hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Qua các bài phân tích, chúng ta thấy đâu đâu cũng gặp hình ảnh con Rồng, Từ Tiên Thiên Bát Quái... tới chu kỳ Hội Thìn 10.800 năm của một Nguyên 129.600 năm, hình thái biến đổi qua từng thời kỳ, xưa nhất được ghi chép trong Kinh Thư, cổ vật xưa nhất khai quật được thời Hạ, Thương thì rồng có 2 sừng và 4 chân. Sao Điểu n, nằm lẫn vào trong chòm tú phương Nam Chu-điểu tức Chu-tước (3BD, Tập Thượng, tr.). Sao này nằm trên kinh-tuyến điạ-phương khoảng nửa đêm cuối tháng 2 DL, chừng 600 bên trên chân trời. Chòm sao Chu-Điểu Chòm sao Thanh-long Dưới đây là hình rồng minh họa trong tranh dân gian Đông Hồ thời nhà Lý: Tứ Linh Tranh dân gian Đông Hồ Trong chu kỳ bế vật của cung Song Ngư 2.160 năm, thì Rổng ẩn dưới vực sâu của biển cả, nơi ở của Long Vương tức cha của bà Vũ Tiên - Vua Cha Bát Hải Động Đình, tới khi chuyển pha từ cung Song Ngư sang cung Bảo Bình thì sẽ xuất hiện. Địa thế kỳ vĩ nhất là dãy núi Côn Lôn, đây là biểu tượng của con rồng trắng - Bạch Long, thân mình uốn theo trục tây bắc - đông nam và có viên ngọc Rồng tụ ở thành Thăng Long tại núi Nùng tức công viên Bách Thảo ngày nay, tức thành Bạch Long xưa, di tích còn lại là đảo Bạch Long Vĩ tức đuôi con Rồng. Con Rồng lấy sắc trắng thể hiện sự "vô hình" và vạn trạng của nó, tương ứng với trạng thái sau Thái Cực. Đỉnh núi Côn Lôn được xem là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế và Tây Vương Mẫu trong các truyền thuyết và huyền thoại, Bạch Ngọc Kinh - kinh đô của nhị vị. Đặc trưng của Bạch Long: - Sống dưới nước: mang hình hài loài rắn biển khổng lồ thuộc vùng nước mặn, có đuôi, vảy và 2 râu của cá chép trắng thuộc vùng nước ngọt, hàm cá sấu - vua động vật dưới nước và lưỡng cư. Rồng có khả năng phun mưa hay thổi ra lửa, những đặc trưng rõ rệt nhất. - Sống trên bờ: Bờm và mũi sư tử - chúa tể động vật trên bờ, quái Càn của Hậu Thiên Bát Quái nói về biểu tượng sư tử mặc dù sư tử không phải là động vật khu vực Văn Lang và Trung Hoa, chứng tỏ rằng sự giao lưu văn hóa đã có giữa các lục địa từ rất cổ xưa. - Sống trên không: với biểu tượng chim đại bàng tức có khả năng bay vượt trên các đỉnh núi, Rồng có mắt chim đại bàng - vua động vật trên không. Chim hồng hộc cũng là biểu tượng tương ứng, tức có khả năng bay vạn dặm không nghỉ. - Biểu tượng kỵ vật cho một con người và thần thánh: tiến hóa cao nhất - là một con người đã đắc đạo, một vị vua quản lý Cõi Trời tức Ngọc Hoàng Thượng Đế, quản lý ba cõi: thiên, địa, nước. - Biểu tượng cho trí tuệ toàn mãn: nắm giữ viên ngọc Rồng hay ngọc châu viên giác, tức đạt đến trí tuệ siêu việt về vũ trụ và nhân sinh quan, nắm rõ bản chất nguyên thủy của vạn vật là "Đơn nguyên vật chất nguyên thủy tuyệt đối". Một ý nghĩa khác trong Khí công, viên ngọc rồng đó là viên ngọc năng lượng tụ ở đan điền. Biểu tượng cho phương Đông, cho mặt trời. Tuy vậy, chúng ta thấy con "Rồng gốc" mang hình sắc màu trắng chứ không phải màu vàng như ánh sáng mặt trời. Sau này, Rồng vàng biểu tượng cho các vị vua Đông phương. Rồng Trắng là kỵ vật của "Vua Cõi Trời" tức "Vua của các vị vua". Rồng biểu tượng của Quy luật thống nhất của Vũ trụ - tức không thời gian và vật chất thống nhất: với quái Càn "nguyên dương" trong Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái. Ghi chú: Biểu tượng chim phượng hoàng là Chúa tể của các loài chim. Kỳ Lân là Chúa tể của các loại muông thú. Ngày hội Đền Hùng chính là ngày Hội Rồng Tiên, Hội Long Hoa, Hội Phật Tiên, Hội Thần Tiên, Hội Thần Thánh, Hội Phong Thần, Hội Long Vân diễn ra trong 3 ngày mồng 8, 9, 10 tháng Ba âm lịch, ngày chính hội là ngày mồng 9.
-
HỐ TỬ THẦN VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI Qua phân tích ở trên, Trái đất kể từ trước năm 2012 (tính theo lịch Maya) thì đang nằm trong trường khí không thay đổi của cung Song Ngư, tương đương 2.160 năm. Còn trong văn hóa Việt Nam thì trường khí này được miêu tả qua trò chơi Múa rối nước, tổ sư của Múa rối nước là thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý. Sân khấu rối nước Chu kỳ này là chu kỳ bế vật, thanh khí không giáng xuống được bởi thuộc chu kỳ thô khí, đồng thời địa khí cũng không thăng lên được do thô khí của trường khí lớn đè lên, toàn bộ con người sống trên trái đất bị chi phối bởi trường khí thô trọc này nên chúng ta thấy trong lịch sử nhân loại thì tôn giáo còn ác hơn cả không tôn giáo bởi vì đặc tính Âm của con người được "cộng hưởng" - độc thần lại càng ác do đặc tính "thái quá", chỉ có những người tu luyện đạo có phương thức và lý luận đúng mới thoát được trò chơi của Vũ trụ này. Con người chỉ là con rối trong bàn tay Vũ trụ, nếu không biết quy luật thoát ra, cho nên hy vọng một người nào đó "cứu rỗi" linh hồn của mình, đúng là không tưởng, ăn một quả lừa đậm đà lắm lắm!. Hiện nay, trong vòng hai chục năm trước năm 2012 chúng ta thấy hiện tượng "hố tử thần" xuất hiện khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, sự lún sụt của đất theo hình giếng bởi ứng suất trong đất theo các phương này là nhỏ nhất. Đây là hiện tượng thoát khí, địa khí bị bế trong 2.160 năm được thoát ra do tương tác gọi là "khai thiên môn" còn thời bị bế gọi là "bế địa hộ". những vùng đó hố tử thần rõ ràng, rất độc cho con người bởi địa khí tụ lại quái nhiều phía dưới. Những chiếc hố Tử thần này sâu tưởng chừng như không đáy, miệng đủ rộng để "nuốt chửng" gần như mọi vật ở trên nó... Hố tự nhiên (hay hố Tử thần, hố địa ngục) ngày nay trở thành nỗi ám ảnh của người dân ở một vài nơi trên thế giới. Chúng được biết đến là những hố sâu tưởng chừng như không đáy, miệng hố đủ rộng để nuốt chửng con người, cây cối, ô tô, nhà cửa và thậm chí cả một hồ bơi… Hố Tử thần có thể xuất hiện ở bất cứ đâu, nó được tạo ra từ một vụ vỡ ống nước, sập cống, sập hầm mỏ hay là một hang động nào đó mà chúng ta chưa biết tới. Cùng điểm lại một vài hình ảnh tổng hợp về hố Tử thần trên khắp thế giới qua chùm ảnh của trang The Atlantic dưới đây. Hố Tử thần là một hiện tượng sụt lún địa chất ở những khu vực có cấu trúc địa chất đặc biệt. Chúng xảy ra là do hiện tượng tương tác tự nhiên, đôi khi gây nguy hiểm cho con người. Khi nước ngầm chảy qua những khu vực đất chứa nhiều chất cứng dễ hòa tan như đá vôi, carbonate, tầng muối, chúng sẽ phân hủy, để lại hố và hang ngầm. Ở trên là ảnh chụp từ trên cao một hố Tử thần khổng lồ xuất hiện sau khi hệ thống cống nước bị sập tại khu dân cư ở San Antonio, phía Bắc thành phố Guatemala vào ngày 23/02/2007. Đã có 3 người thiệt mạng và 12 ngôi nhà bị nuốt chửng bởi sự việc này. (Ảnh: Orlando Sierra). Do bị mất liên kết giữa các tầng cấu trúc bên trong, vòm của những hang ngầm sụp xuống, nó kéo theo cả phần đất phía trên hang hiện ra. Khi đó, một số "hố địa ngục" dần biến mất do cát và đất rơi xuống rồi phủ kín. Nhiều hố khác sụt lún khi những lớp đá dễ phân hủy tiếp xúc với mưa và gió. Hình ảnh chụp cận cảnh hố Tử thần khổng lồ ở San Antonio, phía Bắc thành phố Guatemala ngày 23/02/2007. (Ảnh: Moises Castillo). Nhân viên cứu hộ đang giải quyết hậu quả tại một khu vực bị lở đất ở Saint-Jude, Quebec ngày 11/05/2010. Một hố Tử thần xuất hiện do lở đất đã nuốt trọn 1 ngôi nhà và 4 người, trong đó có 2 trẻ em. (Ảnh: Graham Hughes). Hình ảnh một người đàn ông kiểm tra hố Tử thần xuất hiện trong căn nhà ở phía Bắc thành phố Guatemala ngày 19/07/2011. Khi người dân nghe thấy một tiếng nổ lớn vào giữa đêm, họ nghĩ là bình gas bị nổ nhưng lại tìm thấy một cái hố sâu bên trong căn nhà. Hố Tử thần này sâu 12,2m và có đường kính 0,8m. (Ảnh: Johan Ordonez). Ngoài yếu tố địa lý, các hoạt động của con người như xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cống, khai thác mỏ không được khảo sát kĩ lưỡng cũng chính là tác nhân góp phần gây ra hiện tượng nguy hiểm này. Hố Tử thần hình thành do dòng nước ngầm hòa tan các khoáng chất trong nền đá khiến lớp đất trên bề mặt không ổn định, tơi xốp và rất dễ sụt lún. Trong giai đoạn hình thành, chúng sẽ xuất hiện một vài dấu hiệu trên bề mặt như xói mòn, đất trũng, còn cây cối bắt đầu nghiêng ngả, hay như cửa chính và cửa sổ đóng không khít… Hình ảnh các công nhân dùng máy cần cẩu để lấp một hố Tử thần do sập nhà ở gần một công trình tàu điện ngầm tại Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Chiếc hố có diện tích lên tới 93m vuông và sâu 9,2m. (Ảnh: AFP). Tháng 06/1994, một chiếc hố lớn, rộng 32m và sâu 56m xuất hiện ở giữa bãi rác do công ty IMC-Agrico gần Mulberry, Florida. Hố Tử thần này đã thải gần 10 ngàn tấn axit photphoric xuống nền đất bên dưới và vào trong tầng nước ngầm của Florida - nơi cung cấp đến 90% nước uống của bang này. Ngay sau đó, công ty đã chi trả một số tiền lớn để lấp hố và theo dõi sát sao tình trạng axit ngấm vào nguồn nước. (Ảnh: Selbypic). Hình ảnh một chiếc xe ô tô bị rơi xuống hố do đường bị sụt ở Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày 7/9/2008. (Ảnh: Reuters). Hình ảnh lính cứu hỏa của Los Angeles kiểm tra bên dưới chiếc xe cứu hỏa bị mắc kẹt trong một hố Tử thần ở khu dân cư Valley Village, Los Angeles, ngày 08/09/2009. Bốn người lính cứu hỏa đã được giải thoát nhưng đã bị thương sau khi xe của họ rơi xuống một cái hố lớn do vụ vỡ ống nước ở thung lũng San Fernando. (Ảnh: Nick Út). Một chiếc xe buýt bị rơi xuống hố Tử thần được tạo ra bởi vụ nổ ngầm dưới mặt đất ở Rui'an, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc ngày 16/01/2011. Rất may khi đó trên xe không có hành khách, sự việc này đã khiến lái xe và một cậu bé 6 tuổi đứng gần đó bị thương. (Ảnh: Reuters). Bên cạnh đó, những cơn mưa to là chất xúc tác gây ra các vụ sụt lún của hố Tử thần đã dần hình thành trước đó. Nếu trong một khu vực mà lượng mưa đo được nhưng lượng nước thì không, đây chính là một trong những dấu hiệu cảnh báo lớn nhất của đất lún. Hình ảnh trên là một hố Tử thần khổng lồ ở thành phố Guatemala xuất hiện ngày 31/05/2010. Hơn 94.000 người đã được đưa đi sơ tán khi cơn bão chôn vùi nhiều ngôi nhà với bùn đất, cuốn trôi một cây cầu và tạo ra vài hố Tử thần ở thủ đô của Guatemala. (Ảnh: Casa Presidencial). Đây là hình ảnh một hố Tử thần khổng lồ xuất hiện sau những cơn mưa trong trận bão nhiệt đới Agatha ở Guatemala ngày 01/06/2010. Hố Tử thần này đã nuốt chửng ít nhất một tòa nhà 3 tầng. (Ảnh: Daniel LeClair). Sau Lý - Tượng, cổ nhân khám phá ra Số từ 1.. 10 phối cho Hà đồ - Lạc thư, đồng thời quy nạp các sản phẩm nhân tạo và các ứng dụng của con người tiếp đó, trở thành Dụng. Do vậy, chuỗi quy ước được hình thành tương ứng với nội dung mô tả của Bát Quái: Lý (Khí) - Tượng (hình) - Số (hóa) - Dụng (vật) -> Tính & Mệnh của một người. Sự vận động của Hà đồ (Positives) - Lạc thư (Negatives) rất tương ứng: Chuyển động của hạt tích điện trong từ trường với (A) không có lực tác dụng, ( B) có thêm điện trường E, © có thêm lực độc lập khác F (như lực hấp dẫn), và (D) trong từ trường không đều grad H. Minh họa từ trường Trái Đất với nguồn coi như một nam châm khổng lồ. Cực Bắc địa lý nằm phía trên hình vẽ. Cực từ Nam nằm sâu bên dưới lòng đất và cùng phía với cực Bắc từ của Trái Đất.
-
Sợi chỉ mong manh: Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái (tiếp theo) Mặc dù đã phân tích và chọn lựa Tiên Thiên Bát Quái trong các pha Vũ trụ, tuy nhiên nếu xét đến các bộ môn tính toán cổ như Thái ất, Độn giáp, Huyền không, Phong thủy... vẫn chủ yếu là những tính toán cục bộ của một "Hệ tương tác" tới Trái đất, điều đó chỉ ra chưa chắc chắn đã có một khái niệm tương tác từ chính toàn bộ Vũ trụ bao la này tới Trái đất, vậy thì tại sao có vấn đề đảo ngược hướng như hai cung Càn - Khôn trên Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái. Nếu đã quy ước rằng Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác tới Trái đất thì khả năng Tiên Thiên Bát Quái phải chăng cũng là một quy luật khác, quy luật bao trùm? Để giải quyết vấn đề này, chúng ta xem lại quy ước về cách hoạch Quái: Học giả Lê Gia cho biết về một cấu hình phát triển của Quái hoạch dẫn đến sự hình thành Tiên Thiên Bát Quái như sau: Hoạch Quái Qua hình trên, nếu chúng ta uốn thành một vòng tròn (Chu) khép kín thì sẽ được chính đồ hình Tiên Thiên Bát Quái. Đồ hình minh họa tính chất Chu dịch trong Tiên Thiên Bát Quái Nếu các Quái được phát triển từ quy ước "Dương" nghi và "Âm" nghi ban đầu, thì chứng tỏ rằng đây là cấu trúc thăng giáng của Âm, Dương trong quá trình tương tác lẫn nhau. Hình ảnh này còn thấy trong các nền văn hóa Đông phương, đấy chính là "vòng tròn Âm Dương". Vòng tròn Âm Dương Quay trở lại, trên đồ hình Tiên Thiên Bát Quái chúng ta thấy "trục định vị" nối hai quái Càn - Khôn, biểu tượng cho Thái Dương và Thái Âm, trong đó quái Khôn có lẽ, được xem xét Trái đất như là một chủ thể đối đãi với "Không gian quanh nó", đồng thời chú ý đặc tính các Quái đối ứng qua trục định vị này. Tiên Thiên Bát Quái và kết hợp độ số Với nhận định Trái đất là chủ thể ở trên, lúc này nếu chúng ta xét đến Hệ Hoàng đạo chu kỳ 25.920 năm (có 12 cung, mỗi cung ứng 2.160 năm) thì rõ ràng, trong mỗi cung 2.160 năm thì Hệ mặt trời hay Trái đất nằm hoàn toàn trong "Trường khí" đặc trưng của cung này, chẳng hạn lấy ví dụ là cung Song Ngư. Như vậy, tương tác từ cung Song Ngư là không đổi trong quá trình vận động của Trái đất trong 2.160 năm, điều này hàm nghĩa Trái đất tự quay quanh trục của mình hay quanh quanh mặt trời trên vòng Hoàng đạo thì cũng như quay trong một "Trường khí cung Song Ngư", hình ảnh này trông giống như một con vụ (cù) quay trong nước vậy. Một cách viễn đích, thì so sánh toàn bộ Vũ trụ vô cùng đối với sự quay Trái đất sẽ là một trường khí bao trùm, đứng im một cách tương đối. Từ đó, chúng ta có thể thấy Tiên Thiên Bát Quái là trường khí Âm Dương vận động được tạo ra do Trái đất vận động trên mặt phẳng Hoàng đạo, lúc này trục thẳng đứng chính là trục Càn Khôn và được định vị theo la bàn, cổ nhân xác định trường khí "tĩnh" này được bắt đầu tính từ hệ thiên văn có chu kỳ lớn 129.600 năm. Tuy nhiên, nguyên nhân nào tạo ra trạng thái đảo ngược trục Càn Khôn giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái? Đây chính là đặc tính từ trường của nam châm - kim chỉ Nam, tính từ "Con người" trên Trái đất cho tới hệ thiên văn 129.600 năm sẽ bị đảo ngược. Như vậy, Hậu Thiên Bát Quái chính là quy ước tương tác được đình hình từ chủ thể là Vạn vật trên Trái đất, với Con người làm trung tâm tính toán nhận tương tác. Kim chỉ Nam Trục Càn Khôn trên Hậu Thiên Bát Quái lệch trục theo phương tây bắc - đông nam là do độ nghiêng của trục quay Trái đất - Từ trường và Trái đất quay quanh Mặt trời trên mặt phẳng Hoàng đạo, và do tương tác của một số hệ thiên văn lớn hơn định hình nên trạng thái này. Tất nhiên, cổ nhân xem xét địa thế núi sông trên trái đất để khẳng định nữa. Cái độc đáo là trục Khảm - Ly là trục đứng trong Hậu Thiên Bát Quái và định vị theo kim chỉ Nam tức từ trường Trái đất. Một thành viên đã xác định chúng ta đang ở trong Hội Thìn (10.800 năm) chứ không phải Hội Tỵ - Hội Rồng Tiên.
-
Tiên Thiên Bát Quái (tiếp theo) Qua phân tích ở trên, chúng ta thấy rất phức tạp và vẫn còn lấn cấn về cái Lý và Tượng (hình), do vậy cũng cần xem xét có tính hợp lý hơn nữa. Tuyền thuyết về Long mã chở Hà đồ, thần Quy cõng Lạc thư, ở đây Long mã là Dương, thời gian còn Thần quy là Âm, không gian, như vậy hình ảnh Lạc thư có ý nghĩa "ẩn" như hình ảnh của không gian. Nếu chúng ta xét Trái đất là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành thì các lớp khí bao quanh trái đất cùng Mặt trăng thể hiện Lạc thư, lý tương khắc, còn bản thân Trái đất chính là Hà đồ, lý tương sinh, quy tắc "Dương trong Âm ngoài" và "Dương tịnh Âm động" quy chiếu về Trái đất và các lớp khí bao quanh rất là chính xác. Ở đây chúng ta chưa nói đến Mặt trăng thuộc hành gì đối với Trái đất!. Theo Tử Vi Đẩu Số, sao Thái Âm thuộc hành Âm Thủy. Long mã trên bức bình phong tại lăng tẩm Huế Một cách thống nhất và hợp lý thì các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành phân lớp được xem xét như sau: - Hệ mặt trời: Mặt trời cùng các hành tinh vành đai trong và các hành tinh vành đai ngoài (tất nhiên cùng các lớp khí bao quanh nữa). - Trái đất: Trái đất và các lớp khí bao quanh cùng Mặt trăng. - Con người: Một tổ hợp Âm Dương Ngủ Hành tương ứng là (Cha + Mẹ). Riêng "Con người" chúng ta thấy có Nam và Nữ, qua tượng hình chúng ta nhận thấy Nam - động còn Nữ - tịnh, ngược lại quy tắc của Hệ mặt trời và Trái đất, điều đó chứng tỏ rằng Người Mẹ, Nữ phù hợp quy luật đất trời hơn người Cha, Nam. Như vậy, trong quy ước Bát Quái Hậu Thiên phối Hà đồ thì người Cha sẽ ở cung Âm Thủy trong hành Thủy còn người Mẹ ở cung Âm Hỏa của hành Hỏa? Cần phải minh định lại. Một con người Nam hoặc Nữ: Đi sâu hơn nữa về "Con người" chúng ta thấy tự một Nam hoặc Nữ cũng là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, do vậy quy tắc vận động thống nhất rõ ràng vẫn là Dương trong Âm Ngoài, nhưng "Dương động Âm tịnh" do hình thành nên từ một tổ hợp chung (Nam + Nữ). Các quy ước kinh mạch và nội tạng rõ ràng vẫn theo Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ nhưng chỉ thay đổi quy tắc "Dương động Âm tịnh" mà thôi (Dương sống Âm chết đối với vạn vật hữu tình). Hệ quả: - Giả thuyết rằng con người có Linh hồn, thì tuyệt đối chắn chắn nó cũng phải tuân thủ theo công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ. Chúng ta còn thấy trong bức tranh thờ (Cõi Âm) dân gian Đông Hồ "Ông Công" thì người chồng bên trái, người vợ bên phải tuân thủ quy tắc "Dương trái Âm phải" của Hậu Thiên Bát Quái. Hà đồ cùng chiều kim đồng hồ, xoay từ phải sang trái và Lạc thư ngược lại tức "Dương phải Âm trái". Tranh Ông Công - Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành còn thiếu một số khai niệm cho nên không chứng minh được sự tồn tại của Linh hồn. - Các sách vở của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành chưa chỉ rõ hệ thống luân xa trên cột sống với luân xa 7 là nguồn gốc nhân quả từ vô thủy của một con người. - Đối với Đông y, ví dụ Tim vận động máu, ở trên thể hiện tượng Dương mang lý Âm, còn Thận vận động nước tiểu... ở dưới, thể hiện tượng Âm mang cái lý Dương, nhưng còn bộ não thì sao? Đến đây, sẽ luận giải Tiên Thiên Bát Quái từ các pha của Vũ trụ: 1. Thái Cực (trạng thái tuyệt đối của Bản thể) - 2. Âm Dương vận động xuất hiện lập tức do một "đơn nguyên vật chất tuyệt đối" vận động -> 3. Âm Dương vận động xoay đạt cực đại tức sẽ phân cực và gây tiếng nổ khai thiên lập địa Bigbang giống như tiếng sét trên bầu trời do Âm Dương tương tác (KHÍ) -> 4. Âm Dương Ngũ Hành vận động cùng một chiều (khí nhẹ bay lên thành trời khí nặng tụ xuống thành thiên thể, đất) -> 5. VẠN TƯỢNG (Vạn vật và Con Người). Sở dĩ gọi Chương này là Tiên Thiên Bát quái, là vì các sách Dịch thường lấy Tiết 1 của Chương này để giải thích Tiên Thiên Bát quái của Phục Hi. Tiết 1. 天 地 定 位. 山 澤 通 氣. 雷 風 相 薄. 水 火 不 相 射. 八 卦 相 錯. Thiên địa định vị. Sơn trạch thông khí. Lôi phong tương bác. Thủy Hỏa bất tương sạ. Bát quái tương thác. Dịch. Tiết 1. Đất Trời ấm chốn, êm nơi, Khí đầm, khí núi đôi nơi giao hòa. Đôi bên sấm, gió giao thoa, Đôi bên nước, lửa chẳng là kình nhau. Cho nên, tám quẻ tương cầu, Khi trên khi dưới, trước sau thành toàn. Nhìn vào Bát quái của Phục Hi, ta thấy: -Kiền Khôn đối đỉnh (Thiên địa định vị) -Cấn Đoài đối đỉnh ( Sơn trạch thông khí) -Chấn Tốn đối đỉnh (Lôi Phong tương bác) -Khảm Ly đối đỉnh (Thủy Hỏa bất tương xạ) Tuy ở vào vị trí đối đỉnh nhau, nhưng thực ra không có kình chống nhau, mà ngược lại, lại hỗ trợ lẫn nhau. -Trời trên, đất dưới định tôn ti. Núi đầm thông khí. Nước trên núi tuôn xuống đầm hồ. Nước đầm hồ bốc lên núi thành mây, thành mưa. Gió, Sấm tăng cường hỗ trợ lẫn nhau. Nước, Lửa không chống đối nhau. Thế cho nên, tám quẻ giao thoa, tác dụng lẫn với nhau, mà sinh ra mọi hiện tượng. Tiết 2. 數 往 者 順. 知 來 者 逆.是 故 易 逆 數 也 Số vãng giả thuận. Tri lai giả nghịch. Thị cố Dịch nghịch số dã. Dịch. Tiết 2. Tìm ra quá vãng là thường, Tương lai tiên đoán rõ ràng, mới cao. Dịch kinh có số ngược chiều, Ngược chiều thời thế, khinh phiêu về nguồn. Tiết 2 của chương này, đại khái nói rằng: Biết dĩ vãng là thuận, biết tương lai là nghịch. Tiên Thiên Bát Quái lấy cái Lý của Hậu Thiên Bát Quái mà thành, do chúng ta đang ở giai đoạn Hậu Thiên nên phải lấy ý nghĩa của Hậu Thiên để lý giải Tiên Thiên. Vì vậy, Tiên Thiên Bát Quái không thể lý giải tình trạng đã hình thành Thiên Thể, do không có hành Thổ trung tâm cân bằng tức đang hình thành trục định vị mà chỉ có vận động xoay của vật chất giai đoạn Tiên Thiên tức chỉ thấy tiềm năng của Tứ Tượng mà thôi (mang cái tiềm năng khí nhẹ lên trên khí nặng xuống dưới), chưa có tương tác như Bigbang. Căn cứ vào các pha của Vũ trụ ở trên, thì Tiên Thiên bát Quái thuộc giai đoạn 2, hàm ý nói lên cái "vi động" trong trạng thái Thái Cực. Tất nhiên, Tiên Thiên Bát Quái không dùng trong bất cứ bộ môn ứng dụng nào. Đã có tiên tri rằng: "Lý đi rồi Lý lại về". Ghi chú: Nên tìm hiểu ý nghĩa Huyền Không, cấu trúc trung gian giữa Thái Ất và Độn Giáp để tìm quy luật lớn ngoài Hệ mặt trời, chưa kể ngoài Lý - Tượng còn có Số nữa, Âm Dương tức Nhị phân trong toán học nhưng nếu dùng toán học lý giải ngược lại cho đến giai đoạn hình thành Con Người thì e không hợp lý. Cho nên, bất kỳ phương pháp toán học nào cho rằng mô phỏng Con người hoặc về riêng Vũ Trụ sẽ có vấn đề bất hợp lý ngay bởi tinh Vô Hạn của nó. Do vậy, để giải bài toán vô hạn (lim__ trong toán học) đối với Vũ Trụ thì cần phải hiểu trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, rồi sao đó mới dùng các bài toán toán học như giới hạn và quy nạp. Từ đó, chúng ta sẽ hiểu tại sao trống đồng Ngọc Lũ bài trí biểu tượng quay ngược chiều kim đồng hồ. Mặt trống đồng Ngọc Lũ I
-
Tiên Thiên Bát Quái (tiếp theo) Ảnh hưởng của địa từ trường trái Đất lên con người thông qua một ngôi gia từ công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ Mô hình dưới đây mô tả 8 phương hướng tốt xấu trong trong Bát trạch Lạc Việt cho hai loại người là Tây trạch thể hiện màu đỏ, và Đông trạch thể hiện màu trắng, có nguyên ủy từ "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ". Ảnh hưởng của sự vận động các hành tinh gần gũi trái Đất lên ngôi gia vào thời điểm xây cất và nhập trạch, cũng như sự vận đông có tính quy luật của các hành tinh trong mô hình Huyền không phi tinh tác động lên ngôi gia theo thời gian. Còn gọi là vận nhà. Sự phân loại cung bản mệnh Bát trạch đó, chính là quy luật phi tinh Huyền không trên cửu cung Hà đồ. Nam là Dương nên phi nghịch là Âm, Nữ là Âm nên phi thuận là Dương (Theo Minh triết Việt trong văn minh Đông phương, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Quy luật phi tinh Huyền không trên cửu cung Hà đồ là một quy luật tương tác ngoài Hệ mặt trời, tạo ra trường khí áp đặt lên con người ngay khi sinh ra, trường khí này lớn hơn trường khí tạo ra bởi Hệ mặt trời là Lục thập hoa giáp: nam và nữ, một cách tương ứng với từ trường của Trái đất, quy luật này phải nghiên cứu từ Độn Giáp và Thái Ất. Có gì khác nhau giữa Lục thập hoa giáp và mệnh Tây - Đông trạch do Huyền không?. Quy ước Âm Dương Quán xét đồ hình minh họa tính chất Quái tượng như dưới đây: Tính chất quái tượng qua Hậu Thiên bát quái nguyên thủy và Hà đồ: Chúng ta thấy rằng: người nam thuộc hành Thủy, Mộc và người nữ thuộc hành Hỏa, Kim, như vậy Quái nam thuộc hành Mộc chứ không phải Kim, hãy quán xét tiếp một đồ hình Trái đất phối Hậu thiên Bát Quái - Hà đồ: Trái đất phối với Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ đặt theo hướng bắc bản đồ hiện đại Đây là quy luật tương tác từ hệ mặt trời và các hệ thiên văn khác đến Trái đất, trên đồ hình chúng ta nhận thấy rằng hành Thủy, Mộc nằm dưới mặt phẳng Hoàng đạo và hành Hỏa, Kim nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo, vậy thì phải chăng đây là mấu chốt vấn đề. Mặt phẳng Hoàng đạo cũng là mặt phẳng mà Hệ mặt trời quay quanh tâm của một hệ thiên văn có chu kỳ lớn 25.920 năm gọi là Hoàng đạo (tạm gọi là Hệ Thiên Hoàng). Chúng ta tham khảo tình hình khoáng sản của hai cực: Nam Cực lạnh hơn Bắc Cực, Nam Cực có nhiều mỏ khoáng sản nằm trong lòng đất còn Bắc Cực thì lại rất rất ít. Khoáng sản thể hiện "hành Kim" ứng với lý Dương và "tượng" của nó chìm xuống, lắng đọng, phía dưới, tụ lại tức "Âm", trong khi đó kim chỉ Nam trên la bàn chỉ cũng chỉ phương Nam cực - vậy thì kim chỉ Nam đang nói về cái "Lý" và "Tượng" của Âm Dương. Cũng theo khoa học hiện đại, từ trường Trái đất có các đường sức ra Nam vào Bắc như dưới đây. Từ trường tạo ra mạnh là do kim loại thuộc hành Kim hơn các hành khác. Từ ý nghĩa kim chỉ Nam xác định phương hướng của từ trường Trái đất, đồng thời thực tế cũng phản ánh cái Tượng của Âm Dương Ngũ Hành mà chúng ta nhận thấy cổ nhân đã xác định được Quái "Tượng" biểu diễn cho phái nam và nữ của một cấu trúc gia đình quy ước. Tất nhiên cấu trúc này không có ông bà nội hoặc ông bà ngoại hoặc cháu chắt khác, một đặc thù của vạn vật hữu tình. Lý Âm Dương Ngũ Hành và Tượng hình Qua phân tích, chúng ta nhận thấy rằng Lý (chưa nói đế Số) và Tượng hình là một, Tượng hình phản ánh cái Lý Âm Dương Ngũ Hành, chúng ta xem lại Hà đồ và Lạc thư một lần nữa nhằm định vị lại quy ước Lý và Tượng của Hệ mặt trời. Hà đồ và Lạc thư .........……… Tất cả những quy ước này đều phối chiếu về quy luật của giai đoạn Hậu Thiên hay sử dụng công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tức đã định vị chủ thể nhận tương tác là Trái đất rồi, chứ chưa nói đến Tiên Thiên Bát Quái là gì!. Ở đây, Hà đồ được quy ước là Dương và mang lý tương sinh - động lực vận động, chủ động; còn Lạc thư là Âm, mang lý tương khắc, bị động, có sức trì kéo, níu giữ. Hà đồ và Lạc thư phối hợp nhau sẽ trở thành một cấu trúc vận động của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành đầy đủ, như Hệ mặt trời, Trái đất, con người... Khi chúng ta định vị chủ thể nhận tương tác là Hệ mặt trời thì nó tự thân là Dương so với trái đất là Âm, nhưng khi đó Hệ mặt trời lại tự vận động theo Hà đồ và Lạc thư, theo luật Hà đồ. Có một sự khác biệt rất đặc trưng ở đây nhằm có thể lý giải quy luật phi tinh của Huyền Không (chưa chắc chắn) và các quy luật khác như Ngũ Vận Lục Khí, đó là khi Trái đất là chủ thể vận động theo Hà đồ - Lạc thư thì Hệ mặt trời cũng vận động theo Hà đồ - Lạc thư, đồng thời tương tác quy luật nhận biết được từ Mặt trời tới Trái đất theo công thức Hậu Thiên Bát Quái. Vậy thì, các hành tinh trong Hệ mặt trời được quy ước như thế nào trong mối tương quan với Trái đất! về cái Lý và Tượng Âm Dương Ngũ Hành, mặc dù cũng đã được xác định sơ bộ ở trên!. Hệ mặt trời Đến đây thì phải sử dụng nguyên lý căn bản "Dương tịnh Âm Động", "Dương trước Âm sau", "Âm thuận tùng Dương" kể từ Thái Cực phân Lưỡng Nghi Âm Dương, sau Lưỡng Nghi phân Tứ tượng ->: - Mặt trời có trước các hành tinh. - Mặt trời trong trạng thái "tịnh tương đối" so với các hành tinh. - Xét từ trong ra, theo khoa học hiện đại thì các hành tinh tính từ bên trong ra ngoài quay quanh Mặt trời với chu kỳ lớn dần theo thời gian. - Theo cổ nhân quy ước, Lý tương sinh từ trong ra ngoài của các hành tinh ở vành đai trong, đây là cái Lý của Hà đồ - Dương nhưng chưa rõ là Tượng của nó phải là Âm hay Dương! - Mặt trời là Dương so với các hành tinh. Tuy nhiên, khi định vị trái đất và Con người chúng ta thấy quy tắc: "Lý Dương Tượng Âm" và ngược lại, điều này có đúng với Hệ mặt trời không!. Một chú ý, ở bức tranh khác, mặt phẳng quỹ đạo của các hành tinh thuộc vành đai ngoài nằm "thấp" xuống so với mặt phẳng Hoàng đạo của Trái đất. Vấn đề này có thể hình dung là các hành tinh này thuộc phần thấp dưới mặt phẳng quỹ đạo của Mặt trời khi quay quanh tâm của nó tức thể hiện cái Tượng của phương Nam như Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ của Hệ mặt trời. Tức các hành tinh vành đai ngoài thể hiện cái Tượng Dương còn hành tinh vành đai trong tượng Âm? Minh họa mô hình cấu trúc bên trong của Sao Mộc, với một lõi đá phủ bởi những lớp vật chất lỏng dày của hiđrô kim loại. Minh họa cấu trúc bên trong Sao Hỏa Chúng ta xét tiếp về con người, mỗi cá nhân là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành vận động theo Hà đồ - Lạc thư chịu tương tác Hậu Thiên Bát Quái. Trong khi đó, nếu đối đãi Âm Dương giữa nữ và nam sẽ nảy sinh Lý và Tượng, Vật thì bản chất vẫn chính là cá nhân - vẫn là Hà đồ và Lạc thư phối hợp -> Hệ mặt trời ở trong trạng thái phi đối đãi như Nam với Nữ, nên hệ quả phải xảy ra "quy ước theo Lý" làm nền tảng: - Mặt trời và các hành tinh thuộc vành đai trong là lý Dương. Mặt trời mà ta thấy Tượng là Âm, các hành tinh mà ta thấy Tượng là Âm -> Hành tinh vành đai trong có tượng Âm. - Các hành tinh thuộc vành đai ngoài là lý Âm.Hành tinh vành đai ngoài có tượng Dương. - Lúc này Trái đất thuộc hành Dương Mộc và sao Mộc thuộc hành Âm Mộc. Như vậy, khi quán xét "Con Người" sống trên Trái Đất (Trái đất là một tổ hợp ADNH "Con" trong một tổ hợp ADNH "Mẹ" là Hệ mặt trời) có một sự đối đãi Âm Dương giữa "Nam" và "Nữ" hay "Mẹ" và "Cha" khác về mặt bàn chất khi dùng đối đãi Âm Dương của phân lớp các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là "Con" và "Mẹ", một cách dễ hiểu theo hình ảnh: - Con do Mẹ sinh nhưng, - Mẹ đâu do Cha sinh. Rất phức tạp trong quy ước của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành!!! -> Hệ thiên văn lớn - Hệ mặt trời -> Trái đất (đồng quy luật của Vũ trụ) -> Con người (nảy sinh thêm quy luật mới mang bản chất đặc trưng riêng của con người). Khi ra ngoài Hệ mặt trời quán xét các Hệ thiên văn lớn thì quy ước hoàn toàn tương đương cấu trúc ADNH của Hệ mặt trời. Như vậy, phải chăng Tiên Thiên Bát Quái là quy luật nói về từ Trái đất trên lên khi chưa xuất hiện "Con người".
