hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Trong cuốn Tích hợp đa văn hóa Đông Tây, giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã có đồ hình phối hợp giữa Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái, ông cũng đã đặt câu hỏi: Bản chất khí Tiên thiên trong Đông y là gì? Tham khảo Dịch học tinh hoa (Nxb T/p Hồ Chí Minh 1992, tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trang 83): Ở Hà đồ, ta thấy nửa bên trái số Dương (phần Dương) đều ở bên trong; ở Tiên Thiên Bát Quái, ta cũng thấy các hào Dương đều ở bên trong (ở sơ hào, gần nhất với trung cung). Bên mặt của Hà đồ, số Dương (phần Dương) ở bên ngoài, mà số Âm (phần Âm) ở bên trong; ở Tiên Thiên Bát Quái, bên mặt các quái cũng đều Dương bên ngoài, Âm bên trong. Như vậy giữa Hà đồ và Tiên Thiên Bát Quái quả có sự liên lạc mật thiết với nhau, cũng như sau đây ta sẽ thấy Lạc thư liên lạc mật thiết với Hậu Thiên Bát Quái vậy. Tóm lại, nửa phần trái (Tiên Thiên) thì “Âm hàm Dương” (Âm ngậm Dương); nửa phần mặt (Hậu Thiên) thì “Dương hàm Âm”. Dương ở trong là Dương tụ: dương ra ngoài là dương Tán. Phía trái, vì vậy, thuộc về nội hướng, phía mặt thuộc về ngoại hướng (trung vi chủ, ngoại vi khách) như đã nói trước đây. Nhận xét này rất quan trọng. Có lẽ nhân sự nhận xét này của Dịch (Hà đồ) mà nhà tâm lý học về bề sâu J.C. JUNG mới có phân Đông Tây, và cho Đông thuộc nội hướng, Tây thuộc ngoại hướng. Có lẽ cũng nhân nhận xét này mà Jung mới đưa ra lập thuyết : Nội hướng và ngoại hướng luôn bù đắp lẫn nhau. Hữu thức mà ngoại hướng thì vô thức nội hướng, và trái ngược lại. Đây là một điều quan trọng căn bản cho bất cứ sự hiểu biết nào về tâm lý. Hà đồ và Tiên Thiên Bát Quái: Xuân về giải mã phương vị Hà đồ Phục Hy Tác giả: Hậu Duệ Thiên Lương - Lê Hưng VKD LTS: Đây là bài viết của con trai cả cụ Thiên Lương, đã từng đăng trên diễn đàn Khoa Học Huyền Bí trước năm 1975, bút danh Lê Hưng VKD, đã xuất bản sách " Nghiệm Lý Phong Hòa Thủy Tú " và sách " Tâm Thiền lẽ Dịch Xôn Xao " và Sách tử vi " Nghiệm Lý Linh Khu Thời Mệnh Học " do nhà XB Tổng Hợp TP.HCM xuất bản vào các năm 2007, 2008, 2010. I/ Huyền thoại về Hà đồ Phục Hy: Mỗi độ Tết đến Xuân về, mọi người đều có ít nhiều thời khắc hồi hướng và mong cầu điều may mắn – hanh thông sẽ đến với mình & gia đình mình! Thực tế hiển nhiên này đã phát sinh nét văn hóa tâm linh từ nhiều đời nay ở Á Châu nói chung (và ở Việt Nam ta nói riêng) đó là vận dụng các “khả năng tiên tri” để dự đoán các sự việc sẽ xảy ra… Người tích cực thì tìm cách phòng ngừa – hạn chế điều xui rủi (bằng nỗ lực tự thân điều chỉnh cách hành sử hằng ngày của mình), còn người tiêu cực thì cố công cầu cạnh “tha lực” ban cho mình điều may mắn (bằng nỗ lực cung phụng – cúng bái thần linh….). Trong số các “kiểu bói toán” cổ truyền được đông đảo người tín nhiệm là bốc Dịch! Bốc Dịch dựa trên sự ngẫu nhiên về thời gian cảm hứng, tương thích với 64 kênh thông tin cận tâm lý (trong bộ sách luận giải về quan hệ nhị phân Âm Dương của người Trung Hoa cổ); sách này được nhiều thế hệ nho gia vùng khí hậu Châu Á gió mùa (tức các nước Đông – Nam Á ngày nay) tôn trọng là minh thư và đặt tên là Kinh Dịch (1). Cụ học giả Nguyễn Hiến Lê khi sinh tiền (trước 1984) đã quan niệm về bộ sách Kinh Dịch như sau : - Triết lý trong Kinh Dịch tức vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan: cách xử thế trong Kinh Dịch mà tôi gọi là Đạo Dịch, đạo của bậc chính nhân quân tử thời xưa.. (lời nói đầu của sách “ Kinh Dịch đạo của người quân tử” - NXB.Văn Học năm 1994) Theo như nhiều đầu sách đã xuất bản từ trước đến nay (nhất là các tác giả Trung Quốc viết về Kinh Dịch) chỉ cho biết nét chính về truyền thuyết xuất xứ của 8 quẻ đơn và 64 quẻ kép trong Kinh Dịch là do ông vua Phục Hy ( tộc họ Bào Hy, cầm quyền được 115 năm ở miền Sơn Tây – Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ 43 trước Tây lịch) nhìn thấy trên lưng ngựa thần (Long Mã) ở sông Hoàng Hà có một bản đồ minh triết, dạy ông cách cai trị thiên hạ, gọi là Hà Đồ. Nhờ đó mà vua huyền thoại Phục Hy đã “thần khải” theo Hà Đồ (một cách nghĩ được, là do thần linh mách bảo) mà vạch ra tám ký hiệu tương tác của hai chủ thể Âm & Dương, đặt tên là bát quái tiên thiên (plan cosmique à priori ) theo thứ tự quĩ đạo tiên thiên : Ghi chú ( ký hiệu của bát quái Phục Hy): Càn ═> (ba gạch không đứt đoạn ) Khôn ═> (ba gạch đứt đoạn ) Ly ═> (2 gạch không đứt đoạn ở trên và ở dưới, giữa là gạch bị đứt đoạn) Khảm ═> (2 gạch bị đứt đoạn ở trên và ở dưới, giữa là gạch không bị đứt đoạn) Tốn ═> (2 gạch trên không đứt đoạn, gạch dưới cùng bị đứt đoạn) Chấn ═> (2 gạch trên bị đứt đoạn, gạch dưới cùng không đứt đoạn) Đoài ═> (gạch trên cùng đứt đoạn, hai gạch dươi không đứt đoạn) Cấn ═> (gạch trên cùng không đứt đoạn, hai gạch dưới bị đứt đoạn) Ngoài nguồn truyền thuyết (thuộc phạm vi huyền sử thần thoại) nêu trên, không ai hiểu được lý do và căn cứ vào đâu (trên cơ sở nào ?) mà ông vua Phục Hy (Trung Hoa cổ đại) đã bố cục được mô hình phương vị của Tiên thiên bát quái ? Nhiều tác giả nghiên cứu văn hóa triết nhị phân Âm Dương mỗi khi lý giải Dịch Lý (của Kinh Dịch) đã mặc nhiên công nhận cấu trúc tiên thiên bát quái như là chân lý (không chứng minh ) của một tiên đề (sách toán học gọi là Định đề - postulatum). Còn như các “ thầy bói dân gian” từ lâu đều đã tâm phục khẩu phục (thần linh hóa nhân vật Phục Hy) như một vị thánh sư mầu nhiệm, mỗi khi đoán quẻ cho ai thì phải lâm râm cầu nguyện Phục Hy, để được “ngài” ban cho quẻ bói….dị đoan! II/ Giải mã cấu trúc tiên thiên bát quái: Giới học giả nghiên cứu Kinh Dịch ở Châu Âu (nhưRegis – 1834 : Meclatchie – 1876: De Harley – 1889 : Raymond de Becker – 1870 : Legge – 1899: Wilhem – 1950: Blofeld – 1965: Alfred Douglas – 1972, nhất là Z.D.Sung năm 1934…) đều đã biết cấu trúc toán học của Bát Quái (nền tảng của Dịch Lý) là “ hằng đẳng thức bậc 3 của Âm & Dương” hòa hợp như sau : Nhưng vẫn chưa ai hiểu được cấu trúc phương vị tuần tự trên vòng tròn tiên thiên của Phục Hy ? Tại sao từ đất thấp “Khôn” lên trời cao “Càn” lại có 2 lối đi: - lối đi âm phải là Khôn - Cấn - Khảm - Tốn ? - lối đi dương phải là Chấn – Ly – Đoài – Càn ? hoặc là tại sao từ Trời (cao) xuống đến Đất (thấp) bắt buộc phải trải qua hành trình: - lối đi âm là chiều lượng giác ? - lối đi dương là chiều kim đồng hồ ? Năm nay Tân Mão 2011, các thế hệ thừa kế học phái Đẩu Sơn – Thiên Lương (dòng họ Lê Lã tỉnh Hưng Yên năm xưa....) đã nghiệm lý được cách sắp đặt vòng tròn tiên thiên bát quái của Phục Hy bằng cơ chế nhị phân (numération binaire) xếp chồng lên nhau đến lần thứ ba, theo toán học đại số phổ thông ngày nay, với tiến trình 4 bước như sau : Bước 1: (chẻ đôi thái cực thành lưỡng nghi) Tạm giả thiết Thái cực có tham số là số nguyên 1 (số đầu tiên phát sinh “Có” của khái niệm vạn vật Khả Hữu) Bước 2: (Chẻ đôi lưỡng nghi thành tứ tượng) Bước 3: (Chẻ đôi tứ tượng thành bát quái) Bước 4 : (Vòng tròn bát quái tiên thiên) Tôn trọng nguyên lý vạn vật đồng nhất thể (vòng tròn Thái cực khả Hữu sinh lưỡng nghi – tứ tượng – bát quái – trùng quái …) và qui tắc âm dương dạng “lưỡng cực đối xứng”, ta luận lý được phương vị của các quẻ (quái) căn cứ vào số đại số của mỗi quẻ: - 7/8 đối xứng với + 7/8 -> Khôn đối xứng với Càn - 5/8 đối xứng với + 5/8 -> Cấn đối xứng với Đoài - 3/8 đối xứng với + 3/8 -> Khảm đối xứng với Ly - 1/8 đối xứng với + 1/8 -> Tốn đối xứng với Chấn Ta có ngay vòng tròn phương vị 8 quái Phục Hy (tiên thiên) Ghi chú: vì Khôn quan niệm là đất (thấp nên ở phiá dưới) và Càn quan niệm là Trời (Cao nên phải ở phía trên) nên Càn – Khôn là trục tung (dọc) và ly - Khảm là trục hoành (ngang), trong hệ thống tọa độ “tiên thiên bát quái” của vua Phục Hy cổ đại. Kết luận tạm Người viết cống hiến tản văn này đến bạn đọc, cũng là muốn : ngày Xuân của thế kỷ văn minh hiện đại 21 này, mỗi chúng ta khi thư giãn & nhàn lãm bộ sách minh triết Kinh Dịch của người xưa, nên chăng cần hiểu hơn cho các thế hệ tổ tiên : các cụ cũng đã biết trải nghiệm cuộc sống thường ngày qua lập trình toán học như chúng ta bây giờ ! Kính nhi viễn chi (nhìn từ xa mà kính trọng) trí tuệ khôn ngoan đã có từ thời cổ đại vậy ! Chú thích: Bác Hồ đã nói với cụ Nguyễn Thế Đoàn (nhiếp ảnh gia miền Nam tại chiến khu Việt Bắc thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thập kỷ 50 của thế kỷ 20): - Nếu các chú có thời gian đi sâu tìm hiểu về Kinh Dịch, sẽ biết được nhiều điều thú vị và bổ ích, mà người xưa đã đúc kết được trong lãnh vực này của nền văn hóa phương Đông. (sách “ Nghiệm Lý Hệ Điều Hành Âm Dương” NXB Tổng Hợp Tp HCM – 2010, trang 7) THAM KHẢO THÊM: Đồ hình Thái dương hệ và nội dung tham khảo khác liên quan đến phương vị tương quan giữa Thiên - Địa - Nhân và 7 luân xa cột sống: (Ghi chú: không có 2 chấn tròn nhỏ trong vòng tròn Âm Dương) Nếu sóng sinh học được hiệu chỉnh theo chiều phát triển tích cực, sẽ tạo nên tác động kích hoạt rất lớn đến khung cộng hưởng sinh học và có khả năng khai mở được nguồn năng lượng dự phòng của hệ sinh học hiện hữu (cá nhân, cộng đồng). Xét ra các hệ sinh học nói trên khi sinh ra được cộng hưởng với trường năng lượng Không–Thời gian bởi toạ độ định vị hợp nhất Thiên-Địa-Nhân, tạo nên sự kích hoạt tự nhiên.
-
Cựu đường thư - Địa lí chí 邕州宣化州所治。漢嶺方縣地,屬鬱林郡。秦為桂林郡地。驩水在縣北,本牂柯河,俗呼鬱林江,即駱越水也,亦名溫水。古駱越地也。 Huyện Tuyên Hóa của châu Ung là sở trị của châu. Là huyện Lĩnh Phương thuộc quận Uất Lâm thời nhà Hán. Thời Tần thuộc quận Quế Lâm. Có sông Hoan ở phía bắc huyện, vốn là sông Tang Kha, tục gọi là sông Uất Lâm, cũng là sông Lạc Việt, cũng có tên là sông Ôn. Là đất của người Lạc Việt thời xưa. 貴州鬱平漢廣鬱縣地,屬鬱林郡。古西甌、駱越所居。後漢谷永為鬱林太守,降烏滸人十萬,開七縣,即此也。烏滸之俗:男女同川而浴;生首子食之;云宜弟,娶妻美讓兄;相習以鼻飲。秦平天下,始招慰之,置桂林郡。漢改為鬱林郡。 Huyện Uất Bình của châu Quý là huyện Quảng Uất thuộc quận Uất Lâm thời nhà Hán. Là chỗ mà người Tây Âu, Lạc Việt ở. Người thời nhà Hậu Hán là Cốc Vĩnh làm Thái thú Uất Lâm đã dụ chục vạn người Ô Hử hàng nhà Hán, đặt ra bảy huyện là chỗ ấy. Tục của người Ô Hử là trai gái cùng sông mà tắm, sinh con đầu thì ăn thịt nó, gọi là 'nghi đệ', lấy vợ đẹp rồi nhường cho anh, tụ tập uống rượu bằng mũi. Vào thời nhà Tần dẹp cả thiên hạ, bắt đầu vỗ về dân ấy, đặt ra quận Quế Lâm, đến thời nhà Hán đổi thành quận Uất Lâm. 潘州茂名州所治。古西甌、駱越地,秦屬桂林郡,漢為合浦郡之地。 Huyện Mậu Danh của châu Phan là sở trị của châu. Là đất của người Tây Âu, Lạc Việt thời xưa. Thời Tần thuộc quận Quế Lâm, thời nhà Hán là đất của quận Hợp Phố. ________________ Phương ngôn (Hán - Dương Hùng soạn, Đông Tấn - Quách Phác chú) 允、訦、恂、展、諒、穆,信也。齊魯之間曰允,燕代東齊曰訦,宋衞汝潁之間曰恂,荊吳淮汭之間曰展。西甌毒屋黃石野之間曰穆。西甌,駱越別種也,音嘔。 Các từ doãn, kham, tuân, triển, lượng, mục là nói về 'tín'. Vùng nước Tề-Lỗ gọi là 'doãn'; vùng nước Yên-Đại, Đông Tề gọi là 'kham'; vùng nước Tống-Vệ, Nhữ-Dĩnh gọi là 'tuân'; vùng nước Kinh-Ngô, Hoài-Nhuế gọi là 'triển'; vùng Tây Âu, Độc Thất, Hoàng Thạch Dã gọi là 'mục'. Tây Âu là một chủng khác của người Lạc Việt, đọc là 'âu'. Sử kí - Nam Việt liệt truyện 高后崩,即罷兵。佗因此以兵威邊,財物賂遺閩越、西甌、駱,役屬焉,【集解】漢書音義曰:「駱越也。」【索隱】鄒氏云「又有駱越」。姚氏案:廣州記云「交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為『駱人』。有駱王、駱侯。諸縣自名為『駱將』,銅印青綬,即今之令長也。後蜀王子將兵討駱侯,自稱為安陽王,治封溪縣。後南越王尉他攻破安陽王,令二使典主交阯、九真二郡人」。尋此駱即甌駱也。東西萬餘里。 Cao Hậu băng (năm 180 TCN), nhà Hán liền bãi binh, Triệu Đà nhân đó đem quân uy hiếp nơi biên giới, dùng tiền của hối lộ vua các nước Mân Việt, Tây Âu, Lạc, bắt họ theo phục, Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Người Lạc là một nhóm khác của người Việt." Sách ẩn: Họ Trâu nói: "Lại có người Lạc Việt". Họ Diêu xét: Quảng châu kí chép: "Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, người dân trông nước thủy triều lên xuống mà trồng ruộng ấy, gọi là 'người Lạc'. Có Lạc vương, Lạc hầu. Các huyện tự gọi thủ lĩnh là Lạc tướng, đeo ấn đồng dải xanh, là quan Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau con vua Thục đem quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau có vua nước Nam Việt trước làm quan Úy là Đà đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả trong coi người hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân". Xem thế người Lạc là người Âu Lạc. đất đông tây dài hơn một vạn dặm. _______________ Hậu Hán thư - Nhâm Diên truyện 九真俗以射獵為業,不知牛耕,東觀漢記曰:「九真俗燒草種田。」前書曰「搜粟都尉趙過敎人牛耕」也。民常告糴交阯,每致困乏。延乃令鑄作田器,敎之墾闢。田疇歲歲開廣,百姓充給。又駱越之民無嫁娶禮法,各因淫好,無適對匹,適音丁歷反。不識父子之性,夫婦之道。延乃移書屬縣,各使男年二十至五十,女年十五至四十,皆以年齒相配。其貧無禮娉,令長吏以下各省奉祿以賑助之。同時相娶者二千餘人。是歲風雨順節,穀稼豐衍。其產子者,始知種姓。 Tục người quận Cửu Chân làm nghề săn bắn, không biết cày ruộng bằng sức bò, Đông quan Hán kí chép: "Tục người quận Cửu Chân đốt cỏ làm ruộng." Tiền Hán thư chép: "Sưu lật đô úy là Triệu Quá dạy dân cày ruộng bằng sức bò." người dân thường phải mua gạo ở quận Giao Chỉ, luôn bị thiếu thốn. Diên bèn sai đúc rèn đồ làm ruộng, dạy dân cách cày xới. Ruộng đất mỗi năm lại thêm rộng, trăm họ no đủ. Lại nữa người Lạc Việt không có lễ cưới gả, đều nhân đó mà dâm dật, không kết thành đôi lứa, không biết đến tình cha con, đạo của vợ chồng. Diên lại gửi thư đến các thuộc huyện, đều sau con trai từ hai chục đến năm mươi tuổi, con gái từ mười lăm đến bốn chục tuổi đều theo lứa tuổi mà lấy nhau. Những người nghèo không có sính lễ thì sai trưởng lại trở xuống đều bớt bổng lộc để giúp đỡ họ. Bấy giờ có hơn hai ngàn người cùng lúc lấy nhau. Năm đó mưa gió thuận hòa, thóc lúa tươi tốt. Những kẻ sinh con ra mới bắt đầu biết được họ thuộc. ____________________ Hậu Hán thư - Mã Viện liệt truyện 條奏越律與漢律駮者十餘事,與越人申明舊制以約束之,自後駱越奉行馬將軍故事。駱者,越別名。 Tấu kể luật của người Việt khác với luật của người Hán đến hơn mười điều, liền nêu rõ phép tắc cũ với người Việt để gò buộc họ, từ đó về sau người Lạc Việt làm theo phép cũ của Mã tướng quân. Lạc là tên nhóm khác của người Việt. Các dân tộc Lạc Việt Posted by: Tam Vo (---.socal.res.rr.com) Date: October 22, 2014 09:09PM Trên trang web Lạc Việt của người Zhuang tại Quãng Tây có 1 bài viết nói về các dân tộc Lạc Việt . Bác nào rành chữ Hán làm ơn dịch sang tiếng Việt . Xin cám ơn rất nhiều . [luoyue.org] 骆越后裔包括哪些民族? 中国南方的汉族和岭南的少数民族大部分具有古骆越人血统,现在学术界公认为骆越后裔的民族有岭南讲粤语和平话的汉族、壮族、侗族、布依族、水族、仫佬族、毛南族、黎族、傣族。越南的岱、侬、泰、布依、热依、佬、泐、山斋、拉基、布标10个民族,老挝的佬、普泰、泐、润、央、赛克6个民族,泰国的泰、佬族,缅甸的掸族,印度的阿洪人等也是骆越人的后裔。现代分子人类学认为M119C这一SNP 突变是百越民族的特色,上海人的M119C突变为26.67%,浙江人的M119C突变为26%,从血统上来说也是古骆越人的后裔。 Trung quốc nam phương đích Hán tộc hoà Lĩnh nam đích thiếu sổ dân tộc đại bộ phân cụ hữu cổ Lạc Việt nhân huyết thống, hiện tại học thuật giới công nhận vi Lạc Việt hậu duệ đích dân tộc hữu Lĩnh nam giảng Việt ngữ hoà bình thoại đích Hán tộc, Tráng tộc, Đồng tộc, Bố Y tộc, Thuỷ tộc, (Mục?) Lão tộc, Mao Nam tộc, Lê tộc, Thái tộc. Việt nam đích Đại (Tày), Nông (Nùng), Thái, Bố Y, Nhiệt Y, Lão, Lặc, Sơn Trai, Lạp Cơ, Bố Tiêu 10 cá dân tộc, Lão Qua đích Lão (Lào), Phổ Thái, Lặc, Nhuận, Ương, Tái Khắc 6 cá dân tộc, Thái Quốc đích Thái, Lão tộc, Miến Điện đích Đàm tộc, Ấn Độ đích A Hồng nhân đẳng dã thị Lạc Việt nhân đích hậu duệ. Hiện đại phân tử nhân loại học nhận vi M119C giá nhất SNP đột biến thị Bách Việt dân tộc đích đặc sắc, Thượng Hải nhân đích M119C đột biến vi 26.67%, Chiết Giang nhân đích M119C đột biến vi 26%, tòng huyết thống thượng lai thuyết dã thị cổ Lạc Việt nhân đích hậu duệ. Chẳng cần để ý cũng nhận ra là "giới học thuật" Tàu đã lờ tịt không nói gì đến người Việt (Kinh tộc). Trong khi chính sử Tàu thì đã khẳng định Lạc Việt là ở Giao Chỉ ! Số liệu dân số Lĩnh Nam thời Hán theo Hán thư cho biết dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân (Bắc Việt Nam) đông gần gấp 2.5 lần các quận Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (Quảng Đông, Quảng Tây) nên sử Tàu lấy Giao Chỉ làm đại diện cho Lạc Việt cũng không có gì lạ. --- Dư Địa Chí vân: Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu Sác Dư Địa Chí là của Cố Dã Vương 顧野王(518-581) Re: Các dân tộc Lạc Việt Posted by: Tích Dã (1.55.99.---) Date: October 24, 2014 06:51PM Dòng dõi của người Lạc Việt bao gồm một số dân tộc nào? Người dân tộc thiểu số của vùng Lĩnh Nam và người Hán miền nam Trung Quốc phần lớn đều có dòng máu của người Lạc Việt. Giới học thuật hiện nay công nhận các dân tộc dòng dõi của người Lạc Việt có các dân tộc là dân tộc Hán, dân tộc Tráng, dân tộc Đồng, dân tộc Bố Y, dân tộc Thủy, dân tộc Ma Lão, dân tộc Mao Nam, dân tộc Lê, dân tộc Thái nói tiếng Việt (tiếng Quảng Đông) và tiếng Bình (phương ngôn tiếng Hán ở các tỉnh miền nam Trung Quốc); 10 dân tộc là dân tộc Tày, dân tộc Nùng, dân tộc Thái, dân tộc Bố Y, dân tộc Nhiệt Y, dân tộc Lão, dân tộc Lặc, dân tộc Sơn Trai, dân tộc Lạp Cơ, dân tộc Bố Tiêu của nước Việt Nam; 6 dân tộc là dân tộc Lão, dân tộc Phổ Thái, dân tộc Lặc, dân tộc Nhuận, dân tộc Ương, dân tộc Tái Khắc; dân tộc Thái, dân tộc Lão của nước Thái; dân tộc Đàn của nước Miến Điện; dân tộc A Hồng của nước Ấn Độ đều là dòng dõi của người Lạc Việt. Phân tử nhân loại học hiện nay cho rằng đột biến chuỗi M119C - NSP là đặc trưng của của các dân tộc Bách Việt. Đột biến chuỗi M119C của người thành phố Thượng Hải là 26.6%, đột biến chuỗi M119C của người tỉnh Chiết Giang là 26%, trên khía cạnh dòng máu mà nói thì họ cũng là dòng dõi của người Lạc Việt.
-
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ LỖ ĐEN VŨ TRỤ Sự tích Tiên Thiên Bát Quái Đồ Vua Phục Hy sinh về đời tối cổ bên xứ Trung Hoa. Thời đại ấy, Thần linh học phát triển đến tột độ cao siêu. Ngài là một ông vua Minh Quân, Thánh trị tài cao, đức rộng, tinh thần minh mẫn, hàm dưỡng được trọn vẹn trí huệ của Trời ban cho. Huệ nhãn của Ngài xem suốt cõi vô hình. Khi dạo trên bờ sông Hà (ngày nay gọi là Hoàng Hà) Ngài trông thấy một con thú mình ngựa đầu rồng, mạng danh là Long Mã, trên lưng có năm mươi lăm chấm. Vua Phục Hy do đó mà chế ra bản đồ "Tiên Thiên Bát Quái", người đời thường gọi là Phục Hy Bát Quái. Sự tích Long Mã Theo sách Nho, Long Mã bề cao 8 thước, năm tấc (thước Tàu), xương cổ dài, chưn ngựa đầu rồng, trên mình có vảy như rồng. Kinh Dịch chép rằng: Long Mã là vật linh kết hợp bởi 8 tinh túy của Thái Dương Hệ biến hiện dưới tầm mắt của vua Phục Hy là một vị chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình, thấy rõ Linh vật của Trời Đất, mang chở những cái tinh anh của Thái Dương Hệ. Rồng là một Linh vật trong số Tứ Linh "Long, Lân, Qui, Phụng", có đủ nơi mình tinh túy của Vũ Trụ. Ngựa là vật chở người và đồ vật đi mau lẹ. Tóm lại, Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh túy của Trời Đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật. Sự tích Hậu Thiên Bát Quái Đồ Lạc thư là sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Võ, sinh lối 2.206 năm trước Tây lịch, Thủy Tổ nhà Hạ, khi nước lụt, người ta trấn nước ở bậc sông Lạc, khi nước cạn, có một con Linh Qui đội cầu, trên lưng có 9 số, vua Võ theo đó mà sắp đặt thành họa đồ Hậu Thiên Bát Quái. Ở đây, Đạo Đức Kinh chương 1 nói rằng: "Hữu danh vạn vật chi mẫu" Chữ "Hữu danh" ám chỉ về Trời Đất, có hình danh, là nguồn hóa vạn vật. Kinh Dịch lại nói rằng: Thiên Địa nhân luân, Vạn vật hóa thuần, Nam nữ cấu tinh, Vạn vật hóa sinh. Nghĩa là Trời Đất ngun ngút hóa thuần muôn vật. Vạn loại đến lượt nó, khi trưởng thành rồi, giống đực và giống cái giao cấu mà sản xuất vạn vật. Các vấn đề chưa được giải quyết: Chỉ một vấn đề là tại sao Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái định phương vị như vậy là đã bế tắc rồi, đã có vô số sách viết về Kinh Dịch cũng như các bộ môn liên quan đến như Tử vi, Phong thủy, Huyền không,... nhưng thực sự, vẫn chưa phân định rõ ý nghĩa của chúng mặc dù vẫn đang áp dụng, tất nhiên có những sai số đã và đang được xác định và hiệu chỉnh. Trong các phần trước, đặc biệt trong bài viết "Sợi chỉ mong manh", cũng đã đề cập đến Tiên Thiên Bát Quái - đây là ngọn núi cao sừng sững chưa ai vượt qua được về mặt giải thích ý nghĩa của nó (có thể xem như bức tường Plank), trong khi đó việc giải thích trong Kinh Dịch về Tiên Thiên Bát Quái dựa trên các hiện tượng tự nhiên trên không trung như sấm, gió và trên mặt đất như núi, đầm mà ra, đặc biệt biểu tượng các "Quái" của Hậu Thiên Bát Quái giống như Tiên Thiên Bát Quái nhưng chỉ khác phương vị mà thôi. Một tia sáng sáng le lói trong đêm trường đó chính là bộ môn Đông y, về ý nghĩa "mệnh môn Hỏa" của Thận trên cột sống của danh y Hải Thượng Lãn Ông trong Hải Thượng Y Tông Tam Lĩnh. Đồng thời, một số sách Đông y khác cũng đã giải thích rằng khí Tiên Thiên là khi thai nhi còn nằm trong bụng mẹ nhận được, và ngay khi ra đời nó sẽ nhận khí Hậu Thiên qua tiếng khóc chào đời, hô hấp bằng miệng, mũi. Đi sâu hơn nữa thì không thấy vị nào nói rõ cả. Mặt khác, cũng có một số tác giả đã phối hợp khí công với Tiên Thiên Bát Quái nhằm giải thích phương pháp tu luyện thần tiên, tôi trích dẫn sơ bộ như dưới đây: Những điều cơ bản 2 - NGŨ HÀNH: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thuỷ. - Ngũ hành tương sinh: Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thủy sinh Mộc. - Ngũ hành tương khắc: Thổ khắc Thủy. Thủy khắc Hoả. Hoả khắc Kim. Kim khắc Mộc. Mộc khắc Thổ. - Ngũ hành phối hợp ngũ tạng: Can thuộc Mộc. Tâm thuộc Hỏa. Tỳ thuộc Thổ. Phế thuộc Kim. Thận thuộc Thủy. - Màu sắc ngũ hành: Mộc màu xanh. Hỏa màu đỏ. Thổ màu vàng. Kim màu trắng. Thủy màu đen. Hình đồ 6: NGŨ HÀNH - TƯƠNG SANH - TƯƠNG KHẮC Bài 2: Luân xa Tám luân xa trên cơ thể con người và những liên quan như sau: I - TÁM LUÂN XA: Luân xa 1 Luân xa 2 Luân xa 3 Luân xa 4 Luân xa 5 Luân xa 6 Luân xa 7 Luân xa 8 II - LUÂN XA QUA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG: Luân xa 1 : Khôn Luân xa 2 : Cấn Luân xa 3 : Khảm Luân xa 4 : Ly Luân xa 5 : Đoài Luân xa 6 : Càn Luân xa 7 : Tốn Luân xa 8 : Chấn III - LUÂN XA PHỐI HỢP HUYỆT ĐẠO: (*) Luân xa 1 tại huyệt Hội âm Luân xa 2 “ Yêu du Luân xa 3 “ Mệnh môn Luân xa 4 “ Thần đạo Luân xa 5 “ Đại chùy Luân xa 6 “ Não hộ Luân xa 7 “ Bách hội Luân xa 8 “ Ấn đường (*) Chú thích vị trí huyệt đạo: - Huyệt Hội âm: Tuyến bụng, ngay giữa hậu môn và âm đạo. - Huyệt Yêu du: Tuyến lưng, dưới mỏm gai đốt sống cùng 4. - Huyệt Mệnh môn: Tuyến lưng, dưới đốt sống lưng 14 (ngang với rún). - Huyệt Thần đạo: Tuyến lưng, dưới đốt sống lưng thứ 5. - Huyệt Đại chùy: Tuyến lưng, trên đốt sống lưng thứ 1 dưới đốt cổ. - Huyệt Não hộ: Tuyến đầu, ngay mí tóc sau ót lên 2,5 thốn. - Huyệt Bách hội hay Bá hội: Tuyến đầu, ngay giữa đỉnh đầu. - Huyệt Ấn đường: Tuyến mặt, giữa 2 chân mày ngay sống mũi. IV - HUYỆT ĐẠO ĐỐI CHIẾU LUÂN XA: (*) Huyệt Ngạch trung đối chiếu Luân xa 6 Huyệt Thiên đột “ Luân xa 5 Huyệt Đản trung “ Luận xa 4 Huyệt Khí hải “ Luân xa 3 Huyệt Khúc cốt “ Luân xa 2 (*) Chú thích vị trí huyệt đạo: - Huyệt Ngạch trung, giữa trán – trên huyệt Ấn đường 1 thốn. - Huyệt Thiên đột: Tuyến cổ, dưới cổ hầu, chỗ lõm sụn. - Huyệt Đản trung: Tuyến ngực, giữa ngực, ngang núm vú. - Huyệt Khí hải: Tuyến bụng, ngay rốn đo xuống 1,5 thốn. - Huyệt Khúc cốt: Tuyến bụng, chỗ lõm ngay chính giữa bờ trên xương mu. V - LUÂN XA QUA HỌC THUYẾT TAM TÀI: Luân xa 1 Luân xa 2 TINH Luân xa 3 Luân xa 4 Luân xa 5 KHÍ Luân xa 6 Luân xa 7 THẦN Luân xa 8 VI - LUÂN XA KINH ÂM VÀ KINH DƯƠNG: Luân xa 8, 7, 4,1 : Nguyên kinh dương Luân xa 2, 5, 6, 3 : Nguyên kinh âm Luân xa 8, 7, 4 : Phần dương của kinh dương Luân xa 4, 1 : Phần âm của kinh dương Luân xa 2, 5, 6 : Phần âm của kinh âm Luân xa 6, 3 : Phần dương của kinh âm VII - MÀU SẮC LUÂN XA VỚI NHÃN PHÁP TÂM LINH: Luân xa 1 màu cam Luân xa 2 màu vàng Luân xa 3 màu đen Luân xa 4 màu đỏ Luân xa 5 màu trắng như sữa Luân xa 6 màu trắng như pha lê Luân xa 7 màu lục sáng Luân xa 8 màu ngọc lam VIII - TÁM BẬC ĐẾN SIÊU THỨC: (*) Luân xa 1 : Bậc Động khí Luân xa 2 : Bậc Thăng khí Luân xa 3 : Bậc Hỏa khí Luân xa 4 : Bậc Hòa khí Luân xa 5 : Bậc Nhu khí Luân xa 6 : Bậc Ty khí Luân xa 7 : Bậc Thanh khí Luân xa 8 : Bậc Sắc khí. (*) CHÚ GIẢI: - Động khí: Cảm giác có tiếng động bên trong cơ thể… - Thăng khí: Cảm giác bên trong cơ thể có sự chuyển động lạ.. - Hỏa khí: Cảm giác có hơi nóng bốc lên từ trong cơ thể. - Hòa khí: Cảm giác tâm hồn thanh thản, yên vui và hay thương yêu mọi người, muôn loài chúng sinh. - Nhu khí: Cảm giác hơi thở thật nhẹ nhàng, mềm mại và tâm tính đã biết sự nhẫn nhục. - Ty khí: Cảm giác hơi thở rất nhỏ, thật dài và tâm trí rất tỉnh táo, sáng suốt. - Thanh khí: Cảm giác nghe được các thông tin thầm kín phát ra, cho dù ở rất xa. - Sắc khí: Cảm giác nhìn thấy các sự bí ẩn từ nhiều nơi khác nhau. Bài 3: Các hình đồ Hình đố 7: VỊ TRÍ 8 LUÂN XA TRONG KHÍ CÔNG KIM CANG THIỀN Hình đồ 8: LUÂN XA THU PHÁT KHÍ Hình đồ 9: KHÍ ÂM THĂNG DƯƠNG GIÁNG QUA CÁC LUÂN XA Hình đồ 10: THUYẾT TAM TÀI - TINH KHÍ THẦN Hình đồ 11: THUYẾT TAM TÀI & KHÍ TƯƠNG SINH CỦA TÁM LUÂN XA Hình đồ 12: HUYỆT ĐẠO ĐỐI CHIẾU LUÂN XA Hình đồ 13: QUÁN TƯỞNG LUÂN XA VÀ VÙNG ĐỐI CHIẾU Hình phụ 2: Não và các trung khu hoạt động Hình phụ 3: Các bộ phận và nội tạng Hình phụ 4: Các thần kinh sọ (phân bố vận động và cảm giác). Hình phụ 5: Dây thần kinh Hình phụ 6: Tác động qua lại giữa dây thần kinh cột sống và hệ thần kinh ngoại biên Hình phụ 7: Hệ thần kinh tự chủ: định khu tổng quát Hình phụ 8: Hệ thần kinh tự chủ: sơ đồ Bài 4: Tám luân xa và những liên quan Các câu hỏi và lời giải đáp sau đây, có thể giúp học viên dễ dàng nhận biết rõ hơn bài học về luân xa theo khí công Kim Cang Thiền, và sự tương sinh của bát quái trong định luật ngũ hành. Trước khi trả lời các câu hỏi, thì người hỏi và người đáp nên hiểu rõ ba loại câu hỏi: Một là câu hỏi tò mò, chỉ nhằm nhận được câu trả lời để thỏa mãn trí tò mò mà không cần biết câu trả lời đúng hay sai. Hai là câu hỏi khiêu khích, nhằm thách đố khả năng người khác. Ba là câu hỏi tìm kiếm, nhằm tìm thấy một lối đi đúng giữa ngã ba đường, đây là loại câu hỏi mang nhiều ý nghĩa lớn lao vì lời đáp có thể trở thành ánh sáng tìm ra cánh cửa cuối đường hầm… Câu hỏi 1: Vì sao trong khí công Kim Cang Thiền có tám luân xa? Trả lời: Có nhiều luân xa trong con người, nhưng có 8 luân xa lớn ảnh hưởng nhiều đến các bộ phận chính trong cơ thể, đồng thời 8 luân xa này tương ứng với bát quái trong kinh Dịch. Đại vũ trụ có bát quái, tiểu vũ trụ có tám luân xa. Tám luân xa là những điểm tương tác khí của tiểu vũ trụ với đại vũ trụ, đó là những điểm trọng yếu kết nối mạng sống con người cùng trời đất. Câu hỏi 2: Vì sao tám luân xa chỉ nằm trên đầu và cột sống lưng? Trả lời: Theo dõi sự phát triển bào thai người ta thấy đầu và cột sống phát triển sớm và nhanh nhất, khi đó 8 luân xa đã hình thành ở đầu và cột sống nhưng dưới dạng mầm. Người xưa đã biết cột sống còn sống là mạng sống khỏe mạnh, cột sống yếu là sắp chết. Trong cột sống có hành não tủy, thần kinh trung ương, thần kinh giao cảm... nếu não và cột sống lưng bị thương tổn thì sự tư duy và mọi hoạt động của con người sẽ rất yếu. Vì vậy, các luân xa chủ lực đã phôi thai sẵn trên đầu và cột sống lưng để điều hành khí ngay sau khi sinh. Câu hỏi 3: Vì sao phải kết hợp luân xa với huyệt đạo trong con người? Trả lời: Theo khoa châm cứu, trên đầu và cột sống lưng của con người có những đại huyệt tác động rất mạnh đến hệ thần kinh, ngũ tạng và lục phủ… kết hợp các luân xa và các huyệt đạo có tính tương ứng, tạo thành hệ thống vận chuyển khí thông suốt trong cơ thể. Câu hỏi 4: Vì sao luân xa 1 là Khôn, luân xa 2 là Cấn, luân xa 3 là Khảm, v.v… Trả lời: Theo Đông y, cơ thể có những kinh lạc, huyệt đạo và tạng phủ đều ứng với âm dương, ngũ hành… Khí công Kim Cang Thiền căn cứ vào hai huyệt Mệnh môn và Thần đạo trên cột sống lưng, phát hiện ra những huyệt vị mang tính bát quái - ngũ hành, đều nằm trên đầu và cột sống lưng theo hướng ngũ hành tương khắc, từ phía dưới khắc lên tạo sự kiểm soát đồng bộ, nhằm ngăn chặn lực xấu tác động (rơi) thẳng từ phía trên xuống. Đây là đặc điểm ưu việt tự nhiên của sự cân bằng dòng khí luân chuyển trong con người... Huyệt Mệnh môn ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống lưng 2, huyệt nằm giữa hai huyệt Thận du và có chức năng điều hòa Thận thủy. Thủy là nước, theo bát quái thuộc cung Khảm. Phía trên một đoạn có huyệt Thần đạo ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai cột sống lưng 5, huyệt nằm giữa hai huyệt Tâm du và có chức năng điều hòa Tâm hỏa. Hỏa là lửa, theo bát quái thuộc cung Ly. Nhìn theo hướng đi lên trong cột sống lưng: Thận thuỷ khắc lên Tâm hỏa, thì Tâm hỏa khắc lên Phế kim, Phế kim khắc lên Can mộc, Can mộc khắc xuống Tỳ thổ, Tỳ thổ khắc lên Thận thuỷ và tiếp tục xoay vòng… Như vậy, Tỳ Vị thuộc Khôn Cấn đều là hành thổ đang ở phía dưới Thận thủy. Luân xa 1 ở điểm thấp nhất dưới cột sống lưng được kết hợp với Khôn thổ tại huyệt Hội âm, luân xa 2 là Cấn, luân xa 3 là Khảm,v.v… Câu hỏi 5: Vì sao khí phải đi theo kinh âm và kinh dương mà không lên thẳng hay xuống thẳng? Trả lời: Cột sống lưng có ba đường dẫn khí, một đường chính giữa và hai đường hai bên. Đường chính giữa, khí công Kim Cang Thiền gọi là kinh dương, hai đường hai bên là kinh âm (mỗi trường phái gọi tên ba đường này khác nhau). Khí dương như nắng, gió, truyền vào cơ thể qua huyệt Bách hội rất mạnh. Khí âm như hơi đất, nước, truyền vào cơ thể qua huyệt Hội âm cũng không kém…“Âm thăng dương giáng” - khí âm bay lên, khí dương hạ xuống, là quy luật của tạo hóa phát triển và nuôi dưỡng vạn vật, như ánh nắng chiếu xuống, hơi nước bốc lên kết tụ thành mây và mây hoá thành ra mưa thấm nhuần mặt đất, vạn vật nhờ đó sinh tồn… Khí trong cơ thể con người vận hành theo kinh âm và kinh dương là điều tự nhiên trong luật sinh - khắc của ngũ hành. Lại cũng có thể ví luân xa là các cơ sở cung cấp nguyên liệu, chế biến sản phẩm và tiêu thụ hàng hóa, khí là những nguyên liệu, sản phẩm hay hàng hóa… còn tư tưởng của ta chính là bác tài xế, điều khiển chiếc xe tải có chở hàng hóa phải chạy qua những chặng đường đến đúng các cơ sở đã được quy định… suy ra như sau: 1/ Luân xa 8 tìm nguồn nguyên liệu A và giao đến nơi đặt hàng là luân xa 7. Luân xa 7 lại chuyển giao thẳng đến luân xa 4. Luân xa 4 là cơ sở chuyên chế biến mặt hàng A thành sản phẩm B, xong chuyển giao thẳng cho luân xa 1 (trên đây là đoạn khí kinh dương). 2/ Luân xa 1 nhận mặt hàng B chế biến lại thành sản phẩm C và giao cho luân xa 2. Luân xa 2 có trách nhiệm chuyển giao thẳng đến nơi đặt hàng là luân xa 5. Luân xa 5 lại biến chế mặt hàng C thành hàng bán thành phẩm là D và giao cho luân xa 6. Luân xa 6 tiếp tục đóng gói thành sản phẩm là E rất đặc thù và chuyển thẳng giao cho luân xa 3. Luân xa 3 là nơi chuyên kinh doanh sản phẩm E (trên đây là đoạn khí kinh âm). Trong khí công Kim Cang Thiền người luyện tập dùng ý dẫn khí sai quy định cũng như người lái xe tải giao hàng không đúng nơi chỗ, sẽ xảy ra nhiều sự rất phức tạp khó lường trước.
-
NƯỚC VIỆT THƯỜNG Dịch giả: Tích Dã 汉书 王莽传第六十九上 始,风益州令塞处蛮夷献白雉,元始元年正月,莽白太后下诏,以白雉荐宗庙。群臣因奏言太后:“委任大司马莽定策定宗庙。故大司马霍光有安宗庙之功,益封三万户,畴其爵邑,比萧相国。莽宜如光故事。”太后问公卿曰:“诚以大司马有大功当著之邪?将以骨肉故欲异之也?”于是群臣乃盛陈:“莽功德致周成白雉之瑞,千载同符。圣王之法,臣有大功则生有美号,故周公及身在而托号于周。莽有定国安汉家之大功,宜赐号曰安汉公,益户,畴爵邑,上应古制,下准行事,以顺天心。”太后诏尚书具其事。 ______________ Hán thư Vương Mãng truyện Lúc đầu, ra lệnh cho quan lại ở Ích Châu [thuộc đất Tây Nam Di] sai người Man Di ở ngoài biên giới đến dâng chim trĩ trắng, tháng giêng năm Nguyên Thủy đầu tiên, Mãng khuyên Thái hậu ban chiếu lệnh đem chim trĩ trắng cúng tế ở tông miếu. Quần thần nhân đó tấu lên Thái hậu nói: "Giao cho Đại Tư mã Mãng đặt kế sách làm yên ổn tông miếu. Đại Tư mã Hoắc Quang ngày trước có công làm yên ổn tông miếu, phong thêm ba vạn hộ, thêm tước ấp, sánh với Tiêu Tướng quốc [Tiêu Hà]. Mãng nên như việc cũ của Hoắc Quang". Thái hậu hỏi các quan hàng công khanh nói: "Quả thực Đại Tư mã có công sáng rõ chăng? Sẽ cho là vì tình cốt nhục mà ban tặng đặc biệt cho ông ta?". Do đó quần thần lại bày tỏ nói: "Công đức của Mãng có điềm chim trĩ thời Chu Thành Vương, nghìn năm cùng giống nhau. Phép tắc của bậc thánh Vương là thần có công thì ban cho tên hiệu đẹp, cho nên Chu Công tự mình giúp nhà Chu. Mãng có công lớn đặt yên đất nước, làm ổn nhà Hán, nên ban cho hiệu là An Hán Công, phong thêm hộ, tước ấp, trên ứng phép tắc ngày trước, dưới theo mà làm việc, để thuận với lòng trời". Thái hậu gọi Thượng thư ghi chép việc này. [www.guoxue.com] 资治通鉴 汉纪二十七 孝哀皇帝下元始元年(辛酉,公元一年) 春,正月,王莽风益州,令塞外蛮夷自称越裳氏重译献白雉一、黑雉二。莽白太后下诏,以白雉荐宗庙。于是群臣盛陈莽功德,致周成白雉之瑞,周公及身在而托号于周,莽宜赐号曰安汉公,益户畴爵邑。太后诏尚书具其事。 ______________ Tư trị thông giám Hán kỉ Hiếu Ai Hoàng Đế hạ Nguyên Thủy nguyên niên (Tân dậu, Công nguyên nhất niên) Xuân, chính nguyệt, Vương Mãng phong Ích Châu, lệnh tắc ngoại Man Di tự xưng Việt Thường thị trùng dịch hiến bạch trĩ nhất, hắc trĩ nhị. Mãng bạch Thái hậu hạ chiếu, dĩ bạch trĩ tiến tông miếu. Vu thị quần thần thịnh trần Mãng công đức, chính Chu Thành bạch trĩ chi thụy, Chu Công cập thân tại nhi thác hiệu vu Chu, Mãng nghi tứ hiệu An Hán Công, ích hộ trù tước ấp. Thái hậu triệu Thượng thư cụ kì sự. _________________ Tư trị thông giám Hán kỉ Hiếu Ai Hoàng Đế, năm Nguyên Thủy đầu tiên (Tân dậu, năm thứ một Công nguyên) Mùa xuân, tháng giêng, Vương Mãng đến chơi ở Ích Châu, ra lệnh cho người Man Di ở ngoài biên giới tự xưng là họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch dâng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen. Mãng khuyên Thái hậu ra lệnh, đem chim trĩ trắng đến cúng tế ở tông miếu. Do đó quần thần kể rõ công đức của Mãng, ứng với điềm chim trĩ thời Chu Thành Vương, Chu Công tự thân được nhà Chu ban hiệu, Mãng nên ban cho hiệu là An Hán Công. Thái hậu gọi Thượng thư đến chuẩn bị việc này. [www.guoxue.com] 白虎通德論 卷五 封禪 嘉禾者,大禾也,成王時有三苗異畝而生,同為一穗大幾盈車,長几充箱。民有得而上之者,成王訪周公而問之,公曰:“三苗為一穗,天下當和為一乎!”以是果有越裳氏重九譯而來矣。 ______________ Bạch hổ thông đức luận Quyển ngũ Phong thiện Gia hòa giả, đại hòa dã, Thành Vương thời hữu tam miêu dị mẫu nhi sinh, đồng vi nhất tuệ đại ki doanh xa, trường kỉ sung sương. Dân hữu đắc nhi thượng chi giả, Thành Vương phỏng Chu Công nhi vấn chi, Công viết: "Tam miêu vi tam tuệ, thiên hạ đường hòa vi nhất hồ!". Dĩ thị Việt Thường thị trùng cửu dịch nhi lại hĩ. __________________ Bạch hổ thông đức luận Quyển thứ năm Phong thiện Hán - Ban Cố Lúa đẹp là lúa to vậy, thời Thành Vương có ba cây lúa trồng ở đất lạ mới mọc ra, đều là một bông lớn nhỏ chở đầy xe, dài chất đầy rương. Dân lấy được thì dâng lên vua, Thành Vương thăm hỏi Chu Công mà hỏi về cái này, Công nói: "Ba cây lúa non làm một bông, thiên hạ đang hòa thuận làm một chăng!". Sau đó quả nhiên họ Việt Thường qua chín trạm dịch mà đến. [chinese.dsturgeon.net] 水經注/36 《林邑記》曰:九德,九夷所極,故以名郡。郡名所置,周越裳氏之夷國。《周禮》,九夷遠極越裳。白雉象牙,重九譯而來。 ______________ Thủy kinh chú Quyển thứ 36 Bắc Ngụy - Lịch Đạo Nguyên soạn Sách "Lâm Ấp kí" nói: Cửu Đức là chỗ tận cùng của người Cửu Di, cho nên quận lấy tên ấy. Đặt ra tên quận, là nước của người Di họ Việt Thường thời Chu. Sách "Chu lễ", người Cửu Di ở chỗ xa tận cùng là họ Việt Thường. Đem chim trĩ trắng, ngà voi, qua nhiều trạm dịch mà đến. 文选卷第三 幽荒,九州外,谓四夷也。北燮素颊丁令,南谐越裳。燮、谐,皆和也。越裳,南蛮,今九真是也。丁令,国名。善曰:汉书曰:匈奴北服丁令也。韩诗外传曰:成王之时,越裳氏重九译而至,献白雉于周公。西包大秦,东过乐浪音郎。善曰:司马彪续汉书曰:大秦国名犁鞮鞬,在西海之西。汉书有乐浪郡。重舌之人九译,佥稽首而来王。重舌,谓晓夷狄语者。九译,九度译言始至中国者也。善曰:国语曰:夫戎狄坐诸门外,而使舌人体委与之。韦昭曰:舌人能达异方之志,象胥之官也。韩诗外传曰:成王之时,越裳氏重九译而至,献白雉于周公。晋灼汉书注曰:远国使来,因九译言语乃通也。说文曰:译,传四夷之语者。尚书曰:禹拜稽首,四夷来王。 __________________ Văn tuyển Quyển thứ ba Lương - Tiêu Thống chủ biên Đường - Lí Thiện chú Cõi u hoang là vùng ngoài của chín châu. Phía bắc tiếp tố với Đinh Lệnh, phía nam hài hòa đến Việt Thường. Tiếp, hài đều là hòa hợp vậy. Việt Thường tức là người Man phương nam, nay là Cửu Chân vậy. Đinh Lệnh là tên nước. Thiện [Lí Thiện] nói: Sách "Hán thư" nói: Phía bắc Hung Nô bao trùm nước Đinh Lệnh. "Hàn thi ngoại truyện" nói: Thời Thành Vương, họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch mà đến, dâng chim trĩ trắng cho Chu Công. Phía tây bao quát Đại Tần. Phía tây quá Lạc Lãng, âm là Lang. Thiện nói: Tư Mã Bưu kế tục "Hán thư" nói: Tên nước Đại Tần là Lê Đê Kiện, tại phía tây của biển lớn. Xét "Hán thư" có quận Lạc Lãng. Người trùng thiệt là người nhiều lần phiên dịch, đều cúi đầu mà đến gặp Vương. Trùng thiệt là chỉ tiếng nói của người Di Địch. Cửu dịch là dịch tiếng nói mới được như người Trung Quốc. Thiện nói: "Quốc ngữ" nói: Người Nhung Địch ngồi ở ngoài cửa, cho nên sai người phiên dịch [thiệt nhân] ra vỗ về, trao đổi với họ. Vi Chiêu nói: Người phiên dịch có thể hiểu ý của người cõi khác, tức là quan Tượng tư vậy. "Hàn thi ngoại truyện" nói: Thời Thành Vương, họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch mà đến, dâng chim trĩ trắng cho Chu Công. Tấn Chước chú giải "Hán thư" nói: Người của nước xa đến, do đó phải nhiều lần phiên dịch mới hiểu. "Thuyết văn" nói: Dịch là người truyền đạt tiếng nói của người Di bốn phương. "Thượng thư" nói: Vua Vũ bái nhường cúi đầu, người Di bốn phương đến gặp Vương. 嶺南摭怪 白雉傳 武瓊(校正)、喬富(刪定) 周成王時,雄王命其臣稱越裳氏,獻白雉於周。其言語不通,周公使人重譯,然後相通。周公問曰:「何為而來?」越裳氏應曰:「今天無淫雨、海不揚波三年矣。意者中國有聖人矣,故來。」周公嘆曰:「政令不施,君子不臣其人;德澤不加,君子不享其物。及記黃帝所誓曰:『交趾方外,無得侵犯。』」賞以重物,教戒放回。越裳使忘其歸路,周公命賜之駢車五乘,皆為向南之制。越裳氏載之由扶南、林邑海渚,期年而至其國,故指南車常為先導。 後孔子作《春秋》,以文郎國為要荒之地,文物未備,故置之而不載焉。舊本曰:周公問曰:「交趾短髮文身,露頭跣足黑齒,何由若是也?」越裳氏應曰:「短髮以便山林之入。文身以為龍君之形,游泳於河,蛟龍不犯。跣足以便緣木。刀耕火種,露頭以避炎熱。食檳榔以除污穢,故黑齒。」 ______________________ Lĩnh Nam trích quái Truyện chim trĩ trắng Trần - Trần Thế Pháp soạn Lê - Vũ Quỳnh sửa chữa, Kiều Phú san định [sửa lại để in sách cố định] Thời Chu Thành Vương, Hùng Vương ra lệnh quần thần của mình xưng là họ Việt Thường, dâng chim trĩ trắng cho nhà Chu, Chu Công sai người phiên dịch nhiều lần, sau mới hiểu nhau. Chu Công hỏi nói: "Cớ sao lại đến?". Họ Việt Thường đáp nói: "Nay trời không có mưa lớn, biển không dậy sóng ba năm rồi. Nghĩ là Trung Quốc có thánh nhân chăng, cho nên đến". Chu Công than nói: "Chính lệnh không đến, người quân tử không bắt người khác thần phục; ân đức không ban cho, người quân tử không nhận đồ dâng cống. Ghi nhớ lời thề của Hoàng Đế nói: 'Giao Chỉ là cõi ngoài, không được xâm lấn'". Thượng cho vật qúy, khuyên bảo trở về chỗ cũ. Sứ giả Việt Thường quên đường về, Chu Công ra lệnh ban cho năm cỗ xe ngựa đôi, đều chỉ về hướng nam. Họ Việt Thường ngồi xe theo bờ biển Phù Nam, Lâm Ấp, một năm thì về đến nước mình, nguyên nhân là xe chỉ hướng nam luôn dẫn đường trước. Sau Khổng Tử viết sách "Xuân thu", vì nước Văn Lang là đất yêu hoang, văn vật chưa đầy đủ, cho bên bỏ đi mà không ghi chép vào. Cựu bản nói: Chu Công hỏi nói: "Người Giao Chỉ cắt tóc vẽ mình, đầu trần, chân không, răng đen, cớ sao như vậy?". Họ Việt Thường đáp nói: "Cắt tóc để dễ vào rừng núi. Vẽ mình để làm hình của vua rồng, bơi lội ở sông, giao long không làm hại. Chân không để dễ leo cây. Lấy đao mà cày ruộng, đốt lửa rồi mới gieo trồng, đầu trần để nắng nóng bức. Ăn cau để rửa nhơ bẩn, cho nên răng đen". Hàn thi ngoại truyện (Hán - Hàn Anh soạn) 成王之時有三苗貫桑而生,同爲一秀,大幾滿車,長幾充箱,民得而上諸成王。成王問周公曰:"此何物也?"周公曰:"三苗同爲一秀,意者天下殆同一也。"比幾三年,果有越裳氏重九譯而至,獻白雉於周公,曰:"道路悠遠,山川幽深。恐使人之未達也,故重譯而來。"周公曰:"吾何以見賜也?"譯曰:"吾受命國之黃髪曰:'久矣,天之不迅風疾雨也,海之不波溢也,三年於茲矣。意者中國殆有聖人,盍往朝之。'於是來也。"周公乃敬求其所以來。 Thành Vương thi thời hữu tam miêu quán tang nhi sinh, đồng vi nhất tú, đại ki mãn xa, trường ki sung tương, dân đắc nhi thượng chư Thành Vương. Thành Vương vấn Chu Công viết: "Thử hà vật dã?" Chu Công viết: "Tam miêu đồng vi nhất tú, ý giả thiên hạ đãi đồng nhất dã." Bí ki tam niên, quả hữu Việt Thường thị trùng cửu dịch nhi chí, hiến bạch trí ư Chu Công, viết: "Đạo lộ du viễn, sơn xuyên u thâm, khủng sứ nhân chi vị đạt dã, cố trùng dịch nhi lai." Chu Công viết: "Ngô hà dĩ kiến tứ dã?" Dịch viết: "Ngô thụ mệnh quốc chi hoàng phát viết: 'Cửu hĩ thiên chi bất tấn phong tật vũ dã, hải chi bất ba dật, tam niên ư tư hĩ. Ý giả Trung Quốc đãi hữu thánh nhân, hạp vãng triều chi.' Ư thị lai dã." Chu Công nãi kính cầu kì sở dĩ lai. Vào thời Thành Vương có ba mầm lúa thấu qua cây dâu mà mọc, hợp cùng một bông, lớn gần đầy xe, dài gần dủ cái rương, người dân lấy mà đem dâng lên Thành Vương. Thành Vương hỏi Chu Công rằng: "Vật ấy là gì?" Chu Công nói: "Ba mầm lúa mọc cùng một bông, có lẽ là thiên hạ sắp hợp làm một vậy." Kịp gần ba năm sau, quả nhiên có sứ giả nước Việt Thường qua chín lần phiên dịch mà đến, tặng chim trĩ trắng cho Chu Công, nói: "Đường lối xa xăm, sông núi sâu kín, sợ sứ giả không truyền lời được, cho nên nhiều lần phiên dịch mà đến đây." Chu Công nói: "Ta cớ gì được nhận vật tặng?" Sứ giả nói: "Ta nhận lệnh ông già tóc vàng của nước ta nói: 'Lâu rồi trời không có mưa to gió lớn, biển không dậy sóng cao, ba năm như thế rồi! Nghĩ rằng Trung Quốc sắp có thánh nhân, sao không đến chầu ở đấy!" Cho nên đến vậy." Chu Công bèn kính theo ý mà sứ giả đến. [www.guoxue123.com] ________________ Hậu Hán thư - Nam Man liệt truyện (Lưu Tống - Phạm Diệp soạn, Đường - Lí Hiền chú) 交阯之南有越裳國。周公居攝六年,制禮作樂,天下和平,越裳以三象重譯而獻白雉,曰:「道路悠遠,山川岨深,音使不通,故重譯而朝。」成王以歸周公。公曰:「德不加焉,則君子不饗其質;政不施焉,則君子不臣其人。吾何以獲此賜也!」其使請曰:「吾受命吾國之黃耇爾雅曰:「黃髮,鮐背,耇老,壽也。」曰:『乆矣,天之無烈風雷雨,尚書大傳作「烈風淫雨」。意者中國有聖人乎?有則盍往朝之。』」周公乃歸之於王,事見尚書大傳。稱先王之神致,以薦于宗廟。周德旣衰,於是稍絕。 Giao Chỉ chi nam hữu Việt Thường quốc. Chu Công cư nhiếp lục niên, chế lễ tác nhạc, thiên hạ hòa bình, Việt Thường dĩ tam tượng trùng dịch nhi hiến bạch trĩ, viết: "Đạo lộ du viễn, sơn xuyên trở thâm, âm sứ bất thông, cố trùng dịch nhi triều." Thành Vương dĩ quy Chu Công. Công viết: "Đức bất gia yên, tắc quân tử bất hưởng kì chí; chính bất thi yên, tắc quân tử bất thần kì nhân. Ngô hà dĩ hoạch thử tứ dã!" Kì sứ thỉnh viết: "Ngô thụ mệnh ngô quốc chi hoàng củ Nhĩ nhã viết: "Hoàng phát, thai bối, củ lão, thọ dã." viết: 'Cửu hĩ, thiên chi vô liệt phong lôi vũ, Thượng thư đại truyện tác 'liệt phong chú vũ'. Ý giả Trung Quốc hữu thánh nhân hồ? Hữu tắc hạp vãng triều chi.'" Chu Công nãi quy chi ư vương, Sự kiến Thượng thư đại truyện. xưng tiên vương chi thần trí, dĩ tiến vu tông miếu. Chu đức kí suy, ư thị sảo tuyệt. Phía nam đất Giao Chỉ có nước Việt Thường. Chu Công nắm chính lệnh đã được sáu năm, đặt lễ soạn nhạc, thiên hạ hòa bình, sứ giả nước Việt Thường đến qua ba lần phiên dịch liên tiếp rồi tặng chim trĩ trắng, nói: "Đường lối xa xăm, sông núi ngăn cách, tiếng nói không thông, cho nên nhiều lần phiên dịch mà chầu." Thành Vương đem chim trĩ cho Chu Công, Chu Công nói: "Đức không truyền đến nước người thì quân tử không hưởng vật tặng của nước người, chính lệnh không ban đến nước người thì quân tử không bắt nước người thần phục. Ta cớ gì lại lấy vật tặng ấy!" Sứ giả xin rằng: "Ta nhận lệnh ông già tóc vàng của nước ta Nhĩ nhã chép: "Tóc vàng, lưng còng, chỉ người già, nhiều tuổi." nói: 'Lâu rồi trời không có mưa giật gió lớn, Thượng thư đại truyện chép là 'gió lớn mưa dầm'. nghĩ rằng đất Trung Quốc có bậc thánh nhân chăng? Nếu có thì sao không đến chầu ở đấy?'" Chu Công lại đem về cho Thành Vương, Việc này thấy ở Thượng thượng thư đại truyện. cho là cái đức thần của tiên vương dẫn đến như thế, đem chim trĩ tế ở tông miếu. Kịp lúc nhà Chu đã suy, do đó sứ giả nước Việt Thường dần dần dứt qua lại. [www.sidneyluo.net] ______________________ Hán thư - Giả Quyên Chi truyện (Hán - Ban Cố soạn, Đường - Nhan Sư Cổ chú) 武丁、成王,殷、周之大仁也,師古曰:「武丁,殷之高宗。」然地東不過江、黃,西不過氐、羗,南不過蠻荊,北不過朔方。是以頌聲並作,視聽之類咸樂其生,越裳氏重九譯而獻,晉灼曰:「遠國使來,因九譯言語乃通也。」張晏曰:「越不著衣裳,慕中國化,遣譯來著衣裳也,故曰越裳也。」師古曰:「張說非也。越裳自是國名,非以襲衣裳始為稱號。王充論衡作越甞,此則不作衣裳之字明矣。」此非兵革之所能致。 Võ Đinh, Thành Vương, Ân, Chu chi đại nhân dã, nhiên địa đông bất quá Giang, Hoàng, tây bất quá Đê, Khương, nam bất quá Man Kinh, bắc bất quá Sóc Phương. Thị dĩ tụng thanh tịnh tác, thị thính chi loại hàm lạc kì sinh, Việt Thường thị trùng cửu dịch nhi hiến, Tấn chước viết: "Viễn quốc sứ lai, nhân cửu dịch ngôn ngữ nãi thông dã." Trương Yến viết: "Việt bất trước y thường, mộ Trung Quốc hóa, khiển dịch lai trước y thường dã, cố viết Việt Thường dã." Sư Cổ viết: "Trương thuyết phi dã. Việt Thường tự thị quốc danh, phi dĩ tập y thường thủy vi xưng hiệu. Vương Sung Luận hành tác 'Việt Thường', thử tắc bất tác y thường chi tự minh hĩ." Thử phi binh cách chi sở năng trí. Võ Đinh, Thành Vương là các vị vua có lòng nhân của nhà Ân, nhà Chu, mà đất về phía đông không quá sông Giang-Hoàng, phía tây không qua chỗ người Đê-Khương, phía nam không quá đất Man Kinh. Thế mà tiếng ca tụng cùng réo lên, đều vui với những thứ mắt thấy tai nghe của mình, sứ giả nước Việt Thường đến qua nhiều lần phiên dịch mà tặng, Tấn chước chép: "Sứ giả nước xa đến, qua chín lần phiên dịch tiếng nói mới hiểu thông." Trương Yến nói: "Người Việt không mặc xiêm áo, theo thói của người Trung Quốc, sai sứ giả đến mới mặc xiêm áo, cho nên gọi là Việt Thường." Sư Cổ nói: "Trương Yến nói sai. Việt Thường tự là tên nước, không phải vì mặc xiêm áo mới có tên gọi ấy. Luận hành của Vương Sung chép là 'Việt Thường', chữ ấy không phải là chỉ cái xiêm là rõ rồi." Đấy chẳng phải do cái mà binh cách dẫn đến. [www.sidneyluo.net] ____________________________________ Thái Bình ngự lãm (Tống - Lí Phưởng soạn) 任昉《述異記》曰:陶唐之世,越裳國獻千歲神龜,方三尺余。背上有文,皆科斗書,記開辟已來命錄之龜曆。 Nhâm Phưởng Thuật dị kí viết: "Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, phương tam xích dư, bối hữu văn giai khoa đẩu thư, kí khai tịch dĩ lai, mệnh lục chi quy lịch. Thuật dị kí của Nhâm Phưởng chép: "Vào thời nhà Đào Đường, người nước Việt Thường tặng rùa thần ngàn tuổi, vuông hơn ba thước, trên lưng có chữ, đều là lối chữ khoa đẩu, ghi từ thủa mở mang về sau, (vua Nghiêu) sai chép lại gọi là lịch rùa." Diêm thiết luận (Hán - Hoàn Khoan soạn) 昔周室之盛也,越裳氏來獻,百蠻致貢。 Tích Chu thất chi thịnh dã, Việt Thường thị lai hiến, bách man trí cống. Ngày xưa vào lúc nhà Chu thịnh, người nước Việt Thường đến tặng, các giống người rợ đến cống. 周公修德,而越裳氏來。 Chu Công tu đức nhi Việt Thường thị lai. Chu Công tu đức thì người nước Việt Thường đến. 昔周公處謙以卑士,執禮以治天下,辭越裳之贄,見恭讓之禮也。 Tích Chu Công xử khiêm dĩ ti sĩ, chấp lễ dĩ trị thiên hạ, từ Việt Thường chi chí, kiến mộ nhượng chi lễ dã. Ngày xưa Chu Công nhún nhường để đãi kẻ sĩ, giữ lễ để trị thiên hạ, từ chối vật tặng của người nước Việt Thường, tỏ lễ khiêm nhường vậy. _____________________________ Hán thư (Hán - Ban Cố soạn, Đường - Nhan Sư Cổ chú) Bình Đế kỉ 元始元年春正月,越裳氏重譯獻白雉一,黑雉二,師古曰:「越裳,南方遠國也。譯謂傳言也。道路絕遠,風俗殊隔,故累譯而後乃通。」詔使三公以薦宗廟。群臣奏言大司馬莽功德比周公,賜號安漢公,及太師孔光等皆益封。語在莽傳。 Nguyên Thủy nguyên niên xuân chính nguyệt, Việt Thường thị trùng dịch hiến bạch trĩ nhất, hắc trĩ nhị, Sư Cổ viết: "Việt Thường, nam phương viễn quốc dã. Dịch vị truyền ngôn dã. Đạo lộ tuyệt viễn, phong tục thù cách, cố lũy dịch nhi hậu nãi thông."Chiếu sử Tam công dĩ tiên tông miếu. Quần thần tấu ngôn Đại tư mã Mãng công đức tỉ Chu Công, tứ hiệu An Hán Công, cập Thái sư Khổng Quang đẳng giai ích phong. Ngữ tại Mãng truyện. Năm Nguyên Thủy thứ nhất (năm 5), mùa xuân, tháng giêng, người nước Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch tặng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen, Sư Cổ nói: "Nước Việt Thường là nước xa ở miền nam. Phiên dịch là truyền lời. Dường lối xa cách, thói tục khác lạ, cho nên phiên dịch nhiều lần sau mới hiểu được." Hạ chiếu sai Tam công đem tế ở tông miếu. Bầy tôi tấu nói là công đức của quan Đại tư mã tên là Mãng sánh ngang Chu Công, xin ban hiệu là An Hán Công, kịp lúc đó bọn quan Thái sư là Khổng Quang đều được phong thêm. Lời nói chép ở Vương Mãng truyện. Vương Mãng truyện 始,風益州令塞外蠻夷獻白雉,元始元年正月,莽白太后下詔,以白雉薦宗廟。 