hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Minh định lại không gian, thời gian và vật chất: Để lý giải một cách chi tiết và cụ thể về học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chúng ta không thể không minh định lại không thời gian và vật chất, đồng thời cũng chính là làm rõ lại lịch sử thời Hùng Vương bởi vì các biểu tượng lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng... đều quy chiếu và không tách rời các quan niệm cơ bản nêu trên. Để xác định bất cứ vấn đề gì thì cũng phải có hệ quy chiếu để quán xét hay điểm gốc, đồng thời còn có những điều kiện ràng buộc mà trong khoa học kỹ thuật gọi là điều kiên biên, ở đây không thời gian và vật chất cũng không ngoại lệ, mặc dù khái niệm về chúng có tính bao trùm, rộng lớn hơn so với các khái niệm khác. Không gian: khoảng không chứa đựng vật chất (nay gọi là vạn vật), nhưng phải thông qua vạn vật thì chúng ta mới nhận biết được. Ví dụ, cho một hòn bi ve vào một cái chai thủy tinh trắng, lắc cái chai thì hòn bi di động trong cái chai và chỉ trong cái chai mà thôi, không gian ở đây là giới hạn khoảng không trong hình thủy tinh cái chai, còn viên bi ve được xem như là một dạng vật chất. Rõ ràng, không gian và vật chất không thể tách rời nhưng có một điểm dễ nhận ra rằng, nếu chúng ta cô lập vật chất thì không gian không phải là vật chất, mà nó "chứa đựng vật chất". mô phỏng và đặc trưng của nó là gì? Nó được mô phỏng qua hệ quy chiếu 3 chiều là đã hoàn toàn đầy đủ, tuy nhiên do phải thông qua vật chất mới nhận biết được, cho nên nếu chúng ta quy ước thêm các đặc trưng của vật chất thì hệ quy chiếu sẽ thay đổi. Đặc trưng hay thuộc tính của nó chẳng là gì cả, chỉ như vậy mà thôi, không có bất kỳ một thuộc tính nào. Từ sự phân tích này, đối chiếu lại thí nghiệm của Einstein về sự co giãn của không gian, về mặt bản chất là sai, mà đây là sự biến đổi của trạng thái vật chất mà thôi, đã chứng minh. Thời gian: là sự trôi qua mà đã được quy ước như ngày đêm, đo lường nó bằng đồng hồ nhưng cũng phụ thuộc vào hệ quy chiếu gốc đã quy định. Giống như không gian, thời gian cũng được nhận biết thông qua vật chất, dễ thấy nhất là cuộc đời con người từ lúc sinh ra cho đến khi chết, trải qua chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử hay thời gian trôi qua một ngày, một năm, do lịch và đồng hồ đo. Như vậy, thời gian là quy ước chỉ ra sự biến dịch của vật chất, điều này hàm nghĩa rằng ở bất cứ trạng thái nào của vật chất đều quy ước được thời gian, cho dù tịnh hay động, cho dù là "tuyệt đối" hay "tương đối". Chẳng hạn, có hai cái bàn trong quán cafe cách nhau 1m, dĩ nhiên mọi thứ đang vận động, nhưng sau cả năm khoảng cách vẫn là 1m nều chúng ta không di chuyển, nhưng rõ ràng thời gian đã trôi qua rồi. Như vậy, chúng ta lại chỉ ra được cái sai của bài toán Einstein cho rằng thời gian là cong... mà đây chỉ là sự nhận thức về biến dịch của vật chất mà thôi, y như không gian ở trên. Vạn vật (vô tình và hữu tình): Tất cả mọi cái tồn tại trong không gian là vật chất, vạn vật hữu tình là động vật và con người (cảm xúc và tư duy), còn thực vật là giao giữa vô tình và hữu tình, vạn vật vô tình là cát, dá, sỏi, không khí... Cho nên, cổ nhân đã lấy thực vật là biểu tượng của đời sống chứ không phải con người - gọi là Cây Đời, Cây Đời Sống, Cây Sự Sống, Cây Tiến Hóa, Cây Vũ Trụ... Liên quan đến nguồn gốc của vạn vật, qua thuyết Âm Dương Ngũ Hành người xưa cho là có nguồn gốc từ "sự tuyệt đối", gần đây nhất là học giả Nguyễn Duy Cần, đã viết trong Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Dịch, tinh hoa Đạo học Đông phương... tuy nhiên, không mô tả hoặc nói rõ sự tuyệt đối này là như thế nào mà ngày nay lại xuất hiện vạn vật biến hóa vô cùng?. Ở đây, chúng ta thấy một mắt xích liên quan giữa các tuyệt đối và tương đối là vạn vật, đó là tuyệt đối được cho rằng là nguồn gốc của vạn vật, nhưng phải thông qua vạn vật để nhận biết nó, hay thông qua các quy luật vận động của vạn vật, tức thuyết Âm Dương Ngũ Hành, sự tuyệt đối này là Thái Cực. Sự định hình Thái Cực đang diễn tiến tiếp theo là: không không gian, không thời gian, không lượng số, có thể tính? Ở đây mới chỉ tạm khái niệm về Thái Cực, theo học giả Nguyễn Duy Cần thì không thể mô tả được, chẳng "không" mà cũng chẳng "có", vậy "có thể tính" là đã sa vào "có" rồi. Mặt khác, nếu cho rằng "không thời gian" và "không không gian" là vô lý, bởi như đã phân tích ở trên. Vậy Thái Cực được mô tả như thế nào, một suy niệm rằng nó là nguồn gốc của vạn vật mà chúng ta nhận thức được, thì nó cũng phải mô tả được - đây là logic, dĩ nhiên có thể tiếp cận được nó không? Bởi nó là thực tại. Không chỉ vậy, sự vận động của vật chất theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho tới nay, thì vũ trụ đang trong giai đoạn phát triển hay đang trong giai đoạn phân rã? Trong việc quy ước "thời gian" thì sự quy ước này - phản ánh vào tư duy chúng ta, được đặc trưng như thế nào, mà chúng ta có thể cảm thấy "chậm" "nhanh"? cũng là một dấu hỏi.
-
Định vị không gian: Lĩnh Nam Chích Quái - Truyện chim trĩ trắng Vào đời Chu Thành Vương (1), Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem dâng nhà Chu chim trĩ trắng (2). Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải qua nhiều lần dịch mới hiểu được. Chu Công hỏi: “Tại sao dân Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần, xăm mình, đi chân đất như vậy là cớ sao?”. Sứ thần đáp rằng đáp: “Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Ău trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen”. Chu Công hỏi: “Tại sao tới đây?, người Việt Thường đáp: “Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nên tới đây vậy”. Chu Công than rằng: “Chính lệnh không thi hành thì quân tử không bắt kẻ khác thuần phục mình, đức trạch không có cho người thì quân tử không hưởng lễ của người. Còn nhớ Hoàng Đế có nói rằng: “Giao Chỉ xa xôi ở cõi ngoài, không được xâm phạm đến”. Bèn ban thưởng cho phẩm vật, răn dạy rồi cho về. Người Việt Thường quên đường về, Chu Công bèn ban cho 5 cỗ xe gắn xa chỉ nam để định hướng về. Người Việt Thường nhận lấy mà đi theo hướng biển nước Phù Nam, Lâm Ấp (3), đi một năm thì về tới nước. Cho nên, xe chỉ nam thường dùng để đi trước đưa đường. Về sau, Khổng Tử viết sách Xuân Thu, cho nước Văn Lang là một nơi hoang vu, chưa có văn hiến, nên bỏ trống không chép (4). Chú thích: 1) Chu Thành Vương, vua nhà Tây Chu, Trung Quốc, lên ngôi từ năm 1055 đến năm 1021 trước Công Nguyên. 2) Sách Việt Sử Lược chép rằng: “Đến đời Thành Vương nhà Chu, bộ lạc Việt Thường Thị (người Việt Thường) mới đem dâng chim trĩ trắng. Sách Xuân Thu gọi đất này là Khuyết Địa, sách Đái Ký gọi là Điêu Đề…”. 3) Phù Nam: Phù Nam là tên phiên âm Hán - Việt của một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Malaisia. Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17 – thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay. Cư dân của Phù Nam chủ yếu là người Mã Lai - Đa Đảo [Wikipedia]. 4) Bản A 2914 chép rằng: “Về sau, Khổng Tử viết sách Xuân Thu, cho nước Văn Lang là một nơi chưa khai hóa, không có việc triều chính, không có chính cương, nên không chép vậy. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì sự định vị phương hướng là rất quan trọng, các bộ môn Đông phương ứng dụng như phong thủy, tử vi... đều thường dùng La kinh để xác định, tất nhiên công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ sẽ được bài trí tương ứng. Trên mặt la kinh có kim chỉ nam, thông thường đầu kim chỉ về phương nam được sơn màu đỏ, còn đầu kim chỉ về hướng bắc sẽ sơn màu xanh mực. Tuy nhiên, chúng ta thấy chiếc la bàn hay la kinh ngày nay đều lấy phương bắc làm hướng định vị, hệ thống bàn đồ hiện đại ngày nay cũng như vậy. Qua đó, chúng ta thấy, một cách thông thường thì gọi là kim chỉ bắc mới là thuận tiện và hợp lý, bầu trời thiên văn phương bắc được sử dụng từ cổ đại cho tới nay, chẳng hạn có các chòm sao Đại Hùng, Tiểu Hùng, 12 chòm sao Hoàng đạo... Khi liên hệ đến câu chuyện Chim trĩ trắng nói về xa chỉ nam do Chu Công gửi sứ giả Việt Thường để định đường về, đồng thời có một "bước nhảy địa lý" đi từ phương bắc - Trung Hoa lại tới Phù Nam, Lâm Ấp thuộc phía nam của Văn Lang, chủ ý của tác giả: - Phù Nam và Lâm Ấp cũng thuộc Văn Lang. - Ranh giới Văn Lang vượt khỏi đường xích đạo, thuộc Indonesia, Philippine... tức thuộc bán cầu nam. - Còn nhớ Hoàng Đế có nói rằng: “Giao Chỉ xa xôi ở cõi ngoài, không được xâm phạm đến”. Dị bản khác, nói rằng: "Phương Nam là nơi không thể đánh". - Thời Khổng Tử viết kinh Xuân Thu cho Văn Lang là... Khi ứng dụng phương hướng định vị vào bán cầu nam thì khi áp dụng Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ đối với các phương pháp cổ thì thì "hướng nam ở trên và bắc ở dưới". Lúc này mặt trời vẫn mọc từ phương đông, nhưng địa khí bán cầu nam có thay đổi - Tất nhiên đây là điểm khóa. Lúc này, chòm sao định vị phương nam là chòm sao Nam Cực (chòm Thập Tự). Dĩ nhiên, phương Nam hàm ý tuyệt đối nước Văn Lang và nay là Việt Nam. Truyện Thủy Hử viết: "mặt trời lặn về phương Nam", tức điểm xuân phân của mặt trời bắt đầu đi vào chu kỳ Song Ngư. các vị Thánh Thần ẩn đi. Lịch sử cổ đại Ai Cập ghi chép rằng: "Phải vượt qua vài biển về phương Nam, mới tới được đất của Thần Thánh". Ở đây, Phương Nam - Văn Lang là đất của Thần Thánh, chứ không phải "trên giời". Con sư tử đá lớn nhất thế giới trước kim tự tháp Kheop mặt quay về hướng Đông, định vị từ Ai Cập?.
-
Núi sông: như đã định vị được Đền Hùng tại ngã ba sông Đà, sông Lô, sông Nhị (sông Hồng) ở Việt Trì, Phú Thọ là trung tâm của Phong Châu (ổn định theo thời gian), kinh đô Phong Châu là Bạch Long thành tức thành Thăng Long hay Hà Nội ngày nay. Trong một số bài viết, đã định vị sông Dương Tử (Trường Giang) là biểu tượng cho Lạc Long Quân - ranh giới giữa Bắc Nam hay Trung Hoa và Xích Quỷ (thời Kinh Dương Vương), giống như một trục xương sống. Lúc này, con sông Hoàng (Hoàng hà) mà theo các nhà nghiên cứu lịch sử là biểu tượng cho Hoàng Đế, do con sông này chảy qua vùng đất hoàng thổ nên nước sông có màu vàng đồng thời Hoàng Đế là ông tổ của Trung Hoa. Tuy nhiên không phải vậy, chữ Hoàng này là trong Tam Hoàng Ngũ Đế, đứng đầu trong Tam Hoàng là Thiên Hoàng - đấy chính là Kinh Dương Vương. Mặt khác, con sông Nhị chảy theo trục tây bắc - đông nam, Nhị tức là 2, độ số cung Khôn trên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ, do vậy biểu tượng cho "người mẹ", và con sông này gọi là con sông mẹ của Xích Quỷ. Như vậy, nếu kết hợp với sông Dương Tử và Hoàng Hà thì sông Nhị chính là biểu tượng cho Long Nữ - thân mẫu của Lạc Long Quân. Sông Nhị (2) cũng là độ số đúng của cung Khôn cần được hiểu chỉnh lại do sai số Tốn Khôn trong các phương pháp cổ Đông phương. Đến đây thì đã rõ ràng, nếu kết hợp cả 3 con sông này với khởi nguồn từ vùng Tây Tạng, Tân Cương, Thanh Hải hướng ra biển phía Đông thì hoàn toàn biểu tượng cho các lý thuyết của đạo Tiên (Đạo giáo, đạo Phù Thủy - đảo Bạch Long Vĩ còn có thôn mang cái tên rất gần gũi - Phù Thủy Châu): -Sông Hoàng (phạm trù Dương): Đốc mạch, phía tay trái. - Sông Nhị (phạm trù Âm): Nhâm mạch, phía tay phải. - Sông Dương Tử (Tương tác Âm Dương - Khí): trục xương sống, nơi có 7 luân xa. Cội nguồn đỉnh đầu sẽ là ngọn núi tổ tông các tôn giáo là Kailash, trên dãy Côn Lôn. Lúc này, biểu tượng cho Thái Cực sẽ là dòng sông Ngân (Ngân hà) trên bầu trời, nó còn có tên gọi khác như là dòng sông Bạc, con đường Trắng, chiếc đĩa Bạc... đại diện cho sự hợp nhất Âm Dương là Đế Minh và Vũ Tiên. Từ kết luận này, chúng ta quay lại Việt Trì, Phú Thọ một lần nữa, ở tầm mức chi tiết cho riêng nước Xích Quỷ. - Sông Đà (Thái Cực): biểu tượng Đế Minh và Vũ Tiên, "Đà" là tên của Phật A Di Đà - Đế Minh. - Sông Lô (Dương): biểu tượng cho Kinh Dương Vương. "Lô" là Tỳ Lô Giá Na Phật tức Đại Nhật Phật, cũng là tên dân tộc Lô Lô vùng Tây Bắc, nơi duy nhất còn lưu giữ 36 cách đánh trống đồng Đông Sơn. - Sông Nhị (Âm): biểu tượng cho Long Nữ, Quán Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay. Đến đây, đã khẳng định lại một lần nữa rằng, Đền Hùng chính là trung tâm định vị của Xích Quỷ, Văn Lang - nơi thờ Tổ Tông đất nước và các Vua Hùng, nơi đó được gọi là "Tam Sơn Cấm Địa", bất cứ ai đụng vào có ý phá hoại sẽ chết ngay, chưa kể di họa về sau cho con cháu. Mặc dù Văn Lang có 15 bộ rộng lớn nhưng đây là những con sống chính yếu lưu giữ ý đồ đặt tên của người xưa, chẳng hạn ở Nam Bộ có sông Cửu Long, Thái Lan có sông Mê Nam... Nếu liên hệ đến vùng Lĩnh Nam, chúng ta còn dãy núi Ngũ Lĩnh và dãy Thập Vạn Đại Sơn, chữ "Vạn" biểu tượng cổ xưa của đạo Bà La Môn và đạo Phật đã xuất hiện. Chữ "Thập" rất quan trọng, cũng là số 10 trên Hà đồ, biểu tượng của chòm sao Đại Hùng (Bắc Đẩu) chứ không phải Tiểu Hùng và là biểu tượng của Đế Minh. Chữ "Vạn - 10.000" này chính là biểu tượng của Đế Minh - thần Shiva... Chữ Vạn này thuận chiều kim đồng hồ (chiều của Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ) nhưng gắn lên trên ngực sẽ thấy ngược chiều kim đồng hồ, hàm ý nói lên sự hòa nhập của một con người tới toàn thể vũ trụ đã thành công và là người đạt đến đẳng cáp cao nhất của sự tiến hóa trong vũ trụ, tức hoàn toàn tự chủ trong ý thức và hành động từ bất kỳ sự tương tác nào. Còn Ngũ Lĩnh là nên 5 ngọn núi lớn chắn ngang các bộ của Văn Lang, dĩ nhiên Ngũ Lĩnh biểu tượng cho Ngũ Hành nhưng cũng là biểu tượng của 5 anh em trai Lạc Long Quân. Với các nhìn tổng thể giống như trên vệ tinh quan sát xuống, chúng ta sẽ hiểu ngay câu tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nhị hà một giải quanh co, Chính thực chốn ấy Đế đô, Hoàng bào.