-
Tiên Thiên Bát Quái Sự khác biệt giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái là rất rõ ràng, đối với Hậu Thiên Bát Quái thì khi định vị được chủ thể nhận tương tác thì ngay lập tức quy luật Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ lập tức được vận động, còn Tiên Thiên Bát Quái không thể hiện được chức năng này. Như vậy, theo giải thích Tiên Thiên Bát Quái có trước Hậu Thiên Bát Quái là như thế nào? Do vậy, chúng ta cần quay lại mức độ chi tiết của một số nguyên lý cơ bản, trích tham khảo một phần nội dung từ hành lang Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của tác giả Votruoc (đã đăng trên website này từ năm 2008 trong mục Lý học Đông phương): ĐỀ CƯƠNG ĐẠI CƯƠNG CƠ SỞ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH *** I./ BẢN THỂ VŨ TRỤ Bản thể của vũ trụ là “Đạo” hay “Chân như” vốn vô thuỷ, vô chung, bất khả tư nghị, hàm chứa và bao trùm tất cả mà không phân biệt. Do hàm chứa và bao trùm tất cả nên Đạo tràn đầy, viên mãn. Do không phân biệt nên Đạo vô cùng thông biến. Do bất khả tư nghị nên không thể dùng lời mà có thể định nghĩa hay diễn tả chính xác, chỉ có thể cảm thấy, nhận thức được, mô tả một cách tương đối, người xưa “gượng” mà diễn đạt Đạo một cách hình tượng là hình tròn. Do Đạo không phân biệt nên nó chí tịnh, đồng thời, do hàm chứa tất cả nên nó hàm chứa tính động – âm. Khi tính âm thể hiện cái dụng của nó là động, dù còn vô cùng nhỏ, nhưng ở trong cái chí tịnh của Đạo, nên vẫn xuất hiện sự phân biệt của phần Đạo còn lại với nó được gọi là tính dương. Tính âm và tính dương chỉ là những thuộc tính nên chúng thể hiện mình ra thông qua những lực lượng tương ứng, xuất hiện cùng với chúng gọi là lực lượng âm, lực lượng dương. Do có sự phân biệt âm dương, nên lực lượng âm, lực lượng dương tương tác nhau hình thành Vạn tượng. Trong quá trình tương tác âm dương đó, Vạn tượng sinh sinh hoá hoá liên miên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp … tạo nên thế giới, vũ trụ ngày nay. Như vậy, bản thể của vũ trụ là Đạo hay Chân như vốn bất khả tư nghị. Cái Tướng của nó là Vạn tượng cùng cái Dụng của nó là cái lý tương tác âm dương. Quán về vũ trụ ta phải quán trên cái thế chân vạc Thể - Tướng – Dụng của nó như thế. Như vậy, Vạn tượng sinh ra từ Đạo, là kết quả của tương tác âm dương, người xưa diễn đạt nó một cách hình tượng là hình vuông, phân biệt với hình tròn là Đạo. Âm được ký hiệu là một nét đứt, còn dương – một nét liền. II./ TAM TÀI Vạn tượng là cái tướng của Vũ trụ, sinh sinh hoá hoá liên miên bất tận theo cái lý âm dương. Cái lý của âm là động, tức là luôn biến đổi, có xu hướng phá vỡ trạng thái ban đầu, đổi mới và uyển chuyển … Cái lý của dương là tịnh, tức là có xu hướng bảo tồn cái trạng thái ban đầu, bảo thủ, cứng mạnh … Sự tương tác của âm, dương là nguyên nhân, động lực phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng sinh hoá, phát triển, có nghĩa là nó biến đổi, hay có những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác của các lực lượng âm, dương làm tăng tính phức tạp, cũng như số lượng của Vạn tượng. Những giá trị mới đó chính là kết quả của sự tương tác âm dương, đồng thời cũng bổ xung cho lực lượng âm lực lượng dương, làm cho lực lượng âm, dương cũng không ngừng phát triển cùng vạn tượng. Hệ quả tiếp theo là tăng cường hơn nũa sự tương tác âm dương và những giá trị mới lại được tạo ra nhiều hơn nữa. Trong quá trình tương tác, tạo ra những giá trị mới làm cho Vạn tượng không ngừng biến đổi và phát triển, cả lực lượng âm lẫn lực lượng dương đều có xu hướng giành lấy cho mình giá trị mới đó càng nhiều càng tốt. Nhưng mức độ chiếm đoạt giá trị mới đó tuỳ thuộc vào tương quan giữa khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương trong Vạn tượng. Như vậy, trong quá trình phát triển của Vạn tượng, lực lượng âm, dương không ngừng tương tác làm nảy sinh những giá trị mới, đồng thời chúng cũng không ngừng tranh giành chiếm đoạt những giá trị mới đó. Đó chính là nội dung của sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập là các lực lượng âm, dương trong Vạn tượng. Để tạo ra những giá trị mới, các lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Nếu chỉ có một mình lực lượng âm hay một mình lực lượng dương, sẽ không có sự tương tác âm dương và giá trị mới không thể nảy sinh. Cả lực lượng âm và lực lượng dương đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới này. Để có thể chiếm đoạt, trước tiên giá trị mới phải được tạo ra. Để được tạo ra giá trị mới, lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Vì tranh giành những giá trị mới - sản phẩm của quá trình tương tác âm dương – các lực lượng âm, dương đấu tranh với nhau, và vì thế mâu thuẫn với nhau. Giá trị mới được tạo ra tuỳ thuộc vai trò và qui mô của các lực lượng âm, dương trong quá trình tương tác, còn mức độ chiếm đoạt giá trị mới tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương tương quan như thế nào. Khi có sự tương ứng giữa vai trò tương tác và khả năng chiếm đoạt đó thì Vạn tượng phát triển tốt nhất. Lực lượng âm dương tuy mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tích cực, kích thích Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái âm dương hài hoà. Còn nếu sự tương ứng đó không thoả đáng, Vạn tượng phát triển khó khăn hơn, mâu thuẫn lực lượng âm, dương tăng lên, cản trở Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái mất quân bình âm dương. Đặc biệt, khi sự mất quân bình này thái quá, mâu thuẫn lực lượng âm dương quá gay gắt có thể dẫn đến phá huỷ thế quân bình âm dương, trạng thái đó bị tiêu huỷ, sinh ra một trạng thái mới có sự quân bình âm dương mới. Ta nói, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản. Do thống nhất với nhau trong tương tác, tạo ra những giá trị mới, mà trong các lực lượng âm, dương có hàm chứa những yếu tố, tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh với nhau (thống nhất với nhau). Và tương ứng với những yếu tố đó, trong Vạn tượng có những lực lượng đại diện cho chúng, gọi là Chung. Trong Chung có những thành phần mà cả hai lực lượng âm, dương cùng thống nhất và tôn trọng, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Phần còn lại của các lực lượng âm, dương thì mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và được gọi là Âm, Dương. Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương với bản chất được mô tả ở trên, được gọi là Tam tài. Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển. Ở cấp độ thấp hơn lý tương tác Âm Dương là Âm Dương Ngũ Hành, ở cấp độ chi tiết này "cái Chung" theo tác giả Votruoc, nó đã biến hóa theo quy luật Âm Dương Ngũ Hành - Vạn Tượng tức chúng tương tác vận động theo công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ khi đã định được chủ thể nhận tương tác. Điều này cũng có thể được hiểu "cái Chung" đã nằm trong một mạng lưới quy luật sơ cấp như cái lý sinh, khắc... Vậy thì: Thái Cực (Bản thể Vũ trụ) -> Âm Dương -> Âm Dương cực đại thì tương tác (Khí) - Vụ nổ khai thiên lập địa Bigbang -> Âm Dương Ngũ Hành - Vạn Tượng và sau đó chúng ta định vị chủ thể nhận tương tác "Một Tượng hoặc Nhóm Tượng nào đó trong Vạn Tượng" và từ đó định hình nên: - Cái Tam Tài ở đây hàm ý Thiên, Địa, Nhân: Hệ mặt trời - Trái đất - Con người. Chúng ta xem xét Hệ mặt trời: Tham khảo từ cuốn Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, về tính chất tượng quái ứng với các thành viên trong một gia đình hình thành nên một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành thứ cấp, các "Quái" là những biểu tượng cho cái "Dụng" của Âm Dương Ngũ Hành chứ không phải cái "Thể" tức cái hình tượng bên ngoài, do vậy sự liên hệ chặt chẽ giữa Dụng và Thể phải được định hình cụ thể trong các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành khác nhau. Những nguyên lý cơ bản để nhận thức chuỗi các pha Vũ trụ cho tới khi định hình nên Trái đất (trên Trái đất đã có Vạn vật hữu tình) làm chủ thể: "Dương tịnh Âm động", "Dương trong Âm ngoài", "Âm trên Dương dưới", "Dương trước Âm sau", "Âm thuận tùng Dương", là những nguyên lý cơ bản thể hiện cái "Thể" - cái mà ta có thể nhận biết bằng các giác quan, chẳng hạn khi xét Hệ mặt trời. Đồ hình minh họa Tính chất quái tượng qua Hậu Thiên bát quái nguyên thủy và Hà đồ: Trong hình trên đây, bạn đọc sẽ nhận thấy: trục địa cầu biểu kiến chia tám quái thành hai phần Âm dương gồm: Càn cha và các Quái tượng cho con gái là: Đoài, Tốn, Ly thuộc Dương (các hào Dương nhiều hơn hào Âm); Khôn mẹ và các Quái tượng cho con trai thuộc Âm (các hào Âm trội hơn hào Dương). Điều này cũng lý giải câu tục ngữ bí ẩn trong dân gian Lạc Việt: “Con trai nhờ đức mẹ, con gái nhờ đức cha”. Bởi vì, những quái tượng con gái đồng chất với quái Càn tượng cha, thuộc Dương; những quái tượng con trai đồng chất với quái Khôn tượng mẹ, thuộc Âm. Từ sự ứng dụng độ số Âm cho hai hành Thủy và Mộc, độ số Dương cho hai hành Kim và Hỏa (đã dẫn chứng ở phụ chương: “Dấu ấn Hà đồ trong cổ thư chữ Hán trước Tần”). Như vậy, hành Thủy & Mộc thuộc Âm và Kim & Hỏa thuộc Dương trên Hà đồ. Từ hai cơ sở này, tính hợp lý khi ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm dương Ngũ hành giải thích hiện tượng trên như sau: Các quái Đoài & Tốn, Ly nằm trên phần Dương của Hà đồ (Kim – Hỏa) nên tượng cho con gái (Âm) theo nguyên lý trong Dương có Âm. Riêng Càn nằm ở vị trí Âm của Hà đồ lại là đầu quái Dương nên tượng cha (Dương) theo nguyên lý trong Âm có Dương. Các quái Khảm, Cấn & Chấn nằm ở phần Âm của Hà đồ (Thủy – Mộc) nên tượng con trai theo nguyên lý trong Âm có Dương. Riêng Khôn nằm ở vị trí Dương của Hà đồ lại là đầu quái Âm, nên tượng mẹ theo nguyên lý trong Dương có Âm. Từ Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, chúng ta có thể nhận thấy các nguyên lý tiếp theo khi chủ thể là Trái đất: Đồ hình minh họa sự hình thành Hậu Thiên bát quái đặt theo hướng bắc bản đồ hiện đại: La kinh: Hệ mặt trời: Cấu trúc Hệ mặt trời theo Lý "Dương tịnh Âm động", "Dương trong Âm ngoài" tức định vị tại Mặt trời trung tâm của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành: Hệ mặt trời Định vị chủ thể tại trái đất, rút ra hệ quả theo nguyên tắc "Dương trên Âm dưới", "Dương trong Âm ngoài", "Dương trước Âm sau" của quy luật vận động Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ: - Hành Kim, Thủy, nằm phía dưới - Âm: Tượng (hình) Âm và lý Dương. - Hành Mộc, Hỏa, nằm phía trên - Dương: Tượng (hình) Dương và lý Âm. - Cái "Dụng" được hình dung như là các sản phẩm nhân tạo hay cái được con người sử dụng cũng được quy nạp vào các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. - Các quy tắc "đồng âm tương ứng, đồng khí lương cầu", "hiện tượng cộng hưởng hay khuếch đại" sẽ xảy ra trong quá trình tương tác. Trái đất (so với Mặt trời thì Trái đất là "Âm"): Định vị hướng bắc nam từ theo La kinh phong thủy, thể hiện từ trường Trái đát tạo ra do tự quay quanh trục của nó và từ sự ràng buộc của các loại tương tác khác, tùy khu vực đặt La kinh sẽ có độ lệch so với trục quay, theo nguyên lý "Dương trước Âm sau" và "Âm tịnh Dương động": - Hành Thủy: gồm cung Càn - Âm Thủy và Khảm - Dương Thủy -> cung Càn là Âm Thủy, là Thái Dương (cực Dương)? - Hành Hỏa: gồm cung Khôn - Âm Hỏa và cung Ly - Dương Hỏa -> cung Khôn - Âm Hỏa là Thái Âm (cực Âm)? Địa hình Trái đất: - Nước hành thủy chảy về chỗ trũng, thấp: Vùng thấp, tượng Âm lý Dương (Cha Lạc Long Quân đưa 50 con xuống biển). - Núi cao nơi thượng du của nguồn nước:Vùng cao, tượng Dương lý Âm (Mẫu Âu Cơ đưa 50 con lên núi). Con người: Vậy thì chủ thể là con người thì ra sao? theo "Âm thuận tùng Dương": - Nam: -> tượng (hình thể) Âm lý Dương. - Nữ: -> tượng Dương lý Âm. Khi dùng nguyên lý "Dương tịnh Âm động" cho hệ thống kinh mạch trong Đông y, không phân biệt Nam Nữ: - Phải đảo ngược lại, do chúng ta đã quy ước Âm Dương cho Nam và Nữ, nên khi định vị riêng cho "bên trong mỗi con người" thì không còn đối đãi Âm Dương nam nữ mà là tượng bên trong và bên ngoài", nguyên lý sẽ bị đảo ngược lại thành "Dương động Âm tịnh", "Dương ngoài Âm trong": Ví dụ, có cặp phạm trù (Dương - Âm) -> khi định vị (Dương của Dương) trong cặp phạm trù trên thì "Dương của Dương thành Âm", bị đảo ngược, toán học cũng vậy. Quán xét đồ hình dưới đây: Đồ hình minh họa Tính chất quái tượng qua Hậu Thiên bát quái nguyên thủy và Hà đồ: Nam thuộc hành Thủy, Mộc và nữ thuộc hành Hỏa, Kim, như vậy có mâu thuẫn tại hành Nam - Mộc và Nữ - Kim, vậy nguyên nhân từ đâu!. Xét tiếp đồ hình khác: Trái đất phối với Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ đặt theo hướng bắc bản đồ hiện đại Quy luật tương tác từ hệ mặt trời và các hệ thiên văn khác, chúng ta nhận thấy rằng hành Thủy, Mộc nằm dưới mặt phẳng Hoàng đạo và hành Hỏa, Kim nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo, vậy thì phải chăng đây là mấu chốt vấn đề: tượng Âm lý Dương". Chúng ta tham khảo tình hình khoáng sản của hai cực: Nam Cực lạnh hơn Bắc Cực, Nam Cực có nhiều mỏ khoáng sản trong lòng đất còn Bắc Cực thì lại rất rất ít. Khoáng sản thể hiện "hành Kim" ứng với lý Dương và "tượng" của nó chìm xuống, lắng đọng, phía dươ tụ lại tức "Âm", trong khi đó kim chỉ Nam chỉ là Nam cực - vậy thì kim chỉ Nam đang nói về cái "Lý" của Âm Dương. Từ trường trái đất có các đường sức ra Nam vào Bắc như dưới đây, theo khoa học hiện đại. Tham khảo: Nguyên lý quái Cấn nhập trung Cung Trong Kinh Dịch, sự phổ biến có tính nguyên lý căn bản là : Càn tượng cho người đàn Ông thuần Dương. Khôn, tượng trưng cho người đàn bà , thuần Âm. Dưới đây là ký hiệu của hai quẻ Càn và Khôn trong Kinh Dịch. Quẻ Càn tượng trưng cho người đàn ông Quẻ Khôn tượng trưng cho người đàn bà Nhưng trong ứng dụng phổ biến của khoa Phong thủy thì Khôn lại tượng trưng cho Nam Mạng và Cấn lại tượng trưng cho nữ mạng. Dưới đây là ký hiệu hai quẻ Khôn và Cấn trong Kinh Dịch, ứng dụng trong Phong Thủy: Quẻ Khôn tượng cho người đàn ông Quẻ Cấn tượng cho người đàn bà Đây chính là một sự phi lý hình thức và là một biểu tượng có vẻ như thể hiện của tính thiếu nhất quán trong phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái là một bộ phận hữu cơ cấu thành nên học thuyết này. Nhưng xuất phát từ nguyên lý xuyên suốt được xác định của Phong Thủy Lạc Việt Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt đã giải thích một cách hợp lý một thực tại khách quan là cơ sở của nguyên lý – Quái Cấn nhập trung cung và quan niệm Nam Khôn, Nữ Cấn trong phong thủy. Phong thủy Lạc Việt xác định nguyên lý “Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” là Nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng xuyên suốt trong mọi phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương bao trùm lên toàn bộ sự vật, hiện tượng trong xã hội loài người. Chúng tôi giới thiệu với quí vị đây: HẬU THIÊN BÁT QUÁI LẠC VIỆT HẬU THIÊN BÁT QUÁI LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Trong đó, xuất phát từ quan niệm nhất quán cho rằng: Bát quái chính là những nhóm ký hiệu phân loại mọi hiện tượng trong vũ trụ, thiên nhiên, xã hội và con người. Chúng tôi xác dịnh bản chất biểu tượng của bát quái như sau: - Càn – Âm Kim đới Thủy, Tây Bắc Âm Thủy, độ số 6. Xanh da trời. - Khảm – Dương Thủy, chính Bắc, độ số 1. Xanh đen. - Cấn – Âm Mộc, Đông Bắc, độ số 8, Xanh lá cây nhạt. - Chấn – Dương Mộc, chính Đông, độ số 3, Xanh lá cây đậm. - Khôn – Âm Hỏa đới Thổ, Đông Nam, độ số 2. Nâu đỏ. - Ly – Dương Hỏa, chính Nam, độ số 7, Đỏ. - Tốn – Âm Kim, Tây Nam, độ số 4, Xám trắng. - Đoài – Dương Kim, chính Tây, độ số 9, trắng. Từ nguyên tắc này, và trên cơ sở chứng nghiệm mối liên hệ tương tác của các hành tinh trên Thái Dương hệ - là tương tác gần gũi với Địa cầu – được đặt tên theo Ngũ hành. Chúng tôi có sự liên hệ so sánh như sau theo hướng dẫn của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh : Xét đồ hình Hà Đồ trên, theo thuận tự vòng tương sinh bắt đầu từ trung cung thuộc thổ, ta sẽ thấy chu trình sau: Thổ của Trung cung (5-10) sinh kim của phương tây (4-9); Kim của phương tây sinh cho thủy của phương Bắc (1-6); Thủy của phương Bắc sinh cho Mộc của phương Đông (3-8); Mộc của phương Đông sinh cho Hỏa của phương Nam (2-7); và cuối cùng Hỏa của phương Nam sinh cho Thổ của trung cung, hoàn tất một chu kỳ tương sinh vạn vật. Như vậy ta thấy: * Quái Cấn nằm ở cung âm Mộc – Đông Bắc – độ số 8 và nằm ở phần dương của Hà Đồ (Càn – Khảm – Cấn – Chấn). * Quái Khôn nằm ở cung âm Hỏa – Đông Nam – Độ số 2 và nằm ở phần âm của Hà Đồ (Khôn – Ly – Tốn – Đoài). Hệ thống hành tinh trên Thái Dương hệ và thuyết Âm dương – ngũ hành Bây giờ xin bạn đọc quán xét thuận tự của Thái Dương hệ tính từ trong ra ngoài: Xin lưu ý quí vị về tên gọi của hai hành tinh trong Thái Dương hệ là sao Kim và sao Thủy: - Sao Thủy được gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Kim. - Sao Kim gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Thủy (Theo Ban Cố, Tiền Hán thư). Thuận tự của Thái Dương hệ dưới đây – với tên hai sao này gọi theo sách cổ - thì thuận tự này sẽ là: Trong hệ thống hành tinh của Thái Dương Hệ này thì khoa học hiện địa phân làm hai nhóm: Nhóm I – Tính từ Mặt trời – Gồm : Sao Kim (Theo cổ thư); sao Thủy (Theo Cổ thư) – Trái Đất – và kết thúc là sao Hỏa. Giữa nhóm 1 và nhóm 2 có vành đại thiên thạch làm phân giới tự nhiên. Nhóm II gồm: Mộc tinh – Thổ Tinh – Thiên Vương Tinh – Hải Vương tinh và kết thúc là Diêm Vương tinh. Các nhà khoa học hiện đại nhận thấy rằng: Với sao Diêm Vương tinh tuy thuộc nhóm II, nhưng lại có kích thước giống như các hành tinh nhóm I và đặt v/d về hiện tượng lặp lại này. Nhưng không có câu trả lời thỏa đáng. Gần đây – vào năm 2006 - hầu hết các nhà Thiên văn nhất trí loại sao Diêm Vương tinh khỏi hệ thống hành tinh trong hệ mặt trời. Xin xem hình minh họa dưới đây. Nhưng với nguyên lý “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ” mà chúng tôi trình bày ở trên và từ phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành, liên hệ với các hành tinh được đặt tên theo các hành của học thuyết này từ thiên văn cổ - Chúng tôi lý giải các hiện tượng được đặt ra trong tham luận này như sau: Theo nguyên lý trung cung thuộc Thổ của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì mặt trời được coi là hành Thổ và chúng ta sẽ nhận thấy một chiều tương sinh từ trong ra ngoài trong những hành tinh thuộc nhóm I theo phân loại của khoa thiên văn hiện đại như sau: Xét sự phân loại theo ngũ hành: Thổ (Mặt Trời) => sinh Kim (Sao Kim/ Theo sách cổ) => sinh Thủy (Sao Thủy / Theo sách cổ) => sinh Mộc (Tương ứng với Trái Đất) =>Sinh Hỏa (Sao Hỏa). Từ đây chúng ta ứng dụng một nguyên lý theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương ngũ hành là: Lý thuộc Dương thì vật thuộc Âm. Lý tương sinh thuộc Dương thì các hành tinh trong hệ thống tương sinh theo lý Ngũ hành thuộc Âm. Tức là trái Đất thuộc Âm Mộc theo đúng vị trí Trái Đất trong nhóm I theo tính hợp lý của phương pháp luận. Chúng ta thấy hoàn toàn trùng hợp với vị trí của quái Cấn – Âm Mộc trên Hà Đồ. Từ đó chúng ta nhận thấy một sự hợp lý hoàn toàn khi đưa quái Cấn nhập Trung cung trong nguyên lý của Khoa Phong thủy, mà nếu không có sự liên hệ với một thực tại khách quan chính là vị trí trái Đất trong mối tương quan vị trí trong Thái Dương hệ thì chúng ta sẽ không thể lý giải được điều này. Và như vậy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng: Quái Khôn trong Dịch học tượng cho người nữ và quái Khôn trong Phong thủy tượng cho người nam, không phải là một hiện tượng thiếu nhất quán và tùy tiện. Mà chúng có cơ sở thực tại trong vũ trụ làm nên tính biểu tượng của các quái. Đó chính là biểu tượng phân loại của thuyết Âm Dương Ngũ hành, với nguyên lý Dương là biểu lý, Âm là hình thể. Trong Phong Thủy thì khi quái Cấn là biểu tượng hình thể Âm Mộc của Địa cầu – thì Khôn tượng đất - lúc này thuộc Dương là biểu lý của Địa cầu, nên tượng cho người đàn ông. Hoàn toàn nhất quán với nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành và không có mâu thuẫn nội tại. Tính chu kỳ và sự lặp lại biện chứng của các hành tinh trong Thái Dương hệ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. Với một tiểu mục này, chúng tôi trình bày rõ hơn về tính chu kỳ và sự lặp lại biện chứng của các hành tinh trong Thái Dương hệ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. Quí vị cũng nhận thấy rằng: Ở hành tinh nhóm II thì cổ thư chỉ thấy ghi hai sao, nhưng đủ để chúng ta thấy được lý tương khắc là: Sao Mộc (Mộc) khắc Thổ (Sao Thổ). Như vậy, chúng ta hoàn toàn cóquyền suy luận rằng: Kết thúc chu kỳ tường khắc ở hành tinh nhóm II chính là ở sao Diêm Vương tinh. Điều này được mô tả như sau: Sao Mộc – khắc sao Thổ - Sao Thổ khắc Thiên Vương Tinh thuộc Thủy. Thiên Vương tinh thuộc Thủy khắc Hải Vương Tinh thuộc Hỏa, và cuối cùng là Hải Vương tinh thuộc Hỏa khắc Diêm Vương tinh thuộc Kim. Chu kỳ kết thúc ở sao Diêm Vương tinh. Biện chứng pháp cho rằng: Vạn vật có chu kỳ lặp lại. Từ đây, chúng ta có cơ sở để giải thích rằng: Sự quay trở lại hình thể và cấu trúc của Diêm Vương tinh giống hành tinh nhóm I, chính là thực tế khách quan minh chứng cho chu kỳ lập lại khi kết thúc chu kỳ tương sinh – tương khắc của hệ thống hành tinh trong Thái Dương hệ - theo cách giải thích của thuyết Âm Dương Ngũ hành. LÝ TƯƠNG TÁC ÂM DƯƠNG: Phải xác định được một Hệ Quy Chiếu chuẩn - Ứng một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là Hệ mặt trời, trong cái Lý vận động chung của Hà đồ - Lạc thư thì quy luật tương sinh chi phối là Hà đồ, tức Hà đồ là Dương, còn quy luật tương khắc của Lạc thư là Âm, như vậy so với cấu trúc Hệ mặt trời thì các hành tinh tương sinh thuộc vành đai trong là Dương, còn các hành tinh vành đai ngoài là Âm. Mặt trời là Dương Thổ - "tịnh tương đối" còn sao Thổ là Âm Thổ - "động" so với Mặt trời. TƯỢNG HÌNH ÂM DƯƠNG: Phải định vị được chủ thể là từ Trái đất - "động" so với Mặt trời và "tâm trái đất "tịnh" so với con người, quan sát bằng giác quan và đối chiếu giữa Tượng hình là Lý Âm Dương. Từ đó thấy rằng, Tượng hình là Dương thì Lý là Âm, và ngược lại. BIỂU TƯỢNG QUY ƯỚC: Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái là những biểu tượng cho cái Lý Âm Dương thông qua cái Tượng Hình đã được quy ước ngay lập tức sau trạng thái Thái Cực - tức ngay khi xuất hiện cái "vi động" so với cái "chí tịnh" của Thái Cực. Lý Âm Dương ngũ Hành và Tượng Hình luôn tuân thủ các quy luật chung. Nếu Bát Quái là biểu tượng quy ước cho "Tượng hình" thay vì "Lý Âm Dương" thì Vạn Tượng sẽ quy ước đến vô cùng tức không tưởng?. CÔNG THỨC ÁP DỤNG HẬU THIÊN BÁT QUÁI PHỐI HÀ ĐỒ: Dựa trên quy luật của cái Lý Âm Dương hay cái Tượng Hình, tất nhiên dựa trên cái Lý Âm Dương và thông qua Tượng Hình để bài trí phương vị quy ước, chẳng hạn "Dương trái Âm phải". KIM CHỈ NAM: Dựa trên cái Lý Âm Dương nhằm thống nhất các trạng thái quy ước. HỆ KINH MẠCH TRONG ĐÔNG Y: Xxx Ví dụ: Trong Kinh Dịch: Quái Càn hành Âm Thủy, mang cái lý hành Dương và tượng hình Âm (phẳng, cứng, gọn...) cho người đàn ông thuần Dương, so với người phụ nữ thuần âm là quái Khôn. Tuy nhiên, cái tượng hình lại đi kèm của người đàn ông là "động" so với người phụ nữ "tịnh", điều này chứng tỏ rằng khi quán xét con người thì "Dương động Âm tịnh", đảo ngược quy ước so với Hệ Mặt trời và Trái đất. Điều này được lý giải từ hiện thực khách quan, con người đứng trên mặt đất và "Động" so với "Trái đất" và lại có một đặc biệt đối đãi đó là: "Đàn ông và phụ nữ" rồi tương hợp sinh con cái nữa. Mặt dù vậy, khi áp dụng Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ trong các bộ môn tính toán tương tác như Phong thủy, Tử Vi, Độn giáp, Thái Ất... đều từ ngoài tới con người nên vẫn sử dụng quy ước bình thường. Chỉ đặc biệt khi áp dụng Đông y tức nội quan con người thì "đảo ngược lại các quy ước cho từng hệ kinh mạch" nhưng vẫn áp dụng công thức trên. Cổ nhân cũng quan sát các hiện tượng trên không như sấm chớp, mây mưa... mà cũng định hình nên một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là Trái đất. Cấu trúc địa hình Trái đất là Dương, còn không gian bao quanh là Âm, lúc này Lõi Trái đất là Dương Thổ giống như đặc tính của Mặt trời. Con người đứng trên mặt đất đầu đội trời, là giao thoa của Trời Đất. Do đặc trưng đứng trên mặt đất, nên con người là một thành phần của Trái đất chứ không "độc lập tương đối" như Trái đất so với Mặt trời, do vậy con người chắc chắn phải thuộc hành Dương của Trái đất. Bản chất của Phong thủy chính là sự phản ánh tính tương tác có qui luật của vạn vật, từ những vật thể quanh ta đến những quy luật trong vũ trụ. Khoa học đã xác định rằng: Bản chất hình thành vũ trụ là sự tương tác, tính chất của tương tác như thế nào thì sự vật sẽ hình thành như thế ấy. Cấu trúc bên trong Trái đất Phần bên trong của Trái Đất, giống như các hành tinh đất đá khác, chia thành nhiều lớp dựa trên các đặc tính hóa, lý. Lớp ngoài của vỏ Trái Đất là một lớp silicat rắn bao gồm bảy mảng kiến tạo riêng biệt nằm trên một lớp chất rắn dẻo. Vỏ Trái Đất phân cách với lớp phủ bởi điểm gián đoạn Mohorovičić, và độ dày thay đổi trung bình 6 km đối với vỏ đại dương và 30–50 km đối với vỏ lục địa. Lớp vỏ và phần trên cùng của lớp phủ cứng, lạnh được gọi là thạch quyển, và các mảng lục địa được tạo trên thạch quyển. Dưới thạch quyển là quyển mềm (quyển atheno) do nó được cấu tạo bởi lớp đá "mềm". Dưới quyển mềm là lớp phủ có bề dày khoảng 2.900 km và là nơi có độ nhớt cao nhất. Những sự thay đổi quan trọng trong cấu trúc tinh thể bên trong lớp phủ xuất hiện tại độ sâu 410 và 660 km dưới mặt đất, trải qua một đới chuyển tiếp ngăn cách lớp phủ trên và dưới. Ở dưới lớp phủ, lõi ngoài có dạng chất lỏng mềm nằm trên lõi trong rắn.[55] Lõi trong có thể quay với vận tốc góc hơi cao hơn so với phần còn lại của hành tinh khoảng 0,1- 0,5° mỗi năm.[56] Các tầng của Trái Đất[57] Mặt cắt của Trái Đất từ tâm đến thổ quyển. Độ sâu[58] km Các lớp Mật độ g/cm3 0–60 Thạch quyển (5)[h] — 0–35 ... Lớp vỏ (6) 2,2–2,9 35–60 ... Phần trên cùng của manti trên (4) 3,4–4,4 35–2890 Quyển manti (3)&(4) 3,4–5,6 100–700 ... Quyển mềm — 2890–5100 Lõi ngoài (2) 9,9–12,2 5100–6378 Lõi trong (1) 12,8–13,1 Ghi chú: - Chú ý cấu trúc cung Càn nằm bên phải của trục quay của Trái đất (nhìn từ trong ra ngoài), điểm khóa địa lý so với hệ thiên văn Hoàng đạo cần được xem xét cẩn thận. - Chưa xét thiên đỉnh xoay quanh Vũ trụ trong 1 ngày đêm. - Chưa xét đến trục Vũ trụ hay tâm Vũ trụ.