Thủy, phúng Ích châu lệnh tắc ngoại Man Di hiến bạch trĩ, Nguyên Thủy nguyên niên chính nguyệt, Mãng tự Thái hậu hạ chiếu, dĩ bạch trĩ tiến tông miếu. Lúc trước, (Vương Mãng) sai quan lại châu Ích sai người Man Di ở ngoài ải đến tặng chim trĩ trẵng, vào tháng giêng năm Nguyên Thủy thứ nhất thì Mãng từ lúc Thái hậu hạ chiếu bèn đem chim trĩ trắng tế ở tông miếu. ______________________ Tích Dã cho rằng: Vào thời Thành Vương nhà Chu hưng thịnh, Chu Công tu đức, phía nam Giao Chỉ (thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) có sứ giả nước Việt Thường nghe tiếng mà đến tặng chim trĩ. Các học giả thời Hán thường lấy chuyện này để khen Chu Công. Kịp lúc nhà Hán suy, Vương Mãng soán ngôi, bày trò sai quan lại biên giới châu Ích (thuộc tỉnh Vân Nam - Trung Quốc ngày nay) lệnh người Man Di mạo xưng là người nước Việt Thường đến tặng chim trĩ dể sánh với việc cũ sánh với Chu Công vậy. Cổ kim chú (Tấn - Thôi Báo soạn) 大駕指南車,起黃帝與蚩尤戰於涿鹿之野。蚩尤作大霧,兵士皆迷,於是作指南車,以示四方,遂擒蚩尤,而即帝位。故後常建焉。舊說周公所作也。周公治致太平,越裳氏重譯來貢白雉一,黑雉二,象牙一,使者迷其歸路,周公錫以文錦二匹,軿車五乘,皆為司南之制,使越裳氏載之以南。緣扶南林邑海際,期年而至其國。 Đại giá chỉ nam xa, khởi Hoàng Đế dữ Xi Vưu chiến ư Trác Lộc chi dã. Xi Vưu tác đại vụ, binh sĩ giai mê, ư thị tác chỉ nam xa dĩ thị tứ phương, toại cầm Xi Vưu nhi tức đế vị. Cố hậu thường kiến yên. Cựu thuyết Chu Công sở tác dã. Chu Công trị chính thái bình, Việt Thường thị trùng dịch lai cống bạch trĩ nhất, hắc trĩ nhị, tượng nha nhất, sứ giả mê kì quy lộ. Chu Công tứ dĩ văn cẩm nhị thất, bình xa ngũ thặng, giai vi tư nam chi chế. Sử Việt Thường thị tải chi dĩ nam, duyên Phù Nam, Lâm Ấp hải tế, ki niên nhi chí kì quốc. Xe lớn chỉ đường về phía nam có từ thời Hoàng Đế đánh với Xi Vưu ở cánh đồng Trác Lộc. Xi Vưu bày ra sương mù lớn, quân lính đều lạc đường, do dó làm ra xe chỉ nam để chỉ bốn phía, rút cuộc bắt được Xi Vưu mà lên ngôi vua. Cho nên đời sau thường làm ra xe này. Người thời xưa nói là do Chu Công làm nên. Chu Công trị thiên hạ thái bình, người nước Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch cống một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen, một cái ngà voi, sứ giả lạc đường về, Chu Công ban cho hai bó gấm thêu, năm cỗ xe giăng màn, đều theo chỉ đường về phía nam. Sai người nước Việt Thường nhân đó kéo về phía nam, men bờ biển nước Phù Nam, Lâm Ấp, một năm thì đến nước của mình. [zh.wikisource.org] ____________________ Tích Dã cho rằng: Lời trên thật là không đáng tin. Xe chỉ nam làm nên thời nào còn không rõ, nói chi đến việc sứ giả nước Việt Thường kéo xe chỉ nam men theo bờ biển nước Phù Nam, Lâm Ấp mà về nước? Hoặc giả nếu Việt Thường là nước xa xôi ở cạnh nước Phù Nam, Lâm Ấp thì sứ giả phải đi thuyền bằng đường biển là tiện nhất như sứ giả nước Hoàng Chi dâng tê ngưu (hà mã, tê giác) thời nhà Hán vậy. Tấn thư - Địa lí chí (Đường - Phòng Huyền Linh soạn) 九德郡吳置,周時越常氏地。 Cửu Đức quận Ngô trí, Chu thời Việt Thường thị địa. Quận Cửu Đức đặt ra từ thời nhà Ngô, là đất nước Việt Thường thời nhà Chu. Lĩnh tám huyện: Cửu Đức (九德), Hàm Hoan (咸驩), Nam Lăng (南陵), Dương Toại (陽遂), Phù Linh (扶苓), Khúc Tư (曲胥), Phố Dương (浦陽), Đô Hào (都洨). ___________________ Tống thư - Địa lí chí (Lương - Thẩm Ước soạn) 九德太守,故屬九真,吳分立。何志領縣七,今領縣十一,戶八百九。越常長,何志吳立,太康地志無。 Cửu Đức thái thú, cố thuộc Cửu Chân, Ngô phân lập. Hà chí lĩnh huyện thất, kim lĩnh huyện thập nhất. Việt Thường trưởng, Hà chí Ngô lập, Thái Khang địa chí vô. Quận Cửu Đức vốn thuộc quận Cửu Chân, nhà Ngô chia lập nên. Hà chí chép là lĩnh bảy huyện, nay (thời Lưu Tống) lĩnh mười một huyện, tám trăm lẻ chín hộ. Có huyện Việt Thường (越常), theo Hà chí chép là do nhà Ngô đặt ra, Thái Khang địa chí không chép. Các huyện khác là: Cửu Đức (九德), Hàm Hoan (鹹驩), Đô Yên (都禋), Tây An (西安), Nam Lăng (南陵), Tống Thái (宋泰), Tống Xương (宋昌), Hi Bình (希平). _____________________ Nam Tề thư - Địa lí chí (Lương - Tiêu Tử Hiển soạn) 九德郡九德,咸驩,浦陽,南陵,都洨,越常,西安。 Cửu Đức quận Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Hào, Viêt Thường, Tây An. Quận Cửu Đức lĩnh các huyện Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Hào, Viêt Thường, Tây An. Thông điển - Châu quận điển (Đường - Đỗ Hữu soạn) 驩州今理九德縣。古越裳氏國,重九譯者也。秦屬象郡。二漢屬九真郡。吳分置九德郡,晉、宋、齊因之。隋置驩州,後為日南郡。大唐為驩州,或為日南郡。領縣四:九德晉舊縣。越裳吳舊縣。懷驩音歡。浦陽晉舊縣。 Châu Hoan nay trị ở huyện Cửu Đức. Là nước Việt Thường thời xưa có sứ giả qua chín lần phiên dịch. Thời Tần thuộc quận Tượng. Thời hai nhà (Tiền-Hậu) Hán thuộc quận Cửu Chân. Nhà Ngô chia đặt ra quận Cửu Đức, nhà Tấn, Tống, Tề nhân theo nhà Ngô. Thời nhà Tùy đặt ra châu Hoan, sao lại đặt thành quận Nhật Nam. Nhà Đường là châu Hoan, có khi gọi là quận Nhật Nam. Lĩnh bốn huyện: - Cửu Đức, là huyện cũ thời nhà Tấn. - Việt Thường, là huyện cũ thời nhà Ngô. - Hoài Hoan, Hoan, đọc là 'hoan'. - Phố Dương, là huyện cũ thời nhà Tấn. Tùy thư - Địa lí chí (Đường - Ngụy Trưng soạn) 日南郡梁置德州,開皇十八年改曰驩州。統縣八,戶九千九百一十五。九德帶郡。咸驩浦陽越常金甯梁置利州。開皇十八年改為智州,大業初州廢。交谷梁置明州,大業初州廢。安遠光安舊曰西安,開皇十八年改名焉。 Quận Nhật Nam, thời Lương đặt thành châu Đức. Năm Khai Hoàng thứ mười tám (năm 598) đổi thành châu Hoan, lĩnh tám huyện, chín ngàn chín trăm mười lăm hộ. - Cửu Đức, là sở trị của quận. - Hàm Hoan. - Phố Dương. - Việt Thường. - Kim Ninh, nhà Lương đặt ra châu Lợi, năm Khai Hoàng thứ mười tám đổi thành châu Trí, đầu năm Đại Nghiệp lại bỏ châu này. - Giao Cốc, nhà Lương đặt ra châu Minh, đầu năm Đại Nghiệp lại bỏ châu này. - An Viễn. - Quang An, trước gọi là Tây An, năm Khai Hoàng thứ mười tám đổi tên này. Cựu Đường thư - Địa lí chí (Hậu Tấn - Lưu Hú soạn) 驩州 陳日南郡。武德五年,置南德州總管府,領德、明、智、驩、林、源、景、海八州。南德州領六縣。八年,改為德州。貞觀初,改為驩州,以舊驩州為演州。二年,置驩州都督府,領驩、演、明、智、林、源、景、海八州。十二年,廢明、源、海三州。天寶元年,改為日南郡。乾元元年,複為驩州也。舊領縣六,戶六千五百七十九,口一萬六千六百八十九。天寶領縣四,戶九千六百一十九,口五萬八百一十八。至京師陸路一萬二千四百五十二裏,水路一萬七千里,至東都一萬一千五百九十五裏,水路一萬六千二百二十裏。東至大海一百五十裏,南至林州一百五十裏,西至環王國界八百里,北至愛州界六百三裏,南至盡當郡界四百里,西北到靈跋江四百七十裏,東北至辯州五百二裏。 九德 州所治。古越裳氏國,秦開百越,此為象郡。漢武元鼎六年開交趾已南,置南郡,治於硃吾,領比景、盧容、西扌卷、象林五縣。吳分日南置九德郡,晉、宋、齊因之。隋改為驩州,廢九德郡為縣,今治也。後漢遣馬援討林邑蠻,援自交趾循海隅,開側道以避海,從蕩昌縣南至九真郡,自九真至其國,開陸路,至日南郡,又行四百餘裏,至林邑國。又南行二千餘裏,有西屠夷國,鑄二銅柱于象林南界,與西屠夷分境,以紀漢德之盛。其時,以不能還者數十人,留於其銅柱之下。至隋乃有三百余家,南蠻呼為「馬留人」。其水路,自安南府南海行三千余裏至林邑,計交趾至銅柱五千里。 浦陽 晉置 懷驩 隋為鹹驩縣,屬九真郡。武德五年,於縣置驩州,領安人、扶演、相景、西源四縣,治安人。貞觀九年,改為演州。十三年,省相景縣入扶演。十六年,廢演州。其所管四縣,廢入鹹驩。後改為懷驩 越裳 吳置。武德五年,於縣置明州,析置萬安、明弘、明定三縣隸之。又分日南郡文谷、金寧二縣置智州,領文穀、新鎮、闍員、金寧四縣。貞觀十三年,廢明州,越裳屬智州。後又廢智州,以越裳屬驩州。 Châu Hoan, vào thời nhà Trần là quận Nhật Nam. Năm Võ Đức thứ năm (năm 622) đặt ra Nam Đức châu tổng quản phủ, lĩnh tám châu là Đức, Minh, Trí, Hoan, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Châu Nam Đức lĩnh sáu huyện, năm thứ tám (năm 625), đổi thành châu Đức. Đầu năm Trinh Quan, đổi thành châu Hoan, lấy châu Hoan cũ đặt thành châu Diễn. Năm thứ hai (năm 628) đặt ra Hoan châu đô hộ phủ, lĩnh tám châu là Hoan, Diễn, Minh, Trí, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải. Năm thứ mười hai (năm 638) bỏ ba châu Minh, Nguyên, Hải. Năm Thiên Bảo thứ nhất (năm 742) đổi thành quận Nhật Nam. Năm Càn Nguyên thứ nhất (năm 758), lập lại châu Hoan. Lúc trước lĩnh sáu huyện, sáu ngàn năm trăm bảy mươi chín hộ, một vạn sáu ngàn sáu trăm tám mươi chín khẩu. Vào năm Thiên Bảo lĩnh bốn huyện, chín ngàn sáu trăm mười chín hộ, năm vạn tám trăm mười tám khẩu. Đến kinh sư theo đường bộ là một vạn hai ngàn bốn trăm năm mươi hai dặm, đường thủy là một vạn sáu ngàn hai trăm hai mươi dặm. Đến đông đô theo đường bộ là một vạn một ngàn năm trăm chín mươi lăm dặm, đường thủy là một vạn sáu ngàn hai trăm hai mươi dặm. Phía đông cách biển lớn một trăm năm mươi dặm, phía nam cách châu Lâm một trăm năm mươi dặm, phía tây cách nước Hoàn Vương tám trăm dặm, phía bắc cách châu Ái sáu trăm lẻ ba dặm, phía nam cách quận Tận Đương bốn trăm dặm, phía tây bắc đến sông Linh Bạt bốn trăm bảy mươi dặm, phía đông bắc đến châu Biện năm trăm lẻ hai dặm. - Cửu Đức (九德), là huyện trị của châu, là nước Việt Thường thời xưa. Nhà Tần mở đất Bách Việt, đây là quận Tượng. Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN) thời Võ Đế nhà Hán đặt quận Giao Chỉ về phía nam, đặt ra quận Nhật Nam, lĩnh năm huyện là Tỉ Cảnh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Nhà Ngô chia quận Nhật Nam đặt ra quận Cửu Đức, nhà Tấn, Tống, Tề noi theo. Nhà Tùy đổi thành châu Hoan, bỏ quận Cửu Đức đặt thành huyện, nay trị ở đây. Thời nhà Hậu Hán sai Mã Viện đánh người Man nước Lâm Ấp, Viện từ quận Giao Chỉ men bờ biển mở đường nhỏ để tránh biển, từ phía nam huyện Đãng Xương đến quận Cửu Chân, lại từ quận Cửu Chân mới đến nước Lâm Ấp, đấy là mở đường bộ đến quận Nhật Nam, lại đi hơn bốn trăm dặm thì đến nước Lâm Ấp. Lại đi về phía nam hơn hai ngàn dặm có nước Tây Đồ Di, đúc hai cột đồng ở phía nam huyện Tượng Lâm, chia ranh giới với nước Tây Đồ Di để nêu cái đức lớn của nhà Hán. Bấy giờ có mấy chục người không về được, ở lại dưới cột đồng ấy, đến thời nhà Tùy đã có hơn trăm nhà, người Man miền nam gọi họ là người Mã Lưu. Đường thủy thì từ phủ An Nam đi biển về phía nam hơn ba ngàn dặm thì đến nước Lâm Ấp, tính từ quận Giao Chỉ đến cột đồng thì cách năm ngàn dặm. - Phố Dương (浦陽), nhà Tấn đặt. - Hoài Hoan (懷驩), nhà Tùy gọi là huyện Hàm Hoan, vốn thuộc quận Cửu Chân. Năm Võ Đức thứ năm, ở huyện này đặt ra châu Hoan, lĩnh bốn huyện là An Nhân, Phù Diễn, Tương Cảnh, Tây Nguyên, trị ở huyện An Nhân. Năm Trinh Quan thứ chín (năm 635), đổi thành châu Diễn. Năm thứ mười ba (năm 639), bỏ huyện Tương Cảnh nhập vào huyện Phù Diễn. Năm thứ mười sáu (năm 642) bỏ châu Diễn, cắt bốn huyện thuộc châu này nhập vào huyện Hàm Hoan, sau đổi tên là Hoài Hoan. - Việt Thường (越裳), nhà Ngô đặt. Năm Võ Đức thứ năm ở huyện này đặt thành châu Minh, chia đặt ba huyện Vạn An, Minh Hoằng, Minh Định thuộc vào châu ấy. Lại chia hai huyện Văn Cốc, Kim Ninh của quận Nhật Nam đặt ra châu Trí, lĩnh bốn huyện là Văn Cốc, Tân Trấn, Xà Viên, Kim Ninh. Năm Trinh Quan thứ mười ba, bỏ châu Minh, lấy huyện Việt Thường thuộc vào châu Trí, sau lại bỏ châu Trí, lấy huyện Việt Thường thuộc châu Hoan. Nước Việt Thường Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: "Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng (...)" (Chuyện ấy sách Hậu Hán thư có chép lại ở chương Nam Man truyện.) Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục Sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu. (...) Các sách xưa (...) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge (...) và Pelliot cũng (...) cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau. Ý kiến các nhà sử học xưa của nước ta thì khác. Sách Việt sử lược là sách sử xưa nhất của ta, ở cuối thế kỷ thứ XIV, cùng các sách sử cũ khác thì chép tên Việt Thường trong số mười lăm bộ của nước Văn Lang. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư thì chép An Dương Vương xây Loa thành ở đất Việt Thường, tức đặt đất ấy ở lưu vực sông Nhị. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì đặt tên Việt Thường ở miền An Bang, tức Quảng Yên ngày nay. Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được. Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi. Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách (...) Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương (...) Ông Lê Chí Thiệp cho rằng ở miền ấy, cũng trong lưu vực Dương Tử (...) thời Hán có quận Dự Chương trong đất tỉnh Giang Tây (ở miền Nam Xương), theo tiếng Trung Quốc là Yu Tchang, cũng gần với âm Yue Tchang, và ngờ rằng đất Việt Thường xưa là đất Việt Chương ở thời Sở, là đất Dự Chương ở thời Hán. Chúng tôi nhận thấy ý kiến rất có lý. (Riêng đoạn này trích từ tr. 215-217) (...) Chúng tôi ngờ rằng nước Việt Thường xưa (...) vốn cũng là (...) chư hầu của nhà Chu, nhưng vì ở xa không hay đi lại triều cống nên sử nhà Chu không chép đến. Nước ấy ở trong phạm vi mà chúng ta đã ức đoán là phạm vi của người Việt tộc, thì dân nước ấy tức là người Việt tộc. (...) Sau khi nước Sở đã thành một nước cường thịnh ở miền Hồ Nam, thì nước ấy ở khoảng giữa nước Sở và nước Việt (của Câu Tiễn), suy dần, cho đến khi vua Sở là Hùng Cừ đánh đất Dương Việt thì chinh phục được hẳn nước ấy mà đem phong cho con là Chấp Tỳ (...) Nếu chúng ta bằng vào thiên "Vũ cống" nói rằng miền hồ Bành Lãi (tức Phiên Dương) có các giống chim hậu điểu đến ở, và đất châu Dương có cống lông chim, thì có thể ngờ rằng việc nước Việt Thường hiến chim trĩ trắng cho vua nhà Chu là việc có thể có được. (...) sách Tiền Hán thư (q. 12) chép việc nước Việt Thường hiến chim trĩ cho nhà Hán (...) với tất cả các chi tiết (...) giống hệt việc Việt Thường hiến chim trĩ cho nhà Chu (...) có lẽ ở đời Bình Ðế nhà Hán (...) có một nước ở phương nam đem chim trĩ đến dâng vua Hán. Các triều thần bấy giờ (...) muốn nịnh Vương Mãng (...) bèn tô điểm thêm mà chép vào sử là nước Việt Thường hiến chim trĩ, để nhân đó so sánh Vương Mãng với Chu công (...) (Trong Lịch sử cổ đại Việt Nam, Ðào Duy Anh, nxb. Văn Hóa - Thông Tin, VN, 2005. Nhan đề phần trích tạm đặt.) (Sách Lịch sử cổ đại Việt Nam này là tập hợp ba tác phẩm khác nhau của Đào Duy Anh: Cổ sử Việt Nam (1957), Lịch sử cổ đại Việt Nam (1957), Vấn đề hình thành của dân tộc Việt Nam (1957). Trích văn ở đây chủ yếu là từ tác phẩm thứ nhất (tr. 35-37), nhưng có theo sự đính chính của ĐDA trong tác phẩm thứ hai mà sửa lại chỗ nói về quận Dự Chương.) Tân ngữ (Hán - Lục Giả soạn) 周公躬行禮義,郊祀后稷,越裳奉貢而至,麟鳳白雉草澤而應。 Chu Công cung hành lễ nghĩa, giao tự Hậu Tắc, Việt Thường phụng cống nhi chí, lân phượng bạch trĩm thảo trạch nhi ứng. Chu Công chăm làm lễ nghĩa, tế Hậu Tắc ở ngoài thành, người nước Việt Thường đem vật cống mà đến, lân, phượng, trĩ trắng, cỏ đầm hòa theo. _____________ Giao châu mục châm (Hán - Dương Hùng soạn) 交州荒裔,水與天際。越裳是南,荒國之外。爰自開闢,不羈不絆。周公攝祚,白雉是獻。昭王陵遲,周室是亂。越裳絕貢,荊楚逆叛。 Giao châu hoang duệ, thủy dữ thiên tế. Việt Thường thị nam, hoang quốc chi ngoại. Viên tự khai tịch, bất ki bất bán. Chu Công nhiếp tộ, bạch trĩ thị hiến. Chiêu Vương lăng di, Chu thất thị loạn. Việt Thường tuyệt cống, Kinh Sở nghịch phản. Châu Giao xa xôi, nước liền với trời. Việt Thường phía nam, nước ngoài tít tắp. Từ thủa mở mang, không gò không buộc. Chu Công lên ngôi, dâng chim trĩ trắng. Chiêu Vương suy kém, nhà Chu bèn loạn, Việt Thường bỏ cống, Kinh Sở phản nghịch. Dịch lâm (Hán - Tiêu Cống soạn) 咸旦奭輔王,周德孔明。越裳獻雉,萬國咸寧。 Hàm: Đán Thích phụ vương, Chu đức khổng minh. Việt Thường hiến trĩ, vạn quốc hàm ninh. Quẻ hàm: Đán (Chu Công), Thích (Thiệu Công) giúp vua (Thành Vương), đức nhà Chu sáng rõ. Người nước Việt Thường tặng chim trĩ, muôn nước đều yên. ___________________ Luận hành (Hán - Vương Sung soạn) 成王之時,越常獻雉,倭人貢暢。幽厲歷衰微,戎狄攻周,平王東走,以避其難。至漢,四夷朝貢。孝平元始元年,越常重譯獻白雉一、黑雉二。夫以成王之賢,輔以周公,越常獻一,平帝得三。 Thành Vương chi thời, Việt Thường hiến trĩ, Oa nhân cống sướng. U Lệ suy vi, Nhung Địch công Chu, Bình Vương đông tẩu dĩ tị kì nạn. Chí Hán, tứ Di triều cống. Hiếu Bình Nguyên Thủy nguyên niên, Việt Thường trùng dịch hiến bạch trĩ nhất, hắc trĩ nhị. Phù dĩ Thành Vương chi hiền, phụ dĩ Chu Công, Việt Thường hiến nhất, Bình Đế tắc tam. Vào thời Thành Vương, người Việt Thường tặng chim trĩ, người Oa cống lúa nếp. Vào thời U-Lệ suy kém, người Nhung Địch đánh nhà Chu, Bình Vương chạy sang miền đông để tránh nạn ấy. Đến thời nhà Hán, người Di bốn phương chầu cống. Vào năm Nguyên Thủy thứ nhất (năm 5) người Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch tặng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen. Vậy là Thành Vương là vua hiền được Chu Công giúp, mà người Việt Thường chỉ cống một con, còn Bình Đế được ba con. Nguyên Hòa quận huyện đồ chí (Đường - Lí Cát Phủ soạn) 驩州,日南。下府。開元戶六千六百四十九。鄉十四。元和戶三千八百四十二。鄉六。 古越地,九夷之國,越裳氏重九譯者也。在秦為象郡。漢平南越,又置九真。吳歸命侯天紀二年,分九真之鹹縣置九德縣,屬交州。梁武帝於此置德州,隋開皇十八年改為驩州,取鹹驩縣為名也。大業三年改為日南郡。武德五年改為南德州,仍置總管府,貞觀元年改為驩州,兼管羈縻州六。 州境:東西南北 八到:北至上都六千八百七十五裏。東北至東都六千六百一十五裏。東至海一百裏。南至林邑國界一百九十裏。北至演州一百五十裏。貢、賦:開元貢:象牙,沈香,翠毛,犀角,金箔,黃屑。 管縣二:九德,越裳。 九德縣,下。西至州五裏。本吳所立,屬九德郡,後改屬驩州。 越裳縣,下。西至州七十裏。本吳所置,因越裳國以為名也,屬九德郡。武德初屬智州,後屬驩州。 Châu Hoan, còn gọi là quận Nhật Nam, là quận nhỏ. Vào năm Khai Nguyên có sáu ngàn sáu trăm bốn mươi chín hộ, mười bốn hương. Vào năm Nguyên Hòa có ba ngàn tám trăm bốn mươi hai hộ, sáu hương. Là đất Việt xưa, nước của người Cửu Di có người nước Việt Thường qua chín lần phiên dịch. Thời Tần đặt ra quận Tượng. Nhà Hán diệt nước Nam Việt, bèn đặt ra quận Cửu Chân. Năm Thiên Kỉ thứ hai (năm 278) thời Quy Mệnh Hầu (Tôn Hạo) nước Ngô chia huyện Hàm Hoan đặt ra huyện Cửu Đức, thuộc châu Giao. Võ Đế nhà Lương đặt ra châu Đức ở đây. Năm Khai Hoàng thứ mười tám thời nhà Tùy đổi thành châu Hoan, lấy tên huyện Hàm Hoan mà có tên ấy vậy. Năm Đại Nghiệp thứ ba (năm 607) đổi thành quận Nhật Nam. Năm Võ Đức thứ năm (năm 622) đổi thành châu Nam Đức, vẫn đặt phủ tổng quản. Năm Trinh Quan thứ nhất (năm 627), đổi thành châu Hoan, kiêm quản sáu châu ki mi. Cõi châu: Đông, tây, nam, bắc. Tám hướng: Phía bắc đến thượng đô sáu ngàn tám trăm bảy mươi lăm dặm. Phía đông bắc đến đông đô sáu ngàn sáu trăm mười lăm dặm. Phía đông đến biển một trăm dặm. Phía nam đến cõi nước Lâm Ấp một trăm chín mươi dặm. Phía bắc đến châu Diễn một trăm năm mươi dặm. Cống phú: Năm Khai Nguyên cống ngà voi, trầm hương, lông chim, sừng tê, rèm vàng, mạt vàng. Quản hai huyện: Cửu Đức, Việt Thường. - Huyện Cửu Đức là huyện nhỏ, phía tây đến châu năm dặm, vốn do nhà Ngô đặt ra, thuộc quận Cửu Đức, sau đổi thuộc châu Hoan. - Huyện Việt Thường là huyện nhỏ, phía tây đến châu bảy mươi dặm, vốn do nhà Ngô đặt, lấy từ tên nước Việt Thường mà có tên ấy, thuộc quận Cửu Đức. Đầu năm Võ Đức thuộc châu Trí, sau thuộc châu Hoan. Kim bản trúc thư kỉ niên (Chiến quốc - Khuyết danh soạn) 成王十年王命唐叔虞為侯。越裳氏來朝。周文公出居於豐。 Thành Vương thập niên, vương mệnh Đường Thúc Ngu vi hầu. Việt Thường thị lai triều. Chu Văn Công xuất cư ư Phong. Năm thứ mười thời Thành Vương (ất mùi, 1106 TCN), vua phong Đường Thúc Ngu lấy tước hầu. Người nước Việt Thường đến chầu. Chu Văn Công ra ở ấp Phong. Thủy kinh chú (Bắc Ngụy - Lịch Đạo Nguyên soạn) 《林邑記》曰:九德,九夷所極,故以名郡。郡名所置,周越裳氏之夷國。《周禮》,九夷遠極越裳。白雉、象牙,重九譯而來。自九德通類口,水源從西北遠荒,逕寧州界來也。九德浦內逕越裳究、九德究、南陵究。按《晉書地道記》,九德郡有南陵縣,晉置也。竺枝《扶南記》:山溪瀨中謂之究。 Lâm Ấp kí viết: "Cửu Đức Cửu Di sở cực, cố dĩ danh quận. Quận danh sở trí, Chu Việt Thường thị chi Di quốc. Chu lễ Cửu Di viễn cực Việt Thường. Bạch trĩ, tượng nha, trùng cửu dịch nhi lai. Tự Cửu Đức Thông Loại khẩu, thủy nguyên tòng tây bắc viễn hoang, kính Ninh châu giới lai dã. Cửu Đức phố nội kinh Việt Thường cứu, Cửu Đức cứu, Nam Lăng cứu. Án Tấn thư địa đạo kí Cửu Đức quận hữu Nam Lăng huyện, Tấn trí dã. Trúc Chi Phù Nam kí sơn khê lại trung vị chi cứu." Quận Cửu Đức là chỗ tận cùng của người Cửu Di, cho nên lấy tên quận ấy. Tên quận được đặt có gốc từ nước của người Di là nước Việt Thường thời nhà Chu. Chu lễ có chép đến chỗ tận cùng của người Cửu Di là nước Việt Thường. Đem chim trĩ trắng, ngà voi, qua chín lần phiên dịch mà đến. Từ cửa Thông Loại quận Cửu Đức nguồn nước từ chỗ xa ở phía tây bắc chảy qua cõi châu Ninh đến đấy. Từ giữa bến Cửu Đức có khe Việt Thường, khe Cửu Đức, khe Nam Lăng chảy đến. Xét Tấn thư địa đạo kí chép quận Cửu Đức có huyện Nam Lăng, do nhà Tấn đặt ra. Phù Nam kí của Trúc Chi chép dòng nước nhỏ chảy trong núi gọi là khe. [zh.wikisource.org] 論衡』巻十九 倭人来献鬯艸、成王時、越裳献雉、倭人貢鬯 Theo sách Luận hành của Vương Sung (27-97), đời Chu Thành Vương, Việt Thường đến cống trĩ. /新校本後漢書/列傳/卷四十下 班彪列傳第三十下/ 子固 ... 1373 孝 經 援 神 契 曰 : 「 周 成 王 時 , 越 裳 獻 白 雉 . 」 /新校本後漢書/列傳/卷六十上 馬融列傳第五十上 ... 1967 尚 書 大 傳 曰 : 「 周 成 王 時 , 越 裳 氏 重 九 譯 而 貢 白 雉 . 」 Hậu Hán Thư (viết vào thế kỷ 5) dẫn sách Hiếu kinh và Thượng Thư đại truyện cho biết vào đời Chu Thành Vương có sự kiện Việt Thường qua nhiều lần dịch đến cống chim trĩ. Như vậy, ghi chép trong Luận hành của Vương Sung nhiều khả năng cũng căn cứ vào Hiếu kinh và Thượng thư đại truyện. Đây là những sách sớm nhất về Việt Thường, cho biết thông tin vào đời Chu Thành Vương, Việt thường qua nhiều lần dịch - chuyển ngữ (Có thuyết nói là trạm dịch nhưng trạm dịch chỉ xuất hiện sớm nhất vào đời Hán) ngoài ra "cửu dịch" có thể dịch là "9 lần chuyển ngữ", nhưng con số 9 có lẽ nên hiểu theo ý nghĩa tương dối là "nhiều" chứ không phải chính xác là 9 lần. Ngoài ra, sách Hán Thư của Ban Cố thời Hậu Hán chép: 元 始 元 年 春 正 月 , 越 裳 氏 重 譯 獻 白 雉 一 , 黑 雉 二 ,[一]詔 使 三 公 以 薦 宗 廟 . Năm Nguyên Sơ nguyên niên nhà Hán (107), Việt Thường qua nhiều lần dịch đến cống chim trĩ trắng một con, chim trĩ đen một con. Tuy nhiên, có thật là vào đầu Công nguyên có sự kiện Việt Thường đến nhà Hán cống chim trĩ hay không? Đọc tiếp Hán Thư chuyện Vương Mãng /新校本漢書/列傳/卷九十九上 王莽傳第六十九上 ... 4046 太 后 乃 下 詔 曰 : 「 大 司 馬 新 都 侯 莽 三 世 為 三 公 , 典 周 公 之 職 , 建 萬 世 策 , 功 德 為 忠 臣 宗 , 化 流 海 內 , 遠 人 慕 義 , 越 裳 氏 重 譯 獻 白 雉 Có thể thấy 2 điểm: 1.Ghi chép của Hán Thư rất giống với ghi chép của Hiếu kinh và Thượng thư đại truyện. 2.Sự kiện Việt thường cống trĩ được nhắc đến trong chiếu của Thái Hậu dùng để ca ngợi tài năng của Vương Mãng. -> Có khả năng rất lớn là sự kiện Việt Thường đến cống trĩ vào đời Hán là không có thực. Nó được thái hậu nhà Hán sử dụng để so sánh công đức của Vương Mãng với Chu Thành Vương. 師 古 曰 : 「 越 裳 , 南 方 遠 國 也 . 譯 謂 傳 言 也 . 道 路 絕 遠 , 風 俗 殊 隔 , 故 累 譯 而 後 乃 通 . 」 Ngoài ra, trong phần chú về Việt Thường của Hán Thư, Việt thường chỉ là một nước xa ở phương Nam chứ không định nghĩa một cách cụ thể, cho thấy vào đời Hậu Hán chưa có xác định cụ thể vị trí của Việt Thường. /新校本後漢書/列傳/卷八十六 南蠻西南夷列傳第七十六/南蠻 ... 2835 交 阯 之 南 有 越 裳 國 . 周 公 居 攝 六 年 , 制 禮 作 樂 , 天 下 和 平 , 越 裳 以 三 象 重 譯 而 獻 白 雉 , 曰 : 「 道 路 悠 遠 , 山 川 岨 深 , 音 使 不 通 , 故 重 譯 而 朝 . 」 成 王 以 歸 周 公 . 公 曰 : 「 德 不 加 焉 , 則 君 子 不 饗 其 質 ;[一]政 不 施 焉 , 則 君 子 不 臣 其 人 . 吾 何 以 獲 此 賜 也 ! 」 其 使 請 曰 : 「 吾 受 命 吾 國 之 黃 耇[二]曰 : 『 久 矣 , 天 之 無 烈 風 雷 雨 ,[三]意 者 中 國 有 聖 人 乎 ? 有 則 盍 往 朝 之 . 』 」 周 公 乃 歸 之 於 王 ,[四]稱 先 王 之 神 致 , 以 薦 于 宗 廟 . 周 德 既 衰 , 於 是 稍 絕 . Đến tận thế kỷ 5, Hậu Hán Thư mới định nghĩa Việt Thường nằm ở phía Nam Giao Chỉ. Có hai câu hỏi ở đây: Tại sao Hậu Hán Thư có thể định nghĩa một cách cụ thể như vậy? Nếu Việt thường thực sự ở phía Nam Giao Chỉ tức là phần Trung Bộ Việt Nam hiện nay, thì vào đời Chu Thành Vương làm thế nào Việt thường có thể vượt qua được một khoảng cách địa lý xa xôi, qua lãnh thổ của Bách Việt tiếp cận với nhà Chu ở phía Bắc sông Trường Giang được. Câu trả lời là: Vì người biên soạn Hậu Hán Thư suy đoán dựa vào ghi chép sai lầm của Hán Thư. Theo Hán Thư, Việt Thường là một nước ở phương Nam đến cống nhà Hán. Mà vào đời Hán, Giao Chỉ đã thuộc Hán, như vậy người viết Hậu Hán Thư cho rằng Việt Thường là một nước "độc lập" ở phương Nam đến cống, vậy thì Việt thường phải ở phía Nam Giao Chỉ. Lưu ý là đến giai đoạn này không hề nhắc đến Lâm Ấp. 新校本梁書/列傳/卷五十四 列傳第四十八/諸夷/海南諸國/林邑國 ... 784 林 邑 國 者 , 本 漢 日 南 郡 象 林 縣 , 古 越 裳 之 界 也 Đến Lương Thư lại xuất hiện một định nghĩa cụ thể hơn, tức là Việt Thường là Lâm Ấp. Đó là vì đến nhà Lương xuất hiện thế lực của Lâm Ấp. Cũng giống như Hậu Hán Thư, Lương Thư lại căn cứ vào ghi chép của Hán Thư, Việt Thường là một nước ở phía Nam của biên giới nhà Hán là quận Nhật Nam và Tượng Lâm. Như vậy, Việt Thường với các định nghĩa như là ở phía Nam của Giao Chỉ, Lâm Ấp trong Hậu Hán Thư hay các tư liệu sau này thực ra là suy đoán của người đời sau dựa vào một tư liệu "giả" của Hán Thư, sao chép lại từ Hiếu kinh và Thượng thư đại truyện để ca ngợi Vương mãng. Việt thường đến đời Hậu Hán cũng chỉ có thể định nghĩa một cách tương đối là một nước xa xôi ở phương Nam được thôi. 太平御览 卷九百三十一 ○龟 任昉《述异记》曰:陶唐之世,越裳国献千岁神龟,方三尺馀。背上有文,皆科斗书,记开辟已来命录之龟历。(伏滔《述帝贡月铭》曰:胡书龟历之文。) ______________ Thái Bình ngự lãm Quyển cửu bách tam thập nhất Quy Nhậm Phưởng "Thuật dị kí" viết: Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, phương tam xích dư. Bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư, kí khai tịch dĩ lai mệnh lục chi quy lịch. (Phục Thao "Thuật Đế cống nguyệt minh" viết: Hồ thư quy lịch chi văn.) _________________ Thái Bình ngự lãm Quyển thứ một trăm ba mươi mốt Rùa [Tác giả: Lí Phưởng (thời Tống)] "Thuật dị kí" của Nhậm Phưởng [thời Nam Bắc Triều] nói: Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước. Trên lưng [mai] có hoa văn, đều là chữ khoa đẩu, ghi lịch rùa từ thủa mới mở mang đến nay. ("Thuật Đế cống nguyệt minh" của Phục Thao nói: Văn lịch rùa là chữ của người Hồ [đều ý chỉ là chữ khoa đẩu].) 汉书 平帝纪第十二 元始元年春正月,越裳氏重译献白雉一,黑雉二,诏使三公以荐宗庙。 及群臣奏言大司马莽功德比周公,赐号安汉公,及太师孔光等皆益封。语在《莽传》。赐天下民爵一级,吏在位二百石以上,一切满秩如真。 ___________________ Hán thư Bình Đế kỉ đệ thập nhị Nguyên Thủy nguyên niên chính nguyệt, Việt Thường thị trùng dịch hiến bạch trĩ nhất, hắc trĩ nhị, chiếu sử tam công dĩ tiến tông miếu. Quần thần tấu ngôn Đại Tư mã Mãng công đức tỉ Chu Công, tứ hiệu An Hán Công, cập Thái sư Tôn Quang đẳng giai ích phong. Ngữ tại "Mãng truyện". Tứ thiên hạ dân tước nhất cấp, lại tại vị nhị bách thạch dĩ thượng, nhất thiết mãn trật như chân. __________________ Hán thư Bình Đế kỉ Hán - Ban Cố Tháng giêng năm Nguyên Thủy đầu tiên [năm thứ 1 Công nguyên], họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch dâng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen, chiếu lệnh các quan hàng tam công đem cúng tế ở tông miếu. Quần thần tấu lên nói là công đức của Đại Tư mã Mãng [Vương Mãng] sánh ngang với Chu Công [Cơ Đán thời Chu], ban hiệu là An Hán Công, cùng bọn Thái sư Tôn Quang đều được phong thêm. Lời nói tại "Mãng truyện". Ban cho dân trong thiên hạ chức tước một cấp, quan lại tại chức vị có bổng lộc hai trăm thạch trở lên, tất cả đều có bổng lộc như lúc đầu.
-
SUY NGHĨ VỀ "BÁT QUÁI" Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là Hậu Thiên Bát Quái. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay. Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong Hậu Thiên Bát Quái. Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”. Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của Tiên Thiên, còn hệ nghiệm kia là của Hậu Thiên thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là Tiên Thiên, cái kia là Hậu Thiên thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của Tiên Thiên và Hậu Thiên thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa Tiên Thiên và Hậu Thiên, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này. Tiên Thiên và Hậu Thiên khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở Hậu Thiên được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, Tiên Thiên được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết Tiên Thiên là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy Tiên Thiên Bát Quái là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. Kinh Dịch Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho Kinh Dịch, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông. Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. Kinh Dịch hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là Hậu Thiên Bát Quái, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành Bát Quái Hậu Thiên. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng. Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ Hà Đồ và Lạc Thư, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: Hà Đồ và Lạc Thư với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vì Hà Đồ và Lạc Thư đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. Lạc Thư rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo Chu Dịch Thập Nhật Đàm, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946). Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành. Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9.. Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1 Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ. Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng ? Bảng mã sẽ là: Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.... .6.... 7..... 8...... 9... Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1... Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích. Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “cát - hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây: - Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ. - Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn. Có thể xét thêm hai điều kiện phụ: - Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm. - Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới. Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ: - Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2. - Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25. - Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3 - Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới. Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách: - Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc). - Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau: Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn... Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950 Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529 Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được: ............Quẻ dương...................................... Quẻ âm............................. Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546 Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219) Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529) Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264) Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung). Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp Hậu Thiên Bát Quái của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này. Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ Hậu Thiên Bát Quái trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./. Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm Tôi sẽ chỉ ra Tiên Thiên Bát Quái được ứng dụng như thế nào, cho tới nay chỉ thấy nói về ứng dụng trong Phục Hy Dịch - về mặt bản chất thì chỉ dùng Hậu Thiên Bát Quái và Hà đồ - Lạc thư cho Chu Dịch.
-
"Vật chất" vẫn đang được sử dụng phổ biến và thường xuyên bởi ngay chính các thành viên trong diễn đàn này và ngay trong chủ đề này, vậy tại sao chúng ta lại phải quay trở lại vấn đề khái niệm "Vật chất"!. Tôi xin dừng viết về chủ đề này.
-
Trong chủ đề này, tôi cũng đã có nhiều bài viết rồi, mặt khác nói về sự "tuyệt đối", trước đó cổ kim đã có nhiều người đã nói và viết, chứ không chờ đến thời đại của chúng ta, điều này có nghĩa chúng ta đang tìm lại những giá trị cổ và tìm hiểu và phân tích chúng mà thôi, đồng thời phát triển chúng theo kiểu khoa học ngày nay nếu có thể. Giá trị "tuyệt đối" này rất quan trọng đối với các giá trị của Lý học Đông phương, bao hàm cả Đạo học, tất nhiên cả khoa học hiện đại, cho nên nó đang được tư duy bởi một số cá nhân, các bài viết liên quan trong phần này chỉ là những mảnh nhỏ mà thôi. Tôi chỉ ra các sự mâu thuẫn giữa cái đang cho là "tuyệt đối - đặc trưng?" và những cái mà chúng đang được so sánh tới "tương đối - đặc trưng!". Từ đó, chúng ta sẽ thấy cái "cảm thấy" là đúng đã trở nên không còn đúng nữa. Nếu tìm ra có sự "tới hạn" như vậy, điều này rất quan trọng, chẳng hạn đối với các nghiên cứu của tác giả Votruoc muốn đưa Lý học đồng dạng hoặc quy chiếu về khía cạnh Lý học. Đã là "tuyệt đối" thì chúng ta không nên "chấp" vào bất kể cái gì, tôi suy nghĩ như vậy. Về "định nghĩa vật chất" nếu có ai định nghĩa nó cùng các đặc trưng, tôi sẽ chỉ ra cái thiếu cơ bản trong đó, để từ đó hiểu rằng "chính nó" được gọi là "bản thể" của vũ trụ, với một sự tổng quát bao hàm cả không gian.
-
Sử ký - Mân Việt truyện Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Mân Việt truyện 餘善刻「武帝」璽自立詐其民為妄言。上遣橫海將軍韓說出句章浮海從東方往樓舩將軍僕出武林中尉王溫舒出梅領粵侯為戈舩、下瀨將軍出如邪、白沙元封元年冬咸入東粵。東粵素發兵距嶮使徇北將軍守武林敗樓舩軍數校尉殺長史。樓舩軍卒錢唐榬終古斬徇北將軍為語兒侯。自兵未往。 故粵衍侯吳陽前在漢漢使歸諭餘善不聽。及橫海軍至陽以其邑七百人反攻粵軍於漢陽。及故粵建成侯敖與繇王居服謀俱殺餘善以其衆降橫海軍。封居股為東成侯萬戶封敖為開陵侯封陽為卯石侯橫海將軍說為按道侯橫海校尉福為繚嫈侯。福者城陽王子故為海常侯坐法失爵從軍亡功以宗室故侯。及東粵將多軍漢兵至棄軍降封為無錫侯。故甌駱將左黃同斬西于王封為下鄜侯。 Dư Thiện khắc ấn 'Võ Đế' tự lập làm vua nước Đông Việt (chỉ nước Mân Việt), lừa dân của mình, nói lời xằng bậy. Nhà vua sai Hoành hải tướng quân là Hàn Thuyết xuất tù huyện Câu Chương vượt biển từ phương đông đến; sai Lâu thuyền tướng quân là Dương Bộc xuất từ huyện Võ Lâm, sai Trung úy là Vương Ôn Thư xuất từ huyện Mai Lĩnh, sai tước hầu người Việt làm Qua thuyền tướng quân, Hạ lại tướng quân xuất từ huyện Như Tà, huyện Bạch Sa. Mùa đông năm Nguyên Phong thứ nhất (năm 110 TCN), các cánh quân Hán đều vào nước Đông Việt; vua nước Đông Việt phát binh giữ chỗ hiểm, sai Tuẫn bắc tướng quân giữa huyện Võ Lâm, đánh bại mấy viên hiệu úy của Lâu thuyền tướng quân, giết quan trưởng lại. Có tên lính của Lâu thuyền tướng quân người huyện Tiền Đường tên là Viên Chung Cổ chém Tuẫn bắc tướng quân, được phong làm Ngữ Nhi Hầu, từ lúc quân Hán chưa đến nơi. Có viên Diên Hầu người Việt trước kia tên là Ngô Dương lúc đầu ở tại nhà Hán, nhà Hán sai về dụ Dư Thiện, nhưng Dư Thiện không nghe, kịp lúc Hoành hải tướng quân đến, Dương bèn đem bảy trăm người của ấp mình làm phản, đánh quân Đông Việt ở huyện Hán Dương. Kịp lúc đó có viên Kiến Thành Hầu người Việt trước kia tên là Ngao mưu với Dao Vương tên là Cư Cổ cùng giết Dư Thiện, đem quân của mình hàng Hoành hải tướng quân. Nhà Hán phong Cư Cổ làm Đông Thành Hầu, thực ấp vạn hộ; phong Ngao làm Khai Lăng Hầu; phong Dương làm Mão Thạch Hầu; phong Hoành hải tướng quân là Hàn Thuyết làm Án Đạo Hầu, phong viên hiệu úy của Hoành hải tướng quân tên là Phúc làm Liễu Oanh Hầu. Phúc là con của Thành Dương Vương, trước kia được phong làm Hải Thường Hầu, vì bị tội nên mất tước, đến đây theo quân đi đánh cũng không có công, nhưng vì là tông thất cho nên được phong hầu. Kịp lúc đó tướng của nước Đông Việt là Đa Quân, nghe tin quân Hán đến, bèn bỏ quân hàng, được phong làm Vô Tích Hầu. Có viên tướng của nước Âu Lạc là Tả Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương, được phong làm Hạ Phu Hầu. ______________ Cảnh Vũ Chiêu Tuyên Nguyên Thành công thần biểu 下鄜侯左將黃同以故甌駱左將斬西于王功侯七百戶。四月丁酉封。 Hạ Phu Hầu Tả tướng tên là Hoàng Đồng vì là Tả tướng của nước Âu Lạc trước kia chém Tây Vu Vương có công được phong hầu, thực ấp bảy trăm hộ, phong vào ngày đinh dậu tháng tư. ______________________ Sử kí - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu 下酈以故甌駱左將斬西于王功侯。 Hạ Li (Phu) Hầu vì làm Tả tướng của nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu. ***************** Sách sử chép chỉ có vậy, có một viên Tả tướng của nước Âu Lạc tên là Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương được phong hầu, thực ấp bảy trăm hộ. So với quan Giám quận Quế Lâm của nước Nam Việt tên là Cư Ông được tám trăm ba chục hộ, cũng gần ngang nhau không hơn nhiều. 西于王 Tây Vu Vương là vua của nước (ấp/huyện) Tây Vu. Xét Hán thư địa lí chí thì quận Giao Chỉ có huyện Tây Vu, nhưng đúng như mạch truyện Mân Việt thì ấp Tây Vu phải ở đâu đó của nước Mân Việt. Bởi vua nước Mân Việt là Dư Thiện bắt chước vua nước Nam Việt khắc ấn 'Võ Đế' tự lập, trong nước có phong vương cho chư hầu thì Tây Vu Vương có thể là một chư hầu của Mân Việt thì cũng không có chi lạ. 故甌駱左將 cố Âu Lạc Tả tướng là viên Tả tướng của nước Âu Lạc trước kia. Âu Lạc là nước ở phía tây Phiên Ngu, khi quân Hán đến, quan Giám quận Quế Lâm đã dụ hơn 40 vạn dân nước Âu Lạc hàng nhà Hán. Xét mạch truyện thì Hoàng Đồng từng làm Tả tướng của nước Âu Lạc trước khi chém Tây Vu Vương. Vậy có thể suy Hoàng Đồng là Tả tướng của nước Âu Lạc hàng quân Hán khi quân Hán diệt nước Nam Việt rồi sau đó theo quân Hán đi đánh nước Mân Việt vậy. Sử kí - Đông Việt liệt 閩越王無諸及越東海王搖者其先皆越王句踐之後也姓騶氏。【集解】徐廣曰「騶一作『駱』。」【索隱】徐廣云一作「駱」是上云「歐駱」不姓騶。 Vua nước Mân Việt tên là Vô Chư cùng vua nước Đông Hải người Việt tên là Dao có tổ tiên đều là dòng dõi của vua nước Việt tên là Câu Tiễn, mang họ Sô. Tập giải: Sách ẩn: Từ Quảng nói: "'Sô', có sách chép là 'Lạc'. Sách ẩn: Từ Quảng nói có sách chép là 'Lạc' là trên nói 'Âu Lạc', không phải họ Sô. Sử kí - Thái sử công tự tự 吳之叛逆甌人斬濞【集解】徐廣曰「今之永寧是東甌也。」葆守封禺為臣。【索隱】葆音保。言東甌被越攻破之後保封禺之山今在武康縣也。作東越列傳第五十四。 Vua nước Ngô (tên là Lưu Tị) phản nghịch, người nước Âu chém Tị, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là huyện Vĩnh Ninh ngày nay, là nước Đông Âu, giữ gìn ở núi Phong Ngu làm bầy tôi. Cho nên chép Đông Việt liệt truyện thứ năm mươi tư. ___________________ 騶 Sô và 駱 Lạc mặt chữ gần giống nhau dễ nhầm lẫn, có lẽ câu 甌駱相攻南越動搖 Âu Lạc đánh nhau, Nam Việt dao động phải là 甌騶相攻南越動搖 Âu Sô đánh nhau, Nam Việt dao động. Do đời sau sao chép nhầm lẫn nên như thế. Xét Nam Việt và Mân Việt truyện thì chỉ có người Mân Việt và Đông Âu đánh nhau mà thôi, vua Mân Việt bấy giờ tên là Dĩnh thừa thắng Đông Âu rồi đánh biên giới của Nam Việt vào năm 135 TCN. Hán thư - Hạ Hầu Thắng truyện 宣帝初即位欲襃先帝詔丞相御史曰「朕以眇身蒙遺德承聖業奉宗廟夙夜惟念。孝武皇帝躬仁誼厲威武北征匈奴單于遠遁南平氐羌、昆明、甌駱兩越師古曰「甌駱皆越號。」東定薉、貉、朝鮮廓地斥境立郡縣百蠻率服款塞自至珍貢陳於宗廟協音律造樂歌薦上帝封太山立明堂改正朔易服色明開聖緒尊賢顯功興滅繼絕襃周後備天地之禮廣道術之路。上天報況符瑞並應寶鼎出白麟獲海效鉅魚神人並見山稱萬歲。功德茂盛不能盡宣而廟樂未稱朕甚悼焉。其與列侯、二千石、博士議。」 Tuyên Đế mới lên ngôi, muốn khen tiên dế, hạ chiếu sai Thừa tướng ngự sử rằng: "Trẫm là kẻ non dại, được nhờ ân đức để lại của đời trước, nối gót cơ nghiệp của bậc thánh hiền, trông coi tông miếu, ngày đêm thường lo nghĩ việc ấy. Hiếu Võ Hoàng Đế tự làm việc nhân nghĩa, gắng tỏ sự oai võ, phía bắc đánh rợ Hung Nô, thiền vu phải chạy dài, phía nam dẹp rợ Đê, Khương, Côn Minh, Âu, Lạc, hai nước Việt, Âu, Lạc đều là tên gọi của người Việt. phía đông định rợ Uế, Mạch, Triều Tiên, mở đất lấn cõi, lập nên quận huyện, các giống người rợ theo phục, vào ải chầu gặp, bày vật cống nạp ở tông miếu, sửa âm luật, chữa ca nhạc, thờ Thượng Đế, tế trời ở núi Thái, dựng minh đường, đổi chính sóc, thay màu áo, tỏ rõ nghiệp lớn, tôn hiền nêu công, nối lại nước đã mất, dựng lại ấp đã diệt, khen dòng dõi của nhà Chu. Sắm đủ lễ của trời đất, mở rộng con đường đạo thuật. Do đó trời cao báo mừng, điềm lành cùng ứng, vạc báu nổi lên, bắt được lân trắng, cá lớn trồi lên ngoài biển, người thần xuất hiện ở núi xưng là 'muôn tuổi'. Công đức tươi đầy không thể nói hết, vậy mà lời nhạc hát ở tông miếu chưa xứng, trẫm rất lấy làm xót. Nay sai các liệt hầu, quan nhị thiên thạch, bác sĩ bàn việc này." Thủy kinh chú 《交州外域記》曰越王令二使者典主交趾、九真二郡民後漢遣伏波將軍路博德討越王路將軍到合浦越王令二使者齎牛百頭酒千鍾及二郡民戶口簿詣路將軍乃拜二使者爲交趾、九真太守諸雒將主民如故。交趾郡及州本治於此也。州名爲交州。後朱䳒雒將子名詩索泠雒將女名徵側爲妻側爲人有膽勇將詩起賊攻破州郡服諸雒將皆屬徵側爲王治泠縣得交趾、九真二郡民二歲調賦。後漢遣伏波將軍馬援將兵討側詩走入金溪究三歲乃得。爾時西蜀竝遣兵共討側等悉定郡縣爲令長也。 Giao châu ngoaị vực kí chép: "Vua nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ. Sở trị của quận Giao Chỉ và châu vốn ở đấy vậy (huyện Mi Linh). Đặt tên châu là châu Giao. Sau có con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên tên là Thi lấy con gái của Lạc tướng huyện Mi Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người gan dũng, giúp Thi nổi dậy, đánh phá châu quận, bắt các Lạc tướng theo phục, đều thuộc quyền Trưng Trắc, làm vua, đóng đô ở huyện Mi Linh, thu thuế của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân được hai năm. Sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Mã Viện đánh Trắc-Thi, chạy vào khe hang Kim, ba năm mới bắt được. Bấy giờ quận Thục phía tây cũng đem binh cùng đánh bọn Trắc, dẹp yên cả các quận huyện, đặt ra quan Lệnh, Trưởng ở đấy." ____________________ Hán thư - Cảnh Vũ Chiêu Tuyên Nguyên Thành công thần biểu 湘成侯監居翁以南越桂林監聞漢兵破番禺諭甌駱民四十餘萬降侯八百三十戶。五月壬申封。侯益昌嗣五鳳四年坐為九真太守盜使人出買犀、奴婢臧百萬以上不道誅。 Tương Thành Hầu trước làm quan Giám tên là Cư Ông làm quan Giám quận Quế Lâm của nước Nam Việt nghe tin quân Hán phá thành Phiên Ngu, dụ hơn bốn chục vạn dân Âu-Lạc hàng nhà Hán, được phong tước hầu, thực ấp tám trăm ba chục hộ. Phong vào ngày nhâm thân tháng năm (năm 111 TCN). Tước hầu tên là (Cư) Ích Xương nối tước, đến năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54 TCN) mắc tội khi làm Thái thú Cửu Chân lén sai người ra mua tê ngưu, nô tì (người hầu gái), tôi tớ (người hầu trai) từ trăm vạn người trở lên, làm việc vô đạo, bị tội chết. _________________ Hán thư - Tuyên Đế kỉ 神雀元年春正月行幸甘泉郊泰畤。三月行幸河東祠后土。詔曰「朕承宗廟戰戰栗栗惟萬事統未燭厥理。迺元康四年嘉穀玄稷降于郡國神爵仍集金芝九莖產于函德殿銅池中九真獻竒獸南郡獲白虎威鳳為寶。朕之不明震于珍物飭躬齋精祈為百姓。東濟大河天氣清靜神魚舞河。幸萬歲宮神爵翔集。朕之不德懼不能任。其以五年為神爵元年。賜天下勤事吏爵二級民一級女子百戶牛酒鰥寡孤獨高年帛。所振貸物勿收。行所過毋出田租。」 Năm Thần Tước thứ nhất (năm 61 TCN) mùa xuân, tháng giêng, nhà vua đến cung Cam Tuyền, tế trời ở đài Thái Chỉ. Tháng ba, đi đến quận Hà Đông, tế thần Hậu Thổ, hạ chiếu rằng: "Trẫm nối nghiệp trông coi tông miếu, run run rẩy rẩy nghĩ đến đầu mối của mọi việc nhưng chưa soi sáng được việc ấy. Mới rồi năm Nguyên Khang thứ tư (năm 62 TCN) có lúa tốt, thóc đen mọc ở quận quốc, chim thần tước lại bay đến đậu, chín cọng năm vàng mọc giữa đầm Đông điện Hàm Đức, người quận Cửu Chân dâng thú lạ, người quận Nam bắt được hổ trắng, phượng hoàng làm vật báu. Trẫm làm việc không sáng suốt cho nên làm động đến vật báu, bèn gắng tỏ lòng thành trong trắng để cầu phúc cho trăm họ. Phía đông vượt sông lớn, khí trời trong lành, cá thần vẫy ở sông. Lại đến cung Vạn Tuế, chim thần tước bay đến đậu. Trẫm là kẻ không có đức, sợ rằng không làm được việc, nay đổi năm (Nguyên Khang) thứ năm làm năm Thần Tước thứ nhất, thăng tước hai cấp cho quan lại chăm làm việc, thêm một cấp cho dân, ban trăm con bò rượu cho con gái con gái, ban lụa cho người cao tuổi cô độc gúa bụa, không thu những đồ cứu chẩn, chỗ mà trẫm đi qua không cần nạp thuế ruộng." _________________________ Nhà Hán đánh diệt nước Nam Việt đặt chín quận, dựa vào tục cũ để thống trị, không thu thuế, ở Giao Chỉ và Cửu Chân thực tế chỉ có quan Thái thú và Thứ sử là được bổ nhiệm từ kinh đô, còn các huyện vẫn do các hào trưởng (Lạc tướng) trông coi, thường phải cống nạp sản vật cho Thái thú, Thứ sử vậy. Hậu Hán thư - Quang Võ Đế kỉ 建武五年冬十二月交阯牧鄧讓率七郡太守遣使奉貢。 Năm Kiến Võ thứ năm (năm 29) mùa đông, tháng mười hai, quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng dẫn đầu các Thái thú của bảy quận sai sứ đến nạp cống. ______________________ Hậu Hán thư - Sầm Bành liệt truyện 初彭與交阯牧鄧讓厚善與讓書陳國家威德又遣偏將軍屈充移檄江南班行詔命於是讓與江夏太守侯登、武陵太守王堂、長沙相韓福、桂陽太守張隆、零陵太守田翕、蒼梧太守杜穆、交阯太守錫光等相率遣使貢獻悉封為列侯。或遣子將兵助彭征伐。於是江南之珍始流通焉。 Trước đây, Bành thân thiết với quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng, gửi thư nêu rõ oai đức của nhà nước, lại sai Thiên tướng quân là Khuất Sung gửi hịch đến các quận miền phía nam sông Giang, ban bố chiếu lệnh, do đó Nhượng cùng bọn Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Võ Lăng là Vương Đường, Thừa tướng Tràng Sa là Hàn Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, Thái thú Thương Ngô là Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang cùng nhau sai sứ nạp cống, đều được phong làm liệt hầu. Có kẻ sai con đem binh đến gúp Bành đánh dẹp. Do đó miền phía nam sông Giang bắt đầu gửi vật báu đến. Tam quốc chí - Ngô thư - Tiết Tống truyện 呂岱從交州召出綜懼繼岱者非其人上疏曰「昔帝舜南巡卒於蒼梧。秦置桂林、南海、象郡然則四國之內屬也有自來矣。趙佗起番禺懷服百越之君珠官之南是也。漢武帝誅呂嘉開九郡設交阯刺史以鎮監之。山川長遠習俗不齊言語同異重譯乃通民如禽獸長幼無別椎結徒跣貫頭左袵長吏之設雖有若無。自斯以來頗徙中國罪人雜居其間稍使學書粗知言語使驛往來觀見禮化。及後錫光為交阯任延為九真太守乃教其耕犂使之冠履為設媒官始知聘娶建立學斆導之經義。由此已降四百餘年頗有似類。...」 Lữ Đại từ châu Giao được gọi về, Tiết Tống sợ người thay Đại không được như Đại, dâng sớ nói: "Ngày xưa vua Thuấn đi tuần miền nam chết ở quận Thương Ngô. Nhà Tần đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng, vậy thì bốn quận đã nội thuộc có từ đấy đến nay rồi. Triệu Đà nổi lên ở thành Phiên Ngu, vỗ về chinh phục quân trưởng của người Bách Việt, là những nước ở phía nam quận Châu Quan (trước là quận Hợp Phố, sau nhà Đông Ngô đổi tên ấy). Võ Đế nhà Hán đánh diệt Lữ Gia, đặt ra chín quận, đặt quan Thứ sử bộ Giao Chỉ để trông coi chín quận. Sông núi xa xôi, tập tục không thuần, tiếng nói cùng khác, nhiều lần phiên dịch mới hiểu, dân như cầm thú, không phân biệt già trẻ, búi tóc, đi chân trần, quấn khăn quanh đầu, cài vạt áo bên trái, dù có đặt ra quan trưởng lại mà như không có. Từ đó đến nay, có dời người có tội từ Trung Quốc đến ở lẫn giữa chỗ ấy, dần dần sai học chữ, biết qua được tiếng nói, sứ giả qua trạm dịch qua lại, xem qua được lễ nghĩa. Kịp sau đó Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, bèn dạy dân cày bừa, sai phải đội mũ đi giày, đặt ra quan mai mối, bắt đầu biết lễ cưới gả, lại dựng nên trường học, dạy dân biết kinh nghĩa. Do đó đến nay đã hơn bốn trăm năm có phần giống với Trung Quốc..." _______________________ Vậy thời Triệu Đà đã chinh phục được An Dương Vương ở Giao Chỉ, bắt đầu thống trị ki mi ở đấy, đến thời Hán cũng theo chế độ ấy, trưởng lại tuy đặt ra mà như không, chỉ có danh nghĩa là quan lại đứng đầu là Thứ sử và Thái thú. Các huyện ấp vẫn do hào trưởng người Việt thống trị dân. Đây là quan hệ phụ thuộc giữa nhà Hán và hào trưởng người Việt. Các quan lại nhà Hán là Thứ sử, Thái thú thay mặt nhà Hán đến 'dạy dân' theo chế độ quân chủ và thu gom các sản vật, còn các hào trưởng người Việt vẫn chiếm giữ ruộng đất trị dân, hằng năm phải cống sản vật cho Thứ sử, Thái thú. Có thể có thu thuế và lao dịch nhưng chỉ là thu thuế thóc gạo và lao dịch đắp thành trì và nuôi các quan lại và binh lính chiếm đóng ở cấp quận. Đổi lại các Thứ sử, Thái thú sẽ người Việt biết lễ nghĩa của nhà Hán. Cùng với đó là quan hệ trao đổi mua bán với nhau. Nhà Hán cần vàng ngọc, tê ngưu, thú lạ, vật báu, đổi lại người Việt lại cần đồ dùng bằng sắt, tơ lụa của nhà Hán, cũng giống các nước Tây Vực, Tây nam Di cũng như thế.
-
Chúng ta có thể hỏi: 1. Mọi hiện tượng vật lý (...) đều xảy ra như nhau trong cùng một hệ quy chiếu quán tính hay trong các hệ quy chiếu quán tính!. 2. Tốc độ ánh sáng trong chân không C này, thực sự là trong chân không hay trong một môi trường vật chất chưa xác định, hay do giới hạn của thiết bị kiểm tra. 3. Nếu cho rằng có một tốc độ của một hạt vật chất nào đó bằng tuyệt đối (tạm thời coi là tốc độ giới hạn của vật chất trong vũ trụ) thì gây ra một sự mâu thuẫn về thực tại như sau: - Công thức: E=m.V2 (giả sử đúng với V> C) với V = "Vô cùng" thì chứng tỏ rằng với bất kỳ m nào thì chúng vẫn là không đáng kể, tương đương nhau, điều này vô lý. - Thực tế quan sát, các nhà khoa học đã tìm ra nhiệt độ tới hạn cực lạnh của vật chất là: -273 độ C, chứng tỏ trạng thái vật chất (tương đối) đều có giới hạn. Nhiệt độ của bất kỳ thiên hà nào... không thể có nhiệt độ + vô cùng được, hoặc trạng thái siêu dẫn trong kim loại vẫn không phải là tuyệt đối. Điều có chứng tỏ một thực tại: nếu có một đặc trưng nào đó của vật chất có thể quan sát hay đo đạc được, thì chúng sẽ không mang giá trị "tuyệt đối" - đây là một tiên đề. Hàm nghĩa, chúng chính là các đặc trưng của sự tương đối, các giá trị tới hạn. Quay trở lại ví dụ phổ biến: Khi hai hạt lượng tử dù ở khoảng cách rất xa - tức là có thể tính khoảng cách không gian bằng tốc độ ánh sáng nhân với thời gian - nhưng nếu ta đổi chiều quay của một hạt nơi này thì ở khoảng cách rất xa đó, hạt tương ứng cũng đổi chiều. Chúng ta có thể nhận định tạm thời tốc độ này bằng 1000 tốc độ lần ánh sáng, đồng thời khả năng thiết bị đo có thể thẩm định được kết quả đo hay không? Tất nhiên giữa chúng phải có môi trường truyền tương tác.