-
15 bộ thuộc nước Văn Lang: Sau khi tạm nhận khác khu vực hay quốc gia ngày này thuộc Văn Lang, chúng ta có thể tính toán số lượng 15 "bộ" của Văn Lang với các đặc trưng văn hóa chung và riêng, môt cái nhìn sơ bộ: - Bộ trung tâm - Miền Bắc Phong Châu Việt Nam ngày nay. Bộ này sẽ định vị "tâm" tại "Đền Hùng, Phú Thọ - nơi giao của 3 con sông Nhị (sông Hồng), sông Lô, sông Đà như là quẻ Bát Thuần Càn trong kinh Dịch", dùng trống đồng Đông Sơn làm chủ lực - biểu tượng quyền lực, văn hóa thờ trời đất, tổ tông, thánh thần...và các phong tục - tập quán liên quan đến vòng đời con người chủ yếu như đám cưới, đám tang, sinh đẻ... như hàng ngàn tia ánh sáng tỏa ra từ mặt trời. - Về phía đông: Đông Hải. - Về phía tây: Lào (Ai Lao) và có thể các nước khác. - Các bộ khác về phía nam: Chămpa, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia (gồm Singapore), Indonesia và Philippine. - Các bộ khác về phía bắc: Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Hồ Nam, Giang Tây. - Thượng nguồn Trường Giang, Nhị hà...: Tây Tạng. Tổng cộng: 18 bộ. Chúng ta chú ý, có thể các vùng Miến Điện, Thái Lan, Vân Nam, Lào là cùng một bộ trước đây, hay Indonesia cùng với Philippine cùng môt bộ hải đảo, và có thể cả Malaxia chung vào, cũng cần phân tích và nhận định, rất phức tạp. Các nguyên lý, quy tắc mã hóa lịch sử thời Hùng Vương theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành: - Quy tắc 1 - "Dương tịnh Âm động": được quy ước cho vũ trụ sau trạng thái khởi nguyên, lúc này trạng thái của Thái Cực (1, chí tịnh) là phạm trù Dương và trạng thái ngay sau Thái Cực tức một "vi động" và gọi là Vũ Trụ (2, vi động) là phạm trù Âm. Trạng thái của Thái Cực gọi là thuần dương sau khi đã có đối đãi, tuy nhiên khi trong trạng thái nguyên thủy tức chưa đối đãi vẫn gọi là "Thái Cực" nhưng được xem là nơi chứa mầm mống của sự sống nên quy ước gọi là "Mẹ", đây là điểm giao rất dễ nhầm lẫn. Quy ước này sẽ đúng cho đến khi trái đất chưa xuất hiện vạn vật bao gồm thực vật, động vật và con người. Ngay khi xuất hiện vạn vật, sống trên mặt đất, "đầu đội trời, chân đạp đất" sẽ bị đảo ngược. - Quy tắc 2 - "Dương động Âm tịnh": khi định vị vạn vật hay con người trong sự vận động, tương tác từ vũ trụ thì quy tắc này được áp dụng, bao gồm cả hệ thống kinh mạch trong cơ thể con người. Quy tắc này chính là Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ, và Hà đồ phối hợp với Lạc thư trong lý sinh - khắc của các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. - Quy tắc 3 - Nghịch đảo tương tác: Như vậy, khi xác định tương tác từ "trái đất" và vạn vật trên trái đất tới "con người" thì dùng Quy tắc 2, còn từ hệ mặt trời và ngoài hệ mặt trời dùng Quy tắc 1. Cho nên, khi dùng Quy tắc 1 - "Dương tịnh Âm động" sẽ bị nhầm lẫn khi ứng dụng trong Đông Y đối với hệ thống kinh mạch: mạch chuyển thì sống, mạch dừng thì chết. Người xưa đã dùng các quy tắc này cho các phương pháp ứng dụng và mã hóa lịch sử, văn hóa thời Hùng Vương.
-
Ranh giới nước Văn Lang ở trên, được nhấn mạnh chỉ là tạm thời được sử dụng nhằm có một cái nhìn bao quát về không thời gian của lịch sử, văn hóa, xã hội... có gì chung không, chẳng hạn trống đồng Đông Sơn. Có những vấn đề cũng còn được phải xác định một cách chi tiết hơn, về giao thoa hay chuyển tiếp chẳng hạn: - Vùng Hồ Nam, Giang Tây và Chiết Giang: thuộc về Trung Hoa sau trận chiến Ân - Văng Lang, Hùng Vương thứ VI không tổ chức lấy lại là có lý do của nó. Lăng mộ ngài hiện nay nằm phía nên trái đền Thượng của Đền Hùng, Phú Thọ, có vai trò như một chứng tích lịch sử và "Thiên Sứ" của Ngọc Hoàng Thượng Đế (hay toàn bộ Cõi Trời), với biểu tượng là sao "Kim thật" (tức thay tên giữa sao Kim và sao Thủy thiên văn hiện đại). Trong cổ văn, Hùng Vương VI là Thái Bạch Kim Tinh. - Vùng Băng La Đét và Nepan: vùng giao thoa giữa Ấn Độ (Hồ Tôn) và Văn Lang, cũng được xem xét chi tiết. - Các nước trong tiến trình lịch sử: Phù Nam, Chămpa, Lâm Ấp... cần minh định rõ ràng. - Philippine: chưa phát hiện trống đồng, nhưng cũng là những quần đảo độc lập nằm cạnh Indonesia, nhưng có khí hậu khắc nghiệt tức cũng trong vùng giới hạn biên giới Văn Lang. - Tây Tạng: xét sau, thượng nguồn sông Dương Tử và các con sông khác, đặc biệt nhất là đã phát hiện ra những chiếc đĩa đá Dropa thời cổ đại, mang ý nghĩa rõ ràng của công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ và sự tiến hóa của con người.
-
Chứng tích lịch sử Văn Lang: liên quan đến học thuyết ADNH - thông qua biên niên sử (chính sử, dã sử và huyền sử) và cổ vật khai quật được cho tới nay. Tạm thời định vị khu vực địa lý nước Văn Lang: có biên giới cực bắc giáp với nước Trung Hoa là dòng sông Dương Tử, kéo dài tới Tây Tạng ngày nay. Biên giới cực nam Văn Lang giáp Băng La đét, bao trùm toàn bộ Miến Điện, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippin, Campuchia, Lào... nhưng không bao gồm Băng La đét và Nepal. Nguyên lý: Ngay sau 1 sát na trôi qua, tất cả đã là quá khứ, cho nên những gì liên quan đến "Cái đã qua" đều là sử, vậy truyền thuyết, huyền thoại... cũng phải là sử nhưng chúng đã phản ánh những sự kiện nào trong quá khứ? Chính xác hay không là do chúng ta phân tích và nhận định một cách khoa học. Giới hạn của Cõi Trần: Chúng ta cũng đã biết, đang tồn tại một "thế giới vô hình" đã, đang và sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống Dương thế, như một ví dụ trước, Nhà tiên tri Mohamet đã nhận được nội dung bộ kinh Koran từ Tổng Lãnh Sự Thiên Thần Gabriel (tức Lạc Long Quân) trong vòng 20 năm, thông qua công năng thần thông "thuận phong nhĩ", cũng từ bộ kinh Koran này mà từ đó các dân tộc vùng Trung Đông đã xây dựng nên một nền văn hóa Hồi giáo rực rỡ. Do vậy, những cái tưởng chừng như đã bị hủy diệt, mất đi, không thấy... đều có thể "Hỏi" thế giới vô hình. Thế giới này hoàn toàn lấy chữ "Nhân" làm nền tàng. Tuy nhiên, câu "Trả lời" cũng phải được kiểm chứng một cách khoa học.
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT SƯ PHỤ THIÊN SỨ Chúc Sư Phụ vui vẻ, hạnh phúc, cùng Trung Tâm ngày càng phát triển.
-
Trong lịch sử Trung Hoa, chúng ta cũng nên ghi nhớ mốc lên ngôi của Kinh Dương Vương là năm 2879 TCN, dĩ nhiên cũng là năm lên ngôi của Đế Nghi nước Trung Hoa, năm này gọi là năm trùng Bắc Nam (Đế Minh - Ánh Sáng Quang Minh - Bất Nhị làm chủ trì cuộc chia đôi nước, lập lời thề tại núi Thiên Đài, tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay), kiểu song trùng này phổ biến trong nền văn hóa Đông phương, như 1-1; 3-3; 5-5; 7-7; 9-9; 10-10... Đế Nghi và chính thất của ông sinh Đế Lai, Đế Lai và chính thất của ông sinh ra bà Âu Cơ và con trai nối ngôi là Đế Chuyên Húc... Bà Âu Cơ cùng với Lạc Long Quân - con Kinh Dương Vương lấy nhau sinh ra Hùng Quốc Vương - Hùng Vương thứ III (chi thứ III). Trong nghề kiến trúc xây dựng cổ đại, không ai không thể không biết thước Lỗ Ban (còn gọi là Quang Môn Xích) dùng để định vị các kích thước tốt xấu, có hai loại thước, một dùng trong dương trạch một dùng trong âm trạch. Bí ẩn của việc hình thành nên chiếc thước Lỗ Ban chắc chắn liên quan đến thiên văn học, tôi cho rằng, cả thế giới từ cổ chí kim đều bất lực trong việc trả lời tại sao lại chế tạo ra được 2 cây thước siêu đẳng như vậy. Truyền thuyết về tác giả của cây thước là ông thợ mộc có tên Công Thâu Ban, người vùng Sơn Đông, nơi có núi Thái Sơn mà các đời vua Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử đều đến đây để tế "Trời". Tất nhiên, cũng không thể tách rời khái niệm "Khí" - một khái niệm cố tủy trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nó cũng đã được minh định trong website này - tác giả Thiên Sứ. Lỗ Ban là ông tổ của nghề mộc, Xảo Thánh Tiên Sư, cũng được thờ như ông tổ của nghề xây dựng và kiến trúc, tuy nhiên bản chất là không phải như vậy, Lỗ Ban chính là Kinh Dương Vương - ông "Trời", chứng minh phức tạp lắm, tôi chỉ ghi nhận kết quả như dưới đây: "Tứ Vị Anh Hùng" hay còn gọi là "Tứ Hùng" (phổ biến trong các tôn giáo khắp thế giới thời cổ đại): (nếu không nắm được mật mã này thì không bao giờ giải được lịch sử Hùng Vương). - Phương đông (hành mộc) - Kinh Dương Vương - Thợ Mộc. - Phương nam (hành hỏa) - Đế Minh - Thợ Vẽ (đây mới là ông tổ nghề kiến trúc). - Phương Tây (hành kim) - Hùng Quốc Vương - Thợ Rèn. - Phương bắc (hành thủy) - Lạc Long Quân - Thợ Xây (đây mới là ông tổ nghề xây dựng). Trong bộ truyện Tùy Đường diễn nghĩa, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã tiên tri: Ai sẽ làm vua? Con người Thợ Mộc. Con người của "Thợ Mộc" tức con của Kinh Dương Vương - ông Trời (Thiên) là Lạc Long Quân - Thợ Xây, đây mới là ý nghĩa chân chính của từ "Thiên Tử" tức Lạc Long Quân. Đến thế kỷ XX, có Hội Tam Điểm xuất hiện trên thế giới, chuyên kết nạp những con người có tài trên thế giới, lấy hình ảnh người Thợ Xây làm những nền tảng cấu trúc của hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng là thành viên của hội này, sau chủ tịch Hồ Chí Minh rời khỏi hội, đi theo chí hướng giải phóng dân tộc riêng của mình. Hình ảnh thường thấy trên những áp phích Hội Tam Điểm là chiếc compa và thước eke (bộ thước trong tay của ngài Phục Hy và Nữ Oa thời cổ đại). Đặc biệt, ngài Phạm Hộ Pháp (Phạm Công Tắc), tự Ái Dân, hiệu Tây Sơn Đạo, một trong những người sáng lập ra Đạo Cao Đài - Tòa Thánh Tây Ninh cũng là thành viên của hội. Dữ liệu liên quan: - Hùng Quốc Vương (chi thứ ba – Chi Cấn), tên húy là Lân Lang, ở ngôi 282 năm (từ 2524- 2253 Tr.CN). Vua hiển liệt cùng các tôn thần, hội họp tại điện, là một trong 50 vương theo mẹ trở về rừng phân trị trong nước, nối dựng cơ đồ, mạch nước dài lâu. - Hùng Hoa Vương (chi thứ tư – Chi Chấn),tên húy là Bửu Lang, ở ngôi 334 năm (từ 2252-1918 Tr.CN). Vua hóa sinh bất diệt, thành kim tiên thượng giác, ở nơi ngọc khuyết, cai quản tam thiên tiên chúa. Sinh con trưởng là Hy Vương nối theo ngôi báu. Chuyến thông hiếu với Trung Hoa thời vua Nghiêu tương đương thời chi Hùng Vương thứ III. Truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh là nói về Hùng Vương IV, đầu chi này (chuyển chi), Hùng Hoa Vương, với công trị thủy bằng đê đập và thuật trị nước (quốc gia) Hồng phạm cử trù. "Hồng phạm cửu trù" không thể tìm bất cứ nơi nào trên thế giới, cổ lẫn kim. Như vậy, đến Hùng Hoa Vương thì thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã thực sự hoàn hảo. Liên quan đến Nho giáo (Nhu giáo, biểu tượng là "cây tre", người quân tử lấy hình ảnh cây trúc quân tử - họ tre), thì "Ngũ Thường" tức 5 mối giềng định vị "con người" khác "động vật", tương ứng với Ngũ Hành trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành, tức đã được phân loại. Trong các tôn giáo trên thế giới, nếu chúng ta không thấy thuyết Âm Dương Ngũ Hành và nhiều khái niệm về vũ trụ và nhân sinh quan khác, cho tới Thái Cực (Đạo, thường