-
Bãi đá quan sát thiên văn Stonehenge, Condado de Wiltshire, Inglaterra, 2014 ở Anh, 2 vòng đá có 28 trụ đá ứng Nhị thập bát tú.
-
CON NGƯỜI VÀ VẠN VẬT TRÊN ĐỊA CẦU (tiếp theo) Định hướng Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ Chúng ta biết rằng có 2 cách thức biểu diễn công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, đối với công thức cổ thì phương bắc hướng dưới và hướng nam ở trên, còn công thức mới xoay ngược 180 độ nhằm phù hợp với hướng bắc thiên văn của bản đồ hiện đại. Khi áp dụng trong các bộ môn phong thủy và các bộ môn khác thì kết quả hoàn toàn không có gì thay đổi, ngoại trừ bộ môn Âm Trạch phụ thuộc địa hình sông ngòi của bắc bán cầu và nam bán cầu. Như vậy, tại sao cổ nhân lại dùng cấu trúc nam trên bắc dưới? Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ mới (hướng bắc trên, nam dưới) Chúng ta cũng nhận thấy rằng đặc trưng của hành Hỏa, Mộc là đi lên, bốc lên, còn hành Thủy, Kim là đi xuống, tụ xuống. Đồng thời, dựa trên sự vận động xoay quanh trục của Trái đất trong một ngày và sự vận động nhận thấy được của Mặt trời tương ứng, cùng với ánh sáng chiếu đến Trái đất làm con người và vạn vật vận động hoặc nghỉ ngơi mà định hình nên cấu trúc vận động Hậu Thiên Bát Quái tương ứng với hướng chiếu sáng của Mặt trời với hướng Thìn trên Địa chi (12 giờ cổ), chu kỳ một năm cũng nhận thấy thực vậy cũng xảy ra như vậy trong các mùa. Không chỉ vậy, nếu xét trong Đông Y thì các hành khí trên trục xương sống thì cũng tương ứng như vậy. Qua các nhận xét trên, chứng tỏ rằng cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái và Hà đồ - Lạc thư sẽ được bài trí một cách tương ứng là hành Hỏa ở trên, và hành Thủy ở dưới. Mặc dù vậy, đối với la bàn thì kim chỉ nam định hướng bắc trên nam dưới, vấn đề này như thế nào!. Wikipedia: Cũng như nam châm, Trái Đất có 2 cực địa từ, không trùng với 2 cực địa lý. Cực Bắc từ có toạ độ 70° Vĩ Bắc Và 96° Kinh Tây, trên lãnh thổ Canada, cách cực Bắc địa lý 800 km. Cực Nam từ có toạ độ 73° Vĩ Nam và 156° Kinh Đông ở vùng Nam cực, cách cực Nam địa lý 1000 km. Trục từ trường tạo với trục Trái Đất một góc 11°. Các từ cực thường có vị trí không ổn định và có thể đảo ngược theo chu kỳ. Do đó bản đồ địa từ cũng phải thường xuyên điều chỉnh (5 năm một lần). Việc thu nhập các thông tin từ vệ tinh đã phát hiện các vành đai bức xạ bao quanh Trái Đất ở môi trường khí quyển trên cao từ 500–600 km dến 60.000- 80.000 km: đó là từ quyển (tầng điện ly trở lên). Trường từ của Trái Đất, đường thẳng nối hai cực từ tạo thành một góc 11,3° so với trục quay của Trái Đất. Hướng của đường sức từ biểu diễn bằng các mạt sắt rắc trên một tờ giấy ngăn cách với thanh nam châm. Mô hình cực từ: hai cực trái dấu, Bắc (+) và Nam (−), cách nhau một khoảng d sinh ra trường H (các đường sức). La bàn cho biết hướng của từ trường cục bộ. Như ở đây, đường sức từ đi vào cực Nam và đi ra khỏi cực Bắc. Đặc trưng của từ trường là ra bắc vào nam, cho nên dân gian có thành ngữ "ra bắc vào nam". Đối với địa hình Trái đất ở bắc bán cầu, phía bắc lạnh, thu vào và phía nam (xích đạo) nóng, nở ra. Phía tây bắc có núi cao, tuyết phủ còn phía đông nam thấp xuống, có biển sâu. Từ trường của một thanh nam châm hình trụ. Chúng ta hãy cùng xem lại bức tranh dân gian Hàng Trống "Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng" dưới đây: Lưỡng nghi sinh Tứ trượng Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội, Việt Nam Hình ảnh con rùa chính là phương bắc ở dưới, còn hình ảnh đứa bé áo đỏ đeo trái bầu chính là hành hỏa, trái bầu biểu tượng cho hành Hỏa phương nam trên Hậu Thiên Bát Quái, còn đứa bé có tay ở góc chéo cầm một nhành hoa mẫu đơn biểu tượng hành Thủy - phương bắc Biểu tượng này chính là thể hiện toàn cảnh Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ nhưng định hướng phương nam ở trên. Con rùa còn biểu tượng cho sử liên hợp giữa không gian và vật chất nguyên thủy của vũ trụ ban đầu, vật chất này tương hợp qua sự thể hiện cái lý phản ánh được mối quan hệ thực chất "bản thể của vũ trụ tương ứng không gian 3 chiều". Rùa biển định hướng nhờ từ trường trái đất Rùa biển. Ảnh: Exploringdominica.com. Loài rùa biển luôn trở về khu vực quen thuộc để đẻ trứng. Chúng sử dụng hệ thống định vị tương đối đơn giản là từ trường trái đất. Từ trường giúp loài rùa tìm hướng dù bị cuốn đi bởi sóng biển. Trung bình cứ 4 năm một lần, rùa biển bơi giữa đại dương mà không cần bất cứ điểm mốc nào, di chuyển hàng trăm, thậm chí hàng nghìn km giữa khu vực tìm thức ăn và khu vực đẻ trứng. Để tìm hiểu quá trình định vị và các hệ thống giác quan của loài này, các nhà sinh học Pháp thuộc Trung tâm Sinh thái Chức năng và Tiến hóa Montpellier và các cộng sự Italia ở Đại học Pisa đã thả những con rùa biển xanh Chelonia Mydas đẻ trứng ở kênh Mozambic, trên các hòn đảo Europa và Mayotte. Chúng được cài một máy cắm cọc tiêu Argos trên mai, một nam châm cực mạnh trên đầu và được theo dõi qua vệ tinh trong chuyến hành trình trở về khu vực đẻ trứng. Thử nghiệm đầu tiên đã chứng minh, dù được thả ở bất cứ nơi nào và bất kể các cơn sóng biển, những con rùa này vẫn bơi về hướng khu vực đẻ trứng. Tuy nhiên chúng không có khả năng thay đổi chuyến hành trình khi bị trôi giạt bởi sóng biển, một số con đã bơi hàng nghìn km trước khi đến nơi. Theo các nhà khoa học, điều này xác định rùa biển sử dụng từ trường do nhân trái đất phát ra để định vị khu vực đẻ trứng. Nhưng đây không phải là nguồn thông tin duy nhất được sử dụng, vì chúng vẫn có thể tìm ra khu vực đẻ trứng mặc dù bị sóng biển cuốn đi. Loài rùa biển có thể sử dụng khứu giác cũng như một số chim biển hay chim bồ câu đưa thư. Bí ẩn về từ trường Trái đất đã được làm sáng tỏ Minh họa từ trường Trái Đất với nguồn coi như một nam châm khổng lồ. Cực Bắc địa lý nằm phía trên hình vẽ. Cực từ Nam nằm sâu bên dưới lòng đất và cùng phía với cực Bắc từ của Trái Đất. Các chất dẫn điện lỏng trong lòng đất đã sinh ra từ trường của Trái đất. Ảnh minh họa từ BBC Từ trường của Trái đất có thể được tạo ra bởi các chuyển động mạnh của các chất dẫn điện lỏng trong lòng đất... đó là khám phá mới của các nhà khoa học Pháp, được đăng tải trên tờ Le Figaro ngày 12-3. Bằng cách tạo ra sự chuyển động mạnh của dung dịch natri lỏng trong ống nghiệm, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS), Trung tâm nghiên cứu khoa học về Trái đất và môi trường (CEA) và các trường ĐH sư phạm tại Paris và Lyon đã tạo ra được từ trường Trái đất trong phòng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy từ trường được tạo ra mang nhiều đặc điểm giống với từ trường tự nhiên của Trái đất. Phần lớn các vật chất thiên văn trong vũ trụ như hành tinh, các vì sao và các dải thiên hà đều có từ trường. Các từ trường này đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các vật chất trong không gian. Cấu trúc từ trường nam châm hay của trái đất, của con người là hình ảnh biểu kiến của công thức Hà đồ phối Lạc thư nhưng vận động theo lý tương sinh của Hà đồ như đã biết. Chúng ta còn nhận thấy rằng, các quy ước của Hậu Thiên Bát Quái thông qua biểu tượng là các vạch Âm Dương nhằm mô tả một trạng thái thực tại nhất định, đó là Bát Quái: "Bát quái" để mô tả các ký hiệu Dịch học: Càn Đoài Tốn Ly Khôn Chấn Cấn Khảm Hệ thống Bát quái này được phát triển từ hai biểu tượng ban đầu Nghi Âm và Nghi Dương: HÌNH THỨ TỰ BÁT QUÁI PHỤC HY (Nhìn từ ngoài vào trong) Chúng ta thấy giữa Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy có sự đảo vị trí của các quái, đặc biệt vị trí ở Càn Khôn và Khảm Ly, cho tới nay Tiên Thiên Bát Quái cực kỳ khó hiểu, thực sự tôi chưa thấy một cuốn sách nào chỉ rõ ý nghĩa về mặt bản chất của chúng. Bát quái được xây dựng dựa trên quy luật của Hậu Thiên và Hà đồ để giải thích Tiên Thiên hay ngược lại!. Tiên Thiên Bát quái Sở dĩ gọi Chương này là Tiên Thiên Bát quái, là vì các sách Dịch thường lấy Tiết 1 của Chương này để giải thích Tiên Thiên Bát quái của Phục Hi. Tiết 1. 天 地 定 位. 山 澤 通 氣. 雷 風 相 薄. 水 火 不 相 射. 八 卦 相 錯. Thiên địa định vị. Sơn trạch thông khí. Lôi phong tương bác. Thủy Hỏa bất tương sạ. Bát quái tương thác. Dịch. Tiết 1. Đất Trời ấm chốn, êm nơi, Khí đầm, khí núi đôi nơi giao hòa. Đôi bên sấm, gió giao thoa, Đôi bên nước, lửa chẳng là kình nhau. Cho nên, tám quẻ tương cầu, Khi trên khi dưới, trước sau thành toàn. Nhìn vào Bát quái của Phục Hi, ta thấy: -Kiền Khôn đối đỉnh (Thiên địa định vị) -Cấn Đoài đối đỉnh ( Sơn trạch thông khí) -Chấn Tốn đối đỉnh (Lôi Phong tương bác) -Khảm Ly đối đỉnh (Thủy Hỏa bất tương xạ) Tuy ở vào vị trí đối đỉnh nhau, nhưng thực ra không có kình chống nhau, mà ngược lại, lại hỗ trợ lẫn nhau. -Trời trên, đất dưới định tôn ti. Núi đầm thông khí. Nước trên núi tuôn xuống đầm hồ. Nước đầm hồ bốc lên núi thành mây, thành mưa. Gió, Sấm tăng cường hỗ trợ lẫn nhau. Nước, Lửa không chống đối nhau. Thế cho nên, tám quẻ giao thoa, tác dụng lẫn với nhau, mà sinh ra mọi hiện tượng. Tiết 2. 數 往 者 順. 知 來 者 逆.是 故 易 逆 數 也 Số vãng giả thuận. Tri lai giả nghịch. Thị cố Dịch nghịch số dã. Dịch. Tiết 2. Tìm ra quá vãng là thường, Tương lai tiên đoán rõ ràng, mới cao. Dịch kinh có số ngược chiều, Ngược chiều thời thế, khinh phiêu về nguồn. Tiết 2 của chương này, đại khái nói rằng: Biết dĩ vãng là thuận, biết tương lai là nghịch. Bát Quái là ký hiệu công thức mà cổ nhân nhận thức trực quan từ trạng thái Hậu Thiên rồi từ đó hình thành ngược thành Tiên Thiên, ở đây tính đối cực của kim chỉ nam hay bắc - nam biểu diễn cho trạng thái cực Âm và (nghi Âm) cực Dương (nghi Dương) sau Thái Cực. Magnetic Field lines> A schematic illustrating the relationship between motion of conducting fluid, organized into rolls by the Coriolis force, and the magnetic field the motion generates.[41] Chúng ta thấy, Tiên Thiên Bát Quái được miêu tả thông qua các hình tượng trên trái đất (bao gồm cả trên không trong bầu khí quyển như núi đầm, nước lửa...). Điều này dẫn đến một khả năng mang tính quy luật bao trùm vũ trụ đó là: - Tiên Thiên Bát Quái mô phỏng trạng thái vận động biểu kiến của Vũ trụ tương tác tới chủ thể là Trái đất (cái lý Dương tịnh Âm động, Dương trong Âm ngoài), Vũ trụ biểu tượng là Thiên đỉnh tức có trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo. Tiên Thiên Bát Quái bao gồm các quái Âm và quái Dương nằm cùng phía với nhau, không có hành Thổ, các hành Âm Dương đối xứng qua trục đứng Càn - Khôn. Hình minh họa các nhánh lớn của Ngân Hà Vị trí của hệ Mặt Trời (chữ màu đỏ) trong Ngân hà của chúng ta Ngân Hà - thiên hà xoắn ốc Trung tâm Ngân Hà Các mốc thời gian trong cuộc đời của Mặt Trời - Mặt trời chết không phát nhiệt (TRUNG TÂM LẠNH) Bản đồ vị trí của Trái Đất và hệ Mặt Trời trong Siêu đám Địa phương – nhấn vào hình để xem ảnh lớn Hệ Mặt Trời - Các sao và hệ hành tinh lân cận - Ngân Hà - Nhóm thiên hà địa phương - Siêu đám Xử Nữ - Hậu Thiên Bát Quái mô phỏng trạng thái tương tác từ các hệ thiên văn, hệ mặt trời và Trái đất tương tác tới vạn vật hữu tình và thực vật trên trái đất, chúng có một đặc trưng là "đầu đội trời chân đạp đất" khác với chủ thể là Trái đất so với Hệ mặt trời trong mối tương quan vận động, nam trên bắc dưới.
-
CON NGƯỜI Như đã phân tích, mỗi con người dù là nam hay nữ cũng là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành vận động theo công thức Hà đồ phối Lạc thư, chịu sự ảnh hưởng có quy luật tương tác từ Trái đất (Địa) và từ Hệ mặt trời (Thiên), cũng như từ các hệ thiên văn khác lớn hơn ngoài Hệ mặt trời. Từ các quy luật của Hệ mặt trời và Trái đất là cổ nhân đã tìm ra được bản mệnh (Vận khí) của mỗi con người được sinh ra từ người mẹ theo quy luật 60 năm thì trở lại giống nhau, được gọi là Lục thập hoa giáp (sau khi đổi chỗ Thủy - Hỏa), trong đó chu kỳ 30 năm đầu Dương - gọi là Kỷ Dương và 30 năm tiếp theo là Kỷ Âm. Trên cơ sở lục khí và ngũ vận theo Lục thập hoa giáp, so sánh với chu kỳ một kỷ 30 năm vận khí, được thể hiện trong sách Hoàng Đế nội kinh Tố vấn như sau (Trong bảng dưới đây, hành Thổ thể hiện màu vàng, Kim màu trắng, Thủy màu xanh lơ; Mộc màu xanh lá cây. Hỏa màu đỏ): Vậy dựa trên những nguyên tắc nào mà cổ nhân đã xây dựng được bảng này? Khi cấu trúc được xây dựng từ sự phối hợp Thiên Can và Địa Chi, cùng quy luật: bản thân sự vật là chủ thể nhận tương tác thứ cấp - (ngay khi sinh ra) đối với toàn thể một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành chi phối (Hệ mặt trời) và một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành sơ cấp (Trái đất), trong đó tổ hợp chi phối là nền tảng thống trị trong quy luật tương ứng: chủ thể thứ cấp -> tổ hợp chi phối: (Khắc - Sinh - Hòa - Bị Sinh - Bị Khắc). Quy tắc này được nhận thấy trong Đông Y, Phong thủy... Hệ mặt trời Những quy tắc áp dụng: "Dương trong Âm ngoài" và "Dương tịnh Âm động". Đối với Hệ mặt trời, các hành tinh quay xung quanh Mặt trời cho nên đối với hệ quy chiếu này thì Mặt trời trong trạng thái "tịnh" còn các hành tinh trong trạng thái "động". Do vậy Mặt trời là Dương Thổ, còn các hành tinh thuộc vành đai trong là Dương, các hành tinh vành đai ngoài là Âm. Chúng ta có: Tương sinh: Mặt trời (Dương Thổ) ->sao Kim (+ Kim) -> sao Thủy (+Thủy) -> Trái đất (+Mộc) -> sao Hỏa (+Hỏa). Vành đai Thiên thạch. Tương khắc: Sao Mộc (-Mộc) khắc Dương Thổ - Mặt trời -> sao Thổ (-Thổ) -> sao Thiên Vương (-Thủy) -> sao Hải Vương (-Hỏa) -> sao Diêm Vương (-Kim). Thoán truyện viết: "Thái, tiểu vãng, Đại lai, cát hanh. Như thế trời đất giao nhau mà vạn vật thông vậy. Trên dưới giao nhau mà chí hướng như nhau. Dương ở trong, mà Âm ở ngoài. Trong mạnh mà ngoài thuận. Quân tử ở trong,mà tiểu nhân ở ngoài. Đạo quân tử lớn lên, đạo tiểu nhân tiêu đi". Bội số chung chu kỳ vận động của các hành tinh quay xung quanh Mặt trời: 60 năm. Như vậy đây chính là một đặc trưng của tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành - Hệ mặt trời và cũng là chu kỳ 60 năm quay quanh trục của Hệ mặt trời. Trục Hệ mặt trời chính là trục quay của Mặt trời ở trung tâm. Chúng ta nhận thấy rằng, trong Hệ mặt trời thì sao Mộc (âm mộc) quay chung quanh Mặt trời (dương thổ) với chu kỳ 12 năm, còn Trái đất (dương mộc) với chu kỳ 1 năm. Hai hành tinh này cấu trúc nên một Hành đầy đủ (bội số chung chu kỳ vận động quanh Mặt trời là 12 năm) thuộc một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là Hệ mặt trời. Trong khi đó, sao Mộc và Trái đất cũng chính là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, điều này đồng nghĩa sau 12 năm thì sự tương hợp một Hành Mộc (Âm Dương) trong tương tác có quy luật theo Hậu Thiên Bát Quái từ Mặt trời tới chúng có mối liên hệ tương ứng nào đó, tất nhiên có cái lý tương sinh và tương khắc của Hà đồ và Lạc thư trong mỗi tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. Đồng thời, sao Thổ (âm thổ) cùng vận động với các hành tinh khác, trong khi đó Mặt trời (dương Thổ) ở trung tâm, điều này chỉ ra sự cân bằng trong quy luật vận động của một hệ Âm Dương Ngũ Hành, tức tồn tại vùng đệm hành Thổ giữa các hành tương sinh theo Hậu Thiên Bát Quái... và cổ nhân đã tìm ra nguyên lý này tức có sự chuyển tiếp giữa các Hành trong quy luật tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái, đấy chính là sự hình thành nên 4 cung thuộc hành thổ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi - đấy là Địa Chi. Cấu trúc này được định vị từ hướng bắc - nam la bàn hay hàm nghĩa rằng: chu kỳ trường khí vận động được tạo ra từ Trái đất (dương Mộc - nơi có vạn vật hữu tình). Tuy nhiên, chu kỳ 12 năm trong Lục thập hoa giáp đang xét là chu kỳ trường khí của sao Mộc (âm Mộc) - bởi nó mang các lý đồng hành với Trái đất. Ghi chú: quy tắc Sinh (Mạnh) - Vượng (Trọng) - Mộ (Quý) cho mỗi Hành trong 1 chu kỳ Âm Dương - Kỷ. Địa Chi và Thiên bàn Tử Vi: Thiên can là một chu kỳ tương sinh của Ngũ Hành, dấu ấn này rất khó nhận ra bởi vì nó "ẩn" trong quy luật Hà đồ phối Lạc thư - tức quy luật vận động của chính bản thân một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, ở đây chính là từ cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời với Mặt trời (dương Thổ) làm trung tâm, quy luật Thiên Can này do từ Mặt trời mà ra gây nên sao Mộc (âm Mộc) tương ứng Địa Chi. Điểm khởi thủy của Lục thập hoa giáp là Giáp Tý - Hành Dương Kim khắc Dương Mộc mang lý "Vận Khí khắc Thiên Can" làm mốc chuẩn, ở đây chúng ta chú ý Mặt trời trung tâm Hệ mặt trời mang hành Dương Thổ, như vậy Trái đất chứa Con người cũng là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành thì cũng phải "mang hành Dương Thổ" khi so sánh vạn vật sinh ra trên nó, vậy cái lý "Thổ sinh Kim" được "ưu tiên" nhất. Cổ nhân cũng tìm ra quy luật: khắc, sinh, hòa, bị sinh, bị khắc như đã nói. Hệ Mặt trời (tổ hợp chi phối mạnh nhất) -> Trái đất (tổ hợp chi phối thứ cấp) -> Cha mẹ (sinh con) đứng trên mặt đất, đầu đội trời (chủ thể vừa hình thành - Vận khí). Hệ quả, nếu trong chu kỳ Lục thập hoa giáp với cha mẹ không sinh con thì mỗi năm này gọi là hóa: - Sinh con cái gọi là hóa sinh. - Không sinh con cái gọi là hóa vật (hệ quả của sự tạo ra vật chất tức trạng thái vật chất tương ứng với Vận Khí trong Lục thập hoa giáp). - Trong hệ kinh mạch của một người gọi là hóa khí. Dưới đây là một chu kỳ Lục thập hoa giáp với một Kỷ (Âm và Dương) là 30 năm, được chia làm năm phần (Ngũ Vận) và một vận gồm 6 năm (Lục khí: Tam Âm, Tam Dương - ba năm Âm, ba năm Dương). Mô hình tương tác theo quy luật Ngũ Vận Lục Khí từ Hệ mặt trời (Thiên) và Trái đất (Địa) để tạo nên bảng Lục thập hoa giáp (60 năm) tức bản mệnh của một người (Nhân) sau khi phục hồi các sai số nguyên thủy. Trong bảng mô tả Lục thập hoa giáp trên thì chu kỳ được mô tả ở phần giữa, đóng khung màu vàng cam đã thể hiện như sau (Minh triết Việt trong văn minh Đông phương, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh): 1. "Giáp hợp Kỷ hoá Thổ". Từ Giáp Tý đến Kỷ Tỵ (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Cung Thổ vận" kết thúc ở "Thiếu Cung Thổ vận" (Hiển thị màu vàng, xem phần giữa trên bảng). 2. "Ất hợp Canh hoá Kim". Từ Canh Ngọ đến Ất Hợi (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Thương Kim vận" kết thúc ở "Thiếu Thương Kim vận" (Hiển thị màu trắng, xem phần giữa trên bảng). 2. "Bính hợp Tân hoá Thuỷ". Từ Bính Tý đến Tân Tỵ (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Vũ Thuỷ vận" kết thúc ở "Thiếu Vũ Thuỷ vận" (Hiển thị màu xanh bleur, xem phần giữa trên bảng).. 4. "Nhâm hợp Đinh hoá Mộc". Từ Nhâm Ngọ đến Đinh Hợi (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Giác Mộc vận" kết thúc ở "Thiếu Giác Mộc vận" (Hiển thị màu xanh lá cây, xem phần giữa trên bảng).. Qua đó, chúng ta thấy đóng vai trò chính trong Thiên Can và Địa Chi là tổ hợp sao Mộc (Âm Mộc) và Trái đất (Dương Mộc) - nơi có vạn vật hữu tình sinh sống. Sao Mộc còn gọi là Tuế Tinh, mang âm tính mộc có sức hút cực mạnh với Trái đất mang dương tính mộc. Mộc khắc Thổ tức "thuộc tính bản thân Trái đất" cho nên khi đào móng xây nhà tối kỵ Tuế Tinh trùng hướng nhà "Cấm động thổ trên đầu Thái Tuế", do khí đất do bị phá vỡ cấu trúc ban đầu của nền đất khi đào móng bị Tuế tinh "hút mất", và nền nhà trở thành "phi dẫn khí" hay chuyển đổi trạng thái. Bản thân các từ của Can và Chi đều chỉ ra quá trình sinh trưởng và phát triển của cây cối (sự nhận biết quy luật Âm Dương Ngũ Hành qua cây cối rõ ràng nhất), và cây xanh được lấy làm biểu tượng tiến hóa Cây Đời: (I). Giáp : nẩy mầm (II). Ất : nhú lên mặt đất (III). Bính : đón ánh mặt trời (IV).Đinh : trưởng thành khỏe mạnh (V). Mậu : rậm rạp (VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái (VII). Canh : thay đổi (VIII). Tân : hoa quả mới (IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau (X). Quý : mầm đang chuyển hóa (1). Tý : mầm hút nước (2). Sửu : nẩy mầm trong đất (3). Dần : đội đất lên (4). Mão : rậm tốt (5). Thìn : tăng trưởng (6). Tỵ : phát triển (7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn (8). Mùi : có quả chín (9). Thân : thân thể bắt đầu suy (10). Dậu : co lại (11).Tuất : khô úa héo tàn (12). Hợi : chết đi. Trong bảng quy luật Lục thập hoa giáp, không chỉ mỗi con người mang một Vận Khí mà cả động vật khi được sinh ra, hay là một hạt mầm của cái cây nứt vỏ là đã mang Vận Khí rồi. Vận Khí là đặc tính chủ yếu của một chủ thể nhưng tự thân chúng cũng là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, trong đó Vận Khí với cường độ quy ước là Sinh - Vượng - Mộ. Chúng ta thấy, ngay cả một bảng Lục thập hoa giáp đã là những tổ hợp tương tác giữa những hệ Âm Dương Ngũ Hành liên thông cực kỳ phức tạp, thậm chí ngay cả sự phối hợp của Hà đồ - Lạc thư mà không rõ thì hoàn toàn bế tắc khi muốn nghiên cứu tới tận nền tảng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Tuy nhiên, khi ứng dụng thì lại đơn giản hơn mà không cần hiểu sâu. Sự tương tác và vận động của Âm Dương Ngũ hành theo lý tương sinh của Hà đồ của một chủ thể đầy đủ, trong đó vai trò của hành Thổ làm trung tâm và điều hòa tương tác. Cấu trúc này đối với Trái đất làm ví dụ, thấy nó "tĩnh" giống như một kim chỉ nam, nhưng khi vận động xoay trôn ốc "động" sẽ nhận được tương tác theo quy luật Hậu Thiên Bát Quái. Đối với Trái đất có hai trạng thái quay, tự quay quanh trục chu kỳ 1 ngày và hướng về chòm sao Thiên cực bắc - trục quay ngoay một góc với chu kỳ Tuế sai 25.920 năm và Trái đất di chuyển trên Xích đạo quanh Mặt trời (mặt phẳng Hoàng đạo) với chu kỳ 1 năm (trong đó Mặt trăng là vệ tinh của Trái đất). .........……… ................Ngũ hành tương sinh ……………….........................................Ngũ hành tương khắc Mặc dù, theo sự phân chia thì trong Vũ trụ này chỉ có 5 dạng vật chất quy ước mang đặc tính Âm Dương Ngũ Hành nhưng chúng liên kết nhau thành các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, rồi các tổ hợp này lại liên kết ngau thành tổ hợp lớn hơn, mà trong đó tự thân chúng lại cũng là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. Sự vận động của tất cả chúng theo những quy luật nhất định và thống nhất trong toàn bộ Vũ trụ. Kinh Dịch có viết: " Nói xong ở cửa Cấn" tức Cung Cấn trên Hậu Thiên Bát Quái, cung Cấn là Âm Mộc tương ứng với sao Mộc - biểu tượng của Hùng Quốc Vương - sao Thái Tuế - Tuế Tinh. Nội dung nói về bản chất của Lục thập hoa giáp cần nghiên cứu sao Mộc (Âm Mộc), tất nhiên liên kết đến Trái đất (Dương Mộc). Không chỉ vậy, khi tính tương tác từ các bộ môn khác cũng cần xem xét đến Tuế tinh này do đồng "hành" với Trái đất. Với cấu trúc căn bản hệ thống Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời, một cách tương ưng thì sao Tử Vi trong bộ môn Tử Vi Đẩu Số của tất cả các cuốn sách đang sai ở điểm này: thuộc tính của sao Tử Vi là "Dương Thổ" chứ không phải "Âm Thổ" như hầu hết các sách đã viết!. Sao Tử Vi cũng là biểu tượng của Hùng Quốc Vương ở một tổ hợp khác lớn hơn, gọi là Bắc Cực Tử Vi Đại Đế. Định hướng Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ và Tiên Thiên Bát Quái - 7 luân xa - trục Thần đạo khi mà con người có cái đầu luôn phải xoay quanh thiên đỉnh trong một ngày!