-
Sử ký - Trọng Ni đệ tử liệt truyện Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Khổng Tử chép văn, học trò theo học, đều làm sư phó, chuộng nhân yêu nghĩa. Cho nên chép chương liệt truyện thứ bảy là Trọng Ni đệ tử. Khổng Tử nói: "Theo học đạo thấu suốt có bảy mươi bảy người." Sách ẩn: Khổng Tử gia ngữ cũng chép là bảy mươi bảy người, riêng Khổng miếu đồ của Văn Ông chép là bảy mươi hai người. đều là kẻ sĩ có tài hơn người. Nổi tiếng đức hạnh có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; giỏi việc nước có Nhiễm Hữu, Quý Lộ. Giỏi về nói năng có Tể Ngã, Tử Cống; Sách ẩn: Luận ngữ chép một là đức hạnh, hai là nói năng, ba là việc nước, bốn là văn chương. Nay lời này lại chép việc nước ở trên nói năng, lời chép này có khác. giỏi về văn chương có Tử Du, Tử Hạ. Sư thì qụanh co; Tập giải: Mã Dung nói: "Tử Trương có tài hơn người nhưng lại quanh co che giấu lỗi lầm." Sâm thì đần độn; Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Đần độn là chậm chạp. Tăng Tử chậm chạp. Sài thì thật thà; Do thì quê mùa; Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Việc làm của Tử Lộ có chỗ kém là quê mùa." Hồi thì thường túng thiếu; Tứ thì không chịu vâng mệnh trời mà làm ra của cải, nghĩ thường đúng việc. [colur=red]Tập giải: Hà Yến nói: "Ý nói Hồi gần như đạt đến đạo của thánh nhân, dẫu của cải thường túng thiếu nhưng lại có niềm vui ở trong lòng. Tứ không vâng lời dạy, chỉ lo làm ra của cải, suy đoán được mất. Có lẽ là khen Hồi là để khuyến khích Tứ. Có người nói túng thiếu là trống rỗng. Gần như đem hết cái đạo tốt đẹp của thánh nhân dạy cho học trò nhưng vẫn không đạt đến bậc biết đạo, mỗi người đều có cái kém. Nhưng chỉ có Hồi là gần như không có chỗ kém, hiểu đạo sâu xa. Đấy là nếu không để cho tấm lòng trống rỗng thì không biết đạo. Tử Cống dẫu không phải là học trò có chỗ kém nhưng cũng không phải người biết đạo, dẫu không biết hết đạo nhưng lại gặp may, dẫu không vâng mệnh trời mà lại giàu có, cũng là vì không để cho tấm lòng trống rỗng vậy."[/color] Những người mà Khổng Tử tôn kính là: ở nhà Chu thì có Lão Tử; ở nước Vệ thì có Cừ Bá Ngọc; Sách ẩn: Xét: Đại đái lễ chép: "Ngoài rộng rãi mà trong thẳng thắn, tự vui ở trong khuôn khổ, tự nắn thẳng mình mà không nắn thẳng người, miệt mài làm việc nhân, làm việc tốt đến cùng, có lẽ đấy là việc làm của Cừ Bá Ngọc." ở nước Tề thì có Án Bình Trọng; Tập giải: Đái đái kí chép: "Vua chọn tôi mà sai khiến, tôi chọn vua mà theo giúp, vua có đạo thì tôi nghe lệnh, vua vô đạo thì tôi chống lệnh, có lẽ đấy là việc làm của Án Bình Trọng." ở nước Sở thì có Lão Lai Tử; Sách ẩn: Đại đái kí chép: "Cung kính mà đáng tin, suốt ngày không nói lời oán giận, nghèo mà vui, có lẽ là việc làm của Lão Lai Tử." ở nước Trịnh thì có Tử Sản; ở nước Lỗ thì có Mạnh Công Xước. Khổng Tử thường khen Tang Văn Trọng, Liễu Hạ Huệ, Sách ẩn: Đại đái kí chép: "Hiếu kính nhân từ, tu đức chuộng nghĩa, Đồng Đề Bá Hoa, Giới Sơn Tử Nhiên, Khổng Tử đều ở sau họ, nghèo khó không giận, có lẽ là việc làm của Liễu Hạ Huệ." không ở cùng thời. Tập giải: Đại đái lễ chép: "Khổng Tử nói: 'Nhà nước có đạo, lời nói đủ để hưng thịnh; nhà nước vô đạo, im lặng đủ để yên thân, có lẽ là việc làm của Đồng Đề Bá Hoa. Đi khắp bốn phương, không quên người thân; nhớ đến người thân, không hưởng hết niềm vui, có lẽ là việc làm của Giới Sơn Tử Nhiên'." Thuyết uyển chép: "Khổng Tử than rằng: 'Nếu Đồng Đề Tử Hoa không chết thì thiên hạ sẽ yên rồi'." Tấn Thái Khang địa kí chép: "Huyện Đồng Đề là ấp của viên Đại phu của nước Tấn là Dương Thiệt Xích, người đời gọi Xích là Đồng Đề Bá Hoa." Sách ẩn: Xét: Từ Tang Văn Trọng trở xuống thì Khổng Tử đều ở sau, không ở cùng thời. Những người mà Khổng Tử tôn kính từ Lão Tử và Mạnh Công Xước trở đều là người cùng thời với Khổng Tử. Xét: Đại đái lễ có tám mươi lăm chương, bốn mươi bảy chương đã mất, ngày nay còn có ba mươi tám chương. Nay họ Bùi dẫn lên tại chương Vệ tướng quân. Khổng Tử khen lời của Kì Hề đáp Bình Công nước Tấn, nêu việc làm của hai người Đồng Đề-Giới Sơn. Gia ngữ chép: "Không ác không ghét, không màng oán cũ, có lẽ là việc làm của Bá Di-Thúc Tề. Vâng mệnh trời mà kính người, chuộng nghĩa mà đáng tin, có lẽ là việc làm của Triệu Văn Tử. Thờ vua mà không thích vua chết, giúp mình mà không truyền cho bạn, có lẽ là việc làm của Tùy Vũ Tử." Địa lí chí chép: "Huyện Đồng Đề thuộc quận Thượng Đảng." Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhan Hồi là người nước Lỗ, tên chữ là Tử Uyên, kém Khổng Tử ba chục tuổi. Nhan Uyên hỏi về lòng nhân, Khổng Tử nói: "Nắn sửa mình làm cho đúng lễ, thiên hạ sẽ cho là có lòng nhân." Khổng Tử nói: "Hồi là người hiền thay! Tập giải: Vệ Quán nói: "Nếu không phải là bậc đại hiền vui đạo thì không được như thế, cho nên khen Hồi." Sách ẩn: Vệ Quán, tên chữ là Bá Ngọc, làm Thái bảo thời nhà Tấn, cũng chú giải Luận ngữ, cho nên họ Bùi dẫn lời. Ôm một giỏ cơm, cầm một bầu nước, ngồi ở ngõ hẻm, người ta không chịu được nỗi buồn ấy nhưng Hồi lại không đổi niềm vui ấy." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Nhan Hồi vui với đạo, dẫu ôm giỏ cơm ở ngõ hẻm nhưng không đổi niềm vui ấy." "Hồi là kẻ khờ, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Theo lời của Khổng Tử thì Hồi im lặng mà biết đạo, như kẻ khờ." lùi về mà xét tính nết của Hồi thì cũng đủ để nêu đạo học, Hồi cũng chẳng phải là kẻ khờ." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Xét Hồi lui về nói chuyện đạo nghĩa với một vài học trò khác thấy có nêu rõ được phần lớn, biết là Hồi không khờ." "Dùng thì giúp việc, bỏ thì náu mình, riêng ta với Hồi cùng có ý đấy!" Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Ý nói đáng làm thì làm, đáng dừng thì dừng, riêng ta giống với Nhan Hồi." Nhạc Triệu nói: "Dùng mình thì sẽ làm, không rỗi náu mình để tự cao, không giấu đạo để nêu danh, người thời ấy không biết được tính tốt ấy, riêng ta cùng giống với Hồi." Chính nghĩa: Triệu, tên chữ là Vĩnh Sơ, người quận Cao Bình, làm Thượng thư lang thời nhà Tấn, soạn Luận ngữ nghi thích có chục quyển, Luận ngữ bác có hai quyển." Hồi hai chín tuổi thì tóc bạc cả, chết sớm. Sách ẩn: Xét: Gia ngữ cũng chép: "Hồi hai mươi chín tuổi thì tóc bạc, ba mươi hai tuổi thì chết." Vương Túc nói: "Sách ấy xa xưa, số tuổi sai lầm, chưa biết rõ được. Xét năm Nhan Hồi chết là lúc Khổng Tử sáu mươi mốt tuổi. Vậy thì Bá Ngư năm chục tuổi chết trước Khổng Tử, Khổng Tử sắp bảy chục tuổi. Nay truyện này chép Nhan Hồi chết trước Bá Ngư, Nhan Lộ xin lấy xe của Khổng Tử, Khổng Yử nói: 'Lí chết rồi, đóng quan mà không đóng quách.' Có lẽ là lời đặt thêm." Xét: Nhan Hồi chết trước Bá Ngư, cho nên Luận ngữ chép thêm lời này. Khổng Tử khóc Hồi rất thảm rằng: "Từ lúc ta có Hồi, học trò vào cửa nhà càng gần gũi." Tập giải: Vương Túc nói: "Nhan Hồi là người bạn gần gũi của Khổng Tử, làm cho học trò vào nhà ngày càng gần gũi Khổng Tử." Ai Công nước Lỗ hỏi rằng: "Trong các học trò thì ai ham học hơn?" Khổng Tử đáp nói: "Có Nhan Hồi là người ham học, không giận lây kẻ khác, không gây lỗi lần nữa. Không may mệnh vắn chết rồi. Nay cũng chẳng còn ai hơn." [/color]Tập giải: Hà Yến nói: "Người tầm thường theo ý mình, vui giận trái lẽ. Nhan Hồi theo đạo, giận không gây lỗi. Giận lây là giận sang kẻ khác, giận phải đúng lẽ, không giận lây kẻ khác. Không gây lỗi lần nữa là có việc không tốt thì không làm lần nữa."[/color] Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Mẫn Tổn tên chữ là Tử Khiên, Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Khổng Tử đệ tử mục lục chép là người nước Lỗ." Sách ẩn: Gia ngữ cũng chép là người nước Lỗ, kém Khổng Tử mười lăm tuổi. kém Khổng Tử mười lăm tuổi. Khổng Tử nói: "Hiếu thay, Mẫn Tử Khiên! Người ta không có lời chê chọc việc mình làm với cha mẹ anh em. Tập giải: Trần Quần nói: "Ý nói Tử Khiên trên thờ cha mẹ, dưới thuận anh em, động tĩnh đều tốt, cho nên người khác không có lời chê trách." Không ra làm quan, không ăn lộc của vua kém. Sách ẩn: Luận ngữ chép: "Họ Quý sai Mẫn Tử Khiên làm quan đứng đầu ấp Phí, Tử Khiên nói: 'Xin cho ta từ chối'." Nếu gọi mời ta làm quan, ta tất đến bên sông Vấn."Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Bỏ đến bên sông Vấn là muốn sang phía bắc đến nước Tề." Nhiễm Canh tên chữ là Bá Ngưu. Tập giải: Trịnh Huyền nói là người nước Lỗ. Sách ẩn: Gia ngữ cũng chép là người nước Lỗ. Khổng Tử cho là người có đức hạnh. Bá Ngưu có bệnh nặng, Khổng Tử đến thăm hỏi, tự nắm tay qua cửa sổ, Tập giải: Họ Bao nói: "Bá Ngưu có bệnh nặng, không muốn gặp người khác, Khổng Tử luồn qua cửa sổ cầm tay." nói: "Là mệnh trời sao! Người này mà cũng có bệnh nặng, là mệnh trời sao!" Nhiễm Ung tên chữ là Trọng Cung. Tập giải: Trịnh Huyền nói là người nước Lỗ. Sách ẩn: Gia ngữ chép: "Là họ hàng của Bá Ngưu, kém Khổng Tử hai mươi chín tuổi." Trọng Cung hỏi về việc nước, Khổng Tử nói: "Ra cửa gặp ai cũng coi như khách quý, dùng lễ lớn đối đáp với người dân. Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Chẳng gì tốt bằng kính người." Làm cho trong nước không có lời oán, trong nhà không có lời oán." Khổng Tử cho rằng Trọng Cung có đức hạnh, nói: "Ung đáng được ngôi ngoảnh mặt về phía nam." Tập giải: Họ Bao nói: "Đáng được ngoảnh mặt về phía nam là nói làm quan như chư hầu." Cha của Trọng Ung là người hèn kém, Khổng Tử nói: "Con của con bò lông vằn loang mà có lông đỏ mà sừng dài thẳng, dù người ta không muốn dùng để tế, nhưng thần núi thần sông có bỏ nó?" Tập giải: Hà Yến nói: "Ý nói: "Dẫu cha không đẹp nhưng chẳng làm hại gì đến cái đẹp của con." Nhiễm Cầu tên chữ là Tử Hữu, Tập giải: Trịnh Huyền nói là người nước Lỗ. kém Khổng Tử hai mươi chín tuổi, làm quan giúp việc trong nhà họ Quý. Quý Khang Tử hỏi Khổng Tử rằng: "Nhiễm Cầu có lòng nhân chăng?" Đáp nói: "Ấp có ngàn nhà, nhà có trăm cỗ xe, Khổng An Quốc nói: "Ấp có ngàn nhà là ấp của Khanh đại phu, Khanh đại phu gọi là nhà. Chư hầu có ngàn cỗ xe, nhà của Khanh đại phu có trăm cỗ xe." Cầu cũng thu được thuế ở đấy. Có lòng nhân hay không thì ta không biết." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Thuế là thuế quân. Lòng nhân có khuôn khổ rất lớn, không thể nói hết." Lại hỏi rằng: "Tử Lộ có lòng nhân chăng?" Khổng Tử nói: "Giống Cầu." Cầu hỏi: "Nghe vậy là nên làm nhanh chăng?" Khổng Tử nói: "Làm nhanh." Tử Lộ hỏi: "Nghe vậy là nên làm nhanh chăng?" Khổng Tử nói: "Cha anh còn đó, nghe vậy rồi sao mà làm nhanh được!" Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Nên nói rõ cho cha anh biết, không nên tự ý làm." Tử Hoa cho là lạ, hỏi: "Hám hỏi sao hỏi giống mà đáp khác?" Khổng Tử nói: "Cầu là người rụt rè, cho nên khuyến khích. Do là người nôn nóng, cho nên ngăn giảm." [/color]Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Ý nói Nhiễm Tử Hữu có tính rụt rè, Tử Lộ có tính háo thắng hơn người, đều tùy vào cái tính xấu của mỗi người mà sửa lại."[/color] Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Trọng Do tên chữ là Tử Lộ, người ấp Biện, Tập giải: Từ Quảng nói: "Thi Tử chép Tử Lộ là người quê mùa ở ấp Biện." Sách ẩn: Gia ngữ chép tên chữ là Quý Lộ, cũng chép là người ấp Biện. kém Khổng Tử chín tuổi. Tử Lộ tính thô lỗ, ưa dùng sức, chí cứng cỏi, đội mũ mào gà trống, đeo kiếm da heo đực. Tập giải: Mũ mào gà trống, kiếm da heo đực. Hai thứ này đều dữ tợn, Tử Lộ ưa dùng sức cho nên đeo đội nó. lấn hiếp Khổng Tử. Khổng Tử dùng lễ dần dần khuyên dụ Tử Lộ, Tử Lộ sau cũng đem vật lễ đến, nhờ qua người nhà Khổng Tử xin làm học trò. Tử Lộ hỏi về việc nước, Khổng Tử nói: "Làm trước rồi sai dân làm." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Nêu đức để dạy dỗ trước, làm cho người dân tin theo, rồi mới sai người dân làm. Cho nên kinh Dịch chép: 'Làm cho dân vui lòng thì dân quên cái mệt của mình'." Xin giảng thêm, đáp nói: "Đừng chán." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Tử Lổ ngờ thầy giảng còn ít, cho nên xin giảng thêm. Đáp: 'Đừng chán.' Ý nói làm việc ấy không được chán nản thì được." Tử Lộ hỏi: "Quân tử chuộng dùng sức chăng?" Khổng Tử nói: "Lấy việc nghĩa làm đầu. Quân tử ưa dùng sức mà không làm việc nghĩa là gây loạn. Tập giải: Lí Sung nói: "Đã gọi là quân tử mà không theo chức phận mà làm loạn phép tắc thì như nhà vua vô đạo, nhà nước rối ren, dấn thân cứu nạn mà không biết nắn sửa việc nghĩa thì cũng như dấn thân gây loạn mà bị tiếng là bất nghĩa vậy." Sách ẩn: Xét: Sung tên chữ là Hoằng Độ, làm Trung thư thị lang thời nhà Tấn, cũng soạn sách Luận ngữ giải. Tiểu nhân ưa dùng sức mà không làm việc nghĩa thì gây hại." Tử Lộ nghe qua, cũng chưa làm theo, chỉ sợ có lỗi ấy. Khổng Tử nói: "Nghe một phía mà xét được kẻ phạm tội, đấy là Do ư!" Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Một phía là lệch một bên. Nghe lời tranh tụng tất phải nghe lời hai bên để xét đúng sai, còn như nghe một bên để xét kẻ phạm tội, chỉ có Tử Lộ làm được." "Do ưa dùng sức hơn ta, chẳng hợp dùng việc gì." "Như Do thì chẳng được chết theo ý mình." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Không được hưởng trọn tuổi trời." "Mặc áo vải gai xấu nát đứng với kẻ mặc áo da chồn da hạc mà không thẹn, đấy là Do ư!" Do cũng lên nhà, nhưng chưa đáng được vào phòng học." Tập giải: Mã Dung nói: "Lên nhà ta rồi, chưa vào phòng học." Quý Khang Tử hỏi rằng: "Trọng Do có lòng nhân không?" Khổng Tử nói: "Người có thể sai đi thu thuế ở nước có ngàn cỗ xe, ta không biết là có lòng nhân hay không." Tử Lộ thích theo Khổng Tử đi chơi, gặp những người già chống gậy là Trường Thư, Kiệt Nịch, Hà Điệu. Tử Lộ làm quan giúp việc trong nhà họ Quý, Quý Tôn hỏi: "Tử Lộ có thể gọi là bầy tôi lớn chăng?" Khổng Tử nói: "Có thể nói là bầy tôi cho đủ có thôi." Tử Lộ làm quan Đại phu của ấp Bồ, Sách ẩn: Ấp Bồ là ấp của nước Vệ, Tử Lộ đến làm quan ở đấy. từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nói: "Ấp Bồ có nhiều tráng sĩ lại khó trị, cho nên ta bảo ngươi hãy cẩn thận cung kính mới trị được kẻ có sức, làm việc nới lỏng mới vừa lòng mọi người, yên lặng vâng mệnh mới báo được ơn vua." Lúc trước, Linh Công nước Vệ có vợ yêu là Nam Tử. Thái tử của Linh Công là Quỹ Hội có lỗi với Nam Tử, sợ bị giết nên bỏ ra ngoài. Kịp lúc Linh Công chết thì phu nhân là Nam Tử muốn lập công tử tên là Dĩnh. Dĩnh không chịu nhận ngôi, nói: "Con của thái tử bỏ trốn tên là Triếp vẫn còn sống." Do đó người nước Vệ lập Triếp làm vua, đấy là Xuất Công. Xuất Công lập được mười hai năm mà cha là Quỹ Hội vẫn ở ngoài, không được về nước. Tử Lộ làm quan giúp việc của quan Đại phu nước Vệ là Khổng Khôi. Quỹ Hội bèn cùng Khổng Khôi làm loạn, Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép: "Quỹ Hội vào nhà Khổng Khôi, mẹ Khôi là Bá Cơ bắt ép Khôi ở nhà xí, buộc thề với mình mà lập Quỹ Hội, không phải là Khôi vốn có ý tự làm loạn. mưu vào nhà Khổng Khôi, rồi cùng phe đảng đánh úp Xuất Công. Xuất Công chạy sang nước Lỗ, do đó Quỹ Hội vào lập làm vua, đấy là Trang Công. Vào lúc Khổng Khôi làm loạn thì Tử Lộ đang ở ngoài, nghe tin liền chạy nhanh về, gặp Tử Cao đã ra khỏi cửa thành nước Vệ, bảo Tử Lộ rằng: "Xuất Công bỏ đi rồi, mà cửa thành đã đóng, ông nên về đi, nếu không gặp họa đấy!" Tử Lộ nói: "Ăn lộc của người ta thì không sợ tránh nạn của người ta." Tử Cao bèn đi. Có sứ giả vào thành, cửa thành mở, Tử Lộ theo mà vào, đến gặp Quỹ Hội. Bấy giờ Quỹ Hội cùng Khổng Khôi lên đài. Tử Lộ nói: "Ngài sao lại dùng Khổng Khôi? Xin bắt giết hắn đi." Quỹ Hội không nghe. Do đó Tử Lộ muốn đốt đài, Quỹ Hội sợ, bèn sai Thạch Khất, Hồ Yểm đánh Tử Lộ, chặt đứt dải mũ của Tử Lộ, Tử Lộ nói: "Quân tử chết nhưng mũ không cởi." Rồi buộc dây mũ mà chết. Khổng Tử nghe nói nước Vệ có loạn, nói: "Ô hô! Do chết mất!" Rồi quả nhiên chết. Chp nên Khổng Tử nói: "Từ khi ta có Do, lời xấu không vẳng đến bên tai." Tập giải: Vương Túc nói: "Tử Lộ làm người hộ vệ cạnh Khổng Tử, cho nên những kẻ ngang bướng không dám nói lời xấu, cho nên lời xấu không đến tai Khổng Tử." Bấy giờ Tử Cống làm sứ giả của nước Lỗ đến nước Tề. Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép Tử Cống làm sứ giả cỉa nước Lỗ đến nước Tề vào năm thứ mười lăm thời Ai Công, có lẽ lời văn này sai. Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Tể Dư tên chữ là Tử Ngã. Tập giải: Trịnh Huyền nói là người nước Lỗ. Sách ẩn: Gia ngữ cũng chép là người nước Lỗ. Miệng lưỡi lời nói sắc sảo. Đã theo học Khổng Tử, hỏi rằng: "Để tang ba năm không dài quá sao? Quân tử ba năm không làm lễ thì lễ hỏng, ba năm không soạn nhạc thì nhạc hủy. Lúa cũ đã ăn, lúa mới lại mọc, đuốc lửa xoay chuyển, Tập giải: Mã Dung nói: "Chu thư nguyệt lệnh có chép cách đổi đuối lửa. Mùa xuân thì đốt lửa bằng củi cây du cây liễu, mùa hạ thì đốt lửa bằng củi cây táo cây hạnh, cuối mùa hạ thì đốt lửa bằng củi cây dâu cây chá, mùa thu thì đốt lửa bằng củi cây tạc cây do, mùa đông thì đốt lửa bằng củi cây hòe cây đàn. Trong vòng một năm đốt lửa đều khác cây củi, cho nên nói là đuốc lửa xoay chuyển." một năm cũng được rồi." Khổng Tử nói: "Với ngươi có yên lòng không?" Đáp: "Yên lòng." Khổng Tử nói: "Ngươi yên lòng thì làm đi. Quân tử để tang thì không ăn món ngon, không nghe khúc nhạc hay, cho nên không làm những việc ấy." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Có ý trách Tử Ngã không có lòng nhân với người thân, cho nên nói 'ngươi yên lòng thì làm đi'." Tể Ngã đi ra, Khổng Tử nói: "Dư là kẻ không có lòng nhân! Con sinh được ba năm rồi mới rời khỏi vòng tay cha mẹ. Tập giải: Mã Dung nói: "Trẽ con sinh ra chưa được ba tuổi thì được cha mẹ ôm ấp." Để tang ba năm là lẽ thường trong thiên hạ." Tể Ngã nghỉ ngày, Khổng Tử nói: "Gỗ mục không thể đẽo được, vách dựng trên đất phân thì không trát được." Tể Ngã hỏi về đức của Ngũ đế, Khổng Tử nói: "Dư không được như những người ấy." Tập giải: Vương Túc nói: "Ý nói không đáng để bàn về đức của Ngũ đế." Tể Ngã làm quan Đại phu ở thành Lâm Truy, Sách ẩn: Xét: Là nói làm quan ở nước Tề, nước Tề đóng đô ở thành Lâm Truy. cùng Điền Thường làm loạn, do đó bị diệt tộc, Khổng Tử lấy làm thẹn. Sách ẩn: Xét: Tả thị truyện không có chép Tể Ngã cùng Điền Thường làm loạn, nhưng có chép về Khám Chỉ tên chữ là Tử Ngã, vì tranh được tin dùng mà bị Trần Hằng giết. E rằng tên chữ giống nhau với Tể Dư, cho nên chép lầm vậy. Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Đoan Mộc Tứ là người nước Vệ, tên chữ là Tử Cống, kém Khổng Tử ba mươi mốt tuổi. Tử Cống nói năng sắc bén. Khổng Tử thường gạt lời của Tử Cống, hỏi rằng: "Ngươi so với Hồi thì ai hơn?" Đáp: "Tứ sao dám sánh với Hồi! Hồi thì nghe một mà biết mười, Tứ thì nghe một chỉ biết hai." Tử Cống đã học đạo của Khổng Tử, hỏi: "Tứ là người thế nào?" Khổng Tử nói: "Như đồng dùng của ngươi." Tử Cống hỏi: "Là đồ gì?" Đáp: "Cái hồ liễn." Tập giải: Họ Bao nói: "Hồ liễn là đồ đựng thóc lúa. Thời nhà Hạ gọi là hồ, thời nhà Ân gọi là liễn, thời nhà Chu gọi là phủ quỹ. Là vật báu của tông miếu." Trần Tử Cầm hỏi Tử Cống rằng: "Trọng Ni học gì?" Tử Cống nói: "Cái đạo của Văn-Võ chưa đổ xuống đất, người hiền trong đời vẫn biết phần lớn, người không hiền vẫn biết phần ít, chẳng ai không biết cái đạo của Văn-Võ. Phu tử há không học, Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Cái đạo của Văn-Võ chưa đổ xuống đất, người hiền và không hiền đều biết được, phu tử không ai là không theo học." mà cũng há thường học một thầy!" Lại hỏi rằng: "Khổng Tử đến nước nào tất nghe việc nước ấy. Xin người ta bảo cho hay là đòi người ta bảo cho biết?" Tử Cống nói: "Phu tử hiền lành tiết kiệm, nhún nhường mà được. Phu tử đến xin nghe, có khác với cách người người ta đến xin nghe vậy." Tử Cống hỏi rằng: "Giàu mà không kiêu, nghèo mà không nịnh, là thế nào?" Khổng Tử nói: "Cũng được; nhưng không bằng nghèo mà vui với đạo, giàu mà ưa dùng lễ." Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Vui với đạo là nói dốc ý theo đạo, không vì nghèo mà buồn rầu." Điền Thường muốn làm loạn ở nước Tề, sợ bọn họ Cao-Quốc-Bào-Án, cho nên đem quân đi muốn đến đánh nước Lỗ. Khổng Tử nghe tin, hỏi các học trò rằng: "Nước Lỗ là chỗ có phần mộ của tổ tiên chúng ta, là nước có cha mẹ của chúng ta, nước nguy như thế, hai ba học trò trong đây ai dám đi ra?" Tử Lộ xin đi, Khổng Tử ngăn lại. Tử Trương, Tử Thạch xin đi, Khổng Tử cũng chẳng cho. Tử Cống xin đi, Khổng Tử cho đi. Rồi đi, đến nước Tề, dụ Điền Thường rằng: "Ngài đánh nước Lỗ là lầm. Lỗ là nước khó đánh, thành nước này mỏng lại thấp, đất nước này hẹp lại . Vua nước này dốt nát lại bất nhân, bầy tôi dối trá lại vô dụng. Quan dân nước này lại ghét việc binh giáp, nước này không đáng đến đánh. Không bằng ngài nên đánh nước Ngô. Nước Ngô thành cao lại dày, rất rộng lại sâu, áo giáp cứng lại mới, quân lính từng trải lại nhiều, quânh mạnh đồ quý đều ở nước ấy, nếu sai một viên Đại phu giỏi đến giữ nước ấy thì cũng dễ đánh." Điền Thường chợt giận ra mặt nói: "Điều mà ngài cho là khó thì người ta cho là dễ; điều mà ngài cho là dễ thì người ta cho là khó; mà lại đem dạy Thường, sao vậy?" Tử Cống nói: "Thần nghe nói có nỗi lo ở trong thì đánh kẻ mạnh, có nỗi lo ở ngoài thì đánh kẻ yếu. Nay ngài có nỗi lo ở trong vậy. Thần nghe nói ngài ba lần được phong mà ba lần không thành là vì có đại thần không vâng lệnh. Nay ngài phá nước Lỗ để mở rộng nước Tề, đánh thắng nước Lỗ để làm vua kiêu ngạo, phá nước Lỗ để bầy tôi được tôn quý, mà công của ngài cũng không được thêm, khiến cho ngài càng xa với vua. Đấy là ngài trên thì làm vua kiêu ngạo, dưới thì làm cho bầy tôi chuyên quyền, muốn làm vậy để nên việc lớn, thật khó. Vả lại vua kiêu tất phóng túng, bầy tôi kiêu tất tranh giành, là làm cho ngài trên có hiềm khích với vua, dưới có tranh giành với bầy tôi. Như thế thì ngôi vị của ngài ở nước Tề bị nguy. Cho nên nói là không bằng đánh Ngô. Nếu đánh không thắng nước Ngô thì người dân chết ở ngoài, đại thần túng thiếu ở trong, lúc ấy ngài trên không có đại thần kèn cựa, dưới không có người dân gây họa, chỉ có ngài là nắm nước Tề giữ vua lẻ." Điền Thường nói: "Hay. Vậy nhưng quân ta đã đến sang nước Lỗ rồi, nếu bỏ mà sang nước Ngô thì đại thần ngờ ta, làm sao?" Tử Cống nói: "Ngài ém binh không đánh. Thần xin đi sứ đến gặp vua nước Ngô, sai bên ấy cứu nước Lỗ đánh nước Tề, ngài nhân đó đem binh đón đánh." Điền Thường nghe theo, sai Tử Cống xuống phía nam gặp vua nước Ngô. Tử Cống dụ rằng: "Thần nghe nói kẻ làm vua không làm dứt dòng dõi người ta, kẻ làm bá không có nước địch mạnh. Vật nặng ngàn quân thêm vài thù cũng đã khác rồi. Nay đem nước Tề có vạn cỗ xe để đánh nước Lỗ có vạn cỗ xe, tranh mạnh với nước Ngô, thần trộm cho là vua bị nguy rồi. Vả lại vua cứu nước Lỗ sẽ nổi danh, đánh nước Tề sẽ có lợi lớn, nhân đó vỗ về chư hầu miền ven sông Tứ, phạt tội người Tề bạo mà ép buộc người Tấn mạnh, chẳng lợi gì hơn." Vua Ngô nói: "Hay. Vậy nhưng ta từng đánh với người Việt, người nước Việt nghỉ ở núi Cối Kê. Vua nước Việt tu thân nuôi quân, có ý báo thù ta. Ngài đợi ta đánh nước Việt xong sẽ nghe lời ngài." Tử Cống nói: "Nứơc Việt mạnh không hơn được nước Lỗ, nước Ngô khỏe không quá được nước Tề. Vua bỏ nước Tề mà đánh nước Việt là để cho người nước Tề đánh nước Lỗ. Vả lại vua đang lấy tiếng là 'cứu nước mất được còn', đánh nước Việt nhỏ để uy hiếp nước Tề mạnh, không phải là dũng. Vả chăng người có dũng là không tránh khó, người có lòng nhân không dồn người ta đến đường cùng, người có trí không làm mất thời cơ, kẻ làm vua không làm mất dòng dõi người ta, đấy là để nêu việc nghĩa. Nay để cho nước Việt còn là tỏ lòng nhân với chư hầu, cứu nước Lỗ đánh nước Tề là để ra oai với nước Tấn, lúc ấy chư hầu sẽ theo nhau hướng về nước Ngô, nghiệp làm bá sẽ thành. Vả lại nếu vua ghét nước Việt thì thần xin về phía đông gặp vua nước Việt, sai bên ấy xuất binh đi theo, thật là làm cho nước Việt trống không, mượn tiếng là theo chư hầu đánh nước Tề." Vua Ngô cả mừng, liền sai Tử Cống sang nước Việt. Vua Việt sửa đường ra đón ở ngoài thành, tự ngồi xe đến nhà nghỉ mà hỏi rằng: "Đây là nước Man-Di, đại phu sao lại nghiễm nhiên chịu nhục mà đến đây?" Tử Cống nói: "Nay ta dụ vua Ngô đến cứu nước Lỗ đánh nước Tề, ý vua Ngô cũng muốn nhưng còn sợ người Việt, nói rằng: 'Đợi ta đánh nước Việt xong mới được.' Như thế vua Ngô tất đánh nước Việt. Vả chăng không có ý báo thù người mà làm cho người nghi ngờ là vụng về. Có ý báo thù người mà để cho người biết được là nguy hiểm. Việc chưa làm mà cho người nghe biết là họa hại. Ba cái ấy là cái hại lớn của việc dấy binh vậy." Câu Tiễn cúi đầu vái lạy nói: "Ta từng không liệu sức mình mới đánh với người Ngô, bị khốn ở núi Cối Kê, nỗi đau vào xương tủy, ngày đêm miệng khô luỡi sém, chỉ muốn đuổi theo đánh với vua Ngô mà chết, là ý nguyện của ta." Rồi hỏi Tử Cống. Tử Cống nói: "Vua Ngô là người mạnh bạo, bầy tôi không chịu nổi, nhà nước khổ vì đánh trận, quân lính không kham nổi, trăm họ oán giận, đại thần gây biến ở trong; Tử Tư vì can gián mà chết, Sách ẩn: Vương Thiệu xét: Gia ngữ, Việt tuyệt thư đều không chép Tử Tư ở đây. Bấy giờ Tử Tư chưa chết. Thái tể là Phỉ nắm việc, theo lỗi vua để yên thân riêng, đấy là mầm mối mất nước vậy. Nay vua nếu phát quân lính để giúp vua Ngô, làm cho chí vua bên ấy thêm hăng, tặng nhiều vật báu để bên ấy vui lòng, nói lời nhún nhường để bên ấy thêm tôn quý, bên ấy chắc đánh nước Tề thôi. Nếu bên ấy đánh không thắng là phúc của vua vậy. Đánh thắng tất đem binh đến nước Tấn. Thần xin lên phía bắc gặp vua nước Tấn, cùng sai đánh nước Ngô, tất làm cho nước Ngô suy yếu. Quân khỏe để hết ở nước Tề, giáp cứng khốn ở nước Tấn, lúc ấy vua đánh chỗ yếu của nước ấy, tất diệt được nước Ngô. Vua Việt mừng rõ, hứa được, tặng trăm dật vàng, một thanh kiếm, hai cây mâu sắc cho Tử Cống. Tử Công không nhận, rồi đi. Báo cho vua Ngô rằng: "Thần kính đem lời của đại vương báo cho vua Việt, vua Việt cả giận nói: 'Ta không may, trẻ tuổi đã mất người thân, trong không biệt tự lượng sức, gây tội với vua Ngô, quân thua thân nhục, náu ở núi Cối Kê, nước thành bãi trống, may nhờ đại vương ban tặng, khiến cho được dâng mâm cỗ để cúng tế tổ tiên, chết không dám quên, sao dám mưu nghĩ này khác'!" Năm ngày sau, vua Việt sai Đại phu là Chủng cúi đầu nói với vua Ngô rằng: "Bầy tôi lẻ loi theo phục ở miền đông là Câu Tiễn sai cận thần là Chủng dám sửa chức phận đến làm tả hữu. Nay trộm nghe đại vương săp nêu cao nghĩa lớn, đánh mạnh cứu yếu, ép khốn nước Tề bạo mà vỗ về nhà Chu, thần xin đem hết ba ngàn quân lính trong nước đi giúp, xin tự cầm dáo nhọn mặc giáp cứng để xông vào tên đạn trước. Cho bầy tôi thấp kém là Chủng đem đồ dùng cất giấu có từ thời tổ tiên là hai chục áo giáp, rìu, mâu khuất lô, kiếm bộ quang đến cấp cho quan quân." Vua Ngô cả mừng, đem báo cho Tử Cống nói: "Vua Việt muốn tự theo quả nhân đánh nước Tề, được chăng?" Tử Cống nói: "Không nên. Nước ấy đã không còn người, đem hết quân đi, lại cho vua nước ấy theo là không có nghĩa. Vua nên nhận lấy tiền, cho quân nước ấyđi, từ chối vua nước ấy đi." Vua Ngô hứa theo, rồi báo đáp vua Việt. Do đó vua Ngô bèn liền phát quân của chín quận đi đánh nước Tề. Tử Cống đi rồi về nước Lỗ. Vua Ngô quả nhiên đánh với quân Tề ở ấp Ngải Lăng, Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép là vào năm thứ mười một thời Ai Công. đại phá quân Tề, bắt được quân lính của bảy tướng quân nước Tề mà không về, lại đem quân đến nước Tấn, gặp nhau với vua nước Tấn ở ấp Hoàng Trì. Sách ẩn: Tả truyện chép hội thề Hoàng Trì vào năm thứ mười ba thời Ai Công, người Việt vào gặp vua Ngô, vua Ngô hòa bình với người Việt. Hai vua Ngô-Tấn tranh mạnh, quân Tấn đánh quân Ngô, quân Ngô thua to. Vua Việt nghe tin, vượt sông Giang đánh úp nước Ngô, đóng quân cách thành nước Ngô bảy dặm. Vua Ngô nghe tin, bỏ nước Tấn mà về, đánh với quân Việt ở hồ Ngũ, ba trận không thắng, không giữ được cửa thành, quân Việt bèn vây cung của vua Ngô, giết vua Ngô là Phù Sai rồi giết tể tướng của vua Ngô. Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép người Việt diệt nước Ngô vào năm thứ hai mươi hai thời Ai Công, vậy thì việc này đều khác số năm. Có lẽ lời này muốn nói gọn lại việc ấy, cho nên lời lẽ thông nhau. Vua Việt phá nước Ngô được ba năm, làm bá ở miền đông. Rút cuộc Tử Cống một lần đi ra du thuyết mà giữ được nước Lỗ, gây loạn nước Tề, phá nước Ngô, làm cho nước Tấn mạnh mà vua Việt xưng bá. Tử Cống một lần đi sứ mà làm cho các nước đánh nhau, trong khoảng mười năm, năm nước đều có biến. Sách ẩn: Xét: Tả truyện chép là các nước Lỗ, Tề, Tấn, Ngô, Việt, cho nên nói Tử Cống đi ra mà giữ được nước Lỗ, gây loạn nước Tề, phá nước Ngô, làm cho nước Tấn mạnh mà vua Việt xưng bá. Tử Cống ưa cất chứa, tùy thời chuyển chở hàng hóa đem mua bán. Tập giải: Hàng hóa rẻ thì mua vào mà cất trữ, giá đắt thì theo thời mà chở đi đem bán mà thu lời. Ưa nêu khen cái hay của người khác, cũng không che giấu lỗi của người khác. Thường làm tể tướng ở các nước Lỗ-Vệ, nhà có chứa ngàn vàng, cuối cùng chết ở nước Tề. Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Ngôn Yển là người nước Ngô, Sách ẩn: Gia ngữ chép là người nước Lỗ. Xét: Yển làm quan đứng đầu ấp Vũ Thành ở nước Lỗ. Nay quận Ngô có mộ của Ngôn Yển, có lẽ đúng là người nước Ngô. tên chữ là Tử Du, kém Khổng Tử bốn mươi lăm tuổi. Tử Du đã theo học đạo rồi, làm quan đứng đầu ấp Vũ Thành. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Tại châu Duyện, là huyện Nam Thành. Dư địa chí chép huyện Nam Vũ Thành là ấp Vũ Thành của nước Lỗ, Tử Du làm quan đứng đầu ở đấy, ấp ấy thuộc quận Thái Sơn." Khổng Tử qua ấp Vũ Thành, nghe được tiếng đàn hát, mủm mỉm mà cười rằng: "Mổ gà sao lại dùng dao mổ bò?" Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Ý nói trị ấp nhỏ sao phải dùng đạo lớn." Tử Du nói: "Ngày trước Yển nghe các thầy nói rằng quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Đạo là lễ nhạc. Nhạc làm cho người ta hòa thuận, người ta hòa thuận thì dễ sai khiến." Khổng Tử nói: "Hai ba người trong các học trò, có Yển nói đúng. Lời trước là ta nói đùa thôi." Tập giải: Khổng An Quốc nói: "Đùa là nói trị huyện nhỏ mà dùng đạo lớn." Khổng Tử cho rằng Tử Du thạo ở việc học văn chương. Bốc Thương tên chữ là Tử Hạ, Tập giải: Gia ngữ chép là người nước Vệ. Trịnh Huyền nói Bốc Thương là người nước Ôn. Sách ẩn: Nước Ôn thuộc quận Hà Nội ngày nay, vốn thuộc nước Vệ. kém Khổng Tử bốn mươi bốn tuổi. Tử Hạ hỏi: "'Có câu thơ 'cười duyên đẹp thay, mắt liếc đẹp thay, thêu tơ sặc sỡ thay', là ý gì?" Tập giải: Mã Dung nói: "Hai câu trên là hai câu trong bài thơ Thạc nhân chương Vệ phong, một câu dưới câu thơ ẩn dấu." Khổng Tử nói: "Sau khi vẽ các màu thì tô màu trắng." Tập giải: Trịnh Huyền nói: "Vẽ trên trên lụa trước phải vẽ các màu, rồi mới tô màu trắng đến các chỗ để tạo ra hoa văn, ý nói người con gái đẹp có mặt mũi xinh đẹp cũng phải có lễ mới được." Hỏi: "Lễ ở sau là sao?" Tập giải: Hà Yến nói: "Khổng Tử nói sau khi vẽ các màu thì tô màu trắng, Tử Hạ nghe xong mới biết là lấy màu trắng ví với lễ, cho nên hỏi lễ ở sau là sao." Khổng Tử nói: "Thương bắt đầu biết nói về kinh Thi với ta rồi." Tập giải: Họ Bao nói: "Có thể biết rõ ý ta, có thể nói về kinh Thi với ta." Tử Hạ hỏi: "Sư và Thương thì ai hiền hơn?" Khổng Tử nói: "Sư có chỗ kém, Thương cũng không theo kịp." Hỏi: "Vậy thì Sư hơn chăng?" Đáp: "Có chỗ kém cũng không theo kịp." Khổng Tử bảo Tử Hạ rằng: "Ngươi là nhà Nho quân tử, không phải là nhà Nho tiểu nhân." Tập giải: Hà Yến nói: "Quân tử học đạo Nho để nêu rõ cái đạo của mình, tiểu nhân học đạo Nho để nêu cao tiếng tăm của mình." Khổng Tử đã chết, Tử Hạ náu ở miền Tây Hạ giảng dạy đạo của Khổng Tử, Sách ẩn: Miền tây của quận Hà Đông, có lẽ gần sông Long Môn. Họ Lưu nói: "Huyện Hà Tây châu Đồng ngày nay có trường học nhà đá của Tử Hạ." Chính nghĩa: Là quận Tây Hà, là châu Phần ngày nay. Nhĩ nhã chép: "Vùng giữa hai quận Hà là châu Kí." Lễ kí chép: "Từ miền Đông Hà đến tại miền Tây Hà." Hà Đông trước gọi là sông Long Môn là miền Tây Hà, nhà Hán nhân đấy đặt thành quận Tây Hà, là châu Phần ngày nay, là chỗ mà Tử Hạ dạy học. Quát địa chí chép: "Núi Yết Tuyền còn gọi là núi Ẩn Tuyền tại phía bắc huyện Thấp Thành châu Phần bốn chục dặm." Thủy kinh chú chép: "Núi này có năm bờ vách, nửa vách có một hang nhà đá, cách mặt đất năm chục trượng, trên đỉnh có đất bằng khoảng chục khoảnh." Tùy quốc tập kí chép: "Đấy là nhà đá của Tử Hạ, về già náu ở quận Tây Hà là đấy." Có miếu thờ Bốc Thương, nay vẫn còn. làm thầy của Văn Hầu nước Nguỵ. Sách ẩn: Tử Hạ giỏi về văn chương nổi rõ tứ đức, đặt lời tựa cho kinh Thi, nêu truyện cho kinh Dịch. Lại nữa Khổng Tử đem kinh Xuân thu dạy cho Thương. Lại dạy cho kinh Lễ, có chép tại Lễ chí. Mà đây sách sử đều không bàn đến, chỉ chép việc nhỏ có từ Luận ngữ, cũng là sơ qua. Chính nghĩa: Văn Hầu đóng đô ở thành An Ấp. Sau khi Khổng Tử chết, Tử Hạ dạy đạo ở miền Tây Hà, Văn Hầu theo học Tử Hạ, hỏi đáp về việc nước. Lúc con của Tử Hạ chết, Tử Hạ khóc đến nỗi mắt chẳng còn sáng.
-
MẮT ĐỎ NGƯƠI VÀNG Ngươi vàng, tròng đỏ bao năm, Luyện trong Bát quái cao thâm sáng ngời. Cuộc Trần, vân cẩu xem chơi, Thế gian mộng ảo, cuộc đời phù du. Non nam, biển bắc ngao du, Càn khôn thế giới như thu nhỏ lần. Tai nghe mắt thấy vẫn gần, Muốn đi cậy phép đẩu vân lẹ làng! Sài gòn, một thoáng Taiwan, Seoul Hàn quốc, Thailand, Hoa Kỳ. Nơi nào muốn đến thì đi, Nữa cây hương đốt có khi chưa tàn. Cười thầm nơi cõi thế gian, "Mộng trung hữu thực" ngỡ ngàng thế sao! Phải đâu là giấc chiêm bao... Thiện Ngộ
-
Đường Tăng! Anh là ai? Năm mà một Tây du ký là câu chuyện trường thiên về hành trình qua phương Tây thỉnh kinh của năm thầy trò: Tam tạng, Tề thiên, Bát giới, Sa tăng, và con ngựa trắng. Thông thường, người ta sơ ý, chỉ kể có bốn, quên đi con ngựa, nguyên là con rồng ngọc (ngọc long), thái tử thứ ba, con của Tây hải Long vương Ngao Nhuận. Quên kể đến ngựa rồng, phải chăng vì vai trò đỡ chân cho Đường tăng của ngọc long tam thái tử hình như có vẻ lu mờ? Hay quên kể, vì không thấy ở Tây du ký tản mác ẩn ngữ nơi này, rải rác ẩn dụ nơi kia, mà ngòi bút của Ngô Thừa Ân đã ung dung viết như giỡn chơi, như bông đùa, mà ý hàm tàng thì rất thực. Và nên hiểu chỗ thực trong cái hư của Tây du ký, nét nghiêm trang trong vẻ bỡn cợt của Ngô Thừa Ân như thế nào? Tây du ký là truyện xuất thế gian, do đó không có dấu ấn của Nho giáo, vì Nho giáo về cơ bản là đạo nhập thế, thuộc phạm vi hình nhi hạ học mà ngày nay Cao Đài gọi là ngoại giáo công truyền (exoterism). Đọc Tây du mà bảo Ngô Thừa Ân có cái gọi là tư tưởng chống Trời, chống thiên tử, tức là đã quên đi ngay từ ban đầu câu chuyện xuất gia, thỉnh kinh vốn đã hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp.[1] Tây du nào có chống ai đâu, vì Tây du là câu chuyện ngụ ngôn, đem chuyện thỉnh kinh để diễn bày tư tưởng thiền học giải thoát trong đạo Lão, đạo Phật, thuộc phạm vi hình nhi thượng học mà ngày nay Cao Đài gọi là nội giáo tâm truyền (esoterism). Muốn đọc Tây du, hiểu Ngô Thừa Ân, cần thiết biết đọc giữa hai hàng chữ, nắm lấy bốn chữ ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời). Như chép ở kinh Viên giác, Phật bảo lấy ngón tay chỉ trăng, nếu đã thấy mặt trăng thì có thể biết rằng phương tiện để chỉ trăng rốt cuộc chẳng phải là mặt trăng. Trang tử khuyên: «Có nơm vì cá, đặng cá hãy quên nơm. Có dò vì thỏ, đặng thỏ hãy quên dò. Có lời vì ý, đặng ý hãy quên lời.» Thế thì, vượt lên trên mọi hư cấu văn chương của Tây du ký với tài hí lộng chữ nghĩa của Ngô Thừa Ân, cuộc thỉnh kinh của Đường tăng thực chất là chi? Đường tăng là ai đó? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi âm ở đâu? Sẽ là sửng sốt nếu nói rằng Đường tăng vẫn còn đang thỉnh kinh dù đã thỉnh kinh xong rồi từ vạn cổ. Tề thiên đã hàng phục xong thiên ma vạn quỷ, đã cởi được kim cô niệt đầu, đã được Phật tổ tán thán là Đấu chiến thắng phật ở giữa bửu điện trang nghiêm của chùa Lôi âm, nhưng Tề thiên vẫn còn đang và vẫn sẽ còn tiếp tục vất vả đánh nhau với yêu tinh ma quái. Mãi mãi cuộc chiến đấu vẫn chưa xong. Tề thiên nào đã thành phật? Tề thiên nào chưa thành phật? Yêu ma nào đã quy hàng? Yêu ma nào còn chưa ngừng dấy động phong ba? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi âm không ở về phương Tây, và cũng không phải là một địa danh trên bản đồ kim cổ. Vậy, cuộc thỉnh kinh đi về phương trời nào viễn xứ? Nên ta thử hỏi lớn tiếng rằng: Đường tăng! Anh là ai? Câu hỏi ấy phải chăng xấc xược? Sao lại dám xưng hô với Đường tăng là... Anh? Ta cứ hỏi nữa: Đường tăng! Anh là ai? Cũng là ta hỏi chính ta đó thôi. Mỗi một người trong chúng ta đều là Đường tăng. Mỗi thời đại của quá khứ, hiện tại và vị lai đều có Đường tăng, đều vẫn đã, đang và sẽ còn tiếp tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là hành trình đầy trắc trở của mỗi người trong chúng ta truy tầm Chân lý - tìm cái mà Lão tử gượng cho là Đạo, gọi tên là Xích tử chi tâm, Phật mệnh danh là Bổn lai diện mục, và Cao Đài ngày nay bảo là Nhân bản hay Thượng đế tính - vốn dĩ đã sẵn tàng ẩn trong mỗi con người. Đi về đâu để có được Chân lý đó? Thiên Trúc ư? Hà xứ tại? Thưa rằng nước Thiên Trúc ấy nào có đâu xa và con đường thỉnh kinh cũng chẳng phải là hành trình từ phương Đông qua phương Tây diệu vợi. Vương Dương Minh bảo: Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Ngô Thừa Ân ám chỉ: Thiên Trúc là thân ta, thân ta là Thiên Trúc. Kinh báu chùa Lôi âm là hình ảnh tượng trưng cho Chân lý, nó nằm trong tự thân nội thể con người. Cuộc thỉnh kinh vì vậy là con đường quy hướng về nội tâm của mỗi người, là hành trình phản tỉnh nội cầu, quay lại nhìn vào chính nội thân của mình, tìm thấy trong chính ta cái chân lý: Người là một thiêng liêng tại thế, cùng với Trời đồng thể linh quang (ánh sáng thiêng liêng). Do đó phải nói rằng bộ phim Tây du ký hai mươi lăm tập của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết đã rất tài tình khi nhạc mở đầu cho phim là bài hát «Con đường nào ta đi...» Con đường thỉnh kinh là đường trở về nội tâm. Trên con đường cô đơn đó, ta là Đường tăng, và ta cũng là Tề thiên, Sa tăng, Bát giới, long mã. Như vậy cuộc thỉnh kinh phải bắt buộc đủ bộ năm thầy trò. Thiếu một là không được! Nhưng năm mà một: là một con người với năm phương diện. Long mã Con ngựa mà vua Đường cấp cho Đường tăng bắt buộc phải chết đi, để đem thay bằng ngựa thần, ngựa rồng. Ngựa là xác thân. Ngựa thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường tăng không tới được Lôi âm. Người mà thể xác bịnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì làm sao có thể quyết tâm chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo? Sa tăng Sa tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy liêm động quê xưa; Bát giới nào có thua, đã trăm lần ngàn lượt cứ lẻo nhẻo đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ riêng có Sa tăng suốt cuộc hành trình thiên ma bách chiết, vào yêu ra quỷ, một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui. Không một lòng biến đổi. Sa tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ, tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi, thì cứ đi tới. Khí giới của Sa tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào, ghim chặt vào. Chí đã định rồi thì không biến đổi, lòng đã quyết rồi thì chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa tăng vì thế là Ngộ tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng. Sa tăng Bát giới Bát giới Bát giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Khí giới của họ Trư vì thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa lòng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Có lẽ vì thế mà pháp danh của chàng là Ngộ năng.[2] Tề thiên Tề thiên là trí, lý trí. Bộ phim Tây du của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết cho thấy đạo diễn dường như đã hiểu được vai trò quan trọng của Tề thiên. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Thế nên, trong phim, luôn luôn vai Tề thiên đều đi trước, để dẫn đầu mấy thầy trò. Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém nhường nhịn ai. Cho nên Tề thiên coi mình to ngang với Trời (Tề thiên: bằng Trời), và muốn lên trời xuống biển, quậy phá đều làm được tất, không chút đắn đo, chẳng hề ngần ngại. Đối với Trời vẫn tự xưng «Lão Tôn» là tánh kiêu căng. Trước mặt Trời vẫn nghinh ngang, đứng xổng lưng không chịu quỳ, ăn nói lôi thôi bất kể tôn ti trật tự, đó là tượng trưng cho đầu óc duy lý của những người muốn phủ nhận Thượng đế. Lý trí ưa phân biện, cho nên Tề thiên mới có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái là thấy rõ bản chất và hiện tượng, biết ngay ai đúng là căn tiên cốt phật, ai đậy che dáng quỷ hình ma. Lý trí cũng thích đả phá, ưa đả kích, cho nên khí giới của Tề thiên phải là thiết bổng (gậy sắt), để mà đập phá. Pháp danh của Tề thiên vì thế là Ngộ không: Không (sunyata) để mà siêu vượt lên mọi đối đãi của thế giới sắc tướng và thế giới phi sắc tướng. Lý trí, tư tưởng đã suy xét, đã vận động thì ôi thôi, thiên biến vạn hóa. Cho nên thiết bổng của Tề thiên khi nặng thì nặng vô cùng, mà lúc nhẹ thì nhẹ hơn mảy lông, muốn to nhỏ ngắn dài tùy ý, nhét gọn lỗ tai cũng xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tư duy, ngôn ngữ, lý lẽ của con người. Hay cũng nó. Dở cũng nó. Bóp méo, vo tròn đều được cả. Đó vốn là nghề của chàng. Lý trí vì những «thuộc tính» như thế nên cần thiết phải được uốn nắn luôn luôn cho hợp với kỷ cương, khuôn phép. Tề thiên bởi vậy mà phải đội kim cô. Tuy nhiên, khi về tới chùa Lôi âm, thành phật rồi, không cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng. Giống như trẻ con mới đi học, tập viết phải có giấy kẻ hàng đôi, đến chừng lớn lên viết giỏi rồi, giấy chẳng vạch hàng kẻ ô vẫn dễ dàng viết ngay ngắn. Cái trí của con người còn có một đặc điểm là xẹt rất lẹ, phóng rất nhanh, cực nhanh. Ngồi ở Sài Gòn mà có thể lan man nghĩ ngợi tới tận đâu đâu, như chu du năm châu dạo cùng bốn biển; chuyện mấy chục năm quá khứ, chớp mắt một cái là cả cuốn phim dĩ vãng trường thiên vùn vụt hiện về. Diễn tả ý này, truyện Tây du bảo Tề thiên có được phép cân đẩu vân, «mỗi cân đẩu vân đi được mười vạn tám nghìn dặm» [TDK I 1982: 63]. Con số 108.000 dặm ngoài ý nghĩa tượng số học [3] còn nhằm ám chỉ tốc độ khủng khiếp của tư tưởng con người. Ngộ Không Đường Tăng Đường tăng Đường tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Truyện Tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của Đường tăng ở Tây Lương nữ quốc và khi chàng rơi vào tay yêu nữ động Tỳ bà [TDK VI 1988: 88-92, 108-109], thì bộ phim Tây du của Trung Quốc đã dàn dựng rất đạt những thử thách này. Đường tăng trong hai đoạn phim ấy hoàn toàn là một con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn mà bản thân Đường tăng không thể vượt qua, nếu không được Tề thiên giải cứu kịp thời. Đường tăng còn có tánh phàm, u mê, nhu nhược, ba phải. Đọc truyện hay xem phim Tây du ai cũng dễ thấy ghét... chàng. Một trăm lần Tề thiên cản: Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu. Và đủ một trăm lần Đường tăng cãi, cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là nhận giặc làm con vì sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lý trí. Đường tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của mình, và không có sai lầm nào giống sai lầm nào. Con người cũng thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác mà thôi, nếu không nghe theo lý trí, lương tâm mà chỉ biết chìu theo vọng tâm, tình cảm nhất thời. Trong các đệ tử, Đường tăng thường «cưng» ai nhứt? Chàng vốn tỏ ra cưng Bát giới hơn cả. Bát giới tượng trưng cho các bản năng dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi người; vậy, phải chăng chính ta, ta vốn vẫn thường có xu hướng nhắm mắt đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông chìu theo thói hư tật xấu của mình? Trong Tây du, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn có khi gay gắt giữa Tề thiên và Đường tăng, khiến cho thầy trò phải mấy phen chia lìa, thậm chí ngay khi Tề thiên mới bái Đường tăng làm sư phụ xong mà đã vội giận dữ bỏ đi [TDK II 1982: 84]. Đó cũng là cách biểu tượng hóa những đối nghịch giữa lý trí với tình cảm, cảm tính. Cà sa và tích trượng Đường tăng rõ ra là lương tri, nhưng tiếng nói của lương tri nhiều khi quá yếu mềm trước những sức mạnh đối kháng. Ngoài cái lý trí (là Tề thiên) chống đỡ, bảo vệ, Đường tăng còn cần phải được trang bị thêm hai phương tiện hữu hiệu để hộ thân, tự vệ. Đó là cà sa và tích trượng. Cà sa là áo giáp chở che, tích trượng để thêm sức cho đôi chân vững vàng trụ lập. Cà sa và tích trượng ấy chính là đạo đức chân chánh của con người. Có đạo đức, con người đủ khả năng tự phòng thủ, tự bảo vệ mình khỏi sa chân vào tội lỗi lạc lầm, tránh xa được sự trừng phạt của ngục hình đày đọa. Cho nên, khi Phật tổ Như lai sai A nan và Ca diếp mang áo cà sa gấm và tích trượng chín vòng trao cho Quan âm Bồ tát, đã dặn dò rằng: «Tấm áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy kinh dùng. Nếu người ấy (...) mặc tấm áo cà sa của ta, thì thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích trượng của ta thì không bị hãm hại.» [TDK I 1982: 190]. Và khi ở kinh thành Trường An, giải thích chỗ quý báu của cà sa, Quan âm Bồ tát cũng bảo: «Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang.» [TDK II 1982: 36] Trong bộ phim Tây du hai mươi lăm tập của Trung Quốc, nữ đạo diễn Dương Khiết có lẽ đã hiểu tường tận ý nghĩa cà sa là áo giáp đạo đức hộ thân, cho nên rất tài tình khi dàn dựng cảnh yêu nữ động Tỳ bà quyến rũ Đường tăng sa vào sắc dục. Lúc ấy Đường tăng như trong cơn mộng du, lảo đảo bước gần tới vòng tay yêu nữ đón mời, và mảnh cà sa đỏ rực bỗng nhẹ tênh, vuột bay khỏi thân Đường tăng. Còn tấm áo, Đường tăng còn an ổn; áo vuột rơi rồi, tội lỗi mở cửa chực chờ. Đạo đức mất đi, cái xấu chen vào. Yêu tinh Yêu tinh quỷ quái hằng hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là những thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. Hình ảnh này là ẩn dụ con người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết, không ai cứu chúng. Trên nẻo đường truy cầu Chân lý, tìm Đạo, con người phải dũng mãnh, nghị lực, quyết tâm san bằng mọi trở lực, chướng ngại ngoại lai để đạt cho kỳ được cứu cánh chân lý của mình. Dứt khoát không khoan nhượng. Nhưng... lại kỳ quặc hơn, có thứ quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định đập chết, thì liền có tiên này phật kia hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để rồi mang về thượng giới quản lý. Loại yêu này xét lý lịch đã rõ, vốn là các con thú con vật mà các vị ở cõi trời nuôi giữ, chẳng may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm tinh ma quái quỷ.[4] Có người xem phim hay đọc truyện Tây du, gặp những chỗ như vậy, liên hệ gần xa rồi nhếch miệng cười: Tưởng sao, cũng là một kiểu «xử lý nội bộ»! Loại yêu có «ô dù» cỡ bự như vừa nói, chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng đi là giết ta ư? Một hình ảnh hai cuộc đời Phật bảo: Hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nhìn lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông dao đẫm máu xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một hình ảnh hai cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Giê-xu mà ta cũng là Lu-xi-phe chúa quỷ. Ta là Thích ca, Lão tử mà ta cũng thừa sức bày trò ngạ quỷ, giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc, vừa có cả hỏa ngục, a tỳ. Trong cuộc chiến đấu để đạt tới Chân lý, con người có thể chuyển hóa cái ác thành cái thiện. Hôm trước còn là Hồng hài nhi hung tợn, khoái ăn thịt người thì hôm sau đã là Thiện tài Đồng tử trang nghiêm, cung kính hầu cận một bên Quan âm Bồ tát.[5] Bữa nọ còn làm yêu quái tụm bầy chận đường bắt người cướp của, ăn tươi nuốt sống, thì bữa nay đã thành voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ hiền và Văn thù Bồ tát nơi cõi phật [TDK VIII 1988: 173-174]. Văn Thù Phổ Hiền Tánh tham là xấu, nhưng thay vì tham cái vị kỷ đê hèn, biết tham làm cái vị tha ích quốc lợi dân, thì tham ấy Chúa, Phật cũng tham. Tánh sân giận đáng chê, nhưng thay vì cái giận khí huyết của lòng ty tiểu, biết giận cho cái bất bằng chính nghĩa, thì giận ấy Lão Đam, Khổng tử cũng xá dài bái phục. Phân biệt hai hạng yêu tinh nội tại và ngoại lai như thế, người đọc truyện Tây du thử gẫm lại vì sao luôn luôn khi Tề thiên gặp yêu quỷ đều tróc Sơn thần, Thổ địa để truy tầm ngọn nguồn, gốc tích con yêu ở đâu. Cho dù đang thua sức lũ yêu, mà một khi đã nắm chắc lý lịch của chúng rồi thì trăm lần đánh là trăm lần thắng. Chuyển bại thành thắng là sau khi đã điều tra, xác minh lý lịch xong xuôi. Sao lạ vậy? Cái xấu, cái ác vốn muôn đường nghìn lối, thiên hình vạn trạng. Con người phải biết nó từ đâu tới, do đâu mà ra. Như thầy thuốc giỏi, trị bịnh phải biết trị tận gốc chứ không trị ngọn. Tề thiên tróc Sơn thần và Thổ địa Đi tìm nghịch lý Tây du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lý, vô lý. Tại sao Tề thiên náo loạn thiên cung, cõi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát đảo với lũ yêu ma? Tề thiên không ngán Lão tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của Lão tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu? [TDK V 1988: 227-247; TDK VI 1988: 5-51] Tề thiên tuy có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng không phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi tìm phật, tiên, bồ tát cứu nạn. Bồ tát và phật tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo đức chơn chánh. Vậy, phải chăng lý trí tuy có khả năng xét suy phân biện phải trái rạch ròi, nhưng chưa đủ mạnh mẽ? Đối với tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có khi không bằng lý lẽ, hay sức mạnh, mà phải cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân. Còn với chính bản thân, có những cái xấu, cái ác mà lương tri, lương tâm đã tự biết là xấu, là ác, là không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại quá yếu đuối, thường không đủ sức cưỡng lại nổi những ham muốn mãnh liệt, đành buông xuôi. Khi đó, chỉ còn có nhân nghĩa đạo đức là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu víu để khỏi đắm chìm trước cơn phong ba bão táp của hải hà dục vọng. Phật tiên hay Thượng đế cõi trời còn là hình ảnh biểu tượng của chính đại quang minh, của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá, lọc lừa. Tề thiên vốn không từng lép vế với cõi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm hờn cùng lũ quỷ. Trong cuộc đấu tranh của con người với con người, từ nghìn xưa đến nay, soi gương kim cổ, phải chăng ai cũng thấy rằng ta không sợ đấu lý, đấu tranh với người biết điều, đại độ, chính trực, mà ta lại đều phải sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp hòi, ngu dốt, chấp nê. Hai mặt trận với hai đối thủ rõ ràng khác biệt! Đọc Tây du hóa ra không phải đọc Tây du, mà là đọc lại chính ta. Ngô Thừa Ân hóa ra không phải Ngô Thừa Ân mà là mật ngữ siêu thoát của Lão, Phật. Ngô là họ Ngô; Thừa là thừa hưởng, thọ nhận; Ân là ân sâu đức cả. Ai xưa kia đã thọ hưởng được cái học của thánh hiền mà giác ngộ, không nỡ đem giấu làm của báu tư riêng, nên lấy cuộc văn chương, mượn trò chữ nghĩa bày truyện Tây du? Thọ nhận ân Ai mà Ngô Thừa Ân muốn đáp tạ ân Ai? Kiếp tằm đem trả nợ dâu, Mượn lời huyễn tưởng diễn câu diệu huyền. Ngỡ rằng ma quái thần tiên, Nào hay rốt lại nhãn tiền chính ta. Cuộc chơi sực tỉnh giang hà, Mực đen giấy trắng gọi là nhân duyên. LÊ ANH DŨNG (26.8.1991 – 01.01.1995) [1] Ở đây, khi nói Tây du ký là truyện xuất thế gian, và câu chuyện xuất gia thỉnh kinh hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp, thì nên hiểu hai chữ xuất thế theo nghĩa là một phương diện trên con đường tu học để hành đạo độ đời. Xuất thế để mà có đủ bản lĩnh nhập thế, biết vượt lên cuộc đời dù vẫn lăn lóc giữa cuộc đời trần cấu. Pháp bảo đàn kinh chép lời Lục tổ Huệ Năng dạy rằng: «Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề, cáp như cầu thố giác.» Nghĩa là, phương pháp tu của Phật nhằm tìm sự giác ngộ ngay trong cõi đời; nếu như rời bỏ cuộc đời mà tìm cầu giác ngộ, việc ấy là ảo tưởng, ví như đi tìm sừng thỏ vốn là thứ không có thực trong đời. Đạo Lão và Cao Đài cùng bảo: «Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ.» (Muốn tu đạo giải thoát trước tiên hãy lo tròn đạo làm người. Không tròn đạo người thì đạo trời hãy còn xa xôi lắm.) [2]Xem Phụ lục 5: Nói chuyện Trư Bát giới. [3]Xem bài Ngọn gió trong lò. [4]Theo [TDK VII 1988: 98-139], đặc biệt có một con yêu rất lạ đời, nguyên là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh vàng của Phật Di lặc. Thích chơi trội hơn lũ yêu ma khác, y lẻn xuống trần mạo xưng là Hoàng mi Lão phật, lập chùa Lôi âm giả, cũng chiêu tập quỷ quái lớn nhỏ về giả làm la hán, kim cang, yết đế, bồ tát... để lừa Đường tăng vô chùa bái lạy thì bắt giữ. Đối với hành giả tu thiền, tình tiết này rất lý thú; nó cảnh giới người tu chân chính đừng nên vọng cầu phật ở ngoài thân. Trong lúc đang công phu hành thiền mà lỡ có thấy chư phật xuất hiện thì hãy coi chừng đó là ma cảnh ám chướng phá hoại chánh giác chánh định. Đó là lý do vì sao xưa kia có thiền sư đã nêu một phương châm thoạt nghe mà rởn mình: Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ (Phùng phật sát phật, phùng tổ sát tổ). Sa Tăng thể hiện cái "Ý" của mỗi con người, tại một thời điểm sẽ hành động theo "Ý" của mình, "Sa Tăng" còn ý nghĩa chính là "Satan" trong Kinh Thánh Do Thái, hàm ý ma quỷ cũng chính là từ cái "Ý" của con người mà ra, chứ làm quái gì có ma quỷ từ đâu mà tới, do các vị "thánh cha cố" này (dùng ngôn từ một cách phát chướng) bày trò chỉ ra chúng nó đang là!. Thường được gọi lả "trò chơi của con người" khi dùng "thương hiệu" của thế giới vô hình thành của mình: "Ta - đại diện Thượng Đế thứ nhất, thứ nhì...". Qua đó, chúng ta thấy tác giả (!- 1308) Tây Du Ký đã đọc Kinh Thánh rồi, đặc biệt trong truyện Tây Du Ký cũng nói về sự kiện chấn động thế giới thời bấy giờ khi Hồi giáo phá hủy toàn bộ các công trình kiến trúc, kinh sách tích lũy trong hàng nghìn năm và giết hại hầu hết sư sãi của học viện Nalanda nổi tiếng của Phật giáo tại Ấn Độ - nơi mà pháp sư Huyền Trang (602-664) đã từng tới tu học. Vậy thì, tác giả có lẽ đã "cố gắng" phải đọc cho được Kinh Koran và Kinh Thánh, để rồi chỉ lấy mỗi ý nghĩa của quỷ Satan đưa vào sách?. Di tích trường Nalanda. Ảnh: Nalanda University. Đại học Nalanda thành lập lần đầu tiên vào thế kỷ V và là trung tâm đào tạo Phật học mang tầm quốc tế lâu đời nhất thế giới. Nhà sư Đường Huyền Trang từng theo học tại đây trong 15 năm vào thế kỷ VII. Hành trình đi lấy kinh Phật của sư Huyền Trang sau đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết kinh điển Tây Du Ký, sau này được chuyển thể thành bộ phim cùng tên được trẻ em khắp thế giới yêu thích.Trường Nalanda bị đội quân Hồi giáo người Turk phá hủy và buộc phải ngưng hoạt động từ năm 1193. Pháp sư Huyền Trang
-
Đất đai nhà Tần phía nam đến miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc"? Dịch giả: Dong Yi Sử kí - Tần Thủy Hoàng bản kí có đoạn chép: 地東至海曁朝鮮,西至臨洮、羌中,南至北嚮戶 (Năm thứ hai mươi mưoi sáu - 221 TCN) Đất đai (của nhà Tần) chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc. (*) (*) Theo bản dịch Sử kí của Phan Ngọc kèm chú thích là "Tức là Nhật Nam (miền Quảng Nam). Ý nói miền phía nam mặt trời cố nhiên phải mở cửa về phía bắc mới có mặt trời". 【集解】吳都賦曰:「開北戶以向日。」劉逵曰:「日南之北戶,猶日北之南戶也。」 Bùi Nhân tập giải dẫn từ sách Ngô đô phú chép: "Mở cửa hướng bắc để hướng về mặt trời". Lại dẫn từ lời Lưu Qùy nói: "Ở phía nam mặt trời thì mở cửa quay mặt về hướng bắc, tựa như ở phía bắc mặt trời thì mở cửa quay mặt về hướng nam". Lại theo Nhan Sư Cổ chú giải quận Nhật Nam trong Hán thư - Địa lí chí rằng: 師古曰:「言其在日之南,所謂開北戶以向日者。」 Sư Cổ nói: "Nói là phía nam của mặt trời, cho nên nói là mởi cửa về hướng bắc để hướng về mặt trời". Lịch Đạo Nguyên trong Thủy kinh chú có dẫn Lâm Ấp kí chép: 區粟建八尺表,日影度南八寸,自此影以南,在日之南,故以名郡 Theo bài viết "Dùng thiên văn kiến giải các thuật ngữ Nam Giao, Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam" của Trương Thái Du cũng dẫn tương tự: Quận Nhật Nam tiếp nối Cửu Chân, vậy Nhật Nam có phải tương đương với Bán Cầu Nam trong thiên văn? Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: … 南至北乡户 (Nam chí bắc hương hộ). Tạm dịch: “(Đất đai nước Tần)… phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc”. (集解吴都赋曰:“开北户以向日”): Sách tập giải Ngô Đô Phú chú: “Khai bắc hộ dĩ hướng nhật – Mở cửa hướng bắc để đón ánh mặt trời." (刘逵曰:“日南之北户,犹日北之南户也”). Lưu Quỳ chú: "Nhật nam chi bắc hộ , do nhật bắc chi nam hộ dã - Phía nam mặt trời thì làm cửa quay mặt về hướng bắc, cũng như phía bắc mặt trời thì cửa nhà quay mặt về hướng nam vậy”. Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Nghĩa Nhật Nam với triều Tây Hán là khu vực nằm dưới Nam chí tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút), đi qua thành phố Rockhamton Bang Queensland Australia. Trong khi đó Nam Bán Cầu phải được tính từ vĩ độ 0 độ, từ mép phía nam của eo Malacca trở xuống. Xin lưu í, phần lớn đất nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử - con trời phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đã chế tạo được Hỗn Nghi, một bộ máy đo đạc thiên văn khá đơn giản nhưng thể hiện đầy đủ vòng tròn xích đạo, hoàng đạo (quĩ đạo biểu kiến của mặt trời trên thiên cầu). Về cơ bản đường xích đạo trên Hỗn Nghi và đường xích đạo của con người thế kỉ 21 tương đồng về bản chất. ________________________ Miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc" trong thực tế là quận Nhật Nam thời nhà Hán sau này, tương đương với miền Quảng Nam ở miền trung Việt Nam ngày nay. Nhưng thực tế đất đai nhà Tần đến đấy không? Để trả lời ta hãy xem ngữ cảnh của từ "cửa nhà quay mặt về hướng bắc". "Cửa nhà quay mặt về hướng bắc" - 北嚮戶 - bắc hướng hộ, câu này Tư Mã Thiên dùng thực ra là từ 北戶 - bắc hộ có từ trước đó. Trong 瑯邪臺刻石 - Lang Da đài khắc thạch. Lang Da đài khắc thạch là bia đá có khắc chữ tiểu triện. Năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), Thủy Hoàng nhà Tần đi tuần thú miền đông, đến núi Lang Da (tỉnh Sơn Đông ngày nay), sai Thừa tướng là Lí Tư khắc bia đá này để ca tụng công đức, lời văn có phóng đại. Trong đó đoạn văn như sau: 六合之內,皇帝之土。西涉流沙,南盡北戶。東有東海,北過大夏。人跡所至,無不臣者。 Lục hợp chi nội, hoàng đế chi thổ. Tây thiệp Lưu Sa, nam tận bắc hộ. Đông hữu đông hải, bắc quá Đại Hạ. Nhân tích sở chí, vô bất thần giả. Ở trong sáu cõi đều là đất của hoàng đế. Phía tây vượt bãi cát Lưu Sa, phía nam đến tận miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc. Phía đông có biển đông, phía bắc qua đất Đại Hạ. Nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục. Như vậy rõ ràng "bắc hộ" 北戶 "miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc" là một từ chỉ chung cho vùng đất ở phía nam mặt trời, nơi này nhà Tần chưa chắc đã áp đặt được sự thống trị của mình được. Có thể là bấy giờ danh tiếng nhà Tần đã truyền khắc bốn biển, những nước ở "miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc" nghe tiếng tăm mà đến quan hệ mà thôi, cho nên mới nói "nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục". Vả lại năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), nhà Tấn mới chỉ thống nhất được Trung Nguyên, phía nam tận cùng là nước Sở cũ, lấy dãy núi Ngũ Lĩnh làm ranh giới, nơi này không phải là nơi ở phía nam mặt trời. Sau đó đến năm thứ ba mươi ba (năm 214 TCN) nhà Tấn đánh lấy đất Dương Việt ở phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh đặt ra ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng, cũng chỉ đến khoảng bắc chí tuyến 23, nơi này mặt trời vẫn ở phía nam. KẾT LUẬN: Đất đai nhà Tần phía nam thực tế chưa đến miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc". Chỉ là "ảo vọng" về sự lớn mạnh của nhà Tần trong bia khắc đá ở núi Lang Da của Lí Tư, đến đời Hán thì Tư Mã Thiên lấy từ ấy mà chép vào Sử kí, đó là "nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục", trong đó có miền "cửa nhà quay mặt về hướng bắc"! Lâm Ấp kí: 區粟建八尺表,日影度南八寸,自此影以南,在日之南,故以名郡。望北辰星,落在天際,日在北,故開北戶以向日,此其大較也。 Khu Túc kiến bát xích biểu, nhật ảnh độ nam bát thốn, tự thử an ảnh dĩ nam, tại nhật chi nam, cố dĩ danh quận. Vọng bắc thần tinh, lạc tại thiên tế, nhật tại bắc, cố khai bắc hộ dĩ hướng nhật, thử kì đại giảo dã. (Ở thành Khu Túc [khoảng thành Huế ngày nay] dựng cây nêu cao tám thước, thấy bóng của của mặt trời lệch về phía nam tám tấc, từ bóng này về phía nam là miền phía nam của mặt trời, cho nên đặt tên quận [Nhật Nam]. Nhìn sao bắc thần [sao bắc cực] thấy ở thấp phía chân trời, mặt trời ở phía bắc, cho nên mở cửa về phía bắc để đón mặt trời, đấy đại khái như vậy.) ________________ Vậy quận Nhật Nam thời Hán về sau là miền đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, là "xứ phía nam của mặt trời" đã nói, dân ở đây thường làm nhà mở cửa về phía bắc để đón mặt trời. Thời Tần có thể các nhà buôn Trung Quốc đã đến "xứ phía nam của mặt trời" này, nhưng chưa lập thành quận, người thời Tần gọi nơi này là "bắc hộ" 北戶 - miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc để đón mặt trời. Sử kí - Tần Thủy Hoàng bản kỉ 二十五年,王翦遂定荊江南地;降越君,【正義】降,閑江反。楚威王已滅,其餘自稱君長,今降秦。置會稽郡。 Năm thứ hai mươi lăm [năm 222 TCN], Vương Tiễn rút cuộc bình đất phía nam sông Giang của nước Kinh; ép hàng vua nước Việt, Giáng, đọc là 'nhàn giang phiên'. Uy Vương nước Sở đã diệt [vua nước Việt], dòng dõi còn lại tự xưng quân trưởng, nay hàng nước Tần. đặt quận Cối Kê. 二十六年,分天下以為三十六郡,【集解】三十六郡者,三川、河東、南陽、南郡、九江、鄣郡、會稽、潁川、碭郡、泗水、薛郡、東郡、琅邪、齊郡、上谷、漁陽、右北平、遼西、遼東、代郡、鉅鹿、邯鄲、上黨、太原、雲中、九原、鴈門、上郡、隴西、北地、漢中、巴郡、蜀郡、黔中、長沙凡三十五,與內史為三十六郡。【正義】風俗通云:「周制天子方千里,分為百縣,縣有四郡,故左傳云上大夫受縣,下大夫受郡。秦始皇初置三十六郡以監縣也。」郡置守、尉、監。 Năm thứ hai mươi sáu [năm 221 TCN], chia thiên hạ lập thành ba mươi sáu quận, Tập giải: Ba mươi sáu quận ấy là: Tam Xuyên, Hà Đông, Nam Dương, Nam, Cửu Giang, Chương, Cối Kê, Dĩnh Xuyên, Đãng, Tứ Thủy, Tiết, Đông, Lang Da, Tề, Thượng Cốc, Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Liêu Tây, Liêu Đông, Đại, Cự Lộc, Hàm Đan, Thượng Đảng, Thái Nguyên, Vân Trung, Cửu Nguyên, Nhạn Môn, Thượng, Lũng Tây, Bắc Địa, Hán Trung, Ba, Thục, Kiềm Trung, Trường Sa, cả thảy là ba mươi lăm quận, cùng với quận Nội sử là ba mươi sáu quận. Chính nghĩa: Phong tục thông chép: "Theo phép tắc của nhà Chu, đất của thiên tử vuông một ngàn dặm, chia làm trăm huyện, mỗi huyện có bốn quận, cho nên Tả truyện chép quan Thượng đại phu thì nhận huyện, quan Hạ đại phu thì nhận quận. Thủy Hoàng nhà Tần mới đặt ba mươi sáu quận để coi xét huyện." mỗi quận đặt quan Thú, Úy, Giám. 二十八年,作琅邪臺,立石刻,頌秦德,明德意。 Năm thứ hai mươi tám [năm thứ 219 TCN], làm đài Lang Da, dựng bia đá khắc lời ca tụng đức của nhà Tần, nêu rõ đức. [維二十八年,皇帝作始。端平法度,萬物之紀。以明人事,合同父子。聖智仁義,顯白道理。東撫東土,以省卒士。事已大畢,乃臨于海。皇帝之功,勸勞本事。上農除末,黔首是富。普天之下,摶心揖志。器械一量,同書文字。日月所照,舟輿所載。皆終其命,莫不得意。應時動事,是維皇帝。匡飭異俗,陵水經地。憂恤黔首,朝夕不懈。除疑定法,咸知所辟。方伯分職,諸治經易。舉錯必當,莫不如畫。皇帝之明,臨察四方。尊卑貴賤,不踰次行。瑯邪不容,皆務貞良。細大盡力,莫敢怠荒。遠邇辟隱,專務肅莊。端直敦忠,事業有常。皇帝之德,存定四極。誅亂除害,興利致福。節事以時,諸產繁殖。黔首安寧,不用兵革。六親相保,終無寇賊。驩欣奉教,盡知法式。六合之內,皇帝之土。西涉流沙,南盡北戶。東有東海,北過大夏。人跡所至,無不臣者。功蓋五帝,澤及牛馬。莫不受德,各安其宇。 維秦王兼有天下,立名為皇帝,乃撫東土,至于瑯邪。列侯武城侯王離、列侯通武侯王賁、倫侯建成侯趙亥、倫侯昌武侯成、倫侯武信侯馮毋擇、丞相隗林、丞相王綰、卿李斯、卿王戊、五大夫趙嬰、五大夫楊樛從,與議於海上。曰:「古之帝者,地不過千里,諸侯各守其封域,或朝或否,相侵暴亂,殘伐不止,猶刻金石,以自為紀。古之五帝三王,知教不同,法度不明,假威鬼神,以欺遠方,實不稱名,故不久長。其身未歿,諸侯倍叛,法令不行。今皇帝并一海內,以為郡縣,天下和平。昭明宗廟,體道行德,尊號大成。群臣相與誦皇帝功德,刻于金石,以為表經。] 三十三年,發諸嘗逋亡人、贅婿、賈人略取陸梁地,為桂林、象郡、南海,以適遣戍。西北斥逐匈奴。自榆中并河以東,屬之陰山,以為四十四縣,城河上為塞。又使蒙恬渡河取高闕、陽山、北假中,筑亭障以逐戎人。徙謫,實之初縣。 Năm thứ ba mươi ba [năm thứ 214 TCN], phát những kẻ từng trốn tránh, ở rể, nhà buôn đi đánh lấy đất Lục Lương, đặt thành quận Quế Lâm, quận Tượng, quận Nam Hải, đem lính thú đến giữ. Phía tây bắc xua đuổi rợ Hung Nô, từ huyện Du Trung men theo sông Hà về phía đông liền với núi Âm, đặt thành bốn mươi mươi bốn huyện, đắp thành trên sông Hà làm lũy. Lại sai Mông Điềm qua sông Hà đánh lấy ải Cao, núi Dương, đất Bắc Giá, đắp đình lũy để đuổi người Nhung. Dời kẻ có tội đến ở các huyện mới. ________________________ Bản đồ ba mươi sáu quận thời Tần (năm 221 TCN) Bản đồ bốn mươi tám quận thời Tần (năm 214 TCN) [Theo 秦始皇三十六郡新考 (Biên khảo mới về ba mươi sáu quận thời Thủy Hoàng nhà Tần) của Tân Đức Dũng] Vấn đề đất đai phía Nam của nhà Tần đến đâu, có đúng là đến miền nhà cửa quay mặt về phía Bắc không ? thì phải xét đến vị trí Tượng quận. Vấn đề Tượng quận được bàn rất nhiều từ mấy ông Tây đến ông Tàu, qua ông Việt. Gần đây nhất Trần Việt Bắc cũng có bài phân tích khá chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn không thấu đáo. Ta có thể tìm hiểu rõ hơn vấn đề này qua nguyên nhân nhà Tần tấn công Bách Việt. Theo Hoài Nam Tử thì nhà Tần ham ngọc cơ, ngà voi, chim trả của đất Việt nên động binh. Có thể thấy rằng sau khi diệt nước Sở năm 223TCN, quân Tần thu được sản vật từ nước Sở và qua những nhà buôn nhà Tần biết phía Nam nước Sở có các sản vật này. Về ngọc trai thì quận Nam Hải mà cụ thể là vùng Hợp Phố sau này nổi tiếng với nghề nuôi và chế biến ngọc trai. Còn ngà voi ở đâu có nhiều ? Ở Quảng Tây cũng có, ở Bắc Việt cũng có Ở Vạn Tượng (Lào ngày nay) và miền Trung Việt Nam thì có nhiều hơn. Vùng đất mà nhà Tần gọi là Tượng quận tương đương với vùng này. Có lẽ việc đặt tên cho các quận mới này là dựa vào đặc điểm nổi bật của các vùng đất ấy và trước khi đưa quân xâm chiếm thì ở Trung ương, các bọn Như Lí Tư,... đã đặt tên sẵn cho các quận mới này rồi. Cho nên mặc dù không với tới được vùng đất có nhiều voi nhưng quận ấy vẫn có tên là Tượng quận và trong suy nghĩ của vua Tần cùng các quan ở Hàm Dương vẫn nghĩ rằng Tượng quận là vùng đất mà họ đã biết được, tức là nơi có nhà cửa quay mặt về phía Bắc chứ không hề biết rằng thực tế nó chie dừng lại ở Quảng Tây. Không phải các nhà sử học TQ nhầm lẫn mà họ nói như vậy là có ý đồ muốn tiếp tục thực hiện ước mơ còn dở dang của Tần Thủy Hoàng: Nơi nào có dấu chân của người TQ thì nơi đó là lãnh thổ của nhà Tần. Sử kí chép: "Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 bình xong Nam Việt chia làm chín quận". Hán thư chép rõ hơn chín quận ấy là: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Chu Nhai, Đam Nhĩ, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam". Nhưng mới đây suy nghĩ lại, chín quận ấy phải là: "Tượng, Linh Lăng, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam". Bởi những quận này đều là quận cũ của nhà Tần và được lập nên vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu. Còn quận Chu Nhai, quận Đạm Nhĩ lập nên vào năm Nguyên Phong thứ hai, có vẻ trước đó không thuộc nước Nam Việt. Nhà Hán dùng binh ba năm liền từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm Nguyên Phong thứ hai, từ Phiên Ngu về phía tây đến đất Thục lập nên 17 quận mới: Tượng, Linh Lăng, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Chu Nhai, Đam Nhĩ, Tường Kha, Ích Châu, Việt Tủy, Thẩm Lê, Vấn Sơn, Vũ Đô. Trước đó 17 quận này là quận cũ thời nhà Tần và đất của các nước Nam Việt, Tây Nam Di và ngoài đảo. Bác Tích Dã hiểu sai ý của tôi rồi. Tượng quận của nhà Tần là một quận có thật chứ không phải cái bánh vẽ, bàng cớ là Quận trị hẳn hoi là Lâm Trần và đến năm Nguyên Phượng thứ 5 được tách ra làm 2 phần để nhập vào 2 quận Quế Lâm và Tường Kha. Thế thì hà cớ gì Ban Cố phải chép Nhật Nam cố Tần Tượng quận.... Ban Cố chép như thế là có lý của ông, bởi trước đó Lí Tư khắc bia để ca tụng công đức của Tần Thủy Hoàng: "Ở trong sáu cõi đều là đất của hoàng đế. Phía tây vượt bãi cát Lưu Sa, phía nam đến tận miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc. Phía đông có biển đông, phía bắc qua đất Đại Hạ. Nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục." Đây là lời xác định cương vực, cũng là quan điểm của triều đình nhà Tần lúc bấy giờ. Sách Lâm Ấp kí có chép việc đo bóng mặt trời ở thành Khu Túc (Theo Đào Duy Anh thì thành Khu Túc nằm ở Sông Gianh, thuộc Hà Tĩnh ngày nay) thì thấy bóng mặt trời lệch về phía Nam tám tấc, chứng tỏ điều ấy là có thật. Ngày nay ta biết chính xác rằng vùng nằm phía Nam mặt trời phải nằm dưới Chí tuyến Nam, còn các vùng từ Chí tuyến Bắc đến Chí Tuyến Nam tùy theo từng mùa mà có lúc nằm phía Bắc hoặc phía Nam mặt trời. Nên nhớ rằng ở miền trung Việt Nam thì mùa đông ít khi có nắng, vì vậy việc đo bóng mặt trời chủ yếu thực hiện vào mùa hè. Vì vậy thấy bóng mặt trời lệch về phía Nam tám tấc là có thât. Kết luận: Sau khi diệt nước Sở năm 223TCN, thông qua những người đi buôn, nhà Tần biết được phía Nam nước Sở có nhiều ngọc trai, chim trả, ngà voi, và đặc biệt vùng đất phía Nam mặt trời có nhiều voi nên đã phát binh đánh chiếm (Theo quan điểm của nhà Tần bấy giờ các vùng đất này đã thuộc về nhà Tần vì có người Trung Quốc biết đến). Theo đặc điểm của các vùng đất ấy nhà Tần đặt tên ba quận đó là Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Nhưng khi tiến xuống đến phía Nam tỉnh quảng Tây ngày nay, đạo quân của Đồ Thư đại bại phải dừng lại để chờ quân tiếp viện. Gặp lúc Tần Thủy Hoàng mất công việc đánh chiếm phải dừng lại nên Tượng quận chỉ có vùng đất ở Quảng Tây còn phía Nam thì chưa chiếm được. Năm 179TCN, Triệu Đà thần phục được Âu Lạc chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân (Trên thực tế vẫn do người Việt quản lý, Âu Lạc chỉ thần phục thôi chứ không bị sáp nhập vào Nam Việt như mọi người vẫn nghĩ. Quận Quế Lâm mai đến năm 111TCN vẫn do người Việt cai quản nữa là). Sau khi diệt Nam Việt, nhà Hán lập thêm quận Nhật Nam (Lập khống theo sử sách nhà Tần, thực tế lúc bấy giờ cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đều do người bản dịa cai quản) Vậy nếu theo quan điểm của nhà Tần là nơi nào có dấu chân người TQ là nơi đó thuộc lãnh thổ nhà Tần thì quả thật phía Nam của nhà Tần đến vùng nhà cửa quay mặt về phía Bắc thật (Bởi bọn lái buôn người Sở - lúc này đã thành người Tần, đã đến vùng đất nhà cửa quay mặt về phía Bắc rồi)còn trên thực tế thì phía nam nhà Tần chỉ đến tỉnh Quảng Tây ngày nay thôi.