gọi là Thượng Đế nhưng không hiểu) thì chỉ gọi là "tôn giáo" chứ không phải "Đạo giáo", bởi chỉ mang tính cách giáo dục luân lý mà thôi, chứ không hiểu bản chất sâu xa của nó. Có thể hiểu là chi, cành từ những Đạo giáo nguyên thủy. Vậy mức độ cân đối của một người trong xã hội với Ngũ Thường là như thế nào? Sự cân đối Ngũ Thường được gọi là Hạnh - viết trong Binh pháp Khương Thái Công (đầu thời Tây Chu, khoảng thế kỷ XII TCN). Trong dòng chảy lịch sử Trung Hoa, cổ vật thời Thương rất nổi trội, to lớn và kỳ vĩ, thể hiện rõ thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đặc biệt tên hiệu của các vị vua Thương đều theo Can Chi. Song hành cùng với văn hóa đồng Thương còn có văn hóa đồng không hề thua kém, văn hóa Tam Tinh Đôi tỉnh Tứ Xuyên (văn hóa Ba Thục) chứng tỏ sự độc lập về văn hóa và lãnh thổ, đây là một đặc trưng cần chú ý khi xét mối quan hệ giữa chúng và thời nhà Hạ, thời chiến tranh Văn Lang - Ân. Văn hóa Ba Thục có liên quan đến vùng Quý Châu, Vân Nam, nếu chúng ta xét tổng thể các nền văn hóa dọc theo hai bờ sông Dương Tử - ranh giới giữa Trung Hoa và Văn Lang: - Vùng thượng lưu, với Tứ Xuyên - Quý Châu, Vân Nam, có dòng giống Thục phổ biến. Thời Tam Quốc, ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vân Trường và Trương Phi cùng quân sư Gia Cát Lượng lập nên nước Thục bao gồm các vùng này, dùng trống đồng làm biểu tượng thống nhất, Gia Cát Lượng cũng làm được chiếc nỏ bắn hơn chục phát tên (Tam Quốc Chi diễn nghĩa). Đấy cũng là lý do dân gian nhầm lẫn cho rằng Gia Cát Lượng là người chế tạo trống đồng đầu tiên, ông tổ trống đồng. - Vùng trung lưu với Hồ Bắc - Hồ Nam, Giang Tây, có dòng Việt hùng mạnh. Nhà Hán do Lưu Bang lập nên, và nước Sở của Sở Bá Vương Hạng Vũ đều xuất thân từ vùng đất này. Trong Kinh Thư san định bởi Khổng Tử, vùng này thuộc châu Kinh, châu Dương (hàm ý Kinh Dương vương). Đến đây thì "Hán" là Việt hay "Hán" là Mông Cổ???. - Vùng hạ lưu cửa sông Giang Tô - Chiết Giang với dòng Việt nổi lên thời Câu Tiễn. - Vùng Thượng Nguồn: Tây Tạng, Tân Cương...: xét sau. Qua đó, chúng ta thấy tại sao vua Hạ Vũ là người Việt, lấy vợ Việt, nay nơi thờ chính ở vùng Giang Tô, ông có lưu một bia đá ở tỉnh Hồ Nam, với mấy chục chữ, hình loằng ngoằng như con giun, trông còn phức tạp hơn chữ Phạn, chưa ai giải mã được cho tới nay. Sau này, lịch sử nước ta cũng có sự lẫn lộn An Dương Vương Thục Phán với vùng Tứ Xuyên bởi lý do như trên, một vùng văn hóa có những nét Thục chung với Quý Châu và Vân Nam của Văn Lang. Ngoài ra, còn các nền văn hóa trước đồ đồng và cũng đi cùng, đó là văn hóa gốm ,đá mới, đá cũ như Long Sơn, Ngưỡng Thiều... cũng như văn hóa ngọc đá Lương Chử vùng Giang Tô - Chiết Giang kéo tới Giang Tây, Hồ Nam. Chúng ta phải tách bạch cho được sự tiếp nối, giao thoa... của các nền văn hóa này. Những vật tiêu biểu chung cho các nền văn hóa trên đó là: rìu Việt, nha chương, ống tông và đĩa bích, từ những biểu trưng này mới có thể hiểu rõ các mối quan hệ lịch sử, văn hóa. Chẳng hạn, rìu Việt phổ biến cho mọi nền văn hóa, sau này nha chương cũng như vậy, ống tông đĩa bích cho Lương Chử nhưng đĩa bích lại cũng rất thông dụng... Tới văn hóa đồng thau, các biểu tượng trên vẫn sử dụng nhưng ngày càng dịch chuyển và mở rộng thêm...
-
Liên quan đến bộ môn thiên văn học cổ, giữa Văn Lang và Trung Hoa có ghi nhận sự kiện khoảng 2300 TCN "Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có hoa văn, đều là chữ Khoa đẩu, ghi chép từ thủa trời đất mới mở mang đến nay, vua Nghiêu sai người chép lấy, gọi là Lịch Rùa". "Lịch Rùa" tức Âm Lịch ngày nay, các sự kiện quốc gia, tôn giáo... đều lấy Âm Lịch làm mốc chuẩn. Tuy nhiên tên gọi lịch có nhiều từ xưa tới nay như Nông Lịch, Âm Dương Lịch, Hạ Thương Chu Tần lịch... và thường gọi nhất là Hoàng Lịch. Chữ "Hoàng" này lấy từ trong "Tam Hoàng Ngũ Đế" bởi vì Tam Hoàng biểu tượng cho 3 chu kỳ: - Hoàng đạo - chòm sao Tiểu Hùng Thiên cực bắc - 25.920 năm: Hùng Quốc Vương - Địa Hoàng (ứng Trung nguyên Địa Quan Xá Tội Tinh Quân). - Xích đạo - mặt trời - 1 năm: Kinh Dương Vương - Thiên Hoàng (ứng Thiên nguyên Thiên Quan Ban Phúc Tinh Quân). - Bạch đạo - mặt trăng - 1 tháng: Lạc Long Quân - Nhân Hoàng (ứng Hạ nguyên Thủy Quan Giải Ách Tinh Quân). Dĩ nhiên, tuần là thành phần của tháng ứng Nhị thập bát tú quan trắc trên đường Bạch đạo, cũng là từ Đông phương. - Điểm mốc định vị quán xét: trái đất, một vị trí bất kỳ trên trái đất, dùng "Kim chỉ Nam" - biểu tượng cho trái đất là Đế Minh - Vũ Tiên (cái nhận định này để giải thích tại sao lại có thì phức tạp lắm, chỉ ghi nhận kết quả thôi). (ghi chú: Lịch Rùa - con rùa biểu tượng cho không gian. Con rắn, con lươn, con lịch... biểu tượng cho thời gian, Lịch rùa biểu thị sự hợp nhất của không thời gian và vạn vật). Tổ hợp các chu kỳ tương tác này, dựa trên thuyết Âm Dương Ngũ Hành (Can chi) và các phương pháp tính, quan trắc thiên văn mà ra. Đấy là lý do tại sao trái đất khi ở vị trí xa mặt trời nhất mà lại vào mùa xuân hè, khi gần mặt trời nhất lại vào mùa thu đông, cái này thì Tây phương hoàn toàn không hiểu. Đồng thời, cũng dùng định vị chu kỳ kinh mạch trong Đông Y châm cứu, cái này thì cả thế giới cổ kim đều bó cả chân lẫn tay cho dù văn minh Ấn Độ thấu hiểu pháp môn Yoga. Trên thế giới, chúng ta chưa chắn chắn một nền văn minh nào biết được con số 25.920 năm, và riêng môn Thái Ất thì hoàn toàn mù tịt. Cho đến thế kỷ XX, Thiên Chúa giáo tung hoành 1000 năm đen tối (lịch sử thế giới gọi là thời kỳ hắc ám) lấy ngày sinh ngài Jesus làm mốc chuẩn Công nguyên, lấy lịch Mặt trời làm của mình nhưng lại cho rằng mặt trời quay quanh trái đất? dã làm tiêu tùng các nhà bác học nổi tiếng và vô số người khác nữa. Dương lịch này như một cái bàn có 3 chân mà 2 chân bị gãy còn 1 chân, thọt giò, chẳng giống ai. Chúng ta chú ý, các nước trên thế giới thời cổ đại đều tôn thờ thần Mặt Trời là nhân vật có vị thế cao nhất trong Bách Thần (Thần đạo). Đấy là lý do sử Việt Nam chỉ ghi nhận năm lên ngôi của Kinh Dương Vương 2879 TCN làm mốc chuẩn của Hoàng Lịch, ông là thần Mặt Trời, đứng đầu trong Tam Hoàng. Thiên văn rõ ràng cũng không thể tách rời Kim chỉ nam, liên quan đến hàng hải và nhiều vấn đề khác, phát minh này được cho là bắt nguồn từ Đông phương, không ai phản đối cho tới nay Tây - Ta - Tàu, tuy nhiên chúng ta nên biết kim tự tháp xưa nhất ở Ai Cập <2600 TCN khi xây dựng cần dùng kim chỉ nam và cột đo bóng mặt trời, cùng các thiết bi quan trắc thiên văn, họ cũng đã biết dùng con lắc cảm xạ, cho nên sự "đồng ý" phát minh kim chỉ nam từ Đông phương sẽ được minh định lại trong chuyên mục này. Không chỉ vậy, thiên văn Đông phương và Tây phương định vị Thất Tinh nhưng ngày nay còn đang bàn cãi có hành tinh thứ 10 trong hệ mặt trời hay không - sao Diêm Vương? Vậy thời Hùng Vương có biết hay không vấn đề này? Các cụ để con cháu cãi nhau chơi đấy mà, đây là một vấn nạn của thiên văn hiện đại, và tất nhiên vấn nạn của toàn bộ nền văn minh trên thế giới thời cổ đại. Về văn minh Trung Hoa, tôi sẽ bổ sung thêm một vài ý nữa trước khi đi vào sử Việt.
-
Trong lịch sử văn minh Trung Hoa không thể không nhắc đến Đạo giáo - giáo chủ được cho là Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử, tác giả của cuốn Đạo Đức Kinh độc đáo, khoảng 5000 chữ. Tuy nhiên, sách của Đạo giáo thì vô số, tới triều Thanh đã hình thành bộ Đạo Tạng, nghe nói trên 5000 cuốn. Đặc trưng của Đạo giáo không chỉ là Đạo Đức Kinh mà là phương pháp khí công tu tiên đắc đạo là chủ yếu, liên quan đến hệ thống kinh mạch Nhâm Đốc và 7 luân xa. Đạo giáo là tôn giáo chính của Trung Hoa, trên nữa là thờ tổ tông. Dấu vết của Đạo giáo còn lưu trên cổ vật Thương Chu ở trên, dĩ nhiên không thể tách rời thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Các nhà khảo cổ đã khai quật được một bản Đạo Đức Kinh chép trên lụa của một ngôi mộ vương hầu tại tỉnh Hồ Nam, niên đại 168 TCN, trước Tư Mã Thiên viết Sử ký. Hồ Nam thuộc nam Dương Tử, một bộ của Văn Lang, bị mất vào thời Thương trong trận chiến Văn Lang - Thương thời Hùng Vương VI. Các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang lưu cổ vật thời Thương Chu rất nhiều chứng minh cho sự kiện này. Các kinh sách nổi tiếng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành: Đông Y, Tử, vi, Thái Ất, Độn giáp, phong thủy dương trạch, âm trạch, thước Lỗ Ban, Bốc dịch, Lạc Việt độn toán... đều cho có liên quan đến các nhân vật trong suốt chiều dài lịch sử 5000 năm như trên. Riêng Đông Y, bộ môn hết sức đặc biệt, không thể chỉ am tường thuyết Âm Dương Ngũ Hành hay các sách liên quan mà biết được nó, hoàn toàn là không thể cho dù đó là cá nhân nào, bạn không thể biết được 72000 kinh mạch và vô số huyệt vị trong cơ thể người mà máy đo tia X cũng không thể phát hiện ra. Nó chắc chắn được xây dựng bởi những người không chỉ am tường học thuyết mà phải có thần thông, dĩ nhiên đắc đạo sẽ có công năng như vậy, hoăc là những bậc thầy trong thế giới vô hình (Cõi Âm). Không chỉ vậy, bộ môn Tử vi có 110 sao tức biến số, nếu tính tương tác giữa các biến số này, dùng công thức toán học thì sẽ lên đến hàng tỷ tỷ tương tác nhưng trong đó, người ta chỉ xét những tương tác có quy luật và nổi trội. Chẳng hạn, cơ sở nào biết được sao Tử Vi - Chính tinh tinh quan trọng nhất trong 14 chính tinh có thuộc tính Âm Thổ hay Dương Thổ, các sách viết về Tử vi đang lẫn lộn hai đặc tính này. Liên quan đến thế giới, gồm có thế giới chúng ta đang sống gọi là Cõi Trần (Dương, Người, Đất) và Cõi Âm (vô hình), chưa kể đến việc trong vũ trụ còn có thế giới nào khác không? Sự liên quan giữa các thế giới là hoàn toàn rõ ràng, chẳng hạn Kinh Koran của đạo Hồi từ sự thông linh giữa giáo chủ Mohamet và thiên thần Gabriel (Tổng lãnh sự thiên thần - Lạc Long Quân, sẽ chứng minh), và còn vô sô kinh sách khác. Tuy nhiên, để chứng minh tồn tại linh hồn là rất phức tạp, nhưng không có gì là không thể. Ngoài những vấn đề nêu trên, có một bộ môn phổ biến trên thế giới nhưng cũng có liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đó là thiên văn, được ghi nhận trong Kinh Thư và cổ vật Thương Chu, đồng thời là biểu tượng của các thần linh trong tôn giáo. Thiên văn là một dữ kiện quan trọng và nền tảng chính yếu của nông nghiệp, thời tiết, dự báo... đối với các nền văn minh trên toàn thế giới, chỉ cần ngước lên trời vào buổi tối là thấy (sách trời). Đối với thiên văn, các hành tinh trong hệ mặt trời như Thất Tinh: mặt trời, mặt trăng, sao kim, thủy, mộc, hỏa, thổ có sai số tên gọi theo vị trí từ trong ra ngoài thiên văn cổ Đông phương lẫn Tây phương, đó là sao Kim là sao Thủy, lý tương sinh tương khắc của hệ mặt trời theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Một sai số có chủ ý của "chủ nhân đặt tên các hành tinh trong hệ mặt trời" làm cho cả thế giới cổ kim vẫn đang dùng - họ là ai?.