-
ĐỊA CẦU - KIM CHỈ NAM (tiếp theo) Từ hiện tượng có tính quy luật của Trái đất quay xung quanh Mặt trời mà nhận biết về thực vật sinh trưởng trong chu kỳ một năm: xuân sinh, hạ trưởng, thu bế, đông tàng. Đồng thời, cũng từ hiện tượng Trái đất tự quay quanh trục của nó mà xảy ra hiện tượng ngày đêm tương ứng với chu kỳ sinh lý của một con người, trong đó có sự phối hợp với cả chu kỳ vận động của Mặt trăng quay xung quanh Trái đất ảnh hướng đến sinh nở của người phụ nữ, sự thăng giáng của thủy triều... mà cổ nhân đã nhận ra quy luật tương tác vòng tròn từ các hành tinh và chòm sao với chu kỳ lớn hơn nữa, chẳng hạn chu kỳ hệ mặt trời quay xung quanh tâm Hoàng đạo 25.920 năm... Quy luật tương tác này ảnh hưởng có chu kỳ tới vạn vận trên Trái đất chính là công thức Hậu Thiên Bát Quái. Từ quy luật này, mở rộng ra sẽ có vô số quy luật tương tự cho mỗi trạng thái vật chất vi mô và vĩ mô trong vũ trụ khi xác định được khách thể gây tương tác và chủ thể nhận tương tác thuộc những tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành đã xác định. Trong trường hợp xem xét, chủ thể tương tác chính là Trái đất và con người, động thực vật, ở các bài toán chúng ta chỉ xét ở đây là con người, gia đình và xã hội con người. Con người là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành hoàn hảo nhất trong vũ trụ (có tính tư duy trừu tượng và sáng tạo, sự tự nhận thức và về sự tiến hóa của chính mình và vũ trụ), cấu trúc này tự thân vận động theo công thức "Hà đồ phối Lạc thư" nhưng quy luật vận động tổng thể thì theo Hà đồ. Tất nhiên cấu trúc này vẫn áp dụng cho Trái đất hoặc bất kỳ hành tinh nào trong Hệ mặt trời, và ngay cả chính Mặt trời. Đồ hình Cửu cung Hà đồ: Đồ hình Cửu cung Lạc thư: Như vậy, tương tác có quy luật trong một này từ Mặt trời tới Trái đất, ảnh hưởng lên con người sẽ là công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ (bởi vì mục đích chính là tính toán các tương tác ảnh hưởng tới con người nên Hậu Thiên Bát Quái được gọi tên trước): Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ Dựa trên sự vận động xoay quanh trục của Trái đất trong một ngày và sự vận động nhận thấy được của Mặt trời tương ứng, cùng với ánh sáng chiếu đến Trái đất làm con người và vạn vật vận động hoặc nghỉ ngơi mà định hình nên cấu trúc vận động Hậu Thiên Bát Quái tương ứng với hướng chiếu sáng của Mặt trời với hướng Thìn trên Địa chi. Trục quay của Trái đất trùng hướng bắc - nam la bàn một cách lý tưởng được phối với Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ Gió mặt trời đi vào cực bắc nam địa lý có hình phễu: Tuy nhiên, việc định vị hướng bắc - nam bằng kim chỉ nam la bàn khác với hướng trục quay trái đất (bắc - nam địa lý) cùng với hướng trục vuông góc phẳng Hoàng đạo đi qua tâm Trái đất là khác nhau tại mỗi vùng do đặc trưng từ tính tại mỗi vùng đó là khác nhau. Trong đó, hướng bắc nam từ tính trùng với hướng bắc nam địa lý khi ở vị trí biểu kiến trên đường Xích đạo của Trái đất một cách lý tưởng. Từ trường của một thanh nam châm hình trụ. Mô hình cực từ: hai cực trái dấu, Bắc (+) và Nam (−), cách nhau một khoảng d sinh ra trường H (các đường sức). Quy tắc bàn tay phải: một dòng đi theo hướng của mũi tên trắng sinh ra từ trường thể hiện bằng mũi tên đỏ. Cổ nhận cũng đã nhận thức được sự phân cực Âm Dương của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, như là Trái đất mà chúng ta đang quán xét, nếu từ Thái Cực cho tới khi hình thành nên Trái đất thì quy ước "Dương tịnh Âm động" vẫn đúng, do vậy khi định vị bằng la bàn sẽ bắt buộc phối hợp với Hậu Thiên Bát Quái. Mặt khác, do Trái đất vận động tự quay quanh mình và nghiêng một góc 23 độ 5 so với mặt phẳng Hoàng đạo của Mặt trời, điều này chứng tỏ từ tính Trái đất chính là do sự tự quay này tạo ra vì vậy, các lý của Âm Dương sẽ theo kim chỉ nam tức sự định hướng của chính bản thân sự vật, hiện tượng được xem là chủ thể nhận tương tác như là Trái đất. Điều này được minh họa trên La kinh phong thủy. Tất cả các hành tinh và Mặt trời đều có trục quay nghiêng một góc nào đó so với mặt phẳng trên đường vận động của nó với trung tâm hệ thiên văn mà nó quay xung quanh?. Trong thiên văn học và cơ học thiên thể, độ nghiêng trục quay của các hành tinh, vệ tinh tự nhiên hay thiên thể nói chung là góc giữa phương tự quay của thiên thể với phương trực tuyến Bắc của mặt phẳng quỹ đạo hay một mặt phẳng tham chiếu nào đó. Phương tự quay của thiên thể nằm song song với trục tự quay của thiên thể và có thể quy ước phụ thuộc vào chiều quay của thiên thể theo quy tắc bàn tay phải. Bảng sau cho biết độ nghiêng trục quay của một số thiên thể trong hệ Mặt Trời. Độ nghiêng và chu kỳ quay của một số thiên thể trong Hệ Mặt Trời NASA, J2000.0[1] IAU, 0 tháng 1 2010, 0h TT[2] Độ nghiêng Cực bắc Chu kỳ quay Độ nghiêng Cực bắc Chu kỳ quay (°) R.A. (°) Dec. (°) (giờ) (°) R.A. (°) Dec. (°) (° / ngày) Mặt Trời 7,25 286,13 63,87 609,12B 7,25A 286,15 63,89 14,18 Sao Thủy ~0 281,01 61,45 1407,6 0,01 281,01 61,45 6,14 Sao KimE 177,36 (92,76) (-67,16) (5832,5) 2,64 272,76 67,16 -1,48 Trái Đất 23,4 0,00 90,00 23,93 23,4 undef. 90,00 359,02 Mặt Trăng 6,68 655,73 1,54C Sao Hỏa 25,19 317,68 52,89 24,62 25,19 317,67 52,88 350,89 Sao Mộc 3,13 268,05 64,49 9,93D 3,12 268,06 64,50 870,54D Sao Thổ 26,73 40,60 83,54 10,66D 26,73 40,59 83,54 810,79D Sao Thiên VươngE 97,77 (77,43) (15,10) (17,24)D 82,23 257,31 -15,18 -501,16D Sao Hải Vương 28,32 299,36 43,46 16,11D 28,33 299,40 42,95 536.31D Sao Diêm VươngE 122,53 (133,02) (-9,09) (153,29) 60,41 312,99 6,16 -56,36 A so với mặt phẳng Hoàng đạo năm 1850 B tại vĩ độ 16°; tốc độ tự quay của Mặt Trời thay đổi theo vĩ độ C so với mặt phẳng Hoàng đạo; quỹ đạo Mặt Trăng nghiêng 5°,16 so với Hoàng Đạo D đo theo bức xạ vô tuyến; do các đám mây trên khí quyển quay theo vận tốc khác nhau E Độ nghiêng theo NASA tính không khớp với cực bắc và chu kỳ tự quay; các giá trị trong (ngoặc đơn) được viết lại Cũng cần phải xác định, cái lý của hướng bắc nam la bàn chính là cái lý của Hà đồ - Lạc thư của bản thân sự vật, hiện tượng được định trong mối tương quan toàn thể vũ trụ tạo nên, nhưng những quy luật tương tác mạnh, chu kỳ nhỏ gần nhất là được xem xét, chẳng hạn: tương tác ngoài hệ mặt trời mạnh hơn hệ mặt trời, hệ mặt trời mạnh hơn trái đất... với điều kiện chu kỳ đủ nhỏ để tác động trong một vòng đời con người. La kinh phong thủy sau khi đổi chỗ Tốn Khôn và các vấn đề liên quan khác Ngoài ra, khi xét toàn bộ sự vận động của toàn Vũ trụ thì sẽ không còn cái lý của tương tác Hậu Thiên Bát Quái được nữa, mà chỉ là vận động của chính nó, một mình nó mà thôi, phi Thiên Địa Nhân hay chỉ là sự vận động của khí Âm Dương. "Vòng tròn Âm Dương" mô phỏng trên tranh dân gian Đông Hồ - "Đàn Lợn", nó thường được khắc trên chiếc lư hương thờ cúng cùng với hình ảnh hai con rồng chầu vào, gọi là: "Lưỡng Long Triều Nguyệt": Tổng hợp lại, chúng ta thấy mép ranh giới hạn cuối của trục Sửu - Mùi (cung mộ trên Địa chi), với điều kiện lý tưởng khi hướng bắc nam la bàn trùng hướng bắc nam địa lý thì mép ranh này gần trùng trùng thẳng đứng đi qua tâm Trái đất và vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo. Theo cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái cổ thì hướng nam lên trên, hướng bắc xuống dưới là có ý gì? mặc dù đảo ngược lại vẫn ứng dụng bình thường do nguyên lý vận động tròn của Hậu Thiên Bát Quái và định vị bằng kim chỉ nam! Tất nhiên phải đối chiếu với hướng Mặt trời mọc trong chu kỳ một ngày đêm!. Vấn đề này được xem xét phối hợp với địa hình Trái đất (âm khí và dương khí tương tác tới con người - Âm Trạch) của hai bán cầu bắc và nam... và đối chiếu ngay cả "cấu trúc trường khí vận động" trong chính mỗi con người khi mỗi 1 một ngày đêm phải xoay quanh thiên đỉnh (Vũ trụ - Vũ trụ là một trường khí vận động Âm Dương) theo cùng sự tự quay của trái đất. Tên Huyệt: Thiên = vùng bên trên; Đỉnh = cái vạc có 3 chân. Huyệt này hợp với huyệt Khuyết Bồn (Vi.12) và Khí Xá (Vi.11), tạo thành 3 góc, giống cái vạc 3 chân, vì vậy gọi là Thiên Đỉnh (Trung Y Cương Mục).
-
Chúng ta đi từ thiên văn trước, hệ mặt trời được định vị theo một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành (theo Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ) với sự nhận định không có hành tinh thứ 10 theo Lưu Tử Hoa đã chứng minh trên cơ sở Bát Quái vào những năm 30 của thế kỷ trước. Ngoài ra, sự phân loại tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành cũng được quy ước như dưới đây: - Vụ trụ vô cùng vô tận: Cõi Tam Thanh. - Ngoài Hệ mặt trời - Thái Ất - Cõi Thượng Thiên, - Hệ mặt trời - Độn giáp (cũng xem xét lại Huyền không phi tinh) - Cõi Thiên (Trời). - Trái đất - Bát trạch - Cõi Đất (Địa). - Con người (cùng động thực vật) - Nhân sinh, tồn tại cùng với Linh hồn. Vạn vật sống trên Trái đất và cùng với Trái đất gọi chung là Cõi Nhân Sinh, Cõi Thế Gian. - Linh hồn con người và động vật - Cõi vô hình, Cõi Âm, Cõi Chết, Cõi Nước với biểu tượng là biển cả, sông ngòi trên trái đất nhưng trong một nghĩa khác nữa, đó là "Vũ Trụ nguyên thủy" - Cõi này có chịu quy luật tương tác theo công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ hay không?. HỆ MẶT TRỜI: Sao Kim gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Thủy (Theo Ban Cố, Tiền Hán thư). Thuận tự của Thái Dương hệ dưới đây – với tên hai sao này gọi theo sách cổ - thì thuận tự này sẽ là: Vành đai hành tinh bên trong theo lý tương sinh (Âm trong, Ngoài dương): Mặt trời (âm thổ) -> sao Kim (âm kim) -> sao Thủy (âm thủy) -> Địa cầu (âm mộc) -> sao Hỏa (âm hỏa) Vành đai thiên thạch ngăn cách Âm - Dương Ngũ Hành và trục phân cách biểu kiến Âm Dương - thuộc hành nào? sẽ được phân tích sau. Vành đai hành tinh ngoài theo lý tương khắc, bắt đầu từ sao Mộc (dương mộc) khắc Mặt trời (âm thổ): Mặt trời (âm thổ) <- sao Mộc (dương mộc) -> sao Thổ (dương thổ) -> sao Thủy (Thiên Vương Tinh- dương thủy) -> sao Hỏa (Hải Vương Tinh - dương hỏa) -> sao Kim (Diêm Vương Tinh - dương kim). Hình ảnh vành đai tiểu hành tinh chính và các tiểu hành tinh trojan. Mặt Trời, các hành tinh và hành tinh lùn Hình mô tả vùng trong Hệ Mặt Trời có điều kiện thuận lợi cho phát sinh sự sống tương ứng với tuổi đời của Mặt Trời (một giả thuyết khoa học) Từ đây có thể rút ra kết luận: - Hệ mặt trời là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, cấu trúc vận động tương sinh theo Hà đồ đồng thời tương khắc theo Lạc thư. Hành thổ làm trung tâm như đã thấy ở trung cung của Hà đồ và Lạc thư. - Hà đồ và Lạc thư là một công thức liên hợp vận động của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành -> chúng ta sẽ vẽ được đồ hình này. Đồ hình cửu cung Hà đồ: Đồ hình Cửu cung Lạc thư: Trong các cổ vật văn hóa, chúng ta thường thấy con số đặc biệt - 18, đấy chính là tổ hợp Cửu cung của Hà đồ và Lạc thư. Đồng thời, "Long sinh cửu tử" chính là nói về Hà đồ, Long, hổ là Dương, Âm biểu tượng cho Hà đồ và Lạc thư, trong đó Hà đồ là nguyên lý vận động cơ bản. Hậu Thiên Bát Quái đồ của giáo sư đã đổi chỗ Tốn - Khôn và Bát Trạch theo các thành viên của một gia đình (1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành - mang ý nghĩa quy luật xã hội, như cha Dương và mẹ Âm sinh ra con cái) - Nguyên lý "Âm trong, Dương ngoài" của một tổ hợp Âm Dương ngũ hành thiên văn. - Trái đất thuộc âm mộc. - Lý vận động của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành theo lý tương sinh của Hà đồ cho nên hành âm thổ trung tâm sinh âm kim và sẽ bị dương mộc khắc tương ứng, ngay lập tức theo lý Lạc thư. - Các hành tinh và mặt trời cùng xoay quanh trục của nó và các hành tinh quay chung quanh mặt trời cùng một hướng từ trái sang phải. Hệ mặt trời (cũng thường gọi là điểm xuân phân) cũng vận động trên đường Hoàng đạo quay quanh trung tâm Thiên cực bắc giống như thế, chu kỳ tương ứng với chu kỳ tuế sai của trục xoay Trái đất là 25.920 năm (theo cách tính của bộ môn Thái Ất), còn theo thiên văn học hiện đại là 26.000 năm, chênh lệch 80 năm. Đường Hoàng đạo cũng chia thành 12 cung (như thiên bàn Tử Vi), mỗi cung chiếm 2.160 năm, gọi là năm Vũ trụ. - Điểm mốc của chu kỳ 12 cung Vũ trụ đang được quán xét, theo lịch Maya thì chính năm 2012 này là năm kết thúc của một chu kỳ Vũ trụ, tức điểm xuân vượt vượt khỏi cung Song Ngư và đi vào cung Bảo Bình. Wiki: Trục quay của Trái Đất đã được quan sát là thay đổi độ nghiêng một cách gần tuần hoàn với chu kỳ 41.000 năm trong khoảng thời gian gần đây, với độ nghiêng dao động từ 21,5 đến 24,5° (hiện tại đang giảm với các giá trị 24,049° năm 3300 TCN, 23,443° năm 1973 và 23,439° năm 2000). Hơn nữa, hướng nghiêng của trục Trái Đất xoay vòng với chu kỳ 25.800 năm (hiện tượng Tiến động hay Tuế sai của điểm phân). Độ nghiêng này cũng dao động với các chu kỳ nhỏ hơn như 18,6 năm (hiện tượng Chương động). Theo tôi tính, về mặt cá nhân, độ Chương động của thiên văn hiện đại đã sai lệch 0.6 năm, Trục Trái Đất dao động (hiện tượng Tiến động) vẽ nên dạng hình nón. Nguồn hình ảnh: Wikipedia Tự quay (lục), Tuế sai (lam), Chương động (đỏ) Trong thiên văn cổ Đông phương, người ta chỉ quan sát 5 hình tinh trong hệ mặt trời, cùng với mặt trời, mặt trăng hình thành nên Thất Tinh, và được bài trí trên lá cờ Thất Tinh màu vàng vảy rồng màu đỏ (riêng cờ Bắc Cực cũng có màu này) theo hàng đứng với mặt trời ở vị trí cao nhất, rồi tiếp đến mặt trăng như dưới đây theo lý tương sinh của Hà đồ: - Mặt trời - biểu tượng tương ứng với luân xa 7 của con người. - Mặt trăng - luân xa 6 - Chủ nhật - Sao Mộc - luân xa 5 - Thứ Hai - Sao Hỏa - luân xa 4 - Thứ Ba - Sao Thổ - luân xa 3... - Sao Kim - luân xa 2... - Sao thủy - luân xa 1 - Thứ Bảy Chu kỳ vận động của các hành tinh: - Chu kỳ sao Mộc (dương mộc): 12 năm (ứng 12 thiên bàn Tử Vi). - Chu kỳ Địa cầu (âm mộc): 1 năm. - Bội số chung của các chu kỳ quay quanh mặt trời của các hành tinh: 60 năm. Thiên bàn Tử Vi: ĐỊA CẦU: Trái đất thuộc âm mộc trong Hệ mặt trời, tự quay quanh trục một ngày đêm (chia thành 12 giờ cổ), nó quanh quanh Hệ mặt trời trên đường Xích đạo trong một năm (365 ngày), mặt phẳng đi qua Xích đạo gọi là Hoàng đạo - bởi một lý do người xưa xây dựng Thiên cầu gồm các chòm sao trên đường Hoàng đạo song song mặt phẳng qua Xích đạo này, tính lịch Âm Dương năm nhuận cũng cần được tính thêm sai số xê dịch của chu kỳ Tuế sai 25.920 năm/ 360 độ. Bắc và nam bán cầu: Xích đạo thường được coi là nơi nóng nhất vì vùng này quanh năm có mặt trời trên đỉnh đầu. Nhưng hãy xem lại tài liệu thống kê tình hình thời tiết trên thế giới: Tại Xích đạo, nhiệt độ cao nhất rất ít khi vượt quá 35 độ C. Vậy mà tại sa mạc Sahara ở châu Phi, nhiệt độ ban ngày lên tới 55 độ C, trong khi Sahara cách xa xích đạo hàng ngàn dặm.Tại các vùng sa mạc Ảrập, nhiệt độ ban ngày cao nhất cũng lên tới 45-50 độ C. Tại vùng sa mạc Trung Á, nhiệt độ cao nhất ban ngày cũng lên đến 48 độ C. Sa mạc Gobi (Mông Cổ) khoảng 45 độ C. Vùng Xích đạo được hấp thu nhiều nhiệt lượng mặt trời nhất, vậy tại sao lại không phải là nơi nóng nhất? Nhìn vào bản đồ thế giới ta thấy, những vùng thuộc xích đạo phần lớn đều có biển cả như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Mùa hè, trái đất ở xa mặt trời, còn mùa đông trái đất lại ở gần mặt trời, ngày xưa cổ nhân có lẽ kh6ong thể tính được khoảng cách các hành tinh như bây giờ. Sáng sớm thấy mặt trời gần nhất nhưng thời tiết mát dịu, ban trưa mặt trời xa nhất lại rất nóng!. Mặt trăng là vệ tinh của Trái đất, di chuyển trên đường Bạch đạo với chu kỳ trăng 27 ngày, ảnh hưởng đến chu kỳ sinh lý của con người và động vật, thực vật. Chu kỳ này cũng là một trong những nền tảng quan trọng nhất của Đông y. Lịch Âm lấy chu kỳ này và chu kỳ Trái đất quay quanh Mặt trời làm cơ bản. Mặt phẳng của Bạch đạo lệch với mặt phẳng của đường Xích đạo khoảng 5 độ. Địa hình trái đất: Địa hình Mặt Trăng, theo thể địa cầu Mặt Trăng Tổng cường độ từ trường tại bề mặt Mặt Trăng, kết quả từ cuộc thí nghiệm đo phản xạ electron của Lunar Prospector Các giao điểm Mặt Trăng là các điểm trong đó đường di chuyển của mặt trăng (Bạch đạo) trên bầu trời cắt Hoàng đạo, đường chuyển động của mặt trời trên bầu trời. Dưới đây là mô hình biểu kiến tương tác từ Mặt trời tới Trái đất kết hợp với việc định vị phương bắc - nam bằng la bàn gắn kim chỉ Nam và Tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (tham khảo đồ hình trong cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh): Từ đồ hình trên, chúng ta có những nhận xét như sau: - Mặt phẳng Hoàng đạo tức đường Xích đạo mà Trái đất quay xung quanh Mặt trời, ở đây chính là trục Thìn - Tuất theo đồ hình. - Trục Sửu - Mùi vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo ứng với trục quay của Trái đất xung quanh Mặt trời trong vòng 365 ngày. - Hướng bắc (N) và nam (S) được định vị theo kim chỉ Nam, giữa hướng bắc từ theo kim chỉ Nam và hướng bắc địa lý Trái đất (giao điểm trục quay của trái đất và mặt địa cầu ở phương bắc), có một độ lệch nhất định tùy theo vị trí trên trái đất, gọi là độ Từ thiên. - Trục quay Trái đất lệch với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo một góc 23 độ 5. Độ từ thiên là góc tạo thành (δ) giữa hướng bắc thực (bắc địa lý) và hướng bắc từ (là hướng chỉ phương bắc của kim la bàn) hay góc tạo thành giữa kinh tuyến địa lí (phương bắc nam) và kinh tuyến từ tại điểm đã cho trên mặt đất. Giá trị này sẽ dương khi bắc từ nằm về phía đông của bắc thực và ngược lại. Ví dụ, ở Việt Nam, độ từ thiên biến đổi từ –1⁰ ở Cao Bằng đến 0⁰ ở Đà Nẵng và đạt +1⁰ tại Cà Mau. Ví dụ về độ từ thiên có giá trị dương khi kim nam châm lệch về phía đông so với bắc địa lý. Tham khảo trên mạng: Các độ số lấy theo Ngày 2 Tháng 11, 2012 DL Thành Phố, ..... Vĩ độ .........., Kinh độ ..........., độ Từ Thiên, thay đỗi mỗi năm Bạc Liêu, ...... Vĩ 09° 17' 00" N, Kinh 105° 44' 00" E, -0° 14' 04", -1.8' Biên Hòa, ...... Vĩ 10° 57' 00" N, Kinh 106° 49' 00" E, -0° 23' 10", -2.0' Buôn Mê Thuột, . Vĩ 12° 40' 00" N, Kinh 108° 03' 00" E, -0° 35' 29", -2.2' Cần Thơ, ....... Vĩ 10° 01' 55" N, Kinh 105° 47' 02" E, -0° 18' 09", -1.9' Cao Bằng, ...... Vĩ 22° 39' 50" N, Kinh 106° 16' 05" E, -1° 34' 46", -2.4' Cao Lãnh,....... Vĩ 10° 28' 01" N, Kinh 105° 38' 10" E, -0° 20' 42", -1.9' Đà Lạt, ........ Vĩ 11° 56' 42" N, Kinh 108° 26' 31" E, -0° 31' 03", -2.2' Đà Nẳng, ....... Vĩ 16° 03' 07" N, Kinh 108° 12' 54" E, -0° 59' 49", -2.3' Đông Hà, ....... Vĩ 16° 51' 00" N, Kinh 107° 08' 00" E, -1° 01' 43", -2.3' Đồng Hới, ...... Vĩ 16° 51' 00" N, Kinh 107° 08' 00" E, -1° 01' 43", -2.3' Hà Giang, ...... Vĩ 22° 50' 00" N, Kinh 104° 56' 00" E, -1° 27' 17", -2.3' Hà Tỉnh, ....... Vĩ 18° 21' 00" N, Kinh 105° 55' 00" E, -1° 06' 55", -2.2' Hãi Dương, ..... Vĩ 20° 56' 31" N, Kinh 106° 19' 52" E, -1° 24' 32", -2.3' Hãi Phòng, ..... Vĩ 20° 51' 41" N, Kinh 106° 40' 47" E, -1° 25' 56", -2.3' Hà Nội, ........ Vĩ 21° 01' 48" N, Kinh 105° 49' 12" E, -1° 22' 19", -2.3' HCM City, ...... Vĩ 10° 45' 33" N, Kinh 106° 39' 45" E, -0° 21' 59", -2.0' Hòa Bình, ...... Vĩ 20° 49' 48" N, Kinh 105° 19' 59" E, -1° 18' 41", -2.2' Hòn Gai, ....... Vĩ 20° 56' 53" N, Kinh 107° 04' 52" E, -1° 28' 45", -2.4' Huế, ........... Vĩ 16° 27' 47" N, Kinh 107° 35' 06" E, -1° 00' 36", -2.3' Kon Tum, ....... Vĩ 14° 21' 00" N, Kinh 108° 00' 54" E, -0° 47' 09", -2.2' Lạng Sơn, ...... Vĩ 21° 50' 46" N, Kinh 106° 45' 25" E, -1° 32' 43", -2.4' Lào Cai, ....... Vĩ 22° 30' 00" N, Kinh 103° 57' 00" E, -1° 19' 55", -2.2' Long Xuyên, .... Vĩ 10° 22' 55" N, Kinh 105° 26' 17" E, -0° 20' 24", -1.9' Luân Châu, ..... Vĩ 21° 44' 24" N, Kinh 103° 20' 35" E, -1° 13' 27", -2.1' Mỹ Tho, ........ Vĩ 10° 21' 14" N, Kinh 106° 22' 01" E, -0° 19' 37", -1.9' Nha Trang, ..... Vĩ 12° 14' 35" N, Kinh 109° 12' 11" E, -0° 34' 30", -2.2' Ninh Bình, ..... Vĩ 20° 15' 11" N, Kinh 105° 58' 30" E, -1° 18' 31", -2.3' Phan Thiết, .... Vĩ 10° 55' 16" N, Kinh 108° 06' 14" E, -0° 23' 36", -2.1' Phủ Lạng Thương, Vĩ 21° 16' 16" N, Kinh 106° 11' 31" E, -1° 25' 47", -2.3' Play Cu, ....... Vĩ 13° 57' 00" N, Kinh 108° 01' 00" E, -0° 44' 21", -2.2' Quảng Ngãi, .... Vĩ 15° 07' 26" N, Kinh 108° 48' 43" E, -0° 54' 57", -2.3' Qui Nhơn, ...... Vĩ 13° 46' 00" N, Kinh 109° 14' 00" E, -0° 45' 59", -2.3' Rạch Giá, ...... Vĩ 10° 00' 25" N, Kinh 105° 05' 06" E, -0° 18' 48", -1.8' Sóc Trăng, ..... Vĩ 09° 36' 00" N, Kinh 105° 58' 00" E, -0° 15' 34", -1.9' Sơn La, ........ Vĩ 21° 19' 41" N, Kinh 103° 54' 36" E, -1° 14' 19", -2.1' Tân An, ........ Vĩ 10° 31' 52" N, Kinh 106° 24' 47" E, -0° 20' 39", -2.0' Tây Ninh, ...... Vĩ 11° 19' 23" N, Kinh 106° 08' 49" E, -0° 25' 23", -2.0' Thái Bình, ..... Vĩ 20° 27' 01" N, Kinh 106° 19' 59" E, -1° 21' 30", -2.3' Thái Nguyên, ... Vĩ 21° 33' 04" N, Kinh 105° 51' 47" E, -1° 25' 37", -2.3' Thanh Hóa, ..... Vĩ 19° 48' 32" N, Kinh 105° 46' 37" E, -1° 14' 58", -2.2' Thủ Dầu Một, ... Vĩ 10° 58' 09" N, Kinh 106° 39' 10" E, -0° 23' 16", -2.0' Trà Vinh, ...... Vĩ 09° 56' 02" N, Kinh 106° 20' 02" E, -0° 17' 11", -1.9' Trúc Giang, .... Vĩ 10° 14' 06" N, Kinh 106° 22' 30" E, -0° 18' 55", -1.9' Tuy Hòa, ....... Vĩ 13° 04' 55" N, Kinh 109° 18' 58" E, -0° 41' 01", -2.3' Tuyên Quang, ... Vĩ 21° 49' 05" N, Kinh 105° 12' 40" E, -1° 23' 29", -2.3' Việt Trì, ...... Vĩ 21° 18' 18" N, Kinh 105° 25' 41" E, -1° 21' 49", -2.3' Vinh, .......... Vĩ 18° 40' 08" N, Kinh 105° 40' 19" E, -1° 07' 53", -2.2' Vĩnh Long, ..... Vĩ 10° 15' 22" N, Kinh 105° 57' 50" E, -0° 19' 17", -1.9' Yên Bái, ....... Vĩ 21° 42' 18" N, Kinh 104° 52' 30" E, -1° 21' 02", -2.2' Như vậy, hướng kim chỉ nam có độ lệch so với trục quay của Trái đất tương ứng từng vùng. Hướng bắc của trục tự quay của Trái Đất nghiêng so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo một góc xấp xỉ 23,5° Qua đó, chúng ta thấy khi phối hợp Mặt trời - Trái đất thông qua mặt phẳng Hoàng đạo và trục quay trái đất (hướng bắc địa lý), hướng bắc - nam la bàn (trục Tý Ngọ) mới chính xác. Một cách lý tưởng, hướng la bàn sẽ trùng vào hướng hướng bắc nam địa lý của trái đất khi đặt la bàn tại đường Xích đạo trái đất. Hình La kinh dưới đây là một ví dụ định vị trục bắc nam từ trường trùng với hướng bắc nam địa lý của trái đất một cách lý tưởng khi la bàn đặt tại Xích đạo, lúc này: - Hướng bắc - nam từ trường Tý - Ngọ trùng hướng trục quay của trái đất. - Ranh giới sơn Quý của cung Khảm trùng vào trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo. La kinh (la bàn) ứng với Bát Quái Hậu Thiên:và Hà đồ: Qua đó, chúng ta thấy la bàn định vị các hướng bắc - nam tại mỗi vị trí trên trái đất là khác nhau hay hàm ý "một khoảng đất giới hạn nào đó" sẽ ứng với một hướng la bàn giống nhau với các sai số cực nhỏ được xem là gần đúng - chẳng hạn trong vòng 360 độ/72 hướng la bàn = 5 độ chia 2 lấy lẻ = 0độ5, tức thuộc một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành của địa thế. Đấy chính là môn Bát Trạch trong phong thủy với diện tích của một căn nhà hay biệt thự là đủ nhỏ (căn nhà giới hạn ngăn cách sẽ tạo nên một tổ hợp như trên). Trục quay của Trái đất trùng hướng bắc - nam la bàn được phối với Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ Từ đồ hình lý tưởng trên, hình vành khăn và chia làm 8 cung Hậu Thiên Bát Quái, cùng với 4 cung hành thổ Thìn, Tuất, Sửu Mùi, đây là nguyên lý "sinh - vượng - mộ" của một hành trong sự tương tác từ Mặt trời hay từ các hệ thiên văn khác tới Trát đất theo quy luật của Hậu Thiên Bát Quái. Từ đó chúng ta có câu hỏi: Nguyên lý "sinh - vượng - mộ" của một hành là từ đâu? Chúng ta nhận thấy rằng, trong Hệ mặt trời thì sao Mộc (dương mộc) quay chung quanh Mặt trời (âm thổ) với chu kỳ 12 năm, còn Trái đất (âm mộc) với chu kỳ 1 năm. Hai hành tinh này cấu trúc nên một Hành đầy đủ thuộc một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là Hệ mặt trời. Trong khi đó, sao Mộc và Trái đất cũng chính là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, điều này đồng nghĩa sau 12 năm thì sự tương hợp một Hành Mộc (Âm Dương) trong tương tác có quy luật theo Hậu Thiên Bát Quái từ Mặt trời tới chúng có mối liên hệ tương ứng nào đó, tất nhiên có cái lý tương sinh và tương khắc của Hà đồ và Lạc thư trong mỗi tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. Và cổ nhân đã tìm ra nguyên lý này tức có sự chuyển tiếp giữa các Hành trong quy luật tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái, đấy chính là sự hình thành nên 4 cung thuộc hành thổ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Mặt khác, chúng ta lại có thêm câu hỏi: vậy tương tác từ Hệ mặt trời là theo quy luật Hậu Thiên Bát Quái nhưng ngoài Hệ mặt trời phải bổ sung thêm Tứ hành thổ? Vậy chúng có liên quan như thế nào đến Thiên Can và Địa chi khi xác định bản mệnh của một con người vừa sinh ra, trong đó có cái lý của "Ngũ Vận Lục Khí"? Chứ chưa nói đến sự "hóa khí" trong các bộ môn Tử Bình, Tử Vi, Đông Y... Đồ hình Ngũ Vận Lục Khí dưới đây với mốc khởi đầu: Vận khí khắc Thiên can, trong đó bản mệnh bắt đầu trong Lục thập hoa giáp là Giáp Tý cần được minh định chi tiết. Một chu kỳ Lục thập hoa giáp với một Kỷ (Âm và Dương) là 30 năm, được chia làm năm phần (Ngũ Vận) và một vận gồm 6 năm (Lục khí: Tam Âm, Tam Dương - ba năm Âm, ba năm Dương). Mô hình tương tác theo quy luật Ngũ Vận Lục Khí từ Hệ mặt trời (Thiên) và Trái đất (Địa) để tạo nên bảng Lục thập hoa giáp (60 năm) tức bản mệnh của một người (Nhân) sau khi phục hồi các sai số nguyên thủy. Trong bảng mô tả trên thì chu kỳ được mô tả ở phần giữa, đóng khung màu vàng cam đã thể hiện như sau: 1. "Giáp hợp Kỷ hoá Thổ". Từ Giáp Tý đến Kỷ Tỵ (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Cung Thổ vận" kết thúc ở "Thiếu Cung Thổ vận" (Hiển thị màu vàng, xem phần giữa trên bảng). 2. "Ất hợp Canh hoá Kim". Từ Canh Ngọ đến Ất Hợi (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ "Thái Thương Kim vận" kết thúc ở "Thiếu Thương Kim vận" (Hiển thị màu trắng, xem phần giữa trên bảng). 2. "Bính hợp Tân hoá Thuỷ". Từ Bính Tý đến Tân Tỵ (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ Thái Vũ Thuỷ vận kết thúc ở Thiếu Vũ Thuỷ vận (Hiển thị màu xanh bleur, xem phần giữa trên bảng).. 4. "Nhâm hợp Đinh hoá Mộc". Từ Nhâm Ngọ đến Đinh Hợi (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ Thái Giác Mộc vận kết thúc ở Thiếu Giác Mộc vận (Hiển thị màu xanh lá cây, xem phần giữa trên bảng).. 5. Mậu hợp Quý hoá Hoả. Từ Mậu Tý đến Quý Tỵ (Một vận/6 năm). Bắt đầu từ Thái Chuỷ Hoả vận kết thúc ở Thiếu Chuỷ Hoả vận (Hiển thị màu đỏ, xem phần giữa trên bảng). Qua bảng trên, bạn đọc cũng nhận thấy rất rõ rằng: Chu kỳ Ngũ vận hoàn toàn theo nguyên lý tương sinh của Hà đồ.Bắt đầu từ "Giáp hợp Kỷ hỏa Thổ" sinh Kim; sinh Thủy, sinh Mộc và sinh Hỏa. Tham khảo, đồ hình "Bát cung hóa khí" chuẩn với 24 sơn trên La kinh của bộ môn Bát Trạch trong phong thủy ứng dụng (trích từ Minh triết Việt trong văn minh Đông phương, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh): Tuy nhiên, nảy sinh một cầu hỏi là tại sao cổ nhân chỉ định vị trong Hệ mặt trời làm chuẩn mà không lấy chi tiết hơn từ các hệ thiên văn lớn hơn khác, chẳng hạn từ Ngân hà!. Đồ hình “Bát cung hóa khí” sau khi đổi chỗ Tốn - Khôn (Bát Trạch - trong đó những cung thuộc Tây trạch thể hiện màu vàng, Đông trạch thể hiện màu đỏ). Đây là một lá số Tử Vi mẫu, thể đặc trưng của một con người: Tử Vi là tên một loài hoa màu tím - hoa tường vi?, Tử là Tím, còn Vi là Huyền Diệu, tên gọi được lấy từ sao Tử Vi, ngôi sao quan trọng nhất trong môn bói toán này - biểu tượng của Hùng Quốc Vương - Tử Vi Bắc Cực Đại Đế. Ngoài nguyên lý "sinh - vượng - mộ" chúng ta có thể chi tiết mức cường độ hơn nữa tức tương ứng sự nhật biết về thực vật sinh trưởng trong chu kỳ một năm: xuân sinh, hạ trưởng, thu bế, đông tàng: "sinh - trưởng - bế - tàng (tử)", nhằm tính toán tương tác có chu kỳ một cách chính xác hơn, đặc biệt với những tổ hợp bị tương tác lớn chẳng hạn như là biến đổi khu vực trái đất, hưng thịnh quốc gia, một cuộc chiến tranh lớn của các quốc gia... sẽ là kết quả của bộ môn Thái Ất... Khi phối 12 cung thiên bàn Tử Vi có bốn cung hành thổ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi trên La kinh phong thủy, với trục định vị nam - bắc (Tý - Ngọ) theo kim chỉ nam cần quán xét với độ nghiêng với mặt phẳng Hoàng đạo để có những nhận định thêm nữa, tôi cho rằng cách định hình La kinh theo cổ nhân đã chuẩn mực sau khi đổi chỗ Tốn - Khôn, Thủy - Hỏa... Tuy nhiên, theo cổ thư thì Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ khi định vị thì đặt phương nam lên phía trên, điều này đồng nghĩa La kinh cũng tương ứng, trong khi đó theo hướng thiên văn thì sao Bắc Cực và sao Nam Cực định hướng hàng hải thì tùy theo mỗi bán cầu: bắc bán cầu hướng về chòm sao Bắc Đẩu và nam bán cầu hướng về chòm sao Nam Đẩu. Vậy bản chất nó là gì, trong khi đó ta biết Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác tới Trái đất và khi phối Hà đồ thì đây là quy luật vận động của bản thân Trái đất (Lạc thư ẩn). Vậy phải chăng, nguồn gốc chính là từ ý nghĩa của kim chỉ Nam? Về mặt địa hình Trái đất, cũng cần chú ý tới hướng của trục quay địa cầu, ở bắc bán cầu thì phương tây bắc từ thì thấy địa hình núi cao như các dãi núi lớn Himalaya, Thiên Sơn... và phương đông nam thấp thoải tới biển... Sự khác biệt cũng xuất hiện khi so sánh bắc bán cầu và nam bán cầu. Vấn đề này cần được quán xét tới kim chỉ Nam khi được dùng định vị tại hai bán cầu trên. Kim chỉ Nam còn gọi là Tư Nam tức cần phải tư lự, suy tư riêng về ý nghĩa của nó và tại bắc và nam bán cầu có gì khác nhau? Tất nhiên sau khi hiểu ý nghĩa của Ngũ Vận Lục Khí thì có thể các nội dung trên sẽ được điều chỉnh lại một cách hợp lý, ví dụ ngay cả ý nghĩa của Hậu Thiên Bát Quái, mà tứ đó mới xác định được bản chất của Tiên Thiên Bát Quát khi không có hành Thổ trong nó. "Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ" sau khi đổi chỗ Tốn - Khôn là công thức áp dụng cho mọi phương pháp cổ trong việc tính toán tương tác có quy luật tới một chủ thể đã xác định: Trong quá trình phân tích, chúng ta luôn luôn lưu giữ nguyên lý tổng thể: "Vũ trụ là duy nhất".
-
Như đã phân tích ở trên, chúng ta sẽ có ý nghĩa về một lễ hội "Rước Thần" với đội Bát âm đi trước và đội dẹp đường cái quan, cùng hệ thống cờ các loại: - Tàn vàng và lọng báu (tĩnh) biểu tượng cho vũ trụ hợp nhất, thể hiện Chu Dịch và 4 cõi Thượng Thiên, Thiên, Người, Chết. - Cờ thần và lá Phướn: biểu tượng cho thuyết Âm Dương Ngũ Hành với công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ làm chủ lực, trong đó Lạc thư với lý tương khắc ẩn. Đồng thời, trong tôn giáo nó mang ý nghĩa "Tâm Không". Từ chòm Thập Tự Phương Nam tìm cực nam (cây Phướn cao, cũng là hình ảnh chiếc qua và rìu) - Lúc này, bộ Chấp kích (8 loại vũ khí - âm) và bát bảo (bảo vật của 8 vị tiên - dương) thể hiện Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái, nhìn từ trong điện thờ ra Bát bảo bố trí bên trái và Chấp kích bố trí bên phải, cùng với hai biển báo Hồi tị và Tĩnh túc. - Ngai thần và bài vị. Chúng ta cũng biết trước lễ hội Đền Hùng, chiếc lá Phướn có chòm sao Nam Cực được dựng lên để báo hiệu trước vậy còn cờ Thần có chòm sao Bắc Đẩu thì thế nào? Cờ Thần và các loại cờ khác sẽ được dựng lên vào ngày chính hội lúc vào giờ Thìn buổi sáng, cùng các loại cờ khác như Nhị thập bát tú, cờ Chu Dịch với 64 lá cờ đuôi nheo và Cờ Thất Tinh gồm một lá cờ thể hiện mặt trời, mặt trăng, sao kim, sao thủy, sao mộc, sao hỏa và sao thổ (bài trí theo Thiên can, cờ nằm ở góc giao hành Thủy - Mộc), cùng một lá cờ Bắc Cực chính là hình ảnh Gia Cát cầu phong ở trung tâm đàn. Chúng ta hãy xem lại bộ Tam Quốc Chí có nói về thủ tục này: Đàn Thất tinh, Gia Cát cầu phong; Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa. (Tam giang cũng hàm ý ngã ba Bạch Hạc trước Đền Hùng) Du nghe nói mừng lắm, đứng choàng dậy, lập tức sai quân đến núi Nam Bình đắp đàn (núi Nghĩa Lĩnh, Đền Hùng, Thái Bình hay cung Bảo Bình là biểu tượng của Hùng Quốc Vương, chương cuối có nói đến lá cờ Trung Nghĩa Đường), và điều một trăm hai mươi tên lính cầm cờ giữ đàn, sẵn sàng nghe lệnh. Khổng Minh từ biệt Chu Du, cùng với Lỗ Túc lên ngựa đến núi Nam Bình, xem xét địa thế. Rồi sai quân sĩ lấy đất đỏ ở phương đông nam đắp đàn, chu vi rộng 24 trượng mỗi tầng cao ba thước, cả thảy là chín thước. Tầng dưới cắm 28 lá cờ sao. Phương đông 7 lá cờ xanh, theo hình chòm sao Thanh long là: giốc, cang, đê, phòng, tâm, vĩ, cơ. Phương bắc 7 lá cờ đen, theo hình chòm sao Huyền vũ là: đẩu, ngưu, nữ, hư nguy, thất, bích. Phương tây 7 lá cờ trắng, theo hình chòm sao Bạch hổ là: khuê, lâu, vị, mão, tất, thuỷ, sâm. Phương nam 7 lá cờ đỏ, theo hình chòm sao Chu tước là: tỉnh, quỷ, liễu, tính, trương, dực, chẩn. Tầng thứ hai 64 lá cờ cắm xung quanh, theo phương vị 64 quẻ, đứng dàn ra tám mặt. Tầng trên nữa dùng bốn người; người nào cũng phải đội mũ bịt tóc, mặc áo the thâm, áo dài đai rộng, giày đỏ quần vuông (chú ý giày giống hình hài, rìu hài Đông Sơn). Mé trước, một người đứng bên tả, cầm cái cần dài, trên đầu cầm cắm lông gà, để chiêu gió; một người đứng bên hữu cũng cầm cái cần dài, trên đầu cần buộc cờ hiệu thất tinh, để khiến chiều gió. Mé sau, một người bên tả cắp thanh bảo kiếm, một người bên hữu bưng cái lư hương. Ở dưới chân đàn lại có 24 người vác cờ xí và khí giới đứng quanh bốn phía. Trong bức tranh Hàng Trống "Ông Hoàng cưỡi lốt" ông Hoàng ở đây là Hùng Quốc Vương, cưỡi con "lốt" - rắn biển khổng lồ "tam đầu cửu vĩ" có 3 đầu 9 đuôi, thể hiện độ số 9 cung Đoài, phương tây và 3, cung Chấn, phương đông, thể hiện trục tử - sinh. 3 cũng ứng tháng Thìn và 9 là ngày hổ, cũng thường gọi là "Long đầu Hổ vĩ" hay Long Hổ Hội, đây chính là mật ngữ ngày chính hội Đền Hùng mồng 9 tháng Ba, với hình ảnh Hùng Quốc Vương cưỡi con lốt 3 đầu 9 đuôi. Mặt khác, trước lễ hội 1 tuần tức ngày mồng 3 tháng Ba là ngày Tết Thanh Minh tảo mộ Hùng Vương VI và Đền Hùng cho nên lễ hội bắt đầu phải diễn ra sau đó, như vậy lễ hội có 3 ngày (Thiên, Địa, Nhân), bắt đầu vào ngày mồng 8 tháng Ba (độ số hành Mộc trên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ) và kết thúc vào mồng 10 tháng Ba. Sau khi kết thúc thủ tục tễ lễ tại Đền Thượng, Trung, Hạ và cũng trong giờ Thìn này, sẽ bắt đầu chính hội bằng việc đốt một tràng pháo trước Sơn môn, tràng pháo có 1 quả pháo Cực Đại - Đùng (Thái Cực), 2 pháo Đại Âm Dương, 5 pháo Trung Ngũ Hành (Ngũ Đế) 3 pháo Nhỡ - Tam Hoàng (Sinh - Chấn) và 105 pháo nhỡ (tổng cộng 108 Hùng Vương), 1000 pháo con (con cháu Hùng Vương) và kết thúc bằng 9 pháp nhỡ (Cửu Tử - cũng là Phục Sinh - Đoài). Đội nghi lễ, rước kiệu, cầm lọng, múa lân đi trước, tiếp theo là những kiệu pháo và hai “ông pháo” khổng lồ Tiên tri trong Kinh Dịch: "Nói xong ở cửa Cấn tức Núi (Sơn, Shan)". Và... con "Rồng" phải chăng là một tổ hợp các con thú nào đó biểu tượng cho "Thần"? Hình ảnh rồng thời Lý mang dấu ấn Việt Nam đậm nét nhất và có giá trị mĩ thuật cao nhất Hình rồng trong lá đề trang trí diềm mái cung điện Giao Long trang trí thạp Đào Thịnh 2000-200 TCN Rồng đá thềm điện Kính Thiên còn sót lại sau khi thực dân Pháp phá điện xây lô cốt Đầu ngói ống hình rồng “Rước rồng”, tranh mộc bản Đông Hồ đầu thế kỷ 19. Con rồng ở Việt Nam cũng tùy theo thời kỳ. Như hình ở trên là con rồng thời Lý, thể hiện sự nhẹ nhàng. Còn con rồng thời Trần thì mạnh mẽ hơn, thân hình to và khoẻ khoắn, vì thời Trần 3 lần chống quân Nguyên-Mông. Rồng Việt Nam luôn có một mô-típ rõ ràng đặc trưng đó là: Thân rồng uốn hình sin 11 khúc. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn. Đầu rồng có bờm dài, râu cằm, không sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn chứ không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài. Miệng rồng luôn ngậm viên châu (ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước). Bốn mùa ứng với các loài thú trong Lã Thị Xuân Thu: - Mộc thần Câu Mang, động vật tiêu biểu của tháng này là loài có vảy, thanh âm tháng này lấy âm Giốc (một trong ngũ âm) làm tiêu biểu, âm luật tháng này phù hợp với Thái Thốc (một trong lục luật). - Hỏa thần Chúc Dung. Động vật tiêu biểu tháng này là loài chim có lông vũ. Thanh âm tháng này lấy âm Chủy (một trong ngũ âm) làm tiêu biểu. Âm luật tháng này hợp với Trọng Lữ. - Vị thần ứng với tháng này là Kim thần nhục thu (tên là Cai). Động vật tiêu biểu tháng này là loài thú có lông mao. Thanh âm tháng này lấy Thương làm tiêu biểu. Âm luật tháng này hợp với Di Tắc (một trong lục luật). - Vị thần ứng với tháng này là Huyền Minh (thủy thần). Động vật tiêu biểu tháng này là loài giáp giới (đại biểu là rùa). Thanh âm tháng này là Vũ (một trong ngũ âm). Âm luật tháng này hợp với Ứng chung (một trong lục lã). (ghi chú: giả sử, nếu theo Hà đồ: trung tâm hành thổ có ứng với loài nào không? - Ngũ Âm) Trước khi phân tích con Rồng gồm sự tổ hợp các linh thú nào (nối Tam Tài, trục vũ trụ hay còn gọi là trục Thần đạo), chúng tôi muốn định vị rõ các vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành vì nếu không hiểu thì rất khó giải quyết các vấn đề tiếp theo, kể cả lịch sử: - Hậu Thiên Bát Quái (lý từ trường do 1 tổ hợp ADNH xoay tròn) và Tiên Thiên Bát Quái (lý âm dương chưa Bigbang? hay đã định vị trái đất rồi!), - Hà đồ và Lạc thư (lý tương sinh và tương khắc của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành), - Ngũ Vận Lục khí cùng Thiên can (tương tác Âm Dương Ngũ Hành từ hệ mặt trời), Địa chi (tương tác Tứ Tượng từ trái đất), Lục thập hoa giáp sau khi đổi chỗ thủy, hỏa (tương tác có quy luật từ Hệ mặt trời và trái đất tới con người vừa được sinh ra - Bản mệnh), quy tắc sinh - vượng - mộ. - Kim chỉ nam (hướng cực của 1 tổ hợp ADNH) và độ từ thiên (độ lệch kim chỉ nam so với trục quay trái đất), trục quay của trái đất (lệch 23độ 5 so với trục vuông góc mặt phẳng Xích đạo). - Hệ mặt trời - trái đất - con người (Thiên, Địa, Nhân) và tương tác. Lý tương tác chu kỳ sao Mộc 12 năm (dương mộc) và Trái đất (âm mộc). Vành đai thiên thạch phân chia Âm Dương mang hành thổ? - Hoàng đạo của mặt trời (25920 năm), xích đạo của trái đất (1 năm), bạch đạo của mặt trăng (1 tháng) và sự tự quay của trái đất (1 ngày) và các đạo? nào khác nữa. Hệ thống kinh mạch vận động (có đường kinh theo Hà đồ và cả Lạc thư, vận động theo chu kỳ ngày, tháng, năm...). - Một người là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành xoay tròn theo trái đất, có 7 luân xa dọc cột sống: Thiên khí trên, Địa khí dưới, vận động theo Hà đồ và Lạc thư. "Khí hóa" trong Đông y, Tử bình, tử vi. Tại sao Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ cổ thì phương nam quay lên trên? - Bắc bán cầu và nam bán cầu, đường xich đạo (địa hình do tự quay của trái đất và hướng tương tác từ hệ mặt trời...). Địa khí của trái đất!. - Hình thể trái đất và tương quan nhân sinh (định hình từ sự quay quanh trục). - Thiên bàn 12 cung (sinh - vượng - mộ của một hành -> do cân bằng giữa tương sinh Hà đồ và tương khắc của Lạc thư tại pha chuyển tiếp) của các phương pháp ứng dụng như Bát Trạch, Độn giáp, Thái ất, Tử vi... - Diễn tiến sau Thái Cực gồm các pha nào!. Thái Cực - vi động ->chuyển động và định trục xoay -> Âm Dương -> đạt cực đại gây Bigbang - sau đó Âm Dương Ngũ Hành! - 1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời (mặt trời hành Thổ, tương sinh ở trong và tương khắc ở ngoài, nhưng mang "động năng" của "hành hỏa" làm nguồn) và sự phân lớp vũ trụ!. - Tử Vi và Chu Dịch là những cái khó nhất. Ý nghĩa của chúng: - Không ngoài nguồn tương tác, cách thức tương tác và chủ thể nhận tương tác và các đặc trưng của chúng trong các quá trình tương tác liên quan. - Tương tác theo quy luật và tương tác cưỡng bức (có chủ ý) như Cao Biền trấn yểm Việt Nam. - Tương tác bằng suy nghĩ. - Tương tác lặp do vận động xoắn trôn ốc và vũ trụ hợp nhất nên có tiên tri của Chu Dịch... Trong quá trình nhận định, nội dung sẽ được cập nhật và chỉnh sửa liên tục.