-
Sử ký - Hóa thực liệt truyện Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân Tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Đoan Hùng, Phan Quốc Sơn, Tích Dã chuyển ngữ chú giải Sách ẩn: Luận ngữ chép: "Tứ [1] không theo mệnh trời mà làm ra hóa thực." Quảng nhã chép: "Thực là lập nên." Khổng An Quốc chú giải Thượng thư nói: "Thực là làm ra. Làm ra của cải hàng hóa." Lão Tử nói: "Cách trị nước tốt nhất là người nước bên cạnh nhìn được nhau, nghe được tiếng gà chó của nhau, dân đều ngon miệng khi ăn đồ ăn của mình, thấy đẹp khi mặc cái áo của mình, quen thuộc theo lề thói của mình, vui vẻ làm cái nghề của mình, đến lúc già chết đi cũng không qua lại lẫn nhau." Nếu phải làm việc như vậy thì đến gần thời nay như bịt tai che mắt người dân, có lẽ không làm được vậy. Thái sử công nói: "Ta chẳng biết từ thời Thần Nông về trước. Đến như điều mà Thi-Thư chép về thời Ngu-Hạ về sau thì thấy tai mắt người dân muốn nghe tiếng nhạc nhìn sắc đẹp, miệng muốn nếm mùi thịt ngon, thân thì muốn nhàn rỗi, lòng thì muốn được cái lợi quyền thế nổi tiếng. Cái thói ấy ngấm vào người dân đã lâu rồi, dẫu đến từng nhà mà khuyên dụ thì cũng không đổi được. Cho nên cách tốt nhất là nhân theo cái thói ấy, thứ đến là dùng cái lợi để dẫn dắt người dân, thứ nữa là dạy dỗ người dân, thứ nữa là nắn sửa người dân, cách kém nhất là tranh lợi với người dân." Miền Sơn Tây [2] nhiều gỗ, tre, cây cốc, cây lô, Sách ẩn: Từ Quảng nói: "Cây lô là cây gai, dùng để dệt thành vải." Sách ẩn: Cốc là tên cây, vỏ dùng làm giấy. Cây lô là cây gai trên núi, dùng để dệt vải. lông bò, đá ngọc; miền Sơn Đông nhiều cá, muối, sơn, sợi tơ, con hát, gái đẹp; miền Giang Nam có cây nam, cây tử, cây gừng, cây quế, vàng, thiếc, quặng chì, đan sa, sừng tê, đồi mồi, ngọc trai, ngà voi; phía bắc núi Long Môn, núi Kiệt Thạch Chính nghĩa: Núi Long Môn tại huyện Long Môn châu Giáng. Núi Kiệt Thạch tại huyện Lư Long châu Bình. có nhiều ngựa, bò, dê, lông, gân, sừng bò; còn mỏ đồng, sắt thì có ở các quả núi trải dài ngàn dặm như quân cờ. Sách ẩn: Nói là như quân cờ trên bàn cờ, khắp nơi đều có. Chính nghĩa: Ý nói núi có đồng, sắt rộng ngàn dặm, sắp đặt như quân cờ vây. Quản Tử chép: "Trong thiên hạ có năm ngàn hai trăm bảy mươi quả núi lớn, có bốn trăm sáu mươi bảy quả núi có mỏ đồng, có ba ngàn sáu trăm lẻ chín quả núi có mỏ sắt. Trên núi có đất đỏ thì dưới núi có quặng sắt. Trên núi có chì thì dưới núi có bạc. Trên núi có bạc thì dưới núi có đất đỏ. Trên núi có đá từ thì dưới núi có vàng." Đại loại như vậy đó. Đấy đều là cái mà người dân Trung Quốc ưa thích, người đời dùng các đồ ấy để ăn, uống, mang, mặc, lo cuộc sống và lúc chết. Cho nên dựa vào người cày ruộng mà ăn lúa, người hái củi mà thổi lửa, người chài lưới mà ăn cá, người thợ nghề mà có đồ dùng, nhà buôn mà trao đổi hàng hóa. Đấy há phải dạy bảo mời gọi hẹn gặp sao? Người dân đều làm theo tài năng của mình, dốc hết sức của mình để làm được cái mà mình muốn. Cho nên hàng hóa rẻ thì đòi đắt, hàng hóa đắt thì đòi rẻ, đều gắng theo nghề của mình, vui làm việc của mình, như nước chảy về chỗ thấp, ngày đêm không ngừng nghỉ, không gọi mà tự đến, không tìm mà dân tự làm ra. Há chẳng phải là điều hợp với lẽ thường, kết quả vốn có hay sao? Chu thư chép: "Người cày ruộng không làm việc thì thiếu lúa ăn, người thợ nghề không làm việc thì thiếu đồ dùng, nhà buôn không làm việc thì hết hàng hóa, người hái cúi chài lưới không làm việc thì thiếu tiền của." Thiếu tiền của thì cái lợi của núi đầm không được dùng hết. Bốn cái ấy là cái nguồn cơm áo của người dân. Nguồn lớn thì nhiều, nguồn ít thì thiếu. Trên thì làm giàu cho nước, dưới thì làm giàu cho nhà. Cái lẽ giàu hay nghèo chẳng phải cho hay cướp mà có, mà là khôn khéo thì giàu có, vụng về thì không đủ. Cho nên Thái Công Vọng [3] được phong ở ấp Doanh Khâu là nơi đất ngập mặn, nguời dân ít, do đó Thái Công Vọng khuyến khích đàn bà làm việc, trổ hết khéo léo, trao đổi cá, muối; do đó người dân và hàng hóa đều đổ về đấy như xâu tiền quấn quanh trục xe. Cho nên người nước Tề làm ra dây, mũ, giày, áo cho thiên hạ, người miền Hải-Đại [4] thu góp của cải mà hướng về đấy. Sách ẩn: Ý nói nước Tề đã giàu có, cấp dải mũ cho thiên hạ, sự no đủ trùm cả nước khác, cho nên người miền Hải-Đại thu góp tiền của mà đến nước Tề, ý nói là ham lợi vậy. Sau đó nước Tề suy yếu, Quản Tử [5] sửa lại, đặt tiền của ở chín phủ, Chính nghĩa: Quản Tử chép: "Khinh trọng." là nói về tiền của. Cách trị dân có phép tắc trông coi tiền của. Nhà Chu có Đại phủ, Ngọc phủ, Nội phủ, Ngoại phủ, Tuyền phủ, Thiên phủ, Chức nội, Chức kim, Chức tệ, đều là quan lại trông coi tiền của, cho nên gọi là 'chín phủ'. do vậy Hoàn Công làm nên nghiệp bá, chín lần hội chư hầu, giúp đỡ thiên hạ; mà Quản Tử cũng có ấp Tam Quy, ngôi vị đến bậc bồi thần, [6]giàu có ngang với vua của các chư hầu. Cho nên nước Tề giàu mạnh ở thời Uy Vương, Tuyên Vương. Cho nên mới nói: "Kho lẫm đầy thì biết lễ tiết, cơm áo đủ mới biết nhục vinh." Lễ có ở lúc giàu mà bỏ ở lúc nghèo. Cho nên quân tử giàu thì ưa trổ ra cái đức của mình; tiểu nhân giàu thì làm vừa ý cái sức của mình. Ao sâu thì cá mới ở, núi cao thì thú mới tới, người giàu thì càng thêm nhân nghĩa. Người giàu thì quyền thế càng nổi lên, người thất thế thì khách không đến, cho nên không vui. Với người Di-Địch lại càng phải lắm. Người đời nói: "Đứa con nhà có ngàn vàng không chết ở chợ." Đấy chẳng phải là lời suông. Cho nên nói: "Thiên hạ ồn ào, đều vì lợi mà lại; thiên hạ rối rít, đều vì lợi mà đi." Bậc vương có ngàn cỗ xe, bậc hầu có vạn nhà, bậc quân có trăm nóc còn vẫn lo nghèo, nói chi đến người dân bình thường được chép tên trong sổ hộ đây! ... ________ Chú giải: [1] Tứ: tức Đoan Mộc Tứ, tên chữ là Tử Cống, người nước Vệ, một trong bảy mươi hai học trò giỏi của Khổng Tử. [2] Sơn Tây: tức miền phía tây núi Thái Hàng, đối với Sơn Đông. [3] Thái Công Vọng: tức Lữ Thượng, theo giúp nhà Chu hiệu là Thái Công Vọng, được phong ở ấp Doanh Khâu lập nên nước Tề. [4] Hải-Đại: miền giữa biển Bột và núi Đại. [5] Quản Tử: tức Quản Trọng, làm tướng quốc giúp Hoàn Công nước Tề làm nên nghiệp bá, có chép sách gọi là Quản Tử. [6] Bồi thần: bầy tôi của chư hầu. Quản Trọng là bầy tôi của Hoàn Công nước Tề. Hoàn Công lại là bầy tôi của vua nhà Chu. Sử kí Hóa thực liệt truyện Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân Tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Đoan Hùng, Phan Quốc Sơn, Tích Dã chuyển ngữ chú giải Ngày xưa vua nước Việt tên là Câu Tiễn bị vây khốn ở trên núi Cối Kê bèn dùng kế của Phạm Lãi, Kế Nhiên. Tập giải: Từ Quảng nói: "Kế Nhiên là thầy của Phạm Lãi, tên là Nghiên. Cho nên người đời nói: "Kế của Nghiên là kế tằm ăn dâu." Bùi Nhân xét: Phạm Tử chép: "Kế Nhiên là người miền sông Bộc ấp Qùy Khâu, họ Tân, tên chữ là Văn Tử, tổ tiên là con vua trốn tránh của nước Tấn, từng dạo chơi phía nam đến nước Việt. Phạm Lãi theo học Kế Nhiên." Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Kế Nhiên là thầy của Phạm Lãi." Sái Mô nói: "Có cuốn sách mà Lãi soạn tên là 'Kế nhiên'." Có lẽ không phải. Từ Quảng cũng cho là thầy của Phạm Lãi tên là Nghiên, cho nên nói: "Kế của Nghiên là kế tằm ăn dâu." Ngô Việt xuân thu chép là Kế Nghê. Kế Nhiên nói: "Biết sẽ đánh nhau thì sắm sửa trước, theo từng thời mà biết dùng cái gì. Hai điều này rõ thì xem xét mà biết được đồ dùng ra sao. Cho nên lúc sao tuế vào khoảng sao kim là sẽ được mùa; sao tuế vào khoảng sao thủy thì mất mùa; vào khoảng sao mộc thì đói kém; vào khoảng sao hỏa thì khô hạn. Lúc khô hạn thì sắm thuyền, lúc nước lụt thì sắm xe, Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Đại phu tên là Chủng nói: 'Nhà buôn lúc khô hạn thì sắm thuyền, lúc nước lụt thì sắm xe để đợi'." Đấy là cái lẽ của vạn vật. Sáu năm thì mất mùa một lần, sáu năm thì khô hạn một lần, mười hai năm thì đói kém một lần. Bán giá lúa hai mươi tiền thì người làm ruộng thiệt, bán giá lúa chín mươi tiền thì nhà buôn thiệt. Nhà buôn thiệt thì không đổi tiền, người làm ruộng thiệt thì không cày ruộng cắt cỏ nữa. Giá cao không quá chín mươi tiền, giá rẻ không dưới hai mươi tiền thì người làm ruộng và nhà buôn đều được lợi, giá lúa bình thường thì hàng hóa sẽ ngang bằng, chợ búa không thiếu đồ dùng, đấy là cái đạo trị nước vậy. Còn như thuật cất chứa hàng hóa thì chọn hàng hóa tốt, không cất chứa tiền. Sách ẩn: Cất chứa hàng hóa lâu ngày thì không được lợi. Dùng hàng hóa dễ trao đổi lẫn nhau, hàng hóa dễ mục nát và đồ ăn thì không nên cất giữ lâu, chớ nên dám bán giá đắt. Xét cái thừa và không đủ của hàng hóa thì biết được đắt hay rẻ. Nếu đắt quá thù phải hạ rẻ xuống, nếu rẻ quá thì lại nâng đắt lên. Bán đắt thì bán nhanh quét đất, mua rẻ thì mua lấy ngay như mua ngọc trai. Sách ẩn: Hàng hóa đắt quá thì tất rẻ xuống, rẻ quá thì tất đắt lên. Giá đắt thì bán ra như quét đất, sau khi đắt quá rồi thì sợ tất rẻ xuống, cho nhân lúc đó mà bán ra nhanh như quét đất. Còn giá rẻ thì mua nhanh như lấy ngọc trai là sau khi giá rẻ quá thì sợ tất lại đắt lên, cho nên lúc lúc ấy mà mua như mua ngọc trai. Đấy gọi là cách làm ra hàng hóa. Hàng hóa tiền của trao đổi phải như nước chảy." Làm theo cách ấy được mười năm, nước giàu, ban thưởng cho quân sĩ, quân sĩ dấn thân vào tên đạn như kẻ khát gặp nước, cuối cùng trả thù người Ngô mạnh, diễu binh ở Trung Quốc, xưng hiệu trong ngũ bá. [1] Phạm Lãi đã rửa được nỗi nhục thua trận ở núi Cối Kê, lại bùi ngùi mà than rằng: "Bảy kế của Kế Nhiên, người Việt chỉ dùng năm kế mà được ý. Đã dùng cho việc nước rồi, ta muốn dùng cho việc nhà." Bèn cưỡi thuyền dẹt Sách ẩn: Quốc ngữ chép: "Phạm Lãi cưỡi thuyền nhẹ." bơi vào sông hồ, Chính nghĩa: Quốc ngữ chép: "Câu Tiễn diệt nước Ngô, quay về đến hồ Ngũ, [2] Phạm Lãi từ biệt vua rằng: 'Nhà vua tha cho thần, thần không quay về nước nữa.' Bèn cưỡi thuyền nhẹ để bơi vào hồ Ngũ, chẳng ai biết kết cục ra sao." đổi tên thay họ, đến nước Tề lấy tên là Si Di Tử Bì, Sách ẩn: Đại Nhan nói: "Như cái bầu đựng rượu gọi là 'si di', dùng nó thì chứa được nhiều, không dùng thì cất mà mang theo cũng không sao cả." Xét: Hàn Tử chép: "Si Di Tử Bì giúp Điền Thành Tử, kịp lúc Điền Thành Tử bỏ nước Tề đến nước Yên thì Si Di Tử Bì cũng đi theo." Có lẽ đấy là Phạm Lãi. đến đất Đào làm Chu Công. Sách ẩn: Phục Kiền nói: "Đất Đào là huyện Định Đào ngày nay." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Là núi Đào, tại phía nam núi Đào phía đông huyện Bình Dương châu Tề ba mươi lăm dặm. Phía nam núi Đào năm dặm ngày nay vẫn còn gò của Chu Công." Lại chép: "Phía đông nam huyện Tế Dương châu Tào có gò của Đào Chu Công." Lại chép: "Tại phía tây huyện Hoa Dung quận Nam." Chưa rõ ra sao. Chu Công cho rằng đất Đào ở giữa thiên hạ, bốn bề thông với chư hầu, là nơi mà hàng hóa trao đổi, bèn làm ra của cải cất chứa hàng hóa. Tùy thời mà tìm lợi mà không đòi hỏi ở người khác. Vốn giỏi việc làm nên của cải, lại biết chọn người mà dùng theo từng thời, cho nên trong mười chín năm mà ba lần làm nên của cải đến ngàn vàng, lại phân chia cho người nghèo, bạn bè, anh em. Đấy gọi là giàu có thì ưa tỏ cái đức của mình vậy. Sau đó tuổi già thì trao nghề cho con cháu, con cháu theo nghề mà cất giữ của cải, rút cuộc có đến cự vạn tiền. Tập giải: Từ Quảng nói: "Cự là hàng vạn." Cho nên nói người giàu có đều khen Đào Chu Công. ... [www.sidneyluo.net] ______________ Chú giải: [1] Ngũ bá: năm vị bá thay nhà Chu hội chư hầu. [2] Hồ Ngũ: chỉ hồ Thái, hồ lớn ở nước Việt, nay là hồ Tây ở tỉnh Chiết Giang. Sử kí Hóa thực liệt truyện Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Đoan Hùng, Phan Quốc Sơn, Tích Dã chuyển ngữ Tích Dã chú giải Tử Cống đã học ở Trọng Ni, quay về làm quan ở nước Vệ, cất chứa bán hàng hóa ở vùng nước Tào, nước Lỗ. Trong bảy mươi học trò, Tứ là người giàu có nhất. Nguyên Hiến nghèo đến nỗi ăn bã hèm cũng không no, náu ở ngõ hẻm. Tử Cống ngồi xe có bốn con ngựa kéo, lấy tiền lụa để dâng tặng chư hầu, đến đâu thì vua nước đó không ai không chia phòng làm lễ ngang hàng. Khiến cho tiếng tăm của Khổng Tử truyền khắp thiên hạ, trước sau là do ở Tử Cống. Đấy gọi là người giàu có lại càng lẫy lừng chăng? Bạch Khuê là người nhà Chu. Vào thời Văn Hầu nước Ngụy, Lí Khắc chăm làm việc dùng hết cái lợi của đất, Sách ẩn: Xét: Hán thư thực hóa chí chép: "Lí Khôi vào thời Văn Hầu nước Ngụy bày cách dùng hết cái lợi của đất để làm cho nước giàu. Nay đây và Hán thư nói là Lí Khắc, đều sai. Biệt Lục của Lưu Hướng chép là Lí Khôi. còn Bạch Khuê lại thích xem thời biến theo cách người ta vất đi thì ta lấy lại, người ta lấy thì ta bán đi. Vào lúc lúa chín thì mua thóc, bán sơn, sợi tơ; vào lúc tằm nhả kén thì mua tơ lụa, bán thóc lúa. Vào lúc sao thái âm [1] ở khoảng sao mão là được mùa, năm sau sẽ mất mùa. Sao thái âm ở khoảng sao ngọ thì trời khô hạn, năm sau sẽ được mùa. Sao thái âm ở khoảng sao dậu thì được mùa, năm sau sẽ mất mùa. Sao thái âm chuyển đến sao tí thì khô hạn, năm sau sẽ được mùa, có nước lên. Vào lúc sao thái ẩm chuyển về sao mão, cất chứa hàng hóa nhiều hơn gấp bội năm ngoái, muốn lấy nhiều tiền thì mua thóc giá rẻ; muốn thóc chất đầy thạch, đấu thì mua lấy giống lúa tốt. Là người ăn uống dè sẻn, giảm ham muốn, bớt quần áo, cùng làm việc vui khổ với nô bộc, nếu gặp thời thì như thú dữ chim tợn vồ mồi. Từng nói: "Ta mua bán như mưu của Y Doãn, Lữ Thượng, như Tôn-Ngô [2] dùng binh, Thương Ưởng làm luật. Cho nên nếu có trí mà không biết xem thời biến, có dũng mà không biết quyết đoán đúng lúc, có nhân mà không biết cho nhận, có sức mà không biết giữ cái gì thì dẫu học thuật của ta thì ta không dạy cho." Có lẽ thiên hạ nói rằng cách mua bán có nguồn từ Bạch Khuê. Cái thuật của Bá Khuê đã dùng thử, dùng thử có chỗ được, không phải làm ẩu mà thành vậy. Y Đốn theo nghề làm muối mà nổi lên. Tập giải: Khổng Tùng Tử chép: "Y Đốn là kẻ sĩ khèo khó ở nước Lỗ. Cày ruộng thì thường đói, nuôi tằm thì thường rét. Nghe nói Đào Chu Công giàu, đến mà hỏi cách làm giàu. Chu Công bảo cho rằng: 'Ngài muốn giàu nhanh thì nuôi lục súc giống cái.' Do đó bèn đến miền Tây Hà, nuôi nhiều bò dê ở phía nam đất Y Thị, trong khoảng mười năm, cất chứa không biết bao nhiêu mà kể. Của cải ngang vương hầu, tiếng nổi thiên hạ. Vì làm giàu ở đất Y Thị, cho nên gọi là Y Đốn." Chính nghĩa: Xét: Y Thị là huyện Bồ Châu ngày nay. Đầm muối ở quận Hà Đông là muối cất. Trời mưa xuống thì muối mặn trong đầm đều tan, liền làm rãnh dẫn nước trong đầm vào trong ruộng, sâu khoảng một thước, đợi năm, sáu ngày nắng to thì thành muối, muối như đá phèn trắng, lớn nhỏ như song lục. Kịp chiều tối thì lấy muối. Lại có muối hoa, có tám, chín đầm muối ven sông Hoàng, mà ở châu Diêm có đầm đen, xuất ra muối ba màu, có muối giếng, muối ruộng, muối hoa. Trong đầm ấy đào giếng sâu đến một, hai thước, bỏ lớp đất bùn thì đến lớp muối, đào lấy lớp muối sâu đến một trượng, đến lớp đá bằng thì không còn muối nữa. Màu muối hoặc trắng hoặc xanh đen, gọi là muối giếng. Muối ruộng có ở quận Hà Đông. Muối hoa là muối ở trong đầm, khi mưa xuống, theo nước mưa mà thành hạt muối lớn nhỏ, hạt muối hạng thấp thì vuông nhỏ, hạt muối hạng cao thì hạt theo mước mưa vào giữa hồ, kết thành muối nổi lên như hình cái tháp, gọi là muối hoa, là lúc đã thành muối. Ở giữa đầm có giếng nước ngầm, nước có vị mặn, người ngựa làm giếng đều lấy muối ở giếng ấy. Muối lấy ở đấy, bốn phần thì thu vào phủ quan lại, một phần thì trăm họ thu lấy dùng. Trong đầm lại đào được tảng muối, rộng hơn một thước, cao hai thước, màu trắng trong sáng lóng lánh, hằng năm cống nạp. Còn có người quận Hàm Đan tên là Quách Túng làm nghề rèn sắt mà thành nghiệp, giàu có ngang với vương hầu. Người huyện Ô Thị tên là Lỏa chăn nuôi, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Ô Thị là tên huyện, thuộc quận An Định. Lỏa là tên người." Chính nghĩa: Hán thư chép là 'Lỏa'. Ô Thị là họ. Thị, đọc là 'chi'. Lỏa, đọc là 'lỗ khả phiên'. Chính nghĩa: Tên huyện, thành cũ tại phía đông huyện An Định châu Kính bốn mươi dặm. Lả là tên người. kịp lúc nhiều, đem bán, rồi mua vải lụa, đem dâng tặng vua người Nhung. Vua người Nhung liền thưởng cho gấp bội, ban cho gia súc, gia súc nhiều đến nỗi phải dùng hang núi mà đếm bò, ngựa. Tập giải: Lùa vào đầy hang núi thì đủ không cần đếm nữa." Thủy Hoàng Đế nhà Tần sai phong tước cho Lỏa, hẹn lúc cùng bầy tôi vào chầu gặp. Lại có người đàn bá góa người đất Ba-Thục tên là Thanh, tổ tiên có được hang đan sa, Tập giải: Từ Quảng nói: "Huyền Bồi Lăng có đan sa." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi đài của người đàn bà góa tên là Thanh, thường gọi là núi Trinh Nữ, tại phía đông bắc huyện Vĩnh An châu Bồi bảy mươi dặm." liền nắm lấy mối lợi ấy đến mấy đời, tiền của cũng không kể hết. Chính nghĩa: Nói là tiền của đầy nhiều, không kể hết được. Có người nói là Thanh đem nhiều tiền của ban tặng khắp nơi để giữ lấy cơ nghiệp, cho nên tiền của cũng không cất giữ nhiều. Thanh là người đàn bà góa mà giữ được nghề của mình, không bị xâm phạm. Thủy Hoàng nhà Tần cho là người đàn bà giữ trinh tiết mà đối đãi làm khách, vì Thanh mà đựng đài Nữ Hoài Thanh. Lỏa là kẻ chăn nuôi quê kệch, Thanh là người đàn bà góa làng hẻm, thế mà được dùng lễ ngang với chư hầu có vạn cỗ xe, tiếng lừng thiên hạ, há chẳng phải vì giàu có sao? ... [www.sidneyluo.net] ______________________ Chú giải: [1] Sao thái âm: còn gọi là sao thái tuế. [2] Tôn-Ngô: chỉ Tôn Vũ và Ngô Khởi, đều là tướng giỏi thời Xuân thu. Nhà Hán nổi lên, trong nước hợp làm một, mở cửa ải, nới lỏng lệnh cấm tìm kiếm mối lợi của núi đầm, cho nên nhà buôn giàu kẻ bán lớn đi khắp thiên hạ. Hàng hóa được trao đổi, không gì là không có, được cái mà mình muốn, lại dời những chư hầu, nhà giàu, hào kiệt đến ở kinh sư. Miền Quan Trung [1] từ huyện Khiên, huyện Ung về phía đông đến sông Hà, núi Hoa có đồng lầy tốt dài ngàn dặm, từ thời Ngu-Hạ đặt cống nạp đã xem là ruộng hạng đầu. Kịp lúc Công Lưu đến đất Phân, Đại Vương, Vương Qúy ở tại dưới núi Kì, Văn Vương dựng ấp Phong, Vũ Vương đắp ấp Hạo, cho nên dân ở đấy dẫn có cái thói cũ của các vị vua thời trước, ưa thóc lúa, trồng ngũ cốc, coi trọng ruộng đất, ghét gian dối. Chính nghĩa: Ý nói miền Quan Trung đất đai tốt đẹp, dân cũng tốt, khó làm việc gian dối. Đến thời vua Văn, Hiếu, Mâu nước Tần đóng đô ở đất Ung, là chỗ cửa ngõ, có nhiều hàng hóa của miền Lũng-Thục, cho nên có nhiều nhà buôn. Hiến Công dời đô đến ấp Lịch, Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại quận Phùng Dực.", phía bắc ấp Lịch kề rợ Nhung-Địch, phía đông thông miền Tam Tấn, [2] cũng có nhiều nhà buôn lớn. Chiêu Vương đóng đô ở thành Hàm Dương, nhà Hán nhân đó làm kinh đô, các vùng lăng quanh thành Tràng An [3]và bốn miền đều đổ đến mà tụ tội, đất chật người đông, cho nên người dân càng khôn khéo theo nghề buôn bán. Phía nam nối liền đất Ba-Thục. Đất Ba-Thục cũng là nơi đồng lầy, ruộng tươi tốt, có các loại cây gừng, đan sa, đá, đồng, sắt, tre, gỗ. Phía nam kề rợ Điền-Bặc, rợ Bặc bán nô bộc. Phía tây gần rợ Cung-Tạc, rợ Tạc có ngựa, bò lông dài. Nhưng bốn về hiểm trở, phải làm đường sàn [4] dài ngàn dặm, nhưng không có chỗ nào là không qua lại, riêng cửa đường Bao Tà chật hẹp chỉ vừa xe đi, đem nhiều đồ dùng đến chỉ đổi được lấy được ít đồ dùng. Thói tục người dân các quận Thiên Thủy, Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng giống với miền Quan Trung, nhưng phía tây có mối lợi của miền Khương Trung, [5] phía bắc có gia súc của rợ Nhung-Địch, làm nghề chăn nuôi mà giàu có trong thiên hạ. Nhưng đất cũng xa hiểm, chỉ có đường đến kinh sư. Cho nên đất miền Quan Trung chiếm tới một phần ba đất thiên hạ. mà người dân không quá ba phần mười, nhưng nói về sự giàu có thì chiếm tới sáu phần mười rồi. ... [www.sidneyluo.net] _______________ Chú giải: [1] Quan Trung: miền trong cửa Hàm Cốc, là nước Tần thời xưa, phía đông cửa Hàm Cốc là miền Quan Đông. [2] Tam Tấn: chỉ ba nước Hàn, Triệu, Ngụy thuộc nước Tấn xưa. [3] Vùng lăng quanh thành Tràng An: chỉ vùng đất có lăng mộ của các vị vua ở ngoài thành Tràng An. [4] Đường sàn: làm bằng tre gỗ treo trên sườn núi hiểm trở ở đất Ba-Thục. [5] Khương Trung: chỉ miền đất của người Khương. Sử kí Hóa thực liệt truyện Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Đoan Hùng, Phan Quốc Sơn, Tích Dã chuyển ngữ Tích Dã chú giải Ngày xưa người nhà Đường đóng đô ở quận Hà Đông, Tập giải: Từ Quảng nói: "Vua Nghiêu đóng đô ở huyện Tấn Dương." người nhà Ân đóng đô ở quận Hà Nội, Chính nghĩa: Bàn Canh đóng đô ở đất Ân, đất này thuộc quận Hà Nội. người nhà Chu đóng đô ở quận Hà Nam. Chính nghĩa: Nhà Chu từ thời Bình Vương về sau đóng đô ở thành Lạc Dương. Ba quận 'Hà' ở giữa của thiên hạ như chân vạc, là nơi mà các vị vua thời xưa ở, dựng nước đều dài đến mấy trăm, ngàn năm, đất đai nhỏ hẹp, người dân đông, là kinh đô mà chư hầu tụ họp, cho nên người dân có thói tiết kiệm, hiểu việc. Người ấp Dương, ấp Bình Dương phía tây buôn bán với người các nước Tần, người Địch, Dương, Bình Dương là tên hai ấp, tại phía tây của nước Triệu. Nói là người của hai ấp đều sang phía tây mua bán với người nước Tần, người Địch. Chính nghĩa: Người nước Tần ở trong cửa ải. Người Địch là các bộ lạc ở các châu Thấp, Thạch ngày nay. Ba châu Diên, Tuy, Ngân đều là chỗ mà người Bạch Địch ở. phía bắc mua bán với người ấp Chủng, ấp Đại. Chính nghĩa: Ấp Chủng tại phía bắc huyện Thạch Ấp châu Hằng, có lẽ là châu Uất ngày nay. Ấp Đại là châu Đại ngày nay.. Ấp Chủng, ấp Đại ở phía bắc huyện Thạch, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là huyện Thạch Ấp, thuộc quận Thường Sơn.", ấp này kề rợ Hồ, nhiều lần bị cướp, người dân có thói hăng hái, cứng cỏi, làm việc hào hiệp, không làm nghề cày ruộng, buôn bán; nhưng phía bắc kề rợ miền bắc, quân lữ thường qua, hàng hóa từ Trung Quốc chuyển đến, cho nên cũng có dư thừa. Dân ở đây hung hăng không thuần. Từ thời nước Tấn còn trọn vẹn [1] vốn đã lo sự hung hăng ấy, cái thói ấy đến thời Vũ Linh Vương lại càng hơn, nhưng người dân vẫn có cái tính nết của người nước Triệu. Cho nên người ấp Dương, ấp Bình Dương đến buôn bán ở đấy, có được hàng hóa mà mình muốn. Người huyện Ôn, huyện Chỉ phía tây buôn bán với người quận Thượng Đảng, phía bắc buôn bán với người nước Triệu, nước Trung Sơn. Nước Trung Sơn đất cằn dân đông, vẫn có dân còn sót lại từ thời vua Trụ dâm loạn ở ấp Sa Khâu, Chính nghĩa: Ấp Sa Khâu tại châu Hình. người dân có thói sốt sắng, làm ăn rình chờ chộp lợi. Đàn ông thì tụ nhau chơi bời, ca hát rầu rĩ, ngày thì theo nhau giết cướp, Sách ẩn: Giết cướp là đánh giết người mà cướp lấy của cải. đêm thì đi làm việc xấu đào mộ lấy đồ. Có nhiều con trai đẹp làm con hát. Con gái thì gảy đàn, đánh trống, đi giày đến chơi lả lơi ở nhà người giàu có, có nhiều người được chọn vào hậu cung của các chư hầu. Nhưng thành Hàm Đan cũng là một nơi đô hội ở giữa vùng sông Chương, sông Hà. Phía bắc thông nước Yên, quận Trác, phía nam liền nước Trịnh, nước Vệ. Tính nết người nước Trịnh, nước Vệ giống với người nước Triệu, nhưng gần nước Lương, nước Lỗ cho nên tính cẩn thận lại trộng lễ tiết. Người miền phía trên sông Bộc dời đến ở huyện Dã Vương, Tập giải: Từ Quảng nói: "Vua nước Vệ tên là Giác dời đến ở huyện Dã Vương." Chính nghĩa: Quân Tần đánh lấy đất Bộc Dương của nước Vệ, dời vua nước Vệ đến ở huyện Dã Vương châu Hoài ngày nay. Người huyện Dã Vương hăng hái hào hiệp, có tính nết của người nước Vệ. Nước Yên cũng là một nơi đô hội ở giữa biển Bột, núi Kiệt. Chính nghĩa: Biển Bột, núi Kiệt Thạch tại phía tây bắc. Phía nam thông nước Tề, nước Triệu; phía đông bắc kề rợ Hồ. Từ quận Thượng Cốc đến quận Liêu Đông là đất xa xôi, người dân ít, nhiều lần bị cướp, tính nết đại khái giống với người nước Triệu, đất Đại, nhưng tính nết người dân hăng hái mà không nghĩ kĩ. Sách ẩn: Ý nói tính hung hăng như chim điêu. Có nhiều cá, muối, cây táo, cây dẻ. Phía bắc kề người Ô Hoàn, Phù Dư; phía đông nối liền mối lợi của rợ Uế, Mạch, nước Triều Tiên, nước Chân Phiên. Người thành Lạc Dương phía đông buôn bán với người nước Tề, nước Lỗ; phía nam buôn bán với người nước Lương, nước Sở. Ngày xưa, phía nam núi Thái là nước Lỗ, phía bắc núi Thái là nước Tề. ... [www.sidneyluo.net] _____________ Chú giải: [1] Nước Tấn còn trọn vẹn: nước Tấn ngày trước chưa chia làm ba nước Hàn, Triệu, Ngụy. Nước Tề liền núi biển, Tập giải: Từ Quảng nói: "Tề thế gia chép: 'Nước Tề từ núi Thái liền đến núi Lang Da, phía bắc liền với biển, đất tốt trải hai ngàn dặm, người dân có tính rộng rãi mà chất chứa sự khôn khéo'." đất tốt rộng ngàn dặm, hợp với cây dâu, cây gai, người dân làm ra nhiều tơ lụa thiêu, cá, muối. Thành Lâm Truy cũng là một nơi đô hội ở giữa miền Hải-Đại. Người dân có thói rộng rãi khoan dung mà nhiều trí, ưa biện luận, coi trọng ruộng đất, khó bị lay chuyển, sợ đánh ở chỗ đông người nhưng liều ở lúc đâm lén, cho nên có nhiều lần cướp đoạt kẻ khác, có tính nết của nước lớn. Trong nước đủ cả năm thứ dân. Tập giải: Phục Kiền nói: "Là kẻ sĩ, người làm ruộng, nhà buôn, thợ nghề, kẻ bán hàng." Còn nước Trâu, nước Lỗ gần sông Thù, sông Tứ, người dân vẫn có cái thói truyền lại của Chu Công, tính ưa đạo Nho, coi trọng lễ tiết, cho nên người dân cẩn thận, cũng có nghề trồng dâu, gai, không có nhiều rừng, đầm. Đất nhỏ người đông, tính dè sẻn, sợ phạm tội mà tránh làm việc xấu, ưa buôn bán kiếm lời hơn cả người nhà Chu. Từ kênh Hồng về phía đông, Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại huyện Huỳnh Dương." từ núi Mang, núi Đãng về phía bắc, Tập giải: Từ Quảng nói: "Nay là huyện Lâm Hoài." liền với đầm Cự Dã, Chính nghĩa: Thuộc huyện Cự Dã châu Vận, là đầm Cự Dã. đấy là nước Lương, nước Tống. Đất Đào, đất Tuy Dương cũng là một nơi đô hội. Tập giải: Từ Quảng nói: "Đất Đào là huyện Định Đào ngày nay." Ngày xưa vua Nghiêu nổi lên ở ấp Thành Dương, vua Thuấn câu cá ở đầm Lôi, Chính nghĩa: Đầm này tại phía tây bắc huyện Lôi Trạch. vua Thang đóng đô ở ấp Bạc. Người dân ở đấy vẫn có thói truyền lại của các vị vua thời trước, tính nồng hậu, có nhiều bậc quân tử, ưa làm ruộng, dù không có nhiều mối lợi của sông núi, nhưng biết giảm ăn mặc để cất chứa của cải. Đất Sở-Việt thì có ba miền. Chính nghĩa: Người Việt diệt nước Ngô thì có miền Giang-Hoài về phía bắc, người Sở diệt nước Việt lại có đất Ngô-Việt, cho nên nói là Sở-Việt. Từ phía bắc sông Hoài đến đất Bái, đất Trần, quận Nhữ Nam, quận Nam là miền Tây Sở. Chính nghĩa: Đất Bái là huyện Bái châu Từ. Đất Trần là châu Trần ngày nay. Quận Nhữ Nam là châu Nhữ ngày nay. Quận Nam là châu Kinh ngày nay. Ý nói từ đất Bái về phía tây đến châu Kinh đều là đất Tây Sở. Tính người dân mạnh mẽ, dễ phát giận, đất cằn, ít có cất chứa. Huyện Giang Lăng là thành Dĩnh ngày trước Chính nghĩa: Huyện Giang Lăng châu Kinh ngày trước là thành Dĩnh, kinh đô của nước Sở. Phía tây thông với quận Vu, quận Ba, Chính nghĩa: Quận Vu, quận Ba tại phía tây huyện Giang Lăng., phía đông có cái lợi của đầm Vân Mộng. Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại huyện Hoa Dung." Đất Trần tại giữa nước Sở, nước Hạ, Chính nghĩa: Nhà Hạ đóng đô ở ấp Dương Thành. Nói phía nam đất Trần là nước Sở, phía tây và phía bắc nước Trần là đất người Hạ, cho nên nói là 'ở giữa nước Sở, nước Hạ'." trao đổi các loại cá, muối, có nhiều người dân làm nghề buôn bán. Người huyện Từ, huyện Đồng, huyện Thủ Lư Tập giải: Từ Quảng nói: "Đều tại quận Hạ Bi." Chính nghĩa: Huyện Từ là thành Từ, là nước Từ ngày xưa. thì ngay thẳng, giữ ý mình. Từ huyện Bành Thành về phía đông đến quận Đông Hải, quận Ngô, quận Quảng Lăng là đất Đông Sở. Chính nghĩa: Bành Thành huyện trị của châu Từ. Quận Đông Hải là châu Hải ngày nay. Quận Ngô là châu Tô. Quận Quảng Lăng là châu Dương. Nói là từ huyện Bành Thành châu Từ qua châu Dương đến châu Tô đều là đất Đông Sở. Người dân có thói như người huyện Từ, huyện Đồng. Người từ huyện Cù, huyện Tăng về phía bắc thì có thói giống người nước Tề. Chính nghĩa: Cù, đọc là 'kì cụ phiên'. Huyện Cù tại châu Hải. Huyện Tăng cũ tại huyện Thừa châu Nghi. Nói là từ hai huyện này lên phía bắc, tính nết giống với người nước Tề. Phía nam sông Chiết là nước Việt. Nước Ngô từ thời ba người Hạp Lư, Xuân Thân Quân, Vương Tị [1] mời gọi những người ưa dạo chơi trong thiên hạ đến nay, phía đông có cái lợi của muối biển, cái lợi của mỏ đồng ở núi Chương, cái lợi của ba con sông, năm cái, [2] cũng là một nơi đô hội ở miền phía đông sông Giang. Các quận Hành Sơn, Tập giải: Từ Quảng nói: "Trị ở huyện Chu. Huyện Chu thuộc quận Giang Hạ. Chính nghĩa: Thành huyện Chu cũ tại phía đông nam châu Đàm hai mươi dặm., quận Cửu Giang, Chính nghĩa: Quận Cửu Giang trị ở huyện Âm Lăng. Thành huyện Âm Lăng cũ tại phía tây huyện Định Viễn châu Hào sáu mươi lăm dặm. đất Giang Nam, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là quận mà Cao Đế đặt. Đất Giang Nam là quận Đan Dương. Nhà Tần đặt làm quận Chương, thời Vũ Đế đổi tên là Đan Dương." Chính nghĩa: Xét: Từ Quảng nói sai. Nhà Tần đặt quận Chương tại phía tây nam huyện Trường Thành châu Hồ tám mươi dặm, là thành cũ của quận Chương. Nhà Hán đổi tên thành quận Đan Dương, dời quận này trị huyện Uyển Lăng, là đất châu Tuyên ngày nay. Phía trên nói nước Ngô có đồng ở núi Chương, đó là đất của miền Đông Sở. Đây nói phía nam sông Giang là hai quận Dự Chương, Trường Sa, là đất của miền Nam Sở. Từ Quảng, Bùi Nhân cho rằng quận Giang Nam, quận Đan Dương thuộc miền Nam Sở là rất lầm vậy. quận Dự Chương, quận Trường Sa, Chính nghĩa: Thập tam châu chí chép: "Có bãi cát dài vạn dặm, lại phía tây từ châu Tương đến quận Đông Lai dài vạn dặm, cho nên gọi là Trường Sa." Phía nam sông Hoài là hai quận Hành Sơn, Cửu Giang và phía nam sông Giang là hai quận Dự Chương, Trường Sa đều là đất Nam Sở. là miền Nam Sở. Tính nết người dân phần lớn giống người miền Tây Sở. Sau khi dời đô từ thành Dĩnh đến thành Thọ Xuân, Chính nghĩa: Năm thứ hai mươi hai, Khảo Liệt Vương nước Sở từ đất Trần dời đô đến ở thành Thọ Xuân, cũng gọi là thành Dĩnh, cho nên nói 'từ thành Dĩnh đến thành Thọ Xuân'. cũng là một nơi đô hội. Mà huyện Hợp Phì hai phía nam, bắc kề sông. Chính nghĩa: Châu Lư trị ở huyện Hợp Phì. Nói là nước từ sông Giang, sông Hoài từ hai miền nam, bắc đều đổ về châu Lư. là nơi tụ góp da thú, cá ướp, gỗ. Người dân có tính nết xen lẫn với người đất Mân Trung, Vu Việt. [3] Cho nên người miền Nam Sở ưa biện luận, khéo nói mà kém tín. Miền phía nam sông Giang ẩm ướt, đàn ông chết sớm. Có nhiều tre, gỗ. Quận Dự Chương có vàng ròng; Tập giải: Từ Quảng nói: "Có ở huyện Bà Dương." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Tầm Dương châu Giang có núi Hoàng Kim, núi này có mỏ vàng." quận Trường Sa có quặng chì, thiếc, nhưng những thứ này có ít ỏi, thu lấy không đủ để bù phí tổn. Từ núi Cửu Nghi, quận Thương Ngô về phía nam đến quận Đam Nhĩ, Chính nghĩa: Châu Đam ngày nay ở giữa biển. Miền nam châu Quảng cách kinh sư hơn bảy ngàn dặm. Nói là từ miền Lĩnh Nam đến đất Đam Nhĩ, thói dân giống với miền phía nam sông Giang, lại ở phía nam của châu Dương, có nhiều người Việt. tính nết người dân giống với phía nam sông Giang, mà có nhiều người Dương Việt. Thành Phiên Ngu cũng là một nơi đô hội, Chính nghĩa: Đọc hai âm là Phiên Ngu, Phan Ngu. Thuộc châu Quảng ngày nay. là nơi thu góp ngọc trai, sừng tê, đồi mồi, trái cây, vải. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Trái cây là long nhãn, li chi. [4] Vải là vải sắn." Quận Dĩnh Xuyên, quận Nam Dương là chỗ của người nhà Hạ. Từ Quảng nói: Vua Vũ ở tại huyện Dương Trạch." Chính nghĩa: Vua Vũ ở tại huyện Dương Thành. Quận Dĩnh Xuyên, quận Nam Dương đều là đất của nhà Hạ. Người nhà Hạ trung hậu thật thà, vẫn có cái thói truyền lại của các vị vua thời trước. Người quận Dĩnh Xuyên hiền hòa. Cuối thời nhà Tần, dời dân không theo phép tắc đến ở quận Nam Dương. Quận Nam Dương phía tây thông cửa Vũ, cửa Vân. Chính nghĩa: Cửa Vũ tại châu Thương. Địa lí chí chép: "Huyện Uyển phía tây thông cửa Vũ." Không nói có cửa Vân. Có lẽ cửa Vân phải là sông Tuân. Phía trên sông Tuân có cửa ải, tại huyện Tuân Dương châu Kim. Phía đông nam kề sông Hán, sông Giang, sông Hoài. Huyện Uyển cũng là một nơi đô hội. Thói dân lẫn lộn, ưa việc. Phần nhiều làm nghề buôn bán, làm việc hào hiệp qua lại với người quận Dĩnh Xuyên, cho nên đến nay gọi họ là người nhà Hạ. Hàng hóa trong thiên hạ có chỗ ít có chỗ nhiều, thói quen của người dân cũng khác nhau, người miền Sơn Đông ăn muối biển, người miền Sơn Tây ăn muối mỏ, Chính nghĩa: Nói là miền tây có đất mặn, cứng lại mặn, là có muối đá và muối đầm. miền Lĩnh Nam, Sa Bắc Chính nghĩa: Nói là phía bắc sông Hán. cũng là chỗ nơi nơi đều có muối. Đại khái là như vậy. Tóm lại, ở đất Sở-Việt, đất rộng người thưa, ăn lúa nước, canh cá, có chỗ đốt lửa trên ruộng, [5] có chỗ dẫn nước vào ruộng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Để diệt cỏ vậy.". Chính nghĩa: Cỏ dại là loài mọc thấp. Cây lúa mọc cao mà cây cỏ mọc thấp, dẫn nước vào ruộng thì cây cỏ chết mà cây lúa không tổn hại. mò bắt ốc, hến, không đợi buôn bán mà đủ ăn, Chính nghĩa: Ý nói miền Sở-Việt có nhiều đồ ăn, không phải mua bán mà tự đủ, không có nỗi lo đói kém. không có lo đói kém, cho nên người dân dặt dẹo uể oải, Chính nghĩa: Xét: Người dân ăn các loại ốc, hến, cho nên phần nhiều gầy yếu mà mang bệnh. Hoài Nam Tử chép: "Ngày xưa người dân các loại ốc, bọ, phần nhiều bị độc hại." không cất chứa cho nên phần nhiều là nhà nghèo. Chính nghĩa: Ý nói người miền Giang-Hoài về phía nam có nhiều cái lợi của sông nước, người dân phần nhiều ăn từ đấy, sớm tối lấy ăn để sống qua ngày mà thôi, không lo cất chứa, cho nên phần lớn là nhà nghèo. Cho nên từ miền Giang-Hoài về phía nam không có người đói rét, cũng không có nhà giàu có ngàn vàng. Từ sông Nghi, sông Tứ về phía bắc hợp với ngũ cốc, [6] cây dâu, cây gai, lục súc, [7] đất hẹp người đông, nhiều phen bị cái hại nước lụt, khô hạn, cho nên người dân ưa cất chứa. Cho nên người các nước Tần, Hạ, Lương, Lỗ ưa làm ruộng mà coi trọng người làm ruộng. Người ở ba quận 'Hà', huyện Uyển, đất Trần cũng vậy, lại làm thêm nghề buôn bán. Người các nước Tề, Triệu thì ưa khôn khéo, ham tìm mối lợi. Người nước Yên, Đại thì vừa làm ruộng vừa chăn nuôi lại nuôi tằm. ... [www.sidneyluo.net] ____________________ Chú giải: [1] Vương Tị: chỉ Ngô Vương tên là Lưu Tị. [2] Ba con sông, năm cái hồ: chỉ nhiều sông hồ ở miền Đông Sở, là đất Ngô-Việt ngày trước. [3] Vu Việt: còn gọi là người Âu Việt ở phía nam sông Chiết, thời Hán là nước Đông Âu. [4] Li chi: còn gọi là lệ chi, quả vải. [5] Đốt lửa trên ruộng: đốt lửa trên ruộng để diệt cỏ. [6] Ngũ cốc: năm loại cây lương thực là như các loại lúa, đậu. [7] Lục súc: sáu loài vật nuôi là bò, dê, ngựa, chó, gà, heo. Do đó thấy rằng: Người giỏi bày mưu ở triều đình, bàn kế ở sân chầu, kẻ sĩ tiết tháo ẩn náu ở hang núi để giữ tiếng cao thì hướng về đâu? Đều hướng về sự giàu có vậy. Cho nên kẻ làm quan trong sạch nhiều năm, nhiều năm sẽ giàu có, nhà buôn cũng sẽ giàu có. Tập giải: Hướng về là tìm lợi mà không ngừng mua bán hàng hóa. Muốn giàu có là tính nết của con người, đấy là điều mà người ta không cần học cũng đều muốn như vậy. Cho nên tráng sĩ ở trong quân, trèo lên tước đánh thành, vào trận đẩy lui quân địch, chém tướng chặt cờ, xông vào tên đạn, không ngại cái nạn của nước lửa, là vì được thưởng lớn. Những kẻ trẻ tuổi ở ngõ xóm chặn đường đánh giết, gây việc cướp của, đào mộ lấy đồ, cũng làm nhậm hiệp, [1] giao kèo trả thù, ẩn nấp lấy trộm, không sợ lệnh cấm, chạy vào chỗ chết như lồng lộn. Đấy thật là đều vì tiền của. Bọn con gái nước Triệu, đàn bà nước Trịnh ngày nay tô vẽ mày mặt, gảy đàn cầm, vén áo dài, đi giày thon, liếc mắt đưa tình, ra ngoài không quá chỗ ngàn dặm lả lơi đàn ông, không nề già hay trẻ, miễn là đến nhà giàu có. Những bọn con nhà quyền quý, đeo kiếm đội mũ, ngồi xe cưỡi ngựa, cũng vì làm ra vẻ giàu có. Những kẻ săn thú chài cá, rong ruổi sớm tối, dầm sương tuyết, chui hang hốc, không nề cái hại của thú dữ là để tìm đồ ăn ngon. Những kẻ qua lại đánh bạc, chọi gà đua chó, vênh mặt khoe nhau, tranh giành phần thắng, là vì lo thua mất. Những kẻ bốc thuốc, làm ăn bằng nghề kĩ thuật [2] thì trổ hết suy nghĩ, cũng vì muốn có cơm gạo. Quan lại chép văn bày luật, sửa ấn chữa sách, không sợ bị xét tội đao chém, cũng vì thu lấy tiền của hối lộ. Người làm ruộng, nhà buôn bán cất chứa nhiều hàng hóa vốn là vì muốn giàu thêm. Đấy là dốc hết khôn khéo để tìm lợi, không thừa sức đâu mà tranh lấy tiền của. ... [www.sidneyluo.net] _______________ Chú giải: [1] Nhậm hiệp: chỉ người dùng sức mạnh bắt ép kẻ khác. [2] Kĩ thuật: chỉ nghề làm việc bằng suy nghĩ, ít dùng sức chân tay như bói toán, sửa chữa, làm thuốc, hát xướng. Người đời nói: "Trong trăm dặm không mua củi, trong ngàn dặm không mua thóc." Ở trong một năm thì phải trồng lúa, ở trong mười năm thì phải trồng cây, ở trong trăm năm thì phải trồng đức. Đức là nói về người và đồ dùng. Nay có người không được hưởng bổng lộc, không thu lấy thuế của ấp phong mà giàu có sánh với những người được hưởng lấy những thứ ấy, gọi là người 'tố phong'. Sách ẩn: Tố là không. Chính nghĩa: Ý nói người không làm quan nhưng tự có gặt hái lấy cái lợi của ruộng vườn thì sự giàu có của họ sánh với những người được phong ấp, cho nên gọi là 'tố phong'. Người được phong ấp thì thu lấy tô thuế, mỗi năm một hộ thu được hai trăm tiền, một ngàn hộ thì thu được hai mươi vạn tiền, Sách ẩn: Mỗi hộ nạp hai trăm tiền thì một ngàn hộ nạp hai mươi vạn tiền. còn lấy trong số đó để cống nạp cho triều đình. Người dân thường là người làm ruộng, thợ nghề, nhà buôn bán thì mỗi năm một hộ có vốn là một vạn tiền thì cũng lời hai ngàn tiền, một hộ có vốn là trăm vạn tiền thì cũng lời hai mươi vạn tiền, Sách ẩn: Đã lời hai ngàn tiền, nếu hộ có trăm vạn tiền thì lời hai mươi vạn tiền. lại lấy trong số đó để nạp tô thuế thay lao dịch. Muốn cơm áo thế nào thì tùy vào cái mà người ta ưa thích. Cho nên nói ở trên bãi cỏ muôi hai trăm chân ngựa, Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Là năm mươi con ngựa." Sách ẩn: Xét: Ngựa có bốn chân, vậy hai trăm chân thì có năm mươi con ngựa. một ngàn sừng chân bò, Sách ẩn: Hán thư âm nghĩa chép: "Là một trăm sáu mươi bảy con. Ngựa đắt mà bò rẻ, lấy đó để sánh." một ngàn chân dê, trong đầm nuôi một ngàn chân heo, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Là hai trăm năm mươi con." trong nước nuôi một ngàn thạch ao cá, Tập giải: Từ Quảng nói: "Dùng lạng, cân để đếm cá." Chính nghĩa: Nói là nuôi cá ở ao đầm, mỗi năm thu bán được một ngàn thạch cá. trên núi chặt được một ngàn cây gỗ. Huyện An Ấp có một ngàn cây táo; nước Yên, nước Tần có một ngàn cây dẻ; đất Thục, đất Hán, quận Giang Lăng có một ngàn cây quýt; từ sông Hoài lên phía bắc, từ quận Thường Sơn về phía nam, vùng giữa sông Hoài, sông Tế có một ngàn cây thu; đất Trần, đất Hạ có ngàn mẫu cây sơn; đất Tề, đất Lỗ có ngàn mẫu cây dâu, cây gai; miền sông Vị có ngàn mẫu cây tre; còn các thành quách, ấp vạn hộ, nước lớn có một ngàn mẫu ruộng mỗi mẫu thu một chung thóc, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một chung là sáu hộc bốn đấu.", có nhà trồng một ngàn mẫu cây chi, cây thiến; Tập giải: Từ Quảng nói: "Còn có tên là cây hồng lam, hoa của nó dùng để nhuộm vải thành màu vàng." có nhà trồng một ngàn huề cây gừng, cây hẹ, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một ngàn huề là hai mươi lăm mẫu." Bùi Nhân xét: Vi Chiêu nói: "Huề như luống." những nhà này đều giàu có ngang với nhà được phong tước hầu ăn lộc một ngàn hộ. Đấy là cái vốn để làm nên giàu có, không phải ra dò xét ở chợ búa, chẳng cần đi đến nơi khác, ngồi mà đợi thu gặt, thân có cái tiếng của kẻ ở ẩn mà tự thu gặt được của cải vậy. Còn như kẻ nhà nghèo mẹ già, vợ con thiếu đói, mỗi năm chẳng có đồ gì để cúng tế tổ tiên, ăn uống mang mặc không đủ để tự dùng, như thế còn không xấu hổ thì chẳng có gì đáng nói. Cho nên không có của cải thì phải dùng sức, thiếu tiền của thì mưu nghĩ, Chính nghĩa: Ý nói là ít tiền của thì mưu nghĩ mà tìm của cải. đã giàu có thì mới chờ thời chụp lợi được, Chính nghĩa: Đã giàu đủ tiền của rồi mới chờ thời kiếm lời được. Đấy là lẽ thường. Ngày nay người ta kiếm sống không đợi đến lúc thân nghèo rồi mới tìm lấy của cải, đấy là điều người giỏi cố làm. Cho nên làm giàu bằng nghề gốc [1] là hàng đầu, làm giàu bằng nghề ngọn [2] là hàng sau, làm giàu bằng cách làm việc gian là thấp nhất. Không có cái đức của kẻ sĩ ở ẩn nơi hang núi, lại nghèo hèn suốt đời mà hay nói chuyện nhân nghĩa thì cũng đáng thẹn. ... [www.sidneyluo.net] ______________ Chú giải: [1] Nghề gốc: là nghề làm ruộng, trong năm thứ dân thì người làm ruộng là hàng đầu. [2] Nghề ngọn: là nghề sau nghề làm ruộng như nghề kĩ thuật, buôn bán, săn bắt. Với những người dân được chép tên trong sổ hộ thì gặp những kẻ giàu có hơn mình mười lần thì nhún xuống dưới kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình trăm lần thì kiêng sợ kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình ngàn lần thì làm thuê cho kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình vạn lần thì làm nô bộc cho kẻ đó, đấy lẽ thường vậy. Người nghèo muốn giàu có thì làm ruộng không bằng làm thợ nghề, làm thợ nghề không bằng buôn bán, ở nhà thêu thùa không bằng ở nơi cổng chợ, đấy là nói làm nghề ngọn là cái vốn làm giàu của người nghèo. Trao đổi hàng hóa ở nơi thành ấp lớn thì mỗi năm có một ngàn vò rượu, một ngàn chum giấm ngâm, một ngàn vại tương; Tập giải: Từ Quảng nói: "Chum là cái vại dài cổ." giết mổ một ngàn con bò, dê, heo; bán một ngàn chung thóc lúa, một ngàn xe củi khô, một ngàn cái thuyền tay chèo dài, một ngàn cây gỗ, một vạn cây tre, trong đó có bán một trăm cỗ xe nhỏ, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là xe ngựa." một ngàn cỗ xe bò, một ngàn chiếc đồ gỗ sơn, một ngàn quân đồ đồng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một quân bằng ba mươi cân." một ngàn thạch đồ gỗ trắng, đồ sắt, đố sơn nhuộm, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một trăm hai mươi cân bằng một thạch." Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Gỗ trắng là gỗ nguyên chất." một ngàn chân miệng ngựa, Sách ẩn: Tiểu Nhan nói: "Cộng lại là một ngàn chân và miệng ngựa, là hai trăm con ngựa." một ngàn chân bò, một ngàn đôi dê, bò, một ngàn nô lệ, một ngàn cân đan sa, gân sừng, trong đó có một ngàn quân vải mịn, tơ lụa, một ngàn bó vải màu, một ngàn thạch da thú, vỏ cây, vải thô, Tập giải: Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Vải thô là vải nhiều lớp màu trắng." Chính nghĩa: Nhan Sư Cổ nói: "Là vải thô dày. Vải này giá rẻ ngang với vỏ cây, da thú, không phải nhiều lớp màu trắng. Xét: Vải nhiều lớp màu trắng là vải dệt bằng sợi vỏ cây, ở Trung Quốc không có. một ngàn đấu nước sơn, một ngàn vại bã rượu, muối, đậu, một ngàn cân cá đài, cá tễ, Chính nghĩa: Thuyết văn chép: "Cá đài là loài cá ở biển." Tễ, đọc là 'tề lễ phiên', là cá kiếm. một ngàn thạch cá nhỏ, một ngàn quân cá ướp, ba ngàn thạch quả táo, quả dẻ, một ngàn cái áo da cáo, da sóc, một ngàn cái áo da dê, một ngàn cái chiếu da, một ngàn chung quả, hạt. Chính nghĩa: Quả, hạt là các loại quả khác, hái nhặt nó ở bãi núi. Có một ngàn xâu tiền vàng cho vay, người làm mối lái [1] trao đổi và nhà buôn tham lời thì lời ba phần mười, nhà buôn ngay thẳng thì lời năm phần mười, Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Nhà buôn tham lời chưa nên bán lại bán, chưa nên mua lại mua, cho nên lời ít, chỉ được ba phần mười. Nhà buôn ngay thẳng thì giá đắt mà bán, giá rẻ mà mua, cho nên lời năm phần mười." Đấy cũng là người giàu có sánh với nhà có ngàn cỗ xe. [2] Đại khái như thế. Còn có những người làm nghề khác mà không lời hai phần mười thì không phải là người giàu có mà ta nói đến.Chính nghĩa: Ý nói là các nghề khác, nếy không lời được hai phần mười thì không phải là nghề làm giàu trên đời. Trên là ta kể qua cách mà người giỏi làm trở thành giàu có ở miền trong khoảng một ngàn dặm thời nay để cho người đời sau xem xét được. ... [www.sidneyluo.net] _______________ Chú giải: [1] Mối lái: chỉ người đứng giữa mối lái cho nhà buôn và khách mua hàng hóa, hoặc chỉ người cho vay tiền lấy lời. [2] Nhà có ngàn cỗ xe: chỉ bậc vương, hầu. Với những người dân được chép tên trong sổ hộ thì gặp những kẻ giàu có hơn mình mười lần thì nhún xuống dưới kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình trăm lần thì kiêng sợ kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình ngàn lần thì làm thuê cho kẻ đó, gặp kẻ giàu có hơn mình vạn lần thì làm nô bộc cho kẻ đó, đấy lẽ thường vậy. Người nghèo muốn giàu có thì làm ruộng không bằng làm thợ nghề, làm thợ nghề không bằng buôn bán, ở nhà thêu thùa không bằng ở nơi cổng chợ, đấy là nói làm nghề ngọn là cái vốn làm giàu của người nghèo. Trao đổi hàng hóa ở nơi thành ấp lớn thì mỗi năm có một ngàn vò rượu, một ngàn chum giấm ngâm, một ngàn vại tương; Tập giải: Từ Quảng nói: "Chum là cái vại dài cổ." giết mổ một ngàn con bò, dê, heo; bán một ngàn chung thóc lúa, một ngàn xe củi khô, một ngàn cái thuyền tay chèo dài, một ngàn cây gỗ, một vạn cây tre, trong đó có bán một trăm cỗ xe nhỏ, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là xe ngựa." một ngàn cỗ xe bò, một ngàn chiếc đồ gỗ sơn, một ngàn quân đồ đồng, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một quân bằng ba mươi cân." một ngàn thạch đồ gỗ trắng, đồ sắt, đố sơn nhuộm, Tập giải: Từ Quảng nói: "Một trăm hai mươi cân bằng một thạch." Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Gỗ trắng là gỗ nguyên chất." một ngàn chân miệng ngựa, Sách ẩn: Tiểu Nhan nói: "Cộng lại là một ngàn chân và miệng ngựa, là hai trăm con ngựa." một ngàn chân bò, một ngàn đôi dê, bò, một ngàn nô lệ, một ngàn cân đan sa, gân sừng, trong đó có một ngàn quân vải mịn, tơ lụa, một ngàn bó vải màu, một ngàn thạch da thú, vỏ cây, vải thô, Tập giải: Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Vải thô là vải nhiều lớp màu trắng." Chính nghĩa: Nhan Sư Cổ nói: "Là vải thô dày. Vải này giá rẻ ngang với vỏ cây, da thú, không phải nhiều lớp màu trắng. Xét: Vải nhiều lớp màu trắng là vải dệt bằng sợi vỏ cây, ở Trung Quốc không có. một ngàn đấu nước sơn, một ngàn vại bã rượu, muối, đậu, một ngàn cân cá đài, cá tễ, Chính nghĩa: Thuyết văn chép: "Cá đài là loài cá ở biển." Tễ, đọc là 'tề lễ phiên', là cá kiếm. một ngàn thạch cá nhỏ, một ngàn quân cá ướp, ba ngàn thạch quả táo, quả dẻ, một ngàn cái áo da cáo, da sóc, một ngàn cái áo da dê, một ngàn cái chiếu da, một ngàn chung quả, hạt. Chính nghĩa: Quả, hạt là các loại quả khác, hái nhặt nó ở bãi núi. Có một ngàn xâu tiền vàng cho vay, người làm mối lái [1] trao đổi và nhà buôn tham lời thì lời ba phần mười, nhà buôn ngay thẳng thì lời năm phần mười, Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Nhà buôn tham lời chưa nên bán lại bán, chưa nên mua lại mua, cho nên lời ít, chỉ được ba phần mười. Nhà buôn ngay thẳng thì giá đắt mà bán, giá rẻ mà mua, cho nên lời năm phần mười." Đấy cũng là người giàu có sánh với nhà có ngàn cỗ xe. [2] Đại khái như thế. Còn có những người làm nghề khác mà không lời hai phần mười thì không phải là người giàu có mà ta nói đến.Chính nghĩa: Ý nói là các nghề khác, nếy không lời được hai phần mười thì không phải là nghề làm giàu trên đời. Trên là ta kể qua cách mà người giỏi làm trở thành giàu có ở miền trong khoảng một ngàn dặm thời nay để cho người đời sau xem xét được. ... [www.sidneyluo.net] _______________ Chú giải: [1] Mối lái: chỉ người đứng giữa mối lái cho nhà buôn và khách mua hàng hóa, hoặc chỉ người cho vay tiền lấy lời. [2] Nhà có ngàn cỗ xe: chỉ bậc vương, hầu. Tổ tiên họ Trác đất Thục là người nước Triệu, rèn sắt làm giàu. Người Tần phá nước Triệu, dời người họ Trác. Người họ Trác bị bắt đày, chỉ còn vợ chồng kéo xe đến chỗ bị đày đến. Những người bị bắt đày cũng có ít của thừa, tranh nhau dâng tặng quan lại để xin đến chỗ gần ở huyện Gia Manh. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thuộc quận Quảng Hán." Riêng người họ Trác nói: "Đất ấy chật cằn. Ta nghe nói ở dưới núi Vấn có đồng lầy, dưới có củ cú mèo, Tập giải: Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Miền ven sông nước có nhiều chim cú mèo, dưới núi ấy có đồng lầy ngập nước." Chính nghĩa: Củ cú mèo là củ khoai. Nói là ở huyện Lâm Cung châu Cung đất tốt lại lầy, bãi phẳng có các củ khoai. Hoa dương quốc chí chép: "Huyện Đô An quận Vấn Sơn có củ khoai lớn như chim cú mèo." đến lúc chết cũng không lo đói. Người dân làm nghề ở chợ, dễ mua bán." Bèn xin đến chỗ xa, đến ở huyện Lâm Cung, mừng lắm, liền rèn sắt ở trong núi làm đồ dùng, bày nghĩ cách làm giàu, hơn cả dân đất Điền, đất Thục, Chính nghĩa: Hán thư cũng chép là đất Điền Trì. Quận Ích Châu ngày nay có châu Thục, cũng nhân tên cũ và tên sông Hán mà đặt tên. Sông này ở quận Ích Châu, phía nam đổ vào sông Giang, không phải là sông Hán ở quận Hán Trung. Giàu có một ngàn nô bộc. Vui vẻ săn bắn ở ruộng đầm ngang với vua chúa. Trình Trịnh là kẻ bị bắt đày người miền Sơn Đông cũng rèn sắt, bán cho dân búi tóc, [1] giàu có ngang họ Trác, đều ở huyện Lâm Cung. Tổ tiên họ Khổng huyện Uyển là người nước Lương, cũng làm nghề rèn sắt. Người Tần đánh nước Ngụy, dời người họ Khổng đến ở quận Nam Dương. Rèn đúc nhiều đồ dùng, làm ao đầm, ngồi xe ngựa, gặp chư hầu, nhân đó mua bán kiếm lời, có cái tiếng tăm của của con nhà quyền quý giàu có. Nhưng được tiền lời rất nhiều, hơn cả nhà buôn sè sẻn, Chính nghĩa: Ý nói họ Khổng ngồi xe ngựa, đi gặp chư hầu, đem tặng cho họ cùng lúc mua bán kiếm lời, mới được cái tiếng tăm là con nhà giàu có, nhưng tính ra kiếm lời được hơn cả số vốn đem dâng tặng, vẫn có cái vẻ ung dung của con nhà giàu có, lại lời hơn cả nhà buôn bủn xỉn. nhà giàu có mấy ngàn vàng. Cho nên nhà buôn ở quận Nam Dương đều bắt chước vẻ ung dung của họ Khổng. Tính người nước Lỗ dè sẻn, mà người họ Tào Bính còn hơn, nổi lên rèn sắt, Tập giải: Từ Quảng nói: "Huyện Lỗ có quặng sắt." giàu có đến cự vạn tiền. Nhưng người nhà từ cha anh con cháu đều tiết kiệm, cúi thu góp, ngẩng kiếm lời, cho vay, đi buôn khắp các quận ấp. Do đó nhiều người nước Trâu, nước Lỗ bỏ nghề học văn mà đổ đi kiếm lời là có từ thời nhà họ Tào Bính. Tính người nước Tề coi rẻ nô lệ, nhưng riêng Điêu Gian coi trọng họ. Nô lệ hung hăng là kẻ mà người ta thường sợ, riêng Điêu Gian thu nhận họ, sai họ đi mua bán cá, muối kiềm lời, hoặc cho họ đi xe ngựa đi gặp các quan thú-tướng, [2] lại càng thêm tin dùng họ. Rút cuộc được sức của họ, làm giàu đến mấy ngàn, vạn tiền. Cho nên nói: "Tìm quan tước không ai bằng họ Điêu." Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Nô lệ tự bảo nhau rằng: 'Ai muốn bỏ cảnh làm dân thường mà tìm quan tước? Nên đến nhà họ Điêu mà làm nô lệ chăng?" Là nói người biết dùng nô lệ giỏi tự kiếm lời và dùng hết sức của họ. ... [www.sidneyluo.net] ________________ Chú giải: [1] Dân búi túc: chỉ người Di miền tây nam có thói búi tóc hình cái vồ. [2] Thú-tướng: chỉ quan Thái thú của quận huyện và quan Thừa tướng của nước chư hầu thời nhà Hán. Tính người nhà Chu vốn dè sẻn, mà Sư Sử lại hơn, chuyển đến mấy trăm cỗ xe thóc đi bán ở các quận ấp, không chỗ nào là không đến. Thành Lạc Dương ở giữa các nước Tề, Tần, Sở, Triệu, Chính nghĩa: Thành Lạc Dương tại giữa các nước Tề, Tần, Sở, Triệu, người nghèo ở ngõ phố theo làm ở nhà giàu, khoe nhau là đi buôn lâu ngày ở các nước, đều nhiều lần qua làng ấp mà không vào nhà mình, cho nên trước có chép: 'Người thành Lạc Dương phía đông mua bán với người nước Tề, nước Lỗ, phía nam mua bán với người nước Lương, nước Sở'. người nghèo theo làm ở nhà giàu, khoe nhau là đi buôn lâu ngày, Tập giải: Hán thư âm nghĩa: "Nói về người dân ở ngõ phố không có ruộng đất đều khoe nhau đi buôn lâu ngày ở các nước ấy." nhiều lần qua dưới ấp mà không vào nhà, liền dùng những người ấy, cho nên Sư Sử mới có đến bảy ngàn, vạn tiền. Tổ tiên họ Nhâm ở đất Tuyên Khúc, Tập giải: Từ Quảng nói: "Công thần thời Cao Tổ có Tuyên Khúc Hầu." Sách ẩn: Thượng lâm phú chép: "Phía tây ruổi đến đất Tuyên Khúc", có lẽ ở quanh kinh sư, nay không có huyện ấy. làm quan coi kho lương ở huyện Đốc Đạo. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Đốc Đạo là huyện biên giới thời Tần." Vào lúc nhà Tần đổ, bọn hào kiệt đều tranh lấy vàng ngọc, nhưng riêng người họ Nhâm đào hố chôn thóc trong kho. Tập giải: Từ Quảng nói: "Đào đất để cất thóc." Vào lúc hai quân Hán-Sở đánh nhau ở huyện Huỳnh Dương, dân không được trồng trọt, một thạch gạo giá vạn tiện, do đó vàng ngọc của bọn hào kiệt đều về nhà họ Nhâm, nhà họ Nhâm vì đó giàu có. Nhà giàu tranh nhau tiêu xài nhưng nhà họ Nhâm nhún ý dè sẻn, chăm làm ruộng, chăn nuôi. Người làm ruộng, chăn nuôi tranh nhau mua giá rẻ, Sách ẩn: Tấn chước chép: "Tranh mua rẻ vàng ngọc." riêng nhà họ Nhâm mua giá đắt tốt, Sách ẩn: Nói là mua đồ tất lấy đồ đắt và tốt, không tranh mua đồ rẻ. giàu có đến mấy đời. Nhưng nhà họ Nhâm dè sẻn, cơm áo không phải do mình làm ra thì không dùng, làm việc chưa xong thì thân không được ăn thịt uống rượu. Do đó được người làng ngõ khen, cho nên giàu có mà được nhà vua coi trọng. Ở nơi biên ải, riêng Kiều Diêu đã có đến một ngàn con ngựa, bò có gấp đôi ngựa, vạn con dê, có một vạn chung thóc. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Là người trông coi lính thú ở biên ải. Cho nên người này mới giàu có như thế." Sách ẩn: Mạnh Khang nói: "Không phải. Tương Như liệt truyện chép: 'Biên ải càng rộng.' Họ Kiều, tên Diêu. Ý nói Kiều Diêu nhân lúc mở rộng biên ải mà có của cải ấy." Vào thời bảy nước Ngô-Sở [1] dấy binh, những người được phong tước quân-hầu [2] ở thành Trường An đi theo quân lữ, phải vay tiền lấy lời. Những kẻ cho vay tiền cho rằng những người được phong hầu ở miền Quan Đông, mà miền Quan Đông chưa rõ thắng thua, chẳng ai chịu cho vay. Riêng có họ Vô Diêm đem cho vay một ngàn vàng, lấy lời gấp mười lần. Ba tháng sau, quân Ngô-Sở bị dẹp, trong khoảng một năm, họ Vô Diêm lấy lời gấp mười lần, do đó giàu có ngang với người miền Quan Trung. Nhà buôn lớn giàu có ở miền Quan Trung phần lớn đều là người họ Điền như Điền Sắc, Điền Lan. Họ Lật ở huyện Vi Gia, họ Đỗ ở huyện An Lăng, huyện Đỗ cũng có cự vạn tiền. Từ Quảng nói: "An Lăng và Đỗ là tên hai huyện, đều có người họ Đỗ. Tuyên Đế đổi tên Đỗ là Đỗ Lăng." ... [www.sidneyluo.net] _________________ Chú giải: [1] Bảy nước Ngô-Sở: chỉ bảy nước chư hầu thời Cảnh Đế nhà Hán là Ngô, Sở, Triệu, Giao Đông, Giao Tây, Tế Nam, Truy Xuyên nổi lên làm phản nhà Hán. [1] Quân-hầu: chỉ những người họ hàng nhà vua thì được phong tước quân, những người có công khác họ thì được phong tước hầu. Trên đây là những kẻ nổi tiếng hơn người, đều không phải là có tước ấp, bổng lộc, phạm pháp, làm gian mà giàu có, đều suy nghĩ thiệt hơn, tùy thời ngẩng cúi mà thu được mối lợi, làm nghề ngọn mà có tiền của, dùng nghề gốc mà giữ tiền của, trổ sức mà thu lấy, dùng lẽ mà giữ lấy, biến hóa có lúc, cho nên chép đủ. Còn như những kẻ dốc sức làm ruộng, chăn nuôi, làm thợ nghề, làm rừng, đào ao, buôn bán, dùng quyền lợi để làm giàu, kẻ lớn thì hơn một quận, kẻ vừa thì hơn một huyện, kẻ nhỏ thì làng ấp, không kể hết được. Dè sẻn và chăm làm là cái cách kiếm sống ngay thẳng, nhưng người giàu có phải dùng đến cách lạ. Làm ruộng là nghề thật, thế nhưng Tần Dương nhờ đó mà giàu có trùm cả một châu. Sách ẩn: Phục Kiền nói: "Giàu có hàng đầu trong một châu." Đào mộ là nghề gian, thế mà Điền Thúc nhờ đó mà nổi tiếng. Đánh bạc là nghề xấu, thế mà Hoàn Phát do đó mà giàu có. Sách ẩn: Hán thư chép là Kê Phát. Đi buôn là cái nghề thấp hèn của người đàn ông, thế mà Ung Lạc thành người lắm của. Bán mỡ Chính nghĩa: Thuyết văn chép: "Loài có sừng gọi là mỡ, loài không có sừng gọi là cao." là nghề nhục, thế mà Ung Bá có ngàn vàng. Sách ẩn: Ung, đọc là 'ư ung phiên'. Hán thư chép là Ông Bá. Bán tương là nghề nhỏ, thế mà nhà họ Trương có ngàn vạn tiền. Mài dao là nghề kém khéo, thế mà họ Chí thừa đủ. Làm lòng khô là việc dễ dàng, thế mà người họ Trọc ngồi xe ngựa. Sách ẩn: Tấn chước chép: "Thái quan thường đến tháng mười thì luộc nấu canh lòng dê, lấy hạt tiêu, bột gừng cho vào, nấu cho kĩ thì lòng khô, cho nên đem bán mà làm giàu." Chính nghĩa: Lòng khô là trộn thêm năm mùi mà thành món ngon, cho nên dễ bán. Chữa bệnh cho ngựa là nghề kém, thế mà Trương Lí giàu có đến nỗi lúc ăn cũng có tiếng chuông. Đấy đều là do chăm chỉ mà có được. Do đó thấy rằng: Làm giàu không phải chỉ có một nghề, tiền của không đến với chỉ một người, người giỏi thì tiền đến như xâu bánh xe, kẻ không giỏi thì như ngói vỡ. Nhà có ngàn vàng sánh với vua của một thành, nhà có cự vạn tiền thì sướng ngang với người làm vua của một nước. Hãy gọi những kẻ ấy là 'tố phong' chăng? Không phải sao? Sử kí - Mông Điềm, Bạch Khởi, Vương Tiễn liệt truyện Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Tổ tiên của Mông Điềm là người nước Tề. Ông nội Điềm là Mông Ngao, Sách ẩn: Ngao, đọc là 'ngao'. Họ Trâu lại đọc là 'ngũ đáo phiên'. từ nước Tề sang giúp Chiêu Vương nước Tần, làm quan đến bậc thượng khanh. Năm đầu thời Trang Tương Vương nước Tần (năm 248 TCN), Mông Ngao làm tướng nước Tần đánh nước Hàn, lấy các huyện Thành Cao-Huỳnh Dương, đặt thành quận Tam Xuyên. Năm thứ hai, Mông Ngao đánh nước Triệu, lấy ba mươi bảy tòa thành. Năm thứ ba thời Thủy Hoàng (năm 244 TCN), Mông Ngao đánh nước Hàn, lấy mười ba tòa thành. Năm thứ năm, Mông Ngao đánh nước Ngụy, lấy hai mươi tòa thành, đặt ra quận Đông. Năm thứ bảy thời Thủy Hoàng, Mông Ngao chết. Con của Ngao là Vũ, con của Vũ là Điềm. Điềm từng làm quan coi ngục, coi xét văn học. Năm thứ hai mươi ba thời Thủy Hoàng (năm 224 TCN), Mông Vũ làm Bì tướng quân của nước Tần, cùng Vương Tiễn đánh nước Sở, đại phá quân Sở, giết tướng nước Sở là Hạng Yên. Năm thứ hai mươi tư, Mông Vũ lại đánh nước Sở, bắt được vua nước Sở. Em của Mông Điềm tên là Nghị. Năm thứ hai mươi sáu thời Thủy Hoàng (năm 221 TCN), Mông Điềm nhân là con nhà tướng mà làm tướng nước Tần, đánh nước Tề, đại phá quân Tề, bái làm Nội sử. Vua Tần đã chiếm cả thiên hạ, bèn sai Mông Điềm đem ba mươi vạn quân lên phía bắc đuổi người Nhung-Địch, thu lấy miền phía nam sông Hà, đắp thành dài, men mạch đất mà làm nên lũy hiểm, bắt đầu từ huyện Lâm Thao Tập giải: Từ Quảng nói: "Thuộc quận Lũng Tây." đến quận Liêu Đông, Chính nghĩa: Quận Liêu Đông ở phía đông sông Liêu. Thủy Hoàng đắp thành dài về phía đông đến sông Liêu, lại về phía tây nam đến miền bở biển. trải dài hơn vạn dặm. Do đó qua sông Hà, dựa vào núi Âm, mon men lên phía bắc, dùng binh ở ngoài hơn mười năm, trú ở quận Thượng. Bấy giờ Mông Điềm oai động rợ Hung Nô. Thủy Hoàng rất tôn sủng họ Mông, tin dùng mà khen Mông Điềm, lại thân cận Mông Nghị, cho làm quan đến bậc thượng khanh, ra thì cùng ngồi xe, vào thì hầu trước mặt. Điềm làm việc ở ngoài còn Nghị thường bày mưu ở trong, có tiếng là trung tín, cho nên các quan tướng quân chẳng ai dám tranh với họ. Triệu Cao là họ hàng xa xôi của họ Triệu. Triệu Cao có mấy anh em đều sinh ở trong cung. Tập giải: Từ Quảng nói: "Là quan hoạn." Sách ẩn: Họ Lưu nói: "Có lẽ cha hắn phạm tội bị thiến, cho nên vợ con bị bắt làm nô tì trong cung, sau đó vợ lại lấy chồng khác mà sinh con đều nối dòng họ Triệu, đều thiến hết, cho nên nói là 'anh em đều sinh ở trong cung'. Nói sinh ở trong cung là nói về quan hoạn." Mẹ hắn bị tội phạt, đời đời hèn kém. Vua Tần nghe nói Cao có sức khỏe, thạo ở việc hình ngục, chọn lấy làm Trung xa phủ lệnh. Cao đã giúp riêng công tử là Hồ Hợi, dạy Hồ Hợi xử hình ngục. Cao mắc tội lớn, vua Tần sai Mông Nghị dùng hình pháp trị tội Cao. Nghị không dám trái pháp, xử Cao tội chết, trừ khỏi sổ quan hoạn. Thủy Hoàng vì thấy Cao chăm làm việc nên tha cho, trao tước quan như cũ. Thủy Hoàng muốn dạo khắp thiên hạ, làm đường từ quận Cửu Nguyên Chính nghĩa: Quận Cửu Nguyên là huyện Liên Cốc châu Thắng ngày nay. thẳng đến cung Cam Tuyền, Chính nghĩa: Cung này ở châu Ung ngày nay. bèn sai Mông Điềm mở đường, từ quận Cửu Nguyên đến cung Cam Tuyền, đào núi lấp hang trải dài một ngàn tám trăm dặm. Con đường này không làm xong. Mùa đông năm thứ ba mươi bảy (năm 210 TCN), Thủy Hoàng ra đi chơi ở quận Cối Kê, men theo bờ biển lên phía bắc đến quận Lang Da. Trên đường đi bị ốm, sai Mông Nghị về cầu đảo sông núi, chưa kịp về. Thủy Hoàng đến huyện Sa Khâu thì băng, việc này bị giấu, bầy tôi chẳng ai biết. Bấy giờ Thừa tướng là Lí Tư, công tử là Hồ Hợi, Trung xa phủ lệnh là Triệu Cao thường đi theo nhà vua. Cao vốn được Hồ Hợi tin dùng, muốn lập Hồ Hợi, nhưng sợ Mông Nghị dùng hình pháp trị tội nên không làm gì được. Nhân đó có ý xấu, bèn cùng Thừa tướng là Lí Tư, công tử là Hồ Hợi mưu ngầm, lập Hồ Hợi làm Thái tử. Đã lập Thái tử, sai sứ giả kể tội bắt công tử là Phù Tô và Mông Điềm phải chết. Phù Tô đã chết, Mông Điềm ngờ việc ấy mà xin xét lại. Sứ giả trao Mông Điềm cho quan thuộc, xử lại. Hồ Hợi lấy người nhà của Lí Tư làm Hộ quân. Sứ giả về báo, Hồ Hợi nghe tin Phù Tô đã chết, lại muốn tha cho Mông Điềm. Triệu Cao sợ họ Mông được tôn quý mà làm việc như trước, oán việc này. Nghị về đến, Triệu Cao nhân đó bày kế để tỏ lòng trung với Hồ Hợi, muốn để diệt họ Mông, bèn nói rằng: "Thần nghe nói tiên đế muốn lấy người hiền lập mà làm Thái tử lâu rồi, nhưng Nghị can là 'không nên'. Nếu biết là người hiền mà trù trừ không lập, đấy là bất trung lại mê hoặc nhà vua vậy. Theo ý mọn của thần, không bằng giết hắn đi." Hồ Hợi nghe theo mà sai người bắt trói Mông Nghị ở quận Đại. Chính nghĩa: Là châu Đại ngày nay. Nhân lúc Nghị cầu đảo sông núi đến quận Đại mà bắt lấy. Lúc trước đã bắt giam Mông Điềm ở huyện Dương Chu. Kịp lúc đưa tang Thủy Hoàng về đến thành Hàm Dương, rồi đã táng, Thái tử lập làm Nhị Thế Hoàng Đế, mà Triệu Cao được thân cận, ngày đêm ganh ghét họ Mông, tìm tội lỗi mà bới móc họ. Tử Anh đến can rằng: "Thần nghe nói vua nước Triệu tên là Thiên lúc trước giết bầy tôi giỏi tên là Lí Mục mà dùng Nhan Tụ, vua nước Yên tên là Hỉ ngầm dùng mưu của Kinh Kha mà làm trái lời ước với vua nước Tần, vua nước Tề tên là Kiến giết trung thần thời trước mà nghe lời bàn của Hậu Thắng. Ba vị vua ấy đều cùng vì gây biến mà làm mất nước và tự hại thân mình. Ngày nay họ Mông là mưu sĩ đại thần của nhà Tần, vậy mà nhà vua muốn một sớm vứt bỏ họ. Thần trộm nghĩ cho là không nên. Thần nghe nói rằng người nghĩ kém thì không nên dùng để giúp nước, chỉ có người có trí mới giúp được nhà vua. Bắt giết trung thần mà lập kẻ không có tiết hạnh, đấy là khiến cho bầy tôi không tin nhau ở trong mà tướng sĩ có ý rời bỏ ở ngoài vậy. Thần trộm nghĩ cho là không được." Hồ Hợi không nghe, lại sai quan Ngự sử là Khúc Cung đi xe đến quận Đại, lệnh cho Mông Nghị rằng: "Tiên đế muốn lập Thái tử mà khanh can ngăn việc ấy. Nay quan Thừa tướng cho rằng khanh là kẻ bất trung, phạt tội đến cả họ hàng. Nhưng rẫm không nỡ, chỉ ban cho khanh tội chết, cũng là may lắm rồi. Khanh tự xử đi"! Nghị đáp nói: "Cho rằng thần không biết được ý của tiên đế, thế mà thần thủa trẻ làm quan, được tin dùng đến cuối đời nhà vua. Đấy có thể gọi là biết ý vậy. Cho rằng thần không biết cái tài của Thái tử, thế mà chỉ có Thái tử được đi theo dạo khắp thiên hạ, bỏ các công tử khác ở nơi xa, đấy là điều mà thần không nghi ngờ vậy. Tiên đế cử dùng Thái tử là mưu kế nhiều năm rồi, thần sao lại dám nói lời can ngăn, sao dám mày mưu lo việc ấy! Thần không dám nói lời ngoa để tránh cái chết, là vì sợ làm nhục đến danh tiếng của tiên đế, mong đại phu vì đó mà nghĩ kĩ, khiến cho thần được chết đúng tội. Vả lại thuận lí là cái đạo giúp nước vốn quý, dùng hình pháp giết người là cái mà đạo giúp nước vốn vứt bỏ. Ngày xưa Mục Công nước Tần giết ba người hiền cho chết, xử tội Bách Lí Hề mà không kể được tội của người đó, cho nên bị đặt hiệu là 'Mậu'. Chiêu Tương Vương giết Vũ An Quân là Bạch Khởi, Bình Vương nước Sở giết Ngũ Xa, vua Ngô là Phù Sai giết Ngũ Tử Tư, bốn vị vua ấy đều làm điều sai lớn, bị thiên hạ cho là lầm, cho là vua ấy không sáng suốt, cho nên tiếng xấu truyền đến tai chư hầu, cho nên nói: 'Người dùng đạo mà trị thì không giết kẻ vô tội, lại không phạt kẻ không có lỗi'. Mong đại phu chú ý!" Sứ giả biết ý của Hồ Hợi, không nghe lời của Mông Nghị, rút cuộc giết Mông Nghị. Nhị Thế lại sai sứ giả đến huyện Dương Chu, lệnh Mông Điềm rằng: "Tội của khanh nhiều rồi, mà em khanh là Nghị cũng có lỗi lớn, theo hình phát phải phạt đến quan Nội sử." Điềm nói: "Từ thời tiên nhân ta cho đến con cháu, góp công tín cho nhà Tần được ba đời rồi. Nay thần dẫn hơn ba mươi vạn quân, thân dẫu bị trói, nhưng kẻ tay chân của thần cũng đủ để làm phản, nhưng thần tự biết phải chết mà giữ nghĩa, không dám làm nhục cái đạo của tiên nhân là không quên ơn của tiên đế. Ngày xưa Thành Vương nhà Chu mới lập, thân chưa rời tã địu, Chu Công tên là Đán cõng vua lên chầu, rút cuộc định được thiên hạ. Kịp lúc Thành Vương có bệnh rất nặng, Chu Công tên là Đán tự cắt móng tay đem nhấn chìm ở sông, nói: 'Vua chưa biết gì, đấy là do Đán nắm việc. Nếu có lỗi gì, Đán xin tự nhận điều không hay'. Bèn viết chữ cất ở kí phủ, có thể nói là đáng tin. Kịp lúc vua biết coi việc nước, có tặc thần nói: 'Chu Công tên là Đán muốn làm loạn lâu rồi, nếu vua không phòng bị thì tất có họa lớn'. Vua bèn cả giận, Chu Công tên là Đán chạy mà trốn sang nước Sở. Thành Vương xem ở kí phủ, lấy được sách cất của Chu Công tên là Đán, mới rơi nước mắt nói: 'Ai nói Chu Công Đán muốn làm loạn vậy?' Bèn giết kẻ nói xằng mà đón Chu Công tên là Đán quay về. Cho nên Chu thư chép: 'Phải bàn việc kĩ càng.' Nay họ hàng Điềm ở đời không có hai lòng, mà lại bị như vậy, đấy tất là do nghịch thần gây loạn, có mưu hại ở trong vậy. Thành Vương mắc lỗi mà biết sửa sai thì cuối cùng hưng thịnh, vua Kiệt giết Quan Long Phùng, vua Trụ giết vương tử là Bỉ Can thì hối không kịp, thân chết mà nước mất. Cho nên thần cho rằng có lỗi thì sửa được, có lời can thì nghĩ lại được. Xét việc kĩ càng là phép tắc của vua hiền. Những gì thần nói không phải là để tìm cách tránh tội, đem lời can gián mà chết, mong bệ hạ vì muôn dân mà nghĩ theo phép thường." Sứ giả nói: "Thần nhận chiếu lệnh đến xử tội tướng quân, không dám để tướng quân nói với nhà vua." Mông Điềm bùi ngùi thở dài nói: "Ta có lỗi gì với trời, không có tội mà chết sao"? Hồi lâu, lại nói: "Tội của Điềm vốn đáng chết. Bắt đầu từ huyện Lâm Thao liền đến quận Liêu Đông, nối thành dài hơn vạn dặm, giữa chỗ ấy há chẳng không cắt đứt mạch đất sao? Đấy là cái tội của Điềm vậy." Rồi nuốt thuốc độc tự sát. Thái sử công nói: Ta đến miền biên giới phía bắc, từ con đường thẳng quay về, đi qua xem bờ rào lũy thành dài mà Mông Điềm giúp nhà Tần đắp nên, việc đào núi lấp hang để mở con đường lớn này vốn là coi rẻ sức lực của trăm họ. Nhà Tần mới diệt chư hầu, lòng người trong thiên hạ chưa yên, kẻ bị thương bệnh chưa khỏi, mà Điềm là tướng to, không vì cái thời như vậy mà hết sức can ngăn, cứu cái nguy cấp của trăm họ, nuôi già giữ trẻ, tu sửa việc tốt của dân chúng, thế mà lại hùa theo ý nhà vua đòi lập công, dẫn đến anh em bị giết, cũng chẳng phải sao! Sao lại đổ lỗi tại phá mạch đất đây? Sách ẩn: Thuật tán: Họ Mông tướng Tần, Nội sử trung hiền, đắp dựng thành dài, vạn dặm giữ biên, Triệu Cao chuyên quyền, Phù Tô bị giết. Đất đứt tội gì? Lỗi ở dân khổ. Kêu trời muốn hỏi, ba đời trung lương.
-
Bí ẩn quanh kim tự tháp lâu đời nhất ở Ai Cập Được xây dựng tại Saqqara khoảng 4.700 năm trước, kim tự tháp bậc thang Djoser là kim tự tháp đầu tiên của người Ai Cập. Djoser đôi khi được đánh vần là Zoser, (mặc dù thực tế ông được gọi là Netjerykhet) là vị vua triều đại thứ ba của Ai Cập. Người lập kế hoạch xây dựng kim tự tháp là Imhotep, tể tướng của triều đại sau đó đã được tôn sùng như một vị thánh nhờ các đóng góp của mình. Kim tự tháp có nguồn gốc ban đầu là một lăng mộ Mastaba - một kiến trúc mặt bằng hình bình hành, trải qua hàng loạt công việc xây dựng đã hình thành một kim tự tháp cao 60 mét với sáu tầng được xây chồng lên nhau. Việc xây dựng kim tự tháp cần 11,6 triệu mét khối đá và đất sét. Các hầm bên dưới kim tự tháp tạo nên một đường dẫn dài khoảng 5,5km. Kim tự tháp bậc thang Djoser là kim tự tháp lâu đời nhất Ai Cập. Khu liên hợp Kim tự tháp nằm ở trung tâm khu liên hợp rộng khoảng 15 hecta, được bao quanh bởi một tường đá vôi gồm 13 cánh cửa giả cũng như lối đi thực sự ở phía đông nam. Một ngôi đền nằm ở phía bắc của kim tự tháp dọc với tượng đài của vị vua. Tượng đài được bao quanh bởi kiến trúc đá nhỏ được biết đến như là “serdad”. Phía nam của kim tự tháp là một cung điện được rào chắn xung quanh bởi một bệ thờ và các tảng đá. Rất nhiều các tòa nhà mặt tiền được xây dựng trong khu liên hợp, bao gồm một loạt nhà thờ nhỏ ở phía đông nam cũng như các sảnh đường bắc và nam ở phía đông kim tự tháp. Các cấu trúc phục vụ cho mục đích tôn giáo. Ở phía đông nam của khu liên hợp, cạnh các nhà thờ nhỏ là một cung điện có lẽ được xây dựng dành cho vua tổ chức các lễ hội Hed - Seb ở thế giới bên kia. Ở phía nam cuối của khu liên hợp là một lăng mộ huyền bí với một nhà thờ nhỏ. Nó gồm hàng loạt các đường hầm bắt chước kiểu dáng các đường hầm được tìm thấy phía dưới kim tự tháp. Điều gì được chôn giấu ở đó là một điều bí mật. Một nhà thờ nhỏ trong cung điện Hep-Sed ở kim tự tháp bậc thang Djoser Lăng mộ của Vua Bên dưới kim tự tháp bậc thang là một dãy hỗn tạp các đường hầm và căn phòng, trung tâm là một hầm sâu 28 mét ở dưới đáy là lăng mộ của vua Djoser. Các công việc bảo tồn gần đây ở lăng mộ phát hiện các mảnh quan tài bằng đá granit của vị vua và tên của các nữ hoàng vẫn còn có thể đọc được. Nhà Ai Cập học Zahi Hawass, nguyên giám đốc hội đồng di sản tối cao Ai Cập trong một đoạn video vào năm 2009 nói về công việc bảo tồn ở kim tự tháp: “Kim tự tháp bậc thang là kim tự tháp duy nhất trong triều đại cổ mà có mười một trong số các con gái của vua được chôn bên trong". Hầm mộ ban đầu có thể được trang trí bởi khối đá vôi chứa các ngôi sao năm cánh tạo thành một trần đầy sao. Tuy nhiên, không biết vì lý do gì, việc trang trí này bị những người xây dựng dỡ bỏ thay vào đó là một phòng chôn bằng đá granit đơn giản hơn. Đường hầm và cung điện dưới mặt đất Hai lối đi dẫn tới hầm ngầm và chia ngả thành ba hướng. Ở đó chứa ba phòng trưng bày, một hầm nhỏ đặc biệt chứa đồ ăn, và một phòng chưa hoàn thiện có thể đã được xây dựng làm cung điện dưới mặt đất của thế giới bên kia. Ba cánh cửa giả chứa các họa tiết cho thấy sự sùng bái tôn giáo của vua. Buồng được trang trí với hàng nghìn gạch vuông bằng sứ xanh bắt chước hình vẽ chiếu đan bằng sậy trong cung điện của nhà vua ở Memphis. Căn phòng ở bên dưới kim tự tháp này được hoàn thành một cách nhanh chóng. Một hầm khác, bắt đầu ở phía bắc của kim tự tháp, chứa 40.000 bát đá, nhiều trong số đó thuộc về tổ tiên của vua. Các quan tài và các phần của hài cốt cũng được tìm thấy. Sự bảo tồn ngày nay Kim tự tháp bậc thang là một công trình không bền chắc với những dự đoán cho thấy rằng nếu không có công việc bảo tồn thì các hầm bên dưới kim tự tháp có thể sập và tượng đài có thể mất đi một phần đáng kể trong một vài thập kỉ nữa. Người Ai Cập đã bắt đầu nỗ lực bảo tồn di sản nhiều năm trước và gần đây Cintec, một công ty xây dựng Anh đã được huy động để hỗ trợ nỗ lực bảo tồn. Họ sử dụng các túi khí lớn để nâng đỡ mái kim tự tháp trong khi thực hiện các công việc sửa chữa cấu trúc kim tự tháp. Sự vinh danh Với việc xây dựng kim tự tháp bậc thang, Imhotep cuối cùng được sùng bái như một vị thánh. Nhà Ai Cập học Marc Van De Mieroon viết trong cuốn sách “Lịch sử của Ai Cập cổ đại” của mình rằng vua Djoser dành cho Imhotep một đặc ân, cho phép tên và danh hiệu của ông được khắc vào nền tượng đài vua. Một số hình ảnh kim tự tháp bậc thang Con đường đá tảng hình con rắn - Kim tự tháp có 6 bậc (biểu tượng 6 ngôi sao Nam Cực - chòm sao Chữ Thập - biểu tượng của thần Chết Osiris) Các kim tự tháp bậc thang kiên cố đã được tìm thấy tại nhiều nơi ở Ai Cập, và hầu như có hình dạng đồng nhất, theo trưởng nhóm dự án khảo cổ là chuyên gia Gregory Marouard của Đại học Chicago (Mỹ). Nhận xét: - Kim tự tháp xưa nhất của Ai Cập chính là kim tự tháp bậc thang Djoser, có niên đại khoảng 2600 TCN, tức muộn hơn thời kỳ Hùng Quốc Vương - Lạc Long Quân - Kinh Dương Vương 2879 TCN ước khoảng 250 năm. - Kim tự tháp Djoser có 6 bậc, biểu tượng 6 ngôi sao của chòm sao Nam Cực - chòm sao Chữ Thập - biểu tượng của thần Chết Osiris. Truyền thuyết chép rằng Osiris là vị thần trí tuệ, người trao truyền khoa học, lịch pháp, thiên văn, phương pháp nông nghiệp... cho mảnh đất Ai Cập. - Truyền thuyết viết thần Osiris sẽ phục sinh trở lại và giải cứu thế giới cùng với Ai Cập, và Ai Cập sẽ trở lại thời đại huy hoàng như xưa. - Cuốn sách nổi tiếng nhất của thần Osiris là "Sách của Cõi Chết", đã bị thất truyền và hiện được lưu giữ dưới đáy dòng sông Nile, do một con rắn hổ mang chúa canh giữ, con rắn này bất khả chiến bại, không bất kỳ ai có thể chiến thắng được nó. - Cổ văn Ai Cập chép rằng: Đất của các vị thần giúp cho Ai Cập phát triển vượt bậc phải vượt qua vài biển về phương Nam mới tới được, cũng thường gọi là "mảnh đất trầm hương" (trầm hương dùng trong tế tự, "mảnh đất tế tự") -> đấy chính là nước Văn Lang có bộ Chămpa với "cây Gió" có trầm nổi tiếng nhất thế giới. Chúng ta cũng đã từng biết sự kiện: "Chu Công nói: phương Nam không thể đánh". Biểu tượng của thần Chết Orisis là thánh giá đầu vòng Anhk (dịch nghĩa là: "Chìa khóa của sự sống"), cũng là hình ảnh của chòm sao Nam Cực và được lấy làm biểu tượng của Thần đạo Ai Cập, còn loài hoa biểu tượng cho Ai Cập là bông hoa súng xanh và thần Osiris hài nhi sẽ phục sinh từ bông hoa súng xanh này. Thánh giá đầu vòng Ankh Trên chiếc Ankh này, chúng ta thấy hình con bọ hung có cánh đẩy mặt trời lên - biểu tượng cho mặt trời mọc, hàm ý mặt trời từ cung Song Ngư sẽ chuyển sang cung Bảo Bình. Con bọ hung thể hiện thời đại cung Song Ngư là thời đại của hung tàn, bạo tàn. Bông hóa súng xanh mọc lên từ biển nước nguyên thủy vũ trụ, tức vũ trụ nguyên thủy, hai con rắn biểu tượng cho Âm Dương, Bắc Nam, dòng chảy của thời gian, tức điểm phân chia giữa cung Song Ngư và cung Bảo Bình. Rắn hổ mang bành và chim kên kên biểu tượng cho Bắc - Nam Ai Cập, cũng là biểu tượng cho thần vô hình Amun và nữ thần mẹ Mut. Thần sáng thế Atum - Thánh giá đầu vòng Ankh cũng chính là trục xương sống của thần Osiris, cổ văn gọi là "chiếc thang lên trời", trong văn hóa Văn Lang đó chính là trục Tam Thế, trục Vũ trụ. - Thần Chết Osiris và vợ là nữ thần mắn sinh Isis, sinh một người con trai là thần vũ dũng Horus - biểu tượng kỵ vật là con chim cắt. Gia đình thần Osiris - Isis - Horus Thần Horus có 4 người con, tượng trưng cho 4 phương còn thần Horus ở trung tâm, biểu tượng là con mắt thứ 3 giữa trán, còn con mắt trái là biểu tượng của thần mặt trời Ra, con mắt phải là biểu tượng thần Chết Osiris. Bốn người con của thần Horus Cái bàn có trục đứng ở giữa là bàn xoay gốm, nơi mà thần mặt trời Ra tạo ra hình hài con người từ đất sét, còn vợ của ông - nữ thần bầu trời Hathor tạo ra linh hồn con người. Kinh Thánh viết Chúa Trời tạo con người từ đất sét chính là bắt nguồn từ câu chuyện này, nó bắt buộc phải mang tính lưỡng hợp Âm Dương, nhưng còn thiếu ý nghĩa "linh hồn" là do người phụ nữ tạo ra, vì thế nó thọt giò.
-
Bàn Cổ - Nữ Oa - Thần Nông Dịch giả: Lý Nhĩ Chân BÀN CỔ 盤古 藝文類聚 Nghệ văn loại tụ 唐 歐陽詢 Đường - Âu Dương Tuân soạn 天部 Thiên bộ "Tam ngũ lịch kỉ" của Từ Chỉnh [thời Tam quốc] chép: Trời đất hỗn độn như quả trứng gà, Bàn Cổ sinh ra ở trong đó, sống đến một vạn tám nghìn tuổi thì trời đất mở mang, khí dương trong suốt thì tạo thành trời, khí âm đục nặng thì tạo thành đất. Bàn Cổ ở trong ấy, mỗi ngày biến chín lần, thông với trời, liền với đất. Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, đất mỗi ngày dày thêm một trượng, Bàn Cổ mỗi ngày lớn thêm một trượng. Như thế một vạn tám nghìn năm thì trời đã rất cao, đất đã rất sâu, Bàn Cổ đã rất lớn. Sau đó có Tam Hoàng, số bắt đầu từ số một, lập ở số ba, thành từ năm, thịnh ở số bảy, cuối ở số chín. Do đó trời cách đất chín vạn dặm. Từ Chỉnh Tam ngũ lịch kỉ viết: Thiên địa hỗn độn như kê tử, Bàn Cổ sinh kì trung, vạn bát thiên tuế, thiên địa khai tịch, dương thanh vi thiên, âm trọc vi địa. Bàn Cổ tại kì trung, nhất nhật cửu biến, thần ư thiên, thánh ư địa. Thiên nhật cao nhất trượng, địa nhật hậu nhất địa, Bàn Cổ nhật trương nhất trượng. Như thử vạn bát thiên tuế, thiên số cực cao, địa số cực thâm, Bàn Cổ cực trương. Hậu nãi hữu Tam Hoàng, số khởi ư nhất, lập ư tam, thành ư ngũ, thịnh ư thất, xứ ư cửu. Cố thiên khứ địa cửu vạn lí. 徐整三五曆紀曰天地混沌如雞子盤古生其中萬八千歲天地開闢陽清為天陰濁為地盤古在其中一日九變神於天聖於地天日高一丈地日厚一丈盤古日長一丈如此萬八千歲天數極高地數極深盤古極長後乃有三皇數起於一立於三成於五盛於七處於九故天去地九萬里 [zh.wikisource.org] 图画见闻志 Đồ họa kiến văn chí 北宋 郭若虚 Bắc Tống - Quách Nhược Hư soạn 《Ích Châu học quán kí》 chép: Năm Hưng Bình thứ nhất thời Hiến Đế [nhà Đông Hán], người quận Trần Lưu là Cao Trẫm làm Ích Châu Thái thú, sửa lại nhà đá gian ngọc ở Thành Đô. Dựng riêng một nhà đá ở phía đông, tự làm nhà lễ của Chu Công. Trên vách nhà vẽ tranh các vị thần Lí Lão [tức Lão Tử], Bàn Cổ thời xa xưa và các vị Đế Vương qua các đời. Trên cột nhà lại vẽ hình bảy mươi hai học trò của Trọng Ni [tức Khổng Tử], các vị danh thần từ thời Tam Hoàng về sai. Người già cả nói rằng: "Là do Ích Châu Thứ sử Trương Thu vẽ vào giữa năm Thái Khang thời Tây Tấn". 《Ích Châu học quán kí》 vân: Hiến Đế Hưng Bình nguyên niên, Trần Lưu Cao Trẫm vi Ích Châu Thái thú, canh tập Thành Đô ngọc đường thạch thất. Đông biệt sáng nhất thạch thất, tự vi Chu Công lễ điện. Kì bích thượng đồ họa thượng cổ Bàn Cổ, Lí Lão đẳng thần, cập lịch đại Đế Vương chi tượng. Lương thượng hựu họa Trọng Ni thất thập nhị đệ tử, Tam Hoàng dĩ lai danh thần. Kì lão vân: "Tây Tấn Thái Khang trung, Ích Châu Thứ sử Trương Thu bút". 《益州学馆记》云“献帝兴平元年陈留高朕为益州太守更葺成都玉堂石室。东别创一石室自为周公礼殿。其壁上图画上古、盘古、李老等神及历代帝王之像。梁上又画仲尼七十二弟子、三皇以来名臣。”耆旧云“西晋太康中益州刺史张收笔。” [www.lotus-eater.cc] 欽定四庫全書 Khâm định tứ khố toàn thư 述異記卷上 Thuật dị kí quyển thượng 梁任昉撰 (Lương) Nhậm Phưởng soạn Ngày xưa vào lúc Bàn Cổ thị chết, đầu tạo thành bốn quả núi, mắt tạo thành Mặt trời, Mặt trăng, máu mỡ tạo thành sông biển, lông tóc tạo thành cây cỏ. Người vùng Tần Hán [miền sông Vị, sông Hán] nói rằng đầu của Bàn Cổ tạo thành Đông Nhạc [tức núi Thái Sơn], bụng tạo thành Trung Nhạc [tức núi Tung Sơn], tay trái tạo thành Nam Nhạc [tức núi Hành Sơn], tay phải tạo thành Bắc Nhạc [tức núi Hằng Sơn], chân tạo thành Tây Nhạc [tức núi Hoa Sơn]. Bậc nhà Nho thời xưa nói rằng Bàn Cổ thị khóc thì tạo thành sông ngòi, thở thì tạo thành gió, thét thì tạo thành sấm, mắt nhìn tạo thành sét. Người xưa nói rằng Bàn Cổ vui thì trời sáng tạnh, giận thì trời tối mưa. Người vùng Ngô Sở [vùng lưu vực sông Dương Tử] nói rằng Bàn Cổ là khởi đầu của âm dương, vợ chồng vậy. Ngày nay ở quận Nam Hải có mộ của Bàn Cổ, vòng quanh hơn ba trăm dặm. Người đời nói rằng là người đời sau truy táng hồn của Bàn Cổ vậy. Ở quận Quế Lâm có miếu thờ Bàn Cổ, người đời nay cúng tế. Ở giữ biển Nam Hải có nước Bàn Cổ, người đời nay đều lấy tên Bàn Cổ làm họ. Phưởng xét rằng Bàn Cổ thị là tổ của vạn vật trong đời đất, vậy thì vạn vật có gốc từ Bàn Cổ vậy. Tích Bàn Cổ thị chi tử dã, đầu vi tứ nhạc, mục vi nhật nguyệt, chi cao bi giang hải, mao phát vi thảo mộc. Tần Hán gian tục thuyết Bàn Cổ thị đầu vi Đông Nhạc, phúc vi Trung Nhạc, tả tí vi Nam Nhạc, hữu tí vi Bắc Nhạc, túc vi Tây Nhạc. Tiên Nho thuyết Bàn Cổ thị khấp vi giang hà, khí vi phong, thanh vi lôi, mục đồng vi điện. Cổ thuyết Bàn Cổ thị hỉ vi tình, nộ vi âm. Ngô Sở gian thuyết Bàn Cổ thị phu thê âm dương chi thủy dã. Kim Nam Hải hữu Bàn Cổ thị mộ, hoàn tam bách dư lí. Tục vân hậu nhân truy táng Bàn Cổ thi hồn dã. Quế Lâm hữu Bàn Cổ thị miếu, kim nhân chúc tự. Nam Hải trung Bàn Cổ quốc, kim nhân giai dĩ Bàn Cổ vi tính. Phưởng án Bàn Cổ thị thiên địa vạn vật chi tổ dã, nhiên tắc vạn vật thủy ư Bàn Cổ. 昔盤古氏之死也頭為四岳目為日月脂膏為江海毛髮為草木秦漢間俗説盤古氏頭為東岳腹為中岳左臂為南岳右臂為北 岳足為西岳先儒説盤古氏泣為江河氣為風聲為雷目瞳為電古説盤古氏喜為晴怒為隂吳楚間説盤古氏夫妻隂陽之始也今南海有盤古氏墓亘三百餘里俗云後人追葬盤古之 魂也桂林有盤古氏廟今人祝祀南海中盤古國今人皆以盤古為姓昉按盤古氏天地萬物之祖也然則生物始於盤古 [club.xilu.com] NỮ OA 女媧 楚辭 Sở từ Chiến quốc - Khuất Nguyên soạn 天問 Thiên vấn Nữ Oa cũng có thân thể, ai tạo ra bà ấy? Nữ Oa hữu thể, thục chế tượng chi? 女媧有體孰制匠之 [ctext.org] 淮南子 Hoài Nam Tử Tây Hán - Lưu An soạn 覽冥訓 Lãm minh huấn Vào thời xa xưa, bốn cột chống trời bị đổ, chín châu chia cắt, trời chẳng che trùm, đất chẳng xoay quanh; lửa cháy rừng rực mà chẳng thôi, nước ngập cuồn cuộn mà chẳng ngừng; thú dữ ăn thịt dân lanh, chim ác quắp bắt người già yếu. Do đó Nữ Oa luyện đá năm màu để vá trời xanh, chặt bốn chân của con ngao để dựng lại bốn cột chống, giết rồng đen để giúp Kí Châu, chất cỏ lau để ngăn nước lũ. Trời xanh được vá, bốn cột được dựng; nước lũ được cạn, Kí Châu được yên; trùng độc bị chết, dân lành được sống; lại nằm dựa lưng vào đất vuông, tay ôm lấy trời tròn; điều hòa mùa xuân, dương nóng mùa hạ, tiêu điều mùa thu, lạnh giá mùa đông, nằm thẳng kê gối; có âm dương tắc nghẽn không thông thì xoi sửa; có khí chướng vật độc, làm thương hại đến người dân thì ngăn chặn. Vào thời bấy giờ, nằm thì thoải mái, dậy thì ngơ ngác; thấy kia cho là con ngựa, nhìn nọ cho là con trâu; đi lại lảo đảo, nhìn ngó dọc ngang; thản nhiên đều được hòa hợp, chẳng ai biết vì sao mình được sinh, vất vưởng chẳng biết tìm cầu cái gì, lởn vởn chẳng biết về đâu. Vào thời lúc ấy, cầm thú rắn rết, chẳng con gì không cất móng vuốt, thu ẩn nọc độc, không có ý cắn quắp. Xét công lao của bà ấy, trên thấu chín tầng trời, dưới khắc vào đất vàng; tiếng tăm lừng đời sau, sáng chói trùm vạn vật. Đi xe tuyết, ngồi lưng rồng cánh, cưỡi lưng rồng xanh, cầm hòn ngọc đẹp, trải chiếu tranh, xõa mây vàng, trước có con li trắng dẫn đường, sau có con rắn chạy theo; ngao du dạo chơi, giao lưu với quỷ thần, trèo lên chín tầng trời, chầu Ngọc Đế ở cửa Linh Môn, chầu nghỉ dưới cửa Thái Nghi. Nhưng không nêu rõ công của mình, không tỏ ra tiếng tăm, ẩn cái đạo của bậc thần tiên để theo cái đạo tự nhiên của trời đất. Vì sao? Là vì đức trên thông với trời thì trí xảo tự tiêu trừ vậy. Vãng cổ chi thì, tứ cực phế, cửu châu liệt, thiên bất kiêm phúc, địa bất chu tải, hỏa lạm viêm nhi bất diệt, thủy hạo dương nhi bất tức, mãnh thú thực chuyên dân, chí điểu quắc lão nhược, ư thị Nữ Oa luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực. Sát hắc long dĩ tế Kí Châu, tích lô hôi dĩ chỉ dâm thủy. Thương thiên bổ, tứ cực chính, dâm thủy hạc, Kí Châu bình, giảo trùng tử, chuyên dân sinh. Bối phương châu, bão viên thiên, hòa xuân dương hạ, sát thu ước đông, chẩm phương tẩm thằng, âm dương chi sở ủng trầm bất thông giả, khiếu lí chi; nghịch khí lệ vật, thương dân hậu tích giả, tuyệt chỉ chi. Đương thử chi thì, ngọa cư cư, hưng miện miện, nhất tự dĩ vi mã, nhất tự dĩ vi ngưu, kì hành điên điên, kì thị minh minh, đồng nhiên giai đắc kì hòa, mạc tri sở do sinh, phù du bất tri sở cầu, võng lượng bất tri sở vãng. Đương thử chi thì, cầm thú phúc xà, vô bất nặc kì trảo nha, tàng kì thích độc, vô hữu quắc phệ chi tâm. Khảo kì công liệt, thượng tế cửu thiên, hạ khế hoàng lô, danh thanh bỉ hậu thế, quang huy trùng vạn vật. Thừa lôi xa, phục giá ứng long, tham thanh cầu, viên tuyệt thụy, tịch la đồ, hoàng vân lạc, tiền bạch li, hậu bôn xà, phù du tiêu dao, đạo quỷ thần, đăng cửu thiên, triều Đế ở Linh Môn, mật mặc hưu ư Thái Nghi chi hạ. Nhiên nhi bất chương kì công, ẩn chân nhân chi đạo, dĩ tòng thiên địa chi cố nhiên. Hà tắc? Đạo đức thượng thông, nhi trí cô tiêu diệt dã. 往古之時四極廢九州裂天不兼覆地不周載火爁炎而不滅水浩洋而不息猛獸食顓民鷙鳥攫老弱於是女媧煉五色石以補蒼天斷鼇足以立四極。殺黑龍以濟冀州積蘆灰以止淫水。蒼天補四極正淫水涸冀州平狡蟲死顓民生。背方州抱圓天和春陽夏殺秋約冬枕方寢繩陰陽之所壅沈不通者竅理之逆氣戾物傷民厚積者絕止之。當此之時臥倨倨興眄眄一自以為馬一自以為牛其行蹎蹎其視瞑瞑侗然皆得其和莫知所由生浮游不知所求魍魎不知所往。當此之時禽獸蝮蛇無不匿其爪牙藏其螫毒無有攫噬之心。考其功烈上際九天下契黃壚名聲被後世光暉重萬物。乘雷車服駕應龍驂青虯援絕瑞席蘿圖黃雲絡前白螭後奔蛇浮游消搖道鬼神登九天朝帝於靈門宓穆休於太宜之下。然而不彰其功不揚其聲隱真人之道以從天地之固然。何則道德上通而智故消滅也。 [zh.wikisource.org] 論衡 Luận hành Đông Hán - Vương Sung soạn 談天篇 Đàm thiên thiên Sách của nhà Nho nói rằng: Cộng Công tranh ngôi Đế với Chuyên Húc không thắng, giận mà húc đầu vào núi Bất Chu, khiến cho cột chống trời gãy, cắt đứt với đất. Do đó Nữ Oa nung chảy đá năm màu để vá trời, chặt chân của con ngao để dựng bốn cột chống, trời không đủ ở phía tây bắc, cho nên Mặt trời, Mặt trăng chuyển về phía ấy, đất không đủ ở phía đông nam, cho nên trăm sông đổ về phía ấy. Đấy là lời xa xưa rồi, là lời của người đời truyền tụng vậy. Đối với người văn nhã, thấy lạ mà chẳng cho là sai, mà nếu cho là sai thì cũng chẳng biết lấy gì mà bác bỏ được, lại e rằng đấy là đúng, không dám sửa lại. Theo đạo lí của trời người mà luận thì chắc chắn đấy là sai vậy. Nho thư ngôn: Cộng Công dữ Chuyên Húc tranh vi Thiên tử bất thắng, nộ nhi xúc Bất Chu chi sơn, sử thiên trụ chiết, địa duy tuyệt. Nữ Oa tiêu luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực, thiên bất túc tây bắc, nhật nguyệt di yên; địa bất túc đông nam, cố bách xuyên chú yên. Thử cửu viễn chi văn, thế gian thị chi ngôn dã. Văn nhã chi nhân, quái nhi vô dĩ phi, nhược phi nhi vô dĩ đoạt, hựu khủng kì thực nhiên. Dĩ thiên đạo nhân luận chi, đãi hư ngôn dã. 儒書言共工與顓頊爭為天子不勝怒而觸不周之山使天柱折地維絕。女媧銷煉五色石以補蒼天斷鰲足以立四極。天不足西北故日月移焉地不足東南故百川注焉。此久遠之文世間是之言也。文雅之人怪而無以非若非而無以奪又恐其實然不敢正議。以天道人事論之殆虛言也。 說文解字 Thuyết văn giải tự Đông Hán - Hứa Thận soạn 【女部】媧 Nữ bộ: Oa Vị nữ thần thánh thời cổ, là người tạo ra vạn vật vậy. Theo bộ 'nữ', thanh 'qua'. 'Qua', theo thể chữ trứu thì 'oa' theo bộ 'qua'. Cổ oa thiết. Cổ chi thần thánh nữ, hóa vạn vật giả dã. Tòng nữ qua thanh. Qua, trứu văn qua tòng qua. Cổ oa thiết. 古之神聖女化萬物者也。从女咼聲。籒文媧从。古蛙切 [www.zdic.net] 山海經海經新釋 Sơn hải kinh hải kinh tân thích 大荒西經 Đại hoang tây kinh Có vị thần mười thân, gọi là ruột của Nữ Oa [1], hóa thành thần, ở tại cánh đồng Túc Quảng [2], chặn ngang đường mà ở [3]. [1] Quách Phác [người thời Tây Tấn] nói: "Có người núi là bụng của Nữ Oa". [2] Quách Phác nói: "Nữ Oa là vị thần nữ mà làm vua thời xưa, mặt người thân rắn, trong một ngày biến bảy mươi lần, bụng của bà ấy hóa thành vị thần ấy. Túc Quảng là tên một cánh đồng. Oa, đọc là 'qua'". Kha [tức Viên Kha, người thời Dân quốc] xét: Quách chú: "Bụng của bà ấy hóa thành vị thần ấy", giống với quyển bảy mươi tám của sách Thái bình ngự lãm dẫn. Hữu thần thập nhân, danh viết Nữ Oa chi tràng [1], hóa vi thần, xứ Túc Quảng chi dã [2], hoàng đạo nhi xứ [3]. [1] Quách Phác vân: "Hoặc tác Nữ Oa chi phúc". [2] Quách Phác vân: "Nữ Oa, cổ thần nữ nhi đế giả, nhân diện xà thân, nhất nhật trung thất thập biến, kì phúc hóa vi thử thần. Túc Quảng, dã danh. Oa âm qua". Kha án: Quách chú: "Kì phúc hóa vi thử thần", Thái bình ngự lãm quyển thất bát dẫn đồng. 有神十人名曰女媧之腸化為神處栗廣之野橫道而處。 郭璞云「或作女媧之腹。」 郭璞云「女媧古神女而帝者人面蛇身一日中七十變其腹化為此神。栗廣野名。媧音瓜。」珂案郭注「其腹化為此神」藏經本腹作腸太平御覽卷七八引同。 [www.yasue.cc] 藝文類聚 Nghệ văn loại tụ 帝女媧氏 Đế Nữ Oa thị Đế Vương thế kỉ [của Hoàng Phủ Mật thời Tây Tấn soạn] chép: Đế Nữ Oa thị, cũng thuộc dòng Phong tính, làm ra lưỡi khèn, còn gọi là Nữ Hi, đấy là Nữ Hoàng. Vào thời cuối chư hầu là Cộng Công thị dùng việc giết chóc gây bạo, làm bá mà chẳng làm vua. Đế Vương thế kỉ viết: Đế Nữ Oa thị, diệc Phong tính, tác sinh hoàng, diệc xà thân nhân thủ, nhất viết Nữ Hi, thị vi Nữ Hoàng, kì mạt chư hầu Cộng Công thị, nhậm trí hình dĩ cường, bá nhi bất vương. 帝王世紀曰帝女媧氏亦風姓也作笙簧亦蛇身人首一曰女希是為女皇其末諸侯共工氏任知刑以強伯而不王 [zh.wikisource.org] 独异志 Độc dị chí 唐 李亢撰 Đường - Lí Kháng soạn Ngày xưa vào thời vũ trụ mới mở, chỉ có hai anh em Nữ Oa ở tại núi Côn Lôn mà thiên hạ chưa có người dân, bèn bàn nhau lấy làm vợ chồng, lại tự cho vậy là đáng hổ thẹn. Anh liền cùng em gái lên đỉnh núi Côn Lôn, người anh nói: "Nếu trời sai hai anh em ta làm vợ chồng thì đám mây kia tụ lại; nếu không sai thì đám mây kia tan ra". Do đó đám mây liền tụ lại, em gái liền đến chỗ anh, rồi buộc cỏ làm quạt để che mặt. Người thời nay lấy vợ thì cầm quạt là bắt chước việc ấy vậy. Tích vũ trụ sơ khai chi thì, chỉ hữu Nữ Oa huynh muội nhị nhân tại Côn Lôn sơn, nhi thiên hạ vị hữu nhân dân, nghị dĩ vi phu thê, hựu tự sai xỉ. Huynh tức dữ kì muội thượng Côn Lôn sơn, huynh viết: "Thiên nhược khiển ngã huynh muội nhị nhân vi phu thê nhi yên tất hợp; nhược bất sử, yên tán". Vu thị yên tức hợp, kì muội tức lai tựu huynh, nãi kết thảo vi phiến, dĩ chướng kì diện. Kim thì nhân thủ phụ chấp phiến, tượng kì sự dã. 昔宇宙初开之时只有女娲兄妹二人在昆仑山而天下未有人民议以为夫妻又自羞耻。兄即与其妹上昆仑山兄曰“天若遣我兄妹二人为夫妻而烟悉合若不使烟散。”于是烟即合其妹即来就兄乃结草为扇以障其面。今时人取妇执扇象其事也。 [book.guqu.net] 太平御览 Thái bình ngự lãm Tống - Lí Phưởng soạn 女娲氏 Nữ Oa thị Phong tục thông [của Ứng Thiệu thời Đông Hán soạn] chép: Người đời nói rằng vào thủa trời đất mới mở mang, bấy giờ chưa có người dân, Nữ Oa bèn lấy đất vàng để tạo ra con người, việc nhiều, sức chẳng thảnh thơi, bèn dẫn dây xuống trong bùn lầy để đưa lên làm thành con người. Cho nên người giàu có thì làm bằng đất vàng, người nghèo hèn tầm thường thì do dây kéo bùn lên làm ra vậy. Phong tục thông viết: Tục thuyết thiên địa khai tịch, vị hữu nhân dân, Nữ Oa chuyển hoàng tác nhân, kịch vụ, lực bất hạ cung, nãi dẫn thằng ư hoàn ni trung vu cử dĩ vi nhân. Cố phú quý giả hoàng thổ nhân dã, bần tiện phàm dung giả hoàn nhân dã. 《风俗通》曰俗说天地开辟未有人民女娲抟黄土作人剧务力不暇供乃引绳於縆泥中于举以为人。故富贵者黄土人也贫贱凡庸者縆人也。 [www.guoxue123.com] ____________________ Hình, tượng của Nữ Oa Thần Nông Thần Nông thị là một trong vị vua thời xa xưa của người Hoa Hạ, theo truyền thuyết là người phát minh ra nghề trồng trọt và làm thuốc chữa bệnh, ông ta từng nếm qua trăm loại cỏ, dạy người khác chữa bệnh và cày bừa. Cũng vì hai cống hiến trọng yếu ấy mà được người đời tôn xưng là "vị vua làm thuốc chữa bệnh", "vị vua trồng ngũ cốc", "vị vua đầu tiên trồng ngũ cốc", "vị vua lớn trồng trọt như thần", là vị thần coi giữ việc làm thuốc chữa bệnh và trồng trọt, không chỉ giúp đỡ việc trồng trọt thành công, người dân khỏe mạnh, mà còn được thầy thuốc, thầy chữa bệnh xem là vị thần bảo hộ. Theo truyền thuyết, Thần Nông thị có tướng mạo rất kì dị, thân thể gầy gò, thân thể ngoài bốn tay chân và đầu ra thì còn lại đều trong suốt, do đó thấy được nội tạng rõ ràng. Thần Nông thị từng nếm hết trăm loại cỏ, chỉ cần cỏ thuốc có độc thì nội tạng của ông ở trong bụng sẽ bị hiện ra màu đen. Do đó cỏ thuốc rất nhỏ nhưng đối với một bộ phận của thân người cũng có ảnh hưởng, vì thế dễ dàng biết được. Sau này, vì Thần Nông thị nếm uống rấy nhiều loại thuốc độc, chứa độc rất nhiều, cuối cùng mất mạng. Gần đây khảo cổ các di chỉ văn hóa Bùi Lí Cương, văn hóa Giả Hồ, khoảng vào 7.000 năm đến 10.000 năm trước, tại vùng đất Trung Nguyên lưu vực sông Hoàng Hà đã xuất hiện xã hội trồng trọt. Vì thời kì xa xưa chưa có chữ viết hoàn chỉnh, cho nên phần lớn là truyền thuyết tai miệng truyền chau. Nhưng có có không ít truyền thuyết liên quan đến Thần Nông thị. Cũng có sách cũ dùng hình thức thần thoại đề cập đến một số sự việc về Thần Nông thị: Dịch kinh - Hệ từ: "Thần Nông thị nổi lên, chặt gốc làm cái cuốc, đẽo gỗ làm cái cày, nêu rõ cái lợi của cày cuốc để dạy thiên hạ". Bạch hổ thông: "Người thời xưa đều ăn thịt cầm thú. Đến thời Thần Nông, người dân đông nhiều, cầm thú không đủ, đến đây Thần Nông dựa vào thời tiết của trời, chia lợi ích của đất, tạo ra cày cuốc, dạy dân trồng trọt". Thái bình ngự lãm dẫn Chu thư: "Thần Nông trồng trọt và làm ra đồ gốm". Sử kí - Bổ tam hoàng bản kỉ: "Thần Nông bắt đầu nếm trăm loại cỏ, bắt đầu làm thuốc chữ bệnh". Thế bản: "Thần Nông trộn thuốc cứu người". Hoài Nam Tử: "Nếm nị ngon của trăm loại cỏ, vị ngọt đắng của sông suối... một ngày mà nếm qua bảy mươi vị độc". Dạy dân trồng trọt Tương truyền là Thần Nông phát minh ra cách thức trồng trọt, ông sai trăm họ thu nhặt các loại lúa, sau đó gieo trên ruộng đất đã được khai khẩn. Tứ đó trăm họ liền noi theo cách ấy mà trồng trọt ngũ cốc, tên gọi Thần Nông thị có gốc như thế. Phát minh cày cuốc Thần Nông thị bắt đầu làm ra cày cuốc bằng gỗ, được cho là người đầu tiên phát minh ra nghề nông. Nếm trăm loại cỏ Tương truyền Thần Nông thị để phân biệt các loại cỏ thuốc, liền tự mình nếm qua, sau đó nếm thử một loại cỏ thuốc có độc mạnh mà không có cách gì giải độc được, cuối cùng hi sinh tính mạng. Thần Nông thị có một cái roi thần, dùng để giã các loại hoa cỏ, biết được đặc tính thuốc, độc, nóng, lạnh của hoa cỏ. Theo truyền thuyết, loại cỏ thuốc độc mạnh là "cỏ cắt ruột". Phát minh đồ gốm Thần Nông thị còn phát minh đồ gốm, đồ gốm xuất hiện cùng thời với nghề nông, được xem là một sáng tạo lớn sau khi biết dùng lửa. Dòng dõi của Thần Nông Tương truyền vào thời Viêm - Hoàng, Viêm Đế và Hoàng Đế đều là dòng dõi của Thần Nông thị, hai bộ lạc liên hợp hình thành dân tộc Hoa Hạ Viêm Đế bị Hoàng Đế đánh bại, Hoàng Đế làm thiên tử, một phần bộ lạc của Viên Đế rời khỏi lưu vực sông Hoàng Hà. Xi Vưu cũng là dòng dõi của Thần Nông thị, sau khi bộ lạc của Xi Vưu thua trận ở lưu vực sông Hoàng Hà, một phần nhập vào bộ lạc của Hoàng Đế, một phần chuyển về phía nam, sau lại sang phía tây. Ở vùng Ngạc, Tương, Quý đều có người Miêu sinh sống, là dòng dõi của Xi Vưu, vì tổ tiên làm nghề nông, cho nên có tên ấy. Xi Vưu là dòng dõi của Thần Nông thị, trình độ văn minh của bộ lạc của Xi Vưu vốn tương đối cao, chỉ vì sau khi thua trận mà dòng dõi phải chuyển cư ở vùng núi non xa cách, lâu ngày văn hóa đều không tiến bộ, lại thoái hóa, trở thành dân ở ngoài vòng giáo hóa. Chỗ ở của Thần Nông Tương truyền Thần Nông thị sinh ra ở núi Liệt Sơn, có người dựng "nhà cũ của Thần Nông" ở động Thần Nông tại núi Liệt Sơn thuộc thị trấn Lệ Sơn, cách phía bắc thành phố Tùy Châu tỉnh Hồ Bắc 40 km. "Nhà cũ của Thần Nông", có dựng hai chỗ ở động Thần Nông (một chỗ là cất giữ thóc lúa cỏ thuốc, một chỗ là nhà ở), còn có đình Thần Nông, tháp Thần Nông, miếu Thần Nông; ở phía nam núi dựng phòng trà Thần Nông, vườn hoa Thần Nông, đình Cửu Long và phía bắc núi có làm mấy chục chỗ như vườn trồng các loài cỏ, ao tắm của mẹ của Thần Nông là bà An Đăng. Vùng núi phía tây của tỉnh Hồ Bắc cũng có một chỗ gọi là "giá Thần Nông", cũng có quan hêh với Thần Nông thị, vì theo truyền thuyết Thần Nông thị từng từng đến chỗ ấy đặt giá làm thuốc. Động Thần Nông và bia Thần Nông Rời khỏi thành phố Tùy Châu 55 km đến trên núi Liệt Sơn, trong động vốn có bàn đá, ghế đá, bát đá và giường đá, theo truyền thuyết là đồ vật mà Thần Nông dùng. Núi Liệt Sơn còn có kiến trúc cổ như giếng Thần Nông, nhà Thần Nông, gác Thần Nông. Phía bắc thị trấn Lệ Sơn có một tấm bia "Viêm Đế Thần Nông thị", còn giữ được đến ngày nay. Từ ngữ chủ yếu 神農氏 Thần Nông thị: họ Thần Nông, ông Thần Nông, có nghĩa là "người làm nông giỏi như thần". 裴李岗文化 Bùi Lí Cương văn hóa: văn hóa Bùi Lí Cương là nền văn hóa thời kì đồ đá mới, niên đại: 9.000 - 7.000 năm trước, di chỉ tại thôn Bùi Lí Cương - thành phố Tân Trịnh - tỉnh Hà Nam - Trung Quốc mà có tên ấy. Con người thời này đã biết trồng cây lúa tắc (còn gọi là lúa khô, tiểu mễ) và chăn nuôi heo, bắt đầu biết làm đồ gốm. 贾湖文化 Giả Hồ văn hóa: văn hóa Giả Hồ là nên văn hóa thời kì đồ đá mới, niên đợi: muộn hơn văn hóa Bùi Lí Cương một chút, di chỉ tại thôn Giả Hồ - cách phía tây bắc thị trấn Vũ Độ - huyện Vũ Dương - thành phố Tháp Thị - tỉnh Hà Nam - Trung Quốc 1.5 km. Biết trồng lúa tắc, lúa nước, nấu rượu từ gạo, nho, làm sáo từ xương thú, khắc phù hiệu... Phả hệ của Viêm Đế Thần Nông thị - Đời thứ nhất là Thần Nông thị: gọi là Viêm Đế, Cũng gọi là Xích Đế, Liệt Sơn thị, sinh tại bờ sông Khương (một dải thành phố Bảo Kê - tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc ngày nay) hoặc ở núi Liệt Sơn (thành phố Tùy Châu - tỉnh Hồ Bắc ngày nay) cách nay khoảng hơn 4.000 năm. Lúc chết táng tại Trường Sa (tỉnh Hồ Nam ngày nay). Hậu duệ nổi danh là Hoàng Đế Hữu Hùng thị, Xi Vưu, Cộng Công, Bá Di. - Đời thứ hai là Đế Khôi: là con cả của Thần Nông thị, làm vua 80 năm. - Đời thứ ba là Đế Thừa: làm vua 60 năm. - Đời thứ tư là Đế Minh: làm vua 49 năm. - Đời thứ năm là Đế Trực: làm vua 45 năm. - Đời thứ sáu là Đế Lai: làm vua 48 năm. - Đời thứ bảy là Đế Ai: làm vua 42 năm. - Đời thứ tám là Đế Du Võng: làm vua 55 năm. Bị Hoàng Đế Hữu Hùng thị đánh bại, mất ngôi thủ lĩnh. - Đời thứ chín tên là Khí: con của Đế Du Võng. - Đời thứ mười tên là Chúc Dung: con của Khí, lúc chết được táng ở núi Hành Sơn (thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay). - Đời thứ mười một tên là Thuật Hiêu: con của Chúc Dung. - Đời thứ mười hai tên là Câu Long: con của Thuật Hiêu. - Đời thứ mười ba tên là Thùy: con của Câu Long. - Đời thứ mười bốn tên là Cộng Công: tranh ngôi vua với Chuyên Húc không được, húc đầu vào núi Bất Chu. - Đời thứ mười lăm tên là Bá Di: giúp vua Nghiêu coi giữ bốn ngọn núi lớn, giúp vua Vũ trị thủy, xét công được phong ở ấp Lữ, trở thành tổ tiên của họ Lữ. Khương thái công Lữ Thượng là hậu duệ. Trận đánh ở cánh đồng Trác Lộc Theo truyền thuyết, Viêm Đế là thủ lĩnh của bộ lạc họ Khương thời xưa. Tương truyền mẹ của ông tên là Nữ Đăng, một lần đi chơi ở phía nam núi Hoa, bị rồng thần quấn lấy thân, cảm ứng mà có thai, sinh ra Viêm Đế tại hang đá ở núi Liệt Sơn, thân người đầu bò, trên đầu có sừng, lớn lên ở bên sông Khương, có thánh đức, dựa vào hỏa đức mà làm vua, cho nên gọi là Viêm Đế. Lúc đầu bộ lạc của Viêm Đế sinh sống ở lưu vực sông Khương, sau đó đi vào giữa lưu vực sông Hoàng Hà, nảy sinh xung đột nhiều lần với bộ lạc Cửu Lê. Bấy giờ là thời Viêm Đế tên là Du Võng, thủ lĩnh của bộ lạc Cửu Lê tên là Xi Vưu, cũng là dòng dõi của Thần Nông thị, thân thú mặt người, đầu đồng chân sắt, trên tai mọc lông cứng như đao kiếm, có thể ăn được sỏi đá, lấy một số loài thú dữ làm vật tổ, có 81 thị tộc, là bộ lạc dũng mãnh thiện chiến. Xi Vưu đuổi Viêm Đế đế cánh đồng Trác Lộc (lưu vực sông Tang Can phía tây bắc tỉnh Hà Bắc ngày nay), Viêm Đế bèn đến chỗ Hoàng Đế cầu cứu, đánh Xi Vưu ở Trác Lộc. Hoàng Đế đánh bại Xi Vưu, được bầu làm thiên tử. Giới sử học còn theo một truyền thuyết khác, bấy giờ cuối thời Thần Nông thị suy yếu, Viêm Đế tên là Du Võng không hiệu lệnh được chư hầu, Hoàng Đế bắt đầu nuôi dưỡng lực lượng, đánh bại Du Võng ở Bản Tuyền. Sau đó Xi Vưu không thần phục, lại đánh Xi Vưu ở Trác Lộc, thống nhất chư hầu. Có một thông tin có liên quan tới dân Lạc Việt mà Lí tiên sinh chưa đề cập. Đó là Viêm Đế Lăng ở huyện Viêm Lăng, thuộc Chu Châu thị, tỉnh Hồ Nam 湖南省株洲市炎陵县. Nằm ở khoảng giữa lưu vực sông Tương, xưa được gọi là "cổ Lạc Việt chi địa", xem thông tin ở đây: [www.12edu.cn] Vùng này mãi đến cuối thời Chiến Quốc mới thuộc về nước Sở, lúc Khuất Nguyên (屈原 340 TCN - 278 TCN) bị đầy đến đất này thì vùng này vẫn còn bị coi chỗ rừng rú man di. Bản thân người Sở lúc đầu lập quốc cũng không nhận mình là "Hoa hạ", vua Sở Hùng Cừ từng nói: "Ta là dân man, ta không chịu nhận thụy hiệu của vua nhà Chu" Như vậy hơn hai ngàn năm lăng Viêm Đế ở trên đất Lạc Việt thì thị tộc nào đã giữ gìn coi sóc nó ? Hay có một nhóm người Hán giữ vùng lăng này hơn 2 ngàn năm, lọt vào giữa các nhóm Lạc Việt ? họ nói ngôn ngữ gì, phong tục tập quán có gì khác với dân lạc Việt không ? Lại thêm chuyện Tang Cung trong Hậu Hán thư cho biết người Lạc Việt từng cư trú ở huyện Trung Lư (nay là Nam Chương), lỵ phủ là Tương Dương - Phàn Thành, chỉ cách Liệt Sơn, quê hương Thần Nông khoảng 60km đường chim bay. Đây có phải là chuyện tình cờ không ? Đồng ý rằng Lạc Việt có nhiều nhóm tộc, nhưng tộc lớn nhất là Kinh tộc, gần gấp đôi tất cả các nhóm tộc kia cộng lại. Trong các nhóm tộc đó, ngoài Kinh tộc thì còn nhóm tộc nào có truyền thuyết tự xưng dòng dõi Thần Nông không ? Theo truyền thuyết Viêm Đế Thần Nông thị vì nếm phải cỏ độc mà chết, táng ở Trường Sa. Vậy thì nơi Thần Nông thị nếm phải cỏ độc là ở Trường Sa, cho nên táng ở đấy. Lăng ở đây hiểu theo nghĩa cổ là "gò đất lớn". Lăng Viêm Đế kể từ thời nhà Tống, năm Càn Đức thứ năm (năm 967 Công nguyên) cho "lập lăng miếu, làm tượng để tế", từ đó không ngừng tu sử mới có như ngày nay có tổng thể cả miếu, đền, đài, điện, bia, chùa... Khi chưa có sách vở chữ viết thì có "bia miệng". Những thị tộc, bộ lạc ở đất Tương đã làm cái bia miệng đó, để người đời sau biết rằng Viêm Đế đã mất và được táng ở đấy. Người Kinh và người Hán ra thì không một nhóm tộc nào thuộc Bách Việt nhận mình là dòng dõi Thần Nông cả. Bời vì những bộ lạc thuộc Bách Việt ấy dẫu thuộc vào bản đồ Trung Quốc từ thời Tần - Hán về sau, nhưng vẫn ở nơi rừng rú, không có Nho sĩ học theo văn hóa Tàu các Nho sĩ người Kinh từ thời Lí - Trần - Lê. Bản đồ khái quát cương vực thời kì đồ đá mới ở Trung Quốc 新石器時代 Thời kì đồ đá mới 公元前 6000 裴李崗文化誕生遺址在今河南北部 Năm 6000 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ ở phía bắc tỉnh Hà Nam ngày nay 公元前 5100 紅山文化誕生遺址遍佈遼河流域北部。 