-
Chứng tích lịch sử Trung Hoa liên quan đến học thuyết ADNH - thông quan biên niên sử và cổ vật khai quật được cho tới nay: Tạm thời định vị khu vực địa lý nước Trung Hoa có biên giới giáp với nước Văn Lang là dòng sông Dương Tử, kéo dài tới Tây Tạng ngày nay. - Nội dung trên giáp cốt văn: thời Thương (1766-1122 TCN): liên quan đến tiên tri và một số vấn đề thuyết ADNH. Quan trọng nhất là cổ vật đồ đồng xanh thể hiện rõ ràng học thuyết này, nên tham khảo cuốn Nguồn gốc người Việt - Mường của Tạ Đức. - Nội dung trên đồ đồng Chu (1122 256 TCN) và các minh văn: tương tự ở trên. - Bộ Ngũ Kinh: được san định bởi Khổng Tử (551-479 TCN), trong đó có Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ... - Trúc thư niên kỷ và Sử ký Tư Mã Thiên: ghi nhận sử thượng cổ, chẳng hạn Phục Hy, Thần Nông... truyền thuyết và huyền thoại liên quan đến thuyết ADNH. - Những truyền thuyết và huyền thoại: về Phục Hy - Hà đồ trên long mã hay Chu Văn Vương - Lạc thư trên rùa thần... Hồng Phạm cửu trù liên quan đến vua Hạ Vũ... - Thời nhà Hạ (2205 - 1766 TCN): nếu liên kết và phân tích mối liên hệ văn hóa, lịch sử thời Hạ - Thương thì sẽ nhận ra rằng thời Hạ cũng tồn tại học thuyết này, cổ vật khai quật thời kỳ này dù không nhiều (truyền thuyết nổi tiếng Cửu Đỉnh, cho đến thời Tần Thủy Hoàng được xem là vẫn còn) nhưng vẫn hết sức rõ ràng. - Thời Nghiêu Thuấn: cùng thời vua Hạ Vũ tức trước 1, 2 đời truyền ngôi. - Tam Hoàng Ngũ Đế (2852-2205 TCN): thuộc huyền thoại, như Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế... có liên quan đến nước Văn Lang, chú ý năm 2852 TCN của Hoàng Đế Trung Hoa sau thời kỳ Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 TCN (truyền thuyết Văn Lang) đến 27 năm. - Trước Tam Hoàng Ngũ Đế: thời kỳ tổ tông, ngày nay gọi là văn minh đã bị hủy diệt sau trận đại hồng thủy Atlantic, trện lụt này được ghi nhận trên khắp thế giới.
-
Giả thuyết mới về hướng di cư của người cổ đại Những mẫu hóa thạch răng giống người vượn nhỏ được tìm thấy ở Lybia chứng tỏ người cổ đại di cư từ châu Á đến châu Phi, chứ không phải theo chiều ngược lại như nhận định lâu nay của các nhà cổ sinh vật học. Người vượn cổ. (Ảnh internet) Đây là nhận định của các nhà nghiên cứu trường Đại học Poitiers của Pháp công bố trên tạp khí khoa học "Tự nhiên" của Anh ra ngày 27/10. Phát biểu với hãng tin AFP, ông Jean-Jacques Jaeger tham gia nghiên cứu trên nói rõ dựa trên những phát hiện ở Ai Cập và Algeria, thế giới từ trước đến nay chỉ biết đến một loài người vượn duy nhất xuất hiện ở châu Phi cách đây 37 triệu năm. Tuy nhiên, những hóa thạch răng người vượn được tìm thấy ở vùng Dur At-Talah thuộc miền Trung Lybia cho thấy còn 3 loài người vượn khác tồn tại từ cách đây 38 triệu đến 39 triệu năm, trong đó có một loài sống ở châu Á. Ông Jaeger cho biết các mẫu răng hóa thạch nói trên thuộc loài người vượn nhỏ, chỉ nặng từ 120 đến 470 gam ở tuổi trưởng thành. Các chi của loài người vượn này có thể cầm nắm được và có móng chứ không phải vuốt. Đuôi của chúng có tác dụng giữ thăng bằng khi trèo hoặc nhảy. Theo ông Jaeger, những phát hiện nay chứng tỏ người vượn di cư từ châu Á sang châu Phi và tổ tiên của loài người chúng ta có vóc dáng rất nhỏ. Phát hiện mới sẽ lại thổi bùng những tranh cãi vốn đã rất sôi nổi trong giới cổ sinh vật học về nguồn gốc loài người. Phát hiện này còn đặt ra câu hỏi phải chăng cả 3 loài người vượn nhỏ mới được phát hiện đều có nguồn gốc từ châu Á, hoặc phải chăng các loài này là kết quả tiến hóa của loài vượn người được phát hiện ở châu Phi. Nhóm của ông Jaeger nghiêng về giả thiết thứ nhất. Vượn biến thành người như thế nào? Chúng ta đều biết theo thuyết tiến hóa thì tổ tiên loài người là các chú vượn châu Phi (1). Tuy nhiên rất ít người biết cụ thể quá trình kì lạ đó, dù chỉ trên những nét khái quát. Hy vọng bài viết dưới đây có thể khắc phục một phần thực tế đó. Câu chuyện không thể tin nổi về quá trình vượn biến thành người khởi nguồn từ hơn 6-7 triệu năm trước và điểm xuyết bằng sự xuất hiện các đặc trưng điển hình của loài người như đứng thẳng và đi bằng hai chân, não lớn, vô mao, chế tác công cụ, săn bắt, chế ngự lửa, phát triển ngôn ngữ, phát minh tôn giáo và nghệ thuật, xây dựng văn hóa và văn minh. Charles Darwin là người đầu tiên giả định nguồn gốc vượn châu Phi của loài người trong tác phẩm Nguồn gốc các loài năm 1859. Tuy nhiên, tại châu Phi không hề thấy một dấu vết hóa thạch nào của tổ tiên loài người cho đến tận năm 1924, khi Raymond Dart tìm được “em bé Taung”, một chú vượn phương Nam (Australopithecine) có niên đại 3-4 triệu năm trước. Từ đó đến nay, hàng chục loại người cổ khác nhau đã được phát hiện và các nhà cổ nhân học vẫn còn đang tranh cãi gay gắt về mối liên hệ giữa họ với nhau. Cũng không ai ngờ được rằng, đến tận năm 2004 mà giới nghiên cứu vẫn có thể tìm thấy hóa thạch của loại người lùn đặc biệt, Homo floresiensis, tại hòn đảo Flores nằm ở vùng viễn đông Indonesia, giữa Nam Thái Bình Dương. Đứng thẳng: Trên thực tế người cũng chỉ là một loài vượn (2), vì chúng ta có 98% số ADN giống như tinh tinh, họ hàng gần gũi nhất của loài người. Các bộ môn di truyền và khảo cổ học cho rằng, người và tinh tinh có chung tổ tiên khoảng 7-10 triệu năm trước. Nói cách khác, người và tinh tinh chia tách nhau về mặt di truyền chỉ chưa đầy 10 triệu năm trước. Bằng chứng khảo cổ cho thấy, khoảng 6 triệu năm trước, loài vượn đi bằng hai chân bắt đầu xuất hiện. Cho dù các chú vượn phương Nam này, cũng như nhiều loại người tối cổ xuất hiện sau đó, có hình thể không lớn hơn tinh tinh và có kích thước não tương tự, việc đứng thẳng và đi bằng hai chân là một bước tiến hóa đặc biệt, có tầm quan trọng không kém việc tăng kích thước não trong sự tiến hóa của con người. Đứng thẳng và đi bằng hai chân mang lại nhiều ưu thế nổi bật, như có thể mang thức ăn cho đồng loại hay mang về nhà; giảm diện tích bề mặt cơ thể dưới ánh nắng nhiệt đới, do đó giúp giảm thiểu sự tăng nhiệt độ quá mức, nhất là với não; giải phóng đôi tay để dùng công cụ; bế trẻ em đi xa; giảm năng lượng cần thiết khi di chuyển so với đi bằng bốn chân như các loài linh trưởng khác (với cùng một mức năng lượng, tinh tinh đi được 6 dặm, trong khi người đi được 11 dặm một ngày); nhìn rõ hơn và xa hơn khi di chuyển (do đứng cao hơn); tăng vẻ đe dọa khi phải đối mặt với kẻ cạnh tranh… Hành vi đứng thẳng có thể xuất hiện khi khí hậu khô hơn đã thu hẹp các cánh rừng nhiệt đới châu Phi. Thay vào đó là các bụi cây với những chùm quả nhỏ. Để “hái quả”, do một đột biến ngẫu nhiên nào đó mà vượn phương Nam đã tiến hóa hành vi đứng thẳng (giả thuyết của Clifford Jolly và Randall White, Đại học New York, năm 1995). Đồng thời, vì rừng đã thưa hơn, nên cần phát hiện kẻ thù từ xa, do đó đứng thẳng trở thành một ưu thế sinh tồn được quá trình tiến hóa ưu ái. Bằng chứng vượn phương Nam đứng thẳng bao gồm việc phân tích hình dạng xương và dấu chân hóa thạch của chúng. Trong đó nổi tiếng nhất là hóa thạch hầu như nguyên vẹn của Lucy, một phụ nữ thuộc giống Australopithecine afarensis sống khoảng 3.2 triệu năm trước, do nhà cổ nhân chủng học Donald Johanson tìm thấy ở Hadar, Ethiopia năm 1974. Cô cao khoảng 1.1 m, và mặc dù đi bằng hai chân, theo kết quả mô phỏng trên máy tính, dáng của cô không thể xem là chuẩn theo tiêu chí hiện đại! Cánh tay dài và ngón tay cong chứng tỏ cô vẫn rất thiện nghệ trong việc leo trèo. Vượn phương Nam (phục dựng). Đến nay hàng trăm hóa thạch Australopithecine afarensis đã được phát hiện. Ngoài ra là hóa thạch của các loài liên quan, chẳng hạn như Australopithecine africanus (điển hình là “em bé Taung” 3.5 triệu năm trước). Chế tác và sử dụng công cụ: Vượn phương Nam Australopithecine được xem là tổ tiên của người (Homo), một nhóm linh trưởng gồm cả chúng ta, Homo sapiens (người khôn). Australopithecine cũng là tổ tiên của một số nhóm động vật nhân hình khác, như các loài Paranthropus ăn thực vật. Chẳng hạn khoảng 2.7 triệu năm trước, xuất hiện loài Paranthropus bosei ở Đông Phi có răng hàm lớn và cơ nhai khỏe để nhai rễ và củ. Khoảng 2.5 triệu năm trước, người khéo (Homo habilis) xuất hiện; đó là loại động vật nhân hình đầu tiên giống con người, theo các kết quả hóa thạch. Họ sống cùng thời với Paranthropus bosei. Cơ thể của người khéo bằng khoảng 2/3 người hiện đại và bộ não lớn gấp rưỡi não vượn, đạt tới 600 cm3. Homo habilis có răng và hàm nhỏ hơn Paranthropus và có lẽ là loại người đầu tiên ăn nhiều thịt. Đó là nguồn năng lượng quan trọng giúp tăng kích thước não. Người khéo cũng là loài đầu tiên biết chế tác công cụ và dùng chúng để đập vỡ xương lấy tủy. Truyền thống chế tác đó, truyền thống Oldowan (do tìm thấy công cụ tại vùng Olduvai Gorge, Tanzania), kéo dài gần một triệu năm mà không có sự thay đổi rõ rệt nào. Công cụ Oldowan chế tác bằng cách dùng một hòn đá làm búa ghè vỡ một hòn đá góc cạnh khác để tạo ra các mảnh đá sắc; và chúng được dùng để chặt hay cắt. Người khéo (phục dựng) Mặc dù cũng tăng kích thước não, nhưng loài Paranthropus tuyệt chủng khoảng 1.2 triệu năm trước. Một số chuyên gia cho rằng, khả năng làm việc theo nhóm để chống lại thú ăn thịt đã giúp con người (Homo) thoát khỏi thảm cảnh diệt vong. Dáng điệu hiện đại: Khoảng 1.8 triệu năm trước, xuất hiện người đứng thẳng (Homo erectus) tiến hóa từ người khéo. Đó là loài linh trưởng đầu tiên không biết trèo cây (Homo habilis vẫn còn trèo cây rất thiện nghệ). Một số nhà cổ nhân chủng học dùng thuật ngữ Homo ergaster để chỉ loại người này, còn Homo erectus dùng để chỉ Homo ergaster ở châu Á, do hóa thạch đầu tiên tìm thấy ở Indonesia năm 1891. Người đứng thẳng chế tạo công cụ theo truyền thống riêng biệt, truyền thống Acheul (do tìm thấy công cụ loại này tại Saint Acheul, ngoại ô Amiens phía bắc nước Pháp). Truyền thống này kéo dài đến tận 100 ngàn năm trước. Các công cụ Acheul, như rìu tay, có kích thước lớn và tinh xảo hơn công cụ Oldowan; và vừa là công cụ, vừa là tượng trang trí. Về hình thể, người đứng thẳng khá giống người hiện đại. Có thể họ là những người đầu tiên rất ít lông và tiết mồ hôi, một chức năng sinh lý thích hợp để hoạt động tích cực dưới ánh nắng mặt trời. Homo erectus là người đầu tiên rời khỏi châu Phi (khoảng 1.75 triệu năm trước) và sống đến tận 30.000 năm trước. Họ có bộ não lớn khoảng 1000 cm3 và có thể đã tiếp xúc với người hiện đại. Họ cũng là người đầu tiên chinh phục biển cả và tiến hành các cuộc săn bắt lớn, như săn voi ma-mút và ngựa hoang. Họ cũng biết dùng lửa và dựng “nhà” đầu tiên trên thế giới. Đặc biệt, khung chậu của họ cũng hẹp gần theo tỉ lệ của người hiện đại. Điều đó chứng tỏ, phụ nữ bắt đầu khó sinh nở và cần được trợ giúp trong quá trình mang thai, sinh nở và nuôi con. Đó chính là cơ sở sinh học của cấu trúc gia đình trong xã hội loài người sau này. Năm 2004, dấu vết của một loại người lùn bí ẩn sống khoảng 13.000-18.000 năm trước được phát hiện tại Indonesia. Một năm sau, các nhà khoa học tìm thấy nhiều hóa thạch của loài Homo floresiensis này. Một số chuyên gia cho rằng loài này có bộ não phát triển và là một loài hoàn toàn riêng biệt; nhưng nhiều chuyên gia khác cho rằng, đó chính là người hiện đại mắc bệnh di truyền. Người đứng thẳng (phục dựng) Người Âu đầu tiên: Hóa thạch đầu tiên của người châu Âu, phát hiện tại Tây Ban Nha, có tuổi 780.000 năm. Công cụ đá tìm thấy ở Anh có niên đại 700.000 năm. Chúng được cho là sản phẩm của các loài Homo antecessor hay Homo Heidelbergensis. Có ý kiến cho rằng, người Heidelberg tiến hóa thành người hiện đại tại châu Phi; còn tại châu Âu, người Neanderthal nổi lên như một loài riêng biệt. Người Heidelberg (phục