-
Như đã biết cờ Thần (Thần kỳ) có tâm màu đỏ, tương sinh ngũ hành từ trong ra ngoài Hỏa - Thổ - Kim - Thủy - Mộc - Hỏa, tương ứng với Hà đồ, đồng thời cờ Thần (Thìn) cũng là biểu tượng cho mặt trời - Rồng - Kinh Dương Vương, trong khi đó quy luật tương sinh của hệ mặt trời với mặt trời là hành thổ chứ không phải hỏa như ở tâm cờ. Điều này đã chứng tỏ rằng có sự mâu thuẫn về mặt biểu tượng, cho nên có thể nhận ra rằng: Cờ Thần biểu tượng cho Dương, hành Hỏa làm chủ đạo với lý tương sinh của Hà đồ và hệ quả là còn có một lá cờ khác biểu tượng cho Âm, hành Thủy làm chủ đạo, biểu tượng lý tương khắc của Lạc thư, đấy chính là Lá Phướn. Lá phướn Cao Đài Lá phướn trước Tòa Thánh Tây Ninh dài 9m, ngang 1,2m, nền vàng, trên mặt có ba dải màu: vàng, xanh, đỏ (từ trái sang phải). Trên dải màu xanh, cao hơn hết có Thiên Nhãn, kế tiếp xuống dưới có ba món cổ pháp (Xuân Thu, phất chủ, bát vu) rồi kế là sáu chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngay chính giữa lá phướn là giỏ hoa, kế đến có chín thẻ, hai bên bìa là mười hai thẻ theo chiều dài. Đầu cột phướn đắp hình rồng. Từ "Phướn" được chuyển hóa từ chữ "Phượng" tức chim phượng hoàng (phụng hoàng biểu tượng của phương Nam) mà ra, lá phướn trong hình ảnh của chiếc đuôi dài của con chim phượng hoàng (chim trĩ hóa thân). Khi chúng ta liên kết Cờ Thần và Lá Phướn sẽ thành một con diều tuổi thơ, ngày xưa ở nông thôn, các trẻ em thường ngồi trên lưng trâu thả điều hay thổi sáo, đây là một hình ảnh rất đẹp và trong sáng. Ở đây, con trâu của nhà nông còn là biểu tượng của chữ "Tâm". Tranh Đồng Hồ "Trời xanh trong tiếng sáo" và "Nhất tượng phúc lộc điền" Từ lý tương khắc của Lạc thư, chúng ta có thể hình dung Lá Phướn có 5 dải liên tục với màu tương khắc, nhìn từ trong ra ngoài: Đen, xanh lá cây, đỏ, vàng, trắng. Chúng ta tham khảo Lá Phướn của Phật giáo. Cây phướn ở chùa Phật Cứ đến các ngày lễ trọng, chùa nào cũng treo cây phướn. Cây phướn cao cùng các loại phướn nhỏ dùng để trang trí đàn tràng, tạo nên cảnh trí trang nghiêm, rất riêng của lễ hội Phật giáo. Ấy thế, cội nguồn và ý nghĩa của cây phướn ra sao lại là chuyện không dễ để tỏ tường. I. Câu chuyện phổ biến giải thích lai lịch cây phướn ở xứ ta là Sự tích cây phướn nhà chùa(1), truyện kể rằng: Xưa có một người chuyên môn ăn thịt người. Hắn đã từng bắt giết không biết bao nhiêu nhân mạng. Tuy hung ác vô đạo, nhưng hắn lại thờ mẹ rất có hiếu. Một hôm, có một nhà sư đi quyên giáo qua đó bị hắn bắt. Khi hắn sắp giết thịt thì mẹ hắn ra xin hộ cho nhà sư. Thấy mẹ năn nỉ quá, hắn đành buông dao rồi hỏi nhà sư làm gì và đi đâu. Nghe nhà sư kể chuyện, cả hai mẹ con rất hối hận về những tội ác từ trước đến nay. Hai mẹ con cũng muốn kiếm một vật cúng cho nhà chùa nhưng ngặt vì trong nhà chả có gì đáng giá cả. Nhưng người con đã tình nguyện nạp bộ lòng của mình đưa về cúng Phật. Vừa nói hắn vừa rạch bụng moi ruột đưa ra. Nhà sư cũng nhận lấy nhưng đến bờ suối thì quẳng luôn xuống nước. Có con quạ thấy vậy, tha bộ ruột ấy bay đến chùa, đậu trên ngọn cây kêu lên om sòm. Đức Phật rõ chuyện, khen thưởng con quạ mà phạt tội nhà sư. Đồng thời đưa hai mẹ con nhà kia lên trời thành Phật. Từ đó nhà chùa làm cây phướn để ghi nhớ việc ấy. Trên cây phướn bao giờ cũng tạc hình con quạ ngậm một tấm lụa dài độ hai ba mươi thước. Tấm lụa tượng trưng cho bộ ruột của người đã rạch bụng cúng Phật. Cây phướn tranh cổ Lại nữa, ở một dị bản khác có cốt chuyện tương tự, Sự tích cá he, tức là cá lợn, cá heo, hay hải trư (marsoruin), ở Nam Bộ còn gọi là cá nược. Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn nhiều năm khổ công tu luyện mà vẫn chưa thành chính quả. Sư quyết chí tìm đường sang Tây Trúc hỏi Phật. Cuộc hành trình muôn phần vất vả. Một hôm, đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư xin vào tá túc một ngôi nhà. Sư vì quá mệt mỏi nên vật ra ngủ khiến người mẹ sợ đứa con hung ác của bà là Ác Lai trở về sẽ bắt nhà sư ăn thịt nên lôi sư đi giấu. Ác Lai về đến nhà ngửi thấy ngay mùi thịt người, hắn nhanh chóng chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã kiếm được sư. Khi vị sư tỉnh dậy thì Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Thấy hắn cũng không khác gì người thường, sư bèn nói rõ mục đích của mình, rồi luôn miệng, sư giảng đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc đường, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao gặp được Đức Phật để cầu Phật độ cho thành chính quả. Nghe những điều sư giảng giải, mẹ con Ác Lai cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên “vô sinh vô diệt”, sẽ sống một đời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác trên mặt Ác Lai mới đó giờ đã dịu lại. Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi: Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp: “Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm”. Chỉ tấm lòng mình là đủ. Ác Lai hiểu theo nghĩa đen của câu pháp ngữ, nhanh như cắt, rút mũi mác tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói: Nhờ Hòa thượng dâng hộ tấm lòng thành này lên Đức Phật. Sư lấy làm bối rối quá, chẳng biết làm sao nên đành gói bộ lòng Ác Lai quảy lên vai, cất bước ra đi... Bộ lòng càng ngày càng thối, sợ hàng quán không ai dám chứa mình, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển. Đến Tây Trúc, khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: “Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả”. Sư rất đổi kinh ngạc, ngước lên trên cao vòi vọi, sư thấy Đức Phật ngự giữa tòa sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ trong một lúc, ngộ đạo mau lẹ và chân thành. Nhà sư sau đó trở lại chốn cũ để tìm bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he/cá nược/cá ông sư. Và cho đến ngày nay, dòng dõi loài cá đó con nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm cái việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi thành đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn, không chịu nghỉ. Theo Mỹ Ấm tùy bút thì mẹ Ác Lai được Phật độ cho làm mụ Thiện. Ác Lai trở thành hai vị Hộ pháp được Phật cho giữ chùa mà ta thường gọi là ông Thiện - ông Ác. Tại sao một người lại hóa thành hai? Đó là vì tuy là một nhân vật nhưng kể từ khi rạch bụng cúng Phật đã tách thành hai con người khác hẳn. Ông Thiện là hiện thân của quãng đời sau của Ác Lai (thời kỳ ngộ đạo), Ông Ác là hiện thân của quãng đời trước (chưa ngộ đạo). Truyện Sự tích cá he lưu hành ở miền Nam. Nhân dân miền Bắc có Sự tích chim bìm bịp với nhân vật chính là sư nữ, yêu mẹ và yêu con, nội dung tương tự, cuối truyện vị sư nữ được Phật cho hai cái cánh để tìm lại bộ ruột nhưng tìm hoài không thấy nên sư biến thành chim bìm bịp, ngày đêm chui rúc hết bụi này đến bụi khác, thỉnh thoảng lại lên tiếng than thở, phảng phất như tiếng “bìm bịp”. Loài chim này đầu đen, mình nâu, mắt đỏ như máu. Đó là di tích của hình tướng vị sư nữ: đầu chít khăn đen, mình mặc áo vải nâu già. Còn mắt đỏ là vì khóc nhiều mà sinh ra thế. Ở Nghệ An có dị bản nữa: Xưa, Đức Phật sai một người đi sang một nước khác để lấy kinh về cho mình. Người ấy đưa về đến nửa đường thì bị một con hổ ăn thịt (Về tình tiết này, một người khác ở Cát Ngạn/Thanh Chương kể rằng người ấy bị một con rùa lớn làm chìm mất thuyền kinh). Thấy kinh Phật tan tác giữa đường, một con quạ bèn tha về cho Đức Phật. Để trả ơn quạ, Đức Phật sai làm một cây nêu rất cao cho quạ đậu trên đó. Về sau, nhà chùa thường trồng cây phướn, trên có quạ ngậm dải lụa/vải dài là vì thế(2). Thêm vào đó, một dị bản có chi tiết khác như sau: Một nhà sư sang Tây Trúc thỉnh kinh, đến bờ biển không có đò, nhờ có con rùa nổi lên chở đi. Dọc dường rùa dặn: - Xin ông hỏi hộ với Phật tại sao tôi cứ phải ở nước mãi khổ lắm. Sư ta nhận lời... Khi sư quay về lại được rùa đón chở. Đi được nửa đường, rùa hỏi về điều mình nhờ hỏi hộ. Sư đáp: - À quên! Rùa giận lặn mất, vì thế kinh kệ ướt cả! May có con diều bay đến, tha kinh lên phơi phóng. Do câu chuyện này người ta cho rằng rùa bị tội đội bia. Còn diều thì được biểu dương bằng cách ngậm phướn(3). Sự tích cây phướn ở chùa Nành (Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) quả là một truyện đặc sắc. Chuyện kể: Bên dòng sông Thiên Đức có bác chài sống độc thân bằng nghề đánh cá. Nhân năm chùa trùng tu, dân làng tỏa đi các nơi quyên giáo. Khi đoàn người qua sông, bác chài xin chở đò không lấy tiền công. Nhưng lòng vẫn băn khoăn vì tiền bạc chẳng có, biết lấy gì cúng cho nhà chùa. Tài sản ngoài con thuyền nát thì chỉ có hai cái khố. Chiếc rách đóng trên thân. Nghĩ mãi, bác quyết định mang chiếc khố mới ra làm vật cúng. Những người quyên giáo chẳng thấy bác đưa vật phẩm gì, lại đưa khố thì không bằng lòng, cho rằng bất kính. Bác chài nghe vậy ngẩn người, giãi bày đây là tấm lòng thành, trong lều chẳng có gì hơn. Rốt cuộc, họ không nhận khố và cũng không lên đò. Mọi người quay về vì cho là... xuất hành gặp chuyện xúi quẩy. Dân làng đâu có biết bác mấy ngày không hạt cơm trong bụng. Tài sản quý nhất dành đem cúng thì bị từ chối. Bác tủi thân nghĩ chỉ có một cách giải bày tâm can là rạch bụng moi hết ruột gan cho mọi người biết. Nghĩ rồi làm ngay việc đó trước mặt dân làng. Sự việc xảy ra trong chớp mắt, dân làng bàng hoàng sợ hãi. Trong lúc tất cả đang bối rối thì có hai con quạ từ trên trời cao sà xuống quắp luôn bộ lòng bác chài bay thẳng về hướng chợ Nành rồi vứt xuống gốc đa Thạch Sàng, kêu lên ba tiếng xong bay thẳng hướng Tây. Thạch Sàng là nơi khi xưa Thiền sư Khâu Đà La ngày đi truyền giáo, tối về nằm ngủ trên phiến đá dưới gốc cây. Sự việc đập vào mắt sư trụ trì chùa Nành. Ngài vội chắp tay niệm Phật theo hướng quạ bay, lập tức cho dựng một cây tre thật cao trong sân chùa. Trên cao tạc hình con quạ ngậm dải lụa trắng, biểu thị tấm lòng trong sáng của một Phật tử. Rồi sư lại cho dựng hai cây tre ở góc ao trước cửa chùa, trên treo hai dải lụa ngắn tượng trưng cho hai cái khố của bác chài, ghi nhớ tấm lòng thành tâm(4). Lá phướn ở chùa Nành. II. Những dị bản về sự tích cây phướn cho thấy, ở những tọa độ địa lý - lịch sử khác nhau có những quan niệm cũng như kiến giải riêng biệt về cây phướn nhà Phật. Điều này cho thấy Phật pháp đã ăn sâu vào đời sống tinh thần và tình cảm của nhân gian theo các tầng mức khác nhau. Do đó, việc truy nguyên về nguồn gốc phan/phướn giúp chúng ta thấy được cội nguồn đích thực và chân nghĩa của loại pháp khí nhà Phật này. Qua hình ảnh của các lá phướn và các truyền thuyết, chúng ta thấy rằng: đỉnh lá phướn là chiếc lá sen úp ngược (tương tự bức tranh "Trời xanh trong tiếng sáo"), chân lá phướn là hoa sen (bệ sen của các vị Phật thượng tọa), lá phướn màu đỏ biểu tượng của hành hỏa - đồng dạng với Cờ Thần - "Tâm", 5 tua lá phướn sẽ biểu tượng lý tương khắc của Lạc thư. Tuy nhiên, nội dung lá phướn là như thế nào??? Tất nhiên, không thể tách rời tàn vàng (cái dù, cái ô, có 1 tầng - "Một" và 6 tua Chu Dịch và đáy hình quả bầu không, chú ý liên hợp ý nghĩa với Cờ Thần và Lá Phướn) và lọng báu (dù ống, có 3 tầng: cõi Thiên, Địa, Nhân, có 36 tua ứng 36 con chim trên trống đồng Ngọc Lũ), cùng các bộ đồ thờ như chấp kích, bát bảo. Tàn vàng và lọng báu Cao Đài: Như đã phân tích, chữ Vạn là biểu tượng của Đế Minh (ẩn) và Kinh Dương Vương (hiện), thể hiện chữ "Tâm" của mỗi con người, trong cổ thư Đông phương chúng ta còn thấy một quyển có tên gọi là: "Vạn Pháp Quy Tâm" hết sức ý nghĩa, đều thể hiện được cái ý Thủy Hỏa, Vạn, Sự vật hiện tượng biến hóa vô cùng trong đó, vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa, chữ ở trung tâm Lá Phướn chính là: "VẠN PHÁP QUY TÂM" Đây chính là nội dung Lá Phướn của đạo Phật sau này, tuy nhiên đối với "nguyên lý biểu tượng" là không dùng chữ, từ Cờ Thần có trung tâm là chòm sao Bắc Đẩu thì rõ ràng đối ứng với chòm sao này chính là chòm sao Nam Cực - chòm sao Thập Tự - biểu tượng của Lạc Long Quân. Từ đó, chúng ta thấy Kinh Dương Vương - Bắc Đẩu - Dương - Bắc và Lạc Long Quân - Nam Cực - Dương - Nam là tối ưu nhất. Đây là cấu trúc Âm Dương vũ trụ, vượt ra khỏi hệ mặt trời, còn vạn vật hữu tình trong hệ mặt trời thì Dương - Nam và Âm - Bắc. Lá phướn hình chữ nhật, còn Cờ Thần hình vuông, đấy cũng là nguồn gốc của chiếc ấn Thái Tử là hình chữ nhật, còn ấn vua là hình vuông, cho nên Lạc Long Quân còn gọi là Thiên Tử. Cấu trúc chiếc ấn hình chữ nhật và hình vuông được khám phá trong lăng mộ Nam Việt Vương Triệu Văn Đế. Cho tới này, ấn hình chữ nhật Thái Tử Trọng Thủy được khám phá trong lăng mộ này là hy hữu nhất. Lá cờ Úc (Australia) mang chòm sao Nam Cực có 6 ngôi sao Như vậy, chứng tỏ một điều Lạc Long Quân với chòm sao Nam Cực là một vị Tiên - đang ngồi trên bệ sen. Lạc Long Quân ngoài những biểu tượng trên, còn có biểu tượng là "cụ Cóc" tức "cụ Không", cho nên Cờ Thần và Lá Phướn được dịch nghĩa là "TÂM KHÔNG". "TÂM KHÔNG". Thần Đạo của thời Hùng Vương sau này chuyển tiếp thành Phật giáo, cho nên nếu liên hệ ý nghĩa giữa các biểu tượng thì sẽ có mối quan hệ rất chặt chẽ: "Tâm Không - Vạn pháp quy Tâm" Chúng ta chú ý, đỉnh của Lá Phướn là hình ảnh cách điệu của một lá sen, hai bên lá sen có 2 ngù đỏ, đen ứng Âm Dương. Lúc này, cán gỗ của Lá Phướn chính là trục định vị. Cờ Thần và Lá Phướn biểu tượng cho thuyết Âm Dương Ngũ Hành và công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ với Lạc thư ẩn mặt (bay trong gió, động). Còn Tàn Vàng và Lọng Báu biểu tượng cho Vũ trụ hợp nhất (che nắng gió, tĩnh), tức là Vũ trụ là cái "Một". Chòm sao Nam Cực trên Lá Phướn cùng với Chu Dịch lá sen, biểu thị sự "trở lại" tức quẻ Phục trong Chu Dịch, sự trở lại của Lạc Long Quân. Nghĩa chữ tâm: Tâm có hai chữ Hán là 心 và 芯 [1] ở đây là chữ 心, chữ tâm 心 là chữ tượng hình, viết kiểu tiểu triện có hình trái tim, còn viết kiểu khải thư 心 thì ở trên có ba dấu tượng trưng ba cái cuống, ở dưới là túi chứa máu. Chữ này diễn biến qua các cách viết như sau: Chữ tâm (心) có rất nhiều nghĩa: 1.1. Nghĩa thông thường: (dt.) (1) Tim (heart): tâm tạng (quả tim), tâm thất (ngăn bên dưới trong trái tim). (2) Lòng, dạ, ruột, phần bên trong (inner): tâm phúc (bụng dạ); không tâm thái (rau rỗng ruột, tức rau muống). (3) Lòng, tình cảm con người (inner emotion): tâm cảm (inner feelings), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo); tâm ý (lòng dạ và đầu óc); đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý). (4) Giữa (center), điểm ở giữa, quy tụ các điểm khác, thường nói về phần giữa đều gọi là tâm: viên tâm (điểm giữa vòng tròn), trọng tâm, trung tâm. (5) Tên một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, sao Tâm, tức sao Hoả. (6) Tên một bộ chữ Hán, bộ Tâm, cũng viết là忄, khi đứng bên trái. 1.2. Nghĩa tâm lý và đạo đức: Ngày xưa, người ta ngộ nhận tâm là nguồn gốc của mọi sinh hoạt tâm lý, nên các tình trạng tư tưởng và tình cảm đều gọi là tâm: tâm tưởng (thinking); tâm tính (mood), tâm ý (idea). Ngày nay, theo các thí nghiệm tâm sinh lý, điều đó không đúng nữa. Dầu vậy, tâm vẫn còn được coi là: (1) Tượng trưng của tình cảm, tình yêu (love): ♥. (2) Khả năng nhận thức sự vật, suy nghĩ và cảm giác: tâm trí (mind). (3) Khả năng phán đoán về thiện ác theo quy luật đạo đức: lương tâm (conscience). (4) Toàn bộ các hiện tượng tâm lý, từ cảm giác đến tình cảm, hành vi, ý chí...: tâm lý (psychic), tâm trạng (mental = tâm thần). (5) Phần linh thiêng nơi con người, đối lập với thân xác: tâm hồn (spirit, soul = linh hồn); tâm linh (spiritual). Tâm trong Phật giáo Khái niệm “tâm” của Phật Giáo không đơn giản như các học giả phương Tây lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu như sau: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Một cách khái quát, qua các kinh điển Phật Giáo [2] người ta có thể phân biệt sáu loại tâm: 2.1. Nhục đoàn tâm (肉團心): trái tim thịt (Phật Giáo không để ý nhiều tới nghĩa này). Ví dụ: “Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá huỷ Phật giái, dường như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình” (Bồ Tát Giái Kinh). 2.2. Tinh yếu tâm (精要心): chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ: “Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn” (Long Thọ Bồ Tát). 2.3. Kiên thực tâm (堅實心): là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm. Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, đó là Phật tính: "Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chân tâm" (Kinh Thủ Lăng Nghiêm). 2.4. Liễu biệt tâm (了別心) [3]: gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức [4], tức là tri thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ. Có tác dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức chúng: “Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”. 2.5. Tư lượng tâm (思量心) còn gọi là Mạt-na thức (末那識) [5]: thức thứ bảy trong tám thức. Một trong các chức năng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của thức thứ tám (A-lại-da thức), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình, vì vậy mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người (ego-consciousness). Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là tâm trạng của một lĩnh vực mà người ta không thể điều khiển một cách có chủ ý, thường phát sinh những mâu thuẫn của những quyết định tâm thức và không ngừng chấp dính vào bản ngã: “Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị cố thuyết vi ý thức sở y: Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt; nên gọi nó là chỗ y cứ của ý thức” (Du-già sư địa luận) 2.6. Tập khởi tâm (集起心) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là tạng thức (藏識) [6]: chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Là căn nguyên của mọi hoạt động nhận thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật, hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay tiềm thức: “Nhất thiết thế gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo: Tất cả những gì trong thế gian. Đều là do tâm tạo” (Kinh Hoa Nghiêm). Phật Giáo không quan niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một khối cứng nhắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có diệt (khác quan niệm “hồn thiêng bất tử”), có năng lực (nghiệp lực) được chuyển từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là căn bản cho sự tái sinh. Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một cá thể, mà là một dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức cuối cùng của kiếp này trở thành dòng tâm thức đầu tiên của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, căn bản là tạng thức, chứa đựng các loại chủng tử ... Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh nào, có thể nói theo Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là thanh tịnh, không sinh diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tính giác của những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật. Qua đó, chúng ta còn hiểu rằng:Thần là Rồng, Tiên là Phượng, Tiên cũng còn là Hoa, các loài hoa, biểu tượng cho cái đẹp và tình yêu nữa, vậy thì ngày Hội Long Hoa tức Hội Rồng Tiên hay Hội Thần Tiên, sau này là Hội Phật Tiên và Lễ Hội Tình Yêu (anh hùng và mỹ nhân) trong thời Hùng Vương phải chăng có liên quan mật thiết đến những tên gọi này? Đồng thời, lễ hội Đền Hùng với ngày chính hội là mồng 10 tháng Ba hay là ngày 9 tháng Ba? Cũng cần được minh định lại, bởi vì lễ hội này còn được gọi là Lễ Hội Rồng Tiên hay Lễ Hội Thần Tiên (cần phải tham khảo bức tranh thờ đạo Mẫu dân gian Hàng Trống "Ông Hoàng cưỡi lốt"). Trước lễ hội Đền Hùng 1 tháng (ứng 1 chu kỳ trăng), nhân dân làng Cổ Tích sẽ dựng một cây Phướn có chòm sao Nam Cực trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, cây phướn làm bằng một cây tre đực, thẳng và rất cao, phía trên treo lá Phướn báo hiệu cho bốn phương thế giới chuẩn bị tới lễ hội Thần Tiên, một quy tắc có từ ngàn xưa, ngày nay lẽ hội diễn trong trong 10 ngày (10 là độ số Hà đồ, độ số kết thúc của một chu kỳ vận động Âm Dương Ngũ Hành). Đây chính là ý nghĩa "kim chỉ Nam" hay "vua chầu quay mặt phương Nam".
-
Trong tín ngưỡng Đạo giáo ở Việt Nam có một vị thần khá đặc biệt là vua cha Bát Hải Động Đình. Đền thờ vị thần này tới nay còn lưu lại ở nhiều nơi như đền Đồng Bằng ở Thái Bình (tham khảo Bách Việt Trùng Cửu): Bát Hải Động Đình, Bát là 8, con số chỉ phương Đông Bắc trên Hà đồ, tức biển Bột Hải vùng Liêu Ninh - Sơn Đông, Trung Quốc ngày nay. Vua cha Bát Hải Động Đình tức Long Vương, người sinh ra con gái Long Nữ (Quán Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay), cưới Kinh Dương Vương trong truyền thuyết. Nói cách khác đây là “ông ngoại” của Lạc Long Quân, hay là dòng máu “ngoại” của dân Bách Việt. Truyền thuyết chỉ rõ rồng là con vật linh sống ở biển, ẩn mình dưới vực sâu, đúng thời cuộc mới bay lên phun mưa. Bát Hải Động Đình là Long Vương tức "Rồng" sinh con gái Long Nữ tức "Tiên". Còn dòng họ nội, là Đế Minh cùng với Vũ Tiên (Phật Bà Quán Âm) sinh Kinh Dương Vương, Vũ Tiên tức "Tiên" sinh ra "Rồng" Kinh Dương Vương. Tất cả, đều là sự phối hợp của Rồng Tiên. Rồi thì, Kinh Dương Vương Rồng lấy Long Nữ Tiên sinh ra Rồng Lạc Long Quân, Đế Nghi và chính thất của ông sinh ra Âu Cơ Tiên, Lạc Long Quân và Âu Cơ lấy nhau (hai anh em họ, cho nên truyền thuyết toàn thế giới cổ đại về hai người đầu tiên của nhân loại là anh em, sinh 100 con trai (gốc nguyên dương Thái Cực - là tổng con số Hà đồ và Lạc thư - biểu tượng cho một con người - sau đó sinh sôi biến hóa tới vô cùng) tới đây là điểm mốc của "Rồng Tiên" nối tiếp nhau mãi mãi. Người con trai cả Hùng Vương, theo mẹ lên núi, làm vua Văn Lang, kinh đô ở Phong Châu (đô thành của Gió - Khí không thấy tức kinh đô của Thần Thánh). Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại nở ra dòng liu điu. Cổng vào khu Đảo Quân Sơn, hồ Động Đình, Hồ Nam, thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình (Long Vương) - trích từ bài viết Vua Cha Bát Hải Động Đình của tác giả Hienphs Ảnh Long Vương ngày gặp lại con gái Liên quan "Thần" thì có một biểu tượng cực kỳ quan trọng, đó là lá cờ "Thần": Thời Hùng Vương, nước Văn Lang có cờ biểu tượng đó chính là lá cờ Thần (cờ Tua) còn lưu lại đến ngày nay, phân tích nội dung, ý nghĩa, nguồn gốc cần viết nhiều, tôi chỉ tóm tắt như dưới đây: Cờ Thần - Tâm màu đỏ, biểu tượng mặt trời trung tâm, tương sinh ngũ hành từ trong ra ngoài Hỏa - Thổ - Kim - Thủy - Mộc - Hỏa (tua cờ), cờ hình vuông. - Tua cờ hình vảy rồng, có 7 tua mỗi phương, thể hiện Nhị thập bát tú. - Tâm cờ thêu chòm sao Bắc Đẩu - hình số xoay của 4 số 7 - biểu tượng cho chữ "Vạn" - "Tâm". Như đã phân tích, chữ "Vạn" là biểu tượng của Đế Minh nhưng ẩn đi - cái lý Thái Cực, còn hình thể Âm Dương mà chúng ta thấy "Vạn" là biểu tượng của Kinh Dương Vương - ở ngôi Vương cai quản toàn bộ các Cõi. - Bất kỳ lễ hội gì, của quốc gia hay tôn giáo nào đều phải treo cờ Thần. Nên đã có thơ rằng: Lá cờ Thần gió đã rung, Lại reo trên đỉnh Đền Hùng năm xưa. Ngoài ra, còn có một lá phướn (cờ dài) nữa, một bộ cờ Âm Dương?
-
Trong tôn giáo thời Hùng Vương: Theo công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tôn giáo thời Hùng Vương được quy ước như sau: Phương đông: Thần đạo (Thần, Thìn) - sau phát triển thành Phật giáo. Phương nam: đạo Mẫu. Trung tâm: đạo Tổ Tông. Phương tây: đạo Tiên (Đạo giáo, đạo Phù Thủy). Phương bắc: đạo Nho (đạo Nhu). Thần (Thìn) với đặc trưng trục Thìn - Tuất tức đường Xích đạo của trái đất quay quanh mặt trời. Một sự chú ý cầm phải minh định chính xác, đó là: Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ hay là ngược lại!. Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ: ........ La kinh và Bát trạch: Trên thiên bàn Tử Vi, được quy ước các cung hành "Thổ" như Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là giai đoạn "mộ" của các hành trong sự vận động "sinh, vượng, mộ", có sự "khác" với Hậu Thiên Bát Quái, khác với Hà đồ với hành "Thổ" độ số 5, 10 ở trung tâm, vậy thực chất của Hậu Thiên Bát Quái là gì? Hệ quả dẫn đến Tiên Thiên Bát Quái phải chăng nói về khí nhẹ bốc trên thành trời (Thiên), khí nặng tụ xuống thành đất (Địa) định vị? khi mà trong đồ hình Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái không có hành "Thổ"?. Thiên bàn Tử Vi: Không chỉ vậy, để xây dựng Lục thập hoa giáp (sau khi đổi Thủy, Hòa) chúng ta còn thấy công thức Ngũ Vận Lục Khí, trong đó có sự vận động tuần hoàn của Âm Dương Ngũ Hành theo chiều vận động của Hậu Thiên Bát Quái (thuận chiều kim đồng hồ) nhưng có đầy đủ 5 hành, khác hoàn toàn với Hậu Thiên Bát Quái chỉ có 4 hành, vậy sự khác biệt này bản chất ra sao??? Hệ quả tiếp theo, nếu có phân cách giữa các hành là hành Thổ, thì các hành của Lạc thư cũng phải như vậy! Điều này có hợp lý không? Lạc thư: Trong văn hóa thờ cúng Việt, luôn có 3 cốc rựu (tinh), trà (thần), nước (khí), đại diện tam bảo của con người, đồng thời dùng các con vật tế gọi là "tam sinh": bò (tinh), dê (thần), heo - lợn (khí - không nhận thấy được, trong suốt như nước, mềm mại và vận động không ngừng như một dòng sông đang chảy, cũng còn gọi là một sợi chỉ đỏ nối liền và xuyên suốt vạn vật) dùng trong công việc tế lễ Tam Tài: Trời, Đất, Người (Vạn vật hữu tình). Quan hệ tinh, khí, thần là hết sức phức tạp của học thuyết ADNH và các khái niệm khác trong tu luyện khí công của các tôn giáo. Trong Kinh Dịch có viết: "Thần thoát ra tạo nên biến hóa,..", chứng tỏ một sự tương đương với "linh hồn" con người theo các quan niệm tôn giáo và dân gian. Liên quan đến Thần - Thìn - Rồng - phương đông...: TINH - KHÍ - THẦN I. TINH Tinh là vật chất tinh vi nói chung, là vật chất cầu thành cơ thể và nuôi dưỡng cơ thể. Trong quá trình hoạt động sống, cơ thể không ngừng tiêu hao năng lượng, nhưng lại được không ngừng bổ sung tinh để duy trì sự sống. Nội dung tinh bao gồm bốn mặt: Tinh, Huyết, Tân, Dịch. Bốn thứ đó tuy cùng thuộc phạm vi, nhưng tìm về nguồn ngốc, chúng có những tính chất và công năng khác nhau, có thể phân ra như sau: A. TINH (DI TRUYỀN VÀ TINH DƯỠNG) A.a. Nguồn gốc của tinh - Tinh là di truyền sự sống, bẩm thụ tiễn thiên, là vật chất bắt nguồn của sự sống. Đó là Tinh nam, nữ tương hợp làm thành thân hình. Cơ thể con người sau khi sinh, lấy Tinh dinh dưỡng của thuỷ cốc (đồ ăn uống) mà nuôi dưỡng. Cơ thể ngày càng lớn lên, đó là nhờ vật chất dinh dưỡng của đồ ăn, người xưa cũng gọi là Tinh. Về sau này, để tiện giải thích rõ, người ta gọi tinh dinh dưỡng của đồ ăn là Tinh Hậu thiên, con cái di truyền sự sống là Tinh Tiên thiên. Tinh là vật chất cơ bản cấu thành cơ thể, lục phủ, ngũ tạng và các cơ quan. Tinh của tạng, phủ dần dần phát triển đầy đủ, lại quy về Thận mà hoá ra Tinh sinh dục. Do đó, thiên " Thượng cổ thiên chăn luận" sách Tố Vấn nói: "Thận chủ thuỷ, chịu trách nhiệm chứa giữ tinh ngũ tạng, lục phủ, cho nên, ngũ tạng thịnh lại có thể tràn tinh ra..." (Thận giả chủ, thuỷ thụ ngũ tạng, lục phủ chi tinh nhi tàng chi, cố ngũ tạng, lục phủ chi tinh nhi tàng chi, cố ngũ tạng thịnh lại năng tả.) A.b. Công năng của tinh - Tinh cũng có sức sống, là cơ sở vật chất cấu thành của các tổ chức cơ quan trong cơ thể, vì vậy gọi Tinh là Chân âm; mặt nữa nó còn là cơ sở vật chất của nguyên khí trong cơ thể, do đó còn gọi là Nguyên âm. Nguyên âm không những có công năng sinh dục, phát dục, trưởng thành, lại còn có khả năng chống lại các tác nhân có hại cho cơ thể, tránh bệnh tật, vì vậy, thiên "Kim quỹ chân ngôn luận" sách Tố Vấn nói: Tinh là cái gốc của thân, cho nên giữ được tinh khí thì mùa xuân không mắc bệnh ôn dịch" (Tinh giả, thân chi bản dã, cô tàng vu tinh giả, xuân bất ôn dịch). Nếu nguyên âm hao tổn, cơ sở vật chất của nguyên dương sinh ra động kích, sức đề kháng giảm đi rất nhiều, rất dễ dàng bị tà khí xâm phạm mà sinh ra bệnh tật. Tóm lại Tinh là cơ sở của mạng sống, tinh dồi dào thì sức khoẻ sống khoẻ, có khả năng thích ứng với những biến đổi của hoàn cảnh, chống đỡ lại được các tác nhân có hại cho cơ thể; tinh hư thì sức sống giảm yếu, sức thích ứng và sức chống bệnh cũng giảm. B. HUYẾT B.a. Nguồn gốc hoá sinh - Huyết là thể dịch màu đỏ lưu thông trong đường mạch ở cơ thể, không ngừng tuần hoàn. Nguồn sinh ra nó từ trung tiêu Tỳ, Vị. Đồ ăn uống vào Tỳ vị, hoá ra chất nược bột tinh vị, thông qua vận hoá của Tỳ, trú ở Phế mạch, lai hoá làm huyết, vì vậy thiên "Quyết khí" sạch Linh Khu viết rằng: "Trung tiêu nhận khí, lấy nước chấp của khí, biến hoá thành mầu đỏ gọi là huyết" (Trung tiêu thụ khí, thủ chấp, biến hoá nhi xích thị vị huyết). B.b. Công năng của huyết - Huyết là thành phần tinh vi của thuỷ cốc hoá thành, trong đó chứa những vật chất dinh dưỡng, theo đường mạch đi qua ngũ tạng, lục phủ, tứ chi, bách hài (trăm đốt xương), có tác dụng nuôi dưỡng cơ thể sống. Nếu do một nguyên cớ nào đó mà máu tuần hoàn kém lưu thông, da dẻ không đủ huyết dịch, sẽ có chứng tê bại, khó chịu; tứ chi không đủ máu sẽ có chứng tứ chi không ấm, thậm chí yếu mềm không cử động được; vì thế, huyết là vật chất trọng yếu duy trì hoạt động sống trong cơ thể con người. Trong thì lục phủ, ngũ tạng, người thì da, lông, gân, xương, tất cả đều cần đến trạng thái vận hành không ngừng của huyết dịch mới có thể nhận dinh dưỡng đầy đủ và duy trì công năng hoạt động. C. TÂN DỊCH (CHẤT LỎNG TRONG LÀ TÂN, DÉO LÀ DỊCH) C.a. Nguồn gốc và công năng của tân - Tân là một chất lỏng trong cơ thể con người do tinh khí của thuỷ cốc hoá thành, nó theo khí của tam tiêu, rải ra khắp khoảng giữa cơ bắp và da dẻ để nuôi ấm bắp thịt, làm mềm da dẻ, lông tóc. Mồ hôi và nước tiểu là do tân hoá thành, bài tiết qua lỗ chân lông là mồ hôi, vào trong bàng quang là nước tiểu. Do đó nói mồ hôi và nước tiểu có cùng nguồn gốc. Tân bị tổn thương thì mồ hôi tất sẽ ít; ngược lại, bài tiết nước tiểu hoặc mồ hôi quá nhiều cũng làm tổn thương tân. Trên lâm sàng, nhiều mồ hôi thì mất tân. Sau khi nôn nhiều, ỉa nhiều thì cấm phát hãn (không làm cho ra mồ hôi), cũng là vì nguyên nhân này. C.b. Nguồn gốc và công năng của dịch - Dịch là do thuỷ cốc hoá sinh, theo huyết dịch đi qua mạch, thấm qua thành mạch ra ngoài, chứa ở não, tuỷ và khớp, làm trơn khớp, bổ ích não tuỷ, mềm mại tai, mắt, mồm, mũi. Tân và dịch tuy có phân riêng là chủ biểu và chủ lý, nhưng cùng là thuỷ cốc hoá ra, cả hai vốn thộc một thể, vì vậy, trên lâm sàng cũng không phân biệt chia khắt khe mà thương gọi chung là "tân dịch". C.c. Tuần hoàn của tân dịch - Tân dịch thấm ra ngoài để giữ tươi, mềm thịt da, gân, xương, não, tuỷ, và các bộ phận trong, ngoài khác, ở các bộ phận thừa nhiều nước thì thành ra mồ hôi và nước tiểu mà bài tiết ra ngoài, còn tân dịch thì thấm vào tôn lạc quy lại trong kinh mạch, là một bộ phận cấu thành của huyết dịch, hình thành sự hoàn lưu của tân dịch. II. KHÍ Hàm nghĩa của khí có hai mặt: - Một là lưu động của vật chất nhỏ bé khó thấy, như tinh khí của thuỷ cốc là sự vận hành vật chất dinh dưỡng trong cơ thể; - hai là chỉ sức hoạt động của tạng khí trong cơ thể, như khí của ngũ tạng, khí của lục phủ, khí của kinh mạch. Nói chung, hàm nghĩa của khí rất rộng rãi, tức là đại biều cho các loại vật chất nhỏ bé trong cơ thể, đại biểu cho năng lực hoạt động của các bộ phận, các cơ quan trong cơ thể. Khí của cơ thể, về nguồn gốc mà nói, có phân biệt tiên thiêu và khí hậu thiên bẩm thụ ở tiên thiên thì gọi là khí tiên thiên, cũng gọi là "nguyên khí" Khí do thuỷ cốc hậu thiên hoá sinh và khí tự nhiên hít vào đều gọi là khí hậu thiện. Do đó, có thể thấy khí là khái niệm rất rộng, trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ bàn khái quát về Nguyên khí, Tông khí, Doanh khí, Vệ khí. Bốn mặt này, tuy cùng có quan hệ với nhau, nhưng lại cũng khác nhau, nay kể riêng ra như sau: A. NGUYÊN KHÍ: Nguyên khí bao quát khí nguyên dương và khí nguyên âm. Bẩm thụ ở tiên thiên, là khí của tinh tiên thiên hoá sinh. Nguyên khí tăng chứa ở thận, nhờ đường tam tiêu mà thông đạt khắp mình, thôi động ngũ tạng, lục phủ, thôi động tất cả mọi cơ quan, mọi tổ chức hoạt động. Nó là đầu nguồn sinh hoá của thân người. B. TÔNG KHÍ Tông khí tích ở khí hải, vị trí của khí hải ở trong ngực là nơi khí quy tá *cũng là nơi khí toàn thân xuất phát vận động, lưu hành. Khi chu lưu toàn thân phát ra từ khí hải và quay về khí hải, cho nên khí ở trong khí hải gọi là Tông khí. Nguồn gốc của Tông khí là khí của thuỷ cốc hoá sinh và khí tự nhiên hít vào cùng họp mà thành. Công năng của Tông khí là đi qua đường hô hấp giúp cho hô hấp, xuyên qua tim mạch để hành huyết khí. Phàm thở hít, nói năng, giọng điệu khoẻ hay yếu, vận hành khí huyết và sự ấm lạnh cũng như sức hoạt động của tay chân đều có quan hệ với Tông khí. Tông khí và Nguyên khí, tuy một chữa ở khí, tuy một chứa ở khí hài, một chứa ở thận, một đằng là khí hậu thiên, một đằng là khí tiên thiên, nhưng cả hai trong quá trình hoạt động sinh lý lại không tách rời nhau mà cùng gắn liền với nhau. Tông khí và nguyên khí giúp đỡ nhau, kết hợp với nhau mới đem lại tác dụng sung dưỡng toàn thân. Kết hợp cả hai cái gọi là "Chân khí", vì vậy, thiên "Thúc tiết chân tà luận" sách Tố Vấn nói rằng: "Chân khí thụ ở thiên, cùng với cốc khí gồm lại mà nuôi thân". (Chân khí giá, sở thụ vu thiên, vụ cốc khí tính nhi sung thân giả). C. VỆ SINH D.a. Nguồn gốc hoá sinh của Vệ khí - Vệ khí là hãn khí (dương khí mạnh mẽ) trong đồ ăn uống, nó có tính chất cực kỳ linh hoạt (sống động), trơn tru, nhanh nhậy, lại thẩm thấu, vì thế Vệ khí tuy có nguồn gốc ở Tỳ Vị mà lại do thượng tiêu tưới rải toàn thân D.b. Công năng của Vệ khí - Vệ khí do thượng tiêu tưới rải, theo ngoài mạch mà đi, ở trong thì hun vào hoang mạc, tản vào ngực bụng để ôn dưỡng ngũ tạng, lục phủ; ở ngoài thì theo phía trong da, giữa khe các bắp thịt để ôn dưỡng cơ bắp, da dẻ mà giúp thêm cho lỗ chân lông giữ kín chắc. Vì vậy, Vệ khí không những ôn dưỡng (nuôi ấm) tất cả các tổ chức, các tạng khí trong ngoài, mà còn có công năng bảo vệ cơ biểu, kháng cự ngoại tà. D.c. Vận hành của Vệ khí - Vệ khí đi ở ngoài mạch, tuy dựa theo đường mạch mà đi, nhưng phương hướng vận hành không hoàn toàn giống doanh khí. Đặc điểm chủ yếu trong sự vận hành của vệ khí liên quan với biến hoá ngày đêm. Ban ngày đi ở dương, ban đêm đi ở âm. Đi ở dương là đi ở thủ túc dương kinh, đi ở âm là đi ở ngũ tạng. Ban ngày đi ở dương, bắt đầu từ mắt lên đến đầu, đi xuống chân, đi vào kinh ở tay, phần lớn tản ra mà không hoàn lưu lại. Đi ở kinh chân qua lòng bàn chân vào túc thiếu âm kinh, chuyển đi theo kiều mạch trở về vào mắt, rồi lại từ mát đi ra, cứ thế tuần hoàn không ngừng. Ban đêm đi ở âm, tức là từ túc thiếu âm kinh, trú tại Thận, sau đó đi qua Tâm, Phế, Can, Tỳ mà trở lại Thận. Như thế, ngày thì đi ở thủ túc tam dương, đêm đi ở ngũ tạng trong âm, một ngày một đêm là 50vòng quanh thân người, chia đều 25 vòng ở dương, 25 vòng ở âm. D.d. Quan hệ của Doanh khí với Vệ khí - Vệ khí và Doanh khí là hai loại vật chất về mặt hoá sinh là cùng nguồn gốc, nhưng khác cách đi. Doanh là tinh khí của thuỷ cốc, tinh khí thuộc âm, tính là nhu thuận, làm cho Doanh đi trong mạch, Vệ là hãn khí của thuỷ cốc, hãn khí thuộc dương, dương tính cứng mạch, làm cho Vệ đi ngoài mạch. Nhưng âm dương cùng nhau chế ước, cùng nhau chuyển hoá, vì vậy các học giả đời sau có luận điểm "Vệ khí vào mạch tức là Doanh, Doanh khí đi ra ngoài mạch tức là Vệ", để nói rõ hai thứ Doanh Vệ trong trạng thái sinh lý bình thường thì không ngừng chuyển hoá cho nhau. Nếu như hoạt động tương hỗ chuyển hoá giữa Doanh và Vệ sinh ra trở ngại, sẽ thấy xuất hiện chứng Doanh Vệ bất hoà. Do đó, Doanh khí và Vệ khí tuy công năng và vận hành khác III. THẦN A. KHÁI NIỆM VỀ THẦN Thần là một khái niệm về hiện tượng hoạt động sống của con người (bao gồm tinh thần, ý thức, tri giác, vận động ...) Thần do tinh tiên thiên sinh thành. Lúc phôi thai hình thành, cái thần của sinh mạng cũng đã sinh ra rồi. Thiên "Bản thần" trong sách Linh Khu viết: "Cho nên nói đem lại sự sống gọi là Tinh, hai Tinh tác động nhau gọi là Thần (... Cố sinh chi lai vị chi Tinh, lương Tinh tương bác vị chi thần)..." Vì vậy Thần tuy là một khái niệm trừu tượng nhưng nó có cơ sở vật chất nhất định. Thần sinh ra từ tinh tiên thiên, tất cần tinh của hậu thiên bổ dưỡng mới có thể duy trì, vì vậy, thần có quan hệ mật thiết với tinh, huyết, tân, dịch, doanh, vệ. Thiên "Bình thân tuyết cốc" sách Linh Khu nói: "Thần là tinh khí của thuỷ cố" (cố thần giả, thuỷ cốc chi tinh khí dã). Thiên "Bát chính thần minh luận" sách Tố Vấn cũng nói: "Khí huyết là thần của con người không thể nuôi dưỡng cẩn thận "(Khí huyết giả, nhân chi thần, bất khả bất cẩn dưỡng). Đó là nói về thần và tinh hậu thiên cũng không thể phân chia ra. Chỉ có ngũ tạng điều hoà, tinh huyết cung dưỡng chu đáo, đầy đủ, mới có thể giữ gìn được thần thịnh vượng Thân là biểu hiện của sức sống, do đó tinh thần suy, là dấu hiệu mạnh yếu của sức sống. Thần còn thì sống, thần đi là chết. Thần đầy đủ thì thân mình khoẻ, thần suy thì thân mình yếu. Thiên "Thiên niên" (tuổi trời) sách Linh Khu có chỗ nói: "Mất thần thì chết, được thần thì sống" (thất thần tắc tử, đắc thân tắc sinh), cũng là nói về đạo lý này. B. QUAN HỆ GIỮA THẦN VỚI TINH, KHÍ Quan hệ giữa tinh, khí và thần là điều kiện chủ yếu duy trì hoạt động sống. Mạng bởi thần. - Tinh là cơ sở của thần, - Khí là hoá sinh của Tinh - Thần là biểu hiện của Khí Tinh nhiều, khí đủ thì Thần vượng. Ngược lại, Tinh hoa, Khí tổn thì Thần suy. Ba thứ, tinh, khí, thần thịnh suy có quan hệ tới sự khoẻ yếu của con người, quan hệ tới sự tồn vong của mạng sống, do đó người xưa gọi Tinh, Khí, Thần là "tam bảo" của con người.
