thuyết ADNH... phù hợp với tiêu chí khoa học, chưa kể "Tâm linh", Tâm linh không đồng nghĩa "thuộc tôn giáo". Sự tinh vi cùa La Mã đã đạt mức khó có thể nhận thức trực quan, từ xưa nơi này nổi tiếng về luật pháp, kinh nghiệm cai trị rồi. Nếu không có GẬY THẦN VÀ SÁCH ƯỚC của Thánh Tản Viên thì làm sao thoát khỏi ma trận này?.
-
Bảo Quốc Công Dân: Sau sáu năm rưỡi ở Á Châu, người viết học hỏi được một số bí quyết tử vi mới lạ, cần trình bày rõ trước khi bàn các lá số. Trong số này xin nhấn mạnh bí quyết của sao tự hóa. Sao tự hóa nghĩa là sao hóa do ảnh hưởng ngay trong cung nó đóng. Cách định các sao tự Hóa gồm hai bước như sau: Bước 1: Định can của mỗi cung Coi Giáp = 1, Ất= 2, Bính = 3, Đinh= 4, Mậu= 5, Kỷ= 6, Canh= 7, Tân= 8, Nhâm= 9, Quý= 10... Lấy can năm sinh nhân hai cộng 1 thì được can của cung Dần, rồi từ can cung Dần theo thuận chiều kim đồng hồ mà định can các cung khác. Như trường hợp Bill Clinton năm sinh là Bính Tuất (1946) nên can là Bính = 3. Ta được 3´2+1 = 7 = Canh, do đó các cung là Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, vân vân... Bước 2: Định sao tự hóa cho mỗi cung Sau khi lấy xong lá số tử vi theo phương pháp bình thường (hoặc sau khi định xong 14 chính tinh và Xương Khúc Tả Hữu) thì định được sao tự Hóa theo y hệt như bài thơ Lộc Quyền Khoa Kỵ dưới đây (các bạn nghiên cứu tử vi nên ráng thuộc lòng): Giáp Liêm Phá Vũ Dương Ất Cơ Lương Tử Nguyệt Bính Đồng Cơ Xương Liêm Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ Kỷ Vũ Tham Lương Khúc Canh Nhật Vũ Âm Đồng Tân Cự Nhật Khúc Xương Nhâm Lương Vi Phụ Vũ Quý Phá Cự Âm Tham Chú ý: Hữu=Hữu Bật, Vi=Tử Vi, Phụ=Tả Phụ Điểm khác biệt là 1. Dùng can của cung (tính từ bước 1) thay vì can của năm 2. Sao phải ở trong cung mới có thể hóa được. Các sao ngoài cung không kể. Thí dụ: Lá số của Bill Clinton. Cung phụ mẫu can Quý, trong cung lại có sao Thái Âm nên Thái Âm tự hóa Khoa (ta viết t-Khoa cạnh Thái Âm). Chú ý rằng cùng cung không có sao nào tự hóa Lộc, Quyền, hoặc Kỵ. Ngoài ra 11 cung còn lại không có cung nào có sao tự hóa. Sao tự hóa là yếu tố "cùng tắc biến" của khoa tử vi, nên hết sức quan trọng. Xem chúng y hệt như sao hóa bình thường (t-Lộc như Hóa Lộc, t-Quyền như Hóa Quyền, t-Khoa như Hóa Khoa, t-Kỵ như Hóa Kỵ). Thiên can có 5 hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, trong khi đó chỉ có 4 sao Hóa, không rõ chúng có mối quan hệ ra sao khi theo quy tắc an sao hay???. Tử vi là lá số cá nhân, biệt nghiệp của mỗi cá nhân nhưng khi xét đến cộng nghiệp của tập thể, quốc gia... rõ ràng nó phải phụ thuộc vào cái chung. Chẳng hạn, các lá số tử vi của các đương sự có hóa khoa, hóa lộc, hóa quyền có thể tiền tỷ đô nhưng nếu đặt vào thế "Triệt" của Trường Sa và Hoàng Sa mà "đuối" thì những lá số này vẫn chỉ được gọi là "lá số tầm thường", tức dưới mức người bình thường, đây cũng một là sự lạ.
-
Theo TL được hiểu thì tứ hóa được an kèm với một số chính và phụ tinh thực ra đây chính là hóa khí của các tinh này nó mang tính chất bổ trợ trong cung đó Ví dụ:năm nay năm Giáp thì Vũ Khúc hóa khí thành Hóa Khoa đi kèm trong cung và cũng theo như KN nghiệm của TL thì vào tháng Giáp , ngày Giáp Vũ Khúc hóa khí rất mạnh lúc này tính chất của Khoa là hoàn toàn ( như vậy thì không thể nói Khúc đi với Khoa, mà phải nói là Khúc thành Khoa, nghĩa là tính chất của Khúc lúc này được bổ trợ thêm Khoa). Thứ nữa là Thiên Phủ không hóa khí thành Khoa ( Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng...) Qua hàng loạt dẫn chứng và những phân tích từ Đông y, Dịch lý, Tử vi, Tứ trụ... thực ra, vẫn chưa rõ "Khí hóa" là cái gì, cho nên đây chính là một "mắt xích" hết sức phức tạp, mà hảo thủ VinhL cũng đã nghiên cứu nhiều năm về vẫn đề này. Tôi nhận thấy rằng: "Hóa" phải có đối tượng với các thuộc tịnh bị "hóa" tức chuyển đổi có quy tắc, điều này giống như khoa học hiện đại có khả năng nhiệt năng chuyển thành cơ năng, hay điện chuyển thành nhiệt năng ánh sáng, sóng chuyển thành hình ảnh âm thanh của ti vi. Đối tượng bị "hóa" trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành đó là con người và động vật. Nguyên lý "Giáp hợp Kỷ hóa Thổ": những năm có can Giáp hay Kỷ, con người bị trường khí "mộc - Giáp" hay "Thổ - Kỷ" chuyển hóa thành "khí Thổ" lên sự vận động của mỗi con người, trong đó "Chi" cũng bị "hóa" như "Can" theo Đông y. Sự hóa này, có lẽ tương hợp với sự vận động ADNH trong một năm, tức "hóa" ứng với Mộc, Hỏa, Kim và Thủy. Điều này sẽ liên kết trong Tử vi về 4 sao hóa. Tuy nhiên, Tử vi còn nói đến tương tác có quy luật từ ngoài hệ mặt trời, đồng nghĩa sự "hóa" vượt ra khỏi "Can" ở trên.
-
Trung Quốc định xây dựng sân bay trái phép trên đảo Gạc Ma? (TNO) Chính quyền Trung Quốc có thể sớm xây dựng trái phép một sân bay trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Các chuyên gia quân sự cho rằng Trung Quốc có thể sớm xây dựng trái phép một sân bay trên đảo Gạc Ma nhằm tăng cường khả năng tham chiến tại khu vực quần đảo Trường Sa, trang tin Want China Times (Đài Loan) ngày 4.5 dẫn lại tin tức từ Duowei News, trang tin tức của người Trung Quốc ở hải ngoại. Theo thông tin này, Trung Quốc sẽ dùng sân bay trên để tăng cường sức mạnh không quân cho các tuyên bố chủ quyền phi lý của nước này ở quần đảo Trường Sa. Mới đây, các hình ảnh vệ tinh cho thấy Đài Loan cũng đang ngang ngược tiến hành xây dựng trái phép đê chắn sóng để xây cầu cảng ở đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đài Loan cũng đã xây dựng phi pháp một đường băng sân bay dài 1.150 m ở đảo Ba Bình. Phúc Duy Trường Sa tháng 4/2014 - 1. Gạc Ma 2 Tháng 5 2014 lúc 10:46 Theo thông tin của Hải quân Việt Nam, Trung Quốc đang huy động nhiều phương tiện, thiết bị để mở rộng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma, thuộc cụm đảo Sinh Tồn trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Họ đang nạo xúc đá san hô, mở một luồng lớn cho tàu vào đảo, đồng thời đổ cát tạo thành một bãi nổi dài 500m, rộng 200, cao 4 - 5m Trạm trộn bê tông tươi trên đảo Gạc Ma Chiến lược của Trung Quốc chính là đảo Gạc Ma, khi xây dựng được công trình quân sự ở đây rồi thì nó sẽ trở thành "bàn đạp" và "tháp canh" toàn bộ biển Đông, thế này giống như chiến tranh Tần tấn công Nam Việt, luôn luôn phải có bàn đạp vừa tiến công hoặc phòng thủ. Chúng ta có thể hình dung, một cao điểm chỉ cần vài trăm người có thể chống hàng vạn người là vậy. Khi các ngư dân Việt Nam hoặc/ và quốc gia (liên doanh quốc tế) khai thác dầu khí khu vực này, bạn sẽ không thể thực hiện được nếu bỏ qua đảo Gạc Ma. Tối nguy hiểm, cho nên bước kiện ra Quốc Tế là rơi vào thế "Triệt" - không cần suy nghĩ, chỉ có phải suy nghĩ là bước tiếp theo làm sao "bứng" đảo Gạc Ma đi mà thôi. LỊCH SỬ SẼ GHI TÊN AI VÀ BÔI XÓA AI TRONG THỜI KỲ NÀY.
-
Sử ký - Lỗ Chu Công thế gia Dịch giả: Đông Hải Tiểu Sinh Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Chu Công Đán là em trai của Chu Vũ Vương. Khi Văn Vương còn sống, Đán làm con có hiếu, trung hậu và nhân ái, khác hẳn những con người con khác. Đến khi Vũ Vương lên ngôi, Đán luôn giúp rập Vũ Vương, xử lý nhiều chính sự. Vũ Vương năm thứ 9, sang phía đông đánh đến Minh Tân, Chu Công đi theo giúp đỡ. Năm thứ 11, đánh Trụ, đến Mục Dã, Chu Công phò tá Vũ Vương, làm thiên “Mục Thệ”. Đánh bại quân Ân, tiến vào Thương cung. Giết Trụ xong, Chu Công cầm đại việt, Thiệu Công cầm tiểu việt, ở hai bên tả hữu kèm cặp Vũ Vương, lấy máu súc sinh tế thần Đất, báo cáo tội trạng của Trụ cho Trời và dân Ân. Thả tù Cơ Tử. Phong cho con Trụ là Vũ Canh Lộc Phủ, sai Quản Thúc và Sái Thúc giúp đỡ hắn, để tiếp tục việc tế tự của nhà Ân. Phong cho tất cả công thần, người cùng họ và thân thích. Phong Chu Công Đán ở đất cũ của Thiếu Hạo là Khúc Phụ, đó là Lỗ Công. Chu Công không về đất phong, ở lại phò tá Vũ Vương. Vũ Vương đánh bại nhà Ân được hai năm, thiên hạ chưa thống nhất, Vũ Vương có bệnh, không vui, quần thần lo sợ, Thái Công và Thiệu Công bèn cung kính bói rùa. Chu Công nói: - Không thể để tiên vương ta đau buồn. Chu Công bèn tự mình làm con tin, lập ba đàn tế, Chu Công đứng quay mặt về phía bắc, nâng ngọc bích, cầm ngọc khuê, cầu khấn Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương. Sử quan khấn theo sách thư: “Nguyên tôn của các ngài là Vương Phát, vất vả sinh bệnh. Nếu Tam Vương các ngài nợ trời một người con, xin hãy lấy Đán thay Vương Phát. Đán thông minh tài cán, lại đa tài đa nghệ, có thể phụng sự quỷ thần. Mà Vương Phát không đa tài đa nghệ như Đán, không thể phụng sự quỷ thần. Vương Phát thụ mệnh ở đế đình, che chở khắp bốn phương, lại có thể an định con cháu các ngài ở dưới nhân gian, dân chúng bốn phương không ai không kính trọng, nể phục. Chỉ mong các ngài đừng làm mất bảo mệnh trời ban, mà tiên vương tôi cũng có nơi nương nhờ mãi mãi. Nay tôi theo mệnh lệnh ở con rùa lớn, nếu các ngài đồng ý với tôi, tôi sẽ lấy ngọc bích và ngọc khuê này kính dâng lên, còn nếu các ngài không đồng ý với tôi, tôi sẽ cất ngọc bích và ngọc khuê đi.” Chu Công sau khi ra lệnh cho sử quan cầu khấn Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương theo sách thư, muốn thay Vương Phát, bèn đến chỗ đàn tế Tam Vương bói rùa. Thầy bói đều nói tốt, lại mở sách bói ra xem, quả nhiên tốt. Chu Công mừng, mở cái thược thì cũng thấy ghi tốt. Chu Công vào bên trong chúc mừng Vũ Vương rằng: - Vương không có tai họa gì đâu. Đán vừa mới thụ mệnh ở Tam Vương, vương chỉ cần lo cho sự lâu dài của cơ đồ nhà Chu. Điều đấy nói lên trời cao vẫn còn nhớ đến dư nhất nhân. Chu Công bèn giấu kín sách thư trong rương vàng, dặn người trông giữ không được tiết lộ. Ngày hôm sau, Vũ Vương khỏi bệnh. Sau đó Vũ Vương băng, Thành Vương nhỏ, còn nằm trong địu. Chu Công sợ thiên hạ nghe tin Vũ Vương băng mà làm phản, Chu Công bèn lên ngôi thay Thành Vương xử lý chính sự, cai quản quốc gia. Quản Thúc cùng các em phao tin đồn trong nước rằng: “Chu Công sẽ gây bất lợi cho Thành Vương.” Chu Công bèn nói với Thái Công Vọng và Thiệu Công Thích rằng: - Tôi sở dĩ không tránh né mà xử lý chính sự là vì sợ thiên hạ phản Chu, không có cách nào báo cáo lên tiên vương ta là Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương. Tam Vương vì thiên hạ mà lo lắng, vất vả rất lâu, đến nay mới thành công. Vũ Vương chết sớm, Thành Vương còn nhỏ, chỉ vì hoàn thành đại nghiệp của nhà Chu nên tôi mới làm như thế. Rút cuộc giúp đỡ Thành Vương, mà sai con là Bá Cầm thay mình đến đất phong ở Lỗ. Chu Công răn Bá Cầm rằng: - Ta là con của Văn Vương, em của Vũ Vương, chú của Thành Vương, ta so với thiên hạ cũng không phải thấp hèn. Nhưng ta mỗi lần gội đầu thì ba lần nắm chặt tóc, mỗi lần ăn cơm thì ba lần nhổ thức ăn ngậm trong miệng, đứng dậy tiếp đãi kẻ sĩ, còn sợ mất hiền nhân của thiên hạ. Con đến Lỗ, chớ vì có nước phong mà kiêu ngạo với người. Bọn Quản, Sái, Vũ Canh quả nhiên chỉ huy Hoài Di mà làm phản. Chu Công bèn phụng mênh Thành Vương, dấy quân đông phạt, làm thiên “Đại Cáo”. Rồi giết Quản Thúc và Vũ Canh, đầy ải Sái Thúc. Thu phục những người dân còn lại của Ân, mà phong Khang Thúc ở Về, phong Vi Tử ở Tống, để phụng thờ việc tế tự nhà Ân. Dẹp yên Hoài Di ở đông thổ, sau hai năm thì ổn định hoàn toàn. Chư hầu đều quy phục Chu thất. Trời ban phúc lành, Đường Thúc có được thứ lúa, khác gốc nhưng cùng một ngọn lúa, dâng lên Thành Vương, Thành Vương sai Đường Thúc đem tặng Chu Công ở đông thổ, làm thiên “Quỹ Hòa”. Chu Công nhận lúa xong, khen mệnh lệnh của thiên tử, làm thiên “Gia Hòa”. Đông thổ đã ổn định, Chu Công quay về báo cáo Thành Vương, bèn làm thơ tặng vương, đặt tên cho bài thơ ấy là “Si Hào”. Vương cũng chưa dám dạy bảo Chu Công. Thành Vương năm thứ 7, tháng 2, ngày Ất Mùi, vương ở Chu rồi đi bộ đến Phong, sai thái bảo Thiệu Công đến Lạc trước để kiểm tra địa hình. Tháng 3 năm ấy, Chu Công đến xây dựng Thành Chu Lạc Ấp, bói rùa việc sống ở đấy, quẻ bói nói tốt, bèn đóng đô ở đấy. Thành Vương đã lớn, có thể nghe chính sự. Do đó Chu Công bèn trao lại chính sự cho Thành Vương, Thành Vương lâm triều. Lúc Chu Công thay Thành Vương cai trị, quay mặt về phía nam, quay lưng về phía bình phong để triều kiến chư hầu. Bảy năm sau, trao lại chính sự cho Thành Vương, quay mặt về phía bắc trở lại ngôi thần tử, cung cung kính kính như có điều sợ hãi. Ngày trước, lúc Thành Vương còn nhỏ, bị bệnh, Chu Công bèn tự mình cắt móng tay rồi ngâm vào sông Hà, mà khấn với thần linh rằng: “Vương còn nhỏ chưa có hiểu biết, mạo phạm mệnh lệnh của thần linh chính là Đán.” Cũng giấu kín sách thư ở kho chứa. Thành Vương quả nhiên khỏi bệnh. Đến khi Thành Vương lâm triều, có người gièm pha Chu Công, Chu Công chạy đến Sở. Thành Vương mở kho chứa, thấy sách thư của Chu Công, bèn khóc, đón Chu Công quay về. Chu Công quay về, sợ Thành Vương còn trẻ tuổi, trị quốc có những thói dâm dật, bèn làm thiên “Đa Sĩ”, làm thiên “Vô Dật”. “Vô Dật” nói: “Là người làm cha mẹ, phải trải qua dài lâu mới khai sáng được gia nghiệp, con cháu kiêu xa quên đi điều ấy, đánh mất gia nghiệp, là người làm con có thể không cẩn thận hay sao! Cho nên ngày xưa, thời Ân Vương Trung Tông, nghiêm trang, cung kính, sợ sệt thiên mệnh, dựa vào phép tắc cai trị dân chúng, sợ hãi không dám bỏ bê, an nhàn, cho nên Trung Tông hưởng nước 75 năm. Thời Cao Tông, vất vả lâu ngày ở bên ngoài, làm việc cùng tiểu nhân, sau khi lên ngôi thì phải ở tang, ba năm không nói chuyện, một lời nói ra thì khiến dân chúng vui mừng, lại không dám bỏ bê an nhàn, yên ổn nước Ân, từ nhỏ đến lớn không một ai oán trách, cho nên Cao Tông hưởng nước 55 năm. Thời Tổ Giáp, cho rằng mình làm vương là bất nghĩa, làm việc lâu ngày với tiểu nhân ở bên ngoài, biết được thứ tiểu dân cần nương tựa, có thể vỗ về tiểu dân, không coi thường người góa chồng, cho nên Tổ Giáp hưởng nước 33 năm.”. “Đa Sĩ” nói: “Từ Thang cho đến Đế Ất, không ai là không tuân theo lễ chế để tế tự, tỏ rõ đức chính, đức độ của các đế vương không ai là không sánh ngang với trời. Hiện nay con cháu đời sau là Vương Trụ, hoang dâm vô độ, không đoái hoài đến sự tuân theo của trời và dân. Dân chúng đều cho rằng Trụ đáng giết.” “Văn Vương mỗi ngày, vào lúc mặt trời xế bóng vẫn không nhàn rỗi ăn cơm, hưởng nước 50 năm.” Làm những thiên này để răn Thành Vương. Thành Vương ở Phong, thiên hạ đã yên ổn, chế độ quan chức của nhà Chu chưa được sắp xếp, do đó Chu Công làm thiên “Chu Quan”, các chức quan được phân rõ chức trách của mình, làm thiên “Lập Chính”, để làm lợi cho bách tính, bách tính vui mừng. Chu Công ở Phong, bị bênh, sắp qua đời, nói: - Nhất định phải chôn ta ở Thành Chu, để tỏ rõ ra không dám rời Thành Vương. Chu Công đã qua đời, Thành Vương cũng khiêm nhường, chôn Chu Công ở ấp Tất, theo Văn Vương, để tỏ rõ dư tiểu tử không dám coi Chu Công là bề tôi. Sau khi Chu Công chết, mùa thu còn chưa thu hoạch, một trận mưa to gió lớn, lúa má đổ rạp, cây to bật rễ. Người trong kinh thành rất lo. Thành Vương cùng đại phu mặc triều phục để mở sách trong rương vàng, vương bèn tìm được sách thư khi Chu Công tự mình làm con tin thay Vũ Vương. Hai công và vương bèn hỏi sử quan và các viên quan chấp sự, sử quan và các viên quan chấp sự nói: - Quả thực có việc này, ngày trước Chu Công ra lệnh cho chúng tôi không được tiết lộ. Thành Vương cầm sách thư mà khóc, nói: - Sợ rằng sau này không còn có ai thành kính bói rùa như thế này nữa! Ngày xưa Chu Công vì vương thất siêng năng chịu khó, chỉ có ta trẻ con là không biết đến. Nay trời ra uy để tuyên dương đức của Chu Công, trẫm tiểu tử sẽ nghênh đón thần linh, tương xứng với lễ nghi của quốc gia ta. Vương ra ngoài thành tế giao, trởi liền đổ mưa, gió đổi hướng, lúa má đứng dậy. Hai công ra lệnh cho người trong nước, phàm cây to đã đổ, đều phải vực dậy rồi đắp thêm đất. Năm đó mùa màng bội thu. Do đó Thành Vương bèn cho Lỗ được tế giao Văn Vương. Lỗ có lễ nhạc giống thiên tử để khen ngợi đức của Chu Công. Chu Công qua đời, con là Bá Cầm từ lúc trước đã nhận đất phong, đó là Lỗ Công. Lỗ Công Bá Cầm lúc đầu nhận đất phong ở Lỗ, sau ba năm thì quay lại báo cáo chính sự cho Chu Công. Chu Công hỏi: - Sao chậm trễ vậy? Bá Cầm đáp: - Thay đổi phong tục của họ, sửa đổi lễ nghi của họ, để tang ba năm mới được bỏ, cho nên chậm trễ. Thái Công cũng được phong ở Tề, sau 5 tháng thì quay lại báo cáo chính sự cho Chu Công. Chu Công hỏi: - Sao lại nhanh vậy? Nói: - Tôi đơn giản lễ nghi quần thần của họ, thuận theo phong tục của họ mà làm việc. Về sau nghe Bá Cầm báo cáo chính sự chậm trễ, bèn than rằng: - Ô hô, đời sau của nước Lỗ quay mặt về phía bắc thờ Tề rồi! Chính sự không đơn giản, không dễ thi hành thì dân không gần gũi; đơn giản, dễ thi hành và gần gũi dân, dân nhất định theo về. Bá Cầm sau khi lên ngôi, có bọn Quản, Sái làm phản, Hoài Di và Từ Nhung cũng đồng loạt dấy quân làm phản. Do đó Bá Cầm chỉ quy quân đội đánh chúng ở Hật, làm “Hật Thệ”, nói: “Chuẩn bị giáp trụ của các ngươi, chớ dám không thích. Chớ dám làm hỏng chuồng nhốt ngựa bò. Ngựa bò chạy mất, nô bộc trốn chạy, chớ dám bỏ chức trách mà đuổi theo, ắt tự quay về. Chớ dám cướp bóc quấy nhiễu, trèo tường. Người Lỗ ở tam giao và tam toại, hãy tích trữ rơm cỏ, lương khô, trinh cán, chớ dám không đủ. Ngày Giáp Tuất quân ta sẽ xây dựng công sự để chinh phạt Từ Nhung, chớ dám không đến, nếu không sẽ dùng đại hình.” Sau khi làm thiên “Hật Thệ” này, bèn dẹp yên Từ Nhung, an định nước Lỗ. Lỗ Công Bá Cầm chết, con là Khảo Công Tù lên ngôi. Khảo Công năm thứ 4 chết, lập em là Hi, đó là Dương Công. Dương Công dựng cửa Mao Khuyết. Năm thứ 6 chết, con là U Công Tể lên ngôi. U Công năm thứ 14, em U Công là Phí giết U Công mà tự lập, đó là Ngụy Công. Ngụy Công năm thứ 50 chết, con là Lệ Công Trạc lên ngôi. Lệ Công năm thứ 37 chết, người Lỗ lập em Lệ Công là Cụ, đó là Hiến Công. Hiến Công năm thứ 32 chết, con là Chân Công Tị lên ngôi. Chân Công năm thứ 14, Chu Lệ Vương vô đạo, bỏ chạy đến Trệ, Chu Công và Thiệu Công cùng nhau chấp chính. Năm thứ 29, Chu Tuyên Vương lên ngôi. Năm thứ 30, Chân Công chết, em là Ngao lên ngôi, đó là Vũ Công. Vũ Công năm thứ 9, mùa xuân, Vũ Công cùng con trưởng là Quát, con út là Hí, sang phía tây triều kiến Chu Tuyên Vương. Tuyên Vương yêu Hí, muốn lập Hí làm thái tử của Lỗ. Phiền Trọng Sơn Phụ của Chu can Tuyên Vương rằng: - Phế trưởng lập nhỏ, không phù hợp với lễ; không phù hợp với lễ thì nhất định mạo phạm vương mệnh; mạo phạm vương mệnh thì nhất định phải giết: cho nên mệnh lệnh ban ra không thể không phù hợp với lễ. Mệnh lệnh thi hành khó khăn thì vương chính không được xác lập; thi hành mà không phù hợp với lễ thì dân sẽ không phục tùng bên trên. Dưới thờ trên, nhỏ thờ trưởng, như thế mới phù hợp với lễ. Nay thiên tử lập chư hầu, lại đi lập con út của họ, đó là dạy dân làm trái lễ vậy. Nếu nước Lỗ làm theo, chư hầu bắt chước Lỗ thì vương mệnh sẽ có chỗ bị tắc nghẽn; nếu không làm theo mà giết đi, đó là tự mình giết vương mệnh vậy. Giết cũng sai, không giết cũng sai, vương hãy suy tính việc ấy. Tuyên Vương không nghe, rút cuộc lập Hí làm thái tử của Lỗ. Mùa hạ, Vũ Công quay về thì chết, Hí lên ngôi, đó là Ý Công. Ý Công năm thứ 9, con của anh Ý Công là Quát là Bá Ngự cùng người Lỗ đánh giết Ý Công, mà lập Bá Ngự làm vua. Bá Ngự lên ngôi được 11 năm, Chu Tuyên Vương đánh Lỗ, giết vua Lỗ là Bá Ngự, rồi hỏi trong các công tử của Lỗ ai có thể dạy bảo chư hầu, để làm người người kế tục nước Lỗ. Phiền Mục Trọng nói: - Em của Lỗ Ý Công là Xưng, cung kính thần linh, kính trọng người già; việc thuế má, hành hình, nhất định tra hỏi di huấn và cố sự, không mạo phạm những điều đã tra hỏi trong di huấn và cố sự. Tuyên Vương nói: - Tốt, có thể dạy bảo và cai trị dân Lỗ được rồi. Bèn lập Xưng ở Di Cung, đó là Hiếu Công. Kể từ sau đó, chư hầu nhiều kẻ làm trái vương mệnh. Hiếu Công năm thứ 25, chư hầu phản Chu, Khuyển Nhung giết U Vương. Tần bắt đầu được liệt làm chư hầu. Năm thứ 27, Hiếu Công chết, con là Phất Hoàng lên ngôi, đó là Huệ Công. Huệ Công năm thứ 30, người Tấn giết vua mình là Chiêu Hầu. Năm thứ 45, người Tấn lại giết vua mình là Hiếu Hầu. Năm thứ 46, Huệ Công chết, trưởng thứ tử liền cai trị quốc gia, nắm giữ việc quân, đó là Ẩn Công. Lúc đầu, đích phu nhân của Huệ Công không có con, tiện thiếp của công tên là Thanh Tử sinh con là Tức. Tức lớn lên, lấy vợ ở Tống. Người con gái nước Tống đến Lỗ, lại đẹp, Huệ Công đoạt lấy làm vợ của mình. Sinh con là Doãn. Thăng người con gái nước Tống làm phu nhân, cho Doãn làm thái tử. Đến khi Huệ Công chết, vì Doãn còn nhỏ, người Lỗ cùng ra lệnh cho Tức thay Doãn trị nước, không gọi là lên ngôi. Ẩn Công năm thứ 5, xem bắt cá ở ấp Đường. Năm thứ 8, cùng Trịnh trao đổi hai ấp Banh và Hứa Điền, Banh là ấp ở Thái Sơn thiên tử ban cho Trịnh, người quân tử chê cười việc ấy. Năm thứ 11, mùa đông, công tử Huy siểm nịnh Ẩn Công rằng: - Bách tính cho rằng ngài làm vua là thích hợp, ngài hãy lên ngôi đi. Tôi xin vì ngài giết Tử Doãn, còn ngài cho tôi làm tướng quốc. Ẩn Công nói: - Đã có di mệnh của tiên quân rồi. Ta vì Doãn còn nhỏ, cho nên thay Doãn trị nước. Nay Doãn lớn rồi, ta đang xây dựng đất Thố Cừu để dưỡng già, đem việc chính sự trao lại cho Tử Doãn. Huy sợ Tử Doãn nghe được mà quay ra giết mình, bèn quay ra gièm pha Ẩn Công với Tử Doãn rằng: - Ẩn Công muốn lên ngôi, trừ khử ngài, ngài hãy suy tính việc đó. Xin vì ngài giết Ẩn Công. Tử Doãn đồng ý. Tháng 11, Ẩn Công tế Chung Vu, trai giới ở Xã Phố, nghỉ ngơi ở nhà họ Ngụy. Huy sai người giết Ẩn Công ở nhà họ Ngụy, rồi lập Tử Doãn làm vua, đó là Hoàn Công. Hoàn Công năm đầu, Trịnh lấy ngọc bích để trao đổi Hứa Điền là ấp thiên tử ban cho Lỗ. Năm thứ 2, đem cái đỉnh Tống hối lộ vào trong Thái miếu, người quân tử chê cười việc đó. Năm thứ 3, sai Huy đón người con gái nước Tề về làm phu nhân. Năm thứ 6, phu nhân sinh con, cùng ngày sinh với Hoàn Công, cho nên đặt tên là Đồng. Đồng lớn lên, làm thái tử. Năm thứ 16, hội với Tào, đánh Trịnh, đưa Lệ Công về nước. Năm thứ 18, mùa xuân, công sắp có việc phải đi, bèn cùng phu nhân tới Tề. Thân Nhu can ngăn, công không nghe, rút cuộc tới Tề. Tề Tương Cong tư thông với phu nhân của Hoàn Công. Công giận phu nhân, phu nhân đem việc ấy nói với Tề Hầu. Mùa hạ, tháng 4, ngày Bính Tí, Tề Tương Công thết đãi công, công say, sai công tử Bành Sinh ôm Lỗ Hoàn Công, rồi sai Bành Sinh bẻ gãy xương sườn của Hoàn Công, công chết ở trên xe. Người Lỗ nói với Tề rằng: - Vua của chúng tôi sợ uy của ngài, không dám an cư, đến Tề học tập lễ nghi tốt đẹp. Lễ nghi đã hoàn thành nhưng không quay về, tội lỗi không có cách nào truy cứu, chỉ mong tìm được Bành Sinh để rửa đi tiếng xấu trước mặt chư hầu. Người Tề giết Bành Sinh để làm vừa lòng người Lỗ. Lập thái tử Đồng, đó là Trang Công. Mẹ của Trang Công là phu nhân, nhân đó ở lại Tề, không dám quay về Lỗ. Trang Công năm thứ 5, mùa đông, đánh Vệ, đưa Vệ Huệ Công về nước. Năm thứ 8, công tử của Tề là Củ chạy đến. Năm thứ 9, Lỗ muốn đưa Tử Củ về Tề, nhưng chậm hơn Hoàn Công, Hoàn Công đem quân đánh Lỗ, Lỗ nguy cấp, giết Tử Củ. Thiệu Hốt chết. Tề nói với Lỗ giữ mạng sống của Quản Trọng. Người Lỗ là Thi Bá nói: - Tề muốn Quản Trọng sống, không giết hắn, nhất định sẽ dùng hắn, dùng hắn thì đó sẽ là nỗi lo của Lỗ. Chẳng bằng giết đi, đem xác hắn đưa cho Tề. Trang Công không nghe, bèn áp giải Quản Trọng đến Tề. Người Tề cho Quản Trọng làm tướng quốc. Năm thứ 13, Lỗ Trang Công cùng Tào Mạt hội với Tề Hoàn Công ở Kha, Tào Mạt ép Tề Hoàn Công, xin lại những đất đã xâm chiếm của Lỗ, ăn thề xong thì thả Hoàn Công. Hoàn Công muốn bội ước, Quản Trọng can, cuối cùng trả lại những đất đã xâm chiếm của Lỗ. Năm thứ 15, Tề Hoàn Công bắt đầu làm bá. Năm thứ 23, Trang Công tới Tề xem tế thần Đất. Năm thứ 32, lúc đầu, Trang Công xây một cái đài bên cạnh nhà họ Đảng, nhìn thấy Mạnh Nữ, rất vui mừng rồi yêu, đồng ý lập làm phu nhân, cắt cánh tay để thề. Mạnh Nữ sinh con là Ban. Ban lớn lên, thích người con gái họ Lương, đến xem mặt. Người nuôi ngựa tên là Lạc từ bên ngoài tường cùng người con gái họ Lương đùa bỡn. Ban giận, đánh roi Lạc. Trang Công nghe được, nói: - Lạc là người có sức lực, nhất định phải giết, người đó không thể đánh roi rồi thả được. Ban chưa giết được. Gặp lúc Trang Công bị bệnh. Trang công có ba người em, trưởng là Khánh Phụ, thứ là Thúc Nha, thứ nữa là Quý Hữu. Trang Công lấy người con gái nước Tề làm phu nhân, tên là Ai Khương. Ai Khương không có con. Em cùng chồng của Ai Khương là Thúc Khương, sinh con là Khai. Trang Công không có con đích nối dõi, yêu Mạnh Nữ, muốn lập con của Mạnh Nữ là Ban. Trang Công bị bệnh, bèn hỏi em là Thúc Nha về việc kế vị. Thúc Nha nói: - Cha chết thì con làm vua, anh chết thì em làm vua, đó là phép thường của nước Lỗ. Khánh Phụ còn sống, có thể làm người kế vị, bệ hạ còn lo lắng điều gì? Trang Công sợ Thúc Nha muốn lập Khánh Phụ, cho Thúc Nha lui rồi hỏi Quý Hữu. Quý Hữu nói: - Xin lấy cái chết để lập Ban. Trang Công nói: - Vừa rồi Thúc Nha muốn lập Khánh Phụ, nên làm thế nào? Quý Hữu dùng mệnh lệnh của Trang Công sai Nha đợi ở nhà họ Châm Vu, sai Châm, sai Châm Quý ép Thúc uống rượu độc, nói: - Uống rượu này thì sau này sẽ có người phụng thờ; nếu không, sẽ phải chết mà không còn con cháu. Nha bèn uống rượu độc rồi chết, Lỗ lập con của Thúc Nha làm họ Thúc Tôn. Tháng 8, ngày Quý Hợi, Trang Công chết, Quý Hữu cuối cùng lập Tử Ban làm vua, theo di mệnh của Trang Công. Lo việc tang, nghỉ ngơi ở nhà họ Đảng. Lúc trước, Khánh Phụ cùng Ai Khương tư thông, muốn lập con của người em là Khai. Đến khi Trang Công chết mà Quý Hữu lập Ban, tháng 10 ngày Kỷ Mùi, Khánh Phụ sai người trông ngựa là Lạc giết Lỗ Công Tử Ban ở nhà họ Đảng. Quý Hữu chạy đến Trần. Khánh Phụ cuối cùng lập con Trang Công là Khai, đó là Mẫn Công. Mẫn Công năm thứ 2, Khánh Phụ càng hay qua lại với Ai Khương. Ai Khương và Khánh Phụ âm mưu giết Mẫn Công mà lập Khánh Phụ. Khánh Phụ sai Bốc Nghĩ đánh úp rồi giết Mẫn Công ở Vũ Vi. Quý Hữu nghe tin, từ Trần cùng em của Mẫn Công là Thân tới Trâu, yêu cầu Lỗ cho Thân về nước. Người Lỗ muốn giết Khánh Phụ. Khánh Phụ sợ, chạy đến Cử. Do đó Quý Hữu đưa Tử Thân về nước, lập lên, đó là Hi Công. Hi Công cũng là con út của Trang Công. Ai Khương sợ, chạy đến Trâu. Quý Hữu đem lễ vật tới Cử tìm bắt Khánh Phụ, Khánh Phụ quay về, sai người giết Khánh Phụ, Khánh Phụ xin được chạy ra nước ngoài, không nghe, bèn sai đại phu Hề Tư đến khóc. Khánh Phụ nghe tiếng của Hề Tư, bèn tự sát. Tề Hoàn Công nghe tin Ai Khương và Khánh Phụ làm loạn để nguy hại nước Lỗ, bèn triệu Ai Khương ở Chu về rồi giết đi, đem xác của Ai Khương đưa về Lỗ, rồi bêu xác ở Lỗ. Lỗ Hi Công xin được chôn cất Ai Khương. Mẹ Quý Hữu là người con gái nước Trần, nên Quý Hữu trốn ở Trần, Trần giúp đỡ, hộ tống Quý Hữu và Tử Thân. Quý Hữu lúc sắp chào đời, cha là Lỗ Hoàn Công sai người bói rùa, nói: - Đây là một bé trai, tên của nó là “Hữu”, ở trong khoảng giữa hai đàn xã, là phụ tá của công thất. Quý Hữu chết thì Lỗ sẽ suy. Đến khi chào đời, ở bàn tay có chữ “Hữu”, bèn lấy đó làm tên, hiệu là Thành Quý. Đời sau của Quý Hữu là họ Quý, đời sau của Khánh Phụ là họ Mạnh. Hi Công năm đầu, lấy Vấn Dương và Phí phong cho Quý Hữu. Quý Hữu làm tướng quốc. Năm thứ 9, Lí Khắc nước Tấn giết vua mình là Hề Tề và Trác Tử. Tề Hoàn Công