Năm 5100 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ phổ biến ở phía bắc lưu vực sông Liêu 公元前 5000 仰韶文化、北辛文化、河姆渡文化相繼誕生遺址分布於黃河流域及長江下游。 Năm 5000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Ngưỡng Thiều, văn hóa Bắc Tân, văn hóa Hà Mẫu Độ kế tiếp nhau, di chỉ phân bố ở lưu vực sôn Hoàng Hà và hạ du sông Trường Giang 公元前 4500 馬家窯文化誕生遺址在長江三角洲。 Năm 4500 TCN Khai sinh văn hóa Mã Gia Diêu, di chỉ ở vùng tam giác châu sông Trường Giang 公元前 4000 大汶口文化、大溪文化相繼誕生遺址分布於黃河下游及長江中游。 Năm 4000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Đại Vấn Khẩu, văn hóa Đại Khê văn kế tiếp nhau, di chỉ phân bố ở dụ du sông Hoàng Hà và trung du sông Trường Giang 公元前 3000 屈家嶺文化、石峽文化誕生遺址分別在今湖北及廣東境內。 Năm 3000 TCN Khai sinh văn hóa Khuất Gia Lĩnh, văn hóa Thạch Hiệp, di chỉ phân bố ở các tỉnh Hồ Bắc và Quảng Đông ngày nay 公元前 2600 龍山文化誕生遺址遍佈於黃河流域中國古史傳說的黃帝時代開始。 Năm 2600 TCN Khai sinh văn hóa Long Sơn, di chỉ phân bố ở lưu vực sông Hoàng Hà; mở ra thời kì Hoàng Đế truyền thuyết cổ sử Trung Quốc 公元前 2500 良渚文化誕生遺址在今浙江及江蘇南部境內。 Năm 2500 TCN Khai sinh văn hóa Lương Chử, di chỉ ở các tỉnh Chiết Giang và phía nam tỉnh Giang Tô ngày nay 新石器時代 Thời đại đồ đá mới Thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc (khoảng 3500 - 1500 TCN) bắt đầu có xuất hiện một số xã hội nông nghiệp, bởi vì con người thời kì này theo đuổi việc làm nghề trồng trọt và chăn nuôi, tương đối giữ gìn được tính ổn định, do đó cởi bỏ được sức lao động trong xã hội để theo đuổi hoạt động công nghệ, khiến cho văn hóa phát triển nhanh chóng. Di chỉ thời kì đồ đá mới phát hiện được ở Trung Quốc rất nhiều, các vùng trong cả nước đều có phát hiện, theo đó mà nói thì phân bố chủ yếu ở xung quanh lưu vực sông Hoàng Hà. Bấy giờ khí hậu ở vùng sông Hoàng Hà có ẩm ướt ấm áp hơn so với ngày nay, rừng cây sum suê, có nhiều loài động vật hoang dã, hồ và đầm ao có khắp miền bắc Trung Quốc. Cây trồng chủ yếu ở thời kì đồ đã mới là lúa tắc, lúa nếp; đồ vật đại biểu là đồ gốm. 仰韶文化(公元前4000年-前2000年) Văn hóa Ngưỡng Thiều (năm 4000-2000 TCN) Vì phát hiện sớm nhấy ở di chỉ thôn Ngưỡng Thiều - huyện Yểm Trì - tỉnh Hà Nam mà có tên ấy, là văn hóa giữa thời đại đồ đá mới. Một phái cho rằng tiền thân của văn hóa Ngưỡng Thiều là văn hóa Lão Quan Đài, văn hóa Lí Gia Thôn, Văn hóa Từ Sơn, văn hóa Bùi Lí Cương. Văn hóa Ngưỡng Thiều phân bố chủ yếu ở trung tâm vùng đất Trung Nguyên nơi hội tụ của lưu vực sông Hoàng Hà là các nhánh sông Vị, sông Phân, sông Lạc. Nền móng ở cùng tây bắc và miền Quan Trung có văn hóa đặc trưng không giống nhau, lại chia thành văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Trung Nguyên và văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Cam Túc. 紅山文化 (公元前4000年-前3000年 ) Văn hóa Hồng Sơn (năm 4000-3000 TCN) Di chỉ ở thành phố Xích Phong - tỉnh Nội Mông Cổ, là văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở phía đông nam tỉnh Nội Mông Cổ, phía tây tỉnh Liêu Ninh, phía bắc tỉnh Hà Bắc. Phát hiện khá nhiều đồ vật làm bằng ngọc, không có nhiều các loại đồ gốm nhưng có vẻ đặc trưng. 馬家窯文化( 公元前3300年-前2650年) Văn hóa Mã Gia Diêu (năm 3300-2650 TCN) Vì phát hiện ở thôn Mã Gia Diêu - huyện Lâm Thao - tỉnh Cam Túc mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu tại vùng thượng du sông Hoàng Hà. 良渚文化(公元前3300年-前2200年) Văn hóa Lương Chử (năm 3300 - 2200 TCN) Vì phát hiện ở thị trấn Lương Chử - huyện Dư Hàng - tỉnh Chiết Giang mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở vùng Thái Hồ. Đồ gốm đặc trưng là đồ gốm màu đen, chế tác sáng đẹp. Đồ ngọc điêu khác cũng tinh xảo, có nhiều chủng loại. 山東龍山文化(公元前2500年-前2000年 Văn hóa Long Sơn - tỉnh Sơn Đông (năm 2500 - 2000 TCN) Vì phát hiển ở thị trấn Long Sơn - huyện Chương Khâu - tỉnh Sơn Đông mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu ở giữa và phía đông tỉnh Sơn Đông, vùng phía bắc sông Hoài của tỉnh Giang Tô. Cư dân ở đây lấy việc trồng cây lúa tắc trên ruộng khô, chăn nuôi các loài gia súc như heo, bò, dê, chó và đánh bắt cá là chủ yếu. Kế thừa kĩ thuật chế tác đồ gốm của văn hóa Đại Vấn Khẩu, chế tác thành đồ gốm màu đen, vỏ gốm sáng mỏng như vỏ trứng. Ta nên chú ý, thời đại Thần Nông thị cho đến thời vua Nghiêu-Thuấn còn là thời đại đồ đá mới, dùng công cụ bằng đồ đá và đồ gốm; con người dẫu đã định canh định cư trồng trọt nhưng về quản lí xã hội (nhà nước) là chưa có chặt chẽ, nếu không muốn nói chưa có nhà nước, tức là chưa có chữ viết và con ngựa. Vậy thì làm gì có tri thức chính trị này kia? Cùng lắm chỉ là những kinh nghiệm mắt thấy tai nghe rồi truyền miệng cho nhau theo lối "thắt gút" mà thôi. Chuyện di cư vì chiến tranh hay chính trị thời xưa rất ít, mà có thì cũng chẳng đi được bao xa, bởi vì phương tiện không có (xe ngựa, thuyền lớn và quan trọng là con đường), chưa kể thời ấy đất rộng người thưa, nhiều vùng đồng bằng chưa được khai phá, rừng rậm, ao hồ và thú dữ còn nhiều, dễ làm "chùn bước" của những đoàn di dân. Chuyện dòng dõi Thần Nông là Lạc Long Quân chạy xuống Ngũ Lĩnh rồi Việt Nam là khó xảy ra. Họ không có động cơ để chạy xa như thế. Bấy giờ Hoàng Đế đánh Xi Vưu ở Trác Lộc (thuộc miền Hà Bắc), một bộ phận người Cửu Lê phải thiên di về phía nam, vượt sông Hoài, đến thời nhà Chu, ở vùng sông Hoài vẫn có nhóm dân gọi là 淮夷 Hoài Di, xa hơn chỉ đến vùng hồ Động Đình và hồ Bà Dương. Vào thời vua Thuấn, người Miêu ở đây làm loạn, vua Thuấn đi dẹp, chỉ đến núi Cửu Nghi mà thôi. Thực ra, theo truyền thuyết chép trong Lĩnh Nam chích quái, chẳng có cái gọi là "thiên di" về chiến tranh hay chính trị gì cả. Câu chuyện chỉ giải thích nguồn gốc dân Bách Việt là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ sau khi sinh 100 trứng và sự thành lập nước Văn Lang. Câu chuyện này chỉ là thần thoại có chủ ý của một nhóm tác giả Hán học từ thời Lí Trần về sau mà thôi. Nó hoàn toàn vô lí và không có cơ sở, nó phủ nhận hoàn toàn văn minh của người bản địa là do người bản địa tạo dựng từ sớm, ít ra cũng ngang ngửa với thời đại Thần Nông ở lưu vực sông Dương T 中國新石器時代文化遺址分布示意圖 Bản đồ biểu thị phân bố di chỉ văn hóa thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc Bàn Cổ - Nữ Oa - Thần Nông Dịch giả: Lý Nhĩ Chân 中國舊石器時代考古遺址分布圖 Bản đồ phân bố di chỉ khảo cổ thời đại đồ đá cũ ở Trung Quốc [hk.chiculture.net] Người đứng thẳng 元謀人 約公元前170萬年 Người Nguyên Mưu khoảng 170 vạn năm TCN 藍田人 約公元前80 萬 - 前50萬年 Người Lam Điền khoảng 80 - 50 vạn năm TCN 北京猿人 約公元前50 萬 - 前20萬年 Người vượn Bắc Kinh khoảng 50 - 20 vạn năm TCN 大洞文化 約公元前30 萬年 Đại Động văn hóa khoảng 30 vạn năm TCN 金牛山人 約公元前28 萬年 Người Kim Ngưu Sơn khoảng 28 vạn năm TCN Người tinh khôn thời kì sớm 大荔人 約公元前20 萬年 Người Đại Lệ khoảng 20 vạn năm TCN 馬壩人 約公元前20 萬 - 10萬年 Người Mã Bá khoảng 20 - 10 vạn năm TCN 丁村人 約公元前12 萬年 Người Đinh Thôn khoảng 20 - 10 vạn năm TCN Người tinh khôn thời kì muộn 柳江人 約公元前5 萬年 Người Liễu Giang khoảng 5 vạn năm TCN 河套人 約公元前5 - 前3.7萬年 Người Hà Sáo khoảng 5 - 3.7 vạn năm TCN 下川文化 約公元前3.6 萬 - 前1.3萬年 Văn hóa Hạ Xuyên khoảng 3.6 - 1.3 vạn năm TCN 山頂洞人 約公元前1.8 萬年 Người Sơn Đính Động khoảng 1.8 vạn năm TCN Bổ sử kí Tam hoàng bản kỉ (Đường - Tư Mã Trinh soạn chú) Tiểu Tư Mã thị [1] nói: Thái sử công soạn Sử kí, chép những việc thích đáng của vua tôi, những việc từ thủa khai tịch đến đương đại, cho là trước sau một nhà. Nay bỏ Tam hoàng mà lấy Ngũ đế làm đầu, đấy là vì Đại Đái lễ có Ngũ đế đức biên, lại vì các thế hệ của Đế vương đều theo thứ tự từ Hoàng Đế về sau, cho nên lấy Ngũ Đế bản kỉ làm đầu. Thật ra, thời Tam hoàng về trước, sách vở ít chép. Nhưng cái gốc của vua tôi, cái nguồn của giáo hóa, đã được bàn đến trong sử xưa, nhưng cũng không trọn vẹn. Gần đây, Hoàng Phủ Mật soạn Đế vương thế kỉ, Từ Chỉnh soạn Tam ngũ lịch, đều luận các việc từ thời Tam hoàng về sau. Đấy cũng là một bắng chứng của thời xưa, nay chọn mà tập hợp lại soạn thành Tam hoàng bản kỉ, dẫu còn nông cạn, nhưng tạm bổ khuyết vậy. Thái Hạo Bào Hi thị, họ Phong, thay Toại Nhân thị, theo trời mà làm vua. Mẹ là Hoa Tư, dẫm vào vết chân của người lớn [2] ở Lôi Trạch mà sinh ra Bào Hi ở Thành Kỉ. Thân rắn đầu người. Xét: Phục Hi họ Phong, được chép ở Quốc ngữ. Từ đoạn chép về Hoa Tư về sau xuất từ Đế vương thế kỉ. Còn Lôi Trạch là tên đầm, là chỗ mà vua Thuấn bắt cá, tại huyện Tế Âm. Thành Kỉ cũng là tên đất. Xét quận Thiên Thủy có huyện Thành Kỉ. Có thánh đức, ngẩng thì xem tượng ở trời, cúi thì xét hình ở đất, bên thì nhìn vết chân của chim thú, theo cái quy luật của trời đất. Gần thì tìm ở mọi người, xa thì tìm ở các vật, bắt đầu vẽ ra bát quái để thông cái đức của thần linh, để biết cái tính của vạn vật. Tạo thư khế [3] để thay lối thắt gút. Do đó bắt đầu định ra phép cưới hỏi, lấy da hươu làm lễ. Xét: Cổ sử khảo của Tiếu Chu chép: Phục Hi đặt ra phép cưới hỏi, lấy da hươu làm lễ. Kết lưới võng để dạy dân bắt cá, cho nên gọi là Mật Hi thị. Xét: Việc này xuất từ Hán thư - Lịch chí. Mật, đoc là 'phục'. Lấy nhà bếp dể nuôi gia súc, cho nên gọi là Bào Hi. Có điềm rồng, lấy rồng để đặt tên quan coi việc, gọi là Long sư. Làm ra cây đàn sắt có ba mươi lăm dây. Vua của mộc đức, chủ mùa xuân, cho nên Dịch chép là 'đế xuất ở quẻ chấn'. Trong chương Nguyệt lệnh - Mạnh xuân là Đế Thái Hạo vậy. Xét: Làm vua ở miền đông, nhìn sự sáng rỡ của Mặt trời, cho nên gọi là Thái Hạo. Hạo là sáng rỡ vậy. Đóng đô ở đất Trần, đến phía đông phong thiện ở núi Thái Sơn, làm vua một trăm mười một năm thì bằng. Xét: Hoàng Phủ Mật nói Phục Hi được táng ở Nam Quận, có người nói mộ ở phía tây huyện Cao Bình quận Sơn Dương. Dòng dõi ở vào thời Xuân thu là vua của các nước Nhâm, Túc, Tu, Câu, Chuyên Du, đều là con cháu họ Phong. Nữ Oa thị cũng họ Phong, thân rắn đầu người, có đức thần thánh, thay Mật Hi mà làm vua, hiệu là Nữ Hi thị. Không có sáng tạo gì ngoài làm ra khèn sinh hoàng,Xét: Lễ kí - Minh đường và Hệ bản đều chép Nữ Oa làm ra khèn hoàng. cho nên Dịch không chép, không nối theo ngũ hành. Có người nói Nữ Oa cũng là vua của mộc đức, có lẽ là dòng dõi của Mật Hi đã qua được mấy đời rồi. Kim mộc luân chuyển một vòng lại về lúc đầu. Nêu riêng Nữ Oa ở đây là vì có công cao, xếp vào Tam hoàng, cho nên là vua của mộc đức vậy. Vào cuối thời ấy, chư hầu là Cộng Công thị dùng trí hình, làm việc cường bạo mà không theo phục. Lấy thủy thay mộc, bèn đánh với Chúc Dung, không thắng mà giận, rồi húc đầu vào núi Bất Chu, núi lở, cột trời gãy, mạch đất sụt. Nữ Oa bèn luyện đá năm màu để vá trời, chặt chân con ngao [4] để dựng bốn cột, tụ cây lau để ngăn nước lụt, để giúp Kí châu. Xét việc này xuất từ Hoài Nam Tử. Do đó đất bằng trời tròn, không đổi vật cũ. Nữ Oa thị mất, Thần Nông thị thay. Xét: Những người chép về Tam hoàng không giống nhau. Tiếu Chu lấy Toại Nhân là hoàng. Tống Quân lấy Chúc Dung là hoàng. Trịnh Huyền dựa theo Xuân thu vĩ lấy Nữ Oa là hoàng, thay Phục Hi. Hoàng Phủ Mật cũng như thế. Nay tôi theo đó mà nói. Viêm Đế Thần Nông thị, họ Khương, mẹ là Nữ Đăng, con gái của Hữu Oa thị, làm vợ của Thiếu Điển. Cảm rồng thần mà sinh ra Viêm Đế, thân người đầu bò, lớn lên ở bên sông Khương, nhân đó đặt làm họ. Xét: Quốc ngữ chép: Viêm Đế, Hoàng Đế đều là con của Thiếu Điển, mẹ của họ đều là con gái của Hữu Oa thị. Xét các sách và Cổ sử khảo, từ thời Viêm Đế về sau cả thảy là tám đời, được hơn năm trăm năm, đến đây Hiên Viên thị nổi lên. Há có việc Viêm Đế, Hoàng Đế đều là anh em cùng hẹ sao? Hoàng Phủ Mật cho rằng Thiếu Điển, Hữu Oa thị là quốc hiệu của chư hầu, nhưng hai vua họ Cơ và Khương cùng xuất từ Thiếu Điển, vậy thì mẹ của Hoàng Đế chỉ là con gái đời sau của mẹ của Thần Nông thị, đều là con gái của Hữa Oa thị vậy. Là vua của hỏa đức, cho nên gọi là Viêm Đế. Lấy lửa để đặt tên quan coi việc. Đẽo gỗ làm quốc, chặt gỗ làm cày, làm các đồ cày cuốc để dạy muôn người. Vì dạy trồng trọt, cho nên gọi là Thần Nông thị. Do đó đặt ra lễ tế chạp, lấy roi đỏ để khoa cây cỏ. Bắt đầu nếm trăm loại cỏ, mới có thuốc chữa bệnh. Lại làm đàm sắt có năm dây. Dạy dân vào giữa ngày họp chợ, trao đổi xong thì về, đều đâu vào đấy. Rồi chồng bát quái đơn thành 64 quẻ. Lúc đầu đóng đô ở đất Trần, sau lại trú ở Khúc Phụ. Xét: Huyện Hoài Dương ngày nay có giếng Thần Nông. Lại theo Tả truyện chép nước Lỗ có kho của Đại Đình thị. Làm vua một trăm hai mươi năm thì băng, táng ở Trường Sa. Thần Nông vốn nổi lên ở núi Liệt Sơn, cho nên Tả thị gọi là con của Liệt Sơn thị gọi là Trụ, cũng gọi là Lệ Sơn thị có thiên hạ vậy. Xét: Trịnh Huyền nói: Lệ Sơn là chỗ Thần Nông sinh ra, cũng gọi là Liệt Sơn. Hoàng Phủ Mật nói: Lệ Sơn thuộc làng Lệ Hương huyện Tùy Châu ngày nay. Thần Nông thị lấy con gái của Bôn Thủy thị, gọi là Thính Bạt làm vợ, sinh ra Đế Ai, Đế Ai sinh ra Đế Khắc, Đế Khắc sinh ra Đế Du Võng, cả thảy tám đời, được năm trăm ba mươi năm thì Hiên Viên thị nổi lên. Xét: Từ thời Thần Nông về sau là tám đời, việc này thấy chép trong Đế vương thế kỉ và Cổ sử khảo. Nhưng sách cũ lại không chép. Huống cho hai họ Tiếu-Hoàng đều là người quân tử nổi danh thời trước, khảo xét sách cũ mà soạn? Há đến nay lại xuyên tạc sao? Cho nên tôi theo đó mà nói. Dịch chép là Thần Nông thị mất, tức Du Võng vậy. Du Võng cũng nối hiệu của Thần Nông. Dòng dõi có vua của các nước Châu, Phủ, Cam, Hứa, Hi, Lộ, Tề, Kỉ, Thai, Hướng, Thân, Lữ, đều là hậu duệ của họ Khương, đều làm chư hầu, hoặc chia ra làm Tứ nhạc. Vào thời nhà Chu có Phủ Hầu, Thân Bá, là Tướng quốc giỏi của nhà vua. Các nước Tề, Hứa xếp làm chư hầu, làm bá ở Trung Quốc. Có lẽ là vì đức của thánh nhân rộng lớn, cho nên hậu duệ được hưng thịnh lâu dài vậy. Có người nói Tam hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng làm Tam hoàng. Vì vào buổi đầu khai tịch, mới có vua tôi. Điều mà các sách xưa chép, không nên bỏ hết, cho nên hợp vào đây theo trình tự. Trời đất mới lập, có Thiên Hoàng thị, thân có mười hai đầu. Đơn sơ chẳng làm gì cả mà tục tự hóa. Làm vua của mộc đức, tính năm kể từ sao Nhiếp đề. Có mười hai người anh em, mỗi vị đều sống đến một vạn tám nghìn tuổi. Có lẽ trời đất mới lập, có người thần xuất hiện hành hóa, cho nên niên đại lâu dài. Nhưng nói là có mười hai đầu, đấy chẳng phải là thân của một người có mười hai đầu vậy. Có lẽ là thời xưa sánh với số đầu của chim thú. Địa Hoàng có mười một đầu, làm vua của hỏa đức, có mười một người anh em, nổi lên ở các núi Hùng Nhĩ, Long Môn, mỗi vị cũng đều sống đến một vạn tám nghìn tuổi. Nhân Hoàng có chín đầu, cưỡi xe mây cắm sáu lông chim, ra từ cửa hang. Có chín anh em, chia ra làm vua của chín châu, đều dựng thành ấp, cả thảy một trăm năm mười đời, hợp lại là bốn vạn năm nghìn sáu trăm năm. Từ thời Thiên Hoàng về sau, đều chép ở Hà đồ và Tam ngũ lịch. Từ thời Nhân Hoàng về sau có Ngũ Long thị, Ngũ Long thị, có năm người anh em, cùng cưỡi rồng lên xuống, cho nên gọi là Ngũ Long thị Toại Nhân thị, Xét: Vua này dùi gỗ tạo ra lửa, dạy dân nấu chín đồ ăn, ở trước thời Phục Hi thị. Tiếu Cho lấy Toại Nhân làm đầu của Tam hoàng Đại Đình thị, Bách Hoàng thị, Trung Ương thị, Quyển Tu thị, Lật Lục thị, Li Liên thị, Hách Tư thị, Tôn Lô thị, Hồn Độn thị, Hạo Anh thị, Hữu Sào thị, Chu Tương thị, Cát Thiên thị, Âm Khang thị, Vô Hoài thị, đấy có lẽ là hiệu của những vị có được thiên hạ sau thời Tam hoàng, Xét: Hoàng Phủ Mật cho rằng từ thời Đại Đình thị về sau có mười lăm vị vua, đều nối hiệu Phục Hi. Việc này không thấy qua, khó mà dựa theo. Nhưng xét những vị vua từng phong thiện ở núi Thái Sơn, trước thì có Hữu Hoài thị là trước thời Thái Hạo; chẳng lẽ đúng như lời mà Mật nói? nhưng sách vở không chép, chẳng biết họ, niên đại, chỗ mà các vị ấy đóng đô. Nhưng Hàn thi cho rằng từ xưa có hơn vạn vị phong thiện ở đỉnh Lương Phủ núi Thái Sơn. Trọng Ni xem xét cũng không thể biết hết. Quản Tử cũng nói có bảy mươi hai vị phong thiện ở núi Thái Sơn. Di Ngô cũng nói là có mười hai vị. Lúc đầu thì có Vô Hoài thị, vậy thì trước thời Vô Hoài thị, từ thời Thiên Hoàng về sau, niên đại xa xăm, các Đế vương làm sao mà lên mà tế cáo được! Nhưng sách cổ đã mất, không thể luận được, há bảo là không có đế vương sao? Cho nên Xuân thi vĩ nói là từ thủa khai tịch rất là rực rỡ, cả thảy ba trăm hai mươi bảy vạn sáu nghìn tuổi, chia làm mười kỉ. Cả thảy chín đời, một vạn sáu trăm năm: một là kỉ Cửu Đầu, hai là kỉ Ngũ Long, ba là là Nhiếp Đề, bốn là kỉ Hợp Lạc, năm là kỉ Liên Thông, sáu là kỉ Tự Mệnh, bảy là lẻ Tu Phi, tám là kỉ Hồi Đề, chín là kỉ Chiến Thông, mười là kỉ Lưu Cật. Có lẽ kỉ Lưu Cật ứng vào thời Hoàng Đế, đặt ở trong chín kỉ , cho nên nên chép ở đây, bổ thêm vào vậy. [www.sidneyluo.net] ____________________ Chú thích: [1] Tiểu Tư Mã thị: tức Tư Mã Trinh tự gọi mình, nghĩa là người họ Tư Mã hèn kém. [2] Người lớn: chỉ người khổng lồ, to lớn khác thường. [3] Thư khế: một dạng chữ viết cổ theo lối tượng hình. [4] Con ngao: theo truyền thuyết là một con rùa lớn.
-
Các bản dịch của tác giả Dong Yi Sử kí - Ngô Thái Bá thế gia: 太伯之犇荊蠻,自號勾吳。荊蠻義之,從而歸之千餘家,立為吳太伯。 Thái Bá chi bôn Kinh Man, tự hiệu Câu Ngô. Kinh Man nghĩa chi, tòng nhi quy thiên dư gia, lập vi Ngô Thái Bá. (Thái Bá bỏ trốn đến đất Kinh Man, tự hiệu là Câu Ngô. Người Kinh Man khen nghĩa, có hơn nghìn nhà theo về ông, lập làm Ngô Thái Bá.) ___________ Sử kí - Việt Vương Câu Tiễn thế gia: 夏后帝少康之庶子也,封於會稽,以奉守禹之祀。 Hạ Hậu đế Thiếu Khang chi thứ tử dã, phong ư Cối Kê, dĩ phụng thủ Vũ chi tự. (Con thứ của vua Thiếu Khang nhà Hạ Hậu được phong ở đất Cối Kê để trông coi việc cúng tế vua Vũ.) ____________ Ngụy lược: 昔箕子之後朝鮮侯,見周衰,燕自尊為王,欲東略地,朝鮮侯亦自稱為王。 Tích Cơ Tử chi hậu Triều Tiên hầu, kiến Chu suy, Yên tự tôn vi vương, dục đông lược địa, Triều Tiên hầu diệc tự xưng vi vương. (Ngày xưa dòng dõi của Cơ Tử làm vua Triều Tiên, gặp lúc nhà Chu suy, vua nước Yên tự xưng vương, muốn lấn sang phía đông, vua Triều Tiên cũng tự xưng làm vương.) 高辛氏有老婦,居王室,得耳疾,挑之,乃得物大如繭。婦人盛瓠中,覆之以槃,俄頃化為犬,其文五色,因名槃瓠。 Cao Tân thị hữu lão phụ, cư vương thất, đắc nhĩ tật, khiêu chi, nãi đắc vật đại như kiển. Phụ nhân thịnh hồ trung, phục chi dĩ bàn, nga khoảnh hóa vi khuyển, kì văn ngũ sắc, nhân danh Bàn Hồ. (Họ Cao Tân có bà vợ già ở trong nhà của vua, có bệnh ở tai, khều ra được một vật lớn như cái kén. Người vợ cho cái kén vào trong quả bầu, lấy nắp đậy, chốc lát hóa thành con chó, thân có năm màu, nhân đó đặt tên là Bàn Hồ.) ______________ Sử kí - Hung Nô liệt truyện: 匈奴其先祖夏后氏之苗裔也,曰淳維。唐虞以上有山戎、獫狁、葷粥,居于北蠻,隨畜牧而轉移。 Hung Nô kì tiên tổ Hạ Hậu thị chi miêu duệ dã, viết Thuần Duy. Đường Ngu dĩ thượng hữu Sơn Nhung, Hiểm Duẫn, Huân Dục, cư vu Bắc Man, tùy súc mục nhi chuyển di. (Tổ tiên người Hung Nô là dòng dõi họ Hạ Hậu, tên là Thuần Duy. Thời Đường-Ngu về trước có Sơn Nhung, Hiểm Duẫn, Huân Dục trú ở chỗ người Man miền bắc, theo vật nuôi mà di chuyển.) _____________ Hoa Dương quốc chí - Ba Thục chí: 武王既克殷,以其宗姬封於巴,爵之以子。 Vũ Vương kí khắc Ân, dĩ kì tông Cơ phong ư Ba, tước chi dĩ tử. (Vũ Vương đã diệt nhà Ân, dùng người họ Cơ phong ở đất Ba, cho lấy tước tử.) 蜀之為國,肇於人皇,與巴同囿。至黃帝,為其子昌意娶蜀山氏之女,生子高陽,是為帝嚳。封其支庶於蜀,世為侯伯。歷夏、商、周。武王伐紂,蜀與焉。 Thục chi vi quốc, triệu ư Nhân Hoàng, dữ Ba đồng hữu. Chí Hoàng Đế, vi kì tử Xương Ý thú Thục Sơn thị chi nữ, sinh tử Cao Dương , thị vi đế Khốc. Phong kì chi thứ ư Thục, thế vi hầu bá. Lịch Hạ, Thương, Chu, Vũ Vương phạt Trụ, Thục dữ yên. (Người Thục dựng nước có từ thời Nhân Hoàng, cùng chỗ với người Ba. Đến thời Hoàng Đế, cho con tên là Xương Ý lấy con gái họ Thục Sơn, sinh con tên là Cao Dương, đấy là Đế Khốc. Phong con thứ của mình ở đất Thục, thay nhau làm hầu bá. Trải qua thời Hạ, Thương, Chu. Vũ Vương đánh vua Trụ, người Thục cũng đi theo.) _______________ Đế Vương thế kỉ của Hoàng Phủ Mật thời nhà Tấn (thế kỉ 3) chép họ Thần Nông truyền được tám đời (khoảng trên dưới 500 năm): 神農氏 Thần Nông Thị 帝承 Đế Thừa 帝臨 Đế Lâm 帝明 Đế Minh 帝直 Đế Trực (còn chép là 帝宜 Đế Nghi) 帝來 Đế Lai (còn chép là 帝釐 Đế Li) 帝哀 Đế Ai 帝榆罔 Đế Du Võng. Sử kí - Ngũ đế bản kỉ: (Hán - Tư Mã Thiên soạn; Đường - Trương Thủ Tiết chính nghĩa) 黃帝居軒轅之丘,而娶於西陵之女,【正義】西陵,國名也。是為嫘祖。 Hoàng Đế cư Hiên Viên chi khâu, nhi thú ư Tây Lăng chi nữ, Chính nghĩa: Tây Lăng, quốc danh dã. thị vi Luy Tổ. (Hoàng Đế ở tại gò Hiên Vi, lại lấy con gái họ Tây Lăng, Chính nghĩa: Tây Lăng là tên nước. đấy là Luy Tổ. ____________ Thông giám ngoại kỉ: (Bắc Tống - Lưu Thứ soạn) 西陵氏之女嫘祖爲帝之妃,始教民育蠶,治絲繭以供衣服。 Tây Lăng thị chi nữ Luy Tổ vi Đế chi phi, thủy giáo dân dục tàm, trị ti kiển dĩ cung y phục. (Con gái họ Tây Lăng tên là Luy Tổ là vợ của [Hoàng] Đế, bắt đầu dạy dân nuôi tằm lấy xe tơ kén để làm áo mặc.) Sơn hải kinh - Đại hoang bắc kinh: 蚩尤作兵伐黃帝,黃帝乃令應龍攻之冀州之野。應龍畜水,蚩尤請風伯雨師,縱大風雨。黃帝乃下天女曰魃,雨止,遂殺蚩尤。魃不得復上,所居不雨。叔均言之帝,後置之赤水之北。叔均乃為田祖。魃時亡之。所欲逐之者,令曰:「神北行!」先除水道,決通溝瀆。 Si Vưu tác binh phạt Hoàng Đế, Hoàng Đế nãi lệnh ứng long công chi Kí châu chi dã. Ứng long súc thủy, Si Vưu thỉnh phong bá vũ sư, túng đại phong vũ. Hoàng Đế nãi hạ thiên nữ viết Bạt, vũ chỉ, toại sát Si Vưu. Bạt bất đắc phục thượng, sở cư bất vũ. Thúc Quân ngôn chi đế, hậu trí chi Xích thủy chi bắc. Thúc Quân nãi vi điền tổ. Bạt thời vong chi. Sở dục trục chi giả, lệnh viết: "Thần bắc hành!" Tiên trừ thủy thủy đạo, quyết thông câu độc. (Si Vưu dấy binh đánh Hoàng Đế, Hoàng Đế bèn sai ứng long [rồng có cánh] đánh Si Vưu ở cánh đồng châu Kí. Ứng long chứa nước, Si Vưu xin thần mưa thần gió đến tung ra mưa gió lớn. Hoàng Đế liền cho người con gái trên trời tên là Bạt xuống, mưa ngớt, cuối cùng giết Si Vưu. Bạt không lên trời được nữa, ở đâu thì nơi đó không có mưa. Thúc Quân nói với Hoàng Đế, sau đó cho Bạt đến ở phía bắc sông Xích. Thúc Quân lại làm thần ruộng. Bấy giờ Bạt cũng không cho mưa xuống. Có kẻ muốn đuổi bạt đi, lệnh rằng: "Thần hãy về phía bắc đi!" Liền sửa đường thủy trước, vét thông ngòi rãnh.) _______________ Ngư hà đồ: 黃帝攝政,有蚩尤兄弟八十一人,並獸身人語,銅頭鐵額,食沙石子,造立兵仗刀戟大弩,威振天下,誅殺無道,不慈仁。萬民欲令黃帝行天子事,黃帝以仁義不能禁止蚩尤,乃仰天而歎。天遣玄女下授黃帝兵信神符,制伏蚩尤,帝因使之主兵,以制八方。蚩尤沒後,天下復擾亂,黃帝遂畫蚩尤形像以威天下,天下咸謂蚩尤不死,八方萬邦皆為弭服。」 Hoàng Đế nhiếp chính, hữu Si Vưu huynh đệ bát thập nhất nhân, tịnh thú thân nhân ngữ, đồng đầu thiết ngạch, thực sa thạch tử, tạo lập binh trượng đao kích đại nỗ, uy chấn thiên hạ, tru sát vô đạo, bất từ nhân. Vạn dân dục lệnh Hoàng Đế hành thiên tử sự, Hoàng Đế dĩ nhân nghĩa bất năng cấm chỉ Si Vưu, nãi ngưỡng thiên nhi thán. Thiên khiển huyền nữ hạ thụ Hoàng Đế binh tín thần phù, chế phục Si Vưu, Đế nhân sử chi chủ binh, dĩ chế bát phương. Si Vưu một hậu, thiên hạ phục ưu loạn, Hoàng Đế toại họa Si Vưu hình tượng dĩ uy thiên hạ, thiên hạ hàm vị Si Vưu bất tử, bát phương vạn bang giai nhị phục. (Hoàng Đế nhiếp chính, có tám mươi mốt anh em của Si Vưu, đều mình thú mà nói tiếng người, đầu đồng trán sắt, ăn hòn cát đá, chế tạo nỏ lớn đao kích binh trượng, oai chấn thiên hạ, đánh giết vô đạo, không có lòng nhân từ. Muôn dân muốn cho Hoàng Đế làm việc thiên tử. Hoàng Đế làm việc nhân nghĩa nên không ngăn ngừa được Si Vưu, bèn ngẩng mlên trời mà than. Trời sai huyền nữ [nữ thần mặc áo đen] xuống trao bùa thần ấn tín cho Hoàng Đế, chế phục Si Vưu, Đế nhân đó sai Si Vưu chủ việc binh để ngăn chế tám phương. Sau khi Si Vưu chết, thiên hạ lại nhiễu loạn, Hoàng Đế bèn vẽ hình tượng Si Vưu để uy hiếp thiên hạ, thiên hạ đều bảo là Si Vưu không chết, cho nên muôn nước tám phương đều chịu phục.) Các ngôi sao, chòm sao không phải lấy tên từ một nhân vật có thật, mà có thể là tên chung của một người phụ nữ, hay tên chung của đàn ông, hay đơn giản là tên một loài vật, sự việc nào đó. Ví dụ sao Đẩu 斗 là ngôi sao trong chòm sao Bắc đẩu, có hình giống cái đẩu (thìa, muôi), chòm sao Cự giải 巨蟹 là chom con cua lớn... Sao Vụ nữ 婺女 ở phía nam trên bầu trời, ứng với địa phận nước Ngô-Việt, thời Tùy-Đường có đặt ra Vụ châu 婺州 trị ở huyện Kim Hoa tỉnh Chiết Giang ngày nay, đều là dựa vào thiên văn học cả. Tư Mã Trinh sách ẩn: Nhĩ nhã chép: "Tu nữ còn gọi là Vụ nữ". Còn chép là 'vụ'. Trương Thủ Tiết chính nghĩa: Tu nữ là ngôi sao thứ tư, cũng là sao Vụ nữ, thiên thiếu phủ. Nam đẩu, Khiên ngưu, Tu nữ đều là tên ngôi sao. Vào cung thần tại giờ sửu, thuộc địa phận nước Việt, còn sao Đẩu ngưu thuộc địa phận nước Ngô. Tu nữ là tên gọi của người hầu thiếp, địa vị thấp trong giới phụ nữ, chủ việc làm vải lụa cưới hỏi. 【索隱】爾雅云「須女謂之務女」是也。一作「婺」。【正義】須女四星,亦婺女,天少府也。南斗、牽牛、須女皆為星紀,於辰在丑,越之分野,而斗牛為吳之分野也。,須女,賤妾之稱,婦職之卑者,主布帛裁製嫁娶。 九天玄女 Cửu thiên huyền nữ là tên gọi xuất hiện từ thời Đường-Tống về sau khi đạo giáo đã phát triển, trong sách 墉城集仙錄 của Đỗ Quang Đình thời Đường có chép vị tiên từ Tây Vương Mẫu về sau, trí tưởng tượng thật là tuyệt luân! Chung quy lại cũng xuất từ thời Xuân thu - Chiến quốc, có chép một vị nữ thần mặc áo đen (trong Sơn hải kinh) từ trên trời sa xuống giúp Hoàng Đế Hiên Viên đánh Si Vưu. Suy xa hơn có lẽ là từ tín ngưỡng thờ vật tổ (tô tem) là loài chim đen (chim én) của người Đông Di, như "huyền điểu sinh Thương". 神農 Thần Nông hoặc là 神農氏 Thần Nông Thị, là danh từ viết hoa, chứ không phải là 'thần nông' hay 'nông thần'. Thần Nông là một nhân vật lịch sử truyền thuyết, được xem là ông tổ của họ Khương, ông sinh ở Liệt Sơn 列山, cho nên còn gọi là 列山氏 Liệt Sơn Thị. Tôi đã thử tra từ 'nông thần' 農神, thật ngạc nhiên, trong cổ sử chẳng có sách nào dùng từ này với nghĩa như trên. Ngược lại người ta thờ Hậu Tắc 后稷 - tên là Khí, ông tổ của nhà Chu, với nghĩa là 'thần lúa', xem như là 'thần nông', vị thần chủ quản nghề nông, như trong từ 社稷xã tắc tức là thần đất và thần lúa, chỉ cái gốc của quốc gia là đất và lúa vậy. Như vậy đã rõ nghĩa Thần Nông 神農 là "người cày ruộng giỏi như thần", một người họ Liệt Sơn giỏi cày ruộng, dạy dân trồng lúa, như Ban Cố trong Hán thư - Luật lịch chí đã nói: 教民耕農,故天下號曰神農氏 (Dạy dân cày cấy, cho nên thiên hạ gọi là họ Thần Nông) Văn phạm từ Thần Nông giống các từ: thần thoại (lời thần), thần oai (oai thần), thần nhân (người thần), thần thông thần toán thần kì... Tôi dẫn sách thời Tiên Tần, thời Tần-Hán nói về Thần Nông cho bác xem, bác sẽ có quan điểm rõ thôi: Thần Nông 神農 Thần Nông Thị 神農氏 Liệt/Lệ Sơn Thị 列山氏 厲山氏 Viêm Đế 炎帝 Xích Đế 赤帝 Lễ kí - Tế pháp: 厲山氏之有天下也,其子曰農,能殖百穀。夏之衰也,周棄繼之,故祀以為稷。 Lệ Sơn Thị chi hữu thiên hạ dã, kì tử viết Nông, năng thực bách cốc. Hạ chi suy dã, Chu Khí kế chi, cố tự dĩ vi Tắc. (Vào thời họ Lệ Sơn có thiên hạ, con của họ tên là Nông, biết trồng các cây lúa. Vào lúc nhà Hạ suy thì có tổ tiên của nhà Chu tên Khí lên thay, cho nên lấy thờ làm thần lúa.) 鄭玄注:“厲氏,炎帝也,起于厲山,或曰有烈山氏。” Trịnh Huyền chú: "Lệ thị, Viêm Đế dã, khởi vu Lệ Sơn, hoặc viết hữu Liệt Sơn thị". (Trịnh Huyền chú: "Họ Lệ (Sơn) là Viêm Đế, nổi lên ở Lệ Sơn, có sách chép là có họ Liệt Sơn". _______________ Quốc ngữ - Lỗ ngữ: 昔烈山氏之有天下也,其子曰柱,能殖百穀百蔬。夏之興也,周棄繼之,故祀以為稷。 Tích Liệt Sơn thị chi hữu thiên hạ dã, kì tử viết Trụ, năng thực bách cốc bách sơ. Hạ chi hưng dã, Chu Khí kế chi, cố tự dĩ vi Tắc. (Ngày xưa họ Liệt Sơn có thiên hạ, con của họ tên là Trụ, biết trồng các cây lúa cây rau. Vào thời nhà Hạ nổi lên, có tổ tiên của nhà Chu tên là Khí, cho nên lấy thờ làm thần lúa.) 韋昭注:“烈山氏,炎帝之號也,起於烈山。禮祭法以烈山為厲山也。” Vi Chiêu chú: "Liệt Sơn thị, Viêm Đế chi hiệu dã, khởi ư Liệt Sơn. Lễ - Tế pháp dĩ Liệt Sơn vi Lệ Sơn dã". (Vi Chiêu chú: "Họ Liệt Sơn là hiệu của Viêm Đế, nổi lên ở Liệt Sơn. Lễ - Tế pháp cho rằng Liệt Sơn là Lệ Sơn".) ____________ Tả truyện - Chiêu Công: 烈山氏之子日柱,為稷,自夏以上祀之。周棄亦為稷,自商以來祀之。 Liệt Sơn thị chi tử viết Trụ, vi Tắc, tự Hạ dĩ thượng tự chi. Chu Khí diệc vi Tắc, tự Thương dĩ lai tự chi. (Có người con của họ Liệt Sơn tên là Trụ, làm quan Tắc, từ thời nhà Hạ về trước thờ ông. Tổ tiên của nhà Chu tên là Khí cũng làm quan Tắc, từ thời nhà Thương về sau thờ ông.) _________ Chu dịch - Hệ từ: 包犧氏沒,神農氏作,斲木為耜,揉木為耒,耒耨之利,以教天下,蓋取諸益。日中為市,致天下之民,聚天下之貨,交易而退,各得其所,蓋取諸噬嗑。 Bào Hi thị một, Thần Nông thị tác, trác mộc vi tỉ, nhu mộc vi lỗi, lỗi nậu chi lợi, dĩ giáo thiên hạ, cái thủ chư ích. Nhật trung vi thị, trí thiên hạ chi dân, tụ thiên hạ chi hóa, giao dịch nhi thối, các đắc kì sở, cái thủ chư phệ hạp. (Họ Bào Hi mất, họ Thần Nông thay, đẽo gỗ làm cuốc, uốn gỗ làm cày, dạy thiên hạ biết cái lợi của việc cày bừa, chọn các vật có lợi. Giữa ngày họp chợ, cho dân trong thiên hạ đến, tụ các đồ dùng trong thiên hạ ở đấy, trao đổi rồi về, đều đâu vào đó, chọn lấy các vật hợp lại.) _____________ Dật Chu thư - Dật văn: 神農之時天雨粟,神農耕而種之,作陶冶斤斧,破木為耜鉏耨,以墾草莽,然後五穀興,以助果蓏之實。 Thần Nông chi thời thiên vũ túc, Thần Nông canh nhi chủng chi, tác đào trị cân phủ, phá mộc vi tỉ sừ nậu, dĩ khẩn thảo mãng, nhiên hậu ngũ cốc hưng, dĩ trợ quả lỏa chi thực. (Vào thời Thần Nông trời có mưa thóc, Thần Nông cày ruộng mà trồng thóc, nặn gốm làm rìu búa, chặt gỗ làm cày bừa cuốc để khẩn bãi cỏ, sau đó các cây lúa mọc để bù cho các loài quả hạt.) _________ Trang Tử - Đạo chích: 神農之世,臥則居居,起則于于。民知其母,不知其父,與麋鹿共處,耕而食,織而衣,無有相害之心。此至德之隆也。 Thần Nông chi thế, ngọa tắc cư cư, khởi tắc vu vu. Dân tri kì mẫu, bất tri kì phụ, dữ mi lộc cộng xứ, canh nhi thực, chức nhi y, vô hữu tương hại chi tâm. Thử chí đức chi long dã. Nhiên nhi Hoàng Đế bất năng trí đức, dữ Si Vưu chiến ư Trác Lộc chi dã, huyết lưu bách lí. (Vào thời Thần Nông, người dân nằm thì khu khu, đi thì vu vu. Dân chỉ biết đến mẹ, không biết đến cha, ở với chỗ hươu nai, cày ruộng mà làm ăn, dệt vải mà làm áo, không có ý hại nhau. Cái đức ấy thật lớn.) _______ Quản Tử - Khinh trọng mậu: 神農作,樹五穀淇山之陽,九州之民乃知穀食,而天下化之。 Thần Nông tác, thụ ngũ cốc Kì sơn chi dương, cửu châu chi dân nãi tri cốc thực, nhi thiên hạ hóa chi. (Thần Nông thay, trồng các cây lúa ở phía nam núi Kì, dân trong chín châu mới biết ăn lúa, mà thiên hạ học theo.) Tả truyện - Chiêu Công thập thất: 昔者黃帝氏以雲紀,故為雲師而雲名。炎帝氏以火紀,故為火師而火名。共工氏以水紀,故為水師而水名。大皞氏以龍紀,故為龍師而龍名。我高祖少皞,摯之立也,鳳鳥適至,故紀於鳥,為鳥師而鳥名。 Tích giả Hoàng Đế thị dĩ vân kỉ, cố vi vân sư nhi Vân danh. Viêm Đế thị dĩ hỏa kỉ, cố vi hỏa sư nhi hỏa danh. Cộng Công thị dĩ thủy kỉ, cố vi thủy sư nhi Thủy danh. Thái Hạo thị dĩ long kỉ, cố vi long sư nhi long danh. Ngã cao tổ Thiếu Hạo Chí chi lập dã, phượng ô thích chí, cố kỉ ư ô, vi ô sư nhi ô danh. (Ngày xưa họ Hoàng Đế lấy tên mây, cho nên lập nên vân sư mà lấy tên mây. Họ Viêm Đế lấy tên lửa, cho nên lập nên hỏa sư mà lấy tên lửa. Họ Cộng Công lấy tên nước, cho nên lập nên thủy sư mà lấy tên nước. Họ Thái Hạo lấy tên rồng, cho nên lập nên long sư mà lấy tên rồng. Tổ tiên ta là Thiếu Hạo tên là Chí đã lập, có chim phượng bay đến, cho nên lấy tên chim, lập nên ô sư mà lấy tên chim.) ________________ Thi Tử - Thần minh: 神農氏治天下,欲雨則雨。五日為行雨,旬為穀雨,旬五日為時雨。正四時之制,萬物咸利,故謂之神。神農氏夫負妻戴,以治天下。堯曰:“朕之比神農,猶旦與昏也。” 神農氏七十世有天下,豈每世賢哉!牧民易也。 Thần Nông thị trị thiên hạ, dục vũ tắc vũ. Ngũ nhật vi hành vũ, tuần vi cốc vũ, tuần ngũ nhật vi thời vũ. Chính tứ thời chi chế, vạn vật hàm lợi, cố vị chi thần. Thần Nông thị phu phụ thê tải, dĩ trị thiên hạ. Nghiêu viết: "Trẫm chi tỉ Thần Nông, do đán dữ hôn dã". Thần Nông thị thất thập thế hữu thiên hạ, khởi mỗi thế hiền tai! Mục dân dị dã. (Họ Thần Nông trị thiên hạ, muốn mưa thì có mưa. Năm ngày liền làm mưa, một tuần liền làm mưa thóc, một tuần năm ngày liền trời mưa. Sửa trật tự của bốn mùa, vạn vật đều lợi, cho nên gọi là thần. Họ Thần Nông chồng gánh vợ chở để trị thiên hạ. Nghiêu nói: "Ta sánh với Thần Nông như buổi đêm với buổi sáng". Họ Thần Nông bảy mươi đời có thiên hạ, há chỉ giỏi một thời ư! Trị dân dễ vậy.) ___________________ Dật Chu thư - Thường mạch: 昔天之初,誕作二后,乃設建典,命赤帝分正二卿,命蚩尤宇于少昊,以臨四方,司□□上天未成之慶,蚩尤乃逐帝,爭于涿鹿之阿,九隅無遺,赤帝大懾,乃說于黃帝,執蚩尤殺之于中冀,以甲兵釋怒,用大正,順天思序,紀于大帝,用名之曰絕轡之野。 Tích thiên chi sơ, đản tác nhị hậu, nãi thiết kiến điển, mệnh Xích Đế phân chính nhị khanh, mệnh Si Vưu vũ vu Thiếu Hạo, dĩ lâm tứ phương, tư [??] thượng thiên vị thành chi khánh, Si Vưu nãi trục Đế, tranh vu Trác Lộc chi a, cửu ngung vô di, Xích Đế đại nhiếp, nãi thuyết vu Hoàng Đế, chấp Si Vưu sát chi vu Trung Kí, dĩ giáp binh thích nộ, dụng đại chính, thuận thiên tư tự, kỉ vu đại đế, dung danh chi viết Tuyệt Bí chi dã. (Ngày xưa vào thời đầu, bắt đầu lập Nhị hậu (Hoàng Đế, Xích Đế), rồi mới đặt pháp điển, sai Xích Đế trông coi Nhị khanh (Si Vưu, Thiếu Hạo), sai Xi Vưu đến ở với Thiếu Hạo để coi bốn phương, trông giữ vào buổi thiên hạ chưa yên, Si Vưu bèn đuổi [Xích] Đế, tranh ở bãi Trác Lộc, chín cõi chẳng yên, Xích Đế lo lắm, bèn nói với Hoàng Đế, bắt giết Si Vưu ở đất Trung Kí, lấy giáp binh mà rửa hận, dùng Đại chính thuận theo ý trời, ghi chép công lớn, đặt tên nơi ấy là bãi Tuyệt Bí.) ______________ Văn Tử - Tự nhiên 神農形悴,堯瘦臞,舜黧黑,禹胼胝,伊尹負鼎而干湯,呂望鼓刀而入周,百里奚傳賣,管仲束縛,孔子無黔突,墨子無煖席,非以貪祿慕位,將欲事起於天下之利,除萬民之害也。 Thần Nông hình tụy, Nghiêu sấu cù, Thuấn lê hắc, Vũ biền tri, Y Doãn phụ đỉnh nhi can Thang, Lữ Vọng cổ đao nhi nhập Chu, Bách Lí Hề truyền mại, Quản Trọng thúc phược, Khổng Tử vô kiềm đột, Mặc Tử vô noãn tịch, phi dĩ tham lộc mộ vị, tương dục sự khởi ư thiên hạ chi lợi, trừ vạn dân chi hại dã. (Thần Nông tiều tụy, Nghiêu gầy gò, Thuấn đen sạm, Vũ chai phồng, Y Doãn cõng vạc mà gặp Thang, Lữ Vọng mài dao mà vào nhà Chu, Bách Lí Hề đi buôn, Quản Trọng trói mình, Khổng Tử không vào nơi khói đen, Mặc Tử không nằm chiếu ấm, không phải là tham lộc hám vị, đấy là muốn làm việc có lợi cho thiên hạ, trừ cái hại cho vạn dân.) Thương Quân thư - Hoạch sách: 神農之世,男耕而食,婦織而衣,刑政不用而治,甲兵不起而王。 Thần Nông chi thế, nam canh nhi thực, phụ chức nhi y, hình chính bất dụng nhi trị, giáp binh bất khởi nhi vương. (Vào thời Thần Nông, đàn ông cày ruộng mà làm ăn, đàn bà dệt vải mà làm áo, không dùng hình pháp mà trị, không dấy binh giáp mà làm vua.) ______________ Lữ thị xuân thu - Thận thế: 神農十七世有天下,與天下同之也。 Thần Nông thập thế hữu thiên hạ, dữ thiên hạ đồng chi dã. (Thần Nông mười bảy đời có thiên hạ, cùng làm với thiên hạ.) Hậu Hán thư - Tang Cung truyện: (Phạm Diệp soạn, Nhan Sư Cổ chú) 十一年,將兵至中盧,屯駱越。中盧,縣名,屬南郡,故城在今襄州陽縣南。蓋駱越人徙於此,因以為名。是時公孫述將田戎、任滿與征南大將軍岑彭相拒於荊門,彭等戰數不利,越人謀畔從蜀。宮兵少,力不能制。會屬縣送委輸車數百乘至,宮夜使鋸斷城門限。令車聲回轉出入至旦。越人候伺者聞車聲不絕,而門限斷,相告以漢兵大至。其渠帥乃奉牛酒以勞軍營。宮陳兵大會,擊牛釃酒,饗賜慰納之,越人由是遂安。 Thập nhất niên, tương binh chí Trung Lư, đồn Lạc Việt. Trung Lư, huyện danh, thuộc Nam quận, cố thành tại kim Tương châu Dương huyện nam. Cái Lạc Việt nhân tỉ ư thử, nhân dĩ vi danh. Thị thời Công Tôn Thuật tướng Điền Nhung, Nhâm Mãn dữ Chinh nam tướng quân Sầm Bành tương cự ư Kinh môn, Bành đẳng chiến sổ bất lợi, Việt nhân mưu bạn tòng Thục. Cung binh thiểu, lực bất năng chế. Hội thuộc huyện tống ủy du xa sổ bách thặng chí, Cung dạ sử cứ đoạn thành môn hạn. Lệnh xa thanh hồi chuyển xuất nhập chí đán. Việt nhân hậu tư tí giả văn thanh bất tuyệt, nhi môn hạn đoạn, tương cáo dĩ Hán binh đại chí. Kì cừ súy nãi phụng ngưu tửu dĩ lạo quân doanh. Cung trần binh đại hội, kích ngưu si tửu, hưởng tứ ủy nạp chi, Việt nhân do thị toại an. Năm thứ mười một [năm 35], đem quân đến Trung Lư, đóng quân ở Lạc Việt. Trung Lư là tên huyện, thuộc quận Nam, thành cũ tại phía nam huyện Dương châu Tương. Có lẽ người Lạc Việt dời đến ở đấy. Bấy giờ tướng của Công Tôn Thuật là Điền Nhung, Nhâm Mãn cự nhau với Chinh nam tướng quân tên là Sầm Bành ở cửa Kinh, bọn Bành́đánh mấy trận không được lợi, người Việt mưu phản theo quân Thục. Cung ít quân, không ngăn được. Kịp lúc quan thuộc huyện đem chở mấy trăm cỗ xe đến, Cung buổi đêm sai người cưa đứt then cửa thành, sai tiếng xa chuyển qua ra vào đến sáng. Kẻ dò thám người Việt nghe tiếng xe không dứt, mà then cửa lại đứt, bảo nhau là quân Hán kéo đến nhiều. Cừ súy của họ liền đem bò rượu đến dâng ở trại quân. Cung bày binh hội lớn, giết bò rót rượu, ban tặng an ủi họ, do đó người Việt bèn yên. ______________ Quận Nam gần quận Vũ Lăng, Trường Sa, ba quận đều là đất Sở cũ, ít nhiều vẫn có người Man Di trước khi nhà nhà Hán lập thành quận huyện. Hoặc người Lạc Việt đây là một nhánh của người Man Di ở Ngũ Khê (quận Vũ Lăng) mà thôi, dù gọi là Lạc Việt nhưng chẳng quan hệ gì với người Lạc Việt ở Giao Chỉ. Thật khó mà tin được người Lạc Việt ở Giao Chỉ lại dời đến ở huyện Trung Lư cách xa vạn dặm như vậy, trong lịch sử chẳng có biến cố nào khiến họ phải đi xa đến thế, ngoài việc sau đó Mã Viện có đày 300 cừ súy người Lạc Việt ở Giao Chỉ đến quận Linh Lăng, cũng gần quận Nam. Dù vậy cũng không loại trừ khả năng người Lạc Việt ở phía nam dời đến như lời chú của Nhan Sư Cổ. Thông điển - Châu quận 自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地,亦謂之南越。或云南越之君亦夏禹之後。按甌越、閩越,禹後少康之庶子所封之地,即南越,非其種也。故輿地志云東南有二越,其義詳矣。 Tự Lĩnh nhi nam, đương Đường Ngu Tam Đại vi Man Di chi quốc, thị Bách Việt chi địa, diệc vị Nam Việt. Hoặc vân Nam Việt chi quân diệc Hạ Vũ chi hậu. Án Âu Việt, Mân Việt, Vũ hậu Thiếu Khang chi thứ tử sở phong chi địa. Tức Nam Việt, phi kì chủng dã. Cố Dư địa chí vân đông nam hữu nhị Việt, kì nghĩa tường hĩ. (Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường-Ngu-Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt, cũng gọi là người Nam Việt. Có người nói vua của người Nam Việt cũng là dòng dõi của vua Vũ nhà Hạ. Xét thấy Âu Việt, Mân Việt là đất mà con thứ của vua Thiếu Khang dòng dõi vua Vũ được phong, vậy thì người Nam Việt không phải chủng này. Cho nên sách Dư địa chí chép là miền đông nam có hai chủng Việt [Nam Việt và Đông Việt], nghĩa này rõ rồi.) Quốc ngữ - Tấn ngữ: 昔少典娶于有蟜氏,生黃帝、炎帝。黃帝以姬水成,炎帝以姜水成。成而異德,故黃帝為姬,炎帝為姜,二帝用師以相濟也,異德之故也。 Tích Thiếu Điển thủ vu Hữu Kiểu thị, sinh Hoàng Đế, Viêm Đế. Hoàng Đế dĩ Cơ thủy thành. Viêm Đế dĩ Khương thủy thành. Thành nhi dị đức, cố Hoàng Đế vi Cơ, Viêm Đế vi Khương, nhị Đế dụng sư nhi tương tế, dị đức cố dã. (Ngày xưa Thiếu Điển lấy con gái họ Hữu Kiểu sinh ra Hoàng Đế, Viêm Đế. Hoàng Đế lớn lên ở sông Cơ, Viêm Đế lớn lên ở sông Khương. Lớn lên thì khác đức, cho nên Hoàng Đế là họ Cơ, Viêm Đế là họ Khương. Hai Đế dùng binh để đánh nhau, do đức khác nhau vậy.) 賈侍中云:“少典,黃帝、炎帝之先。有蟜,諸侯也。炎帝,神農也。”昭謂:神農,三皇也,在黃帝前。黃帝滅炎帝,滅其子孫耳,明非神農可知也。言生者,謂二帝本所生出也。 Giả thị trung vân: "Thiếu Điển, Hoàng Đế, Viêm Đế chi tiên. Hữu Kiểu, chư hầu dã. Viêm Đế, Thần Nông dã". Chiêu vị: Thần Nông, Tam Hoàng dã, tại Hoàng Đế tiền. Hoàng Đế diệt Viêm Đế, diệt kì tử tôn nhĩ, minh phi Thần Nông khả tri dã. Ngôn sinh giả, vị nhị Đế bản sở sinh xuất dã. (Giả thị trung nói: "Thiếu Điển là tổ tiên của Hoàng Đế, Viêm Đế. Họ Hữu Kiểu là chư hầu. Viêm Đế là Thần Nông". Vi Chiêu nói: "Thần Nông là Tam Hoàng, trước thời Hoàng Đế. Hoàng Đế diệt Viêm Đế là diệt con cháu của Viêm Đế, không phải diệt Thần Nông là có thể rõ vậy. Nói người sinh là nói nơi mà hai Đế sinh ra.) ______________ Liệt Tử - Thiên thụy: 庖犧氏、女媧氏、神農氏、夏后氏,蛇身人面,牛首虎鼻,此有非人之狀,而有大聖之德。夏桀、殷紂、魯桓、楚穆,狀貌七竅,皆同於人,而有禽獸之心。而衆人守一狀以求至智,未可幾也。黃帝與炎帝戰於阪泉之野,帥熊、羆、狼、豹、貙、虎為前驅,鵰、鶡、鷹、鳶為旗幟,此以力使禽獸者也。 Bào Hi thị, Nữ Oa thị, Thần Nông thị, Hạ Hậu thị, xà thân nhân diện, ngưu thủ hổ tị, thử hữu phi nhân chi trạng, nhi hữu đại thánh chi đức. Hạ Kiệt, Ân Trụ, Lỗ Hoàn, Sở Mục, trạng mạo thất khiếu, giai đồng ư nhân, nhi hữu cầm thú chi tâm. Nhi chúng nhân thủ nhất trạng dĩ cầu chí trí, vị khả cơ hồ dã. Hoàng Đế dữ Viêm Đế chiến ư Phản Tuyền chi dã, suất hùng, bi, lang, sài, báo, khu, hổ vi tiền khu, điêu, hạt, ưng, diên vi kì xí, thử lực sử cầm thú giả dã. (Họ Bào Hi, họ Nữ Oa, họ Thần Nông, họ Hạ Hậu, thân rắn mặt người, đầu bò mũi hổ, đấy không có dáng người mà có đức đại thánh. Hạ Kiệt, Ân Trụ, Lỗ Hoàn, Sở Mục dáng vẻ đủ cả, đều giống với người mà có lòng cầm thú. Cho nên mọi người giữ một dáng để cầu cái trí lớn nhất, cũng chẳng được vậy. Hoàng Đế đánh với Viêm Đế ở cánh đồng Phản Tuyền, đem gấu, bi, sói, lang, báo, khu, hổ đi trước trận, lấy chim điêu, hạt, ưng, diều làm cờ xí, đấy là người biết dẫn dắt cầm thú vậy.) ______________ Sơn hải kinh - Bắc hải, hải nội kinh: 發鳩之山,其上多柘木。有鳥焉,其狀如烏,文首、白喙、赤足,名曰精衛,其鳴自詨。是炎帝之少女,名曰女娃,女娃遊于東海,溺而不返,故為精衛,常銜西山之木石,以堙于東海。 Phát Cưu chi sơn, kì thượng đa chá mộc. Hữu điểu yên, kì trạng như ô, văn thủ, bạch uế, xích túc, danh viết tinh vệ, kì minh tự hiệu. Thị Viêm Đế chi thiếu nữ, danh viết Nữ Khuê, Nữ Khuê du vu Đông hải, nịch nhi bất phản, cố vi tinh vệ, thường hàm tây sơn chi mộc thạch, dfix điền Đông hải. (Có núi Phát Cưu, trên núi này có nhiều cây chá, có một loài chim, dáng nó như con quạ, đầu vằn, mỏ trắng, chân đỏ, tên là tinh vệ, nó kêu tự than, đấy là con gái út của Viêm Đế tên là Nữ Khuê, Nữ Khuê đi chơi ở biển Đông, chết đuối mà không về được, cho nên hóa thành chim tinh vệ, thường ngậm gỗ đá ở núi phía tây để lấp biển Đông.) 炎帝之孫伯陵,伯陵同吳權之妻阿女緣婦,緣婦孕三年,是生鼓、延、殳。始為侯,鼓、延是始為鍾,為樂風。 Viêm Đế chi tôn Bá Lăng, Bá Lăng đồng Ngô Quyền chi thê A Nữ Duyên Phụ, Duyên Phụ phu tam niên, thị sinh Cổ, Diên, Thù. Thủy vi hầu, Cổ, Diên thị thủy vi chung, vi nhạc phong. (Cháu của Viêm Đế là Bá Lăng, Bá Lăng tư thông với vợ của Ngô Quyền tên là A Nữ Duyên Phụ, Duyên Phụ mang thai ba năm, sinh ra Cổ, Diên, Thù. Bắt đầu làm cái đích bắn, Cổ, Diên bắt đầu làm ra cái chuông, bày khúc nhạc.) 炎帝之妻,赤水之子聽訞生炎居,炎居生節並,節並生戲器,戲器生祝融,祝融降處于江水,生共工,共工生術器,術器首方顛,是復土穰,以處江水。共工生后土,后土生噎鳴,噎鳴生歲十有二。 Viêm Đế chi thê, Xích thủy chi tử Thính Yêu sinh Viêm Cư, Viêm Cư sinh Tiết Tinh, Tiết Tinh sinh Hí Khí, Hí Khí sinh Chúc Dung, Chúc Dung giáng xứ vu Giang thủy, sinh Cộng Công, Cộng Công sinh Thuật Hiêu, Thuật Hiêu thủ phương điên, thị phục thổ nhưỡng, dĩ xứ Giang thủy. Cộng Công sinh Hậu Thổ, Hậu Thổ sinh Ế Minh, Ế Minh sinh tuế thập hữu nhị. (Vợ của Viêm Đế là con gái của họ Xích Thủy tên là Thính Yêu, sinh ra Viêm Cư, Viêm Cư sinh ra Tiết Tinh, Tiết Tinh sinh ra Hí Khí. Hí Khí sinh ra Chúc Dung, Chúc Dung đến ở tại bờ sông Giang, sinh ra Cộng Công. Cộng Công sinh ra Thuật Khí, Thuật Khí đỉnh đầu vuông, thu lại đất đai, đến ở sông Giang. Cộng Công sinh ra Hậu Thổ. Hậu Thổ sinh ra Ế Minh, Ế Minh mười hai tháng mới sinh.) Các bản dịch của tác giả Tích Dã Tam quốc chí - Thục thư quyển 08 Hứa Tĩnh truyện (bản dịch tiếng Việt của Weingarten) [www.tangthuvien.vn] 會稽傾覆,景興失據,三江五湖皆為虜庭。臨時困厄,無所控告。便與袁沛、鄧子孝等浮涉滄海,南至交州。經歷東歐、閩越之國,行經萬里,不見漢地,漂薄風波,絕糧茹草,饑殍荐臻,死者大半。 Cối Kê khuynh phúc, Cảnh Hưng thất cứ, Tam Giang Ngũ Hồ giai vi lỗ đình. Lâm thời khốn ách, vô sở khống cáo. Tiện dữ Viên Bái, Đặng Tử Hiếu phù thiệp thương hải, nam chí Giao châu. Kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lí, bất kiến Hán địa, phiêu bạc phong batuyệt lương như thảo, cơ biễu tiến trăn, tử giả đại bán. (Quận Cối Kê ngả nghiêng, Cảnh Hưng [tức Vương Lãng, tên chữ là Cảnh Hưng, bấy giờ làm Thái thú quận Cối Kê] mất chỗ, miền Tam Giang-Ngũ Hồ đều là đất địch. Ở vào lúc khốn quẫn, không có cách gì biện bá. Liền cùng bọn Viên Bá, Đặng Tử Hiếu vượt qua biển xanh, đi xuống phía nam đến châu Giao. Đi qua các nước Đông Âu, Mân Việt, trải đến vạn dặm, không thấy đất Hán, trôi dạt giữa sóng gió, lương thảo cạn kiệt, chịu đói nhiều phen, chết mất quá nửa.) Sử kí Ngũ đế bản kỉ Hoàng Đế là con của Thiếu Điển 少典, họ Công-tôn 公孫, tên Hiên Viên 軒轅; từ lúc mới sinh ra đã là thần đồng, sớm biết nói. Khi bé ông thông minh, nhạy bén; lớn lên thành thật, sáng suốt; đến tuổi già dặn rồi thì thông tuệ uyên bác. 01b. Vào thời Hiên Viên, thế nhà Thần Nông 神農 đã suy đồi. Chư hầu đánh phá lẫn nhau, tàn hại trăm họ, nhà Thần Nông không ngăn phạt được. Hiên Viên bèn trau dồi binh cụ, tiến đánh những nơi không triều thuận, các chư hầu vì thế đều chịu phục tùng; duy có kẻ hung bạo nhất là Xi Vưu 蚩尤 vẫn chưa chinh phạt được. Viêm Đế 炎帝muốn xâm lăng chư hầu, các chư hầu đều về với Hiên Viên. Hiên Viên bèn tu sửa đạo đức; chấn chỉnh binh bị; tùy thời tiết trồng ngũ cốc, cây cỏ; phủ dụ chúng dân, thăm hỏi bốn phương; huấn luyện các loài cầy, gấu đen, gấu trắng, hổ, báo đánh nhau với Viêm Đế tại cánh đồng Phản Tuyền 阪泉之野. Sau ba trận, ông được đắc chí. 01c. Xi Vưu nổi loạn, không tuân đế mệnh. Hoàng Đế bèn thống lĩnh chư hầu cùng đánh Xi Vưu tại đồng Trác Lộc 涿鹿之野, bắt Xi Vưu giết đi. Chư hầu bèn cùng tôn Hiên Viên lên làm Thiên Tử thay nhà Thần Nông, tức Hoàng Đế. Thiên hạ có ai không theo, Hoàng Đế lập tức chinh phạt -- bình định được rồi mới đi, phá núi mở đường, không hề an nhàn ngồi không. 02a. Hoàng Đế thăm phía đông đến biển, lên núi Hoàn 丸, núi Đại Đồng 岱宗; thăm phía Tây đến Không Động 空桐, lên núi Kê Đầu 雞頭; thăm phía Nam đến sông [Trường] Giang 江, lên núi Hùng 熊, Tương 湘; lên phía Bắc đuổi tộc Huân Dục 葷粥, cùng chư hầu chế, khắc ấn phù trên núi Phủ Sơn 釜山, và xây đô ấp ở gò Trác Lộc 涿鹿之阿. 02b. Vì di chuyển luôn luôn không ngừng, nên nơi ở [của ông] là trại lính. Quan hàm đều có chữ "vân" (雲:mây) trong tên, nên gọi là "đạo quân mây". Ông lại phong những người thân cận làm Đại Giám 大監 để giám sát tất cả mọi nước. Các nước đều hòa bình, nên [thời này] việc tế cúng quỷ thần sông núi nhiều hơn bao giờ hết. 02c. Ông tìm được đỉnh báu, dựa vào mặt trời bói chuyện tương lai; dùng những người như Phong Hậu 風後, Lực Mục 力牧, Thường Tiên 常先, Đại Hồng 大鴻 cai trị dân chúng dựa theo quy luật trời đất, lẽ sáng tối, nỗi sinh tử, và sự tồn vong. Theo thời tiết ông gieo trồng trăm loài cây cỏ, thuần hóa chim, thú, tằm, ngài; quan sát, tìm hiểu đặc tính của mặt trời, trăng, sao, thủy triều, nước, đất, đá, kim loại, và ngọc. Ông cần mẫn dùng hết tâm lực tìm hiểu, xác định tính khả dụng của nước, lửa, gỗ cùng các vật liệt. Vì ông mang thổ đức, nên có hiệu là Hoàng Đế. 03a. Hoàng Đế có 25 người con. [Trong số ấy], 14 người được đặt họ. 04a. Hoàng Đế ở gò Hiên Viên, cưới vợ là người con gái của Tây Lăng 西陵 -- tức Luy Tổ 嫘祖. Luy Tổ là vợ chính của Hoàng Đế, sinh hạ 2 con, con cháu 2 người này đều làm chủ thiên hạ. Người đầu tên Huyền Hiêu 玄囂, tức Thanh Dương 青陽, Thanh Dương sống ở vùng Trường Giang; người kế tên Xương Ý 昌意, sống ở Nhược Thủy 若水. Xương Ý cưới con gái họ Thục Sơn 蜀山, tên Xương Bộc 昌僕, sinh ra Cao Dương 高陽. Cao Dương có thánh đức. Hoàng Đế mất, chôn ở Kiều Sơn 橋山. Cháu Hoàng Đế, con Xương Ý, là Cao Dương kế vị, tức đế Chuyên Húc 顓頊. Nguyên văn cổ Hán ngữ: 01a. 黃帝者,少典之子,姓公孫,名曰軒轅。生而神靈,弱而能言,幼而徇齊,長而敦敏,成而聰明。 01b. 軒轅之 時,神農氏世衰。諸侯相侵伐,暴虐百姓,而神農氏弗 能征。於是軒轅乃慣用干戈,以征不享,諸侯咸來賓從。而蚩尤最為暴,莫能伐。炎帝欲侵陵諸侯,諸侯咸歸軒轅。軒轅乃修德振兵,治五氣,蓺五種,撫萬民,度 四方,教熊羆貔貅貙虎,以與炎帝戰於阪泉之野。三戰,然後得其志。 01c. 蚩尤作亂,不用帝命。於是黃帝乃徵師諸侯,與蚩尤戰於涿鹿之野,遂禽殺蚩尤。而諸侯咸尊 軒轅為天子,代神農氏,是為黃帝。天下有不順者,黃帝從而征之,平者去之,披山通道,未嘗甯居。 02a. 東至於海,登丸山,及岱宗。西至於空桐,登雞頭。南至於江,登熊、湘。北逐葷粥,合符釜山,而邑于涿鹿之阿。 02b. 遷徙往來無常處,以師兵為營衛。官名皆以雲 命,為雲師。置左右大監,監于萬國。萬國和,而鬼神山川封禪與為多焉。 02c. 獲寶鼎,迎日推筴。舉風後、力牧、常先、大鴻以治民順天地之紀,幽明之占,死生之 說,存亡之難。時播百穀草木,淳化鳥獸蟲蛾,旁羅日月星辰水波土石金玉,勞勤心力耳目,節用水火材物。有土德之瑞,故號黃帝。 03a. 黃帝二十五子,其得姓者十四人。 04a. 黃帝居軒轅之丘,而娶於西陵之女,是為嫘祖。嫘祖為黃帝正妃,生二子,其後皆有天下:其一曰玄囂,是為青陽,青陽降居江水;其二曰昌意,降居若水。昌意娶蜀山氏女,曰昌僕,生高陽,高陽有聖德焉。黃帝崩,葬橋山。其孫昌意之子高陽立,是為帝顓頊也。 [suluc.blogspot.com] _______________________ Hoàng Đế có phải là thủ lĩnh của các bộ lạc du mục không? Điều gì khiến Hà Văn Thùy nói là người du mục Mông Cổ xâm lấn người Bách Việt phương nam thời Thần Nông? Một sai lầm nghiêm trọng, xuyên tạc lịch sử nhằm mục đích của mình. Có thể nói lưu vực sông Hoàng Hà thời Thần Nông là nơi có nhiều bộ lạc sinh sống, có nền văn minh nông nghiệp bắt đầu phát triển, trong đó nghề chăn nuôi kết hợp với trồng trọt, không phải là du mục đâu nhé! Trong quá trình đó đã xảy ra các xung đột giữa các bộ lạc để tranh giành ngôi vị thủ lĩnh, xảy ra trận Trác Lộc, Phản Tuyền, với việc Hoàng Đế lên ngôi vua. Xuyên suốt lịch sử, người du mục ra sao hãy đọc Hung Nô liệt truyện, thế lực người du mục chỉ được nói từ thời nhà Chu khi các bộ lạc Khuyển Nhung, Sơn Nhung vào xâm lấn vào vùng sông Y, Lạc, từng đánh phá nhà Chu, khiến nhà Chu phải dời sang miền đông, hay các xung đột với các nước Tần, Yên, Triệu với người Hồ thời Chiến quốc. Khi này đã có văn tự để ghi chép lại. Nói đến du mục thời này thường nói đến con ngựa như là thế mạnh trên chiến trường. Nhưng thời Hoàng Đế không có ngựa, người du mục không thể có thế mạnh mà tranh giành được với người định cư trồng trọt. Đó là một điều không tưởng. Hoàng Đế có huấn luyện loài cầy, gấu đen, gấu trắng, hổ, báo đánh nhau với Viêm Đế tại cánh đồng Phản Tuyền. Những loài cầy, gấu, hổ, báo là những loài có nhiều ở miền đồng bằng có núi hơn là ở bãi cổ nơi sa mạc, cũng cho thấy nguồn gốc nông nghiệp của Hoàng Đế. Người du mục truyền thống hay cổ xưa thường di săn và chăn nuôi dê, ngựa, bò hơn vì chúng cung cấp thịt, sữa thường xuyên hơn. Vả chăng, những loài hổ, báo, gấu là thú dữ săn mồi hơn là chăn nuôi, sao mà ăn thịt uống sữa chúng được?