-
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, tranh Đông Hồ có bộ tranh Ông Tơ - Bà Nguyệt: "Ông Tơ xe chỉ thắm, Bà Nguyệt kết giải đào" thể hiện rồng không có chân và chim phượng hoàng cụ thể. Theo bác sĩ Nguyễn Xuân Quang trong bài viết Biểu tượng tiên rồng. Tốt nhất là lấy hình chim cắt và rắn nước thần trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn làm biểu tượng cho Tiên Rồng là hay nhất, chính thống nhất, mang bản sắc thuần Việt nhất, là nguyên thủy nhất. Đầu thuyền trên trống Hoàng Hạ có hình chim mỏ rìu, chim cắt cắm và miệng đang há to của Rắn Nước thần dưới dạng lưỡng hợp Chim Nõ Rắn Nường, nguyên thể của Tiên Rồng nhất thể. Thuyền đầu rắn nước, đuôi chim mỏ cắt trên trống Sông Đà dưới dạng lưỡng hợp Rắn Nước-Chim Cắt Lửa, nguyên thể của Rồng Tiên, Lạc Việt. Muốn lấy theo dạng thần thoại hóa thì lấy hình chim cắt, rắn nước đã cách điệu hóa, thể điệu hóa tức là dưới dạng thần thoại hóa đúng theo nghĩa Tiên Rồng. Một chiếc thuyền trên trống Quảng Xương có đầu hình rắn nước và đuôi là đầu chim cắt đã cách điệu hóa tức đã thần thoại hóa. Đây là dạng Rồng Tiên Rắn Nước-Chim Cắt. Con thuyền này ở dạng Lạc Hồng (Rắn Lạc, Rắn Nác, Rắn Nước và Hồng là chim Hồng Hoàng, tức chim cắt). 9 con của rồng Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau. Phóng toBị hí (tên khác là bá hạ, bát phúc, thạch long qui) là con trưởng của rồng - linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá... Li vẫn (còn gọi là si vẫn) - con thứ hai của rồng, là linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Tương truyền li vẫn thích ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài... ngụ ý cầu trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình. Bồ lao Con thứ ba của rồng, là linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn. Bệ ngạn (còn gọi là bệ lao, hiến chương) là con thứ tư của rồng, có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện. Thao thiết con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự. Công phúc con thứ sáu của rồng, là linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân. Nhai xế Con thứ bảy của rồng - là linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc. Toan nghê (còn gọi là kim nghê) - con thứ tám của rồng - linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát. Tiêu đồ (còn gọi là phô thủ) - con thứ chín của rồng - là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà. Ngoài chín con nói trên, gia đình rồng còn có một số linh vật khác như: tù ngưu - linh vật giỏi về âm nhạc; trào phong - linh vật được gắn trên nóc nhà ngụ ý chống cháy và thị uy kẻ xấu (giống li vẫn); phụ hí - linh vật bảo vệ bia mộ. Phóng to Tù ngưu Trào phong Phụ hí Th.S NGUYỄN NGỌC THƠ (Đại học KHXH&NV)
-
Cuốn sách xưa nhất nói về rồng vàng, phượng hoàng, kỳ lân và rùa vàng (kim quy) là Kinh Thư, đây là các biểu tượng của các chòm sao trên bầu trời phương bắc, Nhị thập bát tú, san định bởi Khổng Tử (551-479 TCN), và các nhà nghiên cứu lịch sử được cho là nó hình thành từ thời Tây Chu. Sử sách cũng ghi lại Hùng Vương giao hiếu với vua Nghiêu và tặng một con rùa trên mai ghi chép trời đất từ lúc mở mang, vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Lịch Rùa. Kinh Dịch chép quẻ Bát Thuần Càn: liên quan đến rồng và hào Dụng cửu ghi: Kháng long hữu hối tức một bầy rồng không có con dẫn đầu là rất tốt - chưa hiểu hàm ý của nội dung này trong các cuốn Dịch viết hiện nay. Thiên văn - Nhị thập bát tú: Rồng: biểu tượng phương đông Phượng hoàng: phương nam. Kỳ lân: phương tây. Rùa: phương bắc. Các chòm sao Thiên cực bắc: - Chòm sao Vũ Tiên (Vụ Tiên) - Hercules - Chòm sao Thiên Long. - Chòm sao Tiểu Hùng. Phong thủy địa lý: Rồng: biểu tượng phương đông Phượng hoàng: phương nam. Hổ: phương tây. Rùa: phương bắc. Khí công: Rồng: biểu tượng phương đông Rắn hổ mang (rắn lửa): phương nam. Hổ: phương tây. Rùa: phương bắc. Dịch: Quẻ Bát Thuần Càn. Hào dụng cửu: Kháng long hữu hối. Núi sông Văn Lang: - Đảo Bạch Long Vĩ, có thôn Phù Thủy Châu. - Rồng như là các dòng sông. Tôn giáo: - ... - Nha Chương, rìu Việt. - Pháp khí trong điện thờ: + Phương đông: trống. + Phương nam: vạc. + Phương tây: chuông (chiêng, cồng). + Phương bắc: lư hương. Cổ vật Đông Sơn: Trống đồng và các cổ vật khác. Trống đồng Ngọc Lũ I, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam Có chòm sao Trường Xà trên bản đồ thiên văn, có con chim đậu ngay sao đuôi chim giống như hình những chiếc thuyền trên trống đồng. Trường Xà (Hydra), Ô Nha (Corvus) và Cự Tước (Crater) Cự Tước được hình dung là một bát rượu lớn đặt trên lưng rắn (Trường Xà) để thưởng công cho Hercules. Phía đuôi rắn là con quạ đen (Ô Nha). Chòm sao Cự Tước: : Đông y: Rồng là kinh mạch, đặc trưng là Nhâm Đốc mạch. Văn hóa: Rồng - Bạch Long là? hóa thân: Chúa tể cõi thần thánh. Phượng hoàng - Bạch trĩ hóa thân: chúa tể loài chim. Kỳ lân - Kim lân là hổ hóa thân: Chúa tể loài động vật trên cạn và người. Rùa - Kim quy: Chúa tể thủy tộc và lưỡng cư. Trò chơi Rồng rắn lên mây. Lịch sử Hùng Vương: - Phương đông: Kinh Dương Vương - Long Nữ. - Phương nam: Đế Minh - Vũ Tiên. - Phương tây: Hùng Quốc Vương - Thánh Mẫu. - Phương bắc: Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cổ vật khai quật được có hình Nhị thập bát tú trên hộp sơn mài thời Đông Chu của một vương hầu tỉnh Hồ Bắc, khoảng 400 TCN. Cổ vật đồ đồng và ngọc thời Hạ, Thương (2300 - 1100 TCN) với hình ảnh con rồng có hai sừng dê, mõm liên hợp cá sấu và dê, thân hình của mãng xà, có 4 chân. Một ngôi mộ khai quật tỉnh Hồ Nam có hình rồng, hổ vỏ sò cũng có niên đại sớm, hình rồng như một con cá sấu. Một cái đĩa đồng Thương Nhị thập bát tú trên hộp sơn mài: Liên kết dữ liệu trên, chứng tỏ rằng, các biểu tượng động vật trên đã có từ rất sớm trong nền văn hóa Đông phương. Trong lịch sử văn hóa Tây phương, cũng có "con rồng" và "con phượng hoàng" nhưng rất cụ thể, chẳng hạn rồng thì như một con rắn lớn, phượng hoàng được xem như một loài chim cụ thể chưa được "thần thoại hóa hình ảnh" như con cò trắng bennu của Ai Cập cổ... Bennu Trong Tân Ước cũng đề cập đến con "rồng" nhưng thực sự, đây là bản dịch chữ "rồng" ở đây, chính là con rắn lớn, mãng xà, thực sự chả ai hiểu mô tê răng rứa chi cả, bởi " con rắn biểu tượng cho thời gian", giết rắn tức chiến thắng thời gian, cái chết. Đồng thời, bản dịch định "chơi" biểu tượng con rồng Đông phương là chính, tiêu diệt biểu tượng của các dân tộc và phá hủy văn hóa, công trình tôn giáo khác cũng là một trò chơi vô hình của tôn giáo.
-
Một đặc thù quan trọng trong việc khai quật lịch sử Việt thời thượng cổ đó là áp dụng công thức "Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ" của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, công thức này liên quan đến tất cả các bộ môn như phong thủy, tử vi, Dịch, Thái ất, Độn giáp, Y lý... Riêng môn Thái Ất lại chỉ ra công thức này tức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ. Tuy nhiên, khi áp dụng vào Đông y, lại có một vấn đề xuất hiện, đó là Lạc thư (lý tương khắc của Ngũ Hành) có sự liên kết tới Hà đồ (lý tương sinh của Ngũ Hành), được quy ước cho kệ thống kinh mạch chạy trong cơ thể, hệ thống này không thấy được bằng mắt thường. Như vậy, chẳng nhẽ Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ còn có mối liên hệ đến Lạc thư? Vậy Lạc thư nằm ở đâu trong công thức trên hay trong công thức nào khác nữa!. Điều này hàm ý, khi chúng ta quy ước cụ thể từng kinh mạch trong hệ thống kinh mạch toàn cơ thể theo Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ mà không chú ý tới Lạc thư thì hoàn toàn bế tắc trong Đông y?. Như đã viết về "Việt", chúng tôi muốn nhận định thêm về ý nghĩa "Con Rồng cháu Tiên" trong mối quan hệ "Việt" để rộng đường nhận định thêm về sử Việt. Con Rồng cháu Tiên là một huyền thoại về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Con Rồng cháu Tiên là tên xưng hô đầy tính tự hào của tất cả dân tộc Việt Nam xuất phát từ quan niệm của họ về xuất thân liên quan đến truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên. Trong cách gọi này, Rồng chỉ Lạc Long Quân và Tiên chỉ Âu Cơ. Người Việt Nam tự gọi mình là Con Rồng cháu Tiên tức là nhận mình là dòng dõi của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đây là tên gọi thường dùng trong thơ ca Việt Nam với hàm ý kêu gọi sự đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Ngoài ra, dân tộc Việt Nam cũng gọi nhau là đồng bào với nghĩa tương tự. Huyền thoại Con Rồng cháu Tiên nói rằng, vua Lạc Long Quân thuộc dòng dõi Rồng lấy Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai. Sau này, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, vì mẹ là giống Tiên, và cha là giống Rồng và từ đó sinh ra một dòng giống Việt Nam. Từ đó dòng giống Việt ngày càng phát triển. Con trai cả theo mẹ được tôn xưng làm vua tức Hùng Quốc Vương, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước thành 15 bộ. Tiên được hiểu là người sống trên núi, hiền từ thanh thoát, sống mãi không chết. Còn rồng, được coi là chủ tể của biển cả, làm mưa làm gió, thiên biến vạn hóa, tài phép khôn lường. Bộ sách sử cổ Đại Việt sử ký toàn thư của Việt Nam cũng chép về huyền thoại tương tự, nhưng bỏ bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, mà chỉ nói đến Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra trăm người con[1] Sau này, An Dương Vương đặt tên nước Âu Lạc cũng hàm nghĩa Âu Cơ và Lạc Long Quân, Âu Việt thuộc vùng cao và Lạc Việt thuộc vùng thấp: "Âu theo mẹ lên núi, Lạc theo cha xuống biển". An Dương Vương là Bộ chủ bộ Vân Nam, vùng cao (tất nhiên, An Dương Vương sẽ lấy công chúa, con gái của Hùng Vương chi XVIII thứ 107 để kế thừa vương vị một cách chính thống, "Thục Phán cũng là con cháu của Hoàng Đế" tức Đế Minh). .
-
Qua sự phân tích về ý nghĩa của các kiểu chữ "Việt" kể từ thời Thương tới nay, chúng ta nhận thấy có rất nhiều ý nghĩa về vũ trụ quan và nhân sinh quan, và có thể nhận định "Việt" là người vũ trụ, người mặt trời, người tự do, kẻ đã vượt khỏi sinh tử, người giải thoát... tuy nhiên, chúng ta cần phải xem xét lại cách gọi tên trong quá trình lịch sử của dân tộc. Như đã biết, Kinh Dương Vương là thần Mặt Trời, Đại Nhật Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật, "Ông Tổ của các tôn giáo" đồng thời là chòm sao Thiên cực bắc Thiên Long, chòm sao Bắc Đẩu - Đại Hùng, trong khi đó Hùng Quốc Vương là chòm sao Tiểu Hùng - Bắc Cực, Lạc Long Quân là chòm sao Thập Tự - Nam Cực... các vua Hùng có hiệu "Hùng" đều ứng với 36 Thiên Cương (các chòm sao trên trời) và 72 Địa Sát (xuyên sơn). Trong kinh Phật, một vị Phật còn gọi là Đấng "Đại Hùng, Đại Trí, Đại Từ Bi".... cùng các danh hiệu khác, và trung tâm của một ngôi chùa là điện Đại Hùng. Đặc biệt và duy nhất đặc biệt, nội dung văn bia Sùng Thiện Diên Linh của chùa Đọi, Hà Nam, thời vua Lý Nhân Tông có viết: "Dòng dõi ta thuộc dòng dõi Đại Hùng...". Nội dung văn bia này là một áng văn tuyệt mỹ, cực kỳ kiếm thấy chứng tỏ những nhân vật thời kỳ này rất siêu đẳng, những chân nhân đắc đạo, những vị này nắm rất rõ lịch sử thời Hùng Vương và đã mã hóa nó do chưa tới thời kỳ phục hưng, thực sự rất khó tìm thấy trên thế giới có một áng văn nào độc đáo như vậy, kể cả ngày nay. Đây là một chi tiết cực kỳ quý hiếm, vô cùng đắt giá. Văn bia bổ sung những tư liệu lịch sử quý về cuộc đời và sự nghiệp của Vua Lý Nhân Tông và Thái úy Lý Thường Kiệt, đồng thời phản ánh triết lý duyên khởi của Phật giáo cũng như tình hình Phật giáo ở thời Lý. Ngoài ra, văn bia còn ghi lại nhiều tư liệu lịch sử quý về nghệ thuật điêu khắc kiến trúc xây dựng các chùa lớn, tháp cao như chùa Một Cột, chùa Long Đọi, tháp Sùng Thiện Diên Linh…, đặc biệt là hội đèn Quảng Chiếu mở 7 ngày 7 đêm ở kinh thành Thăng Long, kết hợp hai tính chất Phật giáo và thế tục. Bia Sùng Thiện Diên Linh cũng ghi lại những tư liệu quý hiếm về nghệ thuật múa rối nước (Những công trình này đều xác định rõ các "vua Hùng" thời Hùng Vương ẩn là "Đám rước kiệu đi Thần về Phật" của các chân nhân như Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh...). Vậy thì, rất rõ ràng, "Việt" chính là "Đại Hùng", "Đại Anh Hùng" - Người Anh Hùng - biểu tượng chòm sao Đại Hùng trung tâm của bầu trời như một chiếc kim chỉ Nam định hướng 4 phương - Người Vũ Trụ - là Mặt trời ở trung tâm Hệ mặt trời nguồn sống của vạn vật - biểu tượng của Kinh Dương Vương - Người Mặt Trời - vị vua đầu tiên của 18 chi Hùng Vương với 108 vua Hùng và "ẩn hình" là Đế Minh, tức "Người đã chiến thắng chính mình, có thể là một người bình thường đạt tới mà không cần biết Chân Lý tối thượng" và "Người đã nắm được Chân Lý (Việt, ẩn, sau khi chiến thắng chính mình, trí tuệ tự phát sáng và lại hiểu Chân Lý tối thượng)". Thời đại của các vị là thời đại Anh Hùng, cho nên Hùng Quốc Vương - người đặt tên nước Văn Lang được tôn thờ là: Thần Anh Hùng, Thần Vũ Dũng, xuống cõi Địa Ngục để giáo hóa chúng sinh - Địa Tạng Bồ Tát. Trong khi đó Lạc Long Quân biểu tượng cho Đại Bi, còn Kinh Dương Vương biểu tượng cho Đại Trí, bộ ba Tam Hoàng: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương đại diện cho Trí, Bi, Dũng. Đế Minh hay các vị trong Ngũ Đế, đã siêu xuất rồi, vượt khỏi ngôn từ. (Ghi chú: tới đây chúng ta thấy rõ ràng và chính xác Hùng Vương hay Lạc Vương!. Đồng thời, gọi chung là "Việt" - "Bách Việt" hoặc "Âu Lạc" chứ không gọi riêng Lạc Việt - vùng thấp hoặc Âu Việt - vùng cao).
-
2. Chữ Việt giáp cốt văn theo Bình Nguyên Lộc: Chữ Việt bộ Mễ (lúa) có cái móc hình lưỡi hái gặt lúa ở phía dưới thành cái gọi là “Chữ Việt tượng hình cái Rìu đời Thương" (Hình 6) dưới đây: Hình 6 : Chữ Việt tương hình đời Thương Chữ Việt hình chiếc rìu Yue mang ý nghĩa tương tác - Khí trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đồng thời cũng là phương bắc trong bốn phương - Lạc Long Quân. Trong khi đó chiếc chĩa ba biểu tượng cho phương nam, chiếc chĩa ba mang ý nghĩa Thái Cực (mũi giữa) - Lưỡng Nghi (hai mũi ở hai bên, bên trái từ trong nhìn ra là Dương, mũi đối xứng qua mũi giữa là Âm) - Đế Minh. Trong văn hóa đạo hindu Ấn Độ, chĩa ba là biểu tượng của thần Shiva, biểu tượng cho 3 đường kinh mạch chính trên cơ thể người: kinh trung ương chạy dọc trục xương sống, hai kinh Âm Dương còn lại cũng chạy dọc xương sống nhưng bên ngoài, hai kinh này bao quanh xương sống như sợi dây thừng bện. Thần Shiva hay Đế Minh là ông tổ của pháp môn Yoga (khí công). Trong giáp cốt văn hay chữ Trung Hoa cổ, chữ Vạn (Phật) là biểu tượng chiếc chĩa ba chấn thẳng vào chiếc đuôi nguy hiểm của con bọ cạp, và như đã phân tích ở trước, chữ Vạn là biểu tượng của Phật A Di Đà - Đế Minh và được khắc trên ngực của các vị Phật. Chữ "Vạn" mang ý nghĩa cổ "Đại Hòa", tên nước thời Đế Minh gồm: Văn Lang và Trung Hoa. Khi tu luyện Yoga của thần Shiva, đả thông được 7 luân xa thì đạt đến trạng thái hòa nhập toàn thể vũ trụ, cũng gọi là Đại Hòa, còn thông luân xa 1..6 làm thay đổi toàn bộ nhận thức về thực tại gọi là Tiểu Hòa. (Chữ Vạn đúng, không có 4 chấm tròn kèm theo) Qua đó chúng ta thấy, sự ăn khớp một cách chi tiết của hệ thống biểu tượng giữa các nền văn hóa, tôn giáo với lịch sử Hùng Vương, chính xác tới tận từng chiếc răng của chĩa ba. Quay trở lại chiếc rìu Việt giáp cốt Thương, đây chính là bản đồ của nước Văn Lang thời Hùng Vương (ý tưởng này của một tác giả khác), được phát triển thêm khi nhận biết: - Hồ Tôn là Ấn Độ (người Hồ). - Các bộ Văn Lang gồm cả Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippine... Trong đó, cán rìu chính là dòng sông Dương Tử, kéo dài đến tận Tây Tạng, dưới đây là hình ảnh của chiếc rìu Đông Sơn, thường gọi là rìu hài (rìu hia, rìu hình thuyền), trang phục quan lại thời Hùng Vương hay cũng của các pháp sư khi tế lễ. Rìu đồng Hà Đông - ảnh BTLSVN Trên chiếc rìu này có hình thuyền, mũi và lái thuyền có chữ Nhật, Nguyệt và hai người đứng trên thuyền giơ hai tay lên cao như hướng về mặt trời mọc, ngày mới bắt đầu. Phía dưới là con hưu và nai, cùng một con chó nhỏ. Hình chiếc hài là phổ biến, hoa văn trên rìu có nhiều loại và mang những ý nghĩa khác nhau, nhưng chúng cũng sẽ có những ý nghĩa quan trọng chung nhất. 3. Chữ Việt bộ Mễ thời Thương: Chữ Việt bộ Mễ không thể tách rời chữ Việt rìu, trên chữ Việt bộ Mễ ngay phía dưới là chiếc rìu và phía trên là chữ Mễ (lúa) trong một hình vuông, hình vuông có râu trên đầu trong giống như một cái bao chứa lúa, cũng giống như một con rùa, hình vuông còn mang ý nghĩa chỉ "đất", và như vậy giống hình ảnh bốn phương tám hướng - định vị trên mặt đất và không gian bằng la bàn có kim chỉ Nam. Chúng ta kết hợp với chữ Việt thời Thương có rìu và chĩa ba ở trên, thì biểu tượng phát triển thêm thành Tứ Tượng, Bát Quái. "Mễ - lúa mộc" so với "rìu kim loại" sẽ Dương hơn theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, do vậy cấu trúc: trên là Dương, nam dưới là bắc, Âm. Mộc cũng thể hiện phương đông, mặt trời, còn Rìu là mặt trăng, hệ quả đây còn mang ý nghĩa của chữ "Dịch" ứng với quẻ 64 - Thủy Hỏa Vị Tế trong Kinh Dịch. Như vậy, chữ Việt này sẽ mang ý nghĩa Văn Lang là trung tâm hay cội nguồn của nông nghiệp lúa nước, đấy là lý do hình chiếc rìu "biến thể" trông như chiếc liềm cắt lúa (hình mặt trăng khuyết), tất nhiên cũng là nơi xuất phát học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. 4. Chữ Việt bộ Tẩu thời Thương và chữ Việt trên thanh gươm Việt Vương Câu Tiễn: Chúng ta lưu ý, con rồng hai sừng (đặc trưng rồng thời Thương) trên chữ Việt I (Việt Vương Câu Tiễn) sẽ tương đương hình một nửa chiếc thuyền rồng của chữ Việt II (bộ Tẩu), còn hình mặt trời (vòng tròn chấm) sẽ tương đương cánh buồm hình chữ "Vương", như vậy đây là chiếc thuyền Vương. Trong truyền thuyết Bàn Vương của người Dao, tổ của họ là Bàn Vương cứu con cháu người Dao vượt biển trong cơn nguy hiểm, dữ liệu này rất đáng lưu tâm. Hình người cầm vũ khí giữa hai chữ Việt là tương đương, vũ khí rõ ràng là chiếc qua. Chữ "Vương" hay "Hoàng" biểu tượng cho Tam Hoàng, ở đây là Kinh Dương Vương đứng đầu trong Tam Hoàng, biểu tượng cho phương đông và như vậy, chiếc qua này là hình ảnh của phương đông, mặt trời. Đây chính là con thuyền mặt trời, trong văn hóa Bách thần Ai Cập, con thuyền này mô tả rất chi tiết. Thuyền Mặt trời Ai Cập Nếu chúng ta liên hiệp các chữ Việt, thì đây là con thuyền trí tuệ (Bát Nhã) của thần mặt trời Kinh Dương Vương, truyền bá học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và nông nghiệp... vượt đại dương đi khắp năm châu thời thượng cổ, trong Phật giáo gọi là "con thuyền Bát Nhã" tức Đại Nhật Phật - Tỳ Lô Giá Na Phật. Từ đó mới biết rằng, bộ kinh vĩ đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là của Kinh Dương Vương: Giải nghĩa câu chú Tiếng Phạn Chữ Devanāgarī Chữ Latin hóa Phát âm (theo IPA) Âm Hán Việt Dịch nghĩa गते गते Gate gate [gəteː gəteː] Yết đế, yết đế Vượt qua, vượt qua पारगते Pàragate [pɑːɾə gəteː] Ba la yết đế Vượt qua bờ bên kia पारसंगते Pàrasaṃgate [pɑːɾəsəm gəteː] Ba la tăng yết đế Vượt qua hoàn toàn बोधि स्वाहा Bodhi svàhà [boːdɦɪ sʋɑːhɑː] Bồ đề tát bà ha Tuệ giác Thành tựu. (ghi chú: chữ "qua, qua, qua" cũng là tiếng kêu của con quạ - biểu tượng của mặt trời (màu sắc lông đen tuyền, chuyên ăn xác chết, được xem như lời cảnh báo về cái chết). Kinh sách cổ Ai Cập nói về mảnh đất của Thần Thánh chính là nói về kinh đô Phong Châu - Văn Lang: phải vượt nhiều biển về phương nam mới tới được. Chúng ta chú ý, chiếc qua biểu tượng cho phương đông, sự sinh, còn chiếc đao - biểu tượng cho phương tây - sự tử. Trục bắc - nam (rìu - chĩa ba) gọi là trục định vị, trục đông - tây (qua - đao) gọi là trục Sinh - Tử. Trong lễ hội người Dao, có một tục lệ là các pháp sư bước chân trần lên cầu thang có bậc là những chiếc dao sắc, khi nhập đồng họ đi lên một cách dễ dàng. Trục thiên đỉnh, nối trái đất đi qua trục xương sống tới đỉnh đầu của một người, đi tới bầu trời gọi là trục "Thần đạo", trục nối Tam Tài thiên, địa, nhân hay còn gọi là trục vũ trụ, trục này dùng trong pháp môn tu luyện Yoga. 5. Ý nghĩa thiên văn Chữ Việt bộ Tẩu và chữ Việt thời Việt Vương Câu Tiễn còn mang ý nghĩa thiên văn: - con Rồng biểu tượng chòm sao Thiên Long: thời Thương trục Thiên cực bắc hướng về chòm sao này, biểu tượng của Kinh Dương Vương. - Người cầm qua: biểu tượng chòm sao Vũ Tiên (Hercules) hoặc chòm sao Thợ Săn (Orion), ở đây tôi xác định là chòm sao Thợ Săn sáng nhất trên bầu trời, hình ảnh của phương Nam, biểu tượng của Lạc Long Quân: "Định mệnh như một gã thợ săn" tức cái chết luôn rình rập, tử thần muôn mặt - cách ngôn. - Mặt trời hình tròn chấm tương đương cánh buồm chữ Vương: tâm điểm chòm sao Tiểu Hùng, thời kỳ Việt Vương Câu Tiễn trục Thiên cực bắc hướng về chòm sao này, biểu tượng của Hùng Quốc Vương. Chữ Việt bộ Tẩu chính là biểu tượng cho Tam Hoàng. Con thuyền Bát Nhã là nói về cái Lý thống nhất của vũ trụ và cái Lẽ sinh tử của vạn vật hữu tình. Chữ Việt bộ Mễ còn một ý nghĩa cực kỳ quan trọng khác, đó là tôn giáo: Mễ - Lúa là biểu tượng của Thần Nông Viêm Đế - biểu tượng cho đạo thờ Tổ Tông, ở trung tâm của Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, cấu trúc tôn giáo thời Hùng Vương phải giải mã các bàn thờ trong một gia đình, bản làng, kinh đô, non nước của người Việt mới thực sự sáng tỏ được.