chỉ huy Hi Công dẹp loạn của Tấn, đến Cao Lương rồi quay về, lập Tấn Huệ Công. Năm thứ 17, Tề Hoàn Công chết. Năm thứ 24, Tấn Văn Công lên ngôi. Năm thứ 33, Hi Công chết, con là Hưng lên ngôi, đó là Văn Công. Văn Công năm đầu, thái tử nước Sở là Thương Thần giết vua mình là Thành Vương, lên thay. Năm thứ 3, Văn Công triều kiến Tấn Tương Công. Năm thứ 11, tháng 10, ngày Giáp Ngọ, Lỗ đánh bại Địch ở Hàm, bắt được Kiều Như của Trường Địch, Phú Phụ Chung Sanh đâm yết hầu của Kiều Như, dùng qua giết chết, chôn đầu ở cửa Tử Câu, lấy hai chữ Kiều Như đặt tên cho Tuyên Bá. Ngày trước, vào thời của Tống Vũ Công, Sưu Man đánh Tống , tư đồ Hoàng Phụ chỉ huy quân đội chống lại, đánh bại người Địch ở Trường Khâu, bắt được Duyên Tư của Trường Địch. Tấn diệt Lộ, bắt được em Kiều Như là Phần Như. Tề Huệ Công năm thứ 2, Sưu Man đánh Tề, vương tử Thành Phụ của tề bắt được em Kiều Như là Vinh Như, chôn đầu ở cửa bắc. Người Vệ bắt được người em út là Giản Như. Sưu Man từ đó diệt vong. Năm thứ 15, Quý Văn Tử đi sứ tới Tấn. Năm thứ 18, tháng 2, Văn Công chết. Văn Công có hai người phi: trưởng phi là người con gái nước Tề là Ai Khương, sinh Tử Ác và Thị; thứ phi là Kính Doanh, được sủng ái, sinh con là Thối. Thối ngầm làm Tương Trọng lung lạc, Tương Trọng muốn lập Thối, Thúc Trọng nói không thể. Tương Trọng thỉnh cầu Tề Huệ Công, Huệ Công vừa mới lên ngôi, muốn kết thân với Lỗ, bèn đống ý. Mùa đông, tháng 10, Tương Trọng giết Tử Ác và Thị rồi lập Thối, đó là Tuyên Công. Ai Khương quay về Tề, đi qua chợ than khóc, nói: - Trời ơi! Tương Trọng làm việc bất đạo, giết đích lập thứ! Người ở chợ đều khóc, nên người Lỗ gọi bà ta là “Ai Khương”. Lỗ từ đấy công thất suy vi, Tam Hoàn mạnh lên. Tuyên Công Thối năm thứ 12, Sở Trang Vương mạnh, vây Trịnh. Trịnh Bá hàng, sau lại tha cho Trịnh. Năm thứ 18, Tuyên Công chết, con là Thành Công Hắc Quang lên ngôi, đó là Thành Công. Quý Văn Tử nói: - Kẻ khiến nước ta phải giết đích lập thứ, mất đi sự viện trợ lớn chính là Tương Trọng. Tương Trọng lập Tuyên Công, Công Tôn Quy Phụ được sủng ái. Tuyên Công muốn trừ bỏ Tam Hoàn, cùng Tấn mưu đánh Tam Hoàn. Gặp lúc Tuyên Công chết, Quý Văn Tử oán Quy Phụ, Quy Phụ chạy đến Tề. Thành Công năm thứ 2, mùa xuân, Tề đánh và lấy ấp Long của Lỗ. Mùa hạ, công cùng Khích Khắc nước Tấn đánh bại Tề Khoảnh Công ở An, Tề trả lại Lỗ những đất đã xâm chiếm. Năm thứ 4, Thành Công tới Tấn, Tấn Cảnh Công bất kính với Lỗ Công. Lỗ Công muốn phản Tấn hợp với Sở, có người can, nhưng không nghe. Năm thứ 10, Thành Công tới Tấn. Tấn Cảnh Công chết, nhân đó giữ Thành Công ở lại tống tang, Lỗ giấu việc này. Năm thứ 15, lần đầu tiên cùng Ngô Vương Thọ Mộng hội ở Chung Li. Năm thứ 16, Tuyên Bá nói với Tấn, muốn giết Quý Văn Tử. Văn Tử là người có nghĩa, người Tấn không đồng ý. Năm thứ 18, Thành Công chết, con là Ngọ lên ngôi, đó là Tương Công. Lúc đó Tương Công mới ba tuổi. Tương Công năm đầu, Tấn lập Điệu Công. Mùa đông năm trước, Loan Thư nước Tấn giết vua mình là Lệ Công. Năm thứ 4, Tương Công triều kiến Tấn. Năm thứ 5, Quý Văn Tử chết. Trong nhà không có thê thiếp mặc lụa, trong chuồng không có ngựa được ăn thóc, trong kho không có vàng ngọc. Người quân tử nói: “Quý Văn Tử thật liêm trung.” Năm thứ 9, cùng Tấn đánh Trịnh. Tấn Điệu Công làm lễ đội mũ cho Tương Công ở Vệ, Quý Vũ Tử đi theo, giúp vua hành lễ. Năm thứ 11, Tam Hoàn chia quân đội làm ba. Năm thứ 12, triều kiến Tấn. Năm thứ 16, Tấn Bình Công lên ngôi. Năm thứ 21, triều kiến Tấn Bình Công. Năm thứ 22, Khổng Khâu chào đời. Năm thứ 25, Thôi Trữ nước Tề giết vua mình là Trang Công, lập em Trang Công là Cảnh Công. Năm thứ 29, Diên Lăng Quý Tử nước Ngô đi sứ tới Lỗ, hỏi về âm nhạc nhà Chu, hiểu hết ý nghĩa bên trong, người Lỗ kính trọng ông ta. Năm thứ 31, tháng 6, Tương Công chết. Tháng 9 năm ấy, thái tử chết. Người Lỗ lập con của Tề Quy là Trù làm vua, đó là Chiêu Công. Chiêu Công lúc đó 19 tuổi, vẫn còn có suy nghĩ của trẻ con. Mục Thúc không muốn lập, nói: - Thái tử chết, nếu còn có em cùng mẹ thì có thể lập, nếu không còn thì lập con trưởng trong các con khác mẹ. Nếu cùng tuổi thì lựa chọn theo tài năng, cùng tài năng thì bói rùa. Nay Trù không phải dòng đích, vả lại lúc ở tang trong lòng không đau buồn, trái lại có vẻ mừng rỡ, nếu quả thực lập lên, nhất định sẽ là nỗi lo của họ Quý. Quý Vũ Tử không nghe, rút cuộc lập Trù. Đến khi chôn cất, Chiêu Công ba lần thay đổi tang phục. Người quân tử nói: “Người đó chết không yên.” Chiêu Công năm thứ 3, triều kiến Tấn, đến sông Hà, Tấn Bình Công từ chối quay về, Lỗ lấy làm hổ thẹn. Năm thứ 4, Sở Linh Vương hội chư hầu ở Thân, Chiêu Công cáo bệnh không đến. Năm thứ 7, Quý Vũ Tử chết. Năm thứ 8, Sở Linh Vương dựng xong đài Chương Hoa, gọi Chiêu Công đến. Chiêu Công đến chúc mừng, ban cho Chiêu Công vật quý; sau đó hối hận, lại lấy trộm về. Năm thứ 12, triều kiến Tấn, đến sông Hà, Tấn Bình Công từ chối quay về. Năm thứ 13, công tử nước Sở là Khí Tật giết vua mình là Linh Vương, lên thay. Năm thứ 15, triều kiến Tấn, Tấn giữ công ở lại để chôn theo Tấn Chiêu Công, Lỗ lấy làm hổ thẹn. Năm thứ 20, Tề Cảnh Công cùng Án Tử đi săn ở biên cảnh, nhân đó vào Lỗ hỏi về lễ. Năm thứ 21, triều kiến Tấn đến sông Hà, Tấn từ chối quay về. Năm thứ 25, mùa xuân, chim sáo đến làm tổ. Sư Kỉ nói: - Thời Văn, Thành có bài đồng dao nói “Chim sáo đến làm tổ, công ở Kiền Hầu. Chim sáo đến ở, công ở ngoài đồng.” Họ Quý cùng họ Hậu chọi gà, họ Quý mặc giáp cho gà, họ Hậu lấy vàng bọc móng gà. Quý Bình Tử nổi giận mà xâm phạm họ Hậu, Hậu Chiêu Bá cũng giận Bình Tử. Em của Tang Chiêu Bá là Hội đặt điều nói xấu họ Tang, trốn ở trong nhà họ Quý, Tang Chiêu Bá bắt giam người nhà họ Quý. Quý Bình Tử nổi giận, bắt giam đại thần của họ Tang. Hai họ Tang, Hậu do đó cáp cấp Chiêu Công. Tháng 9, ngày Mậu Tuất, Chiêu Công đánh họ Quý, bèn vào trong nhà họ Quý. Bình Tử leo lên đài cầu xin rằng: - Bệ hạ tin lời gièm pha mà không xét tội của thần, lại khiển trách thần, xin được dời đến bờ sông Nghi. Không đồng ý. Xin được giam ở Phí, không đồng ý. Xin được lấy năm cỗ xe để lưu vong, không đồng ný. Tử Gia Câu nói: - Bệ hạ hãy đồng ý cho ông ta. Chính sự ở trong tay họ Quý đã lâu, đồ đảng rất nhiều, bọn chúng sẽ hợp mưu. Không nghe. Họ Hậu nói: - Nhất định phải giết hắn. Bề tôi của họ Thúc Tôn là Lệ nói với đồ đảng của mình rằng: - Không có họ Quý và có họ Quý, cái gì có lợi? Đều nói: - Không có họ Quý thì không có họ Thúc Tôn. Lệ nói: - Phải, hãy cứu họ Quý! Bèn đánh bại quân đội của công. Mạnh Ý Tử nghe nói họ Thúc Tôn đánh thắng, cũng giết Hậu Chiêu Bá. Hậu Chiêu Bá là sứ giả công phái đến nhà Mạnh, cho nên họ Mạnh mới giết được. Ba nhà cùng đánh công, công bèn bỏ chạy. Ngày Kỷ Hợi, công đến Tề. Tề Cảnh Công nói: - Xin cấp 1000 xã để tiếp đãi nhà vua. Tử Gia nói: - Tề Cảnh Công không đáng tin, chẳng bằng sớm đến Tấn. Không nghe theo. Thúc Tôn đến Tề gặp công, quay về Lỗ gặp Bình Tử, Bình Tử khấu đầu. Lúc đầu muốn đón Chiêu Công, Mạnh Tôn và Quý Tôn sau lại hối hận, bèn thôi. Năm thứ 26, Tề đánh Lỗ, lấy ấp Vận mà cho Chiêu Công sống ở đấy. Mùa hạ, Tề Cảnh Công định đưa công về nước, ra lệnh không được nhận hối lộ của Lỗ. Thân Phong và Nhữ Cổ cho bề tôi của Tề là Cao Hột và Tử Tướng 5000 dữu thóc. Tử Tướng nói với Tề Hầu rằng: - Quần thần không thể thờ vua Lỗ, là vì có điều quái dị. Tống Nguyên Công vì Lỗ tới Tấn để cầu xin Tấn đưa Chiêu Công về nước, thì chết giữa đường. Thúc Tôn Chiêu Tử cầu xin đưa vua mình về nước, không bệnh mà chết. Không hiểu trời đã quên nước Lỗ hay tại vua Lỗ đắc tội với quỷ thần? Xin bệ hạ hãy đợi. Tề Cảnh Công nghe theo. Năm thứ 28, Chiêu Công tới Tấn, xin được lưu vong. Quý Bình Tử hối lộ lục khanh của Tấn, lục khanh nhận của cải của họ Quý, can vua Tấn, vua Tấn bèn thôi, cho Chiêu Công sống ở Kiền Hầu. Năm thứ 29, Chiêu Công tới Vận. Tề Cảnh Công sai người ban cho Chiêu Công một bức thư, trong thư gọi Chiêu Công là “chủ quân”. Chiêu Công lấy làm sỉ nhục, giận rồi đến Kiền Hầu. Năm thứ 31, Tấn muốn đưa Chiêu Công về nước, bèn gọi Quý Bình Tử. Bình Tử mặc áo vải, đi chân đất, nhờ lục khanh tạ tội giúp mình. Lục khanh thay Bình Tử nói rằng: - Tấn mua đưa Chiêu Công về nước nhưng dân Lỗ không nghe theo. Người Tấn bèn thôi. Năm thứ 32, Chiêu Công chết ở Kiền Hầu. Người Lỗ cùng lập em Chiêu Công là Tống làm vua, đó là Định Công. Định Công lên ngôi, Triệu Giản Tử hỏi Sử Mặc rằng: - Họ Quý sẽ bị diệt vong chăng? Sử Mặc đáp rằng: - Không thể bị diệt vong. Quý Hữu có đại công với Lỗ, nhận ấp Phí làm thượng khanh, đến Văn Tử, Vũ Tử, cơ nghiệp nối đời tăng lên. Lỗ Văn Công chết, ở cửa đông bèn giết đích lập thứ, vua Lỗ từ đó mất quốc chính. Chính sự năm trong tay họ Quý, tới nay đã bốn đời rồi. Dân không biết vua, vua làm sao có được nước! Do đó làm vua phải coi trọng lễ khí và tước hiệu, không thể để người khác mượn. Định Công năm thứ 5, Quý Bình Tử chết. Dương Hổ vì tư thù mà nổi giận, bỏ tù Hoàn Tử, cùng Hoàn tử ăn thề, rồi mới thả. Năm thứ 7, Tề đánh Lỗ, chiếm Vận, Dương Hổ lấy đó làm ấp của mình mà xử lí chính sự ở đó. Năm thứ 8, Dương Hổ muốn giết hết con đích của Tam Hoàn, mà đổi lập những con thứ có quan hệ mật thiết với mình để thay những con đích; Dương Hổ định cho xe đến đón Quý Hoàn Tử rồi giết đi, Hoàn Tử dùng mưu nên thoát được. Tam Hoàn cùng đánh Dương Hổ, Dương Hổ đến sống ở Dương Quan. Năm thứ 9, Lỗ đánh Dương Hổ, Dương Hổ chạy đến Tề, rồi chạy đến họ Triệu ở Tấn. Năm thứ 10, Định Công cùng Tề Cảnh Công hội ở Giáp Cốc, Khổng Tử đi theo giúp việc. Tề muốn đánh úp vua Lỗ, Khổng Tử dựa theo lễ đi lên các bậc thềm, dẹp dâm nhạc của Tề, Tề Hầu sợ, bèn thôi, trả lại Lỗ những đất đã xâm chiếm rồi tạ tội. Năm thứ 12, sai Trọng Do phá hủy thành của Tam Hoàn, thu giữ giáp trụ, binh khí của họ. Họ Mạnh không đồng ý phá hủy thành của mình, đánh họ Mạnh, không thắng, bèn dừng. Quý Hoàn Tử nhận nhạc nữ của Tề, Khổng Tử bỏ đi. Năm thứ 15, Định Công chết, con là Tương lên ngôi, đó là Ai Công. Ai Công năm thứ 5, Tề Cảnh Công chết. Năm thứ 6, Điền Khất nước Tề giết vua mình là Nhụ Tử. Năm thứ 7, Ngô Vương Phù Sai mạnh, đánh Tề, đến Tăng, đòi Lỗ bách lao. Quý Khang Tử sai Tử Công khuyên Ngô Vương và thái tể Phỉ, lấy lễ khuất phục họ. Ngô Vương nói: - Ta là kẻ săm mình, không thể dùng lễ yêu cầu ta. Bèn thôi. Ngô giúp Trâu đánh Lỗ, đến dưới chân thành, thề rồi bỏ đi. Tề đánh Lỗ, lấy 3 ấp. Năm thứ 10, đánh biên giới phía nam của Tề. Tề đánh Lỗ. Họ Quý dùng Nhiễm Hữu có công, nghĩ đến Khổng Tử, Khổng Tử từ Vệ quay về Lỗ. Điền Thường nước Tề giết vua mình là Giản Công ở Thư Châu. Khổng Tử xin đánh Điền Thường, Ai Công không nghe. Năm thứ 15, sai Tử Phục Cảnh Bá làm sứ thần, Tử Cống làm phó sứ, đến Tề, Tề trả lại Lỗ những đất đã xâm chiếm. Điền Thường lần đầu tiên làm tướng quốc, muốn kết thân chư hầu. Năm thứ 16, Khổng Tử chết. Năm thứ 22, Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô Vương Phù Sai. Năm thứ 27, mùa xuân, Quý Khang Tử chết. Mùa hạ, Ai Công lo Tam Hoàng, muốn nhờ chư hầu uy hiếp họ, Tam Hoàn cũng lo công gây khó dễ cho mình, cho nên vua tôi có nhiều hiềm khích. Công đi chơi ở Lăng Phản, trên đường gặp Mạnh Vũ Bá, nói: - Xin hỏi ta sắp chết chưa? Đáp rằng: - Không biết. Công muốn dựa vào Việt đánh Tam Hoàn. Tháng 8, Ai Công tới nhà họ Hình. Tam Hoàn đánh công, công chạy đến Vệ, rồi bỏ tới Trâu, cuối cùng tới Việt. Người Lỗ lại đón Ai Công về, chết ở nhà họ Hữu Sơn. Con là Ninh lên ngôi, đó là Điệu Công. Thời Điệu Công, Tam Hoàn cường thịnh, còn vua Lỗ giống như tiểu hầu, địa vị thấp hơn Tam Hoàn. Năm thứ 13, Tam Tấn diệt Trí Bá, chia đất của Trí Bá rồi chiếm lấy. Năm thứ 37, Điệu Công chết, con là Gia lên ngôi, đó là Nguyên Công. Nguyên Công năm thứ 21 chết, con là Hiển lên ngôi, đó là Mục Công. Mục Công năm thứ 33 chết, con là Phấn lên ngôi, đó là Cung Công. Cung Công năm thứ 22 chết, con là Truân lên ngôi, đó là Khang Công. Khang Công năm thứ 9 chết, con là Yển lên ngôi, đó là Cảnh Công. Cảnh Công năm thứ 29 chết, con là Thúc lên ngôi, đó là Bình Công. Lúc đó sáu nước đều xưng vương. Bình Công năm thứ 12, Tần Huệ Vương chết. Năm thứ 20, Bình Công chết, con là Cổ lên ngôi, đó là Văn Công. Văn Công năm đầu, Sở Hoài Vương chết ở Tần. Năm thứ 23, Văn Công chết, con là Thù lên ngôi, đó là Khoảnh Công. Khoảnh Công năm thứ 2, Tần lấy được Dĩnh của Sở, Sở Khoảnh Vương dời đô sang phía đông tới Trần. Năm thứ 19, Sở đánh Lỗ, lấy Từ Châu. Năm thứ 24, Sở Khảo Liệt Vương đánh và diệt Lỗ. Khoảng Công chạy trốn, dời tới ấp Hạ, làm thường dân, Lỗ tuyệt tự. Khoảnh Công chết ở Kha. Lỗ bắt đầu từ Chu Công đến Khoảnh Công, tổng cộng 34 đời. Thái Sử Công nói: Tôi nghe Khổng Tử nói rằng “Đạo của Lỗ suy vi lắm rồi! Ở miền sông Thù, sông Tứ người ta tranh biện không dứt.” Xem thời Khánh Phụ, Thúc Nha và Mẫn Công, đấy chẳng phải là loạn hay sao? Việc của đời Ẩn, Hoàn; Tương Trọng giết đích lập thứ; ba nhà quay mặt về phía bắc xưng thần, tự mình đánh Chiêu Công, Chiêu Công phải bỏ chạy. Họ vái nhường thì tuân theo lễ, nhưng làm việc sao lại trái với lễ vậy?
-
Thuyết Vận khí của Hải Thượng Lãn Ông xin được sơ lược trình bày qua các điểm dưới đây: – Ngũ vận lục khí được gọi tắt là vận khí, đây là một trong những học thuyết quan trọng của y học cổ truyền phương Đông, học thuyết vận khí, giải thích sự biến hoá khí hậu thiên thời của giới tự nhiên. Người xưa cho rằng, mọi sự biến hoá của khí hậu thiên thời đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vạn vật trong vũ trụ, đặc biệt là con người. Trên quan điểm chỉnh thể của y học cổ truyền, học thuyết vận khí lấy học thuyết âm dương ngũ hành làm trung tâm “thiên nhân tương ứng”, “nhân thân chi tiểu thiên địa”. Con người là vũ trụ thu nhỏ… Mọi sự biến đổi phức tạp của vũ trụ đều có thể xảy ra những biến đổi trong cơ thể con người. – Ngũ vận: là thuỷ, kim, thổ, mộc, hoả (ngũ hành) phối hợp với thiên can trong quá trình vận động để suy đoán tuế vận của mỗi năm. – Lục khí: là phong, nhiệt, hoả, thấp, táo, hàn phối hợp với địa chi để suy đoán tuế khí của mỗi năm (tính chất của khí hậu từng năm phụ thuộc vào khí của năm đó). – Vận khí: là kết hợp cả hai “ngũ vận” và “lục khí”. Học thuyết vận khí được vận dụng làm sáng tỏ mọi sự liên quan, ảnh hưởng qua lại trong giới tự nhiên cũng như trong cơ thể con người. – Học thuyết vận khí được vận dụng vào y học người xưa cho rằng: Con người luôn có sự quan hệ rất mật thiết với giới tự nhiên, mọi sự sinh hoạt của con người nhất thiết phải thích ứng với mọi biến hoá của giới tự nhiên, vì vậy các nhà Y học xưa thường lấy con người so sánh đối chiếu với giới tự nhiên để suy đoán. – Nội dung học thuyết vận khí: gồm ba vấn đề lớn luôn chuyển dịch và biến đổi: thiên (trời), địa (đất), nhân (con người). – Mục đích: nghiên cứu học thuyết vận khí (trên phương diện y học) là nắm chắc quy luật biến hoá của thời khí (khí hậu thiên thời) để suy đoán dự đoán nguyên nhân sinh bệnh của ngoại cảm (tà khí lục dâm). Vì vậy lấy biến hoá khí hậu của các tiết quý trong mỗi năm để suy đoán việc phát sinh bệnh tật trong năm đó, để tham khảo trong chẩn đoán và điều trị các bệnh trên lâm sàng. Khi nghiên cứu học thuyết vận khí cần phải nắm vững hai vấn đề. Một là nắm chắc học thuyết âm dương ngũ hành, chủ yếu là quan hệ ngũ hành sinh khắc. – Hai là nắm vững tên gọi ngũ hành can chi để vận dụng. Can chi là gọi tắt của thiên can và địa chi. Thiên can có 10 (gọi là thập can) là: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý. Địa chi có 12 (gọi là thập nhị chi) là: tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Can chi trong ngũ vận lục khí đều sử dụng tên đại diện để suy đoán. – Thuộc tính âm dương của thiên can: thiên can và địa chi đều có thuộc tính âm dương khác nhau. Giữa can và chi thì can thuộc trời (thuộc dương), chi thuộc đất (thuộc âm), trong chi cũng có chi âm chi dương khác nhau. Theo tuần tự số lẻ là dương, số chẵn là âm (dương là thái quá, âm là bất cập), ta có: (9) Nhâm (7) Canh (5) Mậu (3) Bính (1) Giáp – Dương can: – Âm can: (2) Ất (4) Đinh (6) Kỷ (8) Tân (10) Quý (11) Tuất (9) Tân (7) Ngọ (3) Dần (5) Thìn (1) Tý – Dương chi: (12) Hợi (10) Dậu (8) Mùi (4) Mão (6) Tị (2) Sửu – Âm chi: + Ngũ vận – Lục khí – Can chi – Ngũ hành – Thiên can phối hợp với ngũ vận. 5 – Mậu 4 – Đinh 3 – Bính 2 – Ất 1 – Giáp Đại vận: 6 – Kỷ 7 – Canh 8 – Tân 9 – Nhâm 10 – Quý ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Thổ Kim Thuỷ Mộc Hoả – Địa chi phối hợp với ngũ hành. Tuế hội: 3 – Dần 6 – Tị 9 – Thân 12 – Hợi 5 – Thìn 2 – Sửu 8 – Mùi 11 – Tuất 1 – Tý 10 – Dậu 7 – Ngọ 4 – Mão ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Thổ Thổ Thuỷ Kim Hoả Mộc – Địa chi phối hợp với tam âm, tam dương và lục khí, khách khí. 6 – Tị 5 – Thìn 4 – Mão 3 – Dần 2 – Sửu 1- Tý 7 – Ngọ 8 – Mùi 9 – Thân 10-Dậu 11-Tuất 12-Hợi ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Dương Thiếu Quyết Thái Thái Thiếu Âm Dương Âm Dương Âm Minh Hàn Táo Tương Phong Thấp Quân Mộc Thuỷ Kim Hoả Thổ Hoả + Ứng dụng ba phương thức trên – Ứng dụng khi suy đoán đại vận, đại vận chủ soái của một năm dùng để giải thích sự biến đổi khí hậu của cả năm và là cơ sở để suy đoán khách vận. – Ứng dụng để suy đoán tuế hội (trong 60 năm có 8 tuế hội) – Ứng dụng khi suy đoán khách khí – Phương pháp suy đoán được ứng dụng cụ thể: theo y văn y học cổ truyền Trung Quốc, phương pháp ghi năm dựa theo can chi kết hợp có vào khoảng thế kỷ thứ 2 – 3 sau công nguyên, trước thời Đông Hán chỉ được dùng để ghi ngày còn sau đời vua Quang Vũ mới được dùng để ghi ngày, tháng, năm. Phương pháp này hiện nay trong âm lịch vẫn còn dùng. Quý Nhâm Tân Canh Kỷ Mậu Đinh Bính Ất Giáp (1) Dậu Thân Mùi Ngọ Tỵ Thìn Mão Dần Sửu Tý (2) Mùi Ngọ Tỵ Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Tỵ Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Sửu Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Tỵ Thìn Mão Dần (1): Thiên can (2): Địa chi Tên mỗi năm đều có cấu tạo một thiên can, một địa chi kết hợp. Ví dụ: Giáp Tý (Giáp là thiên can, Tý là địa chi) Ất Sửu: (Ất là thiên can, Sửu là địa chi) Phương pháp này ngoài ra còn được áp dụng cho ngày, tháng, giờ. * Chuyển dịch của ngũ vận: di chuyển, vận động không ngừng (không dừng lại), ngũ vận được chia ra thành: đại vận, chủ vận, khách vận. – Đại vận: chủ về biến hoá khí hậu của cả năm. Theo thiên can chúng ta có: Giáp, Kỷ đại vận là thổ vận Ất, Canh đại vận là kim vận Bính, Tân đại vạn là thuỷ vận Đinh, Nhâm đại vận là mộc vận Mậu, Quý đại vận là hoả vận Mỗi vận chủ suốt cả năm, chu kỳ của nó là 5 năm. Theo ngũ hành tương sinh thì trong 30 năm mỗi kỷ, mỗi vận chủ 6 năm, trong 60 năm mỗi vận chủ 12 năm (theo ngũ hành, cứ mỗi hành trong vòng giáp tý (60) năm có 12 năm chủ về biến hoá khí hậu của cả năm). Đại vận của cả năm có thái quá và có bất cập. Quy luật chung: năm dương thái quá khí của năm ấy lưu hành. Năm âm bất cập thì khí tương khắc, khí của năm ấy lưu hành. – Chủ vận là chỉ sự biến đổi bình thường của các vận quý (một năm có 5 giai đoạn) trong một năm. Suy đoán chủ vận bắt đầu từ ngày tiết Đại hàn, mỗi vận quý chiếm khoảng 73 ngày lẻ 5 khắc. Theo ngũ hành tương sinh: Mộc thuộc sơ vận Hoả thuộc nhị vận Thổ thuộc tam vận Kim thuộc tứ vận Thuỷ thuộc cuối vận Khí hậu bình thường của chủ vận lấy thuộc tính ngũ hành của lục khí. Sơ vận: mộc khí chủ phong, nhị vận hoả khí chủ thử nhiệt, tam vận hoả khí chủ thấp, tứ vận kim khí chủ táo, cuối vận thuỷ khí chủ hàn (khí hậu ở các giai đoạn của mỗi năm là giống nhau). – Khách vận: chỉ sự biến đổi khí hậu khác thường trong 5 vận quý của mỗi năm. Suy đoán khách vận dựa theo năm thiên can đại vận là sơ vạn, khách vận kết hợp với 5 tiết quý và 5 bước suy đoán. Cuối vận Tứ vận Tam vận Nhị vận Sơ vận Giáp Kỷ Thổ Kim Thuỷ Mộc Hoả Thổ Hoả Mộc Thuỷ Kim Ất Canh Kim Thổ Hoả Mộc Thuỷ Bính Tân Đinh Nhâm Mộc Hoả Thổ Kim Thuỷ Mộc Thuỷ Kim Thổ Hoả Mậu Quý Tóm lại: – Đại vận là suy đoán biến hoá khí tượng của các năm, 10 năm một vòng theo thiên can (5 năm thái quá, 5 năm bất cập). – Chủ vận là chủ biến hoá khí hậu bình thường của 5 giai đoạn trong một năm. – Khách vận là suy đoán khí hậu khác thường của năm giai đoạn (tiết quý) của mỗi năm. * Chuyển dịch của lục khí: là sáu khí trong vũ bao gồm: phong, nhiệt, hoả, thấp, táo, hàn. Mỗi năm lục khí được chia làm hai loại: chủ khí và khách khí. – Chủ khí là chỉ biến đổi khí hậu bình thường – Khách khí là chỉ khí hậu biến đổi thất thường Khách chủ gia lãm (khách khí thêm chủ khí) phân tích sâu thêm sự biến hoá phức tạp của khí hậu. – Chủ khí: là khí chủ thời dùng để chỉ rõ quy luật khí hậu bình thường trong mỗi năm, có ý nghĩa giống như vận chủ tứ thời. Lục khí chủ thời cố định hay biến đổi được gọi là chủ khí. – Phương pháp suy đoán chủ khí: chủ khí chủ thời được chia làm sáu giai đoạn. Sáu giai đoạn này lại được chia làm 24 tiết tự. Bắt đầu từ ngày tiết Đại hàn thuộc sơ vận (quyết âm phong mộc) qua bốn tiết khí chuyển dịch một bước. Thứ tự của nó từ sơ khí đến cuối khí. Liên quan 6 giai đoạn 6 khí và 24 tiết khí: Cuối (lục) Ngũ Tứ Tam Nhị Sơ Lục bộ Lục khí Quyết – Âm Thiếu – Âm Thái – Dương Thiếu Dương Thái – Âm Dương minh Hàn – Thuỷ Táo – Kim Thấp – Thổ Tướng – Hoả Quân – Hoả Phong – Mộc Tiểu – tuyết Thu – phân Đại – thử Tiểu – mãn Xuân – phân Tiết tự Đại – hàn Cốc – vũ Hạ – chí Đông – chí Lập – xuân Xử – thử Sương giáng Thanh minh Đại – tuyết Vũ – thuỷ Mang chủng Lập – thu Hàn – lộ Tiểu – hàn Lập – đông Bạch – lộ Tiểu – thử Lập – hạ Kinh – trập Chủ khí nói rõ biến hoá khí hậu bình thường trong một năm, mỗi khí chủ 60 ngày và 78 khắc rưỡi, tuy nhiên cũng như ý nghĩa chủ vận tứ thời, nhưng trong thời gian chủ khí có khác nhau. Ví dụ: khí hậu bốn mùa nói chung: xuân ôn (phong), hạ nhiệt (hoả), thu lương (táo), đông hàn và hạ trưởng chủ thấp (bảng trên là lục khí: phong, thử, thấp, hoả, táo, hàn chia ra 6 bước là chuyển dịch cụ thể). – Khách khí: khách khí để giải thích khí hậu biến hoá khác thường hàng năm có thay đổi, khác với chủ khí cố định. “Khách ở lại là không bình thường” vì (khách là đi qua) nên gọi là khách khí. – Phương pháp suy đoán khách khí: khách khí chuyển dịch là do khí âm dương nhiều hay ít và thứ tự chuyển dịch là: quyết âm (âm), thiếu âm (âm), thái âm (âm), thiếu dương (dương), dương minh (dương), thái dương (dương). Mỗi năm có một khí chủ lĩnh, từng năm chuyển dịch tuần toàn không ngừng đó là khách khí chủ quản một năm. – Những năm khách khí chủ lĩnh suy đoán thế nào? Khí tự nhiên theo địa chi làm cơ sở. Năm Tý Ngọ trên thấy thiếu âm, năm Sửu Mùi trên thấy thái âm, năm Dần Thân thấy thiếu dương, năm Mão Dậu thấy dương minh, năm Thìn Tuất thấy thái dương, năm Tý Hợi thấy quyết âm. Địa chi mỗi năm phàm là trùng Tý Ngọ không chuyển đến thiên can. Tý và Ngọ khách khí đều thuộc thiếu âm tư thiên, Sửu và Mùi khách khí đều thuộc thái âm tư thiên… Mỗi tuần hoàn 6 năm 6 khí, mỗi tuần hoàn của địa chi là 12 năm (6 âm chi và 6 dương chi). Trong 60 năm chuyển dịch 5 vòng, lục khí tuần hoàn 10 vòng. Quy luật năm chi với tư thiên tại tuyền. Năm chi Tư thiên Tại tuyền Tý Ngọ Thiếu âm – Quân hoả Dương minh – Táo kim Thái dương – Hàn thuỷ Thái âm – Thấp thổ Sửu Mùi Dần Thân Thiếu dương – Tướng hoả Quyết âm – Phong mộc Mão Dậu Dương minh – Táo kim Thiếu âm – Quân hoả Thái âm – Thấp thổ Thái dương – Hàn thuỷ Thìn Tuất Tỵ Hợi Quyết âm – Phong mộc Thiếu dương – Tướng hoả + Dựa theo quy luật biến hoá, thắng phục của khách khí; khách chủ gia lâm; chủ khách thuận nghịch; thuận nghịch chủ khách với biến đổi khí hậu. Biểu hiện sự thịnh suy của vận khí được ứng dụng để suy đoán theo thập nhị quái. Tổng hợp bảng thịnh suy của vận khí tương hợp để suy đoán bệnh tật và trạng thái thiên thắng, yếu tố bản tạng (yếu tố cơ địa của từng người bệnh) trên cơ sở đó đề ra phương pháp điều trị và dự phòng (có bảng phụ lục kèm theo). + Ứng dụng bảng lục thập niên vận khí tương hợp. – Thiên văn can chi và tạng phủ. Giáp Kỷ hoá thổ ? Thiên văn ngày nay cho rằng Giáp Kỷ hoá thổ là do lực tương hỗ (lực điện trường trong vũ trụ), khi mặt trời (định tinh trên thiên không) chiếu vào sao thổ ánh sáng khúc xạ lên nền trời xuất hiện quang phổ màu kiềm, cổ nhân gọi “kiềm thiên kiến vận”. Năm mậu quý hoá hoả khi mặt trời chiếu vào sao hoả, khúc xạ có quang phổ mầu đỏ cổ nhân gọi “đan thiên kiến vận” mậu quý hoá hoả. – Khi mặt trời chiếu vào sao Thuỷ cổ nhân gọi: “huyền thiên kiến vận. Bính Tân hoá thuỷ”. – Khi mặt trời chiếu vào sao Mộc, quang phổ màu xanh cổ nhân gọi: “thanh thiên kiến vận, Đinh Nhâm hoá mộc” – Khi mặt trời chiếu vào sao Kim cổ nhân gọi: “bạch thiên kiến vận, Ất Canh hoá kim”. Trong thập Can có âm Can và dương Can (dương Can thuộc số lẻ thường thái quá, âm Can thuộc số chẵn thường bất cập). – Địa chi từng năm liên quan đến tạng phủ kinh lạc. – Như đã nói ở trên (mục địa chi phối hợp lục khí) ta có: → Tý Ngọ thuộc thiếu âm quân hoả → thuộc thái âm thấp thổ Sửu Mùi Thìn Tuất → Dần Thân thuộc thiếu dương tướng hoả → Mão Dậu thuộc dương minh táo kim → Tỵ Hợi thuộc quyết âm phong mộc Chủ khí là đại biểu ngũ tạng Khách khí là đại biểu lục kinh (tam âm tam dương). Khách khí khi thì hoạt động trên vũ trụ (thuộc tư thiên). Khi thì vận động trong khí quyển và sâu trong lòng đất gọi là tại tuyền (tuyền đài). Những năm có tương khắc, khách khí thường gia lâm vào chủ khí tác động vào chủ vận và chủ khí. Vận khí khách hành khác loại thì ít bệnh tật. Vận khí cùng hành cùng loại tai hại vô cùng. Năm Vận hoả, khí tư thiên cũng hỏa thì gọi là thiên phù. Hoả cộng hoả là lưỡng hoả làm theo thời tiết nóng gấp đôi trạng thái thiên thắng thuộc về nhiệt, rêu lưỡi hình lưỡi chất lưỡi đều biểu hiện nhiệt. Năm vận hoả, năm chi cùng là hoả (Tý Ngọ) gọi là tuế hội thời tiết nắng nóng bệnh tật hoả thịnh tăng cao, hình thể lưỡi thon gọn khô, chất lưỡi ráng đỏ rêu vàng, trạng thái thiên nhiệt, thực nhiệt. Năm vận hoả, tư thiên hoả, năm chi cũng hoả gọi là thái ất thiên phù. Tử vong rất cao, hình lưỡi thuộc cực nhiệt. Năm vận hoả tư địa (tại tuyền) hoả gọi là đồng thiên phù. Năm vận hoả năm chi của khí tư thiên là hoả gọi là đồng tuế. – Thiên văn được vận dụng trong y học. Một đêm ngày: quả đất tự quay quanh trục của mình một vòng. Một tháng: mặt trăng quay quanh quả đất một vòng theo hình số tám (bát quái). Một năm: quả đất quay xung quanh mặt trời một vòng 10 thiên can (góc trời) 12 địa chi (cành đất). – Thiên can liên quan đến tạng phủ Giáp (1) Dương mộc Đởm Kỷ (6) Âm thổ Tỳ → → Đại trường Dương kim Canh (7) Can Âm mộc Ất (2) → → Phế Âm kim Tân (8) Tiểu trường Dương hoả Bính (3) → → Đinh (4) Âm hoả Bàng quang Tâm Nhâm (9) Dương thuỷ → → Mậu (5) Dương thổ Vị Quý (10) Âm thuỷ Thận → → * Địa chi liên quan đến ngũ hành (đã giải thích rõ ở phần trên) Địa chỉ: Tý Hợi (Â – D) Thuỷ Thìn Tuất (D) Thổ Sửu Mùi (A) Thổ Dần Mão (D – Â) Mộc Tý Ngọ (Â – D) Hoả Thân Dậu (D – A) Kim Cơ chế sinh bệnh theo ngũ vận lục khí có liên quan đến trạng thái thiên thắng. Chủ yếu là khí hậu khắc cơ quan và tạng phủ. Tuỳ theo bản tạng thiên thắng mà phát ra bệnh khác nhau liên quan đến kinh mạch, lạc mạch. – Do thuộc tính khác nhau của nguyên nhân gây bệnh, và yếu tố thể chất khác nhau của mỗi người mà có sự khác nhau về chứng trạng và cơ quan phát bệnh. Việc phát bệnh phụ thuộc vào biến hoá khí hậu “ngũ vận lục khí”. Ngũ vận thái quá hay bất cập. Lục khí tư thiên hay tại tuyền mà dẫn đến bệnh tật khác nhau. Ví dụ: năm Đinh Nhâm là năm thuộc vận mộc, Đinh là vận mộc bất cập thì Nhâm là vận mộc thái quá, mộc bất cập tức là táo khí lưu hành, Mộc thái quá tức là phong khí lưu hành. Khi táo khí lưu hành: phát sinh kỳ bệnh, da xanh, đau sườn, đau bụng dưới, dễ đi lỏng, bệnh hàn nhiệt khái thấu. Trong đó xuất hiện triệu chứng của ba tạng: tỳ, can, phế tất nhiên trong trạng thái thiên thắng sẽ có biểu hiện ở lưỡi về rêu lưỡi, chất lưỡi, hình thể ở vùng giữa lưỡi, hai bên rìa lưỡi và 1/3 trước lưỡi, các chỉ tiêu lượng hoá pH, nhiệt độ lưỡi, soi mao mạch lưỡi (thiệt chẩn) sẽ bị chi phối nhất là trên cơ thể bình thường mà có trạng thái thiên thắng trùng với sự biến đổi của khí hậu và ngũ vận lục khí. Nếu như năm mộc thái quá phong khí lưu hành kỳ bệnh, ăn uống kém, không ngon miệng, gầy gò, mệt mỏi, thường đau ngực sườn, hay giận dữ, bụng chướng đầy, các triệu chứng tập trung vào tỳ, vị, can trạng thái thiên thắng sẽ biểu hiện bằng biến đổi rêu lưỡi, chất lưỡi và hình thể lưỡi theo sự phân vùng của tạng phủ trên lưỡi, cụ thể là giữa lưỡi và hai bên rìa lưỡi. Năm Tý Ngọ (địa chi) tại tuyền là thiếu âm quân hoả. Tư tiên là dương minh táo kim, khí tư thiên chủ nửa năm đầu, khí tại tuyền chủ nửa năm sau, như vậy thì việc phát bệnh trong năm cũng khác nhau. Thiếu âm quân hoả tư thiên nhiệt (dâm) thiên thắng lại gặp trạng thái thiên thắng về nhiệt lại càng nhiệt thái quá. Kỳ bệnh: trong ngực tức nóng, họng khô, hồi hộp, sườn phải đầy đau, hàn nhiệt, khái nhiệt khái thấu, nôn máu, ỉa máu, đái máu. Bệnh biểu hiện chủ yếu tâm, phế, can, các hình thể lưỡi ở trạng thái thiên thắng biểu hiện biến đổi nhiều ở đầu lưỡi và hai bên rìa lưỡi. Nếu dương minh tại tuyền táo (dâm) thiên thắng, kỳ bệnh hay nôn, miệng đắng, tâm, sườn, ngực đau, bệnh biểu hiện phế và can, biểu hiện hình thể lưỡi và các chỉ tiêu lượng hoá trong các trạng thái thiên thắng sẽ thay đổi. – Vận dụng trong dự phòng và điều trị. Biện pháp không dùng thuốc. + Châm cứu theo cấu trúc thời gian (Tý Ngọ lưu trú và linh quy bát pháp hay linh quy phi đăng) + Bấm huyệt, chích nhể theo cấu trúc thời gian – Khí công xoa bóp trong dưỡng sinh phòng bệnh – Dùng thuốc + Thu hái thuốc uống thuốc theo cấu trúc thời gian (thời dược học). + Dựa vào mối liên quan chặt chẽ giữa biến đổi khí hậu (học thuyết vận khí) với việc phát sinh phát triển và các trạng thái thiên thắng ở người khoẻ, có lợi cho biện chứng dự phòng và điều trị lâm sàng. Cụ thể là việc lập ra các phương thuốc chính xác. Ví dụ: khí phong thiên thắng thì dùng thuốc tân lương để phát tán trừ phong, khi hoả nhiệt thiên thắng thì dùng thuốc tả hoả, khi thấp thiên thắng thì dùng thuốc thông hạ nhuận táo. Hàn thiên thắng thì dùng thuốc ôn nhiệt táo hàn. Vì vậy cần phải dựa vào yếu tố bản tạng trạng thái thiên thắng ở người khoẻ bình thường cũng như mắc bệnh để có hướng dự phòng và điều trị bằng cách sử dụng phương dược để thay đổi bản tạng của người bệnh. – Hải Thượng Lãn Ông cho rằng: “tiên học Dịch hậu học Y” Dịch với Y phải hiểu đúng nghĩa là: thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự. Thượng chi thiên văn nghĩa là phải xem yếu tố bản tạng và trạng thái thiên thắng của người bệnh: thiên hàn, thiên thấp, thiên nhiệt hoặc là thiên thấp nhiệt liên quan đến vận và khí (là bản mệnh – đã nói ở trên) hạ tri địa lý nghĩa là xem xét về khí hậu về thiên thời về môi trường của địa danh mà người bệnh đang sống; trung tri nhân sự nghĩa là phải xem xét nội bộ gia đình mối quan hệ với bè bạn hoàn cảnh và điều kiện sống, nghề nghiệp, buôn bán, lỗ lãi thất thường đều ảnh hưởng đến tính chất nặng nhẹ sự thăng trầm của tất cả trạng thái bệnh lý. Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.75-92