-
Các bản dịch khác của dịch giả Tích Đã Ngụy thư Tự kỉ Bắc Tề - Ngụy Thu soạn 昔黃帝有子二十五人,或內列諸華,或外分荒服,昌意少子,受封北土,國有大鮮卑山,因以為號。其後,世為君長,統幽都之北,廣漠之野,畜牧遷徙,射獵為業,淳樸為俗,簡易為化,不為文字,刻木紀契而已,世事遠近,人相傳授,如史官之紀錄焉。黃帝以土德王,北俗謂土為托,謂后為跋,故以為氏。其裔始均,入仕堯世,逐女魃於弱水之北,民賴其勤,帝舜嘉之,命為田祖。爰歷三代,以及秦漢,獯鬻、獫狁、山戎、匈奴之屬,累代殘暴,作害中州,而始均之裔,不交南夏,是以載籍無聞焉。積六十七世,至成皇帝諱毛立。 Tích Hoàng Đế hữu tử nhị thập ngũ nhân, hoặc nội liệt Chư Hạ, hoặc ngoại phân Hoang Phục, Xương Ý thiếu tử thụ phong bắc thổ, quốc hữu Đại Tiên Ti sơn, nhân dĩ vi hiệu. Kì hậu, thế vi quân trưởng, thống U Đô chi bắc, quảng mạc chi dã, súc mục thiên tỉ, xạ liệt vi nghiệp, thuần phác vi tục, giản dị vi hóa, bất vi văn tự, khắc mộc kỉ khế nhi dĩ, thế sự viễn cận, nhân tương truyền thụ, như sử quan chi kỉ lục yên. Hoàng Đế dĩ thổ đức vương, bắc tục vị thổ vi thác, vị hậu vi bạt, cố dĩ vi thị. Kì duệ Thủy Quân nhập sĩ Nghiêu thế, trục Nữ Bạt ư Nhược thủy chi bắc, dân lại kì cần, Đế Thuấn gia chi, mệnh vi Điền tổ. Viên lịch Tam đại, dĩ cập Tần Hán, Huân Dục, Hiểm Duẫn, Sơn Nhung, Hung Nô chi thuộc, lũy đại tàn bạo, tác hại Trung Châu, nhi Thủy Quân chi duệ bất giao nam Hạ, thị dĩ tái tịch vô văn yên. Tích lục thập thất thế, chí Thành Hoàng Đế húy Mao lập. (Ngày xưa Hoàng Đế [họ Hữu Hùng, tên Hiên Viên] có hai mươi lăm người con, có người được phong ở đất Chư Hạ [chỉ Trung Quốc], có người được phong ở đất Hoang Phục [chỉ đất ngoài Trung Quốc], con út của Xương Ý được phong ở miền bắc, nước có núi Đại Tiên Ti, nhân đó đặt tên hiệu. Dòng dõi nhiều đời làm quân trưởng, nắm giữ miền bắc cõi U Đô [chỉ miền phía bắc xa Mặt Trời nên bầu trời mùa đông tối năm], miền bãi cỏ rộng, chăn nuôi di dời, làm nghề săn bắn, phong tục thuần phác, lối sống đơn giản, không có chữ viết, chỉ khắc phù khế lên gỗ mà thôi. Những việc xa gần đều tự truyền bảo cho nhau như quan sử ghi chép vậy. Hoàng Đế có điềm lành của hành thổ mà làm vua, tục người phương bắc gọi đất là 'thác', gọi vua là 'bạt', cho nên lấy đó làm tên họ [gọi là họ Thác Bạt]. Có dòng dõi tên là Thủy Quân làm quan ở thời vua Nghiêu, đuổi Nữ Bạt đến ở phía bắc sông Nhược, dân được cậy vào công ấy, do đó Đế Thuấn khen, cho làm quan Điền tổ [chức quan coi việc làm ruộng]. Trải qua thời Tam đại cho đến thời Tần-Hán, người Huân Dục, Hiểm Duẫn, Sơn Nhung, Hung Nô nhiều đời gây hại Trung Châu [chỉ Trung Quốc], nhưng dòng dõi của Thủy Quân không qua lại với người Hạ [chỉ người Trung Quốc], cho nên không thấy chép tróng sách vở. Qua sáu mươi bảy đời thì đến đời Thành Hoàng Đế tên là Mao lập làm vua [vua nhà Bắc Ngụy thời Nam bắc triều]. Chu thư Đế kỉ Đường - Lệnh Hồ Đức Phân soạn 太祖文皇帝姓宇文氏,諱泰,字黑獺,代武川人也。其先出自炎帝神農氏,為黃帝所滅,子孫遯居朔野。有葛烏菟者,雄武多算略,鮮卑慕之,奉以為主,遂總十二部落,世為大人。其後曰普回,因狩得玉璽三紐,有文曰皇帝璽,普回心異之,以為天授。其俗謂天曰宇,謂君曰文,因號宇文國,幷以為氏焉。 Thái Tổ Văn Hoàng Đế tính Vũ Văn thị, húy Thái, tự Hắc Thát, Đại Vũ Xuyên nhân dã. Kì tiên xuất tự Viêm Đế Thần Nông thị, vi Hoàng Đế sở diệt, tử tôn độn cư sóc dã. Hữu Cát Ô Đồ giả hùng vũ đa toán lược, Tiên Ti mộ chi, phụng dĩ vi chủ, toại thống thập nhị bộ lạc, thế vi đại nhân. Kì hậu viết Phổ Hồi, nhân thú đắc ngọc tỉ tam nữu hữu văn viết Hoàng đế tỉ, Phổ Hồi tâm dị chi, di vi thiên thụ. Kì tục vị thiên viết vũ, vị quân viết văn, nhân hiệu Vũ Văn quốc, tịnh dĩ vi thị yên. (Thái Tổ Văn Hoàng Đế họ Vũ Văn, tên húy là Thái, tên chữ là Hắc Thát, là người huyện Vũ Xuyên quận Đại. Tổ tiên xuất từ Viêm Đế họ Thần Nông [thời vua Du Võng họ Thần Nông] bị Hoàng Đế diệt, con cháu trốn đến ở miền bắc. Có dòng dõi tên là Cát Ô Đồ là người hùng võ mưu lược, người Tiên Ti thích bèn bầu lên làm chủ, trông coi mười hai bộ lạc, nhiều đời làm cừ súy. Có dòng dõi là Phổ Hồi nhân đi săn lấy được một cái ấn ngọc ba núm có khắc chữ là 'ấn của hoàng đế', Phổ Hồi trong lòng lấy làm lạ, nghĩ là trời cho. Tục người ở đây [người Tiên Ti] gọi trời là 'vũ', gọi vua là 'văn', cho nên gọi là nước Vũ Văn, lại lấy làm tên họ vậy.) Thái bình ngự lãm Hoàng vương bộ Viêm Đế Thần Nông thị Tống - Lí Phưởng soạn Đế vương thế kỉ chép: "Vua Thần Nông họ Khương. Mẹ là Nhâm Tự, là con gái của họ Hữu Kiều tên là Nữ Đăng, làm vợ của Thiếu Điển, khi đi chơi ở phía nam núi Hoa có đầu rồng thần cảm vào Nữ Đăng mà có thai sinh ra Viêm Đế, thân người đầu bò, lớn lên ở bên sông Khương, có đức thánh. Lấy hành hỏa dựa theo hành mộc, vị tại phương nam, chủ về mùa hạ, cho nên gọi là Viêm Đế, đóng đô ở đất Trần, làn cây đàn năm dây. Có cả thảy là tám đời, truyền cho Đế Thừa, Đế Lâm, Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Ai, Đế Du Võng. Lại có người nói vốn nổi lên ở núi Liệt, có kẻ nói là người đời khen ngợi, còn gọi là họ Khôi Ngôi, đấy là Nông Hoàng, hoặc gọi là Đế Viêm. Bấy giờ chư hầu là họ Túc Sa làm phản không vâng mệnh, Viêm Đế bèn rút lui mà tu đức, người nước Túc Sa tự đánh vua của mình mà theo Viêm Đế, dựng đô ở đất Lỗ. Chồng đặt tám quẻ, tám nhân tám là sáu mươi tư quẻ. Làm vua một trăm hai mươi năm thì băng, táng ở Trường Sa." Dịch hạ hệ chép: "Vua Thần Nông lên ngôi, đẽo gỗ làm cày, vót gỗ làm bừa, nêu cái lợi của cày bừa để dạy cho thiên hạ, hãy xem ở quẻ ích." Lễ hàm văn gia chép: "Thần là tín, Nông là nồng. Bắt đầu làm nên cày bừa, dạy dân làm ruộng, đức của người ấy nồng hậu như thần, cho nên gọi là Thần Nông." Cổ sử khảo chép: "Viêm Đế có điềm lửa, cho nên đặt quan coi việc đều lấy lửa làm tên gọi." Truyện chép: "Vua nước Đàm nói: 'Viêm Đế lấy lửa làm tên gọi, cho nên quan theo lửa mà đặt tên theo lửa'." Đỗ Dự chú rằng: "Thần Nông là tổ tiên của họ Khương. Có điềm lửa, cho nên lấy lửa mà đặt tên quan." Xuân thu mệnh lịch tự chép: "Có người thần tên là Thạch Nhĩ, mặt xanh mày lớn, đeo thẻ ngọc, cưỡi xe có sáu con rồng, xuất từ dưới đất, hiệu là Hoàng Thần Nông. Bắt đầu dựng thế đất, xét đo bốn cõi, đông tây chín chục vạn dặm, nam bắc tám mươi mốt vạn dặm." Nói như thế là vì cách làm của người này như thần, treo trồng cây cỏ, làm cho dân được ăn gạo, cho nên thiên hạ gọi là Hoàng Thần Nông. Xét đếm thế đất gần xa, chỗ đến núi rừng sông đầm. Hiếu kinh câu mệnh quyết chép: "Nhâm Tị cảm rồng mà sinh ra Đế Khôi." Nhâm Tị là mẹ của Đế Khôi. Khôi là tên của vua Thần Nông. Nhâm Tị, còn chép là Nhâm Tự. Điển lược chép: "Vũ Vương đánh vua Trụ xong, phong dòng dõi của Thần Nông ở nước Tiêu." Văn Tử chép: "Xích Đế gây nạn lửa, cho nên Hoàng Đế bắt lấy." Việt tuyệt thư chép: "Thần Nông không tham của thiên hạ mà thiên hạ cùng làm cho giàu, không dựa vào cái trí của mình để tự cao với người mà thiên hạ tôn sùng." Trang Tử chép: "A Hà Cam cùng Thần Nông học theo Lão Long Cát, Thần Nông tựa ghế, đóng cửa tối om. A Hà Cam giữa ngày mở cửa vào, nói: 'Lão Long chết rồi!' Thần Nông tựa ghế cầm gậy mà đứng lên, chợt nhiên quẳng gậy mà cười nói: 'Trời biết ta hèn kém lười láo cho nên bỏ ta mà chết rồi'." Thi Tử chép: "Vua Thần Nông chồng cõng vợ kéo để trị thiên hạ. Vua Nghiêu nói: 'Trẫm so với Thần Nông như buổi đêm so với ban ngày'." "Họ Thần Nông bảy mươi đời có thiên hạ, há chẳng giỏi trên đời sao? Trị dân dễ vậy." Hoài Nam Tử chép: "Thời xưa người dân ăn rau uống nước, hái quả ở trên cây, ăn thịt loài sâu bọ, bấy giờ có nhiều cái hại độc bệnh tật. Do đó Thần Nông bèn dạy dân gieo trồng ngũ cốc, tìm chọn chỗ đất tốt, ẩm khô tốt xấu cao thấp ra sao, nếm mùi vị của các cây cỏ, uống mùi ngọt đắng của sông suối, làm cho dân biết được cái nên tránh nên đùng. Vào thời bấy giờ, mỗi ngày bị bảy mươi lần trúng độc." "Vào lúc Thần Nông trị thiên hạ, Thần Nông rong ruổi ở trong nước, không ra đến bốn cõi, mang lòng nhân ái của mình, đợi thời mưa nhuần để gieo trồng ngũ cốc, mùa xuân mọc, mùa hạ lớn, mùa thu gặt, mùa đông cất, mỗi tháng xem xét, cuối năm cống nạp, đem thóc gặt được để tế ở minh đường. Minh đường dựng nên, mưa gió không tạt được, ẩm khô không xóa được. Nêu công bằng để dạy dân, người dân chất phác hòa thuận, không tranh giành mà đầy đủ, không vất vả mà thành công, dựa theo của cải của trời đất trao cho hòa đều. Do đó không tỏ đến oai nghiêm, không dùng đến hình phạt, không phiền đến phép cấm, giáo hóa như thần. Đất đai phía nam đến Giao Chỉ, phía bắc đến U Đô, phía đông đến Dương Cốc, phía tây đến Tam Nguy, chẳng ai không nghe theo. Vào thời bấy giờ, hình pháp nới lỏng, nhà tù trống không mà thiên hạ cùng lòng, chẳng ai mang ý ác." "Hoàng đế Thần Nông xem chín phương trời, ngắm chín miền đất." Thần Nông bản thảo chép: "Thần Nông cúi đầu vái lạy mà hỏi Thái Nhất Tiểu Tử rằng: 'Từng nghe vào thời xưa thọ quá trăm tuổi thì phải chết đi, là do chỉ hít khí mới như thế chăng?' Thái Nhất Tiểu Tử nói: "Trời có chín cửa, cửa giữa là tốt nhất.' Thần Nông bèn theo người ấy nếm thuốc để cứu giúp mạng người." Chu thư chép: "Vào thời Thần Nông, trời mưa thóc, Thần Nông bèn cày ruộng mà trồng thóc. Nặn gốm làm búa rìu, làm cày bừa, cuốc xới để vỡ lùm cỏ, rồi bèn trồng ngũ cốc." Lữ thị xuân thu chép: "Thần Nông dạy rằng: 'Đàn ông cả năm mà không cày ruộng thì thiên hạ có kẻ bị đói. Đàn bà cả năm mà không dệt vải thì thiên hạ có kẻ bị rét, cho nên chồng tự cày ruộng, vợ tự dệt vải'." Giả Nghị thư chép: "Thần Nông cho rằng đuổi thú dữ để nuôi dân lâu dài, bèn tìm các đồ ăn được, nếm qua trăm cây cỏ, xét vị mặn đắng, dạy dân ăn lúa." Điển lược của Lục Cảnh chép: "Thần Nông nếm trăm cây cỏ, ăn ngũ cốc, dân chúng mới biết ăn gạo." Kinh châu đồ kí chép: "Phía tây bắc huyện Vĩnh Dương hai trăm ba chục dặm có núi Lệ Hương, phía đông núi có hang đá. Ngày xưa Thần Nông sinh ra ở núi Lệ Hương. Do đó Lễ kí chép là họ Liệt Sơn. Thời Xuân thu là nước Lệ. Hang cao ba chục trượng, dài hai trăm trượng, gọi là hang Thần Nông." Thái bình ngự lãm Hoàng vương bộ Thiếu Hạo Kim Thiên thị Tống - Lí Phưởng soạn Đế vương thế kỉ chép: "Vua Thiếu Hạo tên là Chí, tên chữ là Thanh Dương, họ Cơ. Mẹ là Nữ Tiết. Vào thời Hoàng Đế có sao lớn như cầu vồng rơi xuống ở đất Hoa Chử. Bấy giờ Nữ Tiết nằm mộng gặp phải mà sinh ra Thiếu Hạo, đấy là Huyền Hiêu, được phong ở bên sông Giang, có đức thánh, dựng ấp ở đất Cùng Tang, rồi lên ngôi vua, đóng đô ở đất Khúc Phụ, cho nên có người gọi là vua Cùng Tang, lấy hành kim thay hành thổ, là vua mà Đế đồ sấm chép là Bạch Đế tên là Chu Tuyên. Cho nên xưng là Thiếu Hạo, hiệu là họ Kim Thiên. Làm vua một trăm năm thì băng." Hà đồ chép: "Có sao lớn như cầu vồng rơi xuống ở đất Hoa Chử. Nữ Tiết hút lấy mà sinh ra Bạch Đế tên là Chu Tuyên. Tống Quân chú rằng: "Chu Tuyên là vua Thiếu Hạo." Cổ sử khảo chép: "Vua Cùng Tang họ Doanh. Có điềm lành của hành kim mà làm vua, cho nên gọi là họ Kim Thiên. Có người nói bắt chước phép tắc của vua Thái Hạo [họ Phục Hi] cho nên gọi là vua Thiếu Hạo." Độn giáp khai sơn đồ chép: "Vua Thiếu Hạo chép, táng ở núi Vân Dương." Truyện chép: "Năm thứ mười bảy thời Chiêu Công nước Lỗ, vua nước Đàm đến chầu, Chiêu Tử hỏi chuyện nói: 'Vua Thiếu Hạo đặt chức quan theo tên chim, sao thế?' Vua nước Đàm nói: 'Tổ tiên thời xưa của ta là vua Thiếu Hạo, tên là Chí đã lên ngôi thì có chim phương bay đến, cho nên làm việc thờ chim, đặt chức quan theo tên chim, đấy là họ Phượng Điểu thị là quan Tư lịch, Huyền Ô thị là quan Tư phân, Bá Triệu thị là quan Tư chí, Thanh Điểu thị là quan Tư khải, Đan Điểu thị là quan Tư bế, Chúc Cưu thị là quan Tư đồ, Thư Cưu thị là quan Tư mã, Thi Cưu thị là quan Tư không, Sảng Cưu thị là quan Tư khấu, Hộc Cưu thị là quan Tư sự. Năm quan 'Cưu' coi việc trị dân. Năm quan 'Trĩ' coi về làm thợ nghề, sửa các đồ dùng, xét đo đếm, làm lợi cho dân. Có quan Cửu hỗ coi việc làm ruộng, người dân không làm việc dâm loạn'." Thiếu Hạo tán của Tào Thực nhà Ngụy chép: "Tổ là Hiên Viên, đến thời Thanh Dương, lấy kim thay thổ, chim phượng bay đến, đặt quan tên chim, mỗi chức mỗi việc, nắn sửa dân chúng, đều có phép tắc." Ngụy lược: 昔箕子之後朝鮮侯,見周衰,燕自尊� ��王,欲東略地,朝鮮侯亦自稱為王。 Tích Cơ Tử chi hậu Triều Tiên hầu, kiến Chu suy, Yên tự tôn vi vương, dục đông lược địa, Triều Tiên hầu diệc tự xưng vi vương. (Ngày xưa dòng dõi của Cơ Tử làm vua Triều Tiên, gặp lúc nhà Chu suy, vua nước Yên tự xưng vương, muốn lấn sang phía đông, vua Triều Tiên cũng tự xưng làm vương.) 高辛氏有老婦,居王室,得耳疾,挑� ��,乃得物大如繭。婦人盛瓠中,覆之 以槃,俄頃化為犬,其文五色,因名� �瓠。 Cao Tân thị hữu lão phụ, cư vương thất, đắc nhĩ tật, khiêu chi, nãi đắc vật đại như kiển. Phụ nhân thịnh hồ trung, phục chi dĩ bàn, nga khoảnh hóa vi khuyển, kì văn ngũ sắc, nhân danh Bàn Hồ. (Họ Cao Tân có bà vợ già ở trong nhà của vua, có bệnh ở tai, khều ra được một vật lớn như cái kén. Người vợ cho cái kén vào trong quả bầu, lấy nắp đậy, chốc lát hóa thành con chó, thân có năm màu, nhân đó đặt tên là Bàn Hồ.) ______________ Sử kí - Hung Nô liệt truyện: 匈奴其先祖夏后氏之苗裔也,曰淳維� ��唐虞以上有山戎、獫狁、葷粥,居于 北蠻,隨畜牧而轉移。 Hung Nô kì tiên tổ Hạ Hậu thị chi miêu duệ dã, viết Thuần Duy. Đường Ngu dĩ thượng hữu Sơn Nhung, Hiểm Duẫn, Huân Dục, cư vu Bắc Man, tùy súc mục nhi chuyển di. (Tổ tiên người Hung Nô là dòng dõi họ Hạ Hậu, tên là Thuần Duy. Thời Đường-Ngu về trước có Sơn Nhung, Hiểm Duẫn, Huân Dục trú ở chỗ người Man miền bắc, theo vật nuôi mà di chuyển.) _____________ Hoa Dương quốc chí - Ba Thục chí: 武王既克殷,以其宗姬封於巴,爵之� ��子。 Vũ Vương kí khắc Ân, dĩ kì tông Cơ phong ư Ba, tước chi dĩ tử. (Vũ Vương đã diệt nhà Ân, dùng người họ Cơ phong ở đất Ba, cho lấy tước tử.) 蜀之為國,肇於人皇,與巴同囿。至� ��帝,為其子昌意娶蜀山氏之女,生子 高陽,是為帝嚳。封其支庶於蜀,世� �侯伯。歷夏、商、周。武王伐紂,蜀� ��焉。 Thục chi vi quốc, triệu ư Nhân Hoàng, dữ Ba đồng hữu. Chí Hoàng Đế, vi kì tử Xương Ý thú Thục Sơn thị chi nữ, sinh tử Cao Dương , thị vi đế Khốc. Phong kì chi thứ ư Thục, thế vi hầu bá. Lịch Hạ, Thương, Chu, Vũ Vương phạt Trụ, Thục dữ yên. (Người Thục dựng nước có từ thời Nhân Hoàng, cùng chỗ với người Ba. Đến thời Hoàng Đế, cho con tên là Xương Ý lấy con gái họ Thục Sơn, sinh con tên là Cao Dương, đấy là Đế Khốc. Phong con thứ của mình ở đất Thục, thay nhau làm hầu bá. Trải qua thời Hạ, Thương, Chu. Vũ Vương đánh vua Trụ, người Thục cũng đi theo.) Lương thư - Oa truyện 倭者,自云太伯之後,俗皆文身。 Oa giả, tự vân Thái Bá chi hậu, tục giai văn thân. (Người Oa tự nói là dòng dõi của Thái Bá, tục đều xăm mình.) Tam quốc chí - Thần Hàn truyện 辰韓在馬韓之東,其耆老傳世自言古之亡人避秦役來適韓國,馬韓割其東界地與之。 Thần Hàn tại Mã Hàn chi đông, kì kì lão truyền thế tự ngôn cổ chi vong nhân tị Tần dịch lai thích Hàn quốc, Mã Hàn cát kì đông giới địa dữ chi. (Nước Thần Hàn ở phía đông nước Mã Hàn, người già cả nước này bảo nhau tự nói là trốn tránh việc lao dịch của nhà Tần mà đi đến nước Hàn, người nước Mã Hàn cắt vùng đất phía đông của mình cho họ.) Thập lục quốc xuân thu - Tiền Yên lục (Bắc Ngụy- Thôi Hồng soạn) 慕容廆,字奕落瑰,昌黎棘城人。昔高辛氏游於海濱,留少子厭越以君北夷,世居遼左,號曰東胡。秦漢之際,為匈奴所敗,分保鮮卑山,因復以為號。 Mộ Dung Ngôi, tự Dịch Lạc Khôi, Xương Lê Cức Thành nhân. Tích Cao Tân thị du ư hải tân, lưu thiếu tử Yếm Việt dĩ quân bắc di, thế cư Liêu tả, hiệu viết Đông Hồ. Tần Hán chi tế vi Hung Nô sở bại, phân bảo Tiên Ti sơn, nhân phục dĩ vi hiệu. (Mộ Dung Ngôi, tên chữ là Dịch Lạc Khôi, người huyện Cức Thành quận Xương Lê. Ngày xưa họ Cao Tân [Đế Khốc] đi chơi ở bờ biển, cho con út là Yếm Việt ở lại đấy trông coi người rợ miền bắc, nhiều đời ở mé trái sông Liêu [phía đông sông Liêu], gọi là người Đông Hồ. Vào thời Tần-Hán, bị người Hung Nô [thời thiền vu Mặc Đốn] đánh bại, chia ra giữ ở núi Tiên Ti, nhân đó lấy làm tên hiệu.) _________________ Thập lục quốc xuân thu - Tiền Tần lục (Bắc Ngụy- Thôi Hồng soạn) 苻洪,字廣世,畧陽臨渭氐人。其先有扈氏之苗裔,子孫強盛,世為氐酋。其後家池生蒲,長五丈,節如竹形,時咸異之,謂之蒲家,因以為氏焉。 Phù Hồng, tự Quảng Thế, Lược Dương Lâm Vị Đê nhân. Kì tiên Hữu Hỗ thị chi miêu duệ, tử tôn cường thịnh, thế vi Đê tù. Kì hậu gia trì sinh bồ, trường ngũ trượng, tiết như trúc hình, thời hàm dị chi, vị chi Bồ gia, nhân dĩ vi thị yên. (Phù Hồng, tên chữ là Quảng Thế, là người Đê ở huyện Lâm Vị quận Lược Dương. Tổ tiên là dòng dõi của họ Hữu Hỗ [là chư hầu thời nhà Hạ bị vua Khải đánh diệt], con cháu lớn mạnh, nhiều đời làm tù trưởng của người Đê. Sau đó có cái ao trước nhà mọc một cây bồ [cây bồ liễu] cao năm trượng, có đốt như hình cây tre, người thời ấy đều cho là lạ, gọi là nhà có cây bồ, nhân đó đặt tên họ.) _____________ Thập lục quốc xuân thu - Hậu Tần lục (Bắc Ngụy- Thôi Hồng soạn) 姚弋仲,南安赤亭羌人也。其先有虞氏之苗裔。昔夏禹封舜少子于西戎,世為羌長,其後燒當,雄於洮、罕之間。 Diêu Dặc Trọng, Nam An Xích Đình Khương nhân. Kì tiên Hữu Hỗ thị chi miêu duệ. Tích Hạ Vũ phong Thuấn thiếu tử vu tây nhung, thế vi Khương trưởng, kì hậu Thiêu Đương hùng ư Thao Hãn chi gian. [Diêu Dặc Trọng là người Khương ở huyện Xích Đình quận Nam An. Tổ tiên là dòng dõi của họ Hữu Hỗ. Ngày xưa vua Vũ nhà Hạ phong con út của vua Thuấn ở chỗ người rợ phía tây, nhiều đời làm tù trưởng của người Khương. Sau đó có bộ lạc Thiêu Đương xưng hùng ở miền sông Thao-Hãn.)
-
Hán thư chú - Địa lý chí Dịch giả: Tích Dã (Hán - Ban Cố soạn, Đường - Nhan Sư Cổ chú) Nhà Chu đặt tước có năm bậc, kẻ được phong đất có ba bậc: tước công, hầu thì nước rộng trăm dặm; tước bá thì đất rộng bảy mươi dặm; tước tử, nam thì nước rộng năm mươi dặm; không đủ rộng như trên thì làm nước phụ dung, cả thảy có một nghìn tám trăm nước. Còn dòng dõi của Thái Hạo, Hoàng Đế là Ngu hầu, Đường bá vẫn còn, đế vương có bản đồ nối nhau mà biết được. Kịp lúc nhà Chu đã yếu, lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu đặt ra, thay nhau chiếm diệt; trong mấy trăm năm, các nước giảm cả. Đến thời xuân thu, vẫn còn mấy chục nước, ngũ bá lần lượt nổi lên làm chủ hội thề.Sư Cổ nói: "Ngũ bá đấy là Tề Hoàn công, Tống Tương công, Tấn Văn công, Tần Mục công, Sở Trang công. Bá, đọc là 'bá'". dây dưa đến thời chiến quốc, thiên hạ chia ra còn bảy nước, Sư Cổ nói: "Là các nước Tần, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở". hợp tung liên hoành, trải mấy chục năm. Vua Tần rút cuộc chiếm trọn bốn cõi, cho rằng pháp chế của nhà Chu yếu kém cho nên cuối cùng mới bị diệt, do đó không đặt phép chế phong đất, chia thiên hạ thành quận huyện, trừ diệt dòng dõi của các bậc vua hiền ngày trước, chẳng ai có con cháu được truyền đất nữa. Nhà Hán lên thay, theo chế độ của nhà Tần, chuộng ân đức, làm điều giản dị để vỗ về trong nước. Đến đời Vũ Đế đánh dẹp rợ Hồ, Việt, mở đất lấn cõi, phía nam đặt châu Giao Chỉ, phía bắc đặt châu Sóc Phương, Sư Cổ nói: "Hồ Quảng kí chép rằng nhà Hán bình đất Nam Việt đặt ra Thứ sử Giao Chỉ, khác với các châu khác, sai cầm cờ lệnh trị ở quận Thương Ngô, lại chia châu Ung đặt ra Thứ sử Sóc Phương". ôm trọn các châu Từ, Lương, U, noi theo chế độ của nhà Hạ-Chu, đổi châu Ung thành châu Lượng, đổi châu Lương thành châu Ích, cả thảy mười ba bộ, đặt quan Thứ sử. Dấu vết của các vị vua đời xưa đã tàn, tên đất lại nhiều lần thay đổi, cho nên gom nhặt lời trước, xét tìm Thi-Thư, suy đoán hình sông núi để nối liền chương sách Vũ cống, Chu quan, Xuân thu về sau đến thời chiến quốc, Tần, Hán vậy. Sư Cổ nói: "Từ thời trung cổ đến nay, những sách chép về địa lí cũng có nhiều, có sách thì giải thích kinh điển, cóp sách lại soạn giảng phương chí, tranh chép ra những điều mới lạ, xằng nữa còn xuyên tạc, thản nhiên gặp nhau, có phần làm mất sự thật. Những người học hành đời sau theo đó mà kể lại, thêm nữa không xét lời sai, chẳng ai tìm được cái gốc rễ nữa. Nay đều không chép ra, chắc cũng chẳng lầm". Kinh Triệu doãn, là quan Nội sử thời nhà Tần, năm đầu thời Cao Đế thuộc nước Tái; năm thứ hai đổi lại thành quận Vị Nam, năm thứ chín thì bỏ, lập lại Nội sử. Năm đầu đến năm thứ sáu thời Vũ Đế chia làm Hữu nội sử; năm Thái Sơ thứ nhất lại đổi làm Kinh Triệu doãn. năm Nguyên Thủy thứ hai có mười chín vạn năm ngàn bảy trăm lẻ hai hộ, sáu mươi tám vạn hai ngàn bốn trăm sáu mươi tám người. Sư Cổ nói: "Hộ khẩu của nhà Hán vào năm Nguyên Thủy là phồn thịnh nhất, cho nên chương Địa lí chí này lấy số hộ khẩu ở năm này. Phần chép sau đều như vậy". Có mười huyện: - Tràng An. Cao Đế đặt, năm đầu thời Huệ Đế bắt đầu đắp thành ở đấy, đến năm thứ sáu thì đắp xong. Có tám vạn tám trăm hộ, hai mươi tư vạn sáu ngàn hai trăm khẩu. Vương Mãng gọi là huyện Thường An. Sư Cổ nói: "Vương Mãng cướp ngôi, đổi tên quận huyện của nhà Hán, phần nhiều đã đổi, phần chép dưới đây cũng vậy". - Tân Phong. Có núi Li ở phía nam, là nước Li Nhung ngày xưa, nhà Tần gọi là ấp Li. Năm thứ bảy thời Cao Tổ đặt ra huyện này. Ứng Thiệu nói: "Thái thượng hoàng nhớ quê muốn về miền đông, do đó Cao Đế đổi đắp nên thành nhà ngõ xóm giống huyện Phong, dời dân ở huyện Phong đến ở đây, cho nên gọi là Tân Phong". - Thuyền Tư Không. Vương Mãng gọi là huyện Thuyền Lợi. Sư Cổ nói: "Vốn là ở đấy có quan coi thuyền, bèn đặt tên huyện". - Lam Điền. Núi có ngọc đẹp, có miếu thờ ở núi Hổ Hầu, do Tần Hiếu Công dựng. - Hoa Âm. Là huyện Âm Tấn cũ, năm thứ năm thời Tần Huệ Văn Vương đổi tên là Ninh Tần, năm thứ tám thời Cao Đế đổi tên là Hoa Âm. Có núi Thái Hoa ở phía nam, có miếu thờ ở núi Dự Châu. Có cung Tập Linh do Vũ Đế dựng. Vương Mãng gọi là huyện Hoa Đàn. - Trịnh. Là ấp của em Chu Tuyên Vương là Trịnh Hoàn Công. Có chức quan coi sắt. Ứng Thiệu nói: "Là chỗ mà em khác mẹ của Tuyên Vương tên là Hữu được phong. Con họ và Bình Vương dời sang miền đông, đổi gọi là ấp Tân Trịnh". Thần Toản nói: "Nhà Chu từ thời Mục Vương về sau đóng đô ở ấp Tây Trịnh, không phong được cho Trịnh Hoàn Công. Lúc trước Trịnh Hoàn Công làm quan Tư đồ của nhà Chu là lúc nhà Chu sắp loạn, cho nên mưu với Sử Bá là đút tiền của mà đến nương dựa ở các nước Quắc-Cối. U Vương đã bại, năm thứ hai thì Trịnh Hoàn Công diệt nước Cối, năm thứ tư thì diệt nước Quắc, trú ở gò Trịnh Phụ, cho nên không có lời nào chép là Trịnh Hoàn Công được phong ở đất Kinh Triệu". Sư Cổ nói: "Xuân thu ngoại truyện chép là Chu U Vương đã bại thì Trịnh Hoàn Công chết, con của Hoàn Công là Vũ Công cùng Chu Bình Vương dời sang miền đông. Cho nên Tả thị truyện chép là 'nhà Chu ta dời sang miền đông là nhờ vào Tấn-Trịnh giúp'. Lại nữa Trịnh Trang Công nói là 'tiên quân ta lập ấp mới ở đấy'. Có lẽ nói đến ấp Tân Trịnh. Từ thời Chu Mục Vương về sau không có việc đóng đô ở ấp Tân Trịnh. Cho nên Toản nói sai. Cối, đọc là công ngoại phiên." - Hồ. Có hai miếu thờ thiên tử nhà Chu. - Hạ Khuê. Ứng Thiệu nói: "Tần Vũ Công đánh người Nhung ở ấp Khuê, có đặt huyện Thượng Khuê, cho nên đặt thêm huyện Hạ Khuê". Sư Cổ nói: "Khuê, đọc là 'khuê', bắt người Nhung ở ấp Khuê dời đến huyện này". - Nam Lăng. Năm thứ bảy thời Văn Đế đặt ra huyện này. Có sông Nghi chảy ra từ hang Lam Điền, sông Bá cũng chảy ra từ hang Lam Điền, lên phía bắc chảy vào sông Vị. Sông Bá trước tên là sông Tư, Tần Mục Công đổi tên để nêu nghiệp bá, cho con cháu xem. Sư Cổ nói: "Nghi, đọc là tiên lịch phiên". - Phụng Minh. Tuyên Đế đặt ra huyện này. - Đỗ Lăng. Là nước của Đỗ Bá ngày xưa. Tuyên Đế đổi tên. Có bốn miếu thờ Hữu tướng quân của nhà Chu là Đỗ Chủ. Vương Mãng gọi là huyện Nhiêu An. Sử kí - Nam Việt liệt truyện 戈船、下厲將軍兵及馳義侯所發夜郎兵未下南越已平矣。遂為九郡。 Quân của Qua thuyền tướng quân, Hạ lại tướng quân và quân nước Dạ Lang mà Trì Nghĩ Hầu đem đi chưa xuống đến nơi (thành Phiên Ngu) thì đã dẹp được nước Nam Việt rồi, rồi đặt thành chín quận. ___________________ Hán thư - Võ Đế kỉ 元鼎六年春至汲新中鄉得呂嘉首以為獲嘉縣。馳義侯遺兵未及下上便令征西南夷平之。遂定越地以為南海、蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、日南、珠厓、儋耳郡。 Mùa xuân năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN), nhà vua đến làng Tân Trung huyện Cấp, lấy được đầu của Lữ Gia, do đó đặt ra huyện Hoạch Gia. Quân của Trì Nghĩa Hầu chưa kịp xuống đến nơi, nhà vua bèn sai đánh người Di miền tây nam, dẹp được chúng. Rồi đặt nước Việt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ. 元封五年夏四月初置刺史部十三州。師古曰「漢舊儀云初分十三州假刺史印綬有常治所。常以秋分行部御史為駕四封乘傳。到所部郡國各遣一吏迎之界上所察六條。」 Năm Nguyên Phong thứ năm (năm 106 TCN), mùa hạ, tháng tư, bắt đầu đặt chức Thứ sử trông coi mười ba châu. Sư Cổ nói: "Hán cựu nghi chép là bắt đầu chia cả nước thành mười ba châu, trao cho ấn thao cho quan Thứ sử, có chỗ thường làm việc. Thường đến ngày thu phân thì quan Thứ sử đi coi xét trong châu, sai quan Ngự sử làm bốn gói thư cưỡi ngựa chở đi, đến sở quan nào thì quận quốc đều sai một viên quan đón ở trên cõi, quan Thứ sử coi xét sáu việc." _____________________ Hán thư - Chiêu Đế kỉ 元鳳五年秋罷象郡分屬鬱林、牂牁。 Năm Nguyên Phượng thứ năm (năm 76 TCN), mùa thu, bỏ quận Tượng, chia gộp vào các quận Uất Lâm, Tang Kha. __________________ Hán thư - Cao Đế kỉ 五年春正月詔曰「故衡山王吳芮與子二人、兄子一人從百粵之兵以佐諸侯誅暴秦有大功諸侯立以為王。項羽侵奪之地謂之番君。其以長沙、豫章、象郡、桂林、南海立番君芮為長沙王。」臣瓚曰「茂陵書象郡治臨塵去長安萬七千五百里。」 Năm thứ năm (năm 202 TCN), mùa xuân, tháng giêng, vua nước Hành Sơn là Ngô Nhuế cùng hai con, một con chú theo quân của vua người Bách Việt đo giúp chư hầu, diệt nhà Tần bạo, có công lớn, chư hầu lập lên làm vua. Lại bị Hạng Vũ cướp lấy đất ấy (nước Hành Sơn), gọi là Bà Quân (chúa của ấp Bà). Nay lấy các quận Tràng Sa, Dự Chương, Tượng, Quế Lâm, Nam Hải lập Bà Quân tên Ngô Nhuế làm vua nước Tràng Sa." Thần Toản nói: "Mậu Lăng thư chép quận Tượng đặt sở trị ở huyện Lâm Trần, cách thành Tràng An một vạn bảy ngàn năm trăm dặm." __________________ Hán thư - Giả Quyên Chi truyện 初武帝征南越元封元年立儋耳、珠厓郡皆在南方海中洲居廣袤可千里合十六縣戶二萬三千餘。其民暴惡自以阻絕數犯吏禁吏亦酷之率數年壹反殺吏漢輒發兵擊定之。自初為郡至昭帝始元元年二十餘年間凡六反叛。至其五年罷儋耳郡并屬珠厓。至宣帝神爵三年珠厓三縣復反。反後七年甘露元年九縣反輒發兵擊定之。元帝初元元年珠厓又反發兵擊之。諸縣更叛連年不定。 Trước đây, Võ Đế đánh nước Nam Việt, đến năm Nguyên Phong thứ nhất (năm 110 TCN) đặt ra các quận Đam Nhĩ, Chu Nhai, đều ở trên đảo giữa biển miền nam, dài rộng hoảng một ngàn dặm, cả thảy là mười sáu huyện, hơn hai vạn ba ngàn hộ. Người dân ở đấy bạo ác, tự cậy vào nơi hiểm trở, nhiều lần phạm cấm, quan lan lại cũng làm việc tàn khốc, cứ vài năm lại một lần phản, giết quan lại, nhà Hán phải phát binh đánh dẹp. Từ lúc bắt đầu đặt quận đến năm Thủy Nguyên thứ nhất (năm 86 TCN) thời Chiêu Đế là trong hơn hai chục năm mà có cả thảy sáu lần làm phản. Đến năm Thủy Nguyên thứ năm (năm 82 TCN) bèn bỏ quận Đam Nhĩ cho gộp vào quận Châu Nhai. Đến năm Thần Tước thứ ba thời Tuyên Đế, ba huyện quận Châu Nhai lại làm phản, bảy năm sau khi làm phản là năm Cam Lộ thứ nhất thì chín huyện làm phản, nhà Hán liền phát binh đi đánh dẹp. Năm Sơ Nguyên thứ nhất (năm 48 TCN) thời Nguyên Đế, người quận Châu Nhai lại làm phản, nhà Hán phát binh đi đánh. Các huyện lại làm phản, nhiều năm không yên. _______________ Hán thư - Tuyên Đế kỉ 始元五年夏六月罷儋耳、真番郡。 Năm Thủy Nguyên thứ năm (năm 82 TCN), mùa hạ, tháng sáu, bỏ các quận Đam Nhĩ, Chân Phiên. ________________ Hán thư - Nguyên Đế kỉ 初元三年春珠厓郡山南縣反博謀群臣。待詔賈捐之以為宜棄珠厓救民飢饉。乃罷珠厓。 Năm Sơ Nguyên thứ ba (năm 46 TCN), mùa xuân, người huyện Sơn Nam quận Châu Nhai làm phản, hỏi kế bầy tôi, quan Đãi chiếu là Giả Quyên Chi cho rằng nên bỏ quận Châu Nhai, cứu dân đói kém. Bèn bỏ quận Châu Nhai. ______________________ Ba quận Tượng, Châu Nhai, Đam Nhĩ có liên quan đến nước Nam Việt thuộc châu Giao bị bỏ thời Chiêu Đế, Tuyên Đế, Nguyên Đế cho nên tác giả Hán thư không chép trong chương Địa lí chí. 交止郡武帝元鼎六年開屬交州。戶九萬二千四百四十口七十四萬六千二百三十七。縣十羸有羞官。孟康曰「羸音蓮。音受土簍。」師古曰「簍二字並音來口反。」安定苟屚師古曰「屚與漏同。」麊泠都尉治。應劭曰「麊音彌。」孟康曰「音螟蛉。」師古曰「音麋零。」曲昜師古曰「昜古陽字。」比帶稽徐師古曰「稽音古奚反。」西于龍編師古曰「編音鞭。」朱䳒。 Quận Giao Chỉ, Đặt ra vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN) thời Võ Đế, thuộc châu Giao có chín vạn hai ngàn bốn trăm bốn chục hộ, bảy mươi tư vạn một ngàn hai trăm ba mươi bảy khẩu. Có mười huyện: - Liên Thổ Có quan coi về món ăn ngon. Mạnh Khang nói: "Liên, đọc là 'liên'. Thổ, đọc là 'thụ thổ phiên'. Sư Cổ nói: "Hai chữ thổ, lâu đều đọc là 'lai khẩu' phiên." - An Định - Câu Lậu - Mi Linh Là chỗ đặt sở trị của quan Đô úy. Ứng Thiệu nói: "Mi, đọc là 'mi'." Mạnh Khang nói: "Đọc là Minh Linh." Sư Cổ nói: "Đọc là Mi Linh." - Khúc Dương - Bỉ Đái - Kê Từ - Tây Vu - Long Biên - Chu Diên. _____________________ 九真郡武帝元鼎六年開。有小水五十二并行八千五百六十里。戶三萬五千七百四十三口十六萬六千一十三。有界關。縣七胥浦莽曰驩成。居風都寵應劭曰「寵音龍。」師古曰「音聾。」餘發咸驩無切都尉治。無編。莽曰九真亭。 Quận Cửu Chân, Đặt ra vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thời Võ Đế, có năm mươi hai dòng sông nhỏ, cộng cả dòng là chín ngàn năm trăm sáu chục dặm. có ba vạn năm ngàn bảy trăm bốn mươi ba hộ, mười sáu vạn sáu ngàn một trăm mười ba khẩu. [colo=red]Có cửa ải trong cõi.[/color] Có bảy huyện: - Tư Phố Vương Mãng gọi là huyện Hoan Thành. - Cư Phong - Đô Lung Ứng Thiệu nói: "Lung, đọc là 'lung'." Sư Cổ nói: "Đọc là 'lung'". - Dư Phát - Hàm Hoan - Vô Thiết Có sở trị của quan Đô úy. - Vô Biên. Vương Mãng gọi là huyện Cửu Chân Đình. ___________________ 日南郡故秦象郡武帝元鼎六年開更名。有小水十六并行三千一百八十里。屬交州。師古曰「言其在日之南所謂開北戶以向日者。」戶萬五千四百六十口六萬九千四百八十五。縣五朱吾比景如淳曰「日中於頭上景在已下故名之。」盧容西捲水入海有竹可為杖。莽曰日南亭。孟康曰「音卷。」師古曰「音權。」象林。 Quận Nhật Nam, Là quận Tượng của nhà Tần thời trước, đặt ra vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thời Võ Đế, đổi tên, có mười sáu dòng sông nhỏ, cộng cả dòng là ba ngàn một trăm tám chục dặm, thuộc châu Giao. Sư Cổ nói: "Ý nói quận này ở phía nam của Mặt Trời, vốn gọi là chỗ mở cửa quay mặt về phía bắc hướng về Mặt Trời." có một vạn năm ngàn bảy trăm bốn mươi ba hộ, mười sáu vạn sáu ngàn một trăm mười ba khẩu. Có năm huyện: - Chu Ngô, - Bỉ Cảnh Như Thuần nói: "Giữa ngày Mặt Trời ở trên đầu, bóng ở dưới chân mình, cho nên đặt tên ấy. - Lô Dung - Tây Quyển Sông đổ vào biển, có tre làm gây được. Vương Mãng gọi là huyện Nhật Nam Đình. Mạnh Khang nói: "Đọc là 'quyển'." Sư Cổ nói: "Đọc làn 'quyền'." - Tượng Lâm. [www.sidneyluo.net] ____________________ 零陵郡武帝元鼎六年置。莽曰九疑。屬荊州。戶二萬一千九十二口十三萬九千三百七十八。縣十零陵陽海山湘水所出北至酃入江過郡二行二千五百三十里。又有離水東南至廣信入鬱林行九百八十里。營道九疑山在南。莽曰九疑亭。始安夫夷營浦都梁侯國。路山資水所出東北至益陽入沅過郡二行千八百里。泠道莽曰泠陵。應劭曰「泠水出丹陽宛陵西北入江。」臣瓚曰「宛陵在豫章北界相去三千里又隔諸水不得從下逆至泠道而復入江也。」師古曰「瓚說是。泠音零。」泉陵侯國。莽曰溥閏。洮陽莽曰洮治。如淳曰「洮音韜。」鍾武。莽曰鍾桓。應劭曰「今重安。」 Quận Linh Lăng, Đặt ra vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thời Võ Đế. Vương Mãng gọi là quận Cửu Nghi, thuộc châu Kinh. có hai vạn một ngàn chín mươi hai hộ, mười ba vạn chín ngàn ba trăm bảy mươi tám khẩu. Có mười huyện: - Linh Lăng - Doanh Đạo - Thủy An - Phù Di - Doanh Phố - Đô Lương - Linh Đạo - Tuyền Lăng - Thao Dương - Chung Võ. Hán thư - Địa lí chí 本秦京師為內史分天下作三十六郡。漢興以其郡太大稍復開置又立諸侯王國。武帝開廣三邊。故自高祖增二十六文、景各六武帝二十八昭帝一訖於孝平凡郡國一百三縣邑千三百一十四道三十二侯國二百四十一。地東西九千三百二里南北萬三千三百六十八里。提封田一萬萬四千五百一十三萬六千四百五頃其一萬萬二百五十二萬八千八百八十九頃邑居道路山川林澤羣不可墾其三千二百二十九萬九百四十七頃可墾不可墾定墾田八百二十七萬五百三十六頃。民戶千二百二十三萬三千六十二口五千九百五十九萬四千九百七十八。漢極盛矣。師古曰「漢之戶口當元始時最為殷盛故志舉之以為數也。後皆類此。」 Kinh sư của nhà Tần vốn gọi là quận Nội Sử, nhà Tần chia thiên hạ đặt ra ba mươi sáu quận. Nhà Hán nổi lên, các quận lại càng nhiều, dần dần lại đặt thêm ra, lại đặt ra các nước của các chư hầu. Võ Đế mở đặt rộng thêm ba cõi, cho nên từ thời Cao Tổ tăng thêm hai mươi sáu quận, thời Văn-Cảnh đều tăng sáu quận, thời Võ Đế tăng thêm sai mươi tám quận, thời Chiêu Đế tăng thêm một quận, đến thời Hiếu Bình Đế có cả thảy một trăm lẻ ba quận quốc, một ngàn ba trăm mười bốn huyện ấp, ba mươi hai con đường, hai trăm bốn mươi mốt hầu quốc... Có một ngàn hai trăm hai mươi ba vạn ba ngàn sáu mươi hai hộ dân, năm ngàn chín trăm năm mươi chín vạn bốn ngàn chín trăm bảy mươi tám khẩu. Là nhiều nhất của nhà Hán vậy. Sư Cổ nói: "Hộ khẩu của nhà Hán vào năm Nguyên Thủy (năm 1 - năm 5 Công nguyên)là phồn thịnh nhất, cho nên chương Địa lí chí này lấy số hộ khẩu ở năm này. Phần chép sau đều như vậy". 粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。 其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。按世本越為羋姓與楚同祖故國語曰『羋姓夔、越』然則越非禹後明矣。又羋姓之越亦句踐之後不謂南越也。」師古曰「越之為號其來尚矣少康封庶子以主禹祠君於越地耳。故此志云其君禹後豈謂百越之人皆禹苗裔瓚說非也。」文身斷髮以避蛟龍之害。應劭曰「常在水中故斷其髮文其身以象龍子故不見傷害也。」後二十世至句踐稱王與吳王闔廬戰敗之雋李。師古曰「雋音醉字本作檇其旁從木。」夫差立句踐乘勝復伐吳吳大破之棲會稽師古曰「會稽山名。登山而處以避兵難言若鳥之棲。」臣服請平。後用范蠡、大夫種計遂伐滅吳兼并其地。度淮與齊、晉諸侯會致貢於周。周元王使使賜命為伯諸侯畢賀。後五世為楚所滅子孫分散君服於楚。師古曰「事楚為君而服從之。」後十世至閩君搖佐諸侯平秦。漢興復立搖為粵王。是時秦南海尉趙佗亦自王傳國至武帝時盡滅以為郡云。 處近海多犀、象、毒冒、珠璣、銀、銅、果、布之湊韋昭曰「果謂龍眼、離支之屬。布葛布也。」師古曰「毒音代。冒音莫內反。璣謂珠之不圜者也音祈又音機。布謂諸雜細布皆是也。」中國往商賈者多取富焉。番禺其一都會也。 自合浦徐聞南入海得大州東西南北方千里武帝元封元年略以為儋耳、珠厓郡。民皆服布如單被穿中央為貫頭。師古曰「著時從頭而貫之。」男子耕農種禾稻紵麻女子桑蠶織績。亡馬與虎民有五畜師古曰「牛、羊、豕、雞、犬。」山多麈麖。師古曰「麈似鹿而大嗷似鹿而小。麈音主麖音京。」兵則矛、盾、刀木弓弩竹矢或骨為鏃。師古曰「鏃矢鋒音子木反。」自初為郡縣吏卒中國人多侵陵之故率數歲壹反。元帝時遂罷弃之。 自日南障塞、徐聞、合浦船行可五月有都元國又船行可四月有邑盧沒國又船行可二十餘日有諶離國師古曰「諶音士林反。」步行可十餘日有夫甘都盧國。師古曰「都盧國人勁捷善緣高故張衡西京賦云『烏獲扛鼎都盧尋橦』又曰『非都盧之輕趫孰能超而究升』也。夫音扶。」自夫甘都盧國船行可二月餘有黃支國民俗略與珠厓相類。其州廣大戶口多多異物自武帝以來皆獻見。有譯長屬黃門與應募者俱入海巿明珠、璧流離、竒石異物齎黃金雜繒而徃。所至國皆稟食為耦師古曰「稟給也。耦媲也。給其食而侶媲之相隨行也。」蠻夷賈船轉送致之。亦利交易剽殺人。師古曰「剽劫也音頻妙反。」又苦逢風波溺死不者數年來還。大珠至圍二寸以下。平帝元始中王莽輔政欲燿威德厚遺黃支王令遣使獻生犀牛。自黃支船行可八月到皮宗船行可二月到日南、象林界云。黃支之南有已程不國漢之譯使自此還矣。 Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: "Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang. Xét sách Thế bản chép vua nước Việt mang họ Mị, cùng tổ với vua nước Sở, cho nên Chiến quốc sách chép 'họ Mị có vua nước Qùy, vua nước Việt', vậy thì vua nước Việt không phải là dòng dõi của vua Vũ là rõ rồi. Lại nữa vua nước Việt họ Mị cũng là dòng dõi của vua Câu Tiễn, không phải là vua nước Nam Việt vậy." Sư Cổ nói: "Vua nước Việt xưng hiệu đã từ lâu rồi, vua Thiếu Khang phong con thứ để lo việc thờ cúng vua Vũ, làm vua ở đất Việt vậy. Cho nên phần chí này nói quân trưởng của đất này là dòng dõi của vua Vũ, há phải là nói người Bách Việt đều là dòng dõi của vua Vũ đâu? Toản nói sai vậy." xăm mình cắt tóc để tránh cái hại của loài giao long. Ứng Thiệu nói: "Thường ở giữa nước, cho nên cắt tóc xăm mình cho giống loài rồng để không bị làm thương hại." Đến hai mươi đời sau thì đến đời vua Câu Tiễn xưng vương, đánh với vua nước Ngô là Hạp Lư, đánh bại vua Ngô ở ấp Túy Lí. Sư Cổ nói: "Túy, đọc là 'túy'." Vua nước Ngô là Phù Sai lên ngôi, Câu Tiễn thừa thắng lại đánh nước Ngô, vua nước Ngô đại phá quân nước Việt. Vua nước Việt náu ở núi Cối Kê, thần phục xin hòa, sau dùng kế của Phạm Lãi, Đại phu là Chủng, rút cuộc đánh diệt Phù Sai, chiếm lấy hết nước Ngô, vượt sông Hoài cùng vua nước Tề, nước Tấn hội chư hầu, đem vật cống cho nhà Chu. Nguyên Vương nhà Chu sai sứ ban lệnh làm bá, chư hầu đều chúc mừng. Năm đời sau thì bị vua nước Sở diệt, con cháu phân tán, thần phục vào nước Sở. Sư Cổ nói: "Làm quân trưởng mà theo phục vào vua nước Sở." Mười đời sau thì đến đời quân trưởng đất Mân tên là Dao giúp chư hầu dẹp nhà Tần. Nhà Hán lập, lập lại Dao làm vua nước Việt. Bấy giờ quan Úy quận Nam Hải của nhà Tần là Triệu Đà cũng tự xưng vương, truyền quốc đến thời Võ Đế thì đất Việt mới bị diệt hết đặt làm quận. Đất Việt kề biển, có nhiều đồ sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu cơ, bạc, đồng, trái cây, vải vóc. Vi Chiêu nói: "Trái cây là chỉ long nhãn, lệ chi. Vải là chỉ vải sắn." Từ phía nam huyện Từ Văn quận Hợp Phố vào biển thì gặp đảo lớn, chiều đông tây nam bắc rộng một ngàn dặm, vào năm Nguyên Phong thứ nhất thời Võ Đế cướp lấy đặt ra các quận Đam Nhĩ, Châu Nhai. Người dân ở đấy đều mặc vải như quàng chăn đơn, làm cổ áo chui vào giữa. Đàn ông thì cày bừa, trồng lúa lúa nước, cây gai sợi, đàn bà thì trông cây dâu nuôi tằm thêu dệt. Không có ngựa và hổ, người dân chỉ nuôi năm loài vật. Sư Cổ nói: "Là chỉ loài bò, dê, heo, gà, chó." Trong núi có nhiều loài chủ kinh. Sư Cổ nói: "Loài chủ giống hươi mà lớn, tiếng kêu cũng giống hươu mà nhỏ. Chủ, đọc là 'chủ', kinh, đọc là 'kinh'." Binh khí thì có mâu, thuẫn, đao, cung nỏ gỗ, mũi tên tre, hoặc lấy xương thú làm mũi tên. Lúc lúc bắt đầu lập quận huyện, quan quân là người Trung Quốc phần nhiều xâm xâm lấn người dân ở đấy, cho nên cứ vài năm lại làm phản một lần. Đến thời Nguyên Đế bèn vứt bỏ đất ấy. Từ ải lũy quận Nhật Nam, huyện Từ Văn quận Hợp Phố đi thuyền khoảng năm tháng thì đến nước Đô Nguyên, lại đi thuyền khoảng bốn tháng thì đến nước Ấp Lô Một, lại đi thuyền khoảng hơn hai chục ngày thì đến nước Kham Li, đi bộ khoảng hơn chục ngày thì đến nước Phù Cam Đô Lô. Sư Cổ nói: "Người nước Cam Đô Lô nhanh nhẹn giỏi trèo cao, cho nên Tây kinh phú của Trương Hành chép 'Ô Hoạch vác đỉnh, Đô Lô trèo cây', lại chép 'nếu chẳng có cái nhanh nhẹn của người nước Đô Lô thì ai treo lên đến chỗ tột cùng được?'." Từ nước Phù Cam Đô Lô đi thuyền khoảng hơn hai tháng thì đến nước Hoàng Chi, người dân ở đây có phong tục giống với người quận Châu Nhai, đất này rộng lớn, hộ khẩu nhiều, nhiều vật lạ, từ thời Võ Đế đến nay đều đến dâng tặng. Có quan chủ việc phiên dịch thuộc quyền quan Hoàng môn với người ứng mộ cùng vượt biển tìm mua ngọc minh châu, ngọc lưu li, vật lạ, đá quý, đem vàng ròng, vải vóc mà đi, đến nước nào đều được trao cho đồ ăn xin làm bạn bè cùng đi. Nhà thuyền buôn người Man Di đem chở dẫn đi. Cũng có kẻ vì được lợi trao đổi mà cướp giết người ta. Lại nữa khổ sở gặp sóng gió mà chết đuối, không đến vài năm lại quay về. Ngọc châu lớn tròn từ hai tấc trở xuống. Giữa năm Nguyên Thủy thời Bình Đế là lúc Vương Mãng phụ chính, muốn nêu rõ oai đức, ban tặng rất nhiều cho vua nước Hoàng Chi, sai phải dâng tê ngưu sống đến. Từ nước Hoàng Chi đi thuyền khoảng tám tháng thì đến nước Bì Tông, từ đây đi thuyền khoảng hai tháng thì đến huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam. Phía nam nước Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Bất, sứ giả của nhà Hán từ đấy mà về nước mình vậy. Hậu Hán thư - Mã Viện liệt truyện 援好騎善別名馬於交阯得駱越銅鼓乃鑄為馬式裴氏廣州記曰「俚獠鑄銅為鼓鼓唯高大為貴面闊丈餘。初成懸於庭剋晨置酒招致同類來者盈門。豪富子女以金銀為大釵執以叩鼓叩竟留遺主人也。」還上之。 Viện ham cưỡi ngựa, giỏi biết ngựa tốt, khi ở quận Giao Chỉ có lấy được trống đồng của người Lạc Việt bèn đúc thành hình ngựa, Quảng châu kí của họ Bùi chép: "Người Lí-Liêu đúc đồng làm trống, trống chỉ cao lớn là quý, mặt trống rộng hơn một trượng. Mới xong, treo ở sân, hẹn sáng sớm bày cỗ rượu, mời người trong họ đến, kẻ đến đầy cửa. Con trai con gái nhà giàu có lấy vàng ngọc làm cái dùi lớn, cầm dùi để gõ trống, gõ xong thì để lại cho chủ trống. lúc về bèn dâng lên nhà vua. _______________ Trần Thư - Âu Dương Ngôi truyện 歐陽頠字靖世長沙臨湘人也梁左纫將軍蘭欽之少也與頠相善故頠常隨欽征討欽為衡州仍除清遠太守欽南征夷獠擒陳文徹所獲不可勝計獻大銅鼓累代所無頠預其功時頠弟盛為交州刺史次弟邃為衡州刺史合門顯貴名振南土又多致銅鼓、生口獻奉珍異前後委積頗有助於軍國焉 Âu Dương Ngôi tên chữ là Tịnh Thế, người huyện Lâm Tương quận Tràng Sa. Vào thời viên Tá nhân tướng quân của nhà Lương là Lam Khâm còn trẻ thường chơi thân nhau với Ngôi, cho nên Ngôi thường theo Khâm đi đánh dẹp. Khâm làm Thứ sử châu Hành, lại sai Ngôi làm Thái thú Thanh Viễn. Khâm xuống phía nam đánh người Di-Lão, bắt được Trần Văn Triệt, thu lấy không sao kể hết, (người Di-Lão) dâng trống đồng lớn nhiều đời không có, Ngôi cũng có công ấy. (Sau khi bình loạn Hầu Cảnh) Bấy giờ em của Ngôi là Thịnh làm Thứ sử châu Giao, em thứ là Thúy làm Thứ sử châu Hành, cả nhà đều hiển quý, tiếm tăm lừng lẫy miền nam, lại đem nhiều trống đồng, sinh khẩu, dâng nạp vật lạ, trước sau cất chứa, cũng có giúp ích cho việc quân việc nước. _____________________ Trống đồng đã có từ thời Tần-Hán ở người Lạc Việt, đến thời Nam bắc triều như Tống, Tề, Lương, Trần vẫn còn có ở người Di-Lão. Sử kí - Bình chuẩn thư 漢連兵三歲,誅羌,滅南越,番禺以西至蜀南者置初郡十七,且以其故俗治,毋賦稅。南陽、漢中以往郡,各以地比給初郡吏卒奉食幣物,傳車馬被具。而初郡時時小反,殺吏,漢發南方吏卒往誅之,閒歲萬餘人,費皆仰給大農。大農以均輸調鹽鐵助賦,故能贍之。然兵所過縣,為以訾給毋乏而已,不敢言擅賦法矣。 Nhà Hán dùng binh ba năm liền (từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm Nguyên Phong thứ hai), đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu về phía tây đến phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới, Tập giải: Từ Quảng nói: "Diệt nước Nam Việt chia thành chín quận." Bùi Nhân xét: Tấn chước chép: "Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì bình nước Việt đặt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ; bình người Di miền tây nam đặt ra các quận Võ Đô, Tang Kha, Việt Tủy, Thẩm Lê, Vấn San; và theo Địa lí chí, Tây nam Di truyện chép thì đặt các quận Kiền Vi, Linh Lăng, Ích Châu, cả thảy là mười bảy quận." tạm theo tục cũ của họ để trị, không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo gần quận mới nào mà cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận mới đó. Nhưng người các quận mới ấy có lúc lại làm phản, giết quan lại, mỗi năm nhà Hán phải phát mấy vạn quan quân ở miền nam đến đánh dẹp, tiền phí đều do quan Đại nông cung cấp. Quan Đại nông sai quan Quân thâu lệnh trông coi muối-sắt để thu thuế, cho nên mới đủ tiền của. Nhưng các huyện có quan quân đi qua chỉ cung cấp sao cho không thiếu mà thôi, không dám nói là làm theo phép tắc thu thuế bình thường. _________________ Giao Chỉ, Cửu Chân so với nhiều quận quốc khác chỉ là quận nhỏ, lại ở xa là đất hoang phục nên sử sách xưa của Trung Quốc ít nói đến lắm bạn ạ. Theo lí mà nói, thời Hán giao thông chưa được thuận lợi như đời sau, do đó việc thu thuế lúa gạo và lao dịch thì không được tiện vì chi phí chuyển chở, mà lúa gạo thì ở các quận ven sông Trường Giang cũng là nhiều rồi, nhà Hán cần gì phải tốn công chuyển chở từ Giao Chỉ nữa? Có chăng chỉ ham các loại đồ vật lạ như vàng bạc, sừng tê, ngà voi mà thôi. Mười bảy quận mới mà nhà Hán lập nên ở đất Khương, Việt ấy có dân nổi lên làm phản tin chắc không phải ở Giao Chỉ, mà là các quận phía trên gần các quận Hán Trung, Nam Dương mà thôi. Giao Chỉ sau này đến thời vua Quang Võ mới có cuộc nổi dậy của Trưng Trắc vậy.