-
1. Chữ Việt giáp cốt văn cổ nhất (trích từ bác sĩ Nguyễn Xuân Quang): Chiếc rìu ở từ Việt ‘Yue’ trong giáp cốt văn đời nhà Thương. Từ Việt yue trên giáp cốt văn (Wang Hongyuan). Lưu ý: ta thấy chiếc rìu Việt Yue ở đây có đầu lưỡi tô đậm quay từ phải sang trái ứng với từ trong nhìn ra, cán rìu làm thành một trục thẳng đứng, cuối cán rìu là hình chĩa ba hướng từ trên xuống, nếu cho rằng cán rìu cũng là cán chĩa ba. Hình vòng tròn O ở đây, đối xứng lưỡi rìu qua trục đứng là cán rìu chính là biểu tượng của Thái Cực. Như đã phân tích, O cũng chính là biểu tượng của minh châu, ngọc viên giác, sự hợp nhất chất của Đế Minh - Vũ Tiên. Một cách tương ứng, chiếc rìu thể hiện sự phân định âm dương hay tương tác ("Khí", trong môn khí công Yoga Ấn Độ "Khí" được gọi là prana), bời vì chúng ta nhớ rằng trong truyền thuyết Ông Bàn Cổ đã dùng một chiếc rìu bổ vào khoảng không vũ trụ đen ngòm, một tiếng nổ tung "AUM" không thể tưởng tượng được vang lên, sau đó diễn ra khí nhẹ bay lên thành trời, khí nặng tụ xuống thành đất: "Thủy phán Âm Dương". Như vậy, trục định vị hay cán rìu xác định hướng bắc - nam, chiếc rìu Yue còn là hình ảnh của mặt trăng, Âm, biến Dịch hết tròn lại khuyết, do vậy ứng với phương bắc trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, vậy thì mũi chĩa ba ứng về phương nam. Mũi chĩa ba nếu kéo dài mũi nhọn giữa cao hơn hai bên, sẽ trở thành chữ "Núi - Sơn" (Shan). Trên cấu trúc Tứ Tượng bốn phương thì phương nam ứng với Đế Minh, đông ứng với Kinh Dương Vương, bắc ứng với Lạc Long Quân và tây ứng với Hùng Quốc Vương, ở đây chĩa ba ứng với Đế Minh đã được xác định. Như vậy, chiều từ phải qua trái của lưỡi rìu xác định chiều thuận kim đồng hồ của Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, rìu - phương bắc và chĩa ba - phương nam xác định "trục định vị". Do vậy, khi sử dụng Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ vùng bắc bán cầu thì phải điều chỉnh hướng bắc lên trên và nam xuống dưới mới đúng quy tắc, tức xoay 180 độ lại. Còn khí ứng dụng cho nam bán cầu thì Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ vẫn giữ nguyên nhưng đảo ngược phương nam thành bắc và đông thành tây, lúc này mặt trời mọc luôn hướng đông, Tiên Thiên Bát Quái chỉ là một không có gì thay đổi, tức Càn trên Khôn dưới. Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái trong các sách cổ: Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (trích từ sách của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh): Giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái có liên quan đến biểu tượng quy ước: đó là các vạch dương âm, kết hợp lại thành 8 quái, biểu tượng cho mỗi cung 45 độ trên la kinh. Sự quy ước này sẽ được phân tích cự thể sau, trong đó nền tảng là nhận thức về một năm trái đất quay xung quanh mặt trời tạo nên xuân, hạ, thu, đông và một ngày trái đất quay quanh trục của nó tạo nên sáng, tối từ đó xác định các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành lớn hơn từ thiên văn,cùng với trục quay của trái đất hướng theo trục Thiên cực bắc và trục định vị bắc - nam của la bàn. Đồng thời, quan sát cấu trúc núi sông, nhiệt độ bề mặt đất liên quan mà định hình nên Hậu Thiên Bát Quái. Từ các kết quả đó mà định hình với Thái Cực - Âm Dương - Tứ Tượng để quy ước chúng thông qua các biểu tượng. Cũng chú ý rằng, tự thân các biểu tượng, theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cũng nằm trong một tổ hợp ADNH nào đó. Đây là một những vấn đề rất phức tạp, liên quan đến đặc trưng của Âm Dương Ngũ Hành trái đất và các hệ quả của nó là con người và vạn vật. Tứ Tượng biến hóa vô cùng là nói về vạn vật trên trái đất. Nhiệt độ trung bình thay đổi mạnh theo vĩ độ. Trường từ của Trái Đất (đo bằng la bàn, mỗi vị trí có độ lệch khác), đường thẳng nối hai cực từ tạo thành một góc 11,3° so với trục quay của trái đất. Độ từ thiên là góc tạo thành (δ) giữa hướng bắc thực (bắc địa lý) và hướng bắc từ (là hướng chỉ phương bắc của kim la bàn) hay góc tạo thành giữa kinh tuyến địa lí (phương bắc nam) và kinh tuyến từ tại điểm đã cho trên mặt đất. Giá trị này sẽ dương khi bắc từ nằm về phía đông của bắc thực và ngược lại. Ví dụ, ở Việt Nam, độ từ thiên biến đổi từ –1⁰ ở Cao Bằng đến 0⁰ ở Đà Nẵng và đạt +1⁰ tại Cà Mau. Ví dụ về độ từ thiên có giá trị dương khi kim nam châm lệch về phía đông so với bắc địa lý. Trục tự quay của Trái Đất nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo góc xấp xỉ 23,5° La kinh với 24 sơn với các trục Tý - Ngọ, Sửu - Mùi, Thìn Tuất. Hướng la bàn đang định vị trục Tý - Ngọ. La kinh sau khi đổi Tốn Khôn: Qua đó, la bàn dùng trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành hay Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ rồi định vị trên la kinh, mà theo khoa học hiện đại gọi là Địa từ trường, sẽ có độ lệch với trục địa lý bắc - nam của trái đất (vuông góc mặt phẳng xích đạo) và trục quay của trái đất. Tại bất kỳ một vị trí nào trên trái đất, thì hướng la bàn hay địa từ trường tại đó sẽ khác nhau giữa chúng, các độ lệch sẽ khác nhau. Như vậy, từ trường đo bằng la bàn hình thành do từ trường trái đất - theo khoa học hay là tổ hợp tương tác từ trường giữa các hệ thiên văn như trái đất tự quay, trái đất quanh quanh mặt trời, mặt trời quanh trên Hoàng đạo... ??? Phải chăng cần so sánh tới trạng thái trái đất quanh quanh mặt trời làm chuẩn trước (hướng bắc - nam đo bằng la bàn gọi là trục định vị! Trục định vị này, được xác định tên gọi theo Hồng Phạm Cửu Trù, phối vào trục Càn - Khôn trên Tiên Thiên Bát Quái!. Tất nhiên, la bàn cũng định vị và xác định ý nghĩa của vòng Hoàng đạo hay điểm xuân phân của mặt trời di chuyển trên đường này chu kỳ 25.920 năm, trục trái đất cũng ngoay đi hết một vòng của nó, thường gọi là chu kỳ tuế sai. Trong lịch sử Văn Lang, thời Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ, chữ "Quỷ" có 3 chữ "Vương" tạo thành hình tam giác, tức tên nước là "Ba Vua Đỏ" hay "Ba Mặt Trời", ở đây là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương. Tam Vương hay Tam Hoàng cũng là một, thành phần trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Kinh Dương Vương (thần mặt trời) đứng đầu trong Tam Hoàng. Trong văn hóa cổ truyền, "Tam Dương khai thái" khác với "Tam Hoàng" hay "Xích Quỷ" ở trên, "Tam Dương khai thái" là Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, ở đây chính là hình ảnh của chiếc chĩa ba trên rìu Việt Yue. Sự biến thể của chĩa ba thành chữ "Sơn" cũng chính là biểu tượng "Tam Dương khai thái" này. Đến đây, chúng ta mới hiểu câu thành ngữ của vùng nam Ngũ Lĩnh: "Phật là núi, núi cũng là Phật". Hoàn toàn chính xác, bởi Hùng Quốc Vương là một vị Bồ Tát - Địa Tạng Bồ Tát, chưa "thành" Phật vì đang độ chúng sinh dưới Cõi Âm. Vậy thì hình ảnh chiếc chĩa ba cũng còn biểu tượng cho Tam Dương tức quái Càn của Tiên Thiên Bát Quái, nguyên dương. Trong đạo Hindu của Ấn Độ (tượng thần Shiva cổ nhất bằng đá và đất sét nung có niên đại khoảng 2300-1500 TCN tại di chỉ Mohejo-daro, Ấn Độ), chiếc chĩa ba là vũ khí biểu tượng của thần Shiva, nhưng nó được chống thẳng lên, ngược chiều với chiếc chĩa ba trên rìu Việt, ngài chính là Đế Minh - Phật A Di Đà. Tất cả các vị thần thánh của các tôn giáo cổ trên toàn thế giới đều ăn khớp với các vua Hùng nước Văn Lang, chứng tỏ văn hóa Việt đã bao trùm trái đất thời cổ đại rồi... Qua biểu tượng rìu Việt thời Thương, chúng ta thấy học thuyết Âm Dương Ngũ Hành (học thuyết về vũ trụ - học thuyết về sự thống nhất của vũ trụ nhưng chưa đầy đủ, vì thiếu một số khái niệm quan trọng khác nữa) cực kỳ rõ ràng và rành mạch, thậm chí còn rõ hơn cả sự lý giải phân biệt khác nhau và ý nghĩa giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái ngày nay. Đồng thời, lưu giữ một mật ngữ về ba vị Phật, ba vị anh hùng vĩ đại của dân tộc thời thượng cổ: Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân với hình ảnh của quái Càn nguyên dương trên Tiên Thiên Bát Quái. Tất nhiên, kết quả nối tiếp là quái Khôn sẽ ứng với Vũ Tiên - Long Nữ - Âu Cơ, cả 6 vị này định hình nên 6 vạch Âm Dương của Chu Dịch (Chu là vòng tròn) - tiên tri hay dự ngôn là đi ngược. Một hệ quả: chiếc rìu là biểu tượng của Lạc Long Quân, phương bắc trong 4 phương, còn chĩa ba là biểu tượng của Đế Minh - phương nam, còn lại là đông - tây với các biểu tượng vũ khí nào?. Hình ảnh chiếc rìu và người cầm rìu cũng có trên trống đồng Đông Sơn - đây là một đặc điểm cần lưu tâm. Riêng trống đồng Vân Nam có thêm người cầm qua (qua cũng là một loại vũ khí).
-
1. Chữ Việt giáp cốt văn (bác sĩ Nguyễn Xuân Quang) Chiếc rìu ở từ Việt ‘Yue’ trong giáp cốt văn đời nhà Thương. Từ Việt yue trên giáp cốt văn (Wang Hongyuan). Lưu ý ta thấy chiếc rìu Việt yue ở đây có một đầu hình vòng tròn nòng O mang âm tính, nòng O ứng với Khôn và một đầu hình cây chĩa ba mang dương tính, ba nọc nhọn là ba dương ứng với quẻ Càn. Cây rìu Việt này là một thứ rìu Việt thờ mang ý nghĩa nòng nọc, âm dương, càn khôn, sinh tạo, tạo hóa. 2. Chữ Việt giáp cốt văn theo Bình Nguyên Lộc: Chữ Việt bộ Mễ (lúa) có cái móc hình lưỡi hái gặt lúa ở phía dưới thành cái gọi là “Chữ Việt tượng hình cái Rìu đời Thương" (Hình 6) dưới đây : Hình 6 : Chữ Việt tương hình đời Thương do chỉ lấy cái móc ở dưới chữ Việt bộ Mễ của Việt tộc để tạo chữ Việt mới đời Thương. Sách “Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam” của ông (trang 154-157) : “Chữ Việt nguyên thỉ viết rất kỳ lạ : một nét ngang dài và một cái móc ở dưới. Đó là chữ Việt cuối đời nhà Thương, đầu đời nhà Chu, chứ đời Hạ, không ai biết nó ra sao cả, vì không tìm được cổ tự đời Hạ bao giờ, nếu đời Hạ đã có chữ. Chữ Việt giản dị đó, đích thị là cái đuôi của chữ Việt thứ nhì trong thư tịch Trung Hoa, chữ Việt mà các nhà Nho ta gọi là Việt bộ Mễ, nhưng người Trung Hoa gọi đó là chữ Việt bô Nguyệt và cái bộ Nguyệt là chính khúc đuôi ấy, chớ không phải là chữ Mễ bên trong khung vuông. Cho đến khi Khổng Tử san định Kinh Thư thì chữ Việt bộ Mễ mới thấy xuất hiện, chớ trước đó thì chỉ có chữ Việt nguyên thỉ là cái đuôi của chữ Việt bộ Mễ. Tại sao họ lại viết như vậy? Không thấy sách nào cắt nghĩa cả, chúng tôi nghiên cứu riêng thì thấy rằng chữ Việt nguyên thỉ và đơn giản đó, có thể có nghĩa là cái rìu… Một lưỡi rìu như vậy đã đào được ở Quốc Oai, giữa Hà Đông và Sơn Tây…” 3. Chữ Việt trên thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn (496-465 TCN) có hình một con rồng vươn lên mặt trời và người cầm cung như chuẩn bị bắn vào tâm điểm: Phần chữ cổ: 越王自作" - "Việt vương tự tác". 4. Chữ Việt bộ Mễ và bộ Tẩu thời Thương: và 5. Việt - Yue: Yue còn có nghĩa là Mặt Trăng. Tất cả mọi dữ kiện từ cổ đại tới nay đã đủ cho chúng ta luận giải ý nghĩa của chữ "Việt" rồi.
-
Con người Việt - Gia đình Việt - Dòng họ Việt - Bản làng Việt - Non nước Việt - Chân lý Việt Như đã viết ở trên, hình ảnh cây đa (Tam Đa) biểu tượng cho ba người: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương, đồng thời hình ảnh của hạt bồ đề biểu tượng cho minh châu hay ngọc châu viên giác, từ 2 dữ kiện này sẽ xuất hiện sự khác biệt giữa cây đa và cây bồ đề mặc dù cùng họ hàng. Tư duy rộng mở hơn thì cây đã sẽ biểu tượng cho 108 Hùng Vương (Đa cũng còn nghĩa là nhiều, rất nhiều) và cây bồ để biểu tượng cho ai? Chúng ta còn nhớ câu truyện Tôn Ngộ Không học phép thuật từ Bồ Đề Tổ Sư trong Tây Du Ký, đây cũng là một nhân vật hết sức bí ẩn đã được nhiều nhà nghiên cứu khai thác... mà vẫn chưa ra. Hạt bồ đề là đơn nguyên tuyệt đối ở đây chính là biểu tượng cho Đế Minh - Phật A Di Đà (Đề, Đơn, Độc) - thân phụ Kinh Dương Vương và đứng trên cả 108 Hùng Vương. Từ cái "Đơn" nguyên thủy chuyển thành cái "Đa" hiện tại. Qua đó chúng ta thấy, những tôn giáo cấm thờ tổ tiên, ông bà mà đi thờ "người khác" là một mưu kế cực kỳ thâm hiểm, muốn chặt đứt gốc rễ của một dân tộc, họ hàng, gia đình. Cuộc sống diễn ra giống như một cây đa bám rễ vào hiện tại như rễ chùm dưới đất (hữu hình) và bám cả vào quá khứ như rễ chùm ở trên không trung (vô hình), do vậy mưu kế trên phải nói là hết sức tàn độc, chứ chưa nói đến sự tồn tại của linh hồn hay không, nếu có thì tổ tiên, ông bà vẫn đang còn sống sờ ra đấy. Trong cuộc sống, tâm hồn mỗi trẻ thơ giống như một tờ giấy trắng hay một viên ngọc châu, cũng như một ấu trùng nên chúng không thể hiểu những cái mà người lớn cho là chẳng hạn Thượng Đế, Chúa các loại (cái mà chính anh ta cũng không hiểu)... cho nên việc "dạy dỗ" (mang tính Âm Dương hai mặt) đã trở thành "điều kiện hóa trí tuệ" tức thực sự là "nô lệ hóa tư tưởng" hết sức nguy hiểm, trở thành thói quen, thuộc tính, "của tôi", "đạo của tôi", "không cần dùng lý trí mà chỉ cần đức tin"... cuối cùng sẽ trở thành những cỗ máy bất khoan dung, những con trừu đang bị chăn dắt môt cách vô hình mà không biết, nên cần phải hiểu rõ những thủ đoạn của con người trong "dòng chảy tâm linh" (tiến hóa cao nhất là đạt quả vị Phật vào thoái hóa thấp nhất là trở thành ma quỷ). Mỗi trẻ thơ, tự thân nó đã là "thiên thần rồi" chẳng cần tìm hay dạy ở đâu nữa. Trong cuộc chơi vô hình do chính con người cấu trúc nên, "đỉnh cao nhất" sẽ là: "Tôi - Thánh đại diện cho Thượng Đế và đám lính lác của tôi cũng là đại diện thứ hai của Thượng Đế"... rồi sau đó, dùng mưu kế sẽ nắm quyền lực cai trị xã hội, hoàn toàn đi ngược con đường tâm linh, do tính đối kháng Âm Dương giữa mặt tâm linh (đi vào nội tâm, Âm) và chính trị (hướng ra ngoài, Dương), cho nên hậu quả trái quy luật vũ trụ như đã biết qua lịch sử của các tôn giáo, quy tắc "Âm thuận tùng Dương" trong Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (tôn giáo Độc thần lại càng Âm hơn nữa). Vậy, cũng phải cần xác định rõ "Việt" là mang ý nghĩa như thế nào.
-
Ngọc sáng trong hoa sen - Úm Ma Ni Bát Mê Hồng (Linh diệu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát) Linh diệu thần chú này cực kỳ thần lực, khi nào khó khăn hay sợ hãi chỉ cần niệm Úm Ma Ni Bát Mê Hồng là định tâm được ngay, chẳng hạn khi bơi ngoài biển vào bờ thì cạn sức có thể chết đuối, hay khi đi qua bãi tha ma suốt một đêm... Thần chú này đã được dịch nghĩa: Ngọc sáng trong hoa sen. Thần chú này có thể được xem là biểu tượng của Tây Tạng, Tây Tạng thời Đường còn gọi là Phật Đà quốc, nước Phật, từ một truyền thuyết Tây Tạng được hình thành từ "đất bùn của những con dê" và tổ người Tây Tạng là một con khỉ (người có nguồn gốc tiến hóa từ khỉ) - được điểm hóa bởi Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngàn mắt ngàn tay thân Quán Thế, Muôn thiên muôn đạo pháp Như Lai. Ngọc sáng ở đây chính là "đơn nguyên vật chất tuyệt đối" - Mani châu, ngọc châu viên giác, có thuộc tính hòa nhập và phản chiếu tất cả mọi thuộc tính bất kỳ. Truyền thuyết và huyền thoại liên quan đến ngọc châu thì nhiều, tuy nhiên một trong những truyền thuyết nổi tiếng nhất đó chính là truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy. Mỵ Châu sau khi chết hóa thành con trai nhả ngọc, chỉ lấy nước giếng Cổ Loa thành mới rửa sạch - ở đây là Việt Tỉnh tức Giếng Việt, quẻ Tỉnh của Kinh Dịch. Mỵ Châu là hoàng thái hậu của Hoàng Đế nước Nam Việt rộng lớn. Một mật ngữ của lịch sử. Ngọc châu viên giác này được thấy điển hình nhất là ở trên mái chính của các ngôi đình, chùa, điện, miếu, cung quán, nhà thờ họ... của Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo, đạo Mẫu, đạo thờ Tổ Tông, Thần đạo (sau thành Phật giáo), cực kỳ phổ biến trong nền văn hóa Việt, đó chính là biểu tượng "Song Long Minh Châu", hai con rồng chầu ngọc. Ngoài ra, trong Tứ Đại Thiên Vương hộ vệ cho Phật Di Lạc tại Thiên Vương điện, nằm trước điện Đại Hùng của một ngôi chùa, cũng có một vị Thiên Vương đang giữ viên ngọc này, điều chỉ thẳng đến ý nghĩa: Phật Di Lạc là người đang quản lý "ngọc châu viên giác". Theo kinh Phật, Ngài đang giảng đạo ở cung trời Đâu Suất, viên ngọc này thông thường cũng được gọi là viên ngọc rồng, ngọc của rồng ở dưới đáy biển sâu, cung điện của Long Vương. Một vị chân tu đắc đạo Phật giáo đã thọ đắc được bộ Kinh Hoa Nghiêm ở dưới Long cung của Long Vương Ma Kiệt Đà, chính là bộ kinh Hoa Nghiêm ngày nay. Bộ kinh này mô tả thế giới như một đóa hoa sen nở từ một biển nước mênh mông, vô cùng vô tận thế giới trên nó, mỗi thế giới chỉ như một điểm trên cánh hoa - Hoa tạng thế giới đồ.Thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na - Đại Nhật Phật - Kinh Dương Vương là một tịnh độ vô cùng rộng lớn và trang nghiêm, thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc đều nằm trong thế giới Hoa Tạng. "Ngọc châu viên giác" này định vị tại trung tâm Bạch Long thành, thành Thăng Long, tại núi Nùng - "Nùng sơn chính khí" (công viên Bách Thảo ngày nay) nơi thờ Trời của các triều đại xưa. Tại Văn Lang, có rất nhiều nơi cổ tích thần thánh, tuy nhiên có 2 vị trí cực kỳ quan trọng, đó là đền Hùng biểu tượng cho Âm và Bạch Long thành biểu tượng cho Dương. Qua đó, mới hiểu kinh đô Văn Lang xưa hay đây cũng chính là kinh đô của cả Trung Hoa thời Đế Minh trở về trước. Sau khi Đế Minh phân đôi nước, bắc Dương Tử thuộc Trung Hoa do Đế Nghi - em Đế Minh cai quản, nam Dương Tử do Kinh Dương Vương - con trai cả của Đế Minh quản lý. Từ việc này, dẫn đến sự kiện Hoàng Đế chiến Si Vưu khi tập trung quyền lực về phía bắc. Hoàng đế ở đây là Đế Minh. Trong trận chiến, truyền thuyết kể lại rằng Hoàng Đế không thắng được Si Vưu nhưng nhờ nữ thần Cửu Thiên Huyền Nữ giúp cho các bộ sách như Độn giáp... mới thắng nổi, Cửu Thiên Huyền Nữ ở đây là chính thất của Đế Minh - Vũ Tiên. Trong bộ truyện Thủy hử có nói đến Cửu Thiên Huyền Nữ tặng Tống Công Minh 3 bộ sách. Ngọc châu viên giác mà chúng ta thấy gần gũi nhất, đấy là những hạt bồ đề trong chuỗi hạt của các nhà sư Phật giáo hay các tôn giáo khác, chuỗi hạt đeo cổ của một nhà sư có 108 hạt bồ đề - đây là con số các vua Hùng của 18 triều đại Hùng Vương: Vị Hùng Vương thứ 1 là Kinh Dương Vương, vị cuối cùng tức Hùng Vương 108 là An Dương Vương. An Dương Vương là người tổ chức xây thành Cổ Loa - một thành chiến (hộ thành) bên tả ngạn sông Hồng, còn Bạch Long thành - kinh đô Văn Lang thuộc hữu ngạn sông hồng, tạo nên một cấu trúc Âm Dương thành phối hợp lẫn nhau trong trận chiến với quân Tần, trận chiến cuối cùng tướng giặc Đồ Thư bị tử trận, giặc hoàn toàn tan vỡ. Chính sử không chép về Bạch Long thành, nhưng còn tồn tại một bản khắc cổ nói đến, từ đó sẽ hiểu rằng: Bạch Long thành đã bị phá hủy khi quân Tần thua trận và rút lui khỏi Phong Châu tức Hà Nội ngày nay. Bộ đôi thành Âm Dương này còn thấy trong lịch sử thành trì trên thế giới sau này. An Dương Vương gần gũi với người Việt đến độ: "Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng 6 tháng Giêng" là lễ hội Cổ Loa, bởi ngài là vị Hùng Vương cuối cùng của triều đại Hùng Vương, độ số 1, 6 là hành Thủy trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, thời kỳ của ngài là lúc điểm xuân phân của mặt trời chuẩn bị đi vào cung Song Ngư trên đường Hoàng đạo - kỷ nguyên của bạo tàn. Ngày tháng lễ hội Cổ Loa cũng là một chứng tích, một ghi chú thiên văn, những độ số trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ của thuyết Âm Dương Ngũ Hành hay cũng là một tiên tri về kỷ nguyên Song Ngư. Mồng 6 tháng Giêng lễ hội Cổ Loa. Và chỉ sau đó 1 tháng 10 ngày, tại Diễn Châu - Nghệ An lễ hội tế Thần Thục An Dương Vương lại một lần nữa diễn ra: Lễ hội Ðền Công - 15 tháng Hai âm lịch. Ðây là một lễ hội lớn ở Nghệ An, thu hút hàng vạn lượt người từ khắp nơi đổ về trẩy hội. Không giống như lễ hội Cổ Loa, luôn có ba phần: lễ tế thần, lễ rước kiệu, khách thập phương dâng hương và vui hội, lễ hội Ðền Công chỉ có lễ tế thần, sau đó là các sinh hoạt văn hóa: hát tuồng chèo, thả đèn hoa. Ðền nằm ở lưng chừng núi Mộ Dạ, ngay kề Quốc lộ I. Phía sau núi là biển cả mênh mông, ngày đếm sóng vỗ rì rào. Mỗi ban mai, vầng dương từ biển nhô lên phủ cho cảnh vật một vầng hào quang rực rỡ. Mộ Dạ: Dạ là đêm, mộ là nơi an nghỉ của An Dương Vương, chính là hàm ý nói về một thời kỳ đen tối của cung Song Ngư chuẩn bị bắt đầu. Như vậy, mộ của An Dương Vương sẽ ở đâu đó thuộc tỉnh Nghệ An.
-
Biểu tượng Trong phân tích và nhận định ở trước, chúng ta đã thấy mối quan hệ không tách rời giữa không gian, thời gian và vật chất, tuy nhiên khi cô lập từng phần thì lại nhận ra mỗi trong chúng đều có những đặc trưng riêng, mà từ đó sẽ có những hệ quả tiếp theo. Giả thuyết là nguồn gốc của vạn vật là một trạng thái tuyệt đối, tạm gọi là "vật chất tuyệt đối", sự tồn tại của chúng là hiện thực, khách quan, vậy thì chúng sẽ lấp đầy khoảng không gian hay không? Ở đây chúng ta chưa nói đến sự vô cùng hay hữu hạn của không gian. Trong khoa học kỹ thuật xây dựng ngày nay có môn thủy lực hay còn gọi là cơ học chất lỏng, trong đó "nước" được xem là chất lỏng không nén được, một ví dụ đó là chiếc kích thủy lực mà người ta dựa vào đó để chế tạo (chất dầu lỏng). Như vậy, có thể nhận xét rằng nếu vật chất tuyệt đối này lấp đầy khoảng không thì "vũ trụ không thể xuất hiện" tức "không thể vận động", hàm nghĩa một "vụ trụ kín" là không thể tồn tại. Trong các nền văn hóa cổ xưa, rất rực rỡ như Ai Cập, Lưỡng Hà, Maya, Đông phương... thì truyền thuyết đều cho rằng nguồn gốc ban đầu của vũ trụ giống như "một biển nước mênh mông" mà từ đó, nảy sinh ra một vị nam thần nguyên thủy đầu tiên - giống như một ngọn núi (Shan) nhô lên khỏi mặt nước, rồi vị thần này tạo ra một tổ chức thần, các vị thần này lại tiếp tục tạo ra thực vật, động vật, người... hoàn toàn không cho rằng nguyên nhân ban đầu đó là Thượng Đế. Đồng thời, các nền văn hóa này cũng viết Thượng Đế là một vị thần, còn dưới nhiều vị thần khác nữa, tức tổ tiên của ngài. Tứ đó, chúng ta thấy có sự gần gũi của truyền huyết & huyền thoại với vũ trụ quan đang quán xét. Qua đó, sẽ thấy truyền thuyết và huyền thoại vẫn chưa chỉ ra được cấu trúc rỗng của vật chất tuyệt đối hay không? Đây là một điểm khóa. không còn nghi ngờ gì nữa, giữa cấu trúc vật chất có một khoảng "rỗng", tức vật chất không lấp đầy không gian, khoảng rỗng này nếu quy chiếu đến các thuộc tính của vật chất (vô số nhưng đều quy chiếu về các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành) thì phi thuộc tính, nó mang ý nghĩa "chân không" chính xác nhất. Vậy, "vật chất tuyệt đối" sẽ được mô tả như thế nào?. Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt: "không", "có", "rỗng", "tuyệt đối", "tương đối"... Trong nền văn hóa Việt Nam hay Văn Lang cổ thì "cấu trúc vật chất tuyệt đối" được mô tả như một chiếc lưới không gian ba chiều to lớn đến vô cùng, biểu tượng cho nó đơn giản và gần gũi nhất đó là "chiếc võng đào", đã có một bài thơ cổ Ru Con về biểu tượng này: Gió Động Đình mẹ ru con ngủ, - nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa. Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh. - nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa. Gió trăng ở đây là nói về Mẫu Âu Cơ, Chúa Mẫu Thoải, Quán Âm Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Quán Âm Tặng Con, Quán Âm Tịnh Thủy, Bạch Y Quán Âm, Quán Âm Nam Hải, Bà Thủy trong Các Bà Ngũ Hành, Bà Đen ở núi Bà Tây Ninh, Bà Chúa Hoa (hoa Mẫu Đơn)... Tiết trời thu lạnh lành lanh, Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông. Bống bồng bông, bống bồng bông, Võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên. Chiếc võng đào biểu tượng này xuất hiện trên bức tranh dân gian Hàng Trống "Thánh Mẫu Thượng Thiên" tức Phật Bà Quan Âm, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Bà Chúa Liễu Hạnh, bà Vũ Tiên - chính thất của Đế Minh... tất cả chỉ là một người, và chỉ duy nhất bức tranh này có chiếc võng, cõi Thượng Thiên (cõi này cao hơn Tam Tài: Cõi Trời, Cõi Đất, Cõi Chết). Như vậy, chúng ta sẽ có các biểu tượng sau: - Không gian: con rùa. - Thời gian: con lịch. - Tương tác (Khí): con rắn hổ mang, có vai trò tương tác Âm Dương nhưng lại như "con lịch". - Vật chất tuyệt đối: võng đào (lưới trời). - Đơn nguyên vật chất tuyệt đối: ngọc châu, minh châu. - Vũ trụ tiến hóa, phát triển tức vạn vật: cây đời. Vũ trụ: phát triển hay phân rã? - Tiến hóa cao nhất:________ (hoa sen). - Linh hồn: con cú mèo, thấy trong đêm. - Thân xác: con trâu, con bò, con dê, con cừu, đang bị các quy luật vũ trụ chi phối, như một con trâu, con bò bị quàng chiếc ách lên vai để kéo cày, cấu trúc của một hệ thống tổ hợp Âm Dương Ngũ hành từ tinh vi nhất cho đến thô trọc nhất. - Tâm: giống như một củ hành (trông giống quả tim). - Hợp nhất tất cả thành "Một": quả bầu. Đến đây mới biết truyền thuyết & huyền thoại Việt siêu đến cỡ nào, đâu phải câu chuyện Eva được hình thành từ cái xương sườn của Adam, quá dở!. Cây đời là "cây đa" trong văn hóa Văn Lang và một số nền văn hóa khác, kể cả Ai Cập cổ đại. Tại Ai Cập, cây sung, cây si (họ cây đa) biểu tượng cho nữ thần sinh sản, nữ thần cho con Isis - bà là vợ của thần chết Osiris, truyền thuyết cổ xưa và nổi tiếng nhất của Ai Cập là thần chết Osiris sẽ phục sinh bởi người con trai của ngài là thần vũ dũng Horus, và ngài sẽ quản lý cõi ta bà hay cõi nhân gian này. Cây đa có đặc trưng là xanh tốt quanh năm, rễ ăn sâu xuống đất và có cả rễ ở trên không trung hút ẩm, hình ảnh của trường sinh bất tử, của hữu hình và vô hình hòa quyện lẫn nhau. Cây đa (Tam Đa) biểu tượng cho ba người: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương, mang ý nghĩa Tam Tài trong lý học Đông Phương, đặc trưng văn hóa là lễ Thượng Nguyên Thiên Quan Ban Phúc Tinh Quân - 15 tháng Giêng (Kinh Dương Vương), Trung Nguyên Địa Quan Xá Tội Tinh Quân 15 - tháng Bảy (Hùng Quốc Vương) và Hạ Nguyên Thủy Quan Giải Ách Tinh Quân 15 - tháng Mười (Lạc Long Quân - thần chết Osiris)...