-
Ngũ vận Lục khí ... 1. Khoa dự báo có giá trị nhất: Lâu nay, khi nói đến khoa lý số, phương thuật, dự trắc cổ đại, người ta thường chỉ hay nhắc tới "Tử vi", "Bát tự", "Tử bình", "Kỳ môn độn giáp", "Thái ất thần số", ... Thực ra, còn có một bộ môn hết sức quan trọng nằm trong Hệ thống lý luận cơ bản của Đông y, đó là "Ngũ vận Lục khí", thường hay gọi tắt là "Vận Khí học". Trong các phương pháp dự trắc cổ đại, "Vận Khí học" được giới học thuật xưa và nay công nhận là phương pháp dự báo có độ chính xác và giá trị thực tiễn cao nhất. Ngũ vận Lục khí học lấy "Thiên nhân hợp nhất" làm tư tưởng chủ đạo. Nghĩa là công nhận: "Có một số phép tắc chung, có tính phổ quát, chi phối tất cả các biến động trong vũ trụ, từ sự vận hành của thiên thể, biến động của thời tiết khí hậu, cho đến những biến đổi của sinh vật và phi sinh vật". Ngay từ khi bắt đầu hình thành, Đông y học đã được xây dựng theo mô thức "Tự nhiên - Sinh học - Xã hội". Đó không phải là mô thức "Y học sinh học" thuần túy của Tây y trong thuở sơ khai, cũng không phải là mô thức "Sinh học - Tâm lý - Xã hội" của Y học hiện đại ngày nay. Do được xây dựng trên cơ sở "Thiên nhân hợp nhất", nên trong mô thức y học của Đông y còn có thêm nhân tố sinh thái. Đông y luôn nhìn nhận cơ thể con người như một "Hệ thống mở". Con người là một thành phần trong giới tự nhiên. Con người và thiên nhiên là một thể thống nhất. Mọi hoạt động sinh mệnh của con người đều gắn liền với những biến đổi của môi trường, sinh thái chung quanh. Sức khỏe là một trạng thái cân bằng động: Cân bằng giữa nhân thể với môi trường bên ngoài và cân bằng giữa các bộ phận bên trong nhân thể. Sự vận động và biến đổi của Ngũ vận và Lục khí có ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động sinh mệnh và sự hình thành, diễn biến của bệnh tật. Do đó, trong dưỡng sinh phòng bệnh cũng như trong chữa trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc tổng quát: "Nhân thời, nhân địa, nhân nhân chế nghi" - căn cứ vào điều kiện thời tiết khí hậu trong từng thời điểm (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm cụ thể của từng người (nhân nhân) để lập ra phương án phòng trị thích hợp. Chính vì Đông y là một khoa "Y học sinh thái", do đó muốn thành thầy thuốc theo đúng nghĩa thì cần phải "Thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự". 2. Vận khí học với Đông y học: "Vận Khí" là tên gọi tắt của "Ngũ vận" và "Lục khí". Theo nghĩa rộng, đó là lý thuyết về mối quan hệ vĩ mô giữa những biến động của vũ trụ với những biến động của vạn vật. "Vạn vật" nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là "hệ sinh thái", bao gồm toàn bộ sinh vật (thực vật, đông vật, vi sinh vật) và phi sinh vật trong môi trường (ánh sáng mặt trời, ôn độ, nước, không khí, thổ nhưỡng). Theo nghĩa hẹp, Vận Khí là một bộ môn trong Đông y học chuyên tính toán, dự báo về sự biến đổi của thời tiết khí hậu hàng năm và tác động của những biến đổi đó đối với tổ chức kết cấu, chức năng sinh lý và bệnh lý của con người, để chỉ đạo dưỡng sinh, phòng bệnh và chữa bệnh có hiệu quả nhất. Vận Khí học là bộ phận không tách rời của Đông y học và từ xưa đến nay luôn được y gia các thời đại coi trọng. Chính như Hải Thượng Lãn Ông đã nhận định: "Không thông Ngũ vận Lục khí thì đọc hết các sách cũng chẳng làm được việc gì". Còn sách Nội Kinh thì có câu: "Không hiểu Lục khí gia lâm hàng năm, sự thịnh suy của tiết khí, bệnh khí hư thực, không thể coi là lương y". Giáo sư Dương Lực ở Viện nghiên cứu Trung y Bắc Kinh (Trung Quốc) đã so sánh: "Nếu nói "Hoàng Đế Nội Kinh" là chiếc vương niệm của Đông y, thì Vận Khí học là viên ngọc sáng đính trên vương niệm đó. Có điều, viên ngọc đó chỉ dành cho những người không sợ khó khăn và nguy hiểm, dám dũng cảm vươn tới những đỉnh cao của khoa học. Nói cách khác, Vận Khí học là bộ phận tinh túy, uyên thâm nhất trong Đông y học, song cũng là một lý luận rất bí áo, hết sức khó hiểu". Ngay bậc kiệt xuất như Lãn Ông khi nghiên cứu Vận Khí học cũng phải than rằng: "... khi đọc đến quyển Vận Khí, cảm thấy mờ mịt như người đi đêm, chẳng khác nào trăng dưới nước, hoa trong gương, chỉ trông thấy mà không cầm lấy được, ... khiến người trong cuộc phải thèm rỏ dãi". Sau nhiều năm khổ công nghiên cứu và vài lần "toan cất làm của riêng", cuối cùng Lãn Ông đã quyết định "tiết lộ thiên cơ" và viết cuốn Vận Khí bí điển (sẽ đăng chi tiết trong phần sau) để cho môn Vận Khí học "trở thành vật báu chung của trăm họ". 3. Ứng dụng lâm sàng: Trong quá trình chẩn đoán và điều trị trên lâm sàng, ngoài việc sử dụng tư liệu thu được qua chẩn đoán ở từng người bệnh để tiến hành biện chứng luận trị theo "Bát cương" - "Âm Dương, Biểu Lý, Hàn Nhiệt, Hư Thực", người thầy thuốc Đông y còn chú ý đến thời gian và hoàn cảnh phát bệnh, nghĩa là còn luôn luôn tính đến mối quan hệ thống nhất giữa cơ thể con người với hoàn cảnh, môi trường sinh thái chung quanh. Thí dụ, ngay cả khi chữa trị cảm mạo một chứng bệnh rất thường gặp, Đông y cũng luôn luôn căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng những biện pháp, vị thuốc chữa trị khác nhau: Mùa đông bị cảm lạnh thì sử dụng những vị thuốc cay nóng để "phát tán phong hàn" như ma hoàng, quế chi, tế tân, kinh giới, tử tô, ... Mùa hè bị cảm nóng thì sử dụng những vị thuốc cay mát để "phát tán phong nhiệt" như trúc diệp (lá tre), cát căn (rễ sắn dây), bạc hà, tang diệp (lá dâu tằm), cúc hoa, ... Một ví dụ khác: Năm 1955 khi ở Thạch Gia Trang (Trung Quốc) bùng phát dịch viêm não B, các thầy thuốc đã sử dụng bài thuốc "Thạch cao thang" chữa trị đạt kết quả tốt. Tới năm 1956 ở Bắc Kinh cũng phát sinh dịch viêm não B, người ta cũng dùng "Thạch cao thang" nhưng không kết quả. Về sau phải cải tiến, dùng các bài thuốc giải trừ thấp nhiệt và phương hương hóa thấp thì mới có kết quả tốt. Lý do: Cùng là một bệnh viêm não B nhưng bệnh dịch phát tác trong các mùa khác nhau (thời gian hoàn cảnh khác nhau). Tại Thạch Gia Trang bệnh dịch phát sinh vào giữa mùa hè, khí hậu viêm nhiệt, tính chất của bệnh thiên về "nhiệt". Còn ở Bắc Kinh phát sinh trong mùa trưởng hạ, trời mưa liên miên, tính chất của bệnh thiên về "thấp", nên phương pháp chữa trị và vị thuốc cũng phải khác đi. Đây cũng là một thí dụ hết sức tiêu biểu thể hiện tính ưu việt của phương pháp chữa bệnh theo quan điểm sinh thái "Thiên nhân hợp nhất" của Đông y học. (Lương y HƯ ĐAN.)
-
Trong sách Can Chi Thông Luận có đoạn trích về Thiên can ngũ hợp, xin chép lại. Hóa hợp thế nào thì lấy ngày can làm chủ, tháng can và giờ can kế bên ngũ hợp lại, có tháng chi cùng một ngũ hành hóa hợp mới gọi là hóa hợp. Thiên can hóa hợp gọi là tứ khí. Địa chi hóa hợp là phúc đức. 1.Giáp kỷ hợp hóa thổ : Gọi là hợp trung chính, chủ về an phận thủ thường, trọng tín nghĩa. Nếu mệnh cục không có hành thổ hợp hóa, lại mang thất sát thì bạc tình, tính nóng giận hay biện bác. Giáp kỷ trung ương hóa thổ thần Giờ gặp thìn tỵ thoát trần ai Trong cục năm tháng thế viêm địa Mới hiển công danh phú quý này Giáp kỷ can này sinh mùa xuận Bình sinh công việc gian lao có Long đong lật đật nếm đắng cay Khéo tính rồi thành ra vụng cả a. Ngày Can Giáp hợp kỷ gặp Ất mộc : Vợ tài có tổn. Đinh Hỏa: Vất vả kiếm ăn rồi thành công. Tân kim: Thanh cao quý hiển. Mậu thổ: gia đình giàu có. Quý Thủy: Bình sinh làm phúc. Canh Kim: nhà tranh vách đất. Bính Hỏa : hưởng phúc lộc tồn. b. Ngày can kỷ hợp giáp gặp Đinh hỏa: Bị người ức hiếp. Tân kim: gia đình giàu có. Canh kim: an phận nghèo hèn. Quý thủy: quan chức thêm vinh. Bính hỏa: tàng tân tất được phú quý. Trong mậu ẩn quý không đến nỗi nghèo. 2. Ất Canh hợp hóa kim Gọi là nhân nghĩa, lịch sự lễ phép trọng nhân thủ nghĩa. Nếu có thiên quan hoặc tọa ở vận tử, tuyệt, mộ vận yếu. Ngược lại hay cố chấp mà dẫn đến có thiên kiến. Ất Canh kim cục vượng ở tây Giờ gặp tòng khôi ấy nguyệt kỳ Thìn tuất sửu mùi như tương trợ Kẻ ấy danh cao có tướng quan Ất CAnh cực sợ hỏa viêm dương Trí khí tiêu ma chủ bất lương Dần ngọ gặp phải là hạ cách Nhân duyên lật đật đủ mọi đường a. Ngày can ất hợp canh Bính hỏa: vất vả. Nhâm thủy: vinh hoa. Đinh hỏa : hoa nở mùa xuân. Kỷ Thổ: Châu báu đầy nhà. Tân kim: như cỏ thu gặp sương, Mão mộc: gạo thóc đầy kho. b. Ngày can canh hợp ất gặp Tân kim: đề phòng tổn thất. Đinh hỏa: vận hãm. Quý thủy: Điền trạch thất bát. Nhâm thủy : tài lộc tăng tiến. Mậu thổ: không thành phú quý. gặp Nhâm thủy trợ lực trường thọ. 3. Bính tân hợp hóa thủy : Gọi là hợp uy nghiêm Dáng mạo uy nghiêm, là người có trí tuệ tướng mạo thông minh. Nếu mang thất sát hoặc tọa tử tuyệt, ngược lại tính ác vô tình. Mệnh nữ Bính Tân hóa thủy gặp chi xung thì tình cảm phóng túng Bính tân hóa thủy sinh mùa đông Được người trợ giúp trên lộ trình Gặp thổ quá nhiều bần lại tiện Lênh đênh thân thế kiếp trầm luân Bính tân hóa hợp thích gặp giáp Anh hùng chí khí thỏa phong trần Nếu có thấy ở năm và tháng Là kẻ trốn đời muốn nhàn thân a. Ngày can bính hợp tân gặp Mậu thổ: thành danh, ất mộc: quan tước phú quý. Quý thủy kỷ thổ: nhà cửa thanh cao. Nhâm thủy thìn thổ: có họa đại bại b. Ngày can tân hợp bính gặp Mậu thổ canh kim : Công danh phú quý 4. Đinh nhâm hợp hóa mộc : gọi là nhân thọ hợp Tâm địa nhân từ mệnh thọ. Mệnh nữ gặp mệnh cục thủy quá vượng làm hao tiết mộc thì gọi là hợp phóng đãng. Nếu tọa tử, tuyệt thì tửu sắc tán bại gia sản. Bính Đinh hóa thổ thích gặp dần Văn chương cái thế lại tiếng tăm Khúc trực lại quy nơi năm tháng Thiếu niên dễ đạt chút công danh Đinh Nhâm hóa mộc kỵ nơi kim Tiền đồ danh vọng chẳng ra gì Cuộc đời hay gặp nhiều tai nạn Anh em trục trặc chẳng thuận hòa. a. Ngày can Đinh hợp nhâm gặp Bính Hỏa : cuộc đời bình an. tân kim: phú quý song toàn. Tân thủy : sinh kế khó khăn. Ất mộc nhiều trong trụ tài lộc khó thành. Canh kim thái quá công danh mờ mịt. Thích giáp gặp thìn phúc lộc đẹp đẽ. Thích kỷ và dậu phúc lộc đẹp đẽ. b. ngày can nhâm hợp đinh gặp tân kim: ruộng vườn rộng rãi. Bính hỏa: anh hùng hào kiệt. Quý thủy: làm ăn vất vả. Kỷ thổ: chí khí hiên ngang. Mậu thổ: gặp việc lo sợ. Canh kim: việc khó thành. 5. Mậu quý hóa hợp hỏa : gọi là hợp vô tình Tướng mạo thanh tú, bạc tình bạc nghĩa. Nam thích trang trải việc thế sự. Nữ thì lấy chồng đẹp trai Mậu Quý phương nam hỏa trên cao Chói chang tỏa sáng hiển anh hào Trong cục không thủy thương năm tháng Tài cao giật giải tiếng danh truyền Mậu quý thiên nguyên chi thàng thủy Bại hoại gia phong phiền phức nhiều Hành vận lại gặp sinh thủy vượng Thương vợ khắc con khởi ba đào a. Ngày can mậu hợp quý gặp Ất mộc : cuối đời hiển đạt. Nhâm thủy: tự thân lập danh. Bính hỏa: Khó tìm phúc lộc. canh kim: dễ dàng thông thuận. Kỷ thổ: Vợ con có tổn. Tân Kim : mưu sự hơn người nhưng vụng thành. b. Ngày can quý hợp mậu gặp Bính tân : một đời đa thành đa bại. Giáp kỷ : cuộc đời hao tâm tổn sức. Đinh hỏa : thóc gạo đầy kho. Canh kim : ruộng vườn nhà cửa phong túc. Ất mộc : quan tước vinh hoa. Nhâm thủy : tài nguyên phong phú. Tân kim: tiền tài có mất. Kỷ thổ : tiền đồ long đong. Tương hợp giữa các thiên can và địa chi Tương hợp giữa 2 Can, hoặc khi 2 hay 3 Chi hợp với nhau, môn dự đoán qua tứ trụ nói đến sự liên đới của chúng như một tuần hoàn tự nhiên đại diện cho các khía cạnh của đời sống con người. Những khía cạnh đó được phân loại qua 10 thần (ten gods). Những "vị thần" này không phải Chúa, Thượng đế hoặc thần thánh nào cả, mà chỉ những đại diện cho các mặt đời sống của con người qua sự liên hệ từ Can ngày mà ra. Những điều cần nắm căn bản về sự hợp lại của Can hoặc Chi: Chỉ có 2 Can hợp với nhau hoặc hợp giữa 2 hoặc 3 Chi. Không có việc Can hợp Chi hoặc Chi hợp Can. CHI hợp mạnh hơn Can hợp. CAN hợp với nhau chỉ thành khi có chi thuộc hành mà nó hóa thành có ở địa chi. Trong tứ trụ và vận hạn, khi xảy ra vừa có Chi hợp và Can hợp, sức mạnh nghiêng về loại Chi hợp. Tam hội của Chi và Tam hợp mạnh hơn Lục hợp. Sự tương hợp giữa các chi hoặc can không phải lúc nào cũng tốt. Nếu nhật chủ không thể chuyển sức mạnh của chúng thành hiện thực thì sẽ lĩnh hậu quả tai hại, bị lạm dụng, quấy rầy không yên. Đó là nói đến thân quá nhược hoặc ngũ hành của sự hợp hóa kia có tác hại đến dụng thần. Gọi là bán tam hợp hay bán tam hội khi chỉ có 2 chi trong tam hợp hoặc tam hội được hình thành và chỉ có tác dụng khi chi thứ ba xuất hiện trong đại vận hoặc lưu niên. Khi có lực Xung xảy ra đồng thời trong tứ trụ, bán tam hợp không chế ngự được Xung hoàn toàn, trừ khi ngũ hành của sự hợp hóa là vượng khí làm cản trở lực Xung. Sự hợp hóa của thiên can và địa chi nếu không có gốc là khí vượng trong mùa sinh thì sự hợp hóa yếu kém, không thành tựu. Giải thích dễ hiểu nhất cho việc hợp hóa có gốc hay không này là thành ngữ "mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân". Có nghĩa là nhân tố quyết định cho mọi sự thành công, dù là chính hay thiên, đều nằm ở nhân nguyên là Can tàng trong Chi. 1. Tam hợp dụng ngũ hành mạnh nhất. Chỉ có 4 hành hội tụ, không có hành Thổ. Thân-Tí-Thìn, hợp hóa thành Thủy Hợi-Mão-Mùi, hợp hóa thành Mộc Dần-Ngọ-Tuất, hợp hóa thành Hỏa Tỵ-Dậu-Sửu, hợp hóa thành Kim 2. Tam hội dụng mùa mạnh nhất. Dần-Mão-Thìn, mùa Xuân Tỵ-Ngọ-Mùi, mùa Hạ Thân-Dậu-Tuất, mùa Thu Hợi-Tý-Sửu, mùa Đông 3. Lục hợp dụng sức mạnh của thiên can có thể hóa ngũ hành được hợp nhất trừ 2 chi Ngọ-Mùi Tý-Sửu > Thổ Dần-Hợi > Mộc Mão-Tuất > Hỏa Thìn-Dậu > Kim Tỵ-Thân > Thủy Ngọ-Mùi Các sự hợp và hóa tìm thấy trong tứ trụ gọi là Nội hợp. Nếu xảy ra giữa tứ trụ và đại vận, hoặc lưu niên thì xem là Ngoại hợp. Vì xảy ra ở vận hạn nên ngoại hợp không nhất thiết có tác động lên chính bản thân mà phải xem 10 thần đại diện. Đôi khi cha mẹ, vợ chồng, con cái là những đối tượng của sự tác hợp đó.Thiên can hợp hóa dụng sức mạnh của ngũ hành: Giáp-Kỷ hợp hóa Thổ Ất-Canh hợp hóa Kim Bính-Tân hợp hóa Thủy Đinh-Nhâm hợp hóa Mộc Mậu-Quý hợp hóa Hỏa Sự hợp hóa của thiên can biểu lộ một sự kết hợp nghiêng về một ngũ hành, một sự hội họp hay liên doanh khi xảy ra trong vận. Ý nghĩa của Can hợp chính là tâm tính của bản thân, như một "thiên mệnh" hoặc "nghiệp báu".>* Đinh-Nhâm hợp trung kiên, nghĩa khí.>Mỗi một loại hợp trên đều có thể hóa khí mới trong điều kiện cho phép của mùa sinh và tâm tính hợp hóa đó chỉ xảy ra khi trải qua đại vận mang hành hóa mới. Thí dụ Ất-Canh hợp hóa Kim thành công trong trụ, đến vận Canh, Tân là cao điểm để thực nghiệm lòng vị tha và trung thành. Ngược lại, đối với hôn nhân lại có thể là thời điểm gãy đổ, ly thân hoặc ly dị.Các chi hợp hóa thành công hay không cũng do mùa sinh. Thìn hợp Tỵ chỉ hóa Thủy vào mùa đông hàn khí tụ. Nếu có lục hợp này trong mùa hạ thì khi vào vận Nhâm, Quý, sự hóa hợp mới thành hình. Hỏa khí mới của Dần-Ngọ-Tuất rất yếu trong mùa đông, nhưng không phải là sự hình thành này không có ích lợi. Đến vận Bính, Đinh sẽ phát triển được sức mạnh này.Khi kết hợp thành công sẵn trong tứ trụ, hành hóa khí mới sẽ đại diện cho 10 thần (Tài, Quan, Ấn, Tỷ, Thực). Vấn đề là khía cạnh nào của đời sống được thăng hoa hay bị xâm phạm tùy vào sự vượng hay nhược hay nhật chủ.Chủ chốt của vấn đề hợp hóa còn do trụ mà Can hay Chi hợp. Nếu là trụ năm và trụ tháng thì việc xảy ra đối với gia đình, ông bà, cha mẹ, anh em ruột. Xảy ra ở trụ ngày là nói đến chồng, vợ, nhà ở và chính bản thân. Tại trụ giờ là liên hệ đến công việc, sự nghiệp và con cái.Nếu Kiêu, Ấn bị ảnh hưởng bởi sự hợp hóa, vấn đề sức khỏe của bản thân hay cha mẹ ông bà sẽ xảy ra. Tỷ hoặc Kiếp được hình thành thì vào vận hóa sẽ có nhiều cuộc hội họp và bạn bè mới. Tài vận mà gặp hóa hợp thuận lợi thì sẽ có cơ hội phát tài. Nhưng phải nghĩ rằng nếu hành hóa mới là kỵ thần phá hoại thì có nguy cơ phá sản, các dự án không thành hình hoặc tang chế trong gia đạo. Tử Vi Đẩu Số Tứ Hóa Luận Tứ Hóa Hóa là một loại hiện tượng động , Kinh Dịch nói : một động có 4 loại kết quả , đó là do năng lượng chuyển hóa , cho nên không động chẳng luận , không hỏi thì không luận . Đã hỏi thì tất Trời nhìn xuống mách cho rõ ràng còn gì không biết . Hóa Tinh tại Mệnh cung biểu tượng cho khuynh hướng Tâm Chí biến hóa , tại các cung khác biểu thị các nguyên nhân dẫn dụ bên ngoài . Hóa Lộc là nguyên nhân Dục Vọng , Hóa Kỵ là kết quả của mê chấp . Hóa Tinh Luận Pháp 1. Năm sinh có Hóa : là Tiên Thiên Mệnh với cái cuộc sống đem đến , xem sự dẫn dắt của nghiệp lực , xem thể chất khí chất mạnh yếu , thì luận Tiên Thiên cách cục cao thấp . Thuộc về phong thái trầm tĩnh . 2. Mệnh Cung có Hóa : là Hậu Thiên có do hành động của bản thân đưa đến , là do dựa vào nỗ lực của chính mình mà có được , xem nơi hành vận . Đại Hạn cung mệnh có Hóa có ý nghĩa sự tốt xấu nhập chiếu trong 10 năm rất lớn , Tiểu Hạn Tuế Vận cần xem thêm xung chiếu . Không có đủ Khoa , Lộc , Quyền thì trước hết phải dựa vào nỗ lực hậu thiên của mình cũng sự trợ giúp của người khác . 3. Tuế Hạn có Hóa thì lực biến hóa của cung đó rất mạnh , nên xem lưu niên có lực hay không có lực . Cùng xem Lưu Nguyệt , Lưu Nhật , Lưu Thời tất cả mà đoán định sự biến hóa . 4. Hóa Vào Nơi Trọng Yếu Xưng Là Hóa Nhập . Lộc chủ bị lừa tiền , Quyền chủ có thực quyền , Khoa chủ có quý nhân xuất hiện , Kỵ chủ giữ tiền . Cung nào có Hóa Nhập luận trong ngoài mọi sự liên quan để luận đoán tốt xấu , đó là sự minh bạch rõ ràng của bộ môn Tử Vi . 5. Cách Xem Hóa Tinh : Hóa vào Cung Phụ Mẫu tất ứng vào cha mẹ trưởng bối , Hóa vào Huynh tức ứng vào đồng lứa hoặc anh , Hóa vào Phu Thê khả năng là người phối ngẫu hoặc khác phái , Hóa nhập Tử Tức tất là liên quan đến trẻ trong nhà ……. 6. Đại Hạn Hóa Là Chủ : Bản Mệnh Hóa là giúp cho . Như đại Quyền gặp Bản Kỵ thì hóa quyền tất khắc được tất kháng cự được Kỵ , Đại Kỵ gặp bản quyền tất Quyền lhoong sợ Hóa Kỵ chỉ tăng phiền não không đu thành tai họa . 7. Xem Lưu Niên thì lấy năm làm chủ , Đại hạn thành ra khách , bản mệnh thành ra tham khảo . 8. Tại năm Canh luận Khoa Kỵ chỉ có luận cách Thiên Phủ , Hóa Khoa , Thiên Tướng , Hóa Kỵ . Tuy nhiên trong thực tế có lúc xuất hiện tượng Thiên Đồng với Thái Âm cùng Hóa Khoa , Thái Âm và Thiên Đồng với Hóa Kỵ . Rất nhiều người nói khẳng định đó là mâu thuẫn , thực tế không hẳn như thế . Cốt yếu phải xem Dương , Vũ , Phủ , Tướng , Âm ,Đồng mà luận , xem xem tác dụng của các sao này ra sao , mọi sự tốt xấu yếu mạnh đều từ Đồng , Âm hai sao này . Mọi thứ khác đều không trở ngại . Phép Xem Tứ Hóa 1. Luận Hóa Lộc : Trong Dịch Số Tiên Thiên là 4, 9 , ngũ hành thuộc Kim , chỗ tại Tây , Thu , Âm thổ , phúc đức chủ tốt , là bận rộn , thu hoạch , đắc lợi , tài lộc , lộc ăn , thông minh tài nghệ , nguyên gốc là tốt . Do duyên khởi là đại biểu cho tiền tài , trong lộc chứa tài , Lộc tùy Kỵ tẩu . Tuy nhiên nếu lúc nào cũng khẳng định Hóa Lộc là tốt thì cũng không hẳn , nó còn tùy theo sự vượng hàm khi nhập bản cung , động cung mới nói rõ được , tốt nhất là tùy thời sử dụng . 2. Luận Hóa Quyền : Dịch Số tiên thiên là 2, 7 , ngũ hành thuộc hỏa , vị tại nam , hạ , viêm tính , thế lực , không phục tùng , nắm quyền trong tay , có tài hoa tất thành tựu , hay tham gia vào các việc , ưa dùng sức lực để tranh giành , thích ở chỗ cao , cố chấp , khoe khoang , tự đánh bóng , hay bị sự tổn thương bên ngoài đưa đến , bị bỏng , sinh sát đại quyền , Hóa Quyền miếu hãm sinh ra tác dụng khác nhau , cho nên tốt xấu theo đó mà phán đoán . 3. Luận Hóa Khoa : Tiên Thiên Dịch Số là 3, 8 , ngũ hành thuộc mộc , vị tại đông , xuân , dương mộc , là sự học vấn sau này , là do mình học tập mà tạo thành , tiền bạc thì ít , nên phù hợp với những người làm kế hoạch , bút mực , danh tiếng , tốt cho văn thư tin tức . Một Hóa Khoa với Hóa Kỵ vì là Thủy sinh Mộc , năm 35 tuổi có người trên giúp cho , về sau nên giúp cho người khác nếu không sẽ giảm phúc đức , chủ sự tương trợ người khác . 4. Luận Hóa Kỵ : Dịch số Tiên Thiên là 1, 6 , ngũ hành thuộc thủy , vị tại bắc , mùa đông , dương thủy , năm sinh Kỵ là nghiệp lực , mệnh cung có Kỵ là tự đi tìm kiếm , tuế hạn có kỵ là phải vận động . Kỵ đúng là sự cảnh cáo , là biến động bất an , chuyển công việc , muốn không được , tự ty , lục thân hình khắc , quan phi , không thuận , thiếu thốn , không lộc , tử vong . Chắc chắn là không bao giờ thừa ăn . Tiền tài thất thường . Hóa Kỵ cũng không nhất định là không tốt , mà còn phải xem nó ở vào cung nào cũng sao nào đất nào ngũ hành ra sao hoặc miếu hãm rồi mới tốt xấu vậy . TỨ HÓA LỘC –QUYỀN – KHOA – KỴ Định nghĩa chữ HÓA Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ HÓA ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên Tứ hóa không thể xem là một tinh diệu và tứ hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ, Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, làm Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh. Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc. Luận về Hóa Lộc Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở. Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn. Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài hoa. Luận về Hóa Quyền Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng. Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao. Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động. Luận về Hóa khoa Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm cơ không gian trá. Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phá, nhưng được kính nể. Luận về sao Hóa kị Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo. Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản. Tác động của Tứ Hóa Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định. Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa. Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít. Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc. Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị. Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt. Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng. Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét. Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác. Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng. Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc. Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.
-
Tương tác cảm ứng làm xu thế vận động của vật chất tự thay đổi theo một chiều hướng khác (F --- > F’), hoàn toàn không có sự truyền năng lượng trong quá trình cảm ứng. Đó là lý do lực cảm ứng điện từ luôn vuông góc với phương chuyển động của điện tích. Do không có quá trình truyền năng lượng nên tốc độ truyền tương tác cảm ứng không bị cái gì giới hạn nên nó là vô cùng. Nói cách khác, tương tác cảm ứng là ngay lập tức trong toàn Vũ trụ. Đó là bản chất của cái mà các nhà khoa học gọi một cách mơ hồ (vì không hiểu được bản chất, tuy thấy được hiện tượng) là “rối lượng tử” hay “vướng lượng tử”. Tương tác cảm ứng có tốc độ vô cùng lớn cho chúng ta hiểu tại sao một niệm phát sinh lại có thể chấn động ba ngàn thế giới, các linh hồn giao tiếp như thế nào? … Lâu quá không thấy bác Vôtrước xuất hiện. "Tương tác cảm ứng là ngay lập tức trong toàn Vũ trụ"; Khi nghiên cứu đến tận cùng, thì sẽ xuất hiện ý nghĩa này, chính xác rồi nhưng bản chất nó là gì? . Đó là lý do lực cảm ứng điện từ luôn vuông góc với phương chuyển động của điện tích: cái này không rõ, bởi khi mô tả chúng tức chúng đã là "vật chất", cho nên nói rằng "không có sự truyền năng lượng" phải chăng mâu thuẫn?