dựng) Người Neanderthal để lại dấu vết khắp châu Âu, bắt đầu từ hơn 200.000 năm trước. Dù có một số khác biệt, họ vẫn rất giống chúng ta. Họ có bộ não lớn hơn người hiện đại một chút và có độ tuổi trưởng thành tương tự. Họ có tiếng nói, nhưng có lẽ chưa có ngôn ngữ hoàn chỉnh, dù chỉ đơn giản. Nhưng họ cũng có một số đặc trưng văn hóa giống chúng ta, như chôn người chết kèm lễ nghi, dùng công cụ để tấn công người khác, hay biết tổ chức các cuộc đi săn qui mô lớn. Em bé Neanderthal (phục dựng) Khoảng 28.000 năm trước, họ tuyệt chủng tại bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Nguyên nhân của thảm kịch đó vẫn là “quả táo bất hòa” trong giới chuyên gia (không thích ứng với sự thay đổi khí hậu; thua vì kém năng lực sáng tạo trong cuộc cạnh tranh không đổ máu với người hiện đại; tuyệt chủng do bị người hiện đại “ném đá”, vì phân tích xương cho thấy, người hiện đại có khả năng ném đá hay phóng lao tốt, trong khi người Neanderthal không có năng lực đó…). Rời khỏi châu Phi: Hiện có hai giả thuyết trái ngược nhau về nguồn gốc người hiện đại. Đó là Thuyết rời khỏi châu Phi và Thuyết tiến hóa đa vùng. Được thừa nhận rộng rãi là Thuyết rời khỏi châu Phi. Dựa trên bằng chứng khảo cổ và di truyền, nó giả định loài người tiến hóa tại châu Phi rồi lan tỏa khắp địa cầu qua hai làn sóng. Sự thiên di của người đứng thẳng sang lục địa Á - Âu gần hai triệu năm trước tạo thành làn sóng thứ nhất. Hàng triệu năm sau, người hiện đại tiến hóa tại châu Phi từ khoảng 200.000 năm trước, trước khi tỏa sang các lục địa khác chỉ khoảng 50.000-60.000 năm trước theo làn sóng thiên di thứ hai. Những người này thay thế người đứng thẳng ở châu Á và người Neanderthal ở châu Âu. Ngược lại, giả thuyết đa vùng cho rằng, loài người rời khỏi châu Phi khoảng hai triệu năm trước và không hề bị thay thế bằng các cuộc thiên di muộn hơn (làn sóng thứ hai). Thay vào đó, họ tự tiến hóa thành người hiện đại tại vùng họ sinh sống. Và sự hòa huyết vượt ranh giới địa lý giúp toàn nhân loại thống nhất về mặt di truyền. Hầu hết bằng chứng di truyền ủng hộ Thuyết rời khoải châu Phi. Đáng ngạc nhiên là toàn nhân loại hiện nay khác biệt nhau rất ít về ADN ti thể (do mẹ truyền cho con) và ADN nhiễm sắc thể Y (do cha truyền cho con trai). Điều đó chứng tỏ nhân loại tiến hóa từ một nhóm người nhỏ trong quá khứ. Thêm nữa, biến thiên di truyền của người châu Phi lớn hơn ở người xứ khác, chứng tỏ họ đã tiến hóa lâu hơn. Trên thực tế khoa học đã xác định được tổ mẫu và tổ phụ của tất cả những người đang sống trên Trái Đất. Nói cách khác, chúng ta là hậu duệ của người đàn bà duy nhất (nàng Eva ti thể) sống tại Đông Phi khoảng 170.000 nằm trước và người đàn ông duy nhất (chàng Adam nhiễm sắc thể Y), cũng sống tại Đông Phi chỉ 60.000 năm trước. Các chuyên gia cho rằng, một nhóm 50 người có thể sinh ra toàn bộ người Âu; trong khi toàn nhân loại có thể tiến hóa từ một nhóm không quá 200 người. “Bước nhảy vọt”: Jared Diamond dùng thuật ngữ “bước đại nhảy vọt” (great leap forward) để chỉ sự xuất hiện các đặc trưng hiện đại trong hành vi của Homo sapiens, trong đó quan trọng nhất là ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà các khái niệm trừu tượng có thể được lan tỏa và lưu giữ lâu dài, điều mà người Neanderthal không thể thực hiện. Người hiện đại về giải phẫu (tức có hình dáng bên ngoài hoàn toàn giống chúng ta) xuất hiện khoảng 200.000 năm trước. Khoảng 100.000 năm trước, họ đã di cư sang Trung Cận Đông nhưng bị người Neanderthal đẩy ngược về châu Phi. Vì thế họ cần thêm 50.000 năm để phát triển các hành vi hiện đại (ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật…) và dùng chúng như hành trang trong cuộc thiên di vĩ đại cuối cùng khoảng 60.000 năm trước. Họ vượt biển Đỏ sang Trung Đông và châu Á theo hai con đường: đường phía Nam men theo bờ Ấn Độ Dương tới tận lục địa Sunda (Đông Nam Á lúc chưa bị chìm ở độ sâu hàng trăm mét dưới mức nước biển hậu kỉ băng hà), trước khi tới châu Úc và Bắc Mĩ; còn đường phía Bắc hướng tới Trung Á trước khi lan tỏa khắp Á - Âu rồi sang Bắc Mĩ. Khoảng 90% số đàn ông ngoài châu Phi hiện nay là hậu duệ của những người chinh phục con đường phía Bắc này khoảng 45.000 năm trước. Trong suốt thời tiền sử, công cụ đá thay đổi không đáng kể cho đến tận 50.000 trước. Nhưng kể từ thời điểm đó, văn hóa bắt đầu phát triển với tốc độ chưa từng có. Người hiện đại phát triển công cụ mới, chôn người chết theo lễ nghi, tạo đồ trang sức, sáng tạo các kĩ thuật săn bắt hoàn toàn mới, dùng da thú may quần áo, vẽ và xăm mình, vẽ tranh trong hang… Mặc dù một số hành vi đã xuất hiện từ trước, nhưng chỉ đến lúc đó chúng mới được sử dụng một cách rộng rãi và tích hợp. Những thay đổi đó có thể đi kèm với sự tăng kích thước não (tới khoảng 1.400 cm3) hay cách chúng ta suy nghĩ. Bình minh của văn minh nhân loại được gieo mầm từ khoảng 30.000 năm trước. Cuộc cách mạng thời đá mới - cách mạng nông nghiệp - chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước. Các thành phố đầu tiên xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) khoảng 4.000 năm trước. Các cột mốc tiến hóa: • 55 triệu năm trước: Các linh trưởng đầu tiên xuất hiện. • 8-6 triệu năm trước: Tinh tinh và người tách nhau trong cây di truyền. • 5.8 triệu năm trước: Orririn tugenensis, tổ tiên cổ nhất của loài người được cho là bắt đầu đi bằng hai chân. • 5.5 triệu năm trước: Ardipithecus, “nguyên người” đầu tiên, chung hành vi với tinh tinh và khỉ đột. • 4 triệu năm trước: Vượn phương Nam xuất hiện, với kích thước não không hơn vượn nhưng đi thẳng bằng hai chân. Tổ tiên đầu tiên của loài người sống tại đồng cỏ miền nhiệt đới. • 3.2 triệu năm trước: Lucy, thành viên danh tiếng của loài Australopithecus afarensis, sống tại Hadar, Ethiopia. • 2.5 triệu năm trước: Người khéo xuất hiện. Có bộ não 600 cm3 nhưng vẫn mang nhiều nét khỉ, Homo habilis là loại người đầu tiên biết chế tác công cụ (truyền thống Oldowan, kéo dài khoảng một triệu năm). Do ăn thịt nên phần dư năng lượng được dùng để phát triển bộ não. • 2 triệu năm trước: Người đứng thẳng (Homo erectus) xuất hiện, với bộ não 1.000 cm3. Đây là loại người đầu tiên đoạn tuyệt hoàn toàn với việc trèo cây. • 1.8 triệu năm trước: Người đứng thẳng thiên di sang châu Á. • 1.6 triệu năm trước: Dấu vết khả dĩ của việc dùng lửa tại Koobi Fora, Kenya. Truyền thống Acheul xuất hiện thay thế truyền thống Oldowan trong việc chế tạo công cụ. • 700 ngàn năm trước: Người Heidelberg sống tại châu Phi và châu Âu. • 500 ngàn năm trước: Bằng chứng đầu tiên về “nhà” tại Chichibu, Nhật Bản • 400 ngàn năm trước: Bắt đầu đi săn với cây thương. • 230 ngàn năm trước: Người Neanderthal xuất hiện khắp châu Âu cho đến khi tuyệt chủng chỉ 28.000 năm trước. • 195 ngàn năm trước: Người hiện đại từ cánh gà bước ra sân khấu. • 170 ngàn năm trước: Eva ti thể, tổ mẫu của tòan bộ loài người hiện tại, sống tại Đông Phi. • 140 ngàn năm trước: Dấu vết đầu tiên về thương mại đường xa. • 60 ngàn năm trước: Adam nhiễm sắc thể Y, tổ phụ của tất cả mọi người trên địa cầu ngày nay, cũng sống tại Đông Phi. • 50 ngàn năm trước: “Bước đại nhảy vọt”, với nền văn hóa thay đổi cực kì nhanh chóng. • 33 ngàn năm trước: Nghệ thuật tranh tường cổ nhất. • 18 ngàn năm trước: Người lùn Homo Floresiensis, tìm thấy tại Đông Indonesia. Họ cao 1 mét, có bộ não như não vượn nhưng biết chế tạo công cụ. • 12 ngàn năm trước: Định cư đầu tiên tại vùng Lưỡi liềm phì nhiêu. Tới châu Mĩ qua eo Bering. • 10 ngàn năm trước: Cuộc cách mạng nông nghiệp xuất hiện tại Cận Đông. • 5.5 ngàn năm trước: Thời đồ đá kết thúc, bắt đầu thời đồ đồng • 5 ngàn năm trước: Chữ viết đầu tiên. • 4 ngàn năm trước: Người Sumer ở Lưỡng Hà phát triển nền văn minh đầu tiên trên thế giới. Vĩ thanh 1: Con người biết may quần áo từ bao giờ? Mùa thu năm 1999, Mark Stoneking, nhà nhân chủng học tiến hóa Mĩ, một trong ba tác giả khám phá nàng Eva ti thể năm 1987, được con trai đưa bản thông báo của nhà trường về việc một học sinh trong lớp có chí. Như bất cứ một ông bố hay lo lắng nào, nhà nghiên cứu đang làm việc tại Viện nhân chủng học tiến hóa Mark Planck tại Leipzig, CHLB Đức, mau chóng nhận biết từ bản thông báo rằng, chí không sống quá 24 giờ nếu thiếu hơi ấm từ cơ thể người. Với tư cách một học giả đang nghiên cứu về tiến hóa loài người, Stoneking giả định, nếu điều đó đúng thì có thể dùng chí để nghiên cứu các cuộc thiên di thời tiền sử. Tuy nhiên chỉ sau vài giờ trong thư viện, Stoneking chợt nhận thấy chí có thể lưu giữ trong ADN của chúng một sự kiện thú vị hơn nhiều: thời điểm con người bắt đầu biết may quần áo. Trên một khía cạnh nào đó, vượn biến thành người là quá trình vô mao hóa, khi lông vượn dần mất đi để cơ thể có thể tiết mồ hôi, cho phép làm việc với cường độ cao dưới ánh nắng nhiệt đới châu Phi. Nhưng với chí thì đó là một thảm họa: thay cho việc tự do du ngoạn khắp cơ thể như trước kia, nay chí chỉ có thể sống trên đầu con người, nơi có đủ tóc để vẫy vùng. Tuy nhiên khi con người biết may quần áo thì chí có cơ may giành lại “vương quốc” đã mất, miễn là chúng tiến hóa thành một loài có thể bám vào quần áo, chứ không phải bám vào tóc như trước. Stoneking thu thập chí sống trên đầu và ở thân người từ công dân 12 nước, từ Ethiopia tới Ecuador hay New Guinea. Ông phân tích ADN của chúng và vẽ cây phả hệ di truyền. Biết tốc độ đột biến gien, ông tính được tuổi loài chí sống ở thân người đầu tiên là 72.000 năm trước. Đó chính là thời điểm con người bắt đầu biết may quần áo. Vĩ thanh 2: Chiến lược bí mật của Thành Cát Tư Hãn. Để tìm phần mộ của Thành Cát Tư Hãn, vị bạo chúa Mông Cổ mất năm 1227, Chris Tyler-Smith và đồng nghiệp tại Đại học Oxford phân tích nhiễm sắc thể Y của 2.000 đàn ông từ vùng nội địa Á - Âu. Họ nhận thấy nhiều nhiễm sắc thể thuộc nhiều vùng địa lý lại rơi vào một nhóm duy nhất. Và nhóm đó cũng rất phổ biến tại Nội Mông. Phân tích tốc độ đột biến gien, các nhà nghiên cứu thấy nhóm đặc biệt đó xuất hiện khoảng 1000 năm trước, đúng thời điểm Thành Cát Tư Hãn leo lên đỉnh cao sức mạnh và quyền lực. Nói cách khác, những người thuộc nhóm nhiễm sắc thể Y đó đều là hậu duệ của vị bạo chúa Mông Cổ. Sử sách chép rằng, bên cạnh Thành Cát Tư Hãn lúc nào cũng có 500 thê thiếp. Hệ quả của chiến lược bí mật đó là ngày nay tại những nơi từng là lãnh địa của đế chế Mông Cổ, hơn 16 triệu đàn ông mang các dấu gien của vị hoàng đế tàn bạo và khôn ngoan. Vĩ thanh 3: Ý nghĩa bảo vệ của ngôn ngữ. Ngôn ngữ có chức năng cơ bản là truyền thông; tuy nhiên nó cũng có một chức năng đáng ngạc nhiên là bảo vệ, khi giúp người nguyên thủy nhanh chóng phát hiện người lạ qua cách phát âm. Người nguyên thủy sống theo các nhóm từ khoảng 50 tới một vài trăm người, được tổ chức hầu như theo quan hệ huyết thống. Để đảm bảo sự sinh tồn của nhóm, việc phát hiện kịp thời kẻ lạ không cùng huyết thống là yếu tố cốt tử. Đó là lí do các nhóm người có cách phát âm khác nhau, cho dù có cùng một ngôn ngữ. Và đó cũng là lí do mà từ một ngôn ngữ do nhóm người vượt biển Đỏ 60.000 năm trước dùng, ngày nay nhân loại dùng đến hàng chục ngàn ngôn ngữ khác nhau, chưa kể nhiều ngữ điệu và cách phát âm trong cùng một ngôn ngữ. Vào ngày Phục Sinh năm 1282, người dân đảo Sicily (Ý) vùng lên lật đổ ách thống trị của công tước Charles de Anjou (Pháp). Để phát hiện số người Pháp đang lẩn trốn, người Sicily đặt ra một thách thức về ngôn ngữ. Đó là phát âm từ “ceci” (phát âm là chay-chi), tên một loại đậu theo tiếng Ý. Chỉ trong vài giờ, hàng ngàn người Pháp không vượt qua được thử thách và bị hành quyết. Có 1 điều: Khỉ rụng đuôi thành người lúc nào, chưa nhà khoa học nào khẳng định cả.