-
Muốn tìm hiểu "Hóa" phải quay về bộ môn Tứ Trụ: Thiên địa nhân của tứ trụ I – Thiên địa nhân Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất. Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người. Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên. Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên. Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu. II – Thiên nguyên Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý. 1 – Ngũ hợp của thiên can Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục. Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận. 2 – Tính chất của ngũ hợp Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính. Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa. Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự. Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn. Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình. 5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp. 3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ. Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim. Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy. Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc. Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa. Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân. 4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa. a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục. b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học). Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can. 5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận a – Ngũ hợp chỉ có 2 can 1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này). 2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác. 5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn. b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật. 1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ. 2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau. Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới). Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau). III - Địa nguyên Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân. Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)). Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148). 1 - Lục hợp của địa chi Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục. Ngọ...........Mùi..................Thổ cục. Dần...........Hợi..................Mộc cục. Mão...........Tuất.................Hỏa cục. Thìn..........Dậu..................Kim cục. Tị............Thân.................Thủy cục. Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ. 2 – Tam hợp của địa chi Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục. Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục. Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục. Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục. Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị.... 3 - Các bán hợp của địa chi Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục. Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục. Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục. Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục. Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị. Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục). 4 – Tam hội của địa chi Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục. Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục. Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục. Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục. Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ). 5 - Lục xung của địa chi Tý....với..Ngọ...là tương xung Mão........Dậu................ Dần........Thân............... Tị...........Hợi................ Thìn.......Tuất............... Sửu.........Mùi................ Trong đó: Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa. Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc. Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc. Trong đó: Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi. 6 – Tương hại của địa chi a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp : Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ). Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ)..... Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần. 7 – Tương hình của địa chi Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến. Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến. Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên . Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau. 8 - Tự hình của địa chi Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “. 9 - Tứ hình của địa chi Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả. 10 - Tứ trự hình của địa chi Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi. (Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.) 11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh. a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn. Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận). Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn). b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá). c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục. 12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn. b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận. c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ. f – Địa chi tranh hợp thật : 1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục. 2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục. Giải thích : Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông. Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục). 3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155). 4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165). Giải thích : Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?) 13 - Thiên Khắc Địa Xung A - Thiên khắc địa xung Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX): 1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ. 2 – TKĐX có chi là Thổ. 3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau. TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung. B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc 1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như : Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ Bính...............Canh.............Đinh............Tân Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh. 2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như: Tý.....khắc....Ngọ Dậu..............Mão Hợi...............Tị Thân..............Dần Thìn..............Tý 3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như : Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu Tý...................Thìn. Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều.
-
Hợp hóa giữa các CAN Giáp - Kỷ hóa Thổ Ất - Canh hóa Kim Bính - Tân hóa Thủy Đinh - Nhâm hóa Mộc Mậu - Quý hóa Hỏa Những trường hợp trên có khi hóa thật, có lúc hóa giả, tùy theo Chi. Nếu Can được thông gốc thì hóa thật, ngoài ra là hóa giả. Khi 2 can được yểm trợ đúng từ gốc thì sự hợp hóa hữu tình, thuận lý; hóa giả là chỉ có bề ngoài. Khi can đại vận hợp hóa với 1 can trong tứ trụ mà hóa giả, nên cẩn thận trong quan hệ với nhau, vì hình thức bề ngoài sẽ không phản ánh đúng bản chất đối xử. Mức độ nặng nhẹ tùy theo tứ trụ, tùy theo hóa ra dụng thần hay kỵ thần, hóa ra Quan hay Tài. Cụ thể hóa hợp thật và giả như sau: 1- Giáp Kỷ Giáp phải có chi thuộc Thổ hay Hỏa. Quan hệ được sinh ra là hành Thổ, thuộc tính trung chính, tiến triển vững mạnh. Thí dụ: Giáp Tuất và Kỷ Mùi: hóa thật Nếu Giáp có chi thuộc thủy, mộc hay kim thì Giáp sẽ chú ý đến các quan hệ của cha mẹ, bạn bè hoặc sự nhọc nhằn của công việc và mối quan hệ với Kỷ sẽ lỏng lẻo gượng ép. Thí dụ: Giáp Tí với Kỷ Tỵ: hóa giả 2- Ất Canh Ất cần có gốc là Thổ hay Kim để hỗ trợ hành hóa là Kim. Nếu hóa thật, Ất sẽ hết lòng phụ trợ cho Canh, gọi là có nhân có nghĩa thật sự. Thí dụ: Ất Sửu và Canh Thìn. Hóa giả là khi Ất có chi thuộc mộc hay thủy. Thí dụ như Ất Mão và Canh Tí. Đấy là "giả nhân giả nghĩa". 3- Bính Tân Bính và Tân đều phải có cùng chi thuộc thủy, kim hoặc Thìn. Nếu hóa thật thì hành thủy sẽ được tận dụng khả quan. Đây là hóa uy lực, vào vận cần có Quan hay Sát thì quyền uy vào bậc nhất. Thí dụ Bính Thìn và Tân Hợi. Bính mà gặp chi thuộc hỏa sẽ khắc Tân kim. Tân mà không có thủy hoặc kim làm gốc thì Tân sẽ phản lại Bính. Thí dụ Bính Ngọ và Tân Sửu. Khi gặp vận này hoặc ngay chính tứ trụ thì làm việc tầm thường, kém thế, phận mỏng. 4- Đinh Nhâm Đinh và Nhâm cả hai đều phải có mộc hay thủy trợ lực cho hành hóa là Mộc. Quan hệ sẽ rất sâu đậm. Thí dụ như Đinh Hợi và Nhâm Dần. Hóa giả tạo là khi Nhâm gặp chi thủy và Đinh gặp chi hỏa. Cả hai ngược lại sẽ đấu đá nhau sau một thời gian có hấp lực ngắn ban đầu. Thí dụ Đinh Tỵ và Nhâm Tí. 5- Mậu Quý Mậu thổ và Quý thủy phải có chi mộc hoặc hỏa làm gốc. Như vậy hành hóa là Hỏa sẽ được mạnh mẽ. Thí dụ Mậu Ngọ với Quý Tỵ. Cả Mậu lẫn Quý đều gặp chi thủy thì ngược lại, hành thủy quá nhiều, quá hàn lạnh nên hành hóa là hành Hỏa sẽ sớm nguội tan. Vì thế mới nói rằng quan hệ hóa giả này là quan hệ vô tình. Qua các thí dụ và kiểm nghiệm thực tế sẽ hiểu được tính chất thật của quan hệ hợp hóa; không giống như trong sách chỉ viết ngắn gọn và không giải thích tại sao. Tóm lại, quan trọng là có Chi trợ đúng lực nên Can mới vững. Sự hợp hóa nào cũng thành, tức là có xảy ra, nhưng chỉ khác nhau ở sự phân biệt hóa hữu tình hay hóa vô tình mà thôi. Đồ hình Thiên Can phối Hà Đồ: Lý thuyết căn bản Âm và Dương là 2 cực khác nhau, như Sáng và Tối... 10 thiên can, 12 địa chi chia ra thành nửa phần đối đãi nhau. Can và Chi được giải thích là những giai đoạn sinh trưởng có trật tự cố định trong trời đất, từ lúc nẩy mầm, vươn lên, trưởng thành, thuần thục, kết hoa trái, thành quả, sinh hạt, suy tàn và chết. - Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm (+) - Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí (-) - Chi dương: Dần, Ngọ, Thìn, Tuất, Thân, Tí (+) - Chi âm: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi, Dậu, Hợi (-) Ngũ hành là 5 khí tương tác lẫn nhau làm cho sự vật ra đời: Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Ngũ hành cũng chia 2 loại Dương và Âm. - Giáp= Can Dương Mộc - Ất = Can Âm Mộc - Bính = Can Dương Hỏa - Đinh = Can Âm Hỏa - Mậu = Can Dương Thổ - Kỷ = Can Âm Thổ - Canh = Can Dương Kim - Tân = Can Âm Kim - Nhâm = Can Dương Thủy - Quý = Can Âm Thủy - Thìn, Tuất = Chi Dương Thổ - Sửu, Mùi = Chi Âm Thổ - Thân = Chi Dương Kim - Dậu = Chi Âm Kim - Tí = Chi Dương Thủy - Hợi = Chi Âm Thủy - Dần = Chi Dương Mộc - Mão = Chi Âm Mộc - Ngọ = Chi Dương Hỏa - Tỵ = Chi Âm Hỏa Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này: 1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau): - Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ) 2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên): - Giáp Ất (+ - Mộc) - Bính Đinh (+ - Hỏa) - Mậu Kỷ (+ - Thổ) - Canh Tân (+ - Kim) - Nhâm Quý (+ - Thủy) - và các Chi: Tý Hợi, Tỵ Ngọ, Dần Mão, Thân Dậu 3. Khác hành mà nghịch nhau (hành này hủy diệt hành kia): - Thủy khắc Hỏa - Hỏa # Kim - Kim # Mộc - Mộc # Thổ - Thổ # Thủy 4. Khác hành mà tương sinh (hành này sinh lợi cho hành kia): - Thủy sinh cho Mộc - Mộc > Hỏa - Hỏa > Thổ - Thổ > Kim - Kim > Thủy 5. Khác hành mà đồng cực thì càng sinh hoặc khắc mạnh hơn! Nếu là tương sinh thì hành đi sinh lợi sẽ bị hao tổn khí lực, hành được sinh sẽ vững mạnh. Nếu là tương khắc thì hành đi khắc cũng hao mòn rất nhiều và hành bị khắc đã yếu lại còn yếu hơn, mau chóng lụi tàn! 6. Khác hành mà khác cực: Tốt hay Xấu thì tùy theo tính âm dương của 2 đối tượng. - Nếu chủ thể là dương mà bị thể là âm thì sự sinh hay khắc bình thường, thuận lý âm dương. - Nếu chủ thể là âm, bị thể là dương thì sinh/khắc yếu đuối. Đôi khi chủ thể âm trường hợp này còn đau đầu xứt trán là khác nếu không có cứu giúp! Các thí dụ thì phải tìm trong các bảng Can/Chi hợp/xung/hình/hại Chủ yếu biết đó là những trường hợp cần chú ý nhất khi chọn dụng thần sau này. Trong tử bình có nhiều từ ngữ riêng, thí dụ như "chế"; "hóa"..., nhưng đơn giản để hiểu là như Hỏa mà yếu thì không chế được Kim mạnh (lửa của cây đèn cầy làm sao đúc được một thanh kiếm?); Mộc âm thì sinh thế nào cho Hỏa dương (gỗ ướt nhẹm làm sao đốt thành lửa?)... 6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau: * CAN hợp nhau: - Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ) - Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim) - Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy) - Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc) - Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa) Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng: * CHI hợp nhau - Có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn: 1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành): - Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ) - Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc) - Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa) - Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim) - Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy) - Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa. 2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành): - Tý Hợi (+ - thủy) - Dần Mão (+ - mộc) - Tỵ Ngọ (+ - hỏa) - Thân Dậu (+ - kim) - Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ) * CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành): - Giáp Mậu (+mộc +thổ) - Ất Kỷ (-mộc -thổ) - Bính Canh (+hỏa +kim) - Đinh Tân (-hỏa -kim) - Mậu Nhâm (+thổ +thủy) - Kỷ Quý (-thổ -thủy) - Canh Giáp (+kim +mộc) - Tân Ất (-kim -mộc) - Nhâm Bính (+thủy +hỏa) - Quý Đinh (-thủy -hỏa) Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này. * CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh: 1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành) - Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa) - Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa) - Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc) - Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc) 2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc): - Thìn Tuất - Sửu Mùi Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi: - Tí Mùi - Sửu Ngọ - Dần Tỵ - Mão Thìn - Thân Hợi - Dậu Tuất Trong lý luận: Thiên còn được hiểu là "Trước, Can, dương, cao, tĩnh..." và Địa là "Sau, Chi, âm, thấp, động...". So sánh giữa Thiên - Địa còn có các trạng thái: Thiên - Địa - Nhân - Nhân con... hoặc Thiên 1 - (Thiên 2 - (Địa 1 - (Địa 2 - (Nhân 1 - Nhân 2...))))
-
Trích từ bài viết của VinhL: Sau nhiều năm truy tìm nguyên lý tại sao: Giáp Kỷ hóa Thổ Ất Canh hóa Kim Bính Tân hóa Thủy Đinh Nhâm hóa Mộc Mậu Quý hóa Hỏa Nay tình cờ đã thấu hiểu được nguyên nhân, xin chia sẻ cùng các bạn. Thiên Can ngũ hợp cũng chính là Ngũ Vận Hóa Khí trong thuyết Ngũ Vận Lục Khí. Xem ra vấn đề này quá đơn giản có lẽ vì vậy mà lâu nay cứ đào bới mấy kho kinh thư cổ để truy nguyên, vẫn không thấy dấu vết!!! Những năm Giáp Kỷ thì: tháng 01 Bính Dần, 02 Đinh Mão tháng 03 Mậu Thìn, 04 Kỷ Tỵ tháng 05 Canh Ngo, 06 Tân Mùi tháng 07 Nhâm Thân, 08 Quý Dậu tháng 09 Giáp Tuất, 10 Ất Hợi tháng 11 Bính Tý, 12 Đinh Sửu trong 12 tháng có 2 can Bính, 2 can Đinh, tức 4 can Hỏa, tức 1/3 là Hỏa Can Hỏa vượng nên sinh Thổ. Vì vậy Năm Giáp Kỷ hóa Thổ Vận. Củng tương tự như vậy Những năm Ất Canh, tháng 01 là Mậu Dần, 02 Kỷ Mão, 11 Mậu Tý, 12 Kỷ Sửu 4 Can Thổ, Thổ Vượng nên sinh Kim. Vì vậy năm Ất Canh hóa Kim Những năm Bính Tân, tháng 01 là Canh Dần, 02 Tân Mão, 11 Canh Tý, 12 Tân Sửu, 4 Can Kim, Kim Vượng nên sinh Thủy. Vì vậy năm Bính Tân hóa Thủỵ Những năm Đinh Nhâm, tháng 01 là Nhâm Dần, 02 Quý Mão, 11 Nhâm Tý, Quý Sửu, 4 Can Thủy, Thủy Vượng nên sinh Mộc. Vì vậy năm Đinh Nhâm hóa Mộc. Những năm Mậu Quý, tháng 01 là Giáp Dần, 02 Ất Mão, 11 Giáp Tý, 12 Ất Sửu, 4 Can Mộc, Mộc Vượng nên sinh Hỏa. Vì vậy năm Mậu Quý hóa Hỏa. Nếu có sai sót, mong các tiền bối chỉ giáo! Người xưa đã "số hóa" học thuyết ADNH, "Thiên can phối Hà đồ" chỉ ra cái lý "Giáp hợp Kỷ hóa Thổ" trên như Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tuy nhiên bản chất chính cho tới nay, mặc dù nhìn vào thuyết Ngũ vận lục khí thực sự vẫn chưa thấy rõ về mặt bản chất của nó - chúng ta có câu hỏi: "Hóa cho cái gì hay đối tượng bị hóa" tức khách thể và chủ thể được xác định như thế nào và miền xác định của nó ra sao! Bảng vận khí theo Đông y:
-
Tôi đã kiểm tra lại Độn giáp, đây là phương pháp tính quy luật tương tác là từ Hệ mặt trời, độ chính xác ở cấp độ nhỏ nhất là "giờ" (1 ngày có 12 giờ). Từ Độn giáp, chúng ta sẽ điều chỉnh được các sai lệch của Huyền không phi tinh, chẳng hạn điểm bắt đầu phi tinh nên vận (phi tinh năm) - theo quy tắc năm Giáp Tý thượng nguyên thì nam phi tinh nghịch, Thủy tinh nhất bạch nhập trung cung, trong khi đó nữ phi cung thuận Ngũ Hoàng nhập trung cung và như vậy sẽ áp dụng "nam Khôn nữ Cấn" theo cổ thư. Qua Độn giáp, thì sẽ điều chỉnh không phải Ngũ Hoàng nhập trung cung cho nữ mạng mà vẫn là Nhất bạch thủy tinh nhập trung cung cho nữ mạng, đồng thời khi Ngũ Hoàng nhập trung cung thì áp dụng quy tắc tương hợp "nam hợp cung dương và nữ hợp cung âm", tùy theo cấp độ phi tinh như 20 năm, 1 năm... không có phi tinh 60 năm. Từ đó, chúng thấy khi Ngũ hoàng nhập trung cung thì "nam Khôn nữ Càn". Một điểm lưu ý mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử và độn giáp, trong thiên văn ngày Đông chí cũng là một lễ hội và phải được xác định chính xác cho từng năm để giúp cho tính toán Độn giáp, Đông y... được hiệu chỉnh, suy đoán tốt hơn. "Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm" Chúng ta chưa rõ con số này: có khả năng đã tìm ra cơ sở xây dựng nên con số này, nhưng thực sự về lý thuyết cho các nhà nghiên cứu để tìm ra nó là "rất, rất... rất khó" nhưng khi giải thích thì lại rất dễ hiểu.
-
Sử ký - Thiên quan thư Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Sách ẩn: Xét: Các ngôi sao trên vòm trời có năm cung. Cung là khoảng trời của các ngôi sao. Vị trí của các ngôi sao cũng có trật tự cao thấp như thứ bậc quan lại của con người, cho nên gọi là 'thiên quan'. Chính nghĩa: Trương Hành nói: "Các ngôi sao lấp lánh trên vòm trời, có bảy ngôi sao chuyển động, đó là mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh. [1] Mặt trời là gốc của khí dương, mặt trăng là gốc của khí âm. Ngũ tinh là gốc của ngũ hành. Các ngôi sao sắp xếp, cho nên người sinh ở đất, thần thành ở trời, sắp xếp lẫn lộn, đều có chia thành nhóm. Ứng vào khoảng đất nào thì tượng trưng cho muôn vật ở đó, với triều đình thì tượng trưng cho quan lại, với con người thì tượng trưng cho sự việc. Dựa vào ngôi sao chủ mà chia thành năm cung, là có ba mươi lăm ngôi sao chủ, một chòm sao ở cung giữa, gọi là bắc đẩu; bốn chòm sao bao quanh mỗi chòm đều có bảy ngôi sao, cộng là hai mươi tám ngôi sao; mặt trời, mặt trăng chuyển động mà tỏ rõ tốt xấu vậy." 1. Cung giữa: Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung giữa có Đại Đế, sao chủ là chòm sao bắc cực. Chỗ ấy sinh khí, là nơi có cửa Lưu Tinh." Sao thiên cực [2] Sách ẩn: Xét: Nhĩ nhã chép: "Sao bắc cực còn gọi là sao bắc thần." Xuân thu hợp thành đồ chép: "Chòm sao bắc thần có năm ngôi sao, ở giữa cung Tử Vi." Vật lí luận của Dương Tuyền chép: "Sao bắc cực ở giữa vòm trời, là nơi tận cùng phía bắc của khí dương. Tận cùng phía nam là là khí dương lớn nhất, tận cùng phía bắc là khí âm lớn nhất. Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh chuyển động đến chỗ khí âm tận cùng thì không sáng, chuyển động đến chỗ khí dương tận cùng thì chiếu sáng, cho nên đấy là nơi tận cùng của sáng-tối, nóng-lạnh vậy." là một ngôi sao sáng, là vị trí của thần Thái Nhất; Sách ẩn: Xét: Xuân thu hợp thành đồ chép chép: "Cung Tử Vi là nhà của Đại Đế, là thần Thái Nhất." Chính nghĩa: Thái Nhất là tên khác của Thiên Đế. Lưu Bá Trang nói: "Thái Nhất là vị thần tôn quý nhất trong các vị thần trên trời." bên cạnh có ba ngôi sao tượng trưng cho tam công, Chính nghĩa: Ba ngôi sao tượng trưng cho tam công ở phía đông của chuôi chòm sao bắc đẩu, lại ở phía tây muỗm của chòm sao bắc đẩu, đều là tượng trưng cho Thái úy, Tư đồ, Tư không, tượng trưng cho sự biến chuyển của âm dương, tượng trưng cho sự việc quan trọng. Nếu chuyển động thì không tốt, đứng im thì tốt, nếu sao kim, sao hỏa phạm vào thì đều xấu. Có người nói ba ngôi sao ấy tượng trưng cho các con của thần Thái Nhất. Phía sau sao thiên cực có bốn ngôi sao xếp thành hình cái móc, trong đó có một ngôi sao lớn sau cùng tượng trưng cho Chính phi. Sách ẩn: Xét: Viên thần khế chép: "Ngang với chòm sao thần cực [chòm sao bắc đẩu] là bốn ngôi sao theo sau tượng trưng cho Hậu phi, có ngôi sao chiếu sáng tượng trưng cho Thái phi." Lại xét: Tinh kinh chép bốn ngôi sao xếp thành hình móc câu ở sau sao thiên cực là 'Tứ phụ'. Có sáu ngôi sao thuộc chòm sao câu trần gọi là 'Lục cung', tượng trưng cho sáu quân. So với đây không giống nhau. ba ngôi sao còn lại là tượng trưng cho bọn hậu cung. Có mười hai ngôi sao bao quanh bảo vệ tượng trưng cho bầy tôi. Các ngôi sao trên đều thuộc khoảng trời gọi là cung tía. ... [www.sidneyluo.net] ___________________ Chú giải: [1] Ngũ tinh: chỉ năm ngôi sao sáng trên bầu trời là sao hỏa, sao kim, sao mộc, sao thổ, sao thủy. [2] Sao thiên cực: là sao bắc cực. Thẳng phía trước miệng chòm sao Bắc đẩu có ba ngôi sao xếp thành hình thon dài ở đầu bắc, lúc rõ lúc không, gọi là chòm sao Âm đức, Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Chòm sao Âm đức tượng trưng cho rường mối của thiên hạ." Tống Quân cho rằng là tỏ rõ cái đức của mình là đạo thường. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Ba ngôi sao của chòm sao âm đức ở trong cung Tử Vi, ở phía tây cung Thượng Thư, tượng trưng cho người tỏ ra đức huệ, cứu giúp kẻ khốn khó. Nhìn không sáng là điềm tốt; thấy sáng là điềm vua mới lên ngôi." Lại chép: "Chòm sao Âm đức là tượng trưng cho người chủ trong cung. Nếu chòm sao này dao động là điềm báo có tranh giành trong cung, phi tần ganh ghét nhau." có một ngôi sao gọi là sao Thiên nhất. Chính nghĩa: Thiên nhất là một ngôi sao ở ngoài cửa Xương Hạp, tượng trưng cho thần Thiên Đế, tượng trưng cho thần chiến tranh, biết được tốt xấu của con người. Nếu sáng mà rõ thì âm dương dung hòa, vạn vật đẹp, con người tốt; nếu không, trái lại nếu một ngôi sao trong chòm sao Thái nhất chuyển động đến phía nam sao Thiên nhất, cũng tượng trưng cho thần Thiên Đế, đứng đầu sai khiến mười sáu vị thần, biết được mưa gió, nước lụt, khô hạn, binh cách, đói kém, bệnh dịch. Nếu thấy không sáng và chuyển động là điềm báo có tai họa. Tinh kinh chép: "Hai ngôi sao Thiên nhất, Thái nhất tượng trưng cho đế vương lên ngôi. Sao này thường không ẩn. Nếu ẩn là điềm báo việc phế lập không đúng với trật tự, tông miếu không được cúng tế." Phía trái cung tía có ba ngôi sao gọi là chòm sao Thiên thương, phía phải cung tía có năm ngôi sao gọi là chòm sao Thiên bì. Sách ẩn: Vi Chiêu đọc là 'phẫu'. Thi vĩ chép: "Ba sao thương, năm sao bì, phía trái phải chuôi đẩu, người cầm thương, kẻ cầm gậy." Tinh tán của họ Thạch chép: "Tám sao thương bì, phòng bị khác thường." Chính nghĩa: Bì, đọc là 'bàng chưởng phiên'. Năm ngôi sao của chòm sao Thiên bì ở phía đông bắc chòm sao Nữ sàng, tượng trưng cho quân tiên phong của thiên tử, đấy là quân sĩ của thiên tử. Nhìn nhòm sao này không sáng rõ là điềm báo trong nước có dấy binh. phía sau cung tía có sáu ngôi sao xếp ngang qua dải Ngân Hán đến chòm sao Doanh thất, gọi là chòm sao Các đạo. Sách ẩn: Xét: Lạc hiệp đồ chép: "Chòm sao Các đạo là chòm sai ở ngoài chòm sao Bắc đẩu." Họ Thạch nói: "Sáu ngôi sao của chòm sao Các đạo là cỗ xe mà thần trên trời cưỡi." Chính nghĩa: Dải Ngân Hán là sông trời. Chòm sao Doanh thất có bảy ngôi sao, tượng trưng cho cung của thiên tử, cũng gọi là cung đen, cũng gọi là miếu sạch, trượng trưng cho thiên tử, cũng là cung riêng nhà khác của thiên tử. Sáu ngôi sao của chòm sao Các đạo ở phía bắc chòm sao Vương lương, như con đường vắt ngang qua gác, là con đường để thiên tử muốn đi chơi đến cung riêng. Nếu thấy một ngôi sao trong chòm sao này không sáng rõ là điềm báo đường đi không thông, nếu chòm sao này dao động là điềm báo trong cung có kẻ dấy binh. Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, Sách ẩn: Xét: Xuân thu vận đẩu xu chép: "Chòm sao Bắc đẩu, một là sao Thiên xu, hai là sao Tuyền, ba là sao Ki, bốn là sao Quyền, năm là sao Hành, sáu là sao Khai dương, bảy là sao Dao quang. Từ ngôi sao thứ nhất đến ngôi sao thứ bốn là cái miệng, từ ngôi sao thứ năm đến ngôi sao thứ bảy là cái chuôi, hợp lại thành hình cái muôi." Văn diệu câu chép: "Chòm sao Bắc đẩu tượng trưng cho miệng lưỡi của trời, sao Hành thuộc cái chuôi, miệng là sao Tuyền, sao Ki." Trường lịch của Từ Chỉnh chép: "Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, mỗi ngôi sao cách nhau chín ngàn dặm. Có hai ngôi sao mờ không rõ, cách nhau tám ngàn dặm." vốn gọi là "Tuyền, Ki, Ngọc hành để sửa 'thất chính'." Sách ẩn: Thượng thư chép: "Tuyền, Ki". Mã Dung nói: "Tuyền là một thứ ngọc đẹp. Ki là máy 'hồn thiên nghi', xoay tròn được, cho nên gọi là 'Ki'. Hành là cái ống ngang trong đó. Lấy ngọc Tuyền làm máy, lấy ngọc làm ống ngang, có lẽ là coi trọng các ngôi sao trên vòm trời." Trịnh Huyền chú Đại truyện chép: "Cái ống ngang trong máy là trục xoay, khung ngoài là đòn ngọc." Thượng thư đại truyện chép: "Thất chính là nói về mùa xuân, mùa thu, mùa đông, mùa hạ, các ngôi sao trên vòm trời, đất đai, đạo làm người, cho nên phải sửa. Đạo làm người ngay thì muôn vật hòa thuận." Mã Dung chú giải Thượng thư chép: "Chòm sao Bắc đẩu có bảy ngôi sao, đều tượng trưng cho các sự việc. Sao thứ nhất là chủ mặt trời; sao thứ hai là chủ mặt trăng; sao thứ ba là chủ sao Hỏa, gọi là sao Huỳnh hoặc; sao thứ tư là chủ sao Sát thổ, gọi là sao Trấn; sao thứ năm là chủ sao Phạt thủy, gọi là sao Thần; sao thứ sáu chủ sao Nguy mộc, gọi là sao Tuế; sao thứ bảy chủ sao Phiếu kim, gọi là sao Thái bạch. Mặt trời, Mặt trăng, ngũ tinh đều khác, cho nên gọi là 'thất chính'." Phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu nối liền với chòm sao Long giác, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Chòm sao Long giác là chòm sao ở phía đông của vòm trời." Chính nghĩa: Xét: Chòm sao Long giác là tượng trưng cho ải trời, giữa đó là cửa trời, trong là sân trời, là chỗ mà đường hoàng đạo chạy qua, bảy ngôi sao chuyển qua. Phía trái của chòm sao Long giác là sao Lí, tượng trưng cho hình pháp, phía nam là đường thái dương; phía phải của chòm sao Long giác là sao Tướng, tượng trưng cho quân tướng. Phía bắc là đường thái âm. Đấy là ba ba cửa trời, cho nên chòm sao này sáng thì thiên hạ yên ổn, người hiền giữ ngôi vị; nếu không thì trái lại. ngôi sao Hành ở giữa chòm sao Nam đẩu, phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu dựa vào phần đầu của chòm sao Sâm. Chính nghĩa: Nói là chòm sao Bắc đẩu ở phía bắc, phần chuôi muôi ngang với phần miệng muôi dựa vào phần đầu của chòm sao Sâm; phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đầu nối liền với chòm sao Long giác. Sáu ngôi sao của chòm sao Nam đẩu tượng trưng cho miếu trời, là là vị trí tượng trưng của quan Thừa tướng, Thái tể, chủ việc tiến cử người hiền lành, trao tước bổng, lại chủ việc binh, còn gọi là chòm sao Thiên cơ. Phía nam là hai ngôi sao tượng trưng cho cầu trời; ở giữa có một ngôi sao tượng trưng cho Thừa tướng của trời; phía bắc có hai ngôi sao tượng trưng cho phủ trời, sân trời. Chòm sao Bắc đẩu sáng rõ là điềm báo pháp lệnh ôn hòa, tước lộc được ban hành; nếu không thì trái lại. Chòm sao Sâm chủ về việc chém giết, lại chủ việc tù ngục, chủ việc hình phạt. Có ba ngôi sao trong đó bày ngang hàng là tượng trưng cho ba vị tướng quân, phía đông bắc là vai trái, chủ Tả tướng quân; phía tây bắc là vai phải, chủ Hữu tướng quân; phía đông nam là chân trái, chủ Hậu tướng quân; phía tây nam là chân phải, chủ Thiên tướng quân. Ở giữa là ba ngôi sao nhỏ tượng trưng cho việc đánh dẹp, là Đô úy của trời, chủ việc trông coi các nước Nhung-Địch, thường không sáng, nếu sáng là có rối loạn, đại thần mưu phản, dấy binh, người Di-Địch đánh nhau. Buổi chiều tối thì thấy rõ phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu, phần chuôi muôi này ứng với chỗ từ núi Hoa về phía tây nam. Buổi nửa đêm thì thấy rõ phần giữa của chòm sao Bắc đẩu, phần miệng muôi này ứng với vùng sông Hà, sông Tế của Trung Quốc. Buổi sáng sớm thì thấy rõ phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu, phần miệng muôi ứng với chỗ từ miền Hải-Đại về phía đông bắc. Chòm sao Bắc đẩu tượng trưng cho cái xe của Thiên Đế, chuyển động ở chính giữa, coi xét bốn phương, phân biệt âm dương, tỏ rõ bốn mùa, cân bằng ngũ hành, thay đổi tiết độ, sắp đặt phép tắc, đều dựa vào chòm sao Bắc đẩu. Phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu đội liền sáu ngôi sao, gọi là chòm sao Văn Xương, Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Chòm sao Văn Xương tượng trưng cho phủ trời." Hiếu kinh viên thần khế chép: "Văn là chỉ các ngôi sao xếp bày, xương là chỉ rường mối của trời." một là sao Thượng tướng, hai là sao Thứ tướng, ba là sao Qúy tướng, bốn là sao Tư mệnh, năm là sao Tư trung, sáu là sao Tư lộc. Sách ẩn: Xuân thu nguyên mệnh bao chép: "Sao Thượng tướng chủ việc oai võ, sao Thứ tướng chủ việc tả hữu, sao Quý tướng chủ việc văn giáo, sao Tư lộc chủ việc thưởng công đãi sĩ, sao Tư mệnh chủ việc già trẻ, sao Tư tai chủ việc tai họa." Ở trong phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu có chòm sao Quý Nhân Lao. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Truyện chép: 'Chòm sao Thiên lí có bốn ngôi sao ở giữa phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu. Chòm sao Quý Nhân Lao còn có tên là chòm sao Thiên lí'." Chính nghĩa: Nếu thấy rõ trong phần miệng muôi có chòm sao ấy là điềm báo người tôn quý bị bắt giam. Ở dưới phần miệng muôi của chòm sao Bắc đẩu có sáu ngôi sao, xếp thành mỗi cặp đối nhau, gọi là chòm sao Tam năng. Sách ẩn: Dưới phần miệng muôi có sáu ngôi sao, mỗi cặp đối nhau, gọi là chòm sao Tam thai. Xét: Hán thư Đông Phương Sóc truyện chép: "Xin kể sáu ngôi sao của chòm sao Thái giai." Mạnh Khang nói: "Thái giai là Tam thai." Ứng Thiệu dẫn Hoàng Đế Thái giai lục phù kinh chép: "Chòm sao Thái giai tượng trưng cho ba cái bậc thềm của thiên tử; bậc thềm trên, ngôi sao trên tượng trưng cho nam chủ; ngôi sao dưới tượng trưng cho nữ chủ; bậc thềm giữa, ngôi sao trên tượng trưng cho chư hầu tam công, ngôi sao dưới tượng trưng cho khanh đại phu; bậc thềm dưới, ngôi sao trên tượng trưng cho kẻ sĩ, ngôi sao dưới tượng trưng cho dân thường. Ba bậc thềm ngang bằng thì âm dương hòa hợp, mưa gió nhu thuận; nếu không cân bằng thì thóc lúa không mọc, đông tuyết hè sương, thiên hạ bạo ngược, ưa dấy binh giáp. Thêm cung điện, mở vườn tược, đấy là cái hại của bậc thềm trên." Chòm sao Tam năng sáng rõ ngang nhau thì vua tôi hòa đồng; không ngang nhau thì phản nghịch. Chòm sao Phụ sáng gần Tập giải: Mạnh Khang nói: "Tại bên cạnh ngôi sao thứ sáu của chòm sao Bắc đẩu." Chính nghĩa: Tượng trưng cho đại thần. Chòm sao này thường nhỏ mà sáng; nếu to mà sáng là điềm báo bầy tôi cướp ngôi vua; nếu nhỏ mà không sáng thì bầy tôi không được tin dùng; nếu to sáng ngang với chòm sao Bắc đẩu thì binh cách nổi lên; nếu mờ mà xa chòm sao Bắc đẩu thì bầy tôi không bị giết chết thì cũng cách chức; nếu cận thần chuyên quyền, bỏ hiền dùng nịnh thì chòm sao Phụ mọc sừng; cận thần nắm lấy ấn phù, mưu cướp xã tắc thì chòm sao Phụ mọc cánh; nếu không thì chết. thì đại thần được tin dùng; nếu chòm sao Phụ nhỏ xa thì đại thần yếu kém. Bên cạnh phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu có hai ngôi sao, một ở trong gọi là sao Mâu, còn gọi là sao Chiêu dao; Tập giải: Mạnh Khang nói: "Gần chòm sao Bắc đẩu có sao Chiêu dao, tượng trưng cho cái mâu của trời." Tấn chước chép: "Chòm sao Canh hà có ba ngôi sao tượng trưng cho cái mâu, đao kiếm của trời. Chiêu dao là một ngôi sao trong đó." Sách ẩn: Xét Thi kí lịch xu chép: "Trong chòm sao Canh hà có sao Chiêu dao, tượng trưng cho quân rợ Hồ." Tống Quân nói: "Ngôi sao Chiêu dao trong chòm sao Canh hà." Lạc chấp đồ chép: "Chòm sao Canh hà có sao Thiên mâu." một ở ngoài gọi là sao Thuẫn, còn gọi là sao Thiên phong. Tập giải: Tống Quân nói: "Ở ngoài là ở xa chòm sao Bắc đẩu, tại phía nam sao Chiêu dao, còn có tên là sao Huyền qua." Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Chòm sao Canh hà là chòm sao Kích kiếm, nếu sao này không rõ là điềm báo tiến thoái không ngừng, dấy lên binh đao, sẽ gây hại ở biên cảnh." Có mười lăm ngôi sao xếp thành hình cái vòng nối liền phần chuôi muôi của chòm sao Bắc đẩu, gọi là chòm sao Tiện Nhân Lao. Sách ẩn: Xét: Thi kí lịch xu chép: "Chòm sao Tiện Nhân Lao còn gọi là chòm sao Thiên ngục." Lạc chấp đồ chép: "Chòm sao Liên doanh là chòm sao Tiện Nhân Lao." Tống Quân cho rằng chòm sao Liên doanh là chòm sao Quán tác. Chính nghĩa: Chòm sao Quán tác có chín ngôi sao ở trước chòm sao Thất công, còn gọi là chòm sao Liên tác, chủ việc pháp luật, ngăn cường bạo, là chòm sao Tiện Nhân Lao. Cửa nhà ngục có một chòm sao làm cửa, tượng trưng cho muốn mở. Chòm sao này hiện rõ là điềm báo bị bắt giam; không hiện rõ là điềm báo hình phạt giảm bớt. Dao động là điềm báo dùng rìu búa, rỗng bên trong là điềm báo đổi niên hiệu; cửa mở là có tha tội. Nếu người chủ lo lắng thì thấy cửa mở, có ngôi sao sáng ở trong là có kẻ bị chết trong ngục. Thường xem vào nửa đêm, nếu một ngôi sao không hiện rõ là có việc vui nhỏ; hai ngôi sao không hiện rõ là có ban thưởng; ba ngôi sao không rõ là người chủ ra lệnh tha tội. Trong chòm sao này có nhiều ngôi sao sáng thì có nhiều người bị bắt giam, rỗng thì được thả ra. Nếu sao Thiên nhất, sao Thiên thương, sao Thiên bì, sao Mâu, sao Thuẫn dao động, tia sáng lớn thì có kẻ dấy binh. Thái sử công nói: Từ lúc mới có người dân đến nay, có vị vua nào không từng xem qua Mặt trời, Mặt trăng, các ngôi sao? Đến thời Ngũ gia, tam đại nối tiếp mà làm rõ hơn. Chính nghĩa: Xét: Ngũ gia là chỉ Hoàng Đế, Cao Dương, Cao Tân, Đường Nhiêu, Ngu Thuấn. Tam đại là chỉ Hạ, Thương, Chu. Ý nói từ lúc có dân đến nay, ai từng không xem qua Mặt trời, Mặt trăng, các ngôi sao? Cho đến đời Ngũ đế, Tam đại thì cũng được nối tiếp mà làm rõ âm dương lịch trời. Trong là dân đội mũ, ngoài là dân Di-Địch, chia vùng đất giữa thành mười hai châu, trên thì xem sao ở vòm trời, dưới thì nhìn vật ở mặt đất. Trời thì có trăng sao, đất thì có ngũ hành. Trên trời có ngũ tinh thì dưới đất có ngũ hành. Trên trời có ngôi sao thì dưới đất có bờ cõi. Tam quang [1] là gốc của âm dương, khí gốc từ đất, cho nên thánh nhân sắp đặt được nó. Từ thời U-Lệ về trước đã xưa rồi. Người các nước xem cái biến hóa của trời đều khác nhau, các nhà đoán vật lạ để hợp với sự việc, sách vở bản vẽ thời ấy đoán tốt xấu không có phép tắc gì. Cho nên Khổng Tử soạn lục kinh, chép việc lạ mà không bàn đến. Còn như chuyện mệnh trời thì không kể tới; nếu kể tới thì không đợi nói rõ; nếu kể cho kẻ không biết thì dẫu nói cũng không hiểu rõ. Ngày xưa có những người truyền lại số trời là: từ thời Cao Tân về trước thì có Trọng, Lê; Chính nghĩa: Tả truyện chép: "Sái Mặc nói: 'Con của họ Thiếu Hạo tên là Lê làm Hỏa chính, hiệu là Chúc Dung'. Là quan coi việc về hành hỏa, biết số trời. thời Đường-Ngu thì có Hi, Hòa; Chính nghĩa: Họ Hi, họ Hòa làm quan coi xét trời đất, bốn mùa. thời nhà Hạ thì có Côn Ngô; Chính nghĩa: Côn Ngô là con của Lục Chung. Ngu Phiên nói: "Côn Ngô tên là Phàn, lập nên họ Kỉ, phong ở ấp Côn Ngô." thời Ân Thương thì có Vu Hàm; Chính nghĩa: Vu Hàm là bầy tôi giỏi của nhà Ân, vốn là người nước Ngô, mộ tại trên núi Hải Ngu huyện Thường Thục châu Tô. Con tên là Hiền cũng ở đấy. nhà Chu thì có Sử Dật, Trường Hoằng; Chính nghĩa: Sử Dật là quan Thái sử tên là Doãn Dật thời Vũ Vương nhà Chu. Trường Hoằng là quan Đại phu thời Linh Vương nhà Chu. ở nước Tống thì có Tử Vi; ở nước Trịnh thì có Bì Táoơ Chính nghĩa: Bì Táo là quan Đại phu của nước Trịnh. ở nước Tề thì có Cam Công; Tập giải: Từ Quảng nói: "Có người nói Cam Công tên là Đức, vốn là người nước Lỗ." Chính nghĩa: Thất lục chép là người nước Sở, thời Chiến quốc soạn sách Thiên văn tinh chiêm có tám quyển. ở nước Sở thì có Đường Mạt; ở nước Triệu thì có Doãn Cao; ở nước Ngụy thì có Thạch Thân. Chính nghĩa: Thất lục chép Thạch Thân là người nước Ngụy, thời Chiến quốc soạn sách Thiên văn có tám quyển. Các ngôi sao chuyển động trên vòm trời, cứ ba mươi năm lại có một biến đổi nhỏ, trăm năm lại có biến đổi vừa, năm trăm năm lại có biến đổi lớn; ba lần biến đổi lớn là một kỉ, ba kỉ là một lần lớn. Đấy là số lớn vậy. Người trị nước phải coi trọng ba lần năm lượt ấy. Sách ẩn: Ba lần năm lượt là nói ba mươi năm lại có một biến đổi nhỏ, năm trăm năm lại có biến đổi lớn. Trên dưới đều trải mấy ngàn năm, sau đó người trong thiên hạ mới sửa thêm. ... [www.sidneyluo.net] ____________________ Chú giải: [1] Tam quang: chỉ Mặt trời, Mặt trăng, ngôi sao. 2. Cung đông: Tên là cung Thương Long. Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Cung đông là chỗ của Thương Đế, có thần là con rồng." Có chòm sao Phòng, chòm sao Tâm. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: Cung Đại Thần có chòm sao Phòng, chòm sao Tâm, chòm sao Vĩ." Lí Tuần nói: "Cung Đại Thần là cung Thương Long, là cung sáng nhất." Chòm sao Tâm tượng trưng cho triều đình, Sách ẩn: Xuân thu thuyết đề từ chép: "Chòm sao Phòng, chòm sao Tâm tượng trưng cho triều đình, là chỗ Thiên Vương ban bố chính lệnh." Thượng thư vận kì viên chép: "Chòm sao Phòng ở con đường của bốn vùng ven." Tống Quân nói: "Giữa bốn ngôi sao có ba con đường, là chỗ mà Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động ra vào." có một sao lớn gọi là sao Thiên Vương, trước sau nó các sao con. Sách ẩn: Hồng phạm ngũ hành truyện chép: "Có sao lớn của chòm sao Tâm tên là sao Thiên Vương. Có sao trước nó tượng trưng cho con cả; sau nó tượng trưng cho con thứ.". Ba ngôi sao này không thường thẳng hàng, nếu thẳng là điềm báo Thiên Vương lầm kế. Chòm sao Phòng tượng trưng cho phủ trời, còn gọi là chòm sao Thiên Tứ. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Thiên Tứ là chòm sao Phòng." Thi kí lịch xu chép: "Chòm sao Phòng tượng trưng cho ngựa trời, chủ việc xe ngựa." Phía bắc của nó có ngôi sao tượng trưng cho con ngựa bên phải, gọi là sao Hữu Tham. Bên cạnh có hai ngôi sao, gọi là chòm sao Câm; Sách ẩn: Chòm sao Phòng có hai ngôi sao là sao Cầm. Nguyên mệnh bao chép: "Hai sao Câu-Câm làm bờ ngăn, chủ việc xét nét, nên phòng giữ hơn thường." Chính nghĩa: Nếu sao này sáng mà gần chòm sao Phòng là điềm báo thiên hạ cùng lòng. Nếu giữa giữa sao Câu-Câm, chòm sao Phòng-Tâm có ngôi sao lạ xuất hiện và chuyển ra là điềm báo có động đất. phía bắc có một sao gọi là sao Hạt. Chính nghĩa: Thuyết văn chép: "Hạt là cái chốt trục xe. Hai đầu xuyên vào nhau." Tinh kinh chép: "Có một ngôi sao tượng trưng cho cái chốt trục, ở phía đông bắc chòm sao Phòng, chủ việc then khóa." Nếu không ở vị trí vốn có của nó là điềm bào cầu bến chẳng thông, cửa cung không được khóa; nếu đúng vị trí thì ngược lại. Phía đông bắc có mười hai ngôi sao xếp thành hình cong gọi là chòm sao Kì, Chính nghĩa: Có hai đầu tượng trưng cho cái cờ, đầu bên trái có chín ngôi sao ở phía trái chòm sao Hà Cổ; đầu bên phải có chín ngôi sao ở phía phải chòm sao Hà Cổ. Đều tượng trưng cho cờ trống của nhà trời, cho nên lấy làm lá cờ. Nếu chòm sao này sáng sủa rõ ràng thì việc quân được lành; nếu không thì việc quân gặp xấu; nếu không ở đúng vị trí vốn có của nó thì là điềm báo cầu bến không thông; nếu nó dao động là điềm báo có kẻ dấy binh. trong đó có bốn ngôi sao tượng trưng cho chợ trời, gọi là chòm sao Thiên Thị, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Thị có hai mươi ba ngôi sao, tại phía đông bắc chòm sao Phòng-Tâm, tượng trưng cho chỗ tụ hội trao đổi chợ búa của nhà nước, còn tượng trưng cho lá cờ của nhà trời. Nếu chòm sao này sáng thì điềm báo quan coi chợ nghiêm ngặt, nhà buôn không được lời; nếu hốt nhiên không sáng là điềm báo ngược lại. Nếu các ngôi sao trong đó tụ hội nhiều thì điềm báo năm đó được mùa, nếu tụ hội ít thì năm đó đói kém. Nếu có sao Huỳnh Hoặc phạm vào là điềm báo có việc giết bầy tôi bất trung. Nếu sao chổi xuất hiện xẹt qua chòm sao đó thì nên dời chợ chuyển đô. Nếu có sao lạ xuất hiện trong đó là điềm báo có kẻ dấy binh lớn; sao lạ chuyển ra ngoài là điềm báo có tang lớn. trong đó có sáu ngôi sao tượng trưng cho lầu chợ, gọi là chòm sao Thị Lâu. Nếu các ngôi sao trong chòm sao này tụ nhiều thì điềm báo có đủ của cải, nếu rỗng thì điềm báo hao tổn của cải. Có các ngôi phía nam chòm sao Phòng tượng trưng cho quan coi quân kị, gọi là chòm sao Kị Quan. Có chòm sao Giác, bên trái là sao Lí, bên phải là sao Tướng. Sách ẩn: Sao Lí tượng trưng cho quan coi việc hình pháp. Họ Thạch nói: "Ngôi sao mé trái chòm sao Giác tượng trưng cho ruộng trời. Ngôi sao mé phải chòm sao Giác tượng trưng cho cửa trời."[/color=red] Có ngôi sao Đại Giác tượng trưng cho sân đình của Thiên Vương. Sách ẩn: Xét: Viên thần khế chép: "Sao Đại Giác là là chỗ ngồi chờ." Tống Quân nói: "Là ghế ngồi của Thiên Đế." Chính nghĩa: Sao Đại Giác ở giữa chòm sao Nhiếp Đề kẹp hai bên, tượng trưng cho bậc đế vương. Nếu sáng rõ màu vàng là điềm báo thiên hạ hòa đồng. Hai bên cạnh nó đều có ba ngôi sao xếp thành hình cong như chân vạc gọi là chòm sao Nhiếp Đề. Chính nghĩa: Chòm sao Nhiếp Đề có ngôi sao kề sao Đại Giác, tượng trưng cho đại thần, thường xếp thẳng phía chuôi chòm sao Bắc Đẩu, tượng trưng cho tám tiết, xét vạn sự. Nếu màu sắc dịu dịu không sáng mà lớn là điềm báo nhà vua có lo lắng, có sao lạ xuất hiện trong đó là điềm báo có thánh nhân nhận lấy chính lệnh. Chòm sao Nhiếp Đề thẳng hướng chỉ của phần chuôi chòm sao Bắc Đẩu để tượng trưng cho mùa tiết, cho nên gọi là Nhiếp Đề Cách. Chòm sao Cang tượng trưng cho miếu ngoài, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Cang có bốn ngôi sao tượng trưng cho sân miếu." Chính nghĩa: Là chỗ vâng nghe chính lệnh. Nếu sáng rõ là điềm báo bầy tôi trung thành, thiên hạ yên ổn; nếu không là trái lại. chủ về bệnh tật. Hai đầu nam bắc nó có hai ngôi sao lớn, gọi là chòm sao Nam Môn. Chính nghĩa: Chòm sao Nam Môn có hai ngôi sao ở phía nam chòm sao Khố Lâu, tượng trưng cho cửa ngoài của nhà trời. Nếu sáng thì điềm báo rợ Đê-Khương mạnh, nếu mờ thì người Di làm phản; nếu có ngôi sao lạ xuất hiện ở giữa thì quân địch ở ngoài sắp kéo đến. Chòm sao Đê tượng trưng cho gốc của trời, Sách ẩn: Tôn Viêm cho rằng các ngôi sao phía dưới của chòm sao Giác-Cang họp thành chòm sao Đê, như là cái cây có gốc. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Chòm sao Đê có bốn ngôi sao tượng trưng cho điện chính, là chỗ mà bầy tôi nghe chầu. Nếu chòm sao này sáng rõ thì bầy tôi vâng lệnh." Hợp thành đồ chép: "Chòm sao Đê tượng trưng cho chỗ nghỉ." chủ về bệnh dịch. Sách ẩn: Tháng ba cây du, cây giáp rụng lá, cho nên chủ về bệnh dịch. Nhưng lúc ấy mọi vật dẫu sinh sôi nhưng Mặt trời mọc ở khoảng chòm sao Khuê, gây khí độc, cho nên có bệnh dịch." Chính nghĩa: Ba chòm sao Đê-Phòng-Tâm thuộc hành hỏa, theo địa chi thuộc cung mão, tại phân dã của nước Tống. Chòm sao Vĩ có chín ngôi sao tượng trưng cho chín người con, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Vĩ có chín ngôi sao, chòm sao Cơ có bốn ngôi sao, là sân bãi của hậu cung." Chính nghĩa: Chòm sao Vĩ là bến chẻ củi, theo địa chi thuộc cung dần, tại phân dã của nước Yên. Chín ngôi sao của chòm sao Vĩ tượng trưng cho hậu cung, cũng là chín người con. Một ngôi sao gần chòm sao Tâm là Hậu, ba ngôi sau là Phi, ba ngôi sao nữa là Tần, hai ngôi cuối là Thiếp. Nếu sáng đều là điềm báo lớn bé hòa thuận, hậu cung yên ổn mà có nhiều con; nếu không thì trái lại; nếu sao Kim, sao Hỏa phạm vào là điềm báo hậu cung có dấy binh; nếu sáng tối khác thường là vợ lớn-bé gây loạn, kẻ hầu gái lộn xộn. tượng trưng cho vua-tôi; nếu các ngôi sao cách xa là điềm báo bất hòa. Chòm sao Cơ tượng trưng cho người khách ngạo mạn, Sách ẩn: Tống Quân nói: "Ngạo mạn là xấc láo. Chòm sao Cơ có hình như cánh tay dương lên, tượng trưng cho vẻ xấc láo. Chòm sao Cơ lại giống như cái sọt đựng đồ, có đồ đựng đồ vứt, tượng trưng cho khách lúc đến lúc đi." Chính nghĩa: Chòm sao Cơ chủ về tám hướng gió, cũng là chỗ ở của hậu phi. Nếu chuyển động vào khoảng phân dã của vùng sông Hà là điềm báo người trong nước ăn thịt lẫn nhau; nếu sao Kim, sao Hỏa phạm vào là điềm báo thiên hạ sẽ loạn; nếu Mặt Trăng mọc ở khoảng chòm sao ấy thì có gió nổi lên. tượng trưng cho miệng lưỡi. Sách ẩn: Thi chép: "Chòm sao Cơ phía nam là miệng của ông trời." Là nói chòm sao Cơ có lưỡi, tượng trưng cho lời nói. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Giác Sách ẩn: Xét: Vi Chiêu nói: "Sao Hỏa là sao Huỳnh Hoặc." thì có chiến tranh. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Phòng-Tâm, cũng là điều mà bậc đế vương ghét. Chính nghĩa: Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Cơ-Vĩ-Đê thì nó sẽ chiếu thành tia sáng, là sẽ có việc đánh trận. Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Phòng-Tâm mà chòm sao Phòng-Tâm cũng chiếu thành tia sáng thì bậc đế vương cũng ghét việc này. 3. Cung nam: Tên là cung Chu Điểu, Chính nghĩa: Chòm sao Liễu có tám ngôi sao xếp thành hình cái mỏ chim đỏ, tượng trưng cho quan coi về nhà bếp của trời, chủ về nấu ăn và món ngon. có chòm sao Quyền, chòm sao Hành. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Cung Hiên Viên là chòm sao Quyền, cung Thái Vi là chòm sao Hành." Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Cung nam là chỗ của Xích Đế, có thần là con chim đỏ." Chính nghĩa: Bốn ngôi sao của chòm sao Quyền ở phía tây đuôi chòm sao Hiên Viên, chủ việc đốt lửa, phòng giữ lúc nguy cấp. Nếu chòm sao này sáng là việc yên ổn; nếu không sáng là có việc nguy cấp; nếu dao động chiếu tia sáng cũng có việc nguy cấp. Chòm sao Hành là cung Thái Vi. Chòm sao Hành là cung Thái Vi, là đình của tam quang. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Thái Vi là cung phía nam của Thiên Đế. Tam quang là Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh." Có mười hai ngôi sao bao quanh tượng trưng cho phiên thần. [/color=red]Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Chòm sao Thái Vi chủ việc nghi thức, có mười hai ngôi sao, chủ việc phòng giữ việc quân nguy cấp." Chính nghĩa: Ngoài chòm sao Thái Vi có mười ngôi sao ở chòm sao Dực-Chẩn, tượng trưng cgo cung đình của thiên tử, là ghế ngồi của Ngũ Đế, nhà ở của mười hai chư hầu. Ngoài nó là tượng trưng cho phiên thần, cửu khanh. Phía tây nó tượng trưng cho tướng quân; phía đông nó tượng trưng cho Thừa tướng; phía nam có bốn ngôi sao tượng trưng cho quan lại trông coi hình pháp, gọi là chòm sao Chấp Pháp; giữa nó là tượng trưng cho hai cánh cửa, phía trái phải hai cánh cửa gọi là cửa bên. Trong cửa có sáu ngôi sao tượng trưng cho chư hầu. Chính nghĩa: Trong đó có năm ngôi sao tượng trưng cho chư hầu, ở tại sân của Thiên Đế. Những ngôi sao này thường sáng sủa rõ ràng; nếu mập mờ là điềm báo các chỗ đều bị tai họa, lớn thì giết chóc, nhỏ thì chạy trốn; nếu dao động thì có kẻ chuyên quyền lấn vua. Nên xét vị trí của nó để đoán thì không lầm. Lại nói năm ngôi sao tượng trưng cho chư hầu này ở sông Ngân Hán phía bắc chòm sao Đông Tỉnh, chủ việc cất nhắc hạ xuống, nên phòng giữ việc không may. Lại nói là chủ về âm-dương, xét được-mất. Một là tượng trưng cho thầy của vua, hai là bạn của vua, ba là Tam công, bốn là Bác sĩ, năm là Thái sử. Năm kẻ ấy là kẻ mà thiên tử nên xét kĩ. Nếu sáng sủa rõ ràng thì lớn nhỏ cân bằng, là phúc của nhà nước; nếu không thì trên dưới tranh nhau, trung thần không được dùng. Trong đó có năm ngôi sao tượng trưng cho ghế ngồi của Ngũ Đế, gọi là chòm sao Ngũ Đế Tọa. Sách ẩn: Thi hàm thần vụ chép năm ngôi sao là năm vị thần, phía đông là chỗ của Thương Đế, có vị thần tên là Linh Uy Ngưỡng, thuộc giống của loài rồng xanh. Chính nghĩa: Một sao là chỗ ngồi của Hoàng Đế, ở giữa cung Thái Vi, có thần tên là Hàm Xu Nữu. Bốn ngôi sao bên cạnh ngôi sao tượng trưng cho ghế ngồi của Hoàng Đế. Thương Đế ở phía đông gọi là thần Linh Uy Ngưỡng; Xích Đế ở phía nam gọi là thần Xích Tiêu Nộ; Bạch Đế ở phía tây gọi là thần Bạch Chiêu Củ; Hắc Đế ở phía bắc gọi là thần Hiệp Quang Kỉ. Ghế của Ngũ Đế cùng đặt là điềm thần linh tụ mưu. Nếu năm ngôi sao này sáng mà rõ là điềm báo thiên tử được lòng của trời đất; nếu không thì thất lạc. Sau nó có mười lăm ngôi sao tụ họp đông đúc, tượng trưng cho vị trí của các quan Lang, gọi là chòm sao Lang Vị, Chính nghĩa: Chòm sao Lang Vị có mười lăm ngôi sao, tại phía đông chòm sao Ngũ Đế Tọa trong cung Thái Vi. Nguyên sĩ thời nhà Chu, Quang lộc, Trung tán, Gián nghị thời nhà Hán là ba quan Lang trong đó. Là quan Thượng thư lang ngày nay. Chòm sao này lớn nhỏ sáng đều, thường có sắc rõ là điềm lành. bên cạnh có một ngôi sao lớn gọi là sao Tướng Vị. Chính nghĩa: Sao Tướng Vị là một ngôi sao phía đông bắc chòm sao Lang Vị, chủ việc phòng giữ việc quân, là Tả-Hữu trung lang tướng ngày nay. Nếu to mà sáng, có tia chiếu là điềm báo tướng quân phóng túng khó đỡ được. Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động theo hướng thuận đúng đường đi, Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Đúng đường đi không trái ngược. Hướng thuận là từ phía tây sang." xét nó ra ở đâu thì giữ ở đó, bị thiên tử bắt giết. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Xét Mặt Trời, Mặt Trăng, ngũ tinh chuyển động ở hướng vào sao nào, quan thuộc trong khoảng không quá mười lăm ngày xin thiên tử ra lệnh đi đánh giết kẻ đó." Nếu vào ngược mà không đúng đường đi là tượng trưng cho việc trái lệnh; phạm vào chòm Ngũ Đế Tọa, tỏ rõ điềm báo, Tập giải: Tấn chước chép: "Phạm vào chỗ của nhà vua, tỏ rõ họa phúc." Sách ẩn: Tống Quân nói: "Vào ngược là từ phía đông sang, không đúng đường đi, không vào theo đường lớn. Là kẻ muốn trái lệnh, thiên tử ra lệnh bắt giết kẻ đó." Chính nghĩa: Ý nói Mặt Trăng, ngũ tinh vào ngược, không theo đúng đường, xét vào chỗ mà nó phạm vào chòm sao Ngũ Đế Tọa trong cung Thái Vi thì tất có hình phạt giết chóc, đều là điềm báo bầy tôi hùa nhau mà mưu lấn vua trên. là điềm báo bầy tôi hùa mưu làm loạn. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào thì lại càng hơn. Sách ẩn: Xét: Sao Hỏa chủ việc hại vật mà sao Kim chủ việc dấy binh, là điềm báo rất nguy cấp. Còn nếu là sao Mộc-Thủy-Thổ lại việc nhỏ. Chính nghĩa: Nếu sao Kim-Hỏa vào ngược, không theo đúng đường, phạm vào chòm Ngũ Đế Tọa thì điềm báo nguy cấp còn hơn là Mặt Trăng, sao Thủy-Thổ-Mộc phạm vào. phía tây cung Thái Vi có năm ngôi sao rủ xuống gọi là cung Thiếu Vi, tượng trưng cho Sĩ đại phu. Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Cung Thiếu Vi tượng trưng cho kẻ sĩ ở ẩn." Thiên quan chiêm chép: "Cung Thiếu Vi có một ngôi sao tượng trưng cho kẻ sĩ ở ẩn." Chính nghĩa: Cung Thiếu Vi có bốn ngôi sao, ở phía tây nam bắc của cung Thái Vi, sao thứ nhất là Xứ Sĩ, sao thứ hai là Nghị Sĩ, sao thứ ba là Bác Sĩ, sao thứ tư là Đại Phu. Nếu sáng rõ màu vàng là kẻ sĩ tài năng được dùng; nếu không sáng là trái lại; Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào là điềm báo kẻ sĩ lo lắng, đổi quan Tể tướng. Chòm sao Quyền là cung Hiên Viên. Cung Hiên Viên hình như con rồng. [/color=red]Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như con rồng bay lên." Sách ẩn: Viên thần khế chép: "Cung Hiên Viên có mười hai ngôi sao, là chỗ ở của hậu cung." Tinh tán của họ Thạch cho rằng cung Hiên Viên có hình rồng, chủ về hậu phi. Chính nghĩa: Cung Hiên Viên có mười bảy ngôi sao, tại phía bắc chòm sao Thất Tinh, có hình con rồng vàng, là thần chủ việc mưa tuyết, tượng trưng cho hậu cung. Âm dương giao cảm mà thành sấm sét, vui thành mưa, giận thành gió, loạn thành sương mù, đọng thành tuyết, tan thành sương, tụ thành khí mây, đứng thành cầu vồng, rời thành quầng sáng, chia thành vầng quang. Hai mươi tư tiết khí đều do cung Hiên Viên làm chủ. Ngôi sao lớn chủ về đàn bà, thứ đến một ngôi sao phía bắc là chủ về đàn ông, thứ đến một ngôi sao phía bắc là chủ về phi tần, các ngôi sao tiếp sau đều là thứ phi. Phía nam ngôi sao chủ đàn bà có một ngôi sao nhỏ là sao Ngự Nữ; phía trái có một ngôi sao là sao Thiếu Dân, tượng trưng cho họ hàng của thứ phi; phía phải có một ngôi sao là sao Đại Dân, tượng trưng cho họ hàng của Thái hậu. Nếu sao nhỏ sáng màu vàng là tốt; lớn sáng là điềm hậu cung tranh giành; nếu chuyển động là điềm báo người trong nước tan chạy; phía đông tây có tia sáng phát ra là điềm báo họ hàng của hậu cung bị thua vỡ; sao Thủy-Hỏa-Kim phạm vào cung Hiên Viên là điều mà đàn bà ghét. Trước có một ngôi sao lớn tượng trưng cho Thái hậu; bên cạnh có ngôi sao nhỏ tượng trưng cho bọn hậu cung người hầu. Nếu Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào nó thì xét điềm báo cũng như xét chòm sao Hành. Chòm sao Đông Tỉnh chủ về việc nước lụt. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Đông Tỉnh có tám ngôi sao, chủ việc cân bằng nước ngập." Phần khúc gấp phía tây nó có ngôi sao gọi là sao Việt. Chính nghĩa: Chòm sao Đông Tỉnh có tám ngôi sao, một ngôi sao gọi là sao Việt, có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Dư Quỷ, có một ngôi sao gọi là sao Chất tượng trưng cho đầu chim thuần, theo địa chi thuộc cung mùi, đều tại phân dã của nước Tần. Có một sao lớn nằm trên đường hoàng đạo, tượng trưng cho đình chờ của nhà trời, chủ việc nước lụt, cân bằng việc pháp lệnh. Nếu đế vương dùng pháp lệnh cân bằng thì chòm sao Tỉnh sáng mà xếp thẳng. Có sao Việt liền ở phía trước chòm sao Tỉnh, chủ việc coi xét kẻ hoang dâm mà chém kẻ đó. Thường không sáng rõ, nếu sáng mà ngay thẳng, hoặc dao động thì có điềm báo thiên tử dùng búa rìu phạt đại thần; Mặt Trăng phạm vào chòm sao này thì có nổi mưa gió. Phía bắc sao Việt có chòm sao Bắc Hà; phía nam là chòm sao Nam Hà; Chính nghĩa: Chòm sao Nam Hà có ba ngôi sao, chòm sao Bắc Hà có ba ngôi sao, chia ra ở phía nam bắc của của chòm sao Đông Tỉnh, đặt thành cái gông, chòm sao Nam Hà là cái gông phía nam, còn gọi là chòm sao Dương Môn, cũng gọi là chòm sao Việt Môn; chòm sao Bắc Hà là cái gông phía bắc, còn gọi là chòm sao Âm Môn, cũng gọi là chòm sao Hồ Môn. Giữa hai cái gông là đường đi của tam quang. Nếu chòm sao phía nam không rõ là chính đạo miền nam không thông, nếu phía bắc thì cũng vậy; nếu dao động hoặc có sao Hỏa phạm vào là điềm báo Trung Quốc có dấy binh. Lại nói nếu dao động là người Hồ-Việt gây loạn, hoặc liên kết cận thần để gây biến. giữa chòm sao Nam-Bắc Hà, chòm sao Thiên Khuyết tượng trưng cho cửa khuyết. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Xem sáu ngôi sao của hai chòm sao Nam-Bắc Hà là biết tốt xấu. Là nói cái tận cùng của cửa cầu, biết được thật giả." Chính nghĩa: Hai sao Khuyết-Khâu ở phía nam chòm sao Nam Hà tượng trưng cho cửa khuyết của của thiên tử, cửa sổ của chư hầu, cũng tượng trưng cho gác treo bảng chính lệnh. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là điềm báo có việc binh ở dưới cửa khuyết. Chòm sao Dư Quỷ chủ việc thờ quỷ; trong đó có ngôi sao sáng trắng tên là sao Chất. Tập giải: Tấn chước chép: "Chòm sao Dư Quỷ có năm ngôi sao, trong đó có một ngôi sao sáng trắng là sao Chất." Chính nghĩa: Chòm sao Dư Quỷ có bốn ngôi sao, chủ việc cúng tế, là mắt của trời, chủ việc xem xét rõ kế gian. Ngôi sao phía đông bắc chủ việc chứa ngựa, ngôi sao phía đông nam chỉ việc chứa quân, ngôi sao phía tây nam chủ việc chứa vải lụa, ngôi sao phía tây bắc chủ việc chứa vàng ngọc, tùy theo nó chuyển động mà đoán. Một ngôi sao giữa chủ việc chứa xác chết, còn có tên là sao Chất, chủ việc tang ma cúng tế. Chòm sao Quỷ sáng rõ là điềm báo được mùa thóc; không sáng là điềm báo trăm họ li tán. Sao Chất thường mờ không sáng, nếu sáng là có dấy binh, đại thần bị giết, người dưới cũng chết theo. Nếu sao Hỏa phạm vào chòm sao Nam-Bắc Hà thì có dấy binh, lúa không được mùa. Cho nên xét đức thì xem ở chòm sao Hành, xem ở chòm sao Hoàng, xét có thương tổn hay không thì xem ở sao Việt, Tập giải: Tấn chước chép: Xét có thương tổn thì xem hình ở sao Việt." Sách ẩn: Xét: Xét đức xem chòm sao Hành, chòm sao Hành cân bằng mọi vật, cho nên đức được công bình, thành hình ở ở chòn sao Hành. Xem ở chòm sao Hoàng, tượng trưng cho chỗ để xe của nhà vua, nói là nhà vua đi xem, thành hình ở chòm sao Hoàng. Thương tổn thì xem hình ở sao Việt, nếu nhà vua đức kém thì cũng hiện rõ ở sao Việt, ý nói nếu tổn kém thì dùng rìu búa mà chém đi. xét hoạ thì xem ở chòm sao Tỉnh, Tập giải: Tấn chước chép: "Chòm sao Đông Tỉnh chủ việc nước lụt, nếu sao Hỏa phạm vào thì bên cạnh thì thiên tử sẽ có họa về lửa cháy, cho nên nói là họa." xét có bị bắt giết hay không thì xem ở sao Chất. Tập giải: Tấn chước chép: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Dư Quỷ, sao Chất thì đại thần bị bắt giết." Chòm sao Liễu có hình cái mỏ chim, chủ về cây cỏ. Chính nghĩa: Chòm sao Liễu có tám ngôi sao, chòm sao Tinh có bảy ngôi sao, chòm sao Trương có sáu ngôi sao, là phần bụng của chim, theo địa chi thuộc cung ngọ, đều tại phân dã của nhà Chu. Chòm sao Liễu là phần mỏ của cung Chu Điểu, chủ việc bếp núc của nhà trời, chủ việc món ăn, trộn mùi vị. Nếu sáng rõ là lành, nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là điềm báo trong nước có dấy binh lớn. Chòm sao Thất Tinh là phần cổ chim, tượng trưng cho ống tròn, chủ việc nguy cấp. Chính nghĩa: Chòm sao Thất Tinh tượng trưng cho cái cổ chim, còn có tên là chòm sao Thiên Đô, chủ việc áo quân gấm thêu, chủ việc nguy cấp. Nếu sáng thì tốt, tối là xấu; nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có việc binh lớn. Chòm sao Trương là cái nang, tượng trưng cho nhà bếp, chủ về khách mời ăn uống. Chính nghĩa: Chòm sao Trương có sáu ngôi sao xếp thành hình cái nang, chủ việc bếp núc ăn uống mời đãi khách. Nếu sáng thì tốt, tối là xấu. Sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có dấy binh lớn. Chòm sao Dực là lông cánh, chủ về khách phương xa. Chính nghĩa: Chòm sao Dực có hai mươi hai ngôi sao; chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao, có một sao Trường Sa, chòm sao Hạt có hai ngôi sao, hợp lại là sao Chẩn có bảy ngôi sao đều là phần đuôi chim, theo địa chi thuộc cung tị, phân dã của nước Sở. Chòm sao Dực có có hai mươi hai ngôi sao tượng trưng cho phủ nhạc của nhà trời, chủ về người Di-Địch, cũng chủ về khách phương xa. Nếu sáng rõ là lễ nhạc được nổi lên, người Di bốn phương thần phục; nếu chuyển động là điềm báo thiên tử phát binh để dẹp loạn. Chòm sao Chẩn là cái xe, chủ về gió. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao ở trong, lại có hai ngôi sao làm cái chốt trục trái phải, tượng trưng cho cái xe." Chính nghĩa: Chòm sao Chẩn có bốn ngôi sao, chủ về bầy tôi phụ tá, lại chủ về xe cưỡi, cũng chủ về gió. Nếu sáng rõ là dùng được xe cưỡi, nếu sao Thái Bạch phạm vào là điềm báo việc học trong thiên hạ vỡ lở, văn nho mất nghiệp, binh cách trỗi lên; nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào là điềm báo phương nam có nước không vâng lệnh, nên phát binh đánh nước đó; nếu sao Thần phạm vào là miền sông Tứ, đất Từ có chết chóc. Bên cạnh có nó có một ngôi sao nhỏ là sao Trường Sa, Chính nghĩa: Sao Trường Sa là một ngôi sao trong chòm sao Chẩn, chủ về tuổi thọ. Nếu sáng thì tuổi thọ dài, con cháu đông đúc. các ngôi sao thuộc chòm sao này thường không sáng; nếu bốn ngôi sao sáng đều và ngũ tinh phạm vào chòm sao Chẩn thì có binh cách dấy lên. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Ngũ tinh chủ việc đi sứ. Đi sứ động thì binh cách cũng động." Các ngôi sao phía nam chòm sao Chẩn họp thành chòm sao Thiên Khố Lâu; Chính nghĩa: Có chòm sao Thiên Khố, chủ về đánh giết, phân dã của nước Tần, tại chòm sao Ngũ Xa. trong đó có chòm sao Ngũ Xa. Chòm sao Ngũ Xa có tia sáng lại nhiều ngôi sao hoặc không đủ là điềm xe ngựa không đặt yên. [chỉ việc động xe ngựa là có binh loạn] 4. Cung tây: Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung tây là chỗ của Bạch Đế, có thần là con hổ trắng." Tên là cung Hàm Trì, Chính nghĩa: Cung Hàm Trì có ba ngôi sao, tại giữa chòm sao Ngũ Xa, phía nam chòm sao Thiên Hoàng, là chỗ mà chim cá dựa vào. Nếu sao Kim phạm vào là điềm báo dấy binh. Nếu sao Hỏa phạm vào là điềm báo có tai họa. còn gọi là chòm sao Thiên Ngũ Hoàng. Chòm sao Thiên Ngũ Hoàng là chỗ để xe của Ngũ Đế. Sách ẩn: Xét: Nguyên mệnh bao chép: "Cung Hàm Trì chủ về ngũ cốc, có năm ngôi sao đều chủ về một loại cây lúa. Cung Hàm Trì là nói lúa mọc ở nước, đều mọc đều ra hạt, chủ về cuối mùa thu, cho nên còn gọi là chỗ để xe của Ngũ Đế, lấy xe chở lúa mà bán vậy." Chính nghĩa: Chòm sao Ngũ Xa có năm ngôi sao, chòm sao Tam Trụ có chín ngôi sao, tại phía đông bắc chòm sao Tất, là chỗ để xe của năm thứ quân của thiên tử. Phía tây bắc nó có một ngôi sao lớn là chòm sao Thiên Khố, chủ sao Thái Bạch, là phân dã của nước Tần. Tiếp đến phía đông bắc là chòm sao Thiên Ngục, chủ sao Thần, phân dã của nước Yên-Triệu. Tiếp đến phía đông là chòm sao Thiên Thương, chủ sao Tuế, phân dã của nước Vệ-Lỗ. Tiếp đến phía đông nam là chòm sao Tư Không, chủ sao Trấn, phân dã của nước Sở. Tiếp đến phía tây nam là chòm sao Khanh, chủ sao Huỳnh Hoặc, phân dã của nước Ngụy. Nếu các sao của chòm sao Ngũ Xa cùng sáng, đều thấy chòm sao Tam Trụ là điềm báo kho tàng đầy; nếu không thì nhà nước hết lương thực, có dấy binh. Nếu chòm sao Ngũ Xa-Tam Trụ có biến thì đều dựa vào phân dã của nước nào mà xét điềm báo. Nếu chòm sao Tam Trụ ra vào một tháng thì gạo đầy gấp ba lần, trong hai năm mà ra ba tháng thì đầy gấp chục lần, trong ba năm mà chòm sao Tam Trụ ra không gần nhau với chòm sao Thiên Thương là điềm báo xuất quân, gạo đầy, chuyển thóc đi ngàn dặm; chòm sao Trụ ra ngược lại càng hơn. Nếu sao Hỏa phạm vào là điềm báo thiên hạ có khô hạn; nếu sao Kim phạm vào là điềm báo có dấy binh; nếu sao Thủy phạm vào là điềm báo có nước lụt. Nếu sao Hỏa phạm vào là có khô hạn; sao Kim phạm vào là có dấy binh; sao Thủy phạm vào là có nước lụt. Sách ẩn: Là nói sao Hỏa-Kim-Thủy phạm vào chòm sao Thiên Ngũ Hoàng, đều dẫn đến các tai họa. Xét: Tống Quân nói: "Không nói đến sao Mộc-Thổ, là vì sao Mộc-Thổ là sao có đức, không có hại ở đấy vậy." Giữa có chòm sao Tam Trụ; chòm sao Tam Trụ không thấy là có dấy binh. Chòm sao Khuê còn gọi là chòm sao Phong Thỉ, chủ về kênh rạch. Chính nghĩa: Khuê, đọc là 'khổ khuê phiên', có mười sáu ngôi sao. Chòm sao Lâu có ba ngôi sao, còn gọi là chòm sao Giáng Lâu, theo địa chi thuộc cung tuất, phân dã của nước Lỗ. Chòm sao Khuê là phủ khố của nhà trời, còn gọi là chòm sao Thiên Thỉ, cũng gọi là chòm sao Phong Thỉ, chủ về kênh rạch. Phía tây nam có một ngôi sao lớn, gọi là sao Thiên Thỉ Mục. Nếu sáng là điềm lành. Chòm sao này thường không thấy đầy đủ, nếu đầy đủ là có dấy binh. Nếu mờ là điềm báo bầy tôi chuyên quyền. Thường cũng không mở cửa không định sẵn, nếu vậy sẽ có kẻ áo vải xưng mệnh ở hang núi. Nếu ngũ tinh phạm vào chòm sao Khuê là điềm báo nhà vua kém đức, đại thần chuyên quyền, không ai ngăn được. Nếu đế vương không sửa việc cúng tế thì chòm sao Khuê dao động. Nếu có nếu long lanh có ánh sáng là điềm báo cận thần có mưu tiếm ngôi vua, cũng là điềm báo người dân thiếu đói. Nếu sao Thái Bạch phạm vào chòm sao Khuê là điềm báo người Hồ-Mạch có loạn, có thể đánh được họ. Nếu sao Huỳnh Hoặc phạm vào là nạn nước lụt liên miên ba năm. Nếu sao Trấn-Tuế phạm vào là điềm báo có lợi cho Trung Quốc, có thể dấy binh động quân, chém diệt kẻ vô đạo. Chòm sao Lâu chủ việc tụ họp dân chúng. Chính nghĩa: Chòm sao Lâu có ba ngôi sao, chủ vườn, chăn nuôi muông thú để làm đồ cúng tế, cũng chủ việc tụ họp dân chúng. Nếu dao động là có quân dân tụ họp; sao Kim-Hỏa phạm vào là có dấy binh. Chòm sao Vị chủ về kho tàng. Chính nghĩa: Chòm sao Vị có ba ngôi sao, chòm sao Mão có bảy ngôi sao, chòm sao Tất có tám ngôi sao, họp lại thành chòm sao Đại Lương. Theo địa chi thuộc cung dậu, phân dã của nước Triệu. Chòm sao Vị chủ về kho tàng, là chỗ chứa ngũ cốc. Nếu sáng thì thiên hạ hòa bình, ngũ cốc đầy đủ; nếu không là trái lại. Có chòm sao phía nam nó là chòm sao Quái Tích. Tập giải: Như Thuần nói: "Chỗ chứa cỏ gọi là 'quái'." Chính nghĩa: Chòm sao Sô có sao ngôi sao, tại phía tây chòm sao Thiên Uyển, chủ việc chứa cỏ. Nếu không thấy là điềm báo bò ngựa bị bệnh chết, sao Hỏa phạm vào là có tai họa. Chòm sao Mão gọi là chòm sao Mao Đầu, Chính nghĩa: Chòm sao Mão có bảy ngôi sao, gọi là chòm sao Mao Đầu, chủ về người Hồ, cũng là việc tù ngục. Nếu sáng là việc xét tù ngục trong thiên hạ yên ổn; mờ là hình phạt rườm rà. Sáu ngôi sao sáng ngang với ngôi sao lớn là điềm báo nước lụt sắp lên, có quân lớn dấy lên; dao động như nhảy múa là điềm báo quân rợ Hồ dấy lên mạnh mẽ; có một sao không thấy là điềm xấu có binh cách. là chòm sao chủ về người Hồ, chủ về việc tang. Chòm sao Tất còn gọi là chòm sao Hãn Xa, Chính nghĩa: Chòm sao Tất có tám ngôi sao, gọi là chòm sao Hãn Xa, chủ về quân ở biên ải, chủ về việc săn bắt. Có ngôi sao lớn trong đó là sao Thiên Cao, chủ về tướng ở biên ải, chủ về việc vỗ về người rợ ở bốn phương. Nếu chòm sao này sáng to là thiên hạ yên, người rợ phương xa đến cống; nếu sắc kém là biên ải có loạn. Đều dao động là có dấy binh; nếu Mặt Trăng phạm vào thì mưa nhiều. chủ về quân ở biên ải, chủ về việc săn bắt. Cạnh ngôi sao lớn của nó có một ngôi sao nhỏ là sao Phụ Nhĩ. Chính nghĩa: Một ngôi sao tên là sao Phụ Nhĩ ở dưới sáu ngôi sao của chòm sao Tất, ở góc đông nam sao Thiên Cao, chủ về việc nhà vua nghe lời được mất, dò xét lỗi lầm. Nếu sao này sáng là Trung Quốc suy yếu, biên ải có giặc cướp; nếu di động là có kẻ xu nịnh; si chuyển vào chòm sao Tất là điềm báo trong nước có dấy binh. Sao Phụ Nhĩ dao động là có bầy tôi gièm pha làm loạn ở bên. Giữa chòm sao Mão-Tất có chòm sao Thiên Nhai. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Tất là bậc thềm của nhà trời." Nhĩ nhã chép: "Trong chòm sao Đại Lương có chòm sao Mão." Tôn Viêm nói: "Giữa chòm sao Mão-Tất là con đường chính để Mặt Trời, Mặt Trăng, Ngũ Tinh chuyển động ra vào, ví như cầu bến vậy." Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Nhai có hai ngôi sao, ở giữa chòm sao Tất-Mão, chủ về ranh giới của nhà nước. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là phân dã của nước Hoa-Hạ, phía bắc là phân dã của nước Di-Địch. Sao Thổ-Kim phạm vào là điềm báo quân rợ Hồ lấn vào. Phía nam nó là phân dã của nước âm; phía bắc nó là phân dã của nước dương. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Âm là phía tây nam, thuộc cung quẻ Khôn, là nước từ sông Hà núi Hoa về phía bắc; dương là nước từ sông Hà núi Hoa về phía nam." Chòm sao Sâm tượng trưng cho con hổ trắng. Chính nghĩa: Chòm sao Tuy có ba ngôi sao, chòm sao Sâm có ba ngôi sao, ngoài có bốn ngôi sao nữa họp lại thành chòm sao Thực Trầm, theo địa chi thuộc cung thân, phân dã của nước Ngụy, có hình con hổ trắng. Sâm, đọc là 'sắc lâm phiên'. Ba ngôi sao xếp thẳng hàng gọi là chòm sao Hành Thạch. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Chòm sao Sâm có ba ngôi sao, trong cung Bạch Hổ, đông tây thẳng hàng như cái cân. Dưới có ba ngôi sao, hình như cái dùi, gọi là chòm sao Phạt, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Ở giữa chòm sao Sâm, trên nhỏ dưới lớn, cho nên nói là hình cái dùi." Tấn chước chép: "Ba ngôi sao này xếp thành hình hơi vẹo, không phải hình cái dùi." chủ việc chặt chém. Ngoài nó có bốn ngôi sao, là vai trái phải, đùi trái phải. Bên cạnh có ba ngôi sao nhỏ, gọi là chòm sao Tuy Huề, tượng trưng cho đầu con hổ, chủ việc giữ quân. Chính nghĩa: Chòm sao Tuy Huề là đầu hổ, chủ việc thu giữ quân lính. Nếu sao Kim-Thủy phạm vào là nhà nước thay đổi chính lệnh, có tai họa. Phía nam nó có bốn ngôi sao, gọi là chòm sao Thiên Xí. Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Xí có bốn ngôi sao, ở phía đông sao Bính, chủ về chuồng xí. Nếu màu vàng là tốt; màu xanh và trắng là đều xấu; không thấy là có bệnh tật. Dưới chòm sao Thiên Xí có một ngôi sao gọi là sao Thiên Thỉ. Chính nghĩa: Một ngôi sao Thiên Thỉ ở phía nam chòm sao Thiên Xí, xem đoán giống với chòm sao Thiên Xí. Sao Thiên Thỉ có màu vàng là tốt; màu xanh, trắng, đen là xấu. Phía tây nó có chín ngôi sao xếp hình gấp khúc, chia làm ba phần: một phần gọi là chòm sao Thiên Kì, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Kì có chín ngôi sao ở phía tây chòm sao Sâm, tượng trưng cho lá cờ trời, chỉ việc vẫy gọi gần xa đến nghe lệnh. Nếu bậc đế vương chặt chém đúng lẽ thì chòm sao Thiên Kì thẳng cong đúng lối; nếu không thì có dấy binh ở ngoài, là việc đáng lo. Nếu sáng mà ít sao thì có nhiều người chết. hai là chòm sao Thiên Uyển, Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Uyển có mười sáu ngôi sao hình vòng tròng, ở phía nam chòm sao Tất, là chỗ mà thiên tử nuôi nấng cầm thú. Nếu mờ ít sao thì có nhiều người chết. ba là chòm sao Cửu Du. Chính nghĩa: Chòm sao Cửu Du có chín ngôi sao, ở phía nam chòm sao Ngọc Tỉnh, là cờ quân của thiên tử, dùng để vẫy lệnh quân lính tiến lùi, cũng ra lệnh cho các châu quận. Thường không hay dao động, nếu dao động là chín châu chia rẽ, người dân mất mùa, hiệu lệnh đều không thông, có rối ren trong nước. Nếu sao Kim-Hỏa phạm vào là có loạn. Phía đông nó có một ngôi sao lớn là sao Lang. Chính nghĩa: Một ngôi sao Lang ở pphía đông nam chòm sao Sâm. Sao Lang tượng trưng cho tướng ở ngoài bãi, chủ về việc cướp chiếm. Nếu không đúng vị trí thì có người dân ăăn thịt lẫn nhau; có mày vàng trắng lại sáng là điềm lành; nếu có tia sáng màu đỏ là có dấy binh, sao Kim-Mộc-Hỏa phạm vào cũng như vậy. Nếu tia sáng sao Lang đổi màu là có nhiều giặc cướp. Dưới có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Hồ, Chính nghĩa: Chòm sao Hồ có chín ngôi sao, ở phía đông nam sao Lang, là cây cung của trời vậy, dùng để đánh kẻ phản loạn trốn tránh, lại chủ việc ngăn giặc cướp và trị kẻ gian tà. Nếu chòm sao Hồ dao động hướng về sao Thiên Thỉ thì có nhiều giặc cướp; nếu sáng mà đổi màu cũng như vậy. Sao Thiên Thỉ không thẳng với sao Lang lại có nhiều giặc; nếu dãn hết cỡ là thiên hạ hết dấy binh. thẳng hướng với sao Lang. Gần mặt đất kề với sao Lang có một ngôi sao lớn gọi là sao Nam Cực Lão Nhân. Chính nghĩa: Một ngôi sao Lão Nhân ở phía nam chòm sao Hồ, còn gọi là sao Nam Cực, chủ về tuổi thọ dài ngắn của con người, thường vào buổi sớm ngày thu phân thì xuất hiện ở cung bính, buổi tối ngày xuân phân xuất hiện ở cung đinh. Nếu xuất hiện là nhà nước kéo dài, gọi là là sao Thọ Xương, thiên hạ yên ổn; nếu không thấy là điềm báo nhà vua có việc lo lắng. Sao Nam Cực Lão Nhân hiện là yên ổn; không hiện là có dấy binh. Thường vào ngày thu phân thấy được nó ở ngoài thành phía nam. Nếu sao Phụ Nhĩ phạm vào giữa chòm sao Tất là có dấy binh. 5. Cung bắc: Tên là cung Huyền Vũ, Sách ẩn: Văn diệu câu chép: "Cung bắc là chỗ của Hắc Đế, có thần tên là Huyền Vũ." Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu có sáu ngôi sao, chòm sao Khiên Ngưu có sáu ngôi sao, đều ở cung bắc, gọi là cung Huyền Vũ. có chòm sao Hư, chòm sao Nguy. Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Huyền Hiêu là chòm sao Hư." Lại chép: "Bắc Lục là chòm sao Hư." Chính nghĩa: Chòm sao Hư có hai ngôi sao, chòm sao Nguy có ba ngôi sao, còn gọi là chòm sao Y Hieê, theo địa chi thuộc cung tí, phân dã của nước Tề. Chòm sao Hư chủ việc chết tang, khóc lóc, lại chủ về việc cúng tế cầu đảo ở miếu đường nơi thành ấp, là quan Trủng tể của nhà trời, chủ việc trông coi thiên hạ, cất chứa muôn vật. Nếu động là có điềm báo chết tang khóc lóc; sao Hỏa phạm vào là thiên tử sắp đem quân đi đánh; sao Thủy phạm vào là người dân đói kém; sao Kim phạm vào là bầy tôi dấy binh. Chòm sao Nguy chủ về việc cúng tế tông miếu, chủ về chợ búa, khung nhà. Nếu động là có việc đắp đất; sao Hỏa phạm vào là thiên hạ có binh cách; sao Thủy phạm vào là bầy tôi dưới mưu lấn nhà vua. Chòm sao Nguy chủ về nóc nhà; Sách ẩn: Tống Quân nói: "Phần trên của chòm sao Nguy là một ngôi sao ở vị trí cao, bên cạnh là hai ngôi sao ở dưới có hình như cái nóc nhà." Chính nghĩa: Hai ngôi sao nóc nhà ở phía nam của chòm sao Nguy, chủ về cung điện mà thiên tử ở. Sao Kim-Hỏa phạm vào là trong nước có dấy binh; nếu có sao chổi xẹt qua lại càng xấu. chòm sao Hư chủ về việc tang khóc. Sách ẩn: Họ Diêu xét Kinh châu chiêm cho rằng chòm sao này có hai ngôi sao, ngôi sao phía nam chủ việc tang khóc. Giữa chòm sao Hư có sáu ngôi sao, thường không sáng, nếu sáng là có tang lớn. Phía nam nó có chòm sao gọi là chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân. Chính nghĩa: Chòm sao Vũ Lâm có bốn mươi lăm ngôi sao, tụ thành nhóm ba ngôi sao, phân tán tại phía nam chòm sao Lũy Bích Trận, là quân của trời, cũng là quân lính túc vệ của nhà trời. Nếu không thấy là thiên hạ loạn; sao Kim-Hỏa-Thủy phạm vào là có dấy binh. Phía tây nó là chòm sao Lũy, Chính nghĩa: Chòm sao Lũy Bích Trận có mười hai ngôi sao, xếp ngang tại phía nam chòm sao Doanh Thất, là rào lũy của quân nhà trời. Nếu ngũ tinh phạm vào đều là có dấy binh, tướng quân chết., còn gọi là chòm sao Việt. Bên cạnh có một ngôi sao lớn là sao Bắc Lạc. Nếu sao Bắc Lạc hơi mờ nhạt, mà chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân dao động có tia sáng ít sao và ngũ tinh phạm vào sao Bắc Lạc, Chính nghĩa: Một ngôi sao Bắc Lạc ở phía tây nam chòm sao Vũ Lâm, là cửa quân của nhà trời. Cửa Bắc Lạc ở thành Tràng An cũng tượng trưng như vậy. Chủ việc khác thường, để coi xét quân lính. Nếu sáng là quân yên; mờ tối là có dấy binh; sao Kim-Hỏa phạm vào là có binh cách, có quân địch phạm vào cửa ải; nếu sao Thổ-Mộc phạm vào thì lành. phạm vào chòm sao Vũ Lâm Thiên Quân thì có dấy binh. Nếu sao Kim-Hỏa-Thủy phạm vào lại càng xấu. Sao Hỏa phạm vào thì việc binh có lo lắng. Sao Thủy phạm vào thì có tai họa. Sao Mộc-Thổ phạm vào thì việc quân tốt. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "sao Mộc, sao Hỏa phạm vào sao Bắc Lạc là lành." Phía đông chòm sao Nguy có sáu ngôi sao, xếp thành từng cặp giống nhau, gọi là chòm sao Tư Không. Chính nghĩa: Phía đông chòm sao Nguy có từng cặp giống nhau là chòm sao Tư Mệnh. Chỉ có một sao Tư Không mà thôi, lại không phải ở phía đông chòm sao Nguy, e rằng chữ 'Mệnh' lầm thành chữ 'Không'. Chòm sao Tư Mệnh có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Hư, chủ việc tống tang; chòm sao Tư Lộc có hai ngôi sao pử phía bắc chòm sao tư Mệnh, chủ việc quan lại; chòm sao Nguy có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Tư Lộc, chủ về nguy vong; chòm sao Tư Phi có hai ngôi sao ở phía bắc chòm sao Nguy, chủ việc lỗi lầm, đều là chức quan sắp đặt. Nếu sáng to là vua có nỗi lo; sáng thường là lành. Chòm sao Doanh Thất là miếu thờ tổ tiên, Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Doanh Thất có mười ngôi sao, chủ về các loại đất gốm, bắt đầu lập rường mối, nặn đất xây nhà." Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Doanh Thất còn gọi là chòm sao Định." Quách Phác nói: "Định là chính. Thiên hạ làm cung thất, đều lấy giữa chòm sao Doanh Thất làm chính." gọi là cung Li, cung Các Đạo. Sách ẩn: Xét: Kinh châu chiêm xét: "Cung Các Đạo là cung Vương Lương Kì, có sáu ngôi sao." Giữa sông Ngân Hán có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Thiên Tứ. Sách ẩn: Xét: Nguyên mệnh bao chép: Giữa sông Ngân Hán có bốn ngôi sao gọi là chòm sao Kị, còn gọi là chòm sao Thiên Tứ. Bên cạnh có một ngôi sao gọi là sao Vương Lương. Sách ẩn: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Sao Vương Lương chủ về ngựa của nhà trời." Chính nghĩa: Chòm sao Vương Lương có năm ngôi sao, ở giữa sông chòm sao Khuê-Bắc Hà, tượng trưng cho quan Phụng ngự của thiên tử. Nếu dao động là ruổi ngựa, là điềm quân kị đầy đồng; nếu có sao lạ phạm vào là cầu bến không thông; sao Kim-Hỏa phạm vào đều là điềm có nạn binh cách. Cạnh sao Vương Lương là sao Sách Mã, Chính nghĩa: Một ngôi sao Sách ở phía trước sao Vương Lương, chủ người đánh xe của thiên tử. Nếu dao động đến trước sao Vương Lương hoặc đến sao sao Mã, tên khác là sao Sách Mã, ruổi ngựa là động binh. Xét: Có người quận Dự Chương tên là Chu Đằng, tên chữ là Thúc Đạt, người huyện Nam Xương, làm quan Ngự sử. Vào lúc Hoàn Đế sắp đến chỗ ngoài thành phía nam, Đằng ngẩng xem thiên văn, nói: "Đế vương ứng với tượng trên trời, nay các sao cung giữa và sao Sách Mã đều không dao động, hôm sau nhà vua chắc chẳng đi ra." Đến canh tư, Hoàng thái tử chết, nhà vua bèn thôi. dao động là điềm xe ngựa đầy đồng. Bên cạnh có tám ngôi sao bắc ngang qua sông Ngân Hán, gọi là chòm sao Thiên Hoàng. Sách ẩn: Nguyên mệnh bao chép: "Chòm sao Thiên Hoàng chủ về kênh sông Hà, để cho các vị thần qua sông, đi khắp bốn phương." Tống Quân nói: "Chòm sao Thiên Hoàng là bến sông trên trời." Bên cạnh chòm sao Thiên Hoàng là chòm sao Giang Tinh. Chính nghĩa: Chòm sao Giang Tinh có bốn ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Vĩ, chủ Thái Âm. Thường không sáng, nếu sáng và dao động là có nước ngập; nếu chòm sao này sáng rõ thì không ngăn được nước lụt. Chòm sao Giang Tinh dao động là điềm người dân phải lội nước. Chòm sao Xử Cữu có bốn ngôi sao ở phía nam chòm sao Nguy. Chính nghĩa: Chòm sao Xử có ba ngôi sao, ở bên cạnh sao Trượng Nhân, chủ về lương thực của quân lính. Nếu thẳng với chòm sao Cữu là tốt, không ngang nhau với chòm sao Cữu là quân lính bị hết lương. Chòm sao Cữu ở phía nam, chủ việc giã dạo. Nếu ngược là năm đó đói to, ngưỡng lên là được mùa lớn. Có chòm sao Bào Qua, Sách ẩn: Xét: Kinh châu chiêm chép: "Chòm sao Bào Qua còn có tên là Thiên Kê, ở phía đông chòm sao Hà Cổ. Nếu chòm sao Bào Qua sáng thì năm đó được mùa to." Chính nghĩa: Bào, đọc là 'bạch bao phiên'. Chòm sao Bào Qua có năm ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Li Châu, là vườn quả của thiên tử. Nếu sáng sủa rõ ràng là năm đó được mùa, nếu không thì quả hạt không được mùa; nếu sao lạ phạm vào thì cá muối sẽ đắt. có ngôi sao ánh sáng màu xanh đen phạm vào thì cá muối sẽ đắt. Chòm sao Nam Đẩu Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu có sáu ngôi sao ở phía nam. là miếu của trời, phía bắc nó là chòm sao Kiến Tinh. Chính nghĩa: Chòm sao Kiến có sáu ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Đẩu, gần đường hoàng đạo, [1] là cửa đô của nhà trời. Giữa chòm sao Đẩu-Kiến là đường đi của thất diệu, [2] cũng chủ về xe cờ. Nếu dao động là người dân bị mệt, nếu không thì không sao; Mặt Trăng có quầng là điềm báo giao long xuất hiện, bò ngựa bị bệnh dịch; nếu Mặt Trăng, ngũ tinh phạm vào thì đại thần sắp mưu loạn, cửa cầu không thông và có nước ngập. Chòm sao Kiến Tinh là cờ cắm ở miếu. Chòm sao Khiên Ngưu là đồ cúng tế. Chính nghĩa: Chòm sao Khiên Ngưu là đồ cúng tế, cũng là cửa cầu. Phía bắc nó có hai ngôi sao, một là sao Tức Lộ, hai là sao Tụ Hỏa. Lại trên nó có một ngôi sao, chủ về đường đi; thứ đến có hai ngôi sao, chủ về cửa cầu; thứ đến có hai ngôi sao chủ nước Nam Việt. Nếu sáng rõ là cửa cầu thông suốt; nếu không sáng là không thông suốt, bò trong thiên hạ bị bệnh chết; nếu chuyển động vào dòng Ngân Hán thì thiên hạ sẽ loạn. Phía bắc nó là chòm sao Hà Cổ. Sách ẩn: Tôn Viêm nói: "Cờ của chòm sao Hà Cổ có mười hai ngôi sao, ở phía bắc chòm sao Khiên Ngưu, có người nói chòm sao Hà Cổ là thuộc chòm sao Khiên Ngưu." Có ngôi sao lớn trong chòm sao Hà Cổ là sao Thượng Tướng; bên trái phải là sao Tả Tướng- Hữu Tướng. Chính nghĩa: Chính nghĩa: Chòm sao Hà Cổ có ba ngôi sao ở phía bắc chòm sao Khiên Ngưu, chủ việc cờ quân. Có lẽ là tượng trưng cho ba vị tướng quân của thiên tử. Ngôi sao lớn ở giữa là Đại tướng quân, phía nam là sao bên trái là Tả tướng quân, phía bắc là sao bên phải là Hữu tướng quân, chủ về sắm sửa cửa cầu và ngăn tai họa. Nếu sáng suốt rõ ràng thì tướng quân lành, dao động là gặp xấu, có quân dấy loạn; thẳng hàng là tướng lập được công; cong thì tướng lầm kế. Từ ngày xưa truyền lại chòm sao Khiên Ngưu-Chức Nữ vào ngày bảy tháng bảy gặp nhau là chòm sao ấy. Chòm sao Vụ Nữ, Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Chòm sao Tu Nữ gọi là chòm sao Vụ Nữ." Chính nghĩa: Chòm sao Tu Nữ có bốn ngôi sao, cũng gọi là chòm sao Vụ Nữ, là quan Thiếu phủ của nhà trời. Chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu-Vụ Nữ đều thuộc cung Tinh Kỉ, theo địa chi thuộc cung sửu, phân dã của nước Việt, nhưng chòm sao Đẩu-Ngưu là phân dã của nước Ngô. Tu Nữ là tên gọi của vợ lẽ, hạng thấp trong bọn đàn bà, chủ về vải lụa may vá cưới gả. Nếu sao Thủy phạm vào là muôn vật không tốt; sao Hỏa phạm vào là vải lụa có đầy, nhiều người chết; sao Thổ phạm vào thì có người đàn bà chết; sao Kim phạm vào thì có dấy binh. phía bắc có chòm sao Chức Nữ. Chính nghĩa: Chòm sao Chức Nữ có ba ngôi sao ở phía đông chòm sao Thiên Kỉ phía bắc sông Ngân Hán, là con gái của nhà trời, chủ về hạt quả vải lụa vật báu. Nếu đế vương có lòng hiếu thông đến thần minh thì ba ngôi sao này cùng sáng; nếu không thì mờ mà nhỏ, việc làm của đàn bà trong thiên hạ bị bỏ trễ; nếu sáng thì được tốt; nếu sao sáng to mà có tia thì vải lụa đắt lên; nếu không thấy thì có dấy binh. Tấn thư thiên văn chí chép: "Thái sử lệnh của nhà Tấn tên là Trần Trác xét sách chép về các ngôi sao mà ba nhà Cam-Thạch-Vu soạn, có cả thảy hai trăm tám mươi ba quan, một ngàn bốn trăm sáu mươi tư ngôi sao, lấy đó làm rường cột. Nay nói sơ qua như vậy để sắp đặt thiên quan." Chòm sao Chức Nữ là cháu gái của nhà trời. Sách ẩn: Chòm sao Chức Nữ là cháu của trời. Xét: Kinh châu chiêm chép: "Chòm sao Chức Nữ còn có tên là chòm sao Thiên Nữ, là con gái của thiên tử." Thái sử công tìm cái biến đổi của vòm trời thời xưa nhưng chưa có cái xét được ở ngày nay. Xét qua khoảng hai trăm bốn mươi hai năm chép trong kinh Xuân thu có thấy Mặt Trời bị che ba mươi sáu lần, sao chổi xuất hiện ba lần, Chính nghĩa: Tháng bảy năm thứ mười bốn thời Văn Công có sao phạm vào chòm sao Bắc Đẩu; mùa đông năm thứ mười bảy thời Chiêu Vương có sao chổi xẹt vào chòm sao Đại Thần; năm thứ mười ba thời Ai Công có sao chổi xuất hiện ở khoảng trời phía đông. vào thời Tương Công nước Tống có sao rơi như mưa. Chính nghĩa: Là nói ngày đầu mậu thân tháng giêng năm thứ mười sáu thời Hi Công, có năm khối đá vụn rơi xuống nước Tống. Bấy giờ thiên tử suy yếu, chư hầu dùng sức đánh dẹp, ngũ bá thay nhau nổi lên, Chính nghĩa: Triệu Kì chú giải Mạnh Tử chép: "Đấy là Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Mục Công nước Tần, Tương Công nước Tấn, Trang Vương nước Sở." đổi làm chủ mệnh, từ đó về sau người ta lấy đông hiếp ít, nước lớn chiếm nước nhỏ. Các nước Tần, Sở, Ngô, Việt là nước Di-Địch nhưng mạnh lên xưng bá. Chính nghĩa: Tổ tiên của vua nước Tần là Phi Tử lúc đầu được phong ở nước Tần, đất ấy tại chỗ rợ Nhung phía tây. Vua nước Sở tên là Dục Hùng lúc đầu được phong ở đất Đan Dương, là chỗ rợ Man châu Kinh. Vua nước Ngô là Thái Bá trú ở nước Ngô, nhà Chu nhân đó phong cho ở nước Ngô, hiệu là Câu Ngô. Tổ tiên vua nước Việt là con của vua Thiếu Khang lúc đầu được phong ở nước Việt để coi việc cúng tế vua Vũ, đất ấy là đất Việt phía đông. Đều là đất của người Nhung-Di, cho nên nói là nước Di-Địch. Sau này Mục Công nước Tần, Trang Vương nước Sở, vua Hạp Lư nước Ngô, vua Câu Tiễn nước Việt đều được phong làm bá. Họ Điền cướp ngôi vua nước Tề, Chính nghĩa: Năm thứ hai mươi ba thời An Vương nhà Chu thì Khang Công nước Tề chết, nhân đó Điền Hòa chiếm nước Tề mà lập làm vua nước Tề. ba nhà chia nước Tấn, Chính nghĩa: Năm thứ hai mươi sáu thời An Vương nhà Chu thì Vũ Hầu nước Ngụy, Văn Hầu nước Hàn, Kính Hầu nước Triệu cùng diệt Tĩnh Công nước Tấn mà chia nước Tấn làm ba nước. vào thời Chiến quốc. Tranh nhau ở việc đánh chiếm, cùng nổi binh cách, nhiều thành ấp bị phá, do đó đói kém, bệnh dịch khổ sở, vua tôi cùng lo lắng, việc cúng tế xem xét sao trời để đoán tốt xấu lại càng sốt sắng. Gần đây bảy nước mười hai chư hầu thay nhau xưng vương. Chính nghĩa: Vào năm thứ ba thời Hiếu Cảnh nhà Hán có Ngô Vương tên là Tị, Sở Vương tên là Mậu, Triệu Vương tên là Toại, Hoài Nam Vương tên là Tịch Quang, Truy Xuyên Vương tên là Hòên, Giao Đông Vương tê là Hùng Cừ. những kẻ nêu thuyết 'tung hoành' nối theo, mà những người như Cao, Đường, Cam, Thạch lại dựa vào việc xảy ra ở thời ấy để bàn về thư truyện của mình, cho nên việc bói đoán ấy lẫn lộn như gạo muối. Chính nghĩa: Lẫn lộn là lộn xộn. Gạo muối là lặt vặt. Ý nói là bọn Cao, Đường, Cam-Thạch dựa theo việc xảy ra ở thời mình mà bàn về những việc quái lạ mà thư truyện chép, cho nên việc bói đoán của họ lộn xộn lặt vặt. Có chép tại Hán thư ngũ hành chí. Hai mươi tám chòm sao chủ mười hai châu, Chính nghĩa: Hai mươi tám chòm sao trên vòm trời là nói phía đông có Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ; phía bắc có Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích; phía tây có Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tủy, Sâm; phía nam có Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Tinh kinh chép: "Giác-Cang là phân dã của nước Trịnh, chủ châu Duyện; Đê-Phòng-Tâm là phân dã của nước Tống, chủ châu Dự; Vĩ-Cơ là phân dã của của nước Yên, chủ châu U; Nam Đẩu-Khiên Ngưu là phân dã của nước Ngô-Việt, chủ châu Dương; Tu Nữ-Hư là phân dã của nước Tề, chủ châu Thanh; Nguy-Thất-Bích là phân dã của nước Vệ, chủ châu Tinh; Khuê-Lâu là phân dã của nước Lỗ, chủ châu Từ; Vị-Mão là phân dã của nước Triệu, là châu Kí; Tất-Tủy-Sâm là phân dã của nước Ngụy, chủ châu Ích; Đông Tỉnh-Dư Quỷ là phân dã của nước Tần, chủ châu Ung; Liễu-Tinh-Trương là phân dã của nhà Chu, chủ miền Tam Hà; Dực-Chẩn là phân dã của nước Sở, chủ châu Kinh." chòm sao Bắc Đẩu chủ hai mươi tám chòm sao này đã có từ xưa nay đã lâu rồi. Chính nghĩa: Ý nói chòm sao Bắc Đẩu dựng nên mười hai cung sao, chủ mười hai châu, hai mươi tám chòm sao, đã dùng từ xưa, đến nay đã lâu lắm rồi. Muốn xét điềm báo của nước Tần thì xem ở sao Thái Bạch, đoán ở sao Lang, chòm sao Hồ. Chính nghĩa: Sao Thái Bạch, sao Lang, chòm sao Hồ đều là những ngôi sao ở phía tây, cho nên xem để đoán về nước Tần. Muốn xét điềm báo của các nước Ngô-Sở thì xem ở sao Huỳnh Hoặc, đoán ở chòm sao Điểu Hành. Chính nghĩa: Sao Huỳnh Hoặc, chòm sao Điểu Hành, đều là các ngôi sao ở phía nam, cho nên xét về nước Ngô-Sở. Chòm sao Điểu Hành là chòm sao Liễu. Còn chép là chòm sao Chú Trương. Xét điềm báo về nước Yên-Tề thì xem ở sao Thần, đoán ở chòm sao Hư-Nguy. Chính nghĩa: Sao Thần, chòm sao Hư-Nguy đều là các ngôi sao ở phía bắc, cho nên xem xét nước Yên-Tề. Xét điềm báo về nước Tống-Trịnh thì xem ở sao Tuế, đoán ở chòm sao Phòng-Tâm. Chính nghĩa: Sao Tuế, chòm sao Phòng-Tâm đều là các ngôi sao ở phía đông, cho nên xem xét nước Tống-Trịnh. Xét điềm báo về nước Tấn cũng xem ở sao Thần, đoán ở chòm sao Sâm, sao Phạt. Chính nghĩa: Sao Thần, chòm sao Sâm, sao Phạt đều là các ngôi sao ở phía bắc, phía tây, cho nên xem xét nước Tấn. Kịp lúc nước Tần chiếm lấy nước Tam Tấn, nước Yên, nước Đại, từ sông-núi về phía nam là đất Trung Quốc. Chính nghĩa: Sông là sông Hà. Núi là núi Hoa. Từ núi Hoa và sông Hà về phía nam là đất Trung Quốc. Trung Quốc đối với trong bốn cõi là hướng về phía đông nam, là phía dương; Chính nghĩa: Nhĩ nhã chép: "Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man là ở trong bốn cõi." Trung Quốc từ sông núi hướng về phía đông nam là phía dương. Phía dương là Mặt Trời, sao Tuế, sao Huỳnh Hoặc, sao Trấn; Chính nghĩa: Mặt Trời là dương. Sao Tuế chủ ở phía đông, sao Huỳnh Hoặc chủ ở phía nam, sao Trấn chủ ở phía giữa, đều tại phía nam và phía đông, là phía dương. đoán ở các ngôi sao phía nam chòm sao Thiên Nhai, chòm sao Tất phía ấy. Chính nghĩa: Chòm sao Thiên Nhai có hai ngôi sao, chủ chòm sao Tất-Mão, chủ về ranh giới của đất nước. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là nước của người Hoa-Hạ, phía bắc chòm sao Thiên Nhai là nước của người Di-Địch, vậy là chòm sao Tất chủ phía dương. Phía tây bắc là các nước người Hồ, Mạch, Nguyệt Chi, là dân mặc áo choàng da đeo cung tên, là phía âm; Chính nghĩa: Mạch, đọc là 'mạch'. Chi, đọc là 'chi'. Từ sông-núi về phía tây bắc là các nước Tần-Tấn, là phía âm. Phía âm là Mặt Trăng, sao Thái Bạch, sao Thần; Chính nghĩa: Mặt Trăng là âm. Sao Thái Bạch chủ phía tây, sao Thần chủ phía bắc, đều tại phía bắc và phía tây, là phía âm. đoán ở các ngôi sao phía bắc chòm sao Thiên Nhai, chòm sao Mão chủ phía ấy. Chính nghĩa: Phía bắc chòm sao Thiên Nhai là nước của người Di-Địch, vậy thì chòm sao Mão làm chủ phía ấy, là phía âm. Cho nên sông núi ở Trung Quốc thường chảy về phía đông bắc, đầu nguồn của nó là ở đất Lũng-Thục, phía cuối ngọn là ở miền Bột-Kiệt. Chính nghĩa: Ý nói sông và núi ở Trung Quốc chảy về phía đông bắc, như đầu núi Nam ở núi Thông dãy núi Côn Lôn chạy theo phía đông bắc liền núi Lũng mà đến núi Nam, núi Hoa, qua sông Hà lên phía đông bắc đến tận núi Đãng Thạch. Nguồn nước sông Hà chảy từ dãy núi Côn Lôn; sông Vị, sông Mân có nguồn từ núi Lũng, đều chảy về phía đông-đông bắc vào biển Bột. Cho nên người Tần-Tấn ưa dùng binh, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Nước Tần-Tấn ở góc tây nam lên phía bắc là phía âm, vẫn giống với dân đeo cung tên là người Hồ-Mạch, cho nên ưa dùng binh. cũng xem ở sao Thái Bạch, sao Thái Bạch chủ Trung Quốc, mà người Hồ-Mạch nhiều lần xâm lấn Trung Quốc, Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Nếu sao Thái Bạch ở phía bắc, Mặt Trăng ở phía nam thì Trung Quốc thua; nếu sao Thái Bạch ở phía nam, Mặt Trăng ở phía bắc thì Trung Quốc không thua." chỉ xem sao Thần, sao Thần chuyển động ra vào nhanh chóng, cho nên sao này thường chủ người Di-Địch, đây là lẽ thường. Đây là thay làm khách và chủ. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Sao Thần không ra thì sao Thái Bạch là khách, sao Thần ra thì sao Thái Bạch là chủ. Sao Thần, sao Thái Bạch không theo nhau, dẫu là chủ việc quân nhưng không đánh. Sao Thần mọc ở phía đông, sao Thái Bạch mọc ở phía tây, nếu sao Thần mọc ở phía tây thì sao Thái Bạch mọc ở phía đông ngăn cách, trên bãi dấu có binh nhưng không đánh, vào chòm sao nào thì mới đánh. Nếu sao Thần vào giữa sao Thái Bạch năm ngày, vào rồi ra lên phía trên thì mất quân tổn tướng, khách thắng. Nếu không ra thì khách thua. Xem cờ phất về phía nào. Sao Huỳnh Hoặc đổi màu, ngoài thì trị binh, trong thì sửa lệnh, cho nên nói: "Dẫu có thiên tử sáng suốt cũng phải xem sao Huỳnh Hoặc mọc ở đâu." Sách ẩn: Đây là dựa vào Xuân thu văn diệu câu, cho nên nói là "cho nên nói". Chư hầu thay nhau mạnh lên, bấy giờ có ghi lại những việc quái lạ nhưng không chép lại được. Vào thời Thủy Hoàng nhà Tần, trong mười lăm năm có sao chổi xuất hiện bốn lần, có lần xuất hiện lâu đến tám chục ngày, dài suốt cả vòm trời. Sau đó nhà Tần bèn đem binh diệt sáu nước, chiếm cả Trung Quốc, ngoài đánh người rợ bốn phía, người chết ngổn ngang, do đó bọn vua Trương Sở [1] cùng nổi dậy, trong vòng ba chục năm, Chính nghĩa: Từ năm thứ mười sáu thời Thủy Hoàng nhà Tần dấy binh diệt nước Hàn đến năm thứ năm thời Cao Tổ nhà Hán diệt Hạng Vũ là ba mươi năm. quân lính dẫm xéo lẫn nhau không sao kể hết. Từ thời đánh Si Vưu [2] đến nay chưa từng có như vậy. Vào lúc Hạng Vũ cứu thành Cự Lộc, sao Uổng Thỉ xẹt về phía tây, chư hầu miền Sơn Đông bèn hợp tung, sang phía tây chôn quân Tần, giết sạch người thành Hàm Dương. Nhà Hán nổi lên, ngũ tinh tụ [3] ở chòm sao Đông Tỉnh. Lúc bị vây ở huyện Bình Thành, Sách ẩn: Năm thứ bảy thời Cao Tổ nhà Hán. Mặt Trăng có bảy vòng quầng sáng ở chòm sao Sâm-Tất. Xét: Thiên văn chí chép: "Đoán rằng giữa chòm sao Tất-Mão là chòm sao Thiên Nhai. Phía bắc chòm sao Thiên Nhai là chủ rợ Hồ. Phía nam chòm sao Thiên Nhai là chủ Trung Quốc. Chòm sao Mão là chủ nước Hung Nô, chòm sao Sâm là chủ nước Triệu; chòm sao Tất là chủ quân ở biên giới. Năm đó Cao Tổ tự đem quân đánh nước Hung Nô, đến huyện Bình Thành, bị Mặc Đốn vây bảy ngày mới thoát." Vậy thì vòm trời có dấu hiệu báo trước. Bảy vòng quầng sáng là điềm báo bị vây bảy ngày. Vào lúc họ Lữ làm loạn, Mặt Trời bị che lấp, buổi ngày trời tối. Bảy nước Ngô-Sở phản nghịch, sao chổi xuất hiện dài mấy trượng, sao Thiên Cẩu xẹt qua phân dã của nước Lương; kịp lúc dấy binh, rút cuộc thây phơi máu chảy ở nước ấy. Các năm Nguyên Quang, Nguyên Thú, cờ Si Vưu hai lượt xuất hiện, dài đến nửa vòm trời, sau đó ở kinh sư xuất quân đi đánh bốn lần, Chính nghĩa: Năm Nguyên Quang thứ nhất, bọn Thái trung đại phu tên là Vệ Thanh đánh nước Hung Nô; năm Nguyên Thú thứ hai, bọn Quán quân Hầu tên là Khứ Bệnh đánh rợ Hồ; năm Nguyên Đỉnh thứ năm, bọn Vệ úy tên là Lộ Bác Đức phá nước Nam Việt; kịp lúc bọn Hàn Thuyết phá nước Đông Việt và phá rợ Di miền tây nam, đặt ra hơn chục quận; năm Nguyên Phong thứ nhất, Lâu thuyền tướng quân tên là Dương Bộc đánh nước Triều Tiên. hơn chục năm đánh rợ Di-Địch, mà đánh rợ Hồ lại càng gắt hơn. Điềm báo nước Việt mất là sao Huỳnh Hoặc phạm vào chòm sao Nam Đẩu; Chính nghĩa: Chòm sao Nam Đẩu là phân dã của Ngô-Việt. điềm báo nước Triều Tiên bị diệt là sao chổi xẹt qua chòm sao Nam Hà; Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Giữa năm Nguyên Phong thời Vũ Đế, sao chổi xẹt vào chòm sao Hà Thú, đoán rằng: 'Chòm sao Nam Thú là cửa của người Việt, chòm sao Bắc Thú là cửa của người Hồ'. Sau đó quân Hán đánh diệt nước Triều Tiên, lập nên quận Lạc Lãng-Huyền Thố. Nước Triều Tiên ở ngoài biển là biểu tượng như nước Việt, lại ở phía bắc là ứng với đất của rợ Hồ." Chòm sao Hà Thú là chòm sao Nam Hà-Bắc Hà. đem quân đánh nước Đại Uyển, có sao chổi xẹt vào sao Chiêu Dao. Chính nghĩa: Một ngôi sao Chiêu Dao ở sao phần chuôi của chòm sao Bắc Đẩu, chủ quân rợ Hồ. Nếu tia sáng đổi mài thì có binh cách nổi lên. Đấy là những dấu hiệu lớn rõ ràng, còn như những dấu hiệu nhỏ lặt vặt khác thì không thể kể hết. Do đó thấy rằng không có dấu hiệu nào xuất hiện trước mà không ứng với các việc xảy ra theo nó. Xem đường chuyển động của Mặt Trăng-Mặt Trời Chính nghĩa: Tấn chước chép: "Sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ trọng [1] thì sao Tuế chuyển đến ba chòm sao; sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ mạnh-tứ quý [2] thì sao Tuế chuyển đến hai chòm sao. Hai chòm sao nhân tám ngày mạnh-quý là mười sáu chòm sao. Ba chòm sao nhân bốn ngày trọng là mười hai chòm sao, cả thảy sao Tuế chuyển qua hai mươi tám chòm sao, mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." để đo sao Tuế chuyển động thuận hay nghịch. Sách ẩn: Họ Diêu xét: Thiên quan chiêm chép: "Sao Tuế còn gọi là sao Ứng, sao Kinh, sao Kỉ." Vật lí luận chép: "Mỗi năm chuyển đến một chòm sao, gọi là sao Tuế, vậy mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." Chính nghĩa: Thiên quan chép: "Sao Tuế là vị thần phương đông chủ hành mộc, tượng trưng cho Thương Đế. Màu sắc của nó sáng mà bên trong có màu vàng là thiên hạ yên ổn. Sao Tuế thường sáng mà không dao động, nếu dao động thì nghề làm ruộng bị mất mùa. Sao Tuế chuyển động nhanh chậm thì không nên đánh nước tương ứng với nó, có thể đánh nước khác; chuyển động sai đường thì nhiều người dân bị bệnh; thấy sẽ có việc vui. Vị vua của nước ở tương ứng với nó có may mắn thì nó sẽ không dao động. Nếu vua nước đó hay cáu giận thì nó sẽ tỏa tia sáng, là không có lòng nhân; sao Tuế vận chuyển ngược đường thì vua nươc đó càng nhân đức. Sao Tuế chủ nghề nông, chủ về ngũ cốc." Thiên văn chí chép: "Chủ về mùa xuân, chủ những ngày giáp-ất, chủ mùa xuân trong bốn mùa. Chủ về lòng nhân trong ngũ thường, chủ về tướng mạo trong ngũ sự. Nếu nhà vua có lỗi là tướng mạo bị lầm, khiến cho pháp lệnh trái ngược, làm tổn hại hành mộc, sẽ có sao Tuế phạt tội." Chủ về hành mộc ở phương đông, chủ mùa xuân, chủ ngày giáp-ất. Nếu nhà vua làm mất lẽ phải thì sao Tuế xuất hiện phạt tội. Sao Tuế chuyển động có lúc nhanh lúc chậm, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Ngũ tinh hễ mọc sớm gọi là chuyển động nhanh, chuyển động nhanh ứng với người khách; mọc muộn gọi là chuyển động chậm, ứng với chủ nhà. Ngũ tinh chuyển động nhanh hay chậm, tất có dấu hiệu trên vòm trời hiện ra."[.color] chuyển động đến chòm sao nào thì ứng với nước đó. Chuyển đến phân dã của nước nào thì không nên đánh nước đó, chỉ nên đánh nước khác. Nó chuyển động hơi nhanh về phía trước gọi là 'nhanh', hơi chậm gọi là 'chậm'. Nếu nhanh thì nước ứng với nó có nạn binh cách không được nghỉ ngơi; nếu chậm thì nước ứng với nó sẽ có việc lo lắng, tướng chết, quân nước đó thua vỡ. Nó chuyển đến đâu, ngũ tình đều chuyển theo mà hội tụ ở cùng một chòm sao, Sách ẩn: Xét: Năm đầu thời Cao Đế nhà Hán, ngũ tinh đều tụ ở chòm sao Đông Tỉnh. Xét Thiên văn chí cũng chép là năm đó sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh, cho nên bốn ngôi sao chuyển theo mà tụ ở đấy. là điềm báo nước tương ứng dưới nó có lẽ phải mà có được thiên hạ. ... [www.sidneyluo.net] ______________________ Chú giải: [1] Tứ trọng: chỉ bốn ngày trọng xuân là giữa mùa xuân, trọng hạ là giữa mùa hạ, trọng thu là giữa mùa thu, trọng đông là giữa mùa đông. [2] Tứ mạnh-tứ quý: chỉ bốn ngày mạnh xuân là đầu mùa muân, mạnh hạ là đầu mùa hạ, mạnh thu là đầu mùa thu, mạnh đông là đầu mùa đông; bốn ngày quý xuân là cuối mùa xuân, quý hạ là cuối mùa hạ, quý thu là cuối mùa thu, quý đông là cuối mùa đông. Xem đường chuyển động của Mặt Trăng-Mặt Trời Chính nghĩa: Tấn chước chép: "Sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ trọng [1] thì sao Tuế chuyển đến ba chòm sao; sao Thái Tuế chuyển đến ngày tứ mạnh-tứ quý [2] thì sao Tuế chuyển đến hai chòm sao. Hai chòm sao nhân tám ngày mạnh-quý là mười sáu chòm sao. Ba chòm sao nhân bốn ngày trọng là mười hai chòm sao, cả thảy sao Tuế chuyển qua hai mươi tám chòm sao, mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." để đo sao Tuế chuyển động thuận hay nghịch. Sách ẩn: Họ Diêu xét: Thiên quan chiêm chép: "Sao Tuế còn gọi là sao Ứng, sao Kinh, sao Kỉ." Vật lí luận chép: "Mỗi năm chuyển đến một chòm sao, gọi là sao Tuế, vậy mười hai năm thì tròn một vòng vòm trời." Chính nghĩa: Thiên quan chép: "Sao Tuế là vị thần phương đông chủ hành mộc, tượng trưng cho Thương Đế. Màu sắc của nó sáng mà bên trong có màu vàng là thiên hạ yên ổn. Sao Tuế thường sáng mà không dao động, nếu dao động thì nghề làm ruộng bị mất mùa. Sao Tuế chuyển động nhanh chậm thì không nên đánh nước tương ứng với nó, có thể đánh nước khác; chuyển động sai đường thì nhiều người dân bị bệnh; thấy sẽ có việc vui. Vị vua của nước ở tương ứng với nó có may mắn thì nó sẽ không dao động. Nếu vua nước đó hay cáu giận thì nó sẽ tỏa tia sáng, là không có lòng nhân; sao Tuế vận chuyển ngược đường thì vua nươc đó càng nhân đức. Sao Tuế chủ nghề nông, chủ về ngũ cốc." Thiên văn chí chép: "Chủ về mùa xuân, chủ những ngày giáp-ất, chủ mùa xuân trong bốn mùa. Chủ về lòng nhân trong ngũ thường, chủ về tướng mạo trong ngũ sự. Nếu nhà vua có lỗi là tướng mạo bị lầm, khiến cho pháp lệnh trái ngược, làm tổn hại hành mộc, sẽ có sao Tuế phạt tội." Chủ về hành mộc ở phương đông, chủ mùa xuân, chủ ngày giáp-ất. Nếu nhà vua làm mất lẽ phải thì sao Tuế xuất hiện phạt tội. Sao Tuế chuyển động có lúc nhanh lúc chậm, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép: "Ngũ tinh hễ mọc sớm gọi là chuyển động nhanh, chuyển động nhanh ứng với người khách; mọc muộn gọi là chuyển động chậm, ứng với chủ nhà. Ngũ tinh chuyển động nhanh hay chậm, tất có dấu hiệu trên vòm trời hiện ra." chuyển động đến chòm sao nào thì ứng với nước đó. Chuyển đến phân dã của nước nào thì không nên đánh nước đó, chỉ nên đánh nước khác. Nó chuyển động hơi nhanh về phía trước gọi là 'nhanh', hơi chậm gọi là 'chậm'. Nếu nhanh thì nước ứng với nó có nạn binh cách không được nghỉ ngơi; nếu chậm thì nước ứng với nó sẽ có việc lo lắng, tướng chết, quân nước đó thua vỡ. Nó chuyển đến đâu, ngũ tình đều chuyển theo mà hội tụ ở cùng một chòm sao, Sách ẩn: Xét: Năm đầu thời Cao Đế nhà Hán, ngũ tinh đều tụ ở chòm sao Đông Tỉnh. Xét Thiên văn chí cũng chép là năm đó sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh, cho nên bốn ngôi sao chuyển theo mà tụ ở đấy. là điềm báo nước tương ứng dưới nó có lẽ phải mà có được thiên hạ. 1. Vào năm Nhiếp Đề Cách: Sách ẩn: Sao Thái Tuế [1] ở cung dần, vào buổi sáng tháng giêng, sao Tuế mọc ở phía đông. Xét: Nhĩ nhã chép: "Sao Tuế ở cung dần gọi là Nhiếp Đề Cách." Lí Tuần nói: "Ý nói là muôn vật nhận khí dương mà mọc lên, cho nên gọi là Nhiếp Đề Cách. Cách là mọc lên." Sao Tuế Âm chuyển từ bên trái sang ở cung dần. Sao Tuế chuyển từ bên phải sang ở cung sửu. Tháng giêng sao Tuế mọc ở chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu ở phía đông, gọi là sao Giám Đức. Sách ẩn: Là tên gọi của sao Tuế mọc ở phía đông vào buổi sáng tháng giêng. Từ đoạn chép dưới là xuất từ lời văn Tinh kinh của họ Thạch. Lại chép: "Sao Tuế ở chòm sao Nam Đẩu-Khiên Ngưu, nếu chuyển sai đường thì mọc ở phần chuôi của chòm sao Bắc Đẩu." Hán thư thiên văn chí chép lời của họ Thạch và lịch Thái Sơ có chỗ không giống. Màu sắc xanh sẫm có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì mọc ở chòm sao Liễu. Nếu mọc sớm thì năm đó có nước lụt, mọc muộn thì có khô hạn. Sao Tuế mọc, chuyển về phía đông mười hai độ, được trăm ngày mới thôi, lại chuyển ngược; chuyển ngược tám độ, được trăm ngày lại chuyển về phía đông. Một năm chuyển được ba mươi độ bảy phần mười sáu phân, mỗi ngày chuyển được một phần mười hai phân, mười hai năm thì chuyển tròn một vòng vòm trời. Thường mọc vào buổi sáng ở phía đông, lặn vào lúc chập tối ở phía tây. 2. Vào năm Thiền Át: Sách ẩn: Tại cung mão. Vào buổi sáng tháng hai, sao Tuế mọc ở phía đông. Nhĩ nhã chép: "Tại cung mão gọi là năm Thiền Át." Lí Tuần nói: "Khí dương đẩy muôn vậy mà mọc lên, cho nên gọi là Thiền Át. Thiền là hết. Át là dừng." Sao Tuế Âm tại cung mão, sao Tuế ở cung tí. Vào buổi sáng tháng hai thì mọc ở chòm sao Vụ Nữ-Hư-Nguy, gọi là sao Giáng Nhập. Sao lớn có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Trương, năm đó sẽ có nước lụt to. 3. Vào năm Chấp Từ: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung thìn là năm Chấp Từ." Lí Tuần nói: "Những loài ẩn nấp đều thong thả mà mọc lên, cho nên gọi là Chấp Từ. Chấp là ẩn náu. Từ là thong thả." Sao Tuế Âm ở cung thìn, sao Tuế ở cung hợi. Vào buổi sáng tháng ba mọc ở chòm sao Doanh Thất-Đông Bích, gọi là sao Thanh Chương. Sao Thanh Chương rất sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Chẩn. Nếu mọc sớm thì năm đó trời khô hạn, mọc muộn thì có nước lụt. 4. Vào năm Đại Hoang Lạc: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung tị là năm Đại Hoang Lạc." Họ Diêu nói: "Muôn vật đều phơi phới mà mọc lên, rồi chợt rời rạc, cho nên gọi là Hoang Lạc." Sao Tuế Âm ở cung tị, sao Tuế ở cung tuất. Vào buổi sáng tháng tư, sao Tuế mọc ở chòm sao Khuê-Lâu-Vị-Mão, gọi là sao Biền Chủng. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Lộ Chương." Sách ẩn: Thiên văn chép chép là Lộ Chủng. Chính nghĩa: Biền, đọc là 'bạch biên phiên'. Chủng, đọc là 'chi dũng phiên'. Sáng rừng rực màu đỏ, có tia sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Cang. 5. Vào năm Đôn Tang: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung ngọ là năm Đôn Tang." Tôn Viêm nói: "Đôn là đầy. Tang là là khỏe. Ý nói muôn vật tươi tốt." Vi Chiêu nói: "Đôn, đọc là 'đốn'."Sao Tuế Âm ở cung ngọ, sao Tuế ở cung dậu. Vào buổi sáng tháng năm mọc ở chòm sao Vị-Mão-Tất, gọi là sao Khai Minh. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Thiên Tân." Sách ẩn: Thiên văn chí chép là sao Khải Minh. Màu sáng sực rỡ là năm đó ngưng việc quân, chỉ có lợi cho vương hầu, không có lợi cho việc quân. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Phòng. Nếu mọc sớm thì năm đó có khô hạn, mọc muộn là có nước lụt. 6. Vào năm Diệp Hiệp: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung mùi là năm Diệp Hiệp." Lí Tuần nói: "Khí dương nuôi nấng muôn vật, cho nên gọi là Hiệp Hiệp. Hiệp là hòa. Hiệp là hợp." Sao Tuế Âm ở cung mùi, sao Tuế ở cung Thân. Vào buổi sáng tháng sáu thì sao Tuế mọc ở chòm sao Tuỷ Huề-Sâm, gọi là sao Trường Liệt. Màu sáng rõ ràng là năm đó dùng binh có lợi. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Cơ. ... [www.sidneyluo.net] _________________ Chú giải: [1] Thái Tuế: còn gọi là sao Tuế Âm-Thái Âm, là một ngôi sao giả được đặt ra xem như chuyển động ngược với sao Tuế. Sao Tuế chuyển động ngược với Mặt Trời, cho nên đặt ra sao Thái Tuế chuyển động cùng chiều với Mặt Trời. 7. Vào năm Thôn Than: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung thân là năm Thôn Than." Lí Tuần nói: "Thôn Than là nói về dáng vẻ muôn vật trổ lên rồi rạp xuống." Thôn, đọc là 'tha côn phiên'. Than, đọc là 'tha đan phiên'. Sao Tuế Âm ở cung thân, sao Tuế ở cung mùi. Vào buổi sáng tháng bảy, sao Tuế mọc ở chòm sao Đông Tỉnh-Dư Quỷ, gọi là năm Đại Âm. Màu sắc sáng trắng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở chòm sao Khiên Ngưu. 8. Vào năm Tác Ngạc: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung dậu là năm Tác Ngạc." Lí Tuần nói: "Tác Ngạc là nói về dáng vẻ muôn vật đâm lên mà mọc." Ngạc, đọc là 'ngạc'. Thiên văn chí chép là Tác Ngạch, đọc là 'ngũ ngạch phiên'. So với Sử kí-Nhĩ nhã đều khác. Sao Tuế Âm ở cung dậu, sao Tuế ở cung ngọ. Vào buổi sáng tháng tám, sao Tuế mọc ở chòm sao Liễu-Thất Tinh-Trương, gọi là sao Trường Vương. Sáng rõ có tia thì nước ứng với nó việc lành, lúa chín. Nếu chuyển sai đường thì có thấy mọc ở chòm sao Nguy. Năm đó có khô hạn nhưng việc lành, có tang về đàn bà, người sân bị bệnh. 9. Vào năm Yêm Mậu: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung tuất gọi là năm Yêm Mậu." Tôn Viêm nói: "Mọi vật đều bị che lấp, cho neê gọilà Yêm Mậu. Yêm là che. Mậu là lấp." Thiên văn chí chép là Yểm Mậu. Sao Tuế Âm ở cung mậu, sao Tuế ở cung tị. Vào buổi sáng tháng chín, sao Tuế mọc ở chòm sao Dực-Chẩn, gọi là sao Thiên Huy. Sách ẩn: Họ Lưu đọc là 'huy duy phiên'. Sáng rõ màu trắng. Nếu chuyển sai đường thì có thấy ở chom sao Đông Bích. Năm đó có nước lụt, có tang về đàn bà. 10. Vào năm Đại Uyên Hiến: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tại cung hợi là năm Đại Uyên Hiến." Tôn Viêm nói: "Uyên là sâu. Đẩy vạn vật vào chỗ sâu, nói là che lấp ở ngoài." Sao Tuế Âm ở cung hợi, sao Tuế ở cung thìn. Vào buổi sáng tháng mười, sao Tuế mọc ở chòm sao ở chòm sao Giác-Cang, gọi là sao Đại Chương. Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn gọi là sao Thiên Hoàng." Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí cũng chép là Thiên Hoàng. Màu xanh sẫm, buổi sáng sao Tuế như nhảy nhót hoặc ẩn dấu thì gọi là sao Chính Bình. Năm đó nên dấy binh được, tướng soái tất có công; nếu vua nước ứng với nó có đức thì sẽ thu lấy bốn cõi. Nếu chuyển sai đường thì sẽ thấy mọc ở chòm sao Lâu. 11. Vào năm Khốn Đôn: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Ở cung tí là năm Khốn Đôn." Tôn Viêm nói: "Khốn Đôn là lẫn lộn. Ý nói muôn vật mới mọc, lẫn lộn ở dưới suối vàng." Sao Tuế Âm ở cung Tí, sao Tuế ở cung mão. Vào buổi sáng tháng mười một, sao Tuế mọc ở chòm sao Đê-Phòng-Tâm, gọi là sao Thiên Tuyền. Rất sáng có màu vàng là có việc lành ở sông hồ, không lợi cho việc dấy binh. Nếu chuyển sai đường thì có thấy ở chòm sao Mão. 12. Vào năm Xích Phấn Nhược: Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: " Tại cung sửu là năm Xích Phấn Nhược." Lí Tuần nói: "Ý nói khí dương bốc lên. Nhược là thuận." Sao Tuế Âm ở cung sửu, sao Tuế ở cung dần. Vào buổi sáng tháng mười hai, sao Tuế mọc ở chòm sao Vĩ-Cơ, gọi là sao Thiên Hạo. Sách ẩn: Hạo, đọc là 'hạo'. Đen bóng, màu đen rất sáng. Nếu chuyển sai đường thì thấy mọc ở choò sao Sâm. Sao Tuế phải mọc đúng chỗ của nó mà lại không đúng chỗ, mọc đúng chỗ nhưng lại dao động sang bên phải hoặc sang bên trái, không nên chuyển đi lại chuyển đi, hoặc hội với sao khác thì nước ứng với nó sẽ gặp việc xấu. Nếu mọc lâu ở nước nào là điềm báo vua nước đó có đức dày. Nếu tỏa tia sáng hoặc dao động lúc to lúc nhỏ, nhiều lần đổi màu thì vua nước ứng với nó sẽ có việc buồn. Nếu sao Tuế chuyển động sai chỗ như sau: Chuyển về phía đông bắc được ba tháng thì xuất hiện chòm sao Thiên Bảng, Chính nghĩa: Bảng, đọc là 'bồ giảng phiên'. Phần cốt của sao Tuế sẽ tan ra thành chòm sao Thiên Thương-Thiên Bồi-Thiên Xung-Thiên Hoạt-Quốc Tinh-Thiên Sàm và chòm sao Đăng Thiên-Kinh Chân và chòm sao Thiên Viên, Thiên Viên, Thương Tổi, đều là điềm báo tai họa. Chòm sao Thiên Bảng còn gọi là chòm sao Giác Tinh, phần đầu giống ngôi sao mà phần đuôi lại nhọn, dài bốn trượng, mọc ở phía đông bắc, phía tây. Nếu nó mọc thì thiên hạ có nạn binh cách. dài bốn trượng, Sách ẩn: Xét: Thiên văn chí chép lời văn trên đều xuất từ Tinh kinh của họ Cam, mà Thiên văn chí cũng chép cả lời của họ Thạch, nhưng đây không chép. Họ Thạch tên là Thân, họ Cam tên là Đức. đuôi nhọn, tiến về phía đông nam, được ba tháng thì sinh ra sao chổi, Chính nghĩa: sao chổi trên bầu trời còn có tên là sao quét, phần đầu giống ngôi sao, phần đuôi giống cái chổi, nhỏ thì dài mấy thước, lớn thì suốt cả bầu trời, nhưng nó vốn không tỏa sáng, phải mượn ánh sáng của Mặt Trời mà tỏa sáng, cho nên xuất hiện vào buổi đêm thì chuyển về phía đông, xuất hiện vào buổi sáng thì chuyển về phía tây, như phía nam hoặc phía bắc của Mặt Trời đều hướng theo ánh sáng của Mặt Trời. Tỏa ra tia sáng về phía nào thì gây tai họa ở phía đó, nếu xuất hiện sẽ có dấy binh, thay cũ đổi mới, nước mà sao chổi hướng về sẽ suy yếu. dài hai trượng giống sao chổi. Nếu lùi về phía tây bắc thì ba tháng sau sinh ra chòm sao Thiên Sàm, Chính nghĩa: Sàm, đọc là 'sở hàm phiên'. Chòm sao Thiên Sàm mọc ở phía tây nam, dài bốn trượng, đuôi nhọn. Kinh Phòng nói: "Chòm sao Thiên Sàm là biểu tượng của binh cách, máu đỏ chảy trên mặt đất trải ngàn dặm, xương khô phơi la liệt." Thiên văn chí chép: "Chòm sao Thiên Thương chủ về binh loạn." dài bốn trượng, đuôi nhọn. Lùi về phía tây nam được ba tháng thì mọc ra chòm sao Thiên Thương, Chính nghĩa: Thương, đọc là 'sở hàng phiên'. Chòm sao Thiên Thương dài mấy trượng, hai đầu nhọn, mọc ở phía tây nam. Nếu nó xuất hiện thì không quá ba tháng sẽ có nạn nước loạn mất, vua nằm chết. Thiên văn chí chép: "Vào thời Hiếu Văn, vào buổi đêm có chòm sao Thiên Thương mọc ở phía tây nam, đoán rằng là điềm báo có binh loạn. Tháng mười một năm thứ sáu, người Hung Nô vào quận Thượng-Vân Trung, nhà Hán phát binh để giữ kinh sư." dài mấy trượng, hai đầu nhọn. Xem kĩ nó xuất hiện ứng với nước nào thì nước đó không nên làm việc dùng binh. Nó xuất hiện nổi rồi lại chìm thì nước ứng với nó sẽ có việc đắp đất; nếu xuất hiện chìm rồi lại nổi thì nước ứng nó sẽ mất. Nếu màu đỏ mà có tia thì nước ứng với nó sẽ có việc lành, chống giữ mà đánh nước khác sẽ không thắng được. Nếu màu đỏ vàng mà đậm thì nước ứng với nó sẽ được mùa to. Nếu màu xanh trắng hoặc đỏ thẫm thì nước ứng với nó sẽ có việc buồn. Nếu sao Tuế chuyển vào Mặt Trăng thì nước ứng với nó sẽ cách chức quan Tể tướng; nếu phạm với sao Thái Bạch thì nước ứng với nó sẽ vỡ quân. Sao Tuế còn gọi là sao Nhiếp Đề, sao Trung Hoa, sao Ứng, sao Kỉ. Chòm sao Doanh Thất là thanh miếu, sao Tuế là miếu. Sao Quốc Hoàng, Chính nghĩa: Sao Quốc Hoàng lớn mà màu đỏ như sao Nam Cực Lão Nhân, cách mặt đất ba trượng, hình như bó đuốc lửa. Nếu xuất hiện thì trong ngoài sẽ có nạn binh cách. lớn mà màu đỏ, hình như sao Nam Cực. Tập giải: Từ Quảng nói: "Là sao Lão Nhân." Xuất hiện ở đâu là ở đó có dấy binh, binh mạnh, nếu đánh chỗ ấy sẽ không có lợi. Sao Chiêu Minh, Sách ẩn: Xét: Xuân thu hợp thành đồ chép: "Là thần của Xích Đế, hình như sao Thái Bạch, có bảy tia sáng." Thích danh chép là sao Bút, có một dải khí, đuôi nhọn như cái bút, cũng gọi là sao Bút. lớn mà màu trắng, không có tia sáng lúc lên lúc xuống. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như cái khung cửi va chân, trên khung có chín cái chổi hướng lên, là cốt của sao Huỳnh Hoặc. Xuất hiện ở nước nào thì nước đó có binh cách, nhiều việc. Sao Ngũ Tàn, Sách ẩn: Mạnh Khang nói: "Ngoài sao có khí màu xanh như quầng sáng, có tua, là cốt của sao Trấn." Chính nghĩa: Sao Ngũ Tàn còn gọi là sao Ngũ Phong xuất hiện ở phân dã phía chính đông miền đông. Hình như sao Thần, cách mặt đất khoảng sáu-bảy trượng. Nếu xuất hiện là điềm báo ngũ phân hủy hoại, đại thần bị bắt giết. Xuất hiện ở phân dã phía chính đông miền đông. Hình sao này giống sao Thần, cách mặt đất khoảng sáu trượng. Sao Đại Tặc, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Hình như cái chổi, dài chín thước, là cốt của sao Thái Bạch." Chính nghĩa: Sao Đại Tặc còn gọi là sao Lục Tặc, mọc ở phía chính nam, phân dã ở phương nam. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động có tia sáng, nếu xuất hiện thì tai họa khắp thiên hạ. Xuất hiện ở phân dã phía chính nam phương nam. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động, có tia. Sao Tư Nguy, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Sao này lớn mà có đuôi, hai sừng, là cốt của sao Huỳnh Hoặc." Chính nghĩa: Sao Tư Nguy mọc ở phân dã phía chính tây phương tây. Lớn như sao Thái Bạch, cách mặt đất khoảng sáu trượng. Xuất hiện là điềm báo thiên tử làm việc bất nghĩa mất nước mà hào kiệt nổi lên. Mọc ở phân dã phía chính tây miền tây. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu trắng, giống sao Thái Bạch. Sao Ngục Hán, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Giữa màu xanh ngoài màu đỏ, dưới có hai cái chổi dọc ngang, là cốt của sao Trấn." Hán thư thiên văn chí chép sao Ngục Hán còn gọi là sao Hàm Hán. mọc ở phân dã phía chính bắc phương bắc. Sao này cách mặt đất khoảng sáu trượng, lớn mà màu đỏ, nhiều lần dao động, xem kĩ phía trong có màu xanh. Trên là sao xuất hiện ở bốn phân dã, không chỉ xuất hiện ở một phương, ứng với dưới nó sẽ có binh cách, đánh không được lợi. Mạch đất có ánh sáng, xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất khoảng ba trượng, ánh sáng như Mặt Trăng mới mọc. Nếu xuất hiện ở đâu thì ở đấy có loạn; nếu loạn tất diệt, nếu có đức thì mới yên. Sao Chúc, hình như sao Thái Bạch, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Trên sao này có ba cái chổi hướng lên trên, là cốt của sao Trấn." Đã xuất hiện rồi không chuyển động. Xuất hiện rồi sẽ tự mất, ứng với thành ấp nào thì nơi đó có loạn. Giống sao mà không phải sao, như mây mà chẳng phải mây gọi là dải Quy Tà. Tập giải: Lí Kì nói: "Tà, đọc là 'xà'." Mạnh Khang nói: "Sao này có hai đầu chổi màu đỏ hướng lên trên, trên có nắp như dải khí, dưới có các sao liền kề nhau." Nếu dải Quy Tà xuất hiện thì có kẻ theo hàng. Sao là khí tan của kim, gốc của nó là lửa. Nếu sao nhiều thì tốt, sao ít thì xấu. Dòng Ngân Hán cũng là khí tan của kim, Sách ẩn: Xét: Nước sinh từ kim, khí tan là khí hơi. Hà đồ quát địa tượng chép: "Dòng Hà Tinh là dòng Thiên Hán." gốc của nó là nước. Nếu dòng Ngân Hán có nhiều sao thì có nhiều nước ngập, ít sao thì khô hạn, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Dòng Thiên Hán là dòng Hà Hán. Nước sinh từ kim. Nhiều hay ít là nói sao trong dòng Thiên Hán nhiều hay ít." đấy là lẽ thường. Tiếng Thiên Cổ là tiếng như sấm mà không phải sấm, tiếng phát ra từ đất mà không phải từ đất. Tiếng nó phát ở đâu là có binh cách ở đó Sao Thiên Cẩu, hình như dải sao băng lớn, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Sao này có đuôi, bên cạnh có cái chổi ngắn, dưới có hình như con chó, là cốt của sao Thái Bạch." có tiếng, khi xẹt xuống mặt đất thì có hình như con chó. Xẹt xuống có lửa sáng, nhìn từ xa như có lửa cháy rừng rực suốt đến bầu trời. Phần dưới nó tròn như mấy khoảnh ruộng, trên nhọn thì có màu vàng, là điềm trong ngàn dặm việc quá quân giết tướng. Sao Cách Trạch, Sách ẩn: Còn đọc là Hạc Đạc, lại đọc là Cách Trạch. Cách, đọc là 'hồ khách phiên'. như hình lửa cháy. Màu vàng trắng, mọc từ đất lên. Dưới lớn, trên nhọn. Nếu xuất hiện là điềm không cần trồng mà gặt được, không có việc đắp đất thì có cái hại lớn. Cờ Si Vưu, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Là cốt của sao Huỳnh Hoặc." Tấn chước chép: "Lữ thị xuân thu chép nó có màu vàng ở trên, màu trắng ở dưới." hình giống cái chổi nhưng đuôi cong, giống cái cờ. Xuất hiện thì bậc đế vương sẽ đánh dẹp bốn phương. Sao Tuần Thủy mọc ở cạnh chòm sao Bắc Đẩu, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là tượng trưng cho Si Vưu." Tiần, còn chép là 'Doanh'. hình như con gà trống. Lúc lớn là màu xanh đen, hình như con miết nằm. Sao Uổng Thỉ, hình như dải sao băng lớn, hình rắn lượn mà màu xanh đen, nhìn từ xa như có lông tua. Sao Trường Canh, hình như một bó vải treo trên bầu trời. Sao này xuất hiện thì có dấy binh. Sao rơi xuống đất là đá. Chính nghĩa: Xuân thu chép: "Sao rơi như mưa." Ở phía tây quận Ngô ngày nay còn có sao đá rơi xuống, loại đá này có nhiều ở trong thiên hạ. Giữa vùng sông Hà-Tế thường có sao rơi. Vào lúc trời tạnh thường có sao Cảnh. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Có đám khí vuông màu đủ và đám khí vuông màu xanh liền nhau, trong đám khí vuông màu đỏ có hai ngôi sao màu vàng, trong đám khí vuông màu xanh có một ngôi sao màu vàng, ba ngôi sao này hợp lại thành sao Cảnh." Chính nghĩa: Sao Cảnh hình như Mặt Trăng nửa, xuất hiện vào lúc đầu-cuối tháng, giúp Mặt Trăng thêm sáng. Nếu xuất hiện là điềm báo nhà vua có đức, phẩm cách sáng suốt. Sao Cảnh là sao Đức. Hình của nó không có sẵn, xuất hiện ở nước có đạo đức. Xem khí dương Tập giải: Từ Quảng nói: "Dương, còn chép là phạt." Sách ẩn: Xét: Họ Diêu dẫn Nhĩ nhã chép: "Sao Huỳnh Hoặc chủ việc coi giữ hình pháp." Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc chủ về người đứng đầu một vùng, coi xét kẻ yêu nghiệt." Vậy thì lời văn phải là: "Xét khí phạt." để xét sao Huỳnh Hoặc. Sách ẩn: Xuân thu vĩ văn diệu câu chép: "Là thần lửa cháy của Xích Đế, có vẻ chập chờn, ở tại phương nam, nếu thất lễ thì xuất hiện." Tấn chước chép: "Thường vào tháng mười thì mọc vào cung Thái Vi, vâng mệnh từ Thiên Đế mà chuyển động qua các chòm sao, coi xét kẻ vô đạo, ra vào khác thường." Thuộc hành hỏa phương nam, chủ mùa hạ, chủ ngày bính-đinh. Nếu người thất lễ thì trời phạt sẽ có sao Huỳnh Hoặc xuất hiện, sao Huỳnh Hoặc chuyển sai chỗ vậy. Nếu xuất hiện là có binh cách, ẩn nấp là thôi binh cách. Xuất hiện ở phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có họa. Sao Huỳnh Hoặc chủ về gây loạn, giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chính nghĩa: Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc là sao chỉ việc hình pháp, chuyển động khác thường, nếu chuyển đến chỗ ứng với phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chuyển động hình móc câu, có tia sáng, lung lay, lúc tiền lúc lùi, là điềm báo tai họa rất nặng. Sao Huỳnh Hoặc chủ về chết chóc, là tượng trưng cho quan Đại hồng lư; chủ về giáp binh, tượng trưng cho quan Đại tư mã; coi xét kẻ kiêu căng loạn nghịch, chủ về quan coi giữ hình pháp. Cốt của nó là thần gió, có trẻ coi hát vè đùa vui." Chuyển ngược qua hai chỗ trở lên, rồi dừng lại trong ba tháng, sẽ có tai họa, trong năm tháng thì có binh cách, trong bảy tháng thì nước ứng với nó sẽ mất nửa đất, trong chín tháng thì mất hơn nửa đất, nhân đó cùng mọc lặn thì nước đó diệt mất. Xuất hiện, họa đến nhanh thì dẫu lớn nhưng nhỏ, họa đến chậm thì dẫu nhỏ nhưng lớn. Sách ẩn: Xét: Chậm là thong thả, như vậy họa nhỏ thành lớn, ý nói như thuốc độc thấm lâu ngày. Mọc ở phía nam thì đàn ông bị họa, phía bắc là đàn bà gặp tang. Sách ẩn: Xét: Tống Quân nói: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào phía nam chòm sao Dư Quỷ thì đàn ông bị họa; phía bắc thì đàn bà gặp việc xấu." Nếu có tia dao động vòng quanh nó, hoặc có lúc tiền hoặc lùi, sang bên trái, qua bên phải thì họa càng lớn. Nếu phạm với sao khác, Chính nghĩa: "Hễ ngũ tinh phạm vào nhaui thì đều là điềm báo đánh trận, nếu không có dấy binh ở ngoài thì cũng có gây loạn ở trong. Phạm vào là nói tia sáng chiếu vào nhau. tia sáng chiếu nhau là có hại; không chiếu vào nhau là không có hại. Ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, Chính nghĩa: Nếu ba sao hội nhau là điềm đứng động đi xa, trong ngoài nước ứng với nó sẽ có binh cách và chết chóc, người dân đói thiếu, thay lập vương hầu. Bốn sao cùng tụ là loạn lớn, nước ứng với nó sẽ có nhiều binh cách chết chóc, nhà vua lo buồn, người dân vất vơ. Năm sao tụ hội là đổi ngôi vua, kẻ có đức thì nhận điềm lành, có được bốn cõi, kẻ không có đức thì chịu họa dẫn đến thua mất. nước ứng với nó có thể dùng lễ mà có thiên hạ. Sao Huỳnh Hoặc thường chuyển về phía đông qua mười sáu chòm sao rồi dừng; chuyển ngược qua hai chòm sao được sáu tuần lại chuyển về phía đông, tự chuyển qua hơn mấy chục chòm sao được mười tháng thì lặn ở phương tây; đi náu năm tháng, Tập giải: Tấn chước chép: "Náu không mọc." lại mọc ở phương đông. Nó mọc ở phương tây gọi là sao Phản Minh, người làm vua ghét sao này. Nó chuyển về phía đông nhanh, mỗi ngày chuyển được một độ rưỡi. Nó chuyển về phía đông, tây, nam, bắc đều có hại, đều có binh cách ở nước ứng với nó; nếu đánh trận thì thuận nó sẽ thắng, ngược nó sẽ thua. Nếu sao Huỳnh Hoặc mọc theo sao Thái Bạch thì việc quân có lo lắng; rời xa sao Thái Bạch thì rút quân; chuyển ở phía bắc sao Thái Bạch thì chia quân; chuyển phía nam sao Thái Bạch thì có tướng đi riêng ra đánh. Nếu lúc nó chuyển động mà có sao Thái Bạch chuyển theo sau là điềm phá quân giết tướng. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Sao Thái Bạch chủ về quân đến đánh chống." Nếu nó phạm bào cung Thái Vi, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Phạm vào trong bảy tấc thì có tia sáng chiếu vào nhau." cung Hiên Viên, chòm sao Doanh Thất là điều người làm vua ghét. Chòm sao Tâm là minh đường, là triều miếu của sao Huỳnh Hoặc. Nên xem kĩ nó. Xem khí dương Tập giải: Từ Quảng nói: "Dương, còn chép là phạt." Sách ẩn: Xét: Họ Diêu dẫn Nhĩ nhã chép: "Sao Huỳnh Hoặc chủ việc coi giữ hình pháp." Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc chủ về người đứng đầu một vùng, coi xét kẻ yêu nghiệt." Vậy thì lời văn phải là: "Xét khí phạt." để xét sao Huỳnh Hoặc. Sách ẩn: Xuân thu vĩ văn diệu câu chép: "Là thần lửa cháy của Xích Đế, có vẻ chập chờn, ở tại phương nam, nếu thất lễ thì xuất hiện." Tấn chước chép: "Thường vào tháng mười thì mọc vào cung Thái Vi, vâng mệnh từ Thiên Đế mà chuyển động qua các chòm sao, coi xét kẻ vô đạo, ra vào khác thường." Thuộc hành hỏa phương nam, chủ mùa hạ, chủ ngày bính-đinh. Nếu người thất lễ thì trời phạt sẽ có sao Huỳnh Hoặc xuất hiện, sao Huỳnh Hoặc chuyển sai chỗ vậy. Nếu xuất hiện là có binh cách, ẩn nấp là ngừng binh cách. Xuất hiện ở phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có họa. Sao Huỳnh Hoặc chủ về gây loạn, giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chính nghĩa: Thiên quan chiêm chép: "Sao Huynh Hoặc là sao chỉ việc hình pháp, chuyển động khác thường, nếu chuyển đến chỗ ứng với phân dã của nước nào thì nước đó sẽ có giặc cướp, bệnh tật, chết chóc, đói kém, binh cách. Chuyển động hình móc câu, có tia sáng, lung lay, lúc tiền lúc lùi, là điềm báo tai họa rất nặng. Sao Huỳnh Hoặc chủ về chết chóc, là tượng trưng cho quan Đại hồng lư; chủ về giáp binh, tượng trưng cho quan Đại tư mã; coi xét kẻ kiêu căng loạn nghịch, chủ về quan coi giữ hình pháp. Cốt của nó là thần gió, có trẻ coi hát vè đùa vui." Chuyển ngược qua hai chỗ trở lên, rồi dừng lại trong ba tháng, sẽ có tai họa, trong năm tháng thì có binh cách, trong bảy tháng thì nước ứng với nó sẽ mất nửa đất, trong chín tháng thì mất hơn nửa đất, nhân đó cùng mọc lặn thì nước đó diệt mất. Xuất hiện, họa đến nhanh thì dẫu lớn nhưng nhỏ, họa đến chậm thì dẫu nhỏ nhưng lớn. Sách ẩn: Xét: Chậm là thong thả, như vậy họa nhỏ thành lớn, ý nói như thuốc độc thấm lâu ngày. Mọc ở phía nam thì đàn ông bị họa, phía bắc là đàn bà gặp tang. Sách ẩn: Xét: Tống Quân nói: "Sao Huỳnh Hoặc phạm vào phía nam chòm sao Dư Quỷ thì đàn ông bị họa; phía bắc thì đàn bà gặp việc xấu." Nếu có tia dao động vòng quanh nó, hoặc có lúc tiền hoặc lùi, sang bên trái, qua bên phải thì họa càng lớn. Nếu phạm với sao khác, Chính nghĩa: "Hễ ngũ tinh phạm vào nhau thì đều là điềm báo đánh trận, nếu không có dấy binh ở ngoài thì cũng có gây loạn ở trong. Phạm vào là nói tia sáng chiếu vào nhau. tia sáng chiếu nhau là có hại; không chiếu vào nhau là không có hại. Ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, Chính nghĩa: Nếu ba sao hội nhau là điềm đứng động đi xa, trong ngoài nước ứng với nó sẽ có binh cách và chết chóc, người dân đói thiếu, thay lập vương hầu. Bốn sao cùng tụ là loạn lớn, nước ứng với nó sẽ có nhiều binh cách chết chóc, nhà vua lo buồn, người dân vất vơ. Năm sao tụ hội là đổi ngôi vua, kẻ có đức thì nhận điềm lành, có được bốn cõi, kẻ không có đức thì chịu họa dẫn đến thua mất. nước ứng với nó có thể dùng lễ mà có thiên hạ. Sao Huỳnh Hoặc thường chuyển về phía đông qua mười sáu chòm sao rồi dừng; chuyển ngược qua hai chòm sao được sáu tuần lại chuyển về phía đông, tự chuyển qua hơn mấy chục chòm sao được mười tháng thì lặn ở phương tây; đi náu năm tháng, Tập giải: Tấn chước chép: "Náu không mọc." lại mọc ở phương đông. Nó mọc ở phương tây gọi là sao Phản Minh, người làm vua ghét sao này. Nó chuyển về phía đông nhanh, mỗi ngày chuyển được một độ rưỡi. Nó chuyển về phía đông, tây, nam, bắc đều có hại, đều có binh cách ở nước ứng với nó; nếu đánh trận thì thuận nó sẽ thắng, ngược nó sẽ thua. Nếu sao Huỳnh Hoặc mọc theo sao Thái Bạch thì việc quân có lo lắng; rời xa sao Thái Bạch thì rút quân; chuyển ở phía bắc sao Thái Bạch thì chia quân; chuyển phía nam sao Thái Bạch thì có tướng đi riêng ra đánh. Nếu lúc nó chuyển động mà có sao Thái Bạch chuyển theo sau là điềm phá quân giết tướng. Sách ẩn: Tống Quân nói: "Sao Thái Bạch chủ về quân đến đánh chống." Nếu nó phạm bào cung Thái Vi, Tập giải: Mạnh Khang nói: "Phạm vào trong bảy tấc thì có tia sáng chiếu vào nhau." cung Hiên Viên, chòm sao Doanh Thất là điều người làm vua ghét. Chòm sao Tâm là minh đường, là triều miếu của sao Huỳnh Hoặc. Nên xem kĩ nó. Xem chỗ hội của chòm sao Nam Đẩu để xét vị trí của sao Trấn. Sách ẩn: Tấn chước chép: "Thường vào ngày đầu năm giáp thân thì mọc ở chòm sao Đẩu. Mỗi năm sao Trấn chuyển đến ở một chòm sao, hai mươi tám năm thì tròn một vòng vòm trời." Quảng nhã chép: "Sao Trấn còn gọi là sao Địa Hầu." Văn diệu câu chép: "Sao Trấn là thần Hàm Xu Nữu của Hoàng Đế, thân là sao Tuyền-Cơ, ở chòm sao giữa." Là hành thổ ở chính giữa, chủ cuối mùa hạ, chủ ngày mậu-kỉ, chủ Hoàng Đế, chủ đức, người chủ đàn bà. Mỗi năm sao Trấn chuyển đến một chòm sao, đến chỗ ứng với nước nào thì nước ấy có việc tốt. Không đáng dừng mà dừng, như đã chuyển đi mà lại chuyển về, chuyển về rồi dừng thì nước ứng với nó sẽ có đất, nếu không thì có con gái. Nếu đáng dừng mà lại không dừng, sau rồi lại dừng, lại chuyển đi từ đông sang tây thì nước ứng với nó sẽ mất đất, nếu không thì mất con gái, không nên làm việc dấy binh. Nếu nó dừng lại lâu thì nước ứng với nó phúc lớn, dừng lại ít thì phúc nhỏ. Sao Trấn còn có tên là sao Địa Hầu, chủ về mùa màng. Mỗi năm chuyển được mười hai độ năm phần một trăm mười hai phân, mỗi ngày chuyển được một phần hai mươi tám phân, cứ hai mươi tám năm thì chuyển tròn một vòng vòm trời. Nó mọc đâu thì ngũ tinh đều theo mà tụ ở một chòm sao, nước ứng với nó có thể tỏ đức dày mà có được thiên hạ. Chủ về lễ, đức, nghĩa, giết hại. Nếu hình pháp có sai thì sao Trấn sẽ vì vậy mà dao động. Mọc sớm thì người làm vua không yên. Nếu mọc muộn thì việc quân không nghỉ. Sao Trấn có màu vàng, chín tia, về âm nhạc là chủ về cung hoàng chung. Nó chuyển sai trên hai-ba chòm sao là mọc sớm, nguời chủ mệnh không thành công, nếu không thì có nước lụt to. Chuyển sai dưới hai-ba chòm sao thì hậu cung có việc buồn, năm đó không được mùa, nếu không thì trời long và đất lở. Chòm sao Nam Đẩu là cái phòng lớn của thái miếu, miếu của sao Trấn, là sao chủ thiên tử. Nếu sao Mộc hội với sao Thổ thì trong nước có loạn, đói Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Trong ngũ tinh, hễ sao Mộc hội với sao Thổ là trong nước có loạn, đói; hội với sao Thủy là có biến mưu, đổi việc; hội với sao Hỏa thì có khô hạn; hội với sao Kim thì có tang tóc." nhà vua không nên dùng binh, nếu dùng binh sẽ thua; hội với sao Thủy thì có biến mưu mà đổi việc; hội với sao Hỏa thì có khô hạn; hội với sao Kim thì có tang tóc và nước lụt. Sao Kim ở phía nam, sao Tuế ơở phía bắc như đực cái, [colỉ=red]Sách ẩn: Chính nghĩa: "Sao Kim ở phía nam, sao Mộc ở phía bắc, gọi là như đực cái, năm đó được mùa to; sao Kim ở phía bắc, sao Mộc ở phía nam thì có năm được mùa cũng có năm không được mùa." năm đó được mùa; sao Kim ở phía bắc, sao Tuế ở phía nam thì không được mùa. Sao Hỏa hội với sao Thủy thì sùi, Tập giải: Tấn chước chép: "Lửa gặp nước thì sùi hơi, cho nên nói là sùi." Sách ẩn: Xét: Là nói sao Hỏa và sao Thủy cùng theo hội với sao Trấn. Chính nghĩa: Tinh kinh chép: "Trong ngũ tinh, hễ sao Hỏa hội với sao Thủy là sùi, làm việc dùng binh sẽ thua to; hội với sao Kim là nóng chảy, có tang tóc, không nên làm việc lớn, dùng binh theo quân sẽ có lo lắng; rời xa nhau thì lui quân; hội với sao Thổ là có lo lắng, bầy tôi bị hại; hội với sao Mộc là có đói, thua trận. hội với sao Kim là nóng chảy, tang tóc, đều không nên làm việc lớn, nếu dùng binh sẽ thua to. Hội với sao Thổ là có lo lắng, bầy tôi có hại, Sách ẩn: Xét: Văn diệu câu chép: "Nước gặp đất là rèn thành sắt, rèn thành sắt thì nổi lửa, nổi lửa thì còn của đất bị nung, sắt bị nấu chảy, nấu chảy thì đất như con không giúp cha, không có con giúp cha thì càng tai hại." đói to, thua trận, là quân thua, quân khốn, làm việc vỡ lở. Sao Thổ hội với sao Thủy thì được mùa mà dồn ứ, quân bị thua, nước ứng với nó không nên làm việc lớn. Nếu mọc thì mất đất; lặn thì được đất. Hội với sao Kim sẽ có bệnh tật, trong nước có dấy binh, mất đất. Nếu ba sao hội thì trong ngoài của nước ứng với chòm sao mà nó chuyển đến sẽ có binh cách, tang tóc, thay lập vương hầu. Bốn sao hội thì cùng bị binh cách, tang tóc, nhà vua lo lắng, người dân vất vơ. Năm sao hội là dễ đổi ngôi, kẻ có đức thì nhận ngôi vua, thay lập kẻ lớn, thu lấy bốn cõi, chon cháu sinh sôi; nếu không có đức thì bị họa gặp hại. Năm sao đều lớn thì việc ứng với nó cũng lớn; đều nhỏ thì việc cũng nhỏ. Mọc sớm là chuyển nhanh, chuyển nhanh là khách. Mọc muộn là chuyển chậm, chuyển chậm là người chủ, sẽ có điềm trời xuất hiện ở phần chuôi sao Bắc Đẩu. Cùng ở một chòm sao là hội họp, phạm vào nhau là đấu, gần trong vòng bảy thước tất có hại. Ngũ tinh thường hình tròn màu trắng, là biểu tượng của tang tóc; màu đỏ hình tròn là trong nước không yên, có binh cách; màu xanh hình tròn là có nạn nước ngập, bệnh tật, nhiều người chết; màu vàng hình tròn là tốt. Màu đỏ có tia là quân địch phạm vào thành ấp; màu vàng có tia là có tranh đất; màu trắng có tia là có tang tóc; màu xanh có tia là quân có việc lo; màu đen có tia là nước lụt; màu đỏ có tia nhân lúc cùng đường mà dừng quân. Ngũ tinh cùng màu là thiên hạ ngừng binh, trăm họ yên vui. Ngày gió mát mùa xuân, ngày mưa mùa thu, đem lạnh mùa đông, đêm nóng mùa hạ, hường dao động vào lúc ấy. Sao Trấn xuất hiện hai mươi ngày thì chuyển ngược về phía tây, chuyển về phía tây được hai mươi ngày lại chuyển ngược về phía đông. Mọc ba trăm ba mươi ngày lại lặn, lặn na mươi ngày rồi lại mọc ở phương đông. Sao Thái Tuế ở năm giáp dần thì sao Trấn mọc pử chòm sao Đông Bích, cho nên nói mọc ở chòm sao Doanh Thất. Xem khí mây là ngẩng mà nhìn nó, cách ba-bốn trăm dặm; nhìn ở đất bằng, ở tầm trên cây du-cây dâu, cách khoảng hơn hai ngàn dặm; nếu lên cao mà nhìn thì thấy nó ở dưới liền với mặt đất, cách ba ngàn dặm. Vùng khí mây có loài thú ở trên đó là tốt. Chính nghĩa: Khí mây mưa đều nhau. Binh thư chép: "Có đám mây như con gà trống đến gần thành là kẻ giữ thành sẽ hàng." Từ núi Hoa về phía nam, khí dưới màu đen trên màu đỏ. Ở vùng núi Sùng Cao-miền Tam Hà, khí màu đỏ thuần. Phía bắc núi Hằng, khí dưới màu đen trên màu xanh. Miền Bột-Kiệt-Hải-Đại, khí đều màu đen. Vùng sông Giang-Hoài, khí đều màu trắng. Ở chỗ có lao dịch thì khí màu trắng. Ở chỗ có việc đắp đất thì khí màu vàng. Ở chỗ có xe đi thì khí lúc lên cao khi xuống thấp, lan man mà tụ. Ở chỗ có quân kị thì khí thấp mà phân tán. Ở chỗ có lính bộ thì khí tụ hợp. Ở chỗ có khí trước thấp mà sau cao là đi nhanh; trước vuông mà sau cao là quân mạnh; rồi hạ thấp là rút lui; khí ngang bằng là quân đi thong thả. Khí trước cao mà sau thấp là không ở lại mà quay về. Khí gặp nhau là thấp hơn cao, nhọn thắng vuông. Khí hướng xuống thấp mà men theo vết xe đi thì không quá ba-bốn ngày, cách năm-sáu dặm sẽ thấy địch. Khí hướng lên cao bảy-tám thước, không quá năm-sáu ngày, cách hơn chục dặm sẽ thấy địch; khí hướng lên cao hơn hai trượng, không quá ba-bốn chục ngày, cách khoảng năm-sáu chục dặm sẽ thấy địch. Phần ngọn của khí màu trắng trong là tướng cứng cỏi, quân yếu kém. Phần gốc của khí lớn mà trải dài ra phía trước là đang có đánh nhau. Khí màu xanh trắng, phía trước hướng xuống thấp là đánh thắng; phía trước màu đỏ mà hướng lên trên là đánh không thắng; khí dàn ra như lập thành lũy, khí hình như cái thoi, Sách ẩn: Họ Diêu xét: Binh thư chép: "Trên trại địch có khí mây như cờ xí thì không nên đánh với địch." khí cuộn tụ nhọn hai đầu; khí dãn ra như dây thừng, trải về phía trước đến tận trời, một nửa cũng đến nửa vòm trời, hình như cầu vồng giống cờ khuyết. Khí cũng có hình móc câu gấp khúc. Những khí trên xuất hiện thì dựa vào năm màu sắc để đoán. Lại khí nhẵn mà rậm, Chính nghĩa: Cổ kim chú của Thôi Báo chép: "Hoàng Đế đánh với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, thường có khí mây năm màu, cành vàng lá ngọc tụ ở trên người Hoàng Đế, có hình hoa nở, do đó làm nên nên lọng hoa." Dịch triệu hậu của Kinh Phòng chép: "Xem bốn phía nếu thường có mây lớn đủ năm màu, chỗ ấy có người hiền ở ẩn. Khí màu xanh nhẵn bóng che cả Mặt Trời ở phía tây bắc là người hiền được chọn dùng." có hình xuất hiện là có biến động; khi xem được là tất có dấy binh, đánh nhau ở chỗ ấy. Vương Sóc xem khí thường nhìn khí ở cạnh Mặt Trời. Khí mây cạnh Mặt Trời là chủ về nhà vua. Chính nghĩa: Lạc thư chép: "Có mây như hình người mặc áo xanh không có tay ở phía tây của Mặt Trời là khí của thiên tử." Đều dựa vào hình của nó để xét. Cho nên khí của người rợ miền bắc như hình bầy gia súc lều rạp. Khí của người rợ miền nam giống tấm buồm thuyền chèo. Ở chỗ có nước ngập là nơi quân thua, vùng phá nuớc; chỗ có chứa tiền, ở trên vàng ngọc đều có khí, không nên không xét. Khí mây cạnh biển giống đài lầu, khí ở bãi đất rộng có hình giống cung khuyết. Khí mây đều giống người dân sông núi tụ hội ở đó. Chính nghĩa: Hoài Nam Tử chép: "Đất đai đều theo từng nơi mà sinh ra người khác nhau, cho nên khí ở miền núi thì phần lớn sinh ra người mạnh mẽ, khí nhẵn thì nhiều người câm; khí nhiều gió thì nhiều người điếc; khí từ rừng thì nhiều người khèo chân; khí từ nhiều cây thì nhiều người gù lưng; khí từ nhiều đá thì nhiều người có sức khỏe; khí hiểm trở thì nhiều người sống thọ; khí từ hang thì nhiều người bại liệt; khí từ gò thì nhiều người điên; khí từ miếu thì nhiều người có lòng nhân; khí từ lăng thì nhiều người tham, đất nhẹ thì chân nhanh, đất nặng thì chân chậm; nước trong thì nói tiếng nhỏ, nước đục thì nói tiếng to, nước chảy xiết thì người nặng; miền đất giữa có nhiều thánh nhân, đều là từ khí của đất mà ứng với muôn vật ở đó." Cho nên người xét thừa tổn thì khi vào đất nước nào đó thì xem cái ngay ngắn của ruộng đất bờ cõi, cái nhẵn bóng của cửa ngõ nhà cửa thành quách, thứ đến là xem cái cốt lõi của gia súc xe áo. Nếu đầy đủ là tốt, hao tổn là xấu. Như khói mà chẳng phải khói, như mây mà chẳng phải mây, sáng sáng rõ rõ, lởn vởn uốn lượn, gọi là mây khanh. Mây khanh xuất hiện là khí lành. Như mây mù mà chẳng phải mây mù, Sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Khí trời xuống đất không hợp là mây mù." Ý nói mờ mịt không sáng. không thấm ướt vào áo mũ, xuất hiện là chỗ ấy bị binh giáp mà chạy dài. Sấm chớp điện, cầu vồng, sét đánh, tia sáng buổi đêm là khí dương chuyển động, mùa xuân-hạ thì phát ra, mùa thu-đông thì náu vào, cho nên người xem khí không thể không xét nó. Một bản dịch thiên văn hết sức giá trị, Sử ký Tư Mã Thiên đã dịch tại Việt Nam hiên nay còn thiếu quá nhiều phần so với bản gốc, chúng đều có liên quan đến mọi mặt xã hội tới Văn Lang.
-
Tác giả sách cho rằng “người Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc” lên tiếng (Tinmoi.vn) Nhà dân tộc học Tạ Đức cho biết, ông viết cuốn “Nguồn gốc người Việt – người Mường” không phải vì háo danh mà vì bổn phận nghề nghiệp, và người “kiện” cuốn sách này chính là bạn thân của tác giả. Như đã đưa tin, vụ việc buổi giới thiệu cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường” của tác giả Tạ Đức – Nhà xuất bản Tri Thức phát hành bị hoãn vào phút chót đang thu hút sự chú ý của dư luận và tạo ra những tranh cãi trong giới nghiên cứu. Theo những thông tin ban đầu, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hội thảo giới thiệu sách trên bị tạm hoãn là do PGS, TS Bùi Xuân Đính - Trưởng phòng Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc Ngôn ngữ Việt - Mường - Viện Dân tộc học Việt Nam – đã có đơn thư “khiếu nại” về cuốn sách. Một lý do đáng chú ý mà ông Đính đưa ra là cho rằng: “Đây là cuốn sách có rất nhiều sai sót về phương pháp luận, về việc sử dụng tài liệu, do vậy, đưa đến những kết luận khoa học không đúng đắn: phủ nhận người Việt và người Mường cùng nguồn gốc, phủ nhận tính bản địa của hai tộc người này, coi họ đều từ Trung Quốc sang”. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Nhà Dân tộc học Tạ Đức – tác giả cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường” – để tìm hiểu rõ hơn về vụ việc. - Xin ông cho biết thông tin cụ thể, chi tiết hơn về việc buổi giới thiệu cuốn sách của ông tại Trung tâm văn hóa Pháp L’Espace vừa bị hoãn vào phút chót? - Trước tiên, tôi xin nói rõ rằng, cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường” của tôi thực ra đã được NXB Tri Thức chính thức phát hành từ tháng 1/2014. Buổi hội thảo giới thiệu sách dự kiến diễn ra ngày 15/5 tại L’Espace 24 Tràng Tiền vừa qua là do NXB Tri Thức và Trung tâm văn hóa Pháp tổ chức, tôi cũng chỉ là một khách mời đến trao đổi về cuốn sách với các học giả, nhà nghiên cứu khác. Buổi giới thiệu sách này đã được lên kế hoạch và ấn định thời gian từ nhiều tháng trước, chứ không phải cố ý chọn đúng thời điểm đang xảy ra những căng thẳng về Biển Đông giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc để tổ chức. Nhưng như mọi người đã biết, buổi giới thiệu sách đã bất ngờ có thông báo hoãn vào ngày 14/5, tức là chỉ một ngày trước ngày dự kiến tổ chức. Nguyên nhân trực tiếp của việc hoãn trên là do ông Bùi Xuân Đính, nhân danh là PGS.TS, Trưởng phòng, Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc Ngôn ngữ Việt - Mường, Viện Dân tộc học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đã gọi điện thoại (ngày 9/5), gửi thư và trực tiếp đến Trung tâm văn hóa Pháp (ngày 13/5) lớn tiếng đòi hoãn cuộc hội thảo. Và ông ta đã đạt được mục đích. - Ông Bùi Xuân Đính đưa ra nhiều lý do trong thư yêu cầu gửi một số nơi liên quan để đòi hủy bỏ buổi giới thiệu cuốn sách của ông. Ông nhìn nhận như thế nào về hành động của ông Đính? - Với những lời lẽ gay gắt, có phần trịch thượng, ông Đính đưa ra nhiều lý do để đòi hủy bỏ buổi hội thảo giới thiệu cuốn sách của tôi. Ông Đính đã nói rằng: “Đây là cuốn sách có rất nhiều sai sót về phương pháp luận, về việc sử dụng tài liệu, do vậy, đưa đến những kết luận khoa học không đúng đắn: phủ nhận người Việt và người Mường cùng nguồn gốc, phủ nhận tính bản địa của hai tộc người này, coi họ đều từ Trung Quốc sang; phủ nhận hầu hết các thành tựu nghiên cứu của các ngành Khảo cổ học, Sử học, Dân tộc học, Ngôn Ngữ học của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của nhiều học giả Pháp trong hơn nửa thế kỷ qua”. Chưa dừng lại, ông Đính tiếp tục ngoa ngôn: “Những luận điểm về nguồn gốc Trung Quốc của nhiều tộc người ở Việt Nam đã và đang bị sử dụng để gây ly khai, chia rẽ cộng đồng các tộc người ở Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết, thống nhất của quốc gia Việt Nam... Trong bối cảnh nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam đã và đang bị dư luận thế giới phản đối, việc Trung tâm văn hóa Pháp tổ chức giới thiệu cuốn sách "Nguồn gốc người Việt - người Mường" của tác giả Tạ Đức là không phù hợp, dễ bị lợi dụng”. Tôi khẳng định, đó là những lời lẽ vu khống và vu cáo trắng trợn, bởi những ai đã đọc sách đều thấy rõ khi đưa ra các giả thuyết của mình, tôi đã kế thừa có chọn lọc thành tựu của các học giả Pháp như E. Chavanes, L. Anrousseau, C.Madrolle, V. Goloubew, L. Bezacier, J. Cusinier, Porée Maspéro…, hơn nữa, dựa trên những thành tựu mới của khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học, di truyền học ở Việt Nam và thế giới trong 60 năm qua. Tôi được biết và đã đọc một bài viết của ông Đính về cuốn sách của tôi, chuẩn bị đăng trên một tạp chí. Trong bài viết này có nhiều bằng chứng cho thấy ông Đính chỉ đọc cuốn sách của tôi một cách cẩu thả, qua loa, đại khái và thay cho việc phản biện một cách khoa học, ông ta đã đưa ra nhiều luận điểm vô căn cứ, tùy tiện, chụp mũ quan điểm chính trị một cách thô bạo, bịa đặt… mà những lời nêu trên chỉ là một ví dụ. Tôi cho rằng, các lời lẽ “đao to búa lớn” của ông Đính với cán bộ của Trung tâm văn hóa Pháp, đòi hoãn cuộc giới thiệu và hội thảo là ngông cuồng. Vô lý hơn, sau khi L’Espace thông báo hoãn buổi giới thiệu sách, ông Đính còn viết thư yêu cầu một số cơ quan báo chí phải gỡ tin, bài đã đưa trước đây nói về buổi hội thảo giới thiệu cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường”. - Ông và ông Bùi Xuân Đính có quan hệ như thế nào với nhau? - Từ năm 1980 – 1989, tôi là cán bộ nghiên cứu thuộc Phòng người Việt – Viện Dân tộc học. Trong khoảng thời gian này, tôi và ông Đính là đồng nghiệp cùng phòng với nhau. Ngoài đời, hai chúng tôi cũng là bạn thân. Chính vì có mối quan hệ có thể coi là thân tình với ông Đính nên tôi đã rất bất ngờ và sốc một chút khi biết chuyện ông ta chính là người khiếu nại, đòi hủy bỏ buổi giới thiệu cuốn sách của tôi ngay sát ngày dự kiến tổ chức. Tôi đã gọi điện ngay cho ông Đính để hỏi rõ sự tình với suy nghĩ là có thể ông Đính được giao nhiệm vụ nên phải thực hiện. Nhưng qua điện thoại, ông Đính vẫn lớn tiếng nói hành động vừa rồi là do ông chủ ý làm và tỏ ra tự đắc khi kể về việc “dọa” cán bộ Trung tâm văn hóa Pháp như thế nào để đạt được mục đích là buổi hội thảo giới thiệu sách bị hoãn. Bị một người có thể coi là bạn thân làm thế với mình, tôi hơi buồn. Trước đây, đã có người nói với tôi về những tính xấu của ông Đính nhưng tôi không quan tâm lắm. - Vậy ông cảm thấy thế nào, ông có thấy buồn không khi buổi giới thiệu cuốn sách – đứa con tinh thần của mình – bị hoãn vào phút chót? - Trước khi trả lời câu hỏi của bạn, tôi xin chia sẻ một chút về quá trình viết cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường”. Tôi bắt đầu các công việc viết cuốn sách này từ năm 2003. Tôi nghiên cứu và viết sách một cách độc lập, hoàn toàn với tư cách cá nhân chứ không phải làm theo một dự án, nguồn tài trợ nào. Tôi có may mắn là có kinh tế vững nên có thể tập trung hoàn toàn cho sở thích công việc của mình. Sau hơn 10 năm, cuốn sách trên của tôi đã hoàn thành và được chính thức phát hành bởi NXB Tri Thức. Kinh phí in ấn, xuất bản sách hoàn toàn là do phía NXB. Tôi không phải bỏ tiền túi ra để tự in sách của mình như một số người khác, bởi tôi nghiên cứu và viết sách vì đam mê khoa học chứ không có nhu cầu xuất bản rộng rãi để lấy danh. Như tôi đã nói ở trên, buổi hội thảo giới thiệu sách dự kiến diễn ra ngày 15/5 tại L’Espace 24 Tràng Tiền vừa qua là do NXB Tri Thức và Trung tâm văn hóa Pháp tổ chức, tôi cũng chỉ là một khách mời đến trao đổi về cuốn sách với các học giả, nhà nghiên cứu khác. Ngay từ đầu, tôi đã không quan trọng việc ra sách, giới thiệu sách nên khi buổi giới thiệu sách bị hoãn, thực sự là tôi không buồn lắm. Chỉ buồn một chút vì nó bị gây ra bởi người mà mình coi là bạn thân thôi. - Xin ông cho biết vài nét khái quát về cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường”, trong đó có những chi tiết khiến ông Bùi Xuân Đính phản ứng? - Cuốn sách “Nguồn gốc người Việt – người Mường” dày 843 trang, gồm 17 chương và 31 phụ lục. Về nội dung, chủ đề chính của cuốn sách là nguồn gốc của hai nền văn hóa Đá Mới Phùng Nguyên và Đồng Thau Đông Sơn; sự hình thành của các nước Xích Quỉ, Việt Thường, Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt (những nước được coi là tổ tiên của người Việt), từ đó làm sáng tỏ nguồn gốc người Việt – người Mường, hai tộc người vốn khác nhau từ gần 4.000 năm qua. Nhiều giả thuyết, kết luận tôi đưa ra trong cuốn sách trái ngược với những điều nhiều nhà nghiên cứu vẫn thừa nhận lâu nay, như tôi cho rằng tổ tiên trực tiếp của người Việt - người Mường là người Lạc Việt - người Phùng Nguyên, là dân di cư từ phương Bắc xuống; người Việt và người Mường từ xa xưa đã là hai tộc người khác nhau… Tôi ý thức được rằng, những điều khác với sự thừa nhận lâu nay của số đông mà tôi nêu ra trong cuốn sách sẽ phải nhận những phản ứng, thậm chí là phản đối, nhưng là một học trò của Giáo sư Sử học Phan Huy Lê, tôi rất tâm đắc với lời của thầy: “Nếu sự thật nâng chúng ta lên thì chúng ta càng phấn khởi, nhưng có cái đau đớn chúng ta cũng phải chấp nhận. Chân lý phải được đặt lên cao nhất. Sự thật lịch sử phải được tôn trọng đầy đủ”. Tôi viết cuốn sách này như một cách làm tròn bổn phận nghề nghiệp, một cách đền đáp lại những gì đã nhận được từ tổ tiên, đất nước và cuộc đời. Tôi hi vọng cuốn sách này sẽ là một ngọn lửa nhỏ góp phần làm sáng tỏ lịch sử đất nước, làm ấm lên tri thức lịch sử dân tộc, làm cháy lên tình yêu đối với các ngành sử học, dân tộc học, khảo cổ học, ngôn ngữ học và khoa học xã hội nói chung. Tôi đã đọc cuốn sách này của tác giả Tạ Đức, cùng cuốn của ông đã xuất bản khá lâu trước đó là Tình yêu trai gái Việt xưa, rất hay. Khi nhận xét cuốn sách Nguồn gốc người Việt - Người Mường, chúng ta không nên đưa quá sâu vào ý kiến chủ quan cá nhân về những vấn đề kết luận chưa hợp lý của ông, chẳng hạn người Việt và Mường có nguồn gốc từ phương Bắc. Bởi vì, chúng ta cần phải chú ý những mắt xích đan xen trong vô số sự kiện diễn giải trong cuốn sách này: như đô thành của Văn Lang nằm ở Hồ Nam (phương Bắc) chẳng hạn, mà Hồ Nam thuộc Văn Lang. Những thông tin trong cuốn sách này rất hữu ích và giá trị về mặt lịch sử toàn cảnh, tuy nhiên khi kết luận cần phải tổng hợp một cách logic và khách quan, ví dụ ông vẫn giữ quan điển Văn Lang có từ thế kỷ thứ VII tr.CN (của các tác giả trước đó) lại mâu thuẫn với kết luận về đô thành Văn Lang ở Hồ Nam cùng thời trận chiếc thắng Ân Thương. Có nhiều sự kiện lịch sử rất quan trọng được viết, chẳng hạn sự phân bố "nha chương" ở Đông Nam Á và Trung Quốc, hay tiến trình lịch sử đồ đồng thau nam Ngũ Lĩnh và Trung Quốc, nhận xét chính xác về Thần Độc Cước thờ ở Thanh Hóa trong hình tượng "Rồng một chân" chẳng hạn... chúng ta cần sử dụng những ưu điểm nổi trội của cuốn sách. Cuốn sách Nguồn gốc người Việt - Người Mường đã ra đúng thời vận như nó đã là.