-
Loài vượn có khả năng thành người xưa nhất Những tổ tiên thật sự gần của loài người chỉ xuất hiện vào khoảng 3,7 triệu năm trước, đó là thời điểm xa nhất mà đến nay chúng ta có thể ghi lại được dấu chân của loài vượn người đã có thể đi bằng hai chân. Loài này có tên Australopithecus, phát triển trong các vùng rừng châu Phi. Sự sa mạc hóa của lục địa này khiến rừng biến thành sa mạc hoặc thảo nguyên, không còn cây cối để leo chèo, loài Australopithecus mới dần tiến hóa để có thể thích nghi với việc sống thiếu các ngọn cây. Australopithecus sau này tiến hóa thành Homo habilis với mức độ giống con người ngày nay nhiều hơn, và rồi xa hơn là Homo ergaster, rồi Homo erectus với ít lông hơn, chỉ tập trung chính ở trên đầu, các chức năng cơ thể khá giống với con người ngày nay. Homo erectus được cho là tổ tiên đầu tiên ở dạng người của loài người chúng ta ngày nay, với bộ não có kích thước khoảng 74% bộ não của con người hiện đại. Đó là khoảng 1,8 triệu năm trước. Cho tới tận 100.000 năm trước, loài người có trí tuệ đầu tiên mới thật sự xuất hiện, đó là những người Homo sapien. Họ là nhánh phát triển nhất về trí tuệ trong số các nhánh phát triển của thế hệ các loài vượn người Homo. Với sự sa mạc hóa của châu Phi, họ vượt qua ranh giới giữa châu Phi và châu Âu, phân tán trên cả châu Âu và châu Á (ban đầu là vùng Trung Đông) ngày nay và sống cùng các loài động vật kì lạ trong thời gian của kỉ băng hà như những con Mammoth (voi ma mút) hay nhưng loài động vật có vú có hình dáng ít nhiều khác biệt với động vật ngày nay. Khi kỉ bằng hà bước vào giai đoạn kết thúc khoảng 12.000 năm trước, con người mới thật sự bước vào thời đại của mình với những tổ chức xã hội từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Nếu như khủng long từng là loài thống trị Trái Đất lâu nhất trong lịch sử của hành tinh này thì ngược lại, con người chúng ta mới chiếm lĩnh nó trong một khoảng thời gian quá ngắn nhưng lại là loài có tốc độ phát triển ghê gớm nhất về cả dân số, sự phát triển của xã hội và khoa học kĩ thuật. Và những gì chúng ta có hôm nay, kể cả những dòng bạn vừa đọc, chính là kết quả của tất cả quá trình này! Đặng Vũ Tuấn Sơn - Từ lập luận nguồn gốc vượn người này, chứng tỏ khả năng nó có mặt ở khắp châu lục hay không? - Nguyên nhân đột biến từ "vượn" thành "người"? - Vật chứng "sọ vượn người" ở châu Phi có phải là xưa nhất không hay còn ở đâu khác mà đã phá hủy? Nên nhớ thời tiền đồng mà các ổ vật đã rữa nát rồi. - ADN được xem xét như thế nào về tiến hóa, cần xác định nghiêm tức trước khi sử dụng vào lịch sử. - Trước 3000 TCN, di vật đồ đá của con người còn nhiều, vậy chứng tỏ có nền văn minh vượt trội??? trí tuệ về sự thống nhất vũ trụ và con người là vượt trội thì hợp lý hơn, tuy nhiên cũng chưa chắc chắn, mà phải có "bước nhảy".
-
Tôi ghi thiếu chi tiết Đế Nghi: Hoàng Đế của Trung Hoa là Đế Minh (sau Đế Minh là: Đế Nghi - Đế Lai, Đế Chuyên Húc, Đế Cốc và Đế Chí... vua Nghiêu, Thuấn và Vũ - thường được hình dung là Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa). Cuộc chiến với Si Vưu thời Hoàng Đế là Đế Minh, để giải được thì dùng huyền thoại Hoàng Đế chiến Si Vưu, tứ nhân vật Cửu Thiên Huyền Nữ truyền Thiên thư. Các sách sử Trung Hoa chép Ngũ Đế khác nhau, chẳng hạn có Đế Du Võng (là một trong Ngũ Đế ở trên), để giải cần phải sử dụng sự hợp lý sử viết trong Hoài Nam Tử liệt truyện và Lã Thị Xuân Thu. Liên kết tới huyền thoại Việt và gia phả, thần tích, tôn giáo Hùng Vương nữa... Từ đó mới khẳng định được Hoàng Đế là Đế Minh, chứ không phải khơi khơi đâu. Đế Nghi là em sinh đôi với Đế Minh, cho nên cuộc chiến cùng thời, do vậy mới nhận định việc phân chia nước, xây dựng tập quyền ở bắc Dương Tử, khả năng xung đột là rất cao thời cổ đại.
-
Hình như từ máy tính cá nhân dùng phần mềm chuyển qua PDF, rồi cắt dán lên thôi.
-
-
-
Từ người anh hùng làng Gióng đến thần Hộ quốc Sóc Thiên Vương/ Tỳ Sa Môn Thiên Vương Huỳnh Ngọc Trảng đăng ngày 10/08/2014 Kết quả nghiên cứu trong thế kỷ XX đã đưa ra một số kết luận rằng Thánh Gióng vốn là thần Sấm/ ông Đổng/ Khổng lồ hoặc Thánh Gióng vốn là thần Đá, thần Cây, thần Đất và xu hướng phổ biến được nhiều người thừa nhận: Thánh Gióng là anh hùng dân tộc cổ đại, giúp vua Hùng đánh giặc Ân xâm lược. Ở bài viết này, từ các truyền thuyết, các trò diễn của lễ hội Gióng, nói thêm về phức thể văn hóa này. Tượng đài Thánh Gióng - Ảnh: Thanh Sơn I- Như chúng ta biết, tôn danh Thánh Gióng đã chỉ ra màu sắc Đạo giáo, tức xu hướng Đạo giáo hóa người anh hùng làng Gióng, thống thuộc vào bộ Tứ bất tử; ngoài ra, vị thần này còn được gọi bằng nhiều tôn danh mỹ hiệu khác nhau: Sóc Thiên vương, Xung Thiên Đại vương, Phù Đổng Thiên vương, Xung Thiên Dũng liệt Chiêu ứng Uy tín Đại vương, Sóc Thiên thần vương, Đổng Thiên vương Sóc Thiên Đại thánh, Vệ Linh Sơn thần, Phù Thánh Đại vương…(1). Điều này đã chỉ ra rằng đây là đối tượng thờ tự/ một hiện tượng văn hóa được thế nhân, ở từng tọa độ địa lý-lịch sử khác nhau, nhào nặn theo căn duyên và mục đích khác nhau. Ở đây, bằng cái nhìn quy chiếu với hệ thống thần linh Phật giáo hẳn cho phép chúng ta hiểu thêm một số khía cạnh khác của vấn đề. Trước hết, trong các danh hiệu nêu trên, ngoài danh hiệu thánh, thần, vương/ đại vương, chúng ta lưu ý đến danh hiệu thiên vương, một danh hiệu khá phổ biến trong thần điện Phật giáo mà tiêu biểu là Tứ Thiên vương, tức bốn vị Thiên vương hộ thế, chủ quản bốn phương chính của thế giới và cũng là bốn vị hộ pháp. Thứ hai, Tứ Thiên vương, theo vũ trụ luận Phật giáo, cư ngụ ở tầng trời Tứ Thiên vương trên đỉnh núi Meru (ngọn núi trung tâm vũ trụ). Điều này cho thấy rằng việc Thánh Gióng/ Sóc Thiên vương được thờ tự trên đỉnh núi Cả - đỉnh thiêng trung tâm của đất Tổ có điểm tương đồng. Thứ ba, trong Tứ vị Thiên vương, theo quan niệm Phật giáo thì vị Thiên vương chủ quản phương Bắc là Vaisravana (Tỳ Sa Môn Thiên vương/ Đa Văn Thiên vương) là vị đứng đầu và chỉ có Vaisravana được thờ riêng. Tín lý này chỉ ra sự đồng nhất Vaisravana và Sóc Thiên vương (sóc: phương Bắc), vị Thiên vương duy nhất được thờ tự ở nhiều đỉnh núi thiêng, đền thờ thiêng ở các vùng đất cổ miền Bắc, từ thời tiền Lê đến các triều Lý, Trần(2). Thứ tư, Tứ Thiên vương được thờ tự khắp thế giới Phật giáo từ thế kỷ II TCN. Bốn vị xuất hiện ở bốn phía như người canh giữ các thánh tích Phật giáo Ấn Độ (như bảo tháp Sanchi); ở Trung Á và Trung Quốc, vào thế kỷ thứ VIII, Tứ Thiên vương được thờ tự như những đấng bảo vệ Phật pháp và hộ trì các vị vua chúa tôn sùng đạo Phật chống lại các thế lực xâm lăng. Ở Nhật Bản, vào thế kỷ thứ VI, thái tử mộ đạo Shotoku (Thánh Đức) đã xây điện Shitenno-Ji để thờ Tứ Thiên vương và sau đó, nhiều điện thờ khác được dựng lên ở khắp các tỉnh để họ có thể quan phòng sự an nguy của lãnh thổ và mùa màng. Thực tế này bắt nguồn từ tín ngưỡng Tứ Thiên vương pháp của Phật giáo: Pháp tu Tứ Thiên vương làm bản tôn, là phép tu nguyện trừ tai ách cầu được phước đức. Tứ Thiên vương là thiện thần hộ pháp. Vì thệ nguyện diệt trừ nạn giặc của Tứ Thiên vương sâu nặng nên khi quốc nạn thường tu phép này (theo Đà-la-ni tập kinh 11). Thực tế lịch sử phổ biến ở các quốc gia Phật giáo dẫn trên đã lý giải việc các triều đại Việt Nam tôn thờ vị Thiên vương làm thần Hộ quốc: Lê Đại Hành (980): Sóc Thiên thần vương; Lý Thái Tổ: Xung Thiên thần vương; Trùng hưng năm đầu: Dũng liệt đại vương; năm thứ 4, gia phong hai chữ: Chiêu ứng; năm Hưng Long 21, gia phong hai chữ: Uy tín (Xung thiên Dũng liệt Chiêu ứng Uy tín Đại vương)… Mặt khác, tín lý hộ quốc đó cũng làm cho vị Thiên vương chủ quản phương Bắc có được hành trạng của một anh hùng chống ngoại xâm. Cuối cùng, theo hành trạng của Vaisravana (Tỳ Sa Môn Thiên vương/Đa văn Thiên vương) thì vị Thiên vương này vốn là vị thần Ấn giáo Kuvera/ Kubera (thần Tài): Kubera do đã chuyên chú tu khổ hạnh hàng ngàn năm nên được thần Brahma ban cho sự bất tử và làm thần Giàu sang, trông giữ mọi kho tàng của trái đất. Với tư cách là Vaisravana, thần thống lĩnh tám Yaksa (Dạ xoa) - tất cả được coi là những lưu xuất (emarnations) từ chính Vaisravana; trong số đó, Kubera (da sẫm, ở phương Bắc) và Jambala (màu trắng, ở phương Đông) được coi là thần Tài lộc của các quốc gia Phật giáo vùng Nam Á và Đông Á. Mỗi lưu xuất này đều cầm trên tay một con mangut (mongoose) phun ra châu ngọc. Đa Văn Thiên vương tay cầm tháp báu - biểu thị cho kho báu; trong một số trường hợp, ông cầm con mangut (Trung Quốc gọi là con Hoa hồ điêu; có lúc lại là con rồng) nên cũng được bá tánh coi là Thần Tài Lộc; do đó, vị Thiên vương này được đại chúng tôn thờ phổ biến. Chính vì hàm chứa công năng tài lộc, chủ quản kho báu ở trái đất, nên theo Việt điện u linh, vị Thiên vương này được thờ làm thần Thổ địa ở chùa Kiến Sơ; và sau đó, được Lý Thái Tổ sai thợ đắp tượng thần, lại “sai đắp 8 pho tượng đứng hầu” - đó là 8 Yaksha, bộ hạ lưu xuất của Vaisravana(3). II- Nói chung từ những cổ mẫu thần thoại bản xứ - bao gồm tục thờ đá (Thạch Khanh, ông Đổng, Thạch Quang Phật/ Man Nương…), thần núi và đặc biệt là các Khổng Lồ/ Ông Đùng-Bà Đà/Thổ Lồ/ Tứ Tượng-Nữ Oa… - trong quá trình ảnh hưởng của tổng thể văn hóa-tín ngưỡng tam giáo đã được cải biến thành những mô hình mới(4) và ở đó, như đã trình bày trên, sự đồng hóa của vị Thiên vương cai quản phương Bắc (Tỳ Sa Môn Thiên vương/Đa Văn Thiên vương/ Sóc Thiên vương) là tác động có quy mô trội bật. Tuy nhiên, trong quá trình đó, xu hướng lịch sử hóa theo chuẩn mực Nho giáo “trung quân ái quốc” quan phương của các triều đại phong kiến đã khuôn đúc cậu bé làng Gióng thành vị anh hùng dân tộc phò vua đánh giặc ngoại xâm cứu nước. Mặt khác, là một dân tộc luôn bị ngoại bang xâm chiếm nên công cuộc đấu tranh giữ nước là nhiệm vụ quan yếu hàng đầu khiến cho xu hướng anh hùng hóa cậu bé con ông Đổng ở làng Gióng có được sự đồng thuận trong mỹ cảm nhiều thế hệ dân chúng từ xưa đến nay. Hệ quả của thực tế này đã định hướng các nỗ lực nghiên cứu về người anh hùng làng Gióng cũng như nội dung và ý nghĩa lễ hội Gióng. Nói cách khác, tổng thể thần tích và lễ hội Gióng hầu như được coi là một nội dung phản ánh cuộc đấu tranh chống địch họa chứ không phải chống thiên tai. Điều ấy hẳn phải vậy không? - Thời điểm mở hội Gióng bắt đầu từ 6-4 ÂL song ngày hội chính nhằm vào ngày 9-4 ÂL. Ngày này được coi là “ngày Gióng đánh giặc Ân”, song đây cũng là ngày ông Đổng (cha của Gióng - người đã để lại dấu chân khổng lồ ở vườn cà, thường luôn là “Sáng mưa trưa nắng” theo kinh nghiệm quan sát thời tiết của nhân dân qua nhiều năm(5). Việc ngày hội chính nhằm đúng vào ngày “mưa lệ”, ngày ông Đổng về hái cà đã chỉ ra nguồn gốc nghi lễ nông nghiệp/ cầu mùa của Hội Gióng(6). - Ngày 6-4 trước đó, tức vào ngày hội, cử hành lễ Rước nước, đi từ đền Thượng đến giếng đền Mẫu được coi là “lấy nước rửa khí giới” (Cao Huy Đỉnh - CHĐ, 61). Song rõ ràng việc đi lấy nước tế lễ là nghi thức cầu mưa phổ biến trong nhiều lễ hội ở nước ta. - Sáng mồng 7: Rước cỗ chay (chủ yếu là cơm với cà) từ đền Mẫu đến đền Thượng, rồi phường hát Ải Lao diễn xướng tế Gióng. Đêm đến có tục trai gái đuổi bắt nhau trên bãi sông (CHĐ, 62). Đây là “trò diễn” biểu thị tín lý phồn thực cầu được mùa. Trò Săn hổ của phường Ải Lao diễn trong ngày lễ chính (9-4 ÂL) cũng cho ta thấy chức năng thực hành nghi lễ cầu an cho cộng đồng. - Trò diễn quan trọng nhất của hội Gióng là trò múa cờ. Trò diễn tổng hợp này được coi là phục hiện việc Gióng đánh giặc Ân, gồm 2 trận: một ở Đống Đàm, và một ở Sòi Bia. Hai trò diễn này có nội dung giống nhau nhằm thể hiện việc đánh giặc 2 trận mới chiến thắng. Hình thức thể hiện gồm: 1- Dàn trận: Bên phe giặc Ân có 28 tướng (28 nữ) đứng thành hàng, mỗi tướng có một nữ hầu cầm lọng che và quan gia (đều là nữ); chỉ huy phe giặc là tướng Đốc và tướng Ngựa. Bên phe Gióng có Hiệu tiêu cổ (2 người, thủ vai tướng Tiên phong), 12 em bé mặc áo đỏ đen (gọi “làng áo đỏ, áo đen”) cầm roi song; tiếp đó là ông Hổ, phường hát Ải Lao, cùng các ông Hiệu: Hiệu trống, Hiệu chiêng, Hiệu trung quân, Hiệu cờ; sau Hiệu là Long giá (tượng ngựa trắng bằng gỗ có 4 bánh xe để kéo, tượng trưng cho ngựa sắt của Gióng). 2- Trò diễn chính: Mở đầu là viên Thừa tế mở bọc đựng cờ (cờ màu đỏ, vàng. Rộng 0,35m, dài 9 vuông; gọi là cờ lệnh), từ trong bọc hàng trăm con bướm cắt bằng giấy trắng cùng các mảnh gỗ trầm nhỏ trông như đồng tiền xu được xả ra: tung bay trước gió. Hiệu cờ giương cờ lệnh múa chao từ phải sang trái tiến lên chiếu thứ nhất và rồi dùng chân phải hất cái bát lên, làm tung tờ giấy: ngụ ý Gióng có sức mạnh, dời núi bạt mây và đánh tan giặc. Hiệu cờ tiếp tục múa như thế ở chiếu thứ hai và chiếu thứ ba. Sau ba lần múa “ba ván thuận” ấy, các tướng nữ giặc Ân liền cho quay kiệu đi về phía Sòi Bia. Biểu thị Gióng đánh thắng trận thứ nhất. Trận Sòi Bia, đại thể giống hệt ở Đống Đàm. Ở đây, hiệu cờ múa chao cờ từ trái sang phải, là “ba ván nghịch”. Kết thúc, 28 tướng nữ xuống kiệu biểu thị là giặc thua trận: Hai tướng giặc là tướng Đốc và tướng Ngựa bị bắt giải về đền. Ở đây, hiệu cờ lấy kiếm của giặc khoa mấy vòng trên đầu hai tướng giặc, đoạn dùng kiếm hất mũ, phanh áo của hai tướng giặc, ngụ ý chém đầu và phanh thây. Vị thừa tế dùng mâm hứng lấy mũ giặc, đem vào nội cung dâng cho thần. 3- Sau đó, qua ngày 10-4 ÂL là lễ Rước vãn: để duyệt quân và kiểm tra khí giới. Các tướng giặc được phóng thích, mang lễ vật dâng lên bàn thờ Gióng và cùng quân Gióng tiệc tùng. Ngày 11-4 có lễ Rửa hội: nước rước về đền rửa khí giới và mở các trò vui chơi hội hè. Ngày 12-4 ÂL làm lễ rước Cắm cờ: Trở lại Đống Đàm và Sòi Bia để soát lại chiến trường và đi đến đâu cắm cờ trắng đến đấy biểu thị việc chiến tranh kết thúc. Chiều đến làm lễ “Tế cáo thắng trận” với trời đất và Hạ hội (CHĐ, 53-73). III- Qua các diễn biến của hội Gióng, chúng ta thấy tuồng như nó hàm chứa một nội dung kép, diễn tả cuộc chiến đấu chống lại thiên tai lẫn địch họa, chứ không chỉ “diễn tả uy lực của người anh hùng Gióng và cuộc chiến đấu thần kỳ của nhân dân chống giặc Ân” (CHĐ, 74). Nhận định như vậy, không chỉ căn cứ vào các biểu hiện đậm chất thực hành nghi lễ nông nghiệp (như nghi thức Rước nước rửa khí giới chẳng hạn) mà còn thấy ở các yếu tố căn bản của hình thức lễ hội Gióng. Điều đáng lưu ý trước nhất là sự đối lập của ngựa Gióng, gọi là Long giá (con ngựa gỗ màu trắng) và cặp tướng Đốc - tướng Ngựa của giặc Ân. Đây là hình tướng “phúng dụ lễ hội” biểu tượng cho ngựa sắt của Gióng và ngựa đá của tướng Thạch Linh (giặc Ân). Ngựa đá của tướng giặc đã mất sức sống (không ăn cỏ được), còn ngựa sắt của Gióng (được thợ rèn đúc đủ cả tim, gan, ngũ tạng) bay vút lên cao, phun ra lửa, sức mạnh phá hủy, chiến thắng. Ngựa ở đây là biểu trưng cho vật cỡi và số mệnh của nó không tách rời người cỡi. Tính chất đối lập ở đây, không mang tính chủng loài mà là sự đối lập về chất, tức là sự chuyển hóa từ tĩnh tại sang sống động. Theo Từ điển biểu trưng văn hóa thế giới thì: “Một ký ức dường như ăn sâu vào tất cả ký ức của các dân tộc từ thời nguyên thỉ, liên kết con ngựa với bóng tối cõi âm ti, nơi đó đột nhiên xuất hiện, phi như máu chảy trong mạch, từ lòng đất hoặc từ biển thẳm lên cõi dương”(7). Ngựa có nguồn gốc âm ti, bóng tối, lòng đất, biển nên tự nó là biểu trưng âm tính vĩ đại (đất, mặt trăng, nước, sự sinh trưởng thần kỳ). Con ngựa của thần chết màu đen (tái xanh/trắng nhạt: màu trắng của đêm trăng) và khi vượt qua bóng tối, lên cao: con ngựa trắng đực là con tuấn mã của mặt trời. Ở thần thoại Hy Lạp, ngựa biểu thị của thần Apollon - người lái cỗ xe mặt trời, và trong kinh Vệ-đà, mặt trời vừa là con ngựa đực vừa là con chim (chim và chó là biểu tượng cho vật dẫn đường). Đó là hai trong nhiều ví dụ. Con ngựa trắng trong lễ hội Gióng cũng như ở đền Bạch Mã (Hà Nội) được Trần Quốc Vượng coi đó là “Vết tích Đông Sơn”, của nghi thức thờ mặt trời, và cũng theo Trần Quốc Vượng: “Nếu ông Gióng khổng lồ và ngựa sắt là biểu tượng của mặt trời thì “28 nữ tướng giặc Ân” là biểu tượng của “thần đêm u ám”: con số 28 là biểu tượng của “Nhị thập bát tú”(8). Những lý giải này là kết quả của một hướng tiếp cận khác với cách nhìn truyền thống về phức thể “Gióng và hội Gióng”. Ở đây, như đã nói ở trên, quá trình Phật giáo hóa đã biến cổ mẫu ông Khổng lồ/ông Đổng/Gióng thành Tỳ Sa Môn Thiên vương. Bởi vậy, có thể truy cứu ngữ nghĩa mới này qua cái nhìn quy chiếu với tập tục thờ Tứ Thiên vương - gọi là “Tứ Thiên vương pháp” nói trên. Theo truyền thống Phật giáo: “Tứ Thiên vương vào 6 ngày trai giới trong tháng (mồng, 8, 14, 15, 23, 30 - HNT) phụng mạng trời Đế Thích (Indra: gốc là thần Sấm) cùng Tứ Thất diệu (7 thiên thể ứng với 7 ngày trong tuần: Nhật, Nguyệt, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) nhị thập bát xuống tứ châu (4 lục địa ở 4 hướng quanh núi Tudi/ trục vũ trụ - theo vũ trụ luận Phật giáo. Ở đây tạm hiểu: các vị ấy “giáng trần”) tuần hành tứ thiên hạ: xem việc thiện ác của chúng sinh để tâu lên trời Đế Thích” (9). So các dữ liệu trên với các dữ liệu cấu thành hội Gióng có những điểm tương đồng đáng chú ý: 1/ Từ ngày 6-4 đến 8-4 ÂL (trước lễ chính thức 9-4), 28 nữ tướng của hội Gióng phải “ra mắt quan viên hàng tổng” trùng với việc ngày trai mồng 8 hàng tháng, 28 thất diệu (nhị thập bát) phụng mạng Trời Đế Thích xuống trần. Hai mươi tám tướng nữ trong hội Gióng “ăn mặc lộng lẫy, đội mũ thêu hoa, quấn vòng xuyến bạc” và “chực sẵn trên 28 kiệu, mỗi tướng có một cô gái đứng cạnh cầm lọng che…” (CHĐ 21; 33-39). Căn cứ vào hình tướng, giới tính, kiểu thức trang phục lộng lẫy và lọng phải chăng đây là “28 thất diệu” cùng Thiên vương xuống trần? Giả thiết này cũng giải thích đặc điểm giới tính của “28 tướng nữ của giặc Ân” và mở ra chiều kích “xuất thế gian” của phức thể “Gióng và hội Gióng”: Sự đối lập của Gióng và giặc Ân là đối lập của sự chuyển đổi âm-dương/tối-sáng/đêm-ngày và nói cụ thể hơn là sự chuyển mùa: mùa mưa giông kèm theo sấm và gió/ lốc - tức “mùa ông Đổng về hái cà”. Một biểu tượng chủ chốt trong tập hợp các hình thức diễn xướng nghi lễ của hội Gióng là múa cờ. Tạm gác hướng nhìn chiến trận chống địch họa, chúng ta để ý đến ý nghĩa của cờ và hành vi phất cờ phải chăng là nhằm biểu thị sức mạnh vô thức của tự nhiên ở tọa độ địa lý đó vào thời điểm “ông Đổng về hái cà” là gió/lốc. Động tác mở cờ của vị Thừa tế đã làm tung ra đàn bướm cắt bằng giấy trắng và các đồng xu gỗ trầm rõ ràng là “hình tướng minh dụ” cho gió; lại nữa, gió/lốc, hay nói rộng hơn là bão, luôn quét qua rồi quét lại (người miền Trung tùy theo từng cơn bão, gọi là “lại nồm”; hay “lại sóc”/”may sóc”)(10), đó là cách thức của điều gọi là “3 ván thuận” và “3 ván nghịch” ở hai địa điểm hành lễ Đống Đàm và Sòi Bia. Con số 3 ở đây biểu thị sự tối đa thường được thực hành trong các nghi thức hiến tế (dâng lễ vật, dâng trà, dâng rượu…) gọi là “ba tuần rượu”, “ba tuần trà” (sơ hiến, á hiến, chung hiến). Lại nữa, động tác cuối cùng là hiệu cờ đá tung cái bát úp làm bay tấm giấy lót lên đã biểu hiện việc gió bão nổi lên, thổi bạt mây trên đỉnh núi và đặc biệt đáng lưu ý là nghi thức cắm cờ: “đi đến đâu cắm cờ trắng đến đấy”. Điều này cho thấy tuồng như cội nguồn của lễ hội Gióng là lễ cúng tế ông Đổng - thần Gió. Một thí dụ tham chiếu cần nêu ra ở đây là ý nghĩa tượng trưng của lá cờ bay phất phới trong gió, ở Ấn Độ, là biểu hiện của thần gió Vayu, vị thần làm chủ nguyên tố khí. Xét về mặt này, biểu tượng lá cờ gần gũi với biểu tượng cái quạt(11). Trong thần thoại Ấn Độ thời Vệ-đà, thần Gió Vayu và đoàn quân Marut (con cháu của trời đất, chuyên đi vén mây tạo mưa) đã giúp đỡ cho thần Sấm Indra (Đế Thích) diệt con rồng gây hạn hán Vi-tra, tạo nên cảnh “phong điều vũ thuận”(12). Với các dữ liệu tham chiếu này, cùng với những biện giải trên, cho phép chúng ta xác lập một giả thiết về công năng chống thiên tai của lễ hội Gióng và của người anh hùng làng Gióng. Đây là một tập thành được tích hợp bởi nhiều lớp văn hóa tạo nên một phức thể đa nghĩa; ở đó, bên dưới tầng nghĩa trội bật và thời thượng của người anh hùng chống ngoại xâm vẫn có nội hàm những yếu tố ánh lên những hồi quang rực rỡ của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên kỳ vĩ cùng với những hình tướng trang nghiêm của tín lý Tứ Thiên vương pháp Phật giáo - đặc biệt là Tỳ Sa Môn Thiên vương/Vaisravana, chưởng quản cuộc sống hạnh phúc của chúng sinh ở phương Bắc của vũ trụ. Huỳnh Ngọc Trảng __________________ (1)Các dữ liệu liên quan đến Thánh Gióng, chúng tôi dựa vào: - Việt điện u linh, Trịnh Đình Rư dịch. NXB. Văn Hóa , H, 1960. - Việt điện u linh, Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung. NXB.Văn Học, H, 1990. - Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia Khánh - Nguyễn Ngọc San biên khảo & giới thiệu, NXB.Văn Học, H, 1990. (2) Theo Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, quyển hạ (A.2883/TVKH). Dẫn lại từ Việt điện u linh, bản dịch của Trịnh Đình Rư, H, 1960, tr. 65. (3) Xem: - D. Seckel, L’Art du Bouddhism, Ed .Albin Michel, Paris, 1962. - L Fréderic Flamaron, Iconographic Guide Buddhism, Flamaron, Paris-New York, 1995. - Thích Minh Cảnh, Từ điển Phật học Huệ Quang, 1996. - Mecher McArthur, Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo, bản dịch của Phan Quang Định, NXB.Mỹ Thuật, H, 2005. (4) Xem: - Nguyễn Đồng Chi, Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Ban Văn Sử Địa xb, H, 1956. - Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Gióng. NXB. KHXH, 1961. - Tạ Chí Đại Trường, Thần, Người và đất Việt, Văn học xb, Bản mới, CA. 2000 , tr.41-50. - Huỳnh Ngọc Trảng, Tản mạn từ câu chuyện ông Khổng lồ ở quê tôi, tham luận Hội thảo khoa học “Văn hóa biển miền Trung và Quảng Ngãi”, tháng 6-2007, Tạp chí Cẩm Thành, số 52, 2007, tr.76-81. (5) Những chi tiết sử dụng ở phần bài viết này chủ yếu dựa vào Cao Huy Đỉnh (CHĐ), sđd trên. (6) Ông Đổng là một ông Khổng lồ: Đầu đội trời, chân đạp đất, vai chạm mây. Ông cào đất đồng, vun đá thành đồi gò, bước đi từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, dấu chân lún cả đá - thủng cả đất. Tiếng nói vang thành sấm, mắt sáng lóe chớp lửa, hơi thở phun ra mây đen, gió bão và mưa giông. Ông hay hiện ra trong mùa hè có giông: lúc cà đậu trái, lúa chiêm sắp trổ đòng. Ông để lại dấu chân nhiều nơi, trong đó có làng Gióng Mốt/Đổng Viên - nhà mẹ Gióng. Gióng là một lưu xuất/hậu thân của Đổng. Từ lâu, người ta thờ ông Đổng ở một ngôi miếu cổ và thường niên cúng ông một bát cơm và một đĩa cà vào ngày 9-4 Âl: Cúng chay vào tiết mưa giông đầu hè. Ngày ấy, theo tục truyền, bao giờ cũng có gió bão, sấm chớp và mưa to. Người dân ở đây, bảo đó là “Ông Đổng về hái cà” hay “Gió hái cà”. Do đó có tục cắm que bông ở ruộng để ông Đổng không trảy cà, gây thiệt hại mùa cà (CHĐ, 12-13). (7) J. Chevalier và A. Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, bản dịch của các tác giả/ NXB. Đà Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.654-664. Xem thêm Huỳnh Ngọc Trảng, Sứ mệnh cuối cùng của chiến mã, Tuần báo Giác Ngộ, số đặc biệt Xuân Giáp Ngọ - 2014, tr.44-47. (8) Trần Quốc Vượng, Trong cõi, NXB.Trăm Hoa, CA, 1993, tr.131-133. - Nguyễn Văn Huyên (trong Les fêtes de Fù Đổng, Hà Nội:1938) cũng cho rằng việc nhân dân Phù Đổng chọn vai nữ đóng giặc Ân là ngụ ý bên phía giặc là “tà âm”. (9) Thích Minh Cảnh chủ biên, Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, 4020. Xem: Tứ Thiên vương kinh, Đại chánh tạng, tập 15; kinh Trường A-hàm 20, phẩm Tứ Thiên vương, kinh Khởi thế 6. (10) Sóc: phương Bắc. Ở đây là gió bấc/bắc; may sóc gió Bắc thổi nhẹ (may: heo may). (11) J. Chevelier và A. Gheerbrant, sđd, tr.217. (12) Nguyễn Thừa Hỷ, Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ, NXB.Văn Hóa, H, 1986.
-
Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Nhận định của tác giả Hà Văn Thùy chưa hợp lý rồi. - Đế Lai cùng thời Kinh Dương Vương - 2879 TCN, sao ở trận Trác Lộc 2698 TCN được. Bà Âu Cơ là con gái thứ của vua Đế Lai. - Gia phả Hùng Vương chép: Đế Lai sang thăm và tu luyện tại Việt Nam (trung tâm Văn Lang), sau về nước. - Đế Minh phân chia lãnh thổ bắc Dương Tử cho Đế Nghi, nam Dương tử cho Lộc Tục Kinh Dương Vương, làm sao Lạc Long Quân dẫn đoàn quân vùng núi Thái về Việt Nam. - Trận Trác Lộc giữa Hoàng Đế và các bộ tộc phương bắc của Si Vưu, nhưng Hoàng Đế thời kỳ này của Trung Hoa là ai? Nguyên nhân của trận đánh này? - Hoàng Đế của Trung Hoa là Đế Minh (sau Đế Minh là: Đế Lai, Đế Chuyên Húc, Đế Cốc và Đế Chí... vua Nghiêu, Thuấn và Vũ - thường được hình dung là Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa), nếu suy luận thì trận đánh này xảy ra thời kỳ phân chia lãnh thổ, tức thiết lập thể chế tại bắc Dương Tử, sự cai quản trực tiếp hơn và có thể, đó chính là sự nổi loạn hay mở rộng của Hung Nô. Điều này cần xem lại lịch sử Triều Tiên và Nhật Bản, Sơn Đông... - Tam Miêu trong mối quan hệ, bởi những vùng phía đông sau quật khởi thành triều Thương, thay triều Hạ.
-
Xin hỏi các giáo sư Sử học VN đoạn văn trong "Thuật dị ký 述異記" trong sách Thông-chí 通志 (2AL, Q II, Ngũ-đế-kỷ đệ-nhị, Chí #35, tr. 224) của sử-gia Trung-quốc Trịnh-Tiều 鄭樵 (1104-1162) có được coi là "cơ sở khoa học" không? và nếu không thì "cơ sở khoa học" trong lĩnh vực Lịch sử là gì? Câu hỏi chưa hợp lý, mới đặt vấn đề hay đưa ra một sự việc, hiện tượng mà thôi. Cơ sở khoa học - khi nghiên cứu thì phải tự đi tìm hiểu là ít nhất cho mỗi cá nhân, cách đây 5000 năm dùng rìu đá, nay đi vũ trụ tới sao Hỏa rồi, nếu không có nền tảng khoa học thì chúng ta phi ngựa vậy. Chúng ta không được nhầm lẫn, câu hỏi về năm lên ngôi của Kinh Dương Vương là một câu hỏi rất khó trả lời, tuy nhiên tôi cũng minh họa ra một vài chi tiết cần xem xét: - Năm này rơi vào thời kỳ Đá Mới và Đồ Đồng Sớm, cần được so sánh, đối chiếu tới văn hóa Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập,... - So sánh tới lịch sử ghi nhận của Trung Hoa, đã vượt quá thời Hoàng Đế, tuy nhiên cần chú ý chi tiết Hoàng Đế của Trung Hoa là Ai? trong dòng chảy lịch sử. - So sánh tới thần tích, gia phả, huyền thoại, lịch sử, thiên văn lịch pháp, ngôn ngữ, cổ vật... Văn Lang - Âu Lạc - Nam Việt... cùng các bộ chung quanh. - Đã nhận thấy rằng có mối liên quan chặt chẽ tới tôn giáo thời Hùng Vương, và là nguồn cội của các tôn giáo khác trên toàn thế giới. - Phải minh định được ranh giới Văn Lang và Trung Quốc theo truyền thuyết Đế Minh chia đôi nước cho Đế Nghi và Kinh Dương Vương, nhằm định vị các vùng văn hóa đặc thù liên quan đến thời kỳ này. - Cổ vật lưu lại tới nay có niên đại xưa nhất của Văn Lang và Trung Quốc và các quốc gia liên quan là gì? Đó có thể chính là Đá Mới, Đá Cũ và Đồ Đồng. Đá Mới ta có, đồng xưa nhất là trống đồng và các vật khác??? Chúng thời nào - thế kỷ thứ VII??? - Một lý luận nữa, thời Kinh Dương Vương đã có thuyết Âm Dương Ngũ Hành, vậy cổ vật có còn không? Dĩ nhiên đồ Đá Mới là còn, nhưng đồ Đồng??? - Nếu dùng ADN chứng minh thiên di nhân loại thì phải rõ ràng, thời này đã có Hoàng Đế - Vương quyền thì tồn tại quốc gia rồi? Vậy cần xem xét mối quan hệ này như thế nào bởi thời Thương Chu của Trung Hoa đã có hàng nghìn bộ lạc rồi (Nam Trung Hoa cùng 3 tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Nam - phải chứng minh). - Cũng từ thiên di, kinh thánh các loại, các "học giả" nằng lặc cho rằng văn minh nhân loại từ Lưỡng Hà vì: những tấm đất sét có chữ nằm trong tầng sét niên đại 4000 TCN, vượt tất các nền văn hóa. ... Theo tôi, có những vấn đề chỉ ghi nhớ năm 2879 TCN như sau: - Ngài là vua đầu tiên của Văn Lang tức Xích Quỷ, và dĩ nhiên cũng xác định luôn mốc lịch sử Trung Hoa. - Chi đầu tiên của Hùng Vương. - Tổ tôn giáo ở Việt và thế giới. - Từ đó, lấy năm này là năm đầu thiên văn lịch pháp, kể cả thế giới (cần chứng minh). Ghi nhận Can Chi theo lịch nhằm lưu giữ thuyết Âm Dương Ngũ Hành, năm này vượt quá thời Hoàng Đế Trung Quốc. - Chắn chắn, Vương Tộc phải lưu giữ "cổ vật đặc biệt" - suy đoán cá nhân. Cho nên, cần có những câu hỏi: kể cả đã có dữ liệu chứng minh khẳng định Thượng Đế (không rõ ràng), trước đó phải hỏi thật to ông ta là ai vậy! Ông có vai trò gì trong cái thế giới tưng bừng và náo nhiệt này???
-
Mọi vấn đề lịch sử, dù có cả triệu mối liên quan nhưng tại một thời điểm của bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào đó đã xảy ra trong quá khứ, nó chỉ đúng tại không thời gian đó và là duy nhất, do vậy các vấn đề phải hết sức logic tức tuân thủ chặt chẽ theo khoa học. Cái gì mà chúng ta viết về lịch sử, nếu không phải là "sáng tạo" mới thì về mặt bản chất, nó không phải là "của ta" mà ta chỉ giải thích lại những cái đã qua tại thời điểm mà chúng ta viết, chúng chỉ là "kế thừa" mà thôi. Ví dụ, trống đồng Hoàng Hạ và Ngọc Lũ liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Dịch lý, cũng như lịch sử nước Văn Lang, nó "chứng minh" cho luận điểm nào đó của chúng ta ở hiện tại (vẫn là sử) nhưng bản chất thực sự là ta "đang làm rõ" lại trống đồng chứ không phải ngược lại, bởi vì nó cách ta đến -3600 năm lận. Cho nên, hãy chú ý đến điểm này, chưa chắc cái gì cũng là "của ta" cả.
-
THỦY TỔ NGƯỜI VIỆT THỰC SỰ Ở ĐÂU? Nghệ An, tác giả Phan Lan Hoa có viết: “Thiết nghĩ, khi mà sử sách, địa danh và di chỉ chứng tích đã trùng khớp, cớ sao lại có người còn muốn đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa là vì cớ chi? (Đoạn này, xin được gửi cả đến ông Hà Văn Thùy, người khẳng định Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ ở bên Trung Hoa?).”* Từ lâu, tôi tâm niệm sẽ làm một khảo cứu nghiêm túc xác định nơi sinh thành của thủy tổ người Việt nhưng vì chưa đủ duyên nên chưa thành. Nay nhân có người “đòi”, xin được trả món nợ. Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn! Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai? I. Khởi đầu từ lịch sử Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn. Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó (Việt bộ Qua -戈). 20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa (Việt bộ Mễ -粤)! Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam. Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN... Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện. Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.) Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này. Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau: Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước. Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam. Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta. Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?! II. Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt. 1. Quá trình hình thành Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh... Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không? Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”… 2. Đôi lời nhận định Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” - cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời! Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên... Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa! Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau! Trước hết, là xuyên tạc lịch sử: Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội! Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..” Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi… III. Kết luận Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế! Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”! Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên. Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc. Thưa ông Phan Lan Hoa, thời trẻ làm báo, tôi chỉ viết sự thực cho dù có rước lấy tai họa. Nay vào tuổi cổ lai hy, tôi chỉ viết sử theo sự thật vì biết rằng, chỉ sự thật là còn lại. Vì vậy, tôi không hề dám làm cái việc bạo thiên nghịch địa là “đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa” như ông ghép tội. Phải đâu là chuyện cá ao ai nấy được? Tôi chỉ làm cái việc trung thực là phát hiện sự việc của quá khứ rồi đặt nó vào đúng chỗ, thưa ông! Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt! Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất hẹp Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại tham bát bỏ mâm. Trong khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?! Tác giả Hà Văn Thùy - Sài Gòn, Vu Lan năm Giáp Ngọ
-
Lịch sử Trung Hoa tới thời Nghiêu Thuấn Vũ là "cùng cực" nếu cho rằng sử sách như Kinh Thư là chính xác, còn lại thời Tam Hoàng Ngũ Đế là huyền thoại (huyền thoại cũng là sử, ngay khi một sát-na trôi qua thì mọi thứ đã trở thành "sử"). Cổ vật khai quật được thời kỳ này, với chứng tích đồ đồng chỉ tới thời Hạ, Thương, Chu. Các chứng tích của thời trước đó - được xem xét trong thời Đồ Đá Mới với các quan hệ logic trong sự phát triển xã hội. Mối quan hệ thời Nghiêu và Văn Lang được chép: Văn Lang tặng rùa thần ghi từ khi trời đất mở mang. Thời Nghiêu sẽ tương ứng các thời đại Ấn Độ - Ai Cập - Lưỡng Hà - Hy La... cần phải rõ ràng. Các yếu tố trên phải giải quyết được, mới khẳng định năm lên ngôi Kinh Dương Vương là năm Nhâm Tuất 2879 TCN, và tại sao chỉ ghi nhớ năm này trong lịch sử ???
-
-
Giải quyết mắt xích Triệu Vũ Đế - nếu hiểu được vai trò của tể tướng Lữ Gia trải qua 3 đời vua nhà Triệu thì không khó hiểu. Triệu Văn Đế - con của Mỵ Châu và Trọng Thủy, cùng với An Dương Vương đều có lưu lại "mật ngữ" trong các văn vật hoàng cung, các ngài rất cao siêu thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đừng tưởng lầm mai một, ngoài ra rất rõ thiên văn địa lý, đều có tiên tri cả. Mật ngữ này, được sử dụng các "cổ vật" đặt làm từ Trung Đông, chứ không phải tại chỗ, cao siêu lắm!