-
Tiếp theo tôi sẽ ghi nhận những vấn đề hay sự kiện đặc biệt trong các nền văn minh trong lịch sử nhân loại, trong mối tương quan với lịch sử nước Văn Lang thời Hùng Vương. Đám cưới tiến sĩ chuột Ta hay chuột Tàu? Hà Vũ Trọng Chuột, con vật nhỏ con nhưng vì lanh lợi nên đứng đầu 12 chi, và vì vậy được người Tàu tôn lên hàng “lão”. Tết Mậu Tí năm nay nhiều người nhắc đến bức tranh mộc bản nổi tiếng Đám cưới chuột, để rồi lại nhắc đến làng Đông Hồ. Nhưng thời vàng son của tranh dân gian Đông Hồ đã qua từ lâu, nay làng lại tiếp tục sang thời hoàng kim của hàng mã. Thời “hàng mã lên ngôi”, làng Đông Hồ đã giàu lên trông thấy. Riêng việc nghiên cứu “công nghiệp” hàng mã hay vấn đề tiền âm phủ được đô la hoá chỉ xảy ra trong thời mở cửa, có thể trở thành đề tài nghiên cứu thú vị và nghiêm túc về nền kinh tế Việt Nam. “Cõi dương làm sao cõi âm làm vậy”, dưới đó cũng có “ngân hàng âm phủ” (như ta thấy hàng chữ “The Bank of Hell” in trên tờ đôla “ma” mệnh giá lớn với chân dung Ngọc hoàng Thượng đế cùng với chữ kí của Diêm vương bay lăn lóc trên các vỉa hè Sài Gòn).Hình ảnh thể hiện trong bức Đám cưới chuột ngày xưa vốn ưu ái dành cho trẻ em, sau này một số nhà theo chủ nghĩa hiện thực cắt nghĩa là nó “tố cáo giai cấp thống trị”, vì chuột thuộc thành phần “dân oan”, thấp cổ bé họng khi có chuyện cưới hỏi, đỗ đạt, cũng phải hối lộ bằng cách dâng con gà, con cá cho lão mèo tham quan! Nếu vậy, lại không tránh khỏi cái vụ “mua quà cho xếp” trong dịp Tết. Việc họ nhà chuột “dâng cá” (tất nhiên không chỉ dịp Tết) mà một ngài Thanh tra Chính phủ tiết lộ có khi trị giá cả trăm ngàn đô. “Con cá” trong cổ tích là con chuột nhỏ đúc vàng mà ông quan thanh liêm “dân chi phụ mẫu” tuổi Tí khi về hưu gặp cảnh nghèo xơ, đã tiếc rẻ trách vợ: Sao lúc đó bà không bảo với họ là tôi tuổi Sửu! Dẫu sao, giải thích Đám cưới chuột như “bức tranh hiện thực phê phán” theo lối trên là hợp với thời đại hơn bao giờ hết, lại vừa đầy ắp “bản sắc dân tộc”. Đề tài họ nhà chuột tiếp tục được chíu chít chiếu cố, nhưng rôm rả nhất vẫn là về các món thịt chuột đậm đà bản sắc khắp ba miền. Ở các làng chuột miền Bắc, các đám cưới không thể thiếu thịt chuột. Thiếu chuột, lễ cưới không thành. Thật tuyệt, Thịt chuột lang thang kí, với đề xuất ăn thịt chuột cũng là để “cứu” nhân loại: “Theo thống kê của một tổ chức quốc tế, số lương thực mà họ hàng nhà chuột xơi trong một năm đủ để nuôi 20 triệu người trên thế giới. Nghĩ theo kiểu khác thì ăn thịt chuột, mà ăn cho nhiều vào, cũng là cách ‘cứu’ nhân loại”. Nói thêm, con người ăn thịt chuột thay mèo và nên thay cho thịt mèo để cứu loài “hổ đồng bằng” ở một số làng quê gần như tuyệt chủng. Tới đây, bài viết này xin đi vào vấn đề: đưa ra vài nghi nhận trong việc tìm nguồn gốc và đề tài bức mộc bản Đám cưới chuột, còn gọi là Chuột vinh quy, lâu nay nó thường được gán cho là thuộc dòng tranh Tết Đông Hồ. Có thực sự như vậy không? Nguồn gốc tranh Tết dân gian Việt Nam, về phong cách và đề tài sáng tạo của nó cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào rõ ràng. Và trong việc phân loại, cũng chưa có sự gạn lọc về xuất xứ để tránh sự “cầm nhầm” đáng tiếc. Về tổng quát, tranh mộc bản dân gian Việt Nam – chủ yếu loại tranh dân gian Tết – nguyên thuỷ bắt nguồn từ tranh Niên hoạ (hay tranh Tết) của Trung Quốc. Hai dòng tranh dân gian tiêu biểu là Đông Hồ và Hàng Trống, về phong cách và đặc điểm chịu ảnh hưởng, tạm thời xác định: Đông Hồ gần với dòng tranh Duy Phường hoặc Dương Gia Bộ (ở Sơn Đông). Hàng Trống gần nhất với dòng tranh nổi tiếng Dương Liễu Thanh (ở Thiên Tân), do sắc thái nghệ thuật và kĩ thuật mộc bản (khắc nét rồi tô màu bằng tay và cũng thường đi về các đề tài truyện, tích). Thời điểm các dòng tranh Niên hoạ Trung Quốc [1] này du nhập vào Việt Nam khoảng vài trăm năm trong thời nhà Thanh. Nhưng thời kì cực thịnh chỉ vào cuối thế kỉ 19 cho đến mấy thập niên đầu thế kỉ 20, nhất là thể loại truyện Nôm dân gian lúc đó nở rộ và luôn cần có tranh mộc bản minh hoạ. Về lĩnh vực này, học giả Maurice Durand và vợ ông đã dày công nghiên cứu rồi. Trên thực tế, loại tranh mộc bản dân gian thực sự đã cáo chung vào điểm mốc năm 1944, hiểu như một nhu cầu tiêu thụ về văn hoá và tín ngưỡng dân gian cho ngày Tết. Sau đó nó chỉ tồn tại như những phiên bản được một số nghệ nhân ráng duy trì nghề tổ, và khách hàng là những người chơi tranh. Cũng nói thêm, từ 1945, nhất là những năm 1950, loại tranh mộc bản này được chính quyền miền Bắc vực dậy với những đề tài cho những vận động chính trị, chính sách ruộng đất, hợp tác xã, lớp học bình dân… Thời kì sớm nhất khi tranh Niên hoạ du nhập vào Việt Nam, có lẽ chỉ thịnh hành chủ yếu loại tranh với đề tài “cát tường” (may mắn, tốt lành) của Trung Quốc và tín ngưỡng như Đạo giáo, Phật giáo. Sau đó, các phường tranh này có nhu cầu khai triển, sáng tác thêm các đề tài bản địa, pha chế chất liệu riêng, nhưng về mặt kĩ thuật vẫn giữ nguyên sự thuần phác chứ không phát triển cho phong phú và tinh tế hơn. Riêng Hàng Trống, ngoài sự đóng góp quan trọng vào các loạt tranh tín ngưỡng như Đạo giáo, nhất là đạo Mẫu (với cả một hệ thống đồ tượng chư thần thánh bản địa như Bà Chúa Thượng ngàn, Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh, Ông Hoàng, Ngũ hổ), các loạt tranh đề tài văn học (như Truyện Kiều, Thạch Sanh), hay đề tài lịch sử, v.v… nó còn phản ánh trực tiếp sinh hoạt xã hội đương thời, nhất là đề tài “văn minh tiến bộ” hay “khai hoá” trong xã hội thành thị Bắc kì thời Pháp thuộc. Bức Đám cưới chuột hay Chuột vinh quy của làng Đông Hồ là một trong những bức được tán tụng nhiều và được trẻ em yêu thích nhất. Hai bức tranh Tết cùng đề tài Đám cưới chuột, được lần lượt trình ra dưới đây với một số nhận xét và cũng để người xem tự so sánh, đánh giá: Bức thứ nhất từ Việt Nam, do Maurice Durand sưu tập, in lại trắng đen cùng với hai dị bản khác trong cuốn Imagerie Populaire Vietnamienne. Và bức thứ hai, Lão thử thành thân, tranh Niên hoạ từ Trung Quốc, in khắc do một phường tranh ở tỉnh Hồ Nam thời nhà Thanh. Đặc biệt, bức này nằm trong số tranh mộc bản do Lỗ Tấn sưu tập. H.1. Đám cưới chuột, in trong cuốn Imagerie Populaire Vietnamienne của Maurice DurandBức trên đây được cho là sản phẩm của làng Đông Hồ, mô tả cảnh đám cưới chuột, có thể là bức xưa nhất vì còn giữ lại nhiều chi tiết và chữ khắc, đặc biệt tên của phường tranh. Đọc các chữ (tính từ góc trên bên phải): “Bằng Liệt tân khắc lão thử thủ thân” (Bản khắc mới của Bằng Liệt bức Chuột cưới vợ). “Miêu nhi” (mèo); “tống lễ” (tặng quà); “tác nhạc”: chơi nhạc; “đả đăng” (vác đèn); “tân lang” (chú rể); “kiệu phu” (khiêng kiệu); “đả thái” (vác cờ phướn). Những dị bản khác cùng một chủ đề luôn có cảnh dâng lễ vật cho mèo hay “quan viên”. Durand nói có một số giải thích bức tranh này như là sự châm biếm người Tàu vào thời đó (xin tham khảo thêm bức Chuột Tàu rước rồng vàng ở phần Phụ lục). Gần như M. Durand bỏ quên câu truyện dân gian có liên hệ ít nhiều đến đề tài cho bức tranh này là truyện Nôm ngụ ngôn Đám cưới chuột của làng Liễu Đôi [2] ít được thịnh hành, và truyện cổ tích thịnh hành của Trung Quốc Lão thử giá nữ (Lão chuột gả con gái hay Cô dâu chuột) [3] . So sánh truyện thơ Đám cưới chuột của làng Liễu Đôi với tình huống trong tranh, thấy chi tiết câu chuyện không ăn khớp, như: cảnh trạng nguyên vinh quy, mèo già có mặt ung dung như quan viên nhận lễ vật trong ngày cưới. Các “dị bản” khác: Các hàng chữ Nho: “miêu”, “tống lễ”, “tác nhạc”, lão thử thủ thân” (lưu ý: “thủ thân” 守身 ở đây là “giữ thân”(?) chứ không phải “thú thân” 娶亲hay “thành thân” 成亲là cưới vợ hay kết hôn). Còn chữ hàng dưới là “nghênh hôn”, “giai tế” (chú rể) Chuột đi sau chú rể khiêng bảng đề “Tiến sĩ” . Con đi trước vác cờ đề “Tân hôn”.Tiếp theo, hãy so sánh với bức Niên hoạ Trung Quốc được khắc in ở Hồ Nam để thấy sự trùng hợp gần như toàn diện, ngoại trừ vài chi tiết phụ. Lão thử thành thân, Niên hoạ Trung Quốc đời Thanh, khắc in tại Thiệu Dương, Hồ Nam Lão thử thành thân, Niên hoạ Trung Quốc đời Thanh, khắc in tại Thiệu Dương, Hồ NamBức Niên hoạ Lão thử thú thân này, do nhà văn Lỗ Tấn từng trân giữ và gọi nó là thể tài đích thực truyền thống của Trung Quốc. Ông có nói đến trong tập tản văn Triêu hoa tịch thập (1926), chương “Miêu-cẩu-thử”: “Trước giường tôi có dán hai bức Niên hoạ, một là Bát giới chiêu thân (Bát Giới ở rể)… mà tôi không thấy đẹp mắt cho lắm; còn bức kia là Lão thử thú thân vô cùng đáng yêu, từ chú rể, cô dâu, chủ hôn, tân khách, giúp việc, nhân vật nào mõm cũng nhọn, đùi nhỏ, đuôi dài, râu tua, trông rất giống kẻ sĩ, nhưng ăn mặc thì áo hồng, khố lục…” Đàn chuột trong tranh này về hình thể, đường nét, bố cục (cũng phân thành hai phần trên và dưới) và các hàng chữ có thể nói là giữ nguyên văn như trong bức mà M. Durand đưa ra. Cũng có tống lễ cho mèo, ban nhạc, đánh chiêng thổi kèn, rước đèn, phu kiệu… Chú rể cưỡi ngựa quay đầu nhìn về hướng cô dâu. Chỉ có vài chi tiết khác là đầu chú rể đội mũ quan triều Thanh (trong bức Đông Hồ là loại mũ cánh chuồn của trạng nguyên) và tay có cầm quạt. Còn hai bên khung cửa kiệu hoa (theo phối cảnh đối xứng) dán 2 câu đối: “Càn khôn định hĩ” (Trời đất định rồi), “Chung cổ lạc chi” (Chuông trống vui vầy). Còn hàng chữ trên cùng bức tranh, có 12 chữ khải: “Sở nam Than trấn tân khắc Lão thử thủ thân toàn bản” và “Bảo duyệt lai” phỏng như tự hiệu, cho biết bức tranh này làm tại Hồ Nam, Thiệu Dương, Sở Nam Than khắc ấn. Toàn Trung Quốc có hơn 80 loại tranh Lão thử thú thân được in khắc, nhưng đa số đều hoạ hình tượng mèo là kẻ thù tự nhiên của chuột, tức vẽ ra thảm kịch chuột là “món ăn” của mèo. Thế nhưng bức Lão thử thú thân của phường tranh Than Đầu này không thường tình ở chỗ là nó không khắc hoạ cái thảm cảnh đó. Cũng như bức đám cưới chuột của Đông Hồ cũng không gây ấn tượng nào về con mèo xuất hiện như một tai hoạ. Như vậy, cách giải thích về bức tranh đám cưới chuột này phải khác và đứng độc lập theo ý nghĩa “cát tường” (là sự tốt lành, thuận lợi, may mắn) của ngày Tết. Rõ ràng ý hướng của của bức tranh này không phải mô tả tình huống rủi ro, bất hạnh. Vì đây là bức tranh gây sự thích thú với trẻ em, nó được “nhi đồng hoá” không còn nhìn sự việc mèo chuột như kẻ thù của nhau trên thực tế. Đồng thời thế giới cổ tích này phản ánh sự cho phép của chúng ta nhìn về một thế giới đại đồng (như trong Dế mèn phiêu lưu kí), thể hiện một sự hoà thuận, cộng tồn, hướng tới nhân tình. Trong ý nghĩa này thì thái độ của người đối với chuột cũng thế, theo tập tục dân gian Trung Quốc xưa, cứ vào mùng 7 tháng Giêng người ta làm lễ cúng cho sinh hoạt của loài chuột, cũng gọi là Lão thử giá nữ (Lão chuột gả con gái) hayLão thử thú thân (Lão chuột cưới vợ). Đây có lẽ là “lí do tồn tại” hoạt cảnh bức tranh đám cưới chuột. (Và có lẽ người Tàu gián tiếp cũng muốn cầu phồn thực, sinh con đẻ cái như… chuột vậy!) Cũng lưu ý và không thể bỏ qua cách chơi chữ nghĩa trong dân gian của người Trung Quốc trong các biểu tượng mang nghĩa cát tường. Hàng chuột trên cùng trước đội nhạc có hai con khiêng lễ vật: ôm gà, nâng cá. “Kê” 鸡 (ji) đồng âm với “cát” (jí) 吉; “ngư” (yú) 鱼đồng âm với “dư” (yú) 余. Mọi mùa tốt lành, quanh năm dư đủ là lời chúc đẹp cho đám cưới chuột. Dân gian thường dùng hình tượng “kê dương” (ji yáng) 鸡羊(gà, dê) biểu tượng “cát tường” (ji xíang), lấy “liên hoa lí ngư” 莲花 鲤鱼(hoa sen và cá chép) biểu hiện “liên niên hữu dư” 连年有余 (hàng năm dư đủ),… đã sớm trở thành nhận thức chung. Như vậy, “kê” cũng là nguyên hình của “phượng”, “lí ngư khiêu long môn” tức cá chép vượt vũ môn thành rồng (cũng chỉ việc đỗ đạt). Ở đây “kê” và “ngư” cũng tượng trưng cho “phượng và long”. Long phượng tức âm dương, càn khôn, nam nữ, vợ chồng. Vì thế “long phượng trình tường” là nghi thức không thể thiếu trong ngôn ngữ chúc tụng hôn nhân. Phụ lục Tranh hài hước dân gian Đông Hồ Chuột Tàu rước rồng vàng Cảnh rước và múa rồng của cộng đồng người Hoa ở Hà Nội tổ chức vui chơi trong những ngày lễ hội. Họ được nhân cách hoá thành đàn chuột. Đây là cảnh múa rồng vào ngày tết. Đám rước bao gồm cờ, phướn, đèn cá chép (biểu tượng cát tường), trái cây, đội nhạc (kèn, trống, thanh la), pháo. Hai con chuột múa rồng ở đằng đầu và đuôi rồng. Điểm hài hước chính nằm ở những cái đuôi rất dài của đàn chuột ám chỉ đuôi sam dài mà người Tàu thời nhà Thanh phải mang. (Theo Maurice Durand) Một số Niên hoạ của Trung Quốc đề tài đám cưới chuột Niên hoạ Miên Trúc (Tứ Xuyên) Niên hoạ Chương Châu (Phúc Kiến) Tranh cắt giấy Thượng Hải Lão thử giá nữ, niên hoạ Dương Liễu Thanh (Thiên Tân) Trong Tây Du Kí , thầy trò Đường Tăng với nghi trượng đứng một bên xem cảnh đám cưới chuột tưng bừng tiến vào “Hang không đáy”. Niên hoạ Thượng Hải. Cô dâu chú rể chuột trên tem do bưu điện Canada phát hành năm Mậu Tí 2008 Tham khảo Maurice Durand, Imagerie Populaire Vietnamienne, École Français d’Extrême-Orient, Paris 1960 Tranh dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 1995 Mạt Thanh niên hoạ (Thượng Hải đồ thư quán quán tàng tinh tuyển), Nhân dân Mĩ thuât Xbx 2000 Vương Thụ Thôn, Trung Quốc nhân dân niên hoạ bách đồ, 1988 Tô Châu Đào Hoa Ổ mộc bản niên hoạ, Giang Tô cổ tịch Xbx 1991 Websites: - http://news.xinhuanet.com/ziliao/2004-01/16/content_1279748.htm - http://yichan.folkw.com/www/guanzhu/115445419.html - http://www.xueyou8.com/html/1/1-167470.html © 2008 talawas [1]Tranh mộc bản Niên Hoạ có sớm nhất ở Trung Quốc chính thức vào thời Tống, ghi chép trong cuốn Đông kinh mộng hoa lục (1072) rằng cứ cận dịp Tết nguyên đán, chợ búa nhộn nhịp bán tranh niên hoạ các vị Môn thần, Chung Quỳ trừ quỷ, đào bản và đào phù (tức bùa trừ tà bằng cách cắm cành đào trước cửa) cầu may mắn, sự bình an. Có hơn 10 khu vực làm tranh Niên hoạ có tiếng. Nhưng bốn dòng mộc bản Niên hoạ sản địa trứ danh và lớn nhất, gọi là “Niên hoạ tứ đại gia”: Tô Châu Đào Hoa Ổ, Thiên Tân Dương Liễu Thanh, Sơn Đông Duy phường Dương Gia Bộ, và Tứ Xuyên Miên Trúc. Về danh xưng tranh Niên hoạ mỗi thời mỗi nơi gọi cách khác. Cho đến năm 1850 danh xưng “Niên hoạ” mới xuất hiện lần đầu và được chấp nhận dùng làm danh từ chung. Kho tranh Niên hoạ được xem là lớn nhất do các nhà truyền giáo Pháp sưu tập được vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tổng cộng hơn 3000 tấm, hiện tàng trữ ở Thư viện Thượng Hải. [2] Câu chuyện thơ Nôm miêu tả gia đình chuột tất tả lo chạy lễ cưới cho con với đủ mọi lễ nghi tập tục. Và cũng phải lo lễ vật cho lão mèo để lễ cư ới diễn ra êm xuôi. Nhưng thảm cảnh chỉ xảy ra sau khi vợ chuột sinh đẻ, lão mèo đã đến bắt sạch đám chuột con mới sinh. [3] Câu chuyện cổ tích Trung Quốc về một lão chuột muốn gả con gái cho kẻ giàu có và quyền thế, tính đi tính lại chỉ thấy có lão mèo là chọn lựa vừa ý. Nhưng khi rước dâu về đến dinh thự của mèo, lập tức cô dâu trở thành bữa đánh chén ngon lành cho chú rể trước khi làm lễ cưới. Một dị bản khác của Trung Quốc (có lẽ nguồn gốc từ ngụ ngôn Ấn Độ): Bố mẹ chuột muốn gả con gái cho một chàng rể có sức mạnh nhất. Bắt đầu đi hỏi mặt trời, rồi tới mây, gió, và núi. Cuối cùng nhận ra là chỉ có họ chuột “nhà ta” mới là khoẻ hơn hết thảy. Bức tranh "Chuột vinh quy" và "Đám cưới chuột" nói đến chu kỳ của quẻ Phục trong Kinh Dịch: "nhất dương sinh". Hệ mặt trời vượt qua cung Song Ngư và đi vào cung Bảo Bình, thuộc tính nổi trội của loài chuột, ý nghĩa này được khám phá ra khi bất ngờ xuất hiện sự kiện "giàn khoan 981 của Trung Quốc đi vào vùng biển Việt Nam" và mỗi người dân đang nợ trên đầu 1.000 USD, ngay khi mỗi đứa trẻ được sinh ra trên mảnh đất này bỗng trở thành "một con nợ rồi". Thật lạ lùng! Nội dung tranh chỉ xuất hiện đúng thời điểm như một lời tiên tri của cổ nhân cách đây gần 1.000 năm, thời đại chuột.
-
Bí ẩn cuối cùng chính là Phật, Tiên, Thần, Thánh, Chúa... được tôn thờ trong các nền văn minh cổ đại trên thế giới là ai? Đây là những bí ẩn cuối cùng cần lời giải đáp, cuốn Đông Chu liệt quốc có viết: "... đưa tất cả tượng thờ từ phương Tây về lại phương Đông". Tôi chỉ tóm tắt 4 nhân vật quan trọng được tôn thờ trên thế giới từ cổ đại cho tới ngày nay có liên quan đến lịch sử nước Văn Lang, thường được gọi là "Tứ Đại Anh Hùng" và thời kỳ của các ngài gọi là "Thời đại anh hùng": 1. Đế Minh và hoàng hậu (Âm Dương): Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn trong Đạo giáo, thần vô hình vô ảnh Amun của Thần đạo Ai Cập, tức thần Anu trong Thần đạo Babylon của Lưỡng Hà, là Phật A Di Đà trong Phật giáo, là thần Shiva trong Hindu giáo Ấn Độ. Chính thất của vua Đế Minh là Vũ Tiên - Phật Bà Quán Âm, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, hay Cửu Thiên Huyền Nữ trong Đạo giáo. Đế Minh chia đôi nước Đại Hòa, phía bắc sông Dương Tử giao cho người em trai sinh đôi là Đế Nghi, còn nam sông Dương Tử giao cho con trai cả là Kinh Dương Vương. Thời kỳ này có trận chiến ác liệt giữa Hoàng Đế với Xuy Vưu, tôi cũng đã nhận định Đế Minh chính là Hoàng Đế - ông tổ của Trung Hoa, tuy nhiên vấn đề này được xác định dựa trên các dữ kiện lịch sử như sau: + Sự phân chia nước và tập trung quyền lực tại phương bắc có thể là một nguyên nhân trận chiến. + Dựa trên cuốn Lã (Lữ, Lý) Thị Xuân Thu định vị được Hoàng Đế khả năng là Đế Nghi và Đế Lai. + Dựa trên các cuốn sử Trung Hoa xác định được Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa: Ngũ Đế bao gồm Đế Nghi - Đế Lai - Đế Cốc - Đế Chí và Tam Hoàng: vua Nghiêu - Thuấn - Vũ. Thời gian chuyển chi từ truyền ngôi cuối cùng của Đế Chí cho vua Nghiêu khoảng 500 năm. + Đế Nghi hiện có mộ chí tại Việt Nam, trong khi đó gia phả Hùng Vương ghi nhận sự kiện Đế Lai học đạo ở Văn Lang rồi sau lại trở về Trung Hoa, như vậy khả năng đền thờ Hoàng Đế là của Đế Lai - đây cũng là một giả thuyết quan trọng. + Truyền thuyết ghi nhận Hoàng Đế được sự giúp sức cho binh pháp Độn giáp của Cửu Thiên Huyền Nữ trong Đạo giáo và chiến thắng Xuy Vưu, đây chính là hoàng hậu của Đế Minh - Vũ Tiên, chứng tỏ người được giúp sức là người em chồng Đế Nghi hoặc người cháu trai là Đế Lai, đều này có thể hiểu là nước Trung Hoa (giữ tên cũ là Đại Hòa) giúp sức từ nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Liên kết các sự kiện trên, Hoàng Đế của Trung Hoa chính là Đế Nghi, Ngài cũng là một trong 7 vị Cổ Phật được ghi chép trong kinh Phật. Còn lăng mộ Hoàng Đế, theo tôi đó chính là lăng mộ của Đế Lai - cha của mẫu Âu Cơ. 2. Kinh Dương Vương và hoàng hậu: Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Đạo giáo, thần trí tuệ hay thần mặt trời Ra của Thần đạo Ai Cập, tức thần Enlil trong Thần đạo Babylon của Lưỡng Hà, là Đại Nhật Phật trong Phật giáo, là thần Vishnu trong Hindu giáo Ấn Độ. Chính thất của Kinh Dương Vương là Long Nữ - Quán Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay hay Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Ngọc Hoàng Thượng Đế tái lập lại các đạo cổ trên toàn thế giới thành đạo Cao Đài ngày nay do đã có nhiều thất truyền, xây dựng Tòa Thánh Cao Đài tại Tây Ninh thông qua các đàn cơ và thông linh tại miền Nam, nhằm thống nhất tất cả trở về thành một mối - gọi chung là: "Thiên Đạo". Thiên nhãn Biểu tượng đạo Cao Đài Tòa Thánh Cao Đài Tỉnh Tây Ninh, Việt Nam Nên đã có thơ rằng: Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên, Đạo màu rưới khắp nơi trần thế, Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đã chỉ rõ trong thông điệp tâm linh: Người vẫn tưởng Cao Đài - tôn giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương. 3. Lạc Long Quân và hoàng hậu: Nam Cực Trường Sinh Đại Đế trong Đạo giáo, thần nhân từ hay thần mặt trăng Osiris của Thần đạo Ai Cập, tức thần Enki trong Thần đạo Babylon của Lưỡng Hà, là thần Brahma trong Hindu giáo Ấn Độ. Chính thất của Lạc Long Quân là Âu Cơ - Quán Âm Bồ Tát hay Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Người được tôn sùng nhất trong đạo Phật hiện nay, chỉ sau Phật Thích Ca Mâu Ni (do chưa rõ sử sách mà thôi). Quán Âm Bồ Tát 4. Hùng Quốc Vương và hoàng hậu: Bắc Cực Tử Vi Đại Đế trong Đạo giáo, thần vũ dũng Horus của Thần đạo Ai Cập, tức thần Marduk trong Thần đạo Babylon của Lưỡng Hà, là Địa Tạng Bồ Tát trong Phật giáo, là thần gió Vayu trong Hindu giáo Ấn Độ, một con người vĩ đại trực tiếp xuống cõi Địa Ngục để giáo hóa chúng sinh, cùng với 12 đại nguyện mang đầy hùng lực, khí phách. Sau này, có thêm Bồ Tát Mục Kiền Liên - một đại đệ tử của Phật Thích Ca xuống trợ giúp. Chính thất của Hùng Quốc Vương là Thánh Cô hay Cô Ba - Thánh Quán Âm. Tới đây xem như mật mã chung kết đã được mở ra và hoàn tất.
-
Các mốc lịch sử quan trọng của các nền văn minh trên thế giới (tham khảo sơ bộ Wikipedia) ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73-55.000 năm trở lại đây,song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước. Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya Pradesh.Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,là nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á;và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ.Nền văn minh này tập trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng. Bản đồ thể hiện 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang của Ấn Độ Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt.Vệ-đà là những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo,chúng được soạn trong giai đoạn này,và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệ-đà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng. Hầu hết các sử gia cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc.[26][24][27] Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô uế. Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang.Tại nam bộ Ấn Độ, một lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp, bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó. Cổ vật sớm nhất khai quật được tại các di chỉ Mehenjo-daro và Harappa có niên đại khoảng 2300-1500 TCN, các con dấu đã có khắc hình thần Shiva. Thần Shiva tọa thiền LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI Lịch sử Lưỡng Hà bắt đầu từ sự xuất hiện của nền văn minh tại miền nam Iraq vào thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi Alexander Đại Đế tới đây vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên (đây được coi là thời điểm bắt đầu sự Hy Lạp hoá vùng Cận Đông, vì thế cũng đánh dấu sự "chấm dứt" của Lưỡng Hà). Thông thường, mọi người cho rằng có một sự nối tiếp văn hoá và đồng nhất không gian cho toàn bộ thời gian lịch sử địa lý này ("Truyền thống Vĩ đại"), dù còn một số điểm chưa rõ ràng. Lưỡng Hà là nơi tồn tại của một số vương quốc cổ nhất thế giới, với trình độ tổ chức xã hội ở mức cao và phức tạp. Vùng này là một trong bốn nền văn minh phát sinh dọc theo các con sông nổi tiếng trên thế giới, nơi phát minh ra chữ viết, cùng với đồng bằng châu thổ sông Nile tại Ai Cập, châu thổ sông Indus tại Tiểu lục địa Ấn Độ và châu thổ sông Hoàng Hà tại Trung Quốc. Lưỡng Hà cũng là nơi phát sinh của nhiều thành phố có tầm quan trọng lịch sử như Uruk, Nippur, Nineveh và Babylon cũng như nhiều vương quốc rộng lớn khác như vương quốc Akkadian, Vương triều Ur thứ ba và Đế chế Assyri. Một số nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà là Ur-Nammu (Vua xứ Ur), Sargon (người thành lập nên Vương quốc Akkad), Hammurabi (người thành lập quốc gia Babylon cổ), Tiglath-Pileser I (người thành lập Đế chế Assyri), và Tigranes Đại Đế (người thành lập Đế chế Armenia). "Lưỡng Hà cổ đại" bao gồm giai đoạn từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi những người Achaemenid trỗi dậy vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Khoảng thời gian dài này có thể được phân chia thành những giai đoạn như sau: "Các nền văn hoá" Hassuna, Samarra và Halaf (Cuối thời Đồ đá mới) Giai đoạn Ubaid (khoảng 5900 TCN - 4000 TCN) Giai đoạn Uruk (khoảng 4000 TCN - 3100 TCN) Giai đoạn Jemdet Nasr (khoảng 3100 TCN - 2900 TCN) Các triều đại thành bang sớm (khoảng 2900-2350 TCN) Đế chế Akkadia (khoảng 2350 BC - 2193 TCN). Vương triều Ur thứ ba ("Sự phục hưng của Sumer" hay "Giai đoạn Tân Sumer") (khoảng 2119 TCN - 2204 TCN) Vương quốc Assyria sớm khoảng thế kỷ thứ 20 tới thế kỷ thứ 18 TCN Triều đại Babylon đầu tiên khoảng thế kỷ thứ 18 tới thế kỷ thứ 17 TCN Triều đại Kassite, Giai đoạn giữa Assyria khoảng thế kỷ thứ 16 tới 12 TCN Bản đồ địa lý của khu vực của vương quốc Lưỡng Hà cổ đại Bộ luật Hammurabi (Codex Hammurabi) là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, được tạo ra vào khoảng thập niên 1760 TCN ở Babylon cổ đại. Nó được vị vua thứ sáu của Babylon là Hammurabi ban hành Chỉ còn một phần của bộ luật này tồn tại cho tới nay, được khắc trên một bia đá bazan cao khoảng 2,44 m (8 ft). Nguyên thủy, một lượng bia đá kiểu như vậy có thể đã được đặt trong các đền miếu tại một số nơi của đế quốc này. Bia đá chứa văn bản của bộ luật Hammurabi được nhà Ai Cập học là Gustave Jéquier, thành viên của đoàn thám hiểm do Jacques de Morgan chỉ huy, phát hiện tháng 12 năm 1901. Bia đá này được phát hiện tại khu vực ngày nay là tỉnh Khuzestan (tên gọi cổ đại là Elam) của Iran, nơi nó được vua Elam là Shutruk-Nahhunte chiếm giữ trong thế kỷ 12 TCN như là của cướp được. Hiện nay nó được đặt trong viện bảo tàng Louvre ở Paris. Phần trên của bia đá là hình chạm nổi thấp thượng đế của người Babylon (hoặc là Marduk hoặc là Shamash), với vua Babylon đang bệ kiến thượng đế và tay phải của ông đưa lên miệng như là dấu hiệu của lòng tôn kính. Văn bản của bộ luật chiếm phần dưới, được viết bằng văn tự hình nêm trong tiếng Babylon cổ. Văn bản được các nhà phiên dịch tách ra thành 282 luật, nhưng sự phân chia này là tùy hứng, do văn bản gốc không có các dấu hiệu phân chia. Vua Hammurabi (trị vì khoảng 1796 TCN – 1750 TCN) tin tưởng rằng ông được các vị thần lựa chọn để đưa luật pháp tới thần dân Babylon thời đó. Trong lời nói đầu cho văn bản luật, ông tuyên bố rằng "Anu và Bel gọi Trẫm bằng tên, Hammurabi, vị Quốc vương cao quý, Người kính sợ Thượng Đế, đem quy tắc về sự công bằng tới mặt đất.". Bộ luật này thường được chỉ ra như là ví dụ sơ đẳng về việc ngay cả vua cũng không thể thay đổi các luật lệ nền tảng liên quan tới việc điều hành đất nước, dạng nguyên thủy của cái mà ngày nay được gọi là hiến pháp. Bộ luật của vua Hammurabi nước Babylon là một trong vài bộ luật tại Cận Đông cổ đại. Các tập hợp sớm hơn về luật pháp có bộ luật của Ur-Nammu, vua xứ Ur (khoảng 2050 TCN), bộ luật Eshnunna (khoảng 1930 TCN) và bộ luật của Lipit-Ishtar, vua xứ Isin (khoảng 1870 TCN). trong khi các bộ luật ra đời muộn hơn có bộ luật Hittite, bộ luật Assyria, luật Moses và trụ Cyrus của vua Cyrus Đại đế nước Ba Tư.Các bộ luật này đến từ các nền văn hóa tương đồng trong một khu vực địa lý tương đối nhỏ và chúng có các đoạn văn bản tương tự như nhau. Phần trên của bia đá chứa bộ luật Hammurabi Mặt sau của bia đá Luật Ur-Nammu - bản cổ nhất đã biết chứa văn bản luật còn tồn tại tới nay, có trước bộ luật Hammurabi khoảng 300 năm. AI CẬP CỔ ĐẠI Theo cách phân định thời gian của Manetho (thế kỷ 3 TCN) thì lịch sử Ai Cập cổ đại được chia ra thành Cổ, Trung và Tân Vương quốc với 30 vương triều kéo dài khoảng từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên đến năm 332 trước Công nguyên. Vua của toàn cõi Ai Cập thường có các vua chư hầu dưới quyền, nên các tài liệu tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha dùng danh từ Cổ, Trung và Tân Đế quốc thay vì Vương quốc. Danh từ pharaon bắt đầu được các vua Ai Cập cổ dùng từ vương triều thứ 12 trở đi. Pharaon có nghĩa là ngôi nhà lớn ám chỉ cung vua. Vẫn còn nhiều nghiên cứu về các vương triều Ai Cập đang được tiếp tục và có thể các vương triều này sẽ còn thay đổi, bởi vì ngày nay các công tác khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện thêm nhiều dữ liệu, chứng cứ khác nhau. Thời kỳ Tiền triều đại (12.000 TCN - 3.200 TCN) 12.000 TCN: Dân miền nam Ai Cập đã bắt đầu trồng lúa mạch. 7.000 TCN: Dân cư đồng bằng sông Nin đã biết canh tác. Khoảng 5500 TCN, các bộ lạc nhỏ sống trong thung lũng sông Nile đã phát triển thành một loạt các nền văn hóa thể hiện qua việc làm chủ nông nghiệp và chăn nuôi, và được nhận biết bằng gốm và các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như lược, vòng tay, và hạt. Lớn nhất trong số những nền văn hóa đầu tiên ở Ai-cập, là văn hóa Badari, được biết đến với đồ gốm sứ chất lượng cao của nó, công cụ bằng đá, và sử dụng đồng. Ở miền Bắc Ai Cập, văn hóa Badari được theo sau bởi các nền văn hóa Amratian và Gerzean,[2] đã mang đến một số cải tiến kĩ thuật. Vào thời kì Gerzian, đã xuất hiện những bằng chứng đầu tiên về sự tiếp xúc với Canaan và bờ biển Byblos.[3] 5.000 TCN:Có xứ Ombos, kinh đô là Ballas ở miền nam Ai Cập (cũng gọi là Thượng Ai Cập). Miền bắc Ai Cập (Hạ Ai Cập) có xứ Balamun, kinh đô là Behedet. 4.500 TCN: Người Ai Cập đã biết dùng dương lịch mỗi năm có 365 ngày. Truyền thuyết cho rằng người đặt ra lịch đó là Thoth. Thoth cũng được cho là người đã đặt ra mẫu tự Ai Cập, toán học và thiên văn học[cần dẫn nguồn]. Người Ai Cập tôn ông là thần của thời gian. 4.000 TCN: Xứ Ombos chiếm xứ Balamun. 3.900 TCN: Xứ Ombos bị chia đôi: xứ Nekhein ở phía bắc và xứ Buto ở phía nam. 3.700 TCN: Người miền bắc Ai Cập bắt đầu biết dùng kim loại. 3.600 TCN: Xứ Nekhein ở miền bắc chiếm được xứ Buto ở miền nam. Họ định đô ở Heliopolis (Nhật Thành). 3.500 TCN: Ai Cập lại chia đôi: Nekhein giữ miền bắc, Buto độc lập ở miền nam. 3.300 TCN: Người phương đông tràn sang chiếm xứ Nekhein. 3.250 TCN: Vua xứ Buto là Scorpion II thắng được vua của Nekhein. Thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN - 3.000 TCN) 3.100 TCN: Con của vua Scorpion II là Menes (hay Horus Narmer) đánh đuổi được người phương đông, thống nhất Nekhein và Buto. Menes lập một triều đại mới, tức là vương triều thứ nhất, trong vương phổ của Manetho. Menes cũng được coi là người khai sinh ra nước Ai Cập. Vương triều thứ nhất: Menes xây dựng thành phố Memphis (Bạch Thành) lớn nhất thế giới thời đó. Ông đóng đô ở thành This. Vương triều thứ nhất có 7-9 đời vua và truyền được khoảng 300 năm. Các vua thời này thường đánh đông dẹp bắc. Menes có đánh Libya. Djer đã chiếm đất Sudan đến ghềnh thứ nhì của sông Nin. Den và Semerkhet đánh bán đảo Sinai. Thời này các sử gia còn tranh luận nhiều về cách định năm. Phần đông xếp cuộc thống nhất Ai Cập của Menes vào năm 3100 TCN. Có người xếp trễ đến năm 2900 TCN. Tài liệu xưa của Julius Africanus xếp sớm đến năm 5664 TCN. Vương triều thứ 2: khởi đầu với vua Hotepsekhemwy. Những người kế vị ông là Nebire, Nineter (Raneb), Uneg, Senji, Peribsen và Khasekhemwy. Vào hai vương triều đầu, dân Ai Cập đã xây nhiều lăng tẩm rất lớn (mộ Mastaba). Kinh đô của hai vương triều đầu là thành This nên thời đại của hai vương triều này cũng gọi là "thời Thinite". Thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN)Vương triều thứ 3: Vua Djoser sai Vizia Imhotep xây dựng kim tự tháp có bậc thềm đầu tiên ở Saqqara. Vương triều thứ 4: một trang sử vàng son của Cổ vương quốc vì đã để lại rất nhiều di sản văn hoá. Các vua Khufu, Khafre và Menkaure là chủ nhân ba kim tự tháp lớn ở Giza. Theo Herodotos, có 300.000 nhân công xây Kim tự tháp Khufu trong 20 năm, kim tự tháp lớn nhất được xây dưới sự chỉ thị của Vizia Hemon, đây là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại Vương triều thứ 5: Vua Sahure xưng là "Con của thần Rê". Các kim tự tháp đầu tiên được xây dựng ở Abusir. Vương triều thứ 6: Có các vua Pepi I, Pepi II. Pepi II ở ngôi 94 năm, nên triều đại ông được các sử gia Âu Mỹ xếp hạng là đời vua lâu dài nhất thế giới nếu không tính các huyền thoại. Những Tiến bộ lớn trong kiến trúc, nghệ thuật, và công nghệ đã được xuất hiện vào thời kì Cổ vương quốc, thúc đẩy bởi năng suất nông nghiệp tăng có thể do một chính quyền trung ương phát triển tốt.Một số thành tựu đỉnh cao của Ai Cập cổ đại, kim tự tháp Giza và tượng Nhân sư vĩ đại, đã được xây dựng trong thời Cổ vương quốc. Dưới sự chỉ đạo của tể tướng, các quan chức nhà nước thu thuế, phối hợp các dự án thủy lợi để nâng cao năng suất cây trồng, huy động nông dân làm việc trong các dự án xây dựng, và thiết lập một hệ thống tư pháp để duy trì hòa bình và trật tự. Khafre Enthroned Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng của một chính quyền trung ương, đã phát sinh một tầng lớp mới bao gồm những quan kí lục có học thức và các quan chức mà được ban phát đất đai bởi của các pharaoh đổi lại cho sự phục vụ của họ.Các Pharaoh cũng thực hiện ban cấp đất đai cho các giáo phái và các đền thờ địa phương để đảm bảo rằng họ có nguồn lực để thờ cúng các vị vua sau khi ông ta qua đời. Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN) Vương triều thứ 7 và vương triều thứ 8 là thời kỳ Ai Cập bị phân chia thành nhiều tiểu vương quốc. Vương triều thứ bảy loạn lớn: 70 vua cai trị 70 ngày. Vương triều thứ 9, Vương triều thứ 10 và Vương triều thứ 11 là thời kỳ chiến tranh liên miên giữa các tiểu vương quốc, và kết thúc bằng sự tái thống nhất do Mentuhotep II, một hoàng thân xứ Thebes. Sau khi chính quyền trung ương của Ai Cập sụp đổ vào cuối thời Cổ Vương quốc, chính quyền không còn có thể hỗ trợ hay giữ được sự ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Thống đốc các vùng không còn có thể dựa vào nhà vua để được giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng này, và tình trạng thiếu lương thực cùng tranh chấp chính trị leo thang gây ra nạn đói và các cuộc nội chiến quy mô nhỏ. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề khó khăn, các quan chức địa phương, do không cống nạp cho các pharaoh, sử dụng sự độc lập mới có được để thiết lập một nền văn hóa phát triển mạnh ở các tỉnh. Một khi kiểm soát các nguồn tài nguyên của riêng mình, các tỉnh đã trở nên giàu có hơn về kinh tế, một thực tế chứng minh bằng sự chôn cất lớn hơn và tốt hơn trong tất cả các tầng lớp xã hội. Không bị ràng buộc bởi lòng trung thành của họ với pharaoh, các nhà cầm quyền địa phương đã bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị. Khoảng năm 2160 trước Công nguyên, các vị vua ở Herakleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, trong khi một gia tộc đối thủ có căn cứ tại Thebes, gia đình Intef, nắm quyền kiểm soát của Thượng Ai Cập. Vì nhà Intefs mạnh hơn và bắt đầu mở rộng sự kiểm soát của họ về phía bắc, một cuộc đụng độ giữa hai triều đại đối thủ đã không thể tránh khỏi. Khoảng năm 2055 trước Công nguyên, phe Theban dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Herakleopolis, thống nhất hai vùng đất và mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung vương quốc. Thời kỳ Trung vương quốc (2.046 TCN - 1.750 TCN) Vương triều thứ 11: Vua Mentuhotep II chọn thành Thebes (Ai Cập). Vương triều thứ 12: Vua Amenemhat I lên thay Mentuhotep IV. Các vua kế tục như Senusret I, Senusret III và Amenemhat III đã nhiều lần mở mang bờ cõi. Xây dựng Cột tháp hoàng gia hoàn thiện lâu đời nhất. Vương triều thứ 13 và vương triều thứ 14 là thời kỳ đen tối, loạn lạc của Ai Cập. Amenemhat III, the last great ruler of the Middle Kingdom Các pharaoh thời Trung vương quốc đã phục hồi sự thịnh vượng của đất nước và sự ổn định, qua đó kích thích sự hồi sinh của nghệ thuật, văn học, và các dự án xây dựng hoành tráng. Mentuhotep II và các vị vua kế tục của vương triều thứ 11 cai trị từ Thebes, nhưng khi viên tể tướng Amenemhat I lên ngôi mở đầu cho triều đại thứ 12 khoảng năm 1985 trước Công nguyên, ông ta đã chuyển kinh đô của quốc gia tới thành phố Itjtawy nằm trong ốc đảo Faiyum.Từ Itjtawy, các pharaoh triều đại thứ 12 đã tiến hành một chương trình cải tạo đất đai và chương trình thủy lợi để tăng sản lượng nông nghiệp trong khu vực. Hơn nữa, quân đội còn tiến hành các chiến dịch quân sự tái chiếm lại vùng lãnh thổ Nubia vốn giàu các mỏ đá và mỏ vàng, trong khi nhân dân lao động xây dựng một công trình phòng thủ ở phía đông vùng đồng bằng. Vị vua vĩ đại cuối cùng của thời kỳ Trung vương quốc, Amenemhat III, đã cho phép những người châu Á định cư trong khu vực đồng bằng để cung cấp một lực lượng lao động đủ để cho việc khai thác mỏ và đặc biệt là các công trình xây dựng của ông. Map of ancient Egypt, showing major cities and sites of the Dynastic period (c. 3150 BC to 30 BC) Tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ai Cập có lẽ là các tác phẩm sách giấy papyrus (chỉ thảo) Ipuwer, có niên đại 1800 TCN. Hiện nay bộ sưu tập về các tác phẩm cổ đại Ai cập còn có: Sách giấy papyrus Westcar (1600 TCN) Sách giấy papyrus Tulli (1400 TCN) Sách giấy papyrus Ebers (1300 TCN) Sách giấy papyrus Harris I (1180 TCN) Chuyện của Wenamun (1000 TCN) NHẬN XÉT - Ấn Độ: thời điểm cổ vật con dấu bằng đá và gốm khai quật khoảng 2300-1500 TCN, có hình thần Shiva tọa thiền, chứng tỏ đã có sự phát triển trước đó. - Lưỡng Hà: Những triều đại rõ ràng nhất là đế chế Akkadia (khoảng 2350 - 2193 TCN), cổ vật lưu giữ là Bộ luật Hamurabi chép trên tảng đá, còn chữ viết hình nêm có trước đó mà theo các nhà nghiên cứu có trước 3500 TCN, đây chỉ là nhận định cá nhân. Còn những mốc trên 3000 năm TCN chỉ là những quán xét rất mơ hồ, hàm ý cho rằng nơi đây là cội nguồn văn hóa thế giới. - Ai Cập: Cũng không ngoại lệ, lịch sử rõ ràng nhất là thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN), một số sách ghi nhận kim tự tháp cổ nhất hình bậc thang xây dựng khoảng năm 2600 TCN. Tất nhiên, họ rất rõ thiên văn và kim chỉ Nam trong xây dựng. Nghiên cứu cổ sự, các nhà khoa học cho rằng đã có một sự đột biến kỳ lạ về tôn giáo, khoa học, văn hóa... của Ai Cập, Lưỡng Hà trong thời kỳ nói trên, khoảng 2800-2300 TCN mà chưa rõ nguyên nhân. Nếu so sánh mốc lịch sử Văn Lang: năm 2879 TCN - năm lên ngôi của Kinh Dương Vương thì trước các thời kỳ nổi trội của các nền văn minh Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập ước gần 300 năm. Kim tự tháp bậc thang khoảng 2600 TCN The Step Pyramid of Djoser at Saqqara in Egypt Part III: The Primary Pyramid Structure by Jimmy Dunn writing as Alan Winston The Great Step Pyramid of Djoser, which dominates his complex at Saqqara near Cairo in Egypt, has been thoroughly studied in recent decades. Unfortunately, its examination has created just about as many questions as answers. These investigations have shown that its construction plan was changed several times, and that the pyramid's current form is the result of a long process of development that included both experimentation and improvised elements. This pyramid is considered to be the evolutionary basis of all later pyramids in Egypt. Initially, the structure took the form of a mastaba (stage M1), which was gradually enlarged, first equally on all four sides (stage M2), and then only on the east side (stage M3). During this latter stage, the mastaba already had a step shape. However, the step-shaped mastaba was finally rebuilt in two stages, first as a four-step pyramid (stage P1) and finally as a six-step pyramid (stage P2). Note, however, that in its final state it no longer had a square base, but a rectangular one, oriented east-west. Also note that some scholars disagree on the construction stages of the pyramid. In building the pyramid, the masonry was laid not vertically but in courses inclined toward the middle of the pyramid, thus significantly increasing its structural stability. The basic material used was limestone blocks. What led the builders to transform the structure from a mastaba into a pyramid is still a matter of debate. Lauer, who was the main excavator of the site, suggested that Djoser's intentions were to make the royal tomb visible from the Nile Delta. He also thought that in its initial stage (M1), the mastaba did not belong to Djoser at all, but to his predecessor, Sanakht, though there is no solid evidence for this theory. In fact, many Egyptologists now believe that Sanakht was a successor to Djoser. Hartwig Altenmuller believed that the changes took place due to religious or ritual motivations. The shape certainly came to be a religious symbol in latter years. Czech astronomer Ladislav Krivsky believes that the builders of Djoser's tomb were inspired by the form of the rising and setting sun. In fact, from time to time and under specific conditions, an optical illusion is produced that gives the sun's disk the form of a step pyramid as it rises in the morning or sets in the evening. Of course, in these early years one of the principal gods to receive the worship of the Egyptians was Re, the sun god. It was Lauer who first noted that the original mastaba (stage M1) was actually square. Hence, the question arises as to whether the original stage of Djoser's tomb was actually intended to be a mastaba. Rainer Stadelmann suggested that, from the outset, the tomb was planned as a square-based pyramid. New research conducted by an American expedition in the "great enclosures" in Abydos has demonstrated that, in the middle of the grounds, which were surrounded by a perimeter wall, a small mound of sand was covered with mudbricks. This symbolized the site of creation to the Egyptians, the resurrection and eternal life. Drawing on this symbolism, the original phase of the construction of the step Pyramid probably represented a stylized primeval mound, which for the first time, was directly connected in this form architecturally with the royal tomb. The original entrance for the Step Pyramid's substructure (upon completion) was a tunnel running along the north-south axis during the first stage (M1). It ran from the floor of the mortuary temple's western court north of the pyramid. At the beginning of this tunnel was a staircase, and at its end there was a diagonal shaft measuring some 7 meters (23 feet) square. The upper part of this shaft originally sank through the whole superstructure from the roof terrace. Originally, a descending corridor was built joining the shaft from the north, which was probably used to remove waste from the shaft's construction. However, it was covered over during the expansion of the pyramid in stage P1. The tomb chamber was located on the floor of the shaft, at a depth of about twenty-eight meters, in the so-called granite chamber. Over the burial chamber's ceiling was a room that Lauer called the maneuvering chamber, because it was there that the pharaoh's mummy was prepared for interment. The mummy was then moved down through a round opening in the floor which was afterward closed with a granite block weighing about three tons. Soon after it was built, the burial chamber, made of pink granite blocks, may have undergone a complete transformation. In Lauer's opinion, the chamber was originally built only of limestone blocks and had a ceiling decorated with stars. (Note that Mark Lehner, in his "The Complete Pyramids, claims that Lauer thought the original burial vault had alabaster walls and a pavement of diorite or schist.) During the reconstruction, the limestone blocks with the stars were removed, fragments of which were discovered in the surrounding area. However, Stadelmann disagrees with Lauer because a ceiling built of these small, limestone blocks measuring only about .52 meters long would not have been structurally sound and would have soon collapsed. In his view, the limestone blocks with the stars were used to close up the door and the opening in the floor of the so-called maneuvering chamber. In its final form, the burial chamber consisted of four courses of well-dressed granite blocks and measured some 1.6 by 2.9 meters in size. Its only opening was a cylindrical aperture towards the north end. Once the royal remains were laid to rest, the hole was blocked with a granite plug weighing 3.5 tons, with four grooves to guide the ropes used to lower it. Afterwards, the descending corridor was filled. Within the burial chamber, only minor bone fragments were found, and it is not clear whether they actually came from Djoser's mummy. In fact, recent radiocarbon dating shows them to be many centuries younger than Djoser. However, northwest of the burial chamber, in a small Con đường đá tảng hình con rùa - Kim tự tháp có 6 bậc (biểu tượng 6 ngôi sao Nam Cực - chòm sao Chữ Thập - biểu tượng của thần Chết Osiris) corridor that thieves later destroyed down to its stone floor, a wooden chest was discovered bearing Djoser's Horus name, Netjerikhet. A complicated system of rooms and corridors surround the burial chamber, making up a genuine labyrinth, which Lauer investigated during the 1930s, though not in every detail. In fact, it is very difficult to ascertain what was a part of the original, unfinished construction project, and what was the work of later thieves. In immediate proximity to all four sides of the burial chamber are four galleries, which are connected with each other by corridors. Some of these subterranean areas were never completed. Zahi Hawass, now chairman of the Egyptian Supreme Council of Antiquities (SCA), estimated that the total length of the corridors beneath the pyramid measure some 5635 meters in total length. A stairway from the descending corridor took a series of turns and corridors, ending in an eastern chamber. Here, rows of blue faience tiles with raised bands of limestone simulated a reed-mat structure. Blue evokes the watery association of ancient Egypt's netherworld. The decoration was organized into six panels. Three on the north side were topped by an arch supported by simulated djed pillars. One contained a real doorway. Significantly, considering the lack of decoration of later pyramids, in this east gallery three southern panels framed false doors made of limestone, on which the ruler is twice depicted walking, wearing a red or white crown, and once standing, wearing the white crown. This last image is accompanied by the royal names and the emblems of the gods Anubis and Horus of Behdet. This chamber was never finished. The builders left the east wall roughly hacked from the rock, and the decorators seem to have finished in a hurry. All four walls of two further chambers were covered with the blue tile inlay and the doorways were framed with Djoser's name. Collectively, these rooms are sometimes referred to as the "blue chambers". Many Egyptologists believe that the furnishing and decoration of these underground rooms were inspired by the real royal palace in Memphis. The bas-reliefs on the false doors are believed to refer to the ceremonies of the sed-festival, or an earlier version of that tradition. During the second stage of construction (M2), eleven shafts approximately thirty meters deep were dug along the east facade of the tomb, which communicated with interconnected galleries to the west. These were probably intended for the wives and children of the king. In fact, the gallery that ran out of the fifth shaft (numbered from north to south) was found to contain an empty alabaster sarcophagus, and at the end of the shaft, a smaller wooden coffin with the body of a boy who died between the age of eight and ten years of age. Next to it lay two vessels decorated with gold leaf and carnelian coral. Other fragments of alabaster sarcophagi were discovered in the first and second shafts, while in the third a seal imprint bearing the name of Netjerikhet was discovered. The third gallery widened into a room, cased with fine limestone where the hip-bone of a girl of about 18 years of age was found. Yet, perhaps the greatest surprise for archaeologists was waiting in the other shafts, particularly in the sixth and seventh, where they discovered some forty thousand stone vessels of varied forms and materials. Many of them were made of alabaster, diorite, limestone and slate. Some were polished, faceted or fluted, while others bore inscriptions, engraved or painted in colors, with both royal and non-royal names. These included the names of 1st and 2nd Dynasty rulers, including Nar(mer), Djer, Den, Adjib, Semerkhet, Kaa, Hetepsekhemwy, Ninetjer, Sekhemib and Khasekhemwy. Of course, such a find immediately lunched a debate among scholars. Lauer believed that the vessels were originally from the furnishings of royal tombs of the Early Dynastic period which were destroyed by the penultimate ruler, Peribsen, of the 2nd Dynasty. Afterwards, Djoser gave them a reverent final resting place in the substructure of his pyramid. Helck believed that the vessels came from the temple storehouses and, though he provided no reason why Djoser would have piled them up in his tomb complex. Stadelmann thinks that Djoser had the damaged tombs of the Early Dynastic Period Kings near his own tomb restored, and the broken vessels dumped in his substructure for safe keeping. Finally, Donald Redford thinks that in making preparations for the construction of his own tomb, Djoser must have had to remove a whole series of previous tombs built by his predecessors. Hence, he kept their furnishings, the vessels, and reverently had them buried in his own tomb in order to show his respect for the past. Of course, if Djoser were to have destroyed a whole series of his predecessor's tombs, the act in itself would have not shown much reverence, and there is no evidence of such tombs from the Old Kingdom being destroyed. Many questions regarding these vessels remain. For example, if these vessels originated as funerary equipment in older tombs, why rebury only the vessels and not the other funerary good. Furthermore, why would the find include items belonging to rulers who were not even buried at Saqqara. At any rate, these items were deposited during the second stage of construction (M2), and the shafts were sealed by the construction carried out in the third stage (M3). In its final form, the Step Pyramid of Djoser rose to a height of about 62.5 meters with a ground plan measuring 121 by 109 meters, with an outer casing of fine Tura limestone. Back Home Next See Also: Bộ luật Hamurabi chữ hình Nêm khắc trên đá ghi chép về thần mặt trời Samash... Babylon vùng Lưỡng Hà (khoảng 1800 TCN) Kim tự tháp bậc thang có niên đại xưa nhất khoảng 2600 TCN, với 6 bâc thang biểu tượng cho 6 ngôi sao của chòm sao Thập Tự - tức chòm sao Nam Cực, hình ảnh của thần Chết Osiris. Biểu tượng của thần Chết Orisis là Thánh giá đầu vòng Anhk, cũng là hình ảnh của chòm sao này và được lấy làm biểu tượng của Thần đạo Ai Cập. Thánh giá đầu vòng Ankh Chúng ta biết thời vua Nghiêu Trung Hoa (khoảng 2350 TCN), người Việt Thường nước Văn Lang đã tặng lịch rùa, trên mai rùa sống nghìn năm ghi chép từ thuở trời đất mở mang (Thái Cực - ...). Lịch sử của các vùng miền nói rằng tri thức được chỉ dẫn từ những vị thần từ nơi khác đến như thiên văn, lịch pháp, tôn giáo, văn hóa... mà ngày nay chúng ta còn thấy rất rõ ràng (dĩ nhiên cần viết chi tiết hơn, trong các bài viết trước cũng đã ghi nhận sự chính xác của các sự kiện giữa thiên văn và các vị thần linh trong tôn giáo, cũng như một số đặc điểm văn hóa, phương pháp tu luyện khí công...). Sự đột biến kiến thức này chính là từ trung tâm Văn Lang truyền sang, ranh giới Văn Lang phía nam giáp với Ấn Độ cổ đại (ở đây Ấn Độ là Hồ Tôn chứ không phải Chămpa). Ai Cập cổ đại có giấy cói papyrus vào khoảng 1600 TCN, còn nước Văn Lang - Kinh đô thần thánh truyền bá khoa học, văn hóa... lại không có giấy viết???
-
Lịch sử Văn Lang PHẦN ĐÃ DĂNG I: Những sự kiện: - Chia đôi nước lập lời thề trên núi Thiên Đài, Hồ Nam: bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản và nam sông Dương Tử do Lộc Tục Kinh Dương Vương quản lý. Sau khi phân chia, vua Đế Minh ở nam Dương Tử giúp vua Kinh Dương Vương trong vòng 9 năm ổn định nước Văn Lang (___Nguyễn Bá Trạc và kết quả điền dã của bác sỹ Trần Đại Sỹ trong bài viết__). - Tên nước chung trước khi phân chia vào thời vua Đế Minh được khắc trên chiếc đỉnh đồng Tư Mẫu Hậu thời nhà Thương - vua Vũ Đinh (khoảng 1200 tr.CN): Đại Hòa, cái tên này cũng tồn tại trong câu truyện Giấc mộng Nam Kha. Tên nước thời vua Phục Hy là Cực Lạc - được chép trong gia phả vua Hùng, sự kiện này liên kết đến câu Truyện bà Hoa Tư sinh ông Phục Hy. Tên Đại Hòa sau này nước Nhật có thời lấy lại tên này. - Vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, được hiểu là cháu ruột của vua Thần Nông, Thần Nông -> Đế Thừa -> Đế Minh là 3 đời, còn Đế Tiết là anh ruột của vua Đế Thừa. - Các đời trước vua Đế Minh và đời sau tính tới thời Hùng Quốc Vương: + Hòa Hy (0) -> Phục Hy (mộc) -> Thần Nông (hỏa) -> Đế Tiết (thổ) -> Đế Thừa (kim) -> Đế Minh (thủy): Quy tắc Ngũ Hành hay còn gọi là “Mật mã hoa mai” theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ, quy tắc này được sử dụng thường xuyên để giải mã lịch sử Văn Lang (Các bản Ngọc phả Hùng Vương, tranh thờ Đạo giáo miền bắc Việt Nam, tranh dân gian Hàng Trống, Sử ký, Kinh Thư, Xuân thu tả truyện, truyền thuyết bà Hoa Tư, sự tích ông Bàn Cổ, bà Nữ Oa…). Tính trung bình cho mỗi đời thời kỳ này thì vào thời vua Hòa Hy có niên đại ước khoảng 5130 năm trước (3130 trCN). Trong đó, gia phả chép rằng vua Đế Nghi là em ruột song sinh với vua Đế Minh, Đế Nghi sinh ra Đế Lai, Đế Lai sinh bà Âu Cơ, Âu Cơ lấy Sùng Lãm Lạc Long Quân sinh ra Hùng Quốc Vương. Hai anh em song sinh vua Đế Minh còn một người em trai là Nguyễn Nghi Nhân, ông không làm vua xứ nào cả, mà tu luyện đắc đạo, nhân dân suy tôn hiệu Thái Thượng Lão Quân - ông tổ của Đạo giáo. + Sự kiện con vua Kinh Dương Vương và Long Nữ là Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, tức hai anh em con chú bác lấy nhau, điều này giải thích tại sao các truyền thuyết trên thế giới hầu hết nói về tổ tiên nhân loại là hai anh em ruột lấy nhau sau trận đại hồng thủy. - Tam Hoàng Ngũ Đế: là 5 vị từ Phục Hy, Thần Nông, Đế Tiết, Đế Thừa, Đế Minh và 3 vị Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương. - Bắc Dương Tử do vua Đế Nghi cai quản: tiếp nối triều đại Đế nghi - Đế Lai - Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí… kéo dài cho tới hậu duệ là vua Nghiêu khoảng 530 năm (tham khảo chính Các bản Ngọc phả Hùng Vương, Sử ký, Xuân thu tả truyện, Hoài Nam Tử liệt truyện, Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, Kinh Thư, Đại Việt sử ký toàn thư, Hán thư địa lý chí…). Sau Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Vũ: Đây có thể được xem là Tam Hoàng Ngũ Đế của bắc Dương Tử, nhưng bản chất chính vẫn là Tam Hoàng Ngũ Đế nam Dương Tử bởi vì vua Kinh Dương Vương được tôn suy là thần Mặt Trời - Ngọc Hoàng Thượng Đế. - “Mật mã hoa mai thứ hai” theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ: Kinh Dương Vương (mộc) -> Đế Minh (hỏa) -> Thần Nông (Thổ) -> Hùng Quốc Vương (Kim) -> Lạc Long Quân (thủy). Mật mã này được dùng hầu hết trong lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng. - Vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 tr.CN - năm này được lấy làm mốc chuẩn thời gian cho toàn thế giới, bởi ngài được tôn sung trên toàn thế giới (cần phản nghiên cứu và phân tích lịch sử văn hóa, tính ngưỡng của Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy La, Ấn Độ, Maya… rồi sau đó đối chiếu, giao hội, quy nạp rất phức tạp). - Có 18 đời Hùng Vương, trong đó Kinh Dương Vương là vua Hùng thứ nhất của đời thứ nhất, Lạc Long Quân là vua Hùng đời thứ hai, Hùng Quốc Vương là vua Hùng thứ ba và Sơn Tinh tức Hùng Hoa Vương là vua Hùng đời thứ tư. Tổng số 18 đời có 108 vị vua, vua An Dương Vương là vị vua cuối cùng tức vua Hùng thứ 108. - Số lượng các vua Hùng từ đời thứ 1 tới đời thứ 5: lưu trữ qua mật mã trên các bức tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc miền Bắc Việt Nam, dân tộc Choang Quảng Tây… (còn gọi là Âu Việt). - Số lượng các vua Hùng từ đời thứ 6 tới đời thứ 18: lưu trữ qua Các bản Ngọc phả Hùng Vương (còn gọi là Lạc Việt), tuy nhiên vị trí vua An Dương Vương phải giải mật ngữ, chẳng hạn cần phải sử dụng con số 108 của kinh sách Phật giáo như 108 tiếng chuông chùa đánh lên vào đêm Giao thừa, 108 hạt bồ đề trong một chuỗi hạt. Số vị vua trong đời vua Hùng thứ 17, 18 ngay cả trong Ngọc phả Hùng Vương cũng không rõ ràng, do vậy cần sử dụng các thông tin tâm linh khác nữa, ghi nhận trong website: kynguyentamlinh.com. - Vua An Dương Vương thuộc bộ Vân Nam, để làm vua Văn Lang rõ ràng, ngài phải lấy một công chúa con vua Hùng thứ 18, sinh con gái đó chính là Mỵ Châu. Ngài tổ chức xây thành Cổ Loa - hộ thành cho kinh thành Bạch Long (đảo Bạch Long Vĩ tức đuôi Rồng Trắng) tức Thăng Long Hà Nội ngày nay. Thành Bạch Long (tôi đã phân tích nhiều, đây cũng chính là kinh đô Văn Lang, đồng thời cũng là kinh đô thời vua Đế Minh cho toàn bộ bắc và nam Dương Tử. Kinh thành Bạch Long ngoài dữ kiện lịch sử còn phải đối chiếu thiên văn Đông phương qua Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên: đây gọi là “tại Thiên chiếu Địa” (tham khảo Thiên văn Đông phương, logic được những sự kiện Thánh Gióng đánh giặc Ân, An Dương Vương từ Vân Nam tiếp nối hùng Vương 18 (vị vua Hùng 107) chống Tần, xây thành Cổ Loa, xây dựng một nền văn hóa đồ đồng Điền rực rỡ, giao quyền cho các bộ Văn Lang qua trống đồng như cho Indonesia…, Tam Quốc Chí, Sử ký, Tả truyện, Thủy kinh chú, Đại Việt sử ký toàn thư, Kinh Thư, Lịch sử Trung Quốc, Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Lĩnh Nam chích quái, Lĩnh Nam dật sử, Đông Chu liệt quốc, cổ vật khai quật Việt Nam và Trung Quốc, trống đồng Cổ Loa…) - Giặc Ân tấn công Văn Lang thời Hùng Vương 6, khoảng thế kỷ thứ XVII tr.CN, lúc nhà Ân hùng mạnh nhất thay thế nhà Hạ, Văn Lang mất 3 tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây, dĩ nhiên vua Hùng thứ 6 không lấy lại là có lý do của nó. Sau này, đến thời Vũ Đinh (cùng vợ là nữ tướng Phụ Hảo) phát triển mạnh về vũ khí, quân sự có tổ chức tấn công ra các vùng xung quanh của Văn Lang như Quý Châu nhưng thất bại. Thời kỳ này, 3 tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Thương muộn qua các cổ vật đồ đồng xanh. Lịch sử chiến tranh với Ân không chỉ qua truyền thuyết Thánh Gióng, mà còn nhiều di tích lịch sử khác còn tồn tại đến ngày nay. Bộ Vũ Ninh nay còn tên gọi ở tỉnh Giang Tây - nơi yết hầu giữa bắc nam Ngũ Lĩnh, mà chúng ta còn thấy sau này quân Tần tấn công qua nẻo vào Nam Việt này rất nhanh). Tỉnh Quý Châu có tên là Quỷ Đỏ (Guizhou). Chính thời kỳ này, vua Hùng thứ 6-7 (cuối 6 đầu 7) tức Lang Liêu ngoài bánh Chưng bánh Dầy đã mã hóa toàn bộ các phương pháp tính toán Âm dương ngũ hành như phong thủy, tử vi, thái ất, kinh dịch… sai lệch độ số Tốn Khôn, lưu trữ số liệu các đời vua Hùng từ thứ 1 đến thứ 5 trong tranh thờ Đạo giáo miền Bắc Việt Nam và Quảng Tây (Âu Việt). Toàn bộ tổ tiên các vua Hùng lưu trữ qua tranh thờ Đạo Mẫu hàng Trống và tranh Đông Hồ nữa, bức giá thánh vua Lạc Long Quân ở đền Bình Đã, Hà Tây cũng là một bản lịch sử thời Hùng Vương, được chế tác vào thời Lý. - Hạ Vũ lấy vợ Đồ Sơn Thị: Cha vua Hạ Vũ là ông Cổn không hoàn thành nhiệm vụ ngăn lũ, dẫn thủy nhập điền bị xử chết, Hạ Vũ thay thế nhưng chắc chắn là chưa có kinh nghiệm cho nên đã sang Văn Lang học hỏi, cùng đi với các chư hầu bấy giờ. Sau lấy vợ Đồ Sơn, Hải Phòng tức câu truyện Tấm Cám (bà Tấm), tích này còn ghi nhận trong sách Bát Tiên Quá Hải và Tây Du Ký, Kinh Thư, Sử ký… Trong lịch sử Việt Nam, có truyền thuyết và đền Bà Tấm là hoàng hậu Ỷ Lan nhưng đây là mật ngữ thời Lý với các vị vua Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Bồ Tát Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh,… cho con cháu tìm về câu truyện Tấm Cám, bởi câu truyện này có trước thời Lý rất xa, phổ biến tương tự cả ở nam Trung Quốc chứ không riêng Việt Nam (phải liên kết cả các nội dung văn bia thời Lý, Trần bởi thời kỳ này các tác giã mã hóa lịch sử trong các câu truyện Phong thần, Tam quốc chí, Thủy hử, Bát tiên quá hải, Tây du ký, Lĩnh Nam dật sử, Tùy Đường diễn nghĩa, rối nước…). - Triệu Vũ Đế: Lập nước Nam Việt, truyền ngôi 5 đời, ngôi mộ của Triệu Văn Đế được phát lộ ở Quảng Đông là một chứng tích cực kỳ quan trọng giúp hiểu rõ văn hóa vật chất thời kỳ này. Vua An Dương Vương gả công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy là để thống nhất lại Văn Lang, tránh chiến tranh. Sử Trung Quốc chỉ chép con vua Triệu Đà là “Thủy” chứ không phải “Trọng Thủy”, chữ “Trọng” được thêm vào là mật ngữ của truyện Tam quốc chí - Lý Ông Trọng, có 2 người vợ,có lẽ người vợ thứ hai là công chúa Tần bởi có tích ông qua Tần chống Hung Nô và được gả công chúa. Trọng Thủy và Mỵ Châu có một con trai chính là Triệu Văn Đế ở trên. Tại sao Trọng Thủy trở thành Lý Ông Trọng, bởi vì mật ngữ vua An Dương Vương mang dòng họ Lý ở Vân Nam, 1.000 năm sau chúng ta còn thấy nước Đại Lý ở Vân Nam (Tam quốc chí, đền Lý Ông Trọng, Sử ký, đền Đồng Xâm, Lĩnh Nam dật sử, Thiên Nam ngữ lục, Thủy kinh chú, Hoài Nam Tử liệt truyện…). - Gia phả Hùng Vương ghi nhận có 113 chiếc ấn đang được chôn cất và bảo vệ, bao gồm 5 chiếc ấn thời nhà Triệu và 108 ấn của các vua Hùng, chứng tỏ con số 108 vua Hùng là chính xác. - Biên giới Văn Lang: dòng Dương Tử được ngăn chia, châu Kinh và châu Dương trong Kinh Thư và Thượng Thư chính là Kinh Dương Vương “nam Dương Tử Bách Việt ở”. Sử Trung Quốc sau này ghi nhận một phần đất thời Xuân Thu Chiến Quốc lấn qua nam Dương Tử vì thời Ân, Văn Lang không tấn công lấy lại những vùng này: Giang Tây, Hồ Nam và Chiết Giang. Đến thời Chu chúng được phân phong cho con cháu. - Phía nam Việt Nam ngày nay là các nước Đông Nam Á, họ chính là các bộ của Văn Lang, bởi vì biểu tượng quyền lực là trống đồng bao phủ ở đây, ngoại trừ Philippin vì cho tới thời vua An Dương Vương, ít người sinh sống và thường xuyên đối diện bão lũ. Không chỉ trống đồng, các quy tắc xã hội và phong tục tập quán khác cũng được áp dụng chung cho các bộ mà còn thấy như tục ăn trầu, xăm mình, tính ngưỡng thờ thần, lễ hạ điền, tục đám cưới trầu cau, thuyến âm dương ngũ hành cũng tồn tại ở các nơi này… Đặc biệt, bộ trống âm dương ở Indonesia là Selayar và Sangeang chỉ thua kém bộ trống Hoàng Hạ - Ngọc Lũ và Sông Đà, Cổ Loa mà thôi (cần phải xem các bài viết quý giá của tác giả Nguyễn Xuân Quang bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Ranh giới phía nam Văn Lang tới Băng-la-đét là dừng (Lĩnh Nam Chích quái, trống đồng, thạp đồng, giáo đồng…). - Phía thượng nguồn sông Dương Tử và sông Hồng: ranh giới Văn Lang vùng này rất mù mờ, cần đối chiếu lịch sử Tây Tạng và truyền thuyết núi Côn Lôn của Ngọc Hoàng Thượng Đế - Kinh Dương Vương. Sau này, thành Cổ Loa thời vua An Dương Vương còn gọi là thành Côn Lôn. Đồng thời, giải mã kinh sách Phật giáo ranh giới này gọi là biểu tượng “Tam giác trí ấn” trong Thai tạng giới của Mật Tông Phật giáo. Dĩ nhiên, còn mật mã khác đó là chữ Rìu Việt - bản đồ Văn Lang cổ đại. Chữ Việt bộ Mễ thể hiện cái cối xay lúa Việt, nền nông nghiệp lúa nước và chữ Việt bộ Tẩu thể hiện con thuyền Bát nhã đưa người từ sông mê bến lú sang bờ bến giác ngộ. Cho nên, lịch sử Văn Lang là lịch sử Phật giáo, để giải nó cần phải sử dụng “Mật mã hoa mai” thứ ba, liên kết toàn bộ 5 tông giáo Văn Lang bao gồm Đạo Mẫu, Thần đạo (Phật giáo), Đạo giáo, Nho giáo, Đạo Tổ Tông: Phương Đông (Thần đạo sao chuyển thành Phật giáo, hành mộc) -> phương nam (Đạo Mẫu, hành hỏa) -> trung tâm (Đạo thờ Tổ Tông, hành thổ) -> phương tây (Đạo giáo, hành kim) -> phương bắc (Nho giáo, hành thủy). - Để giải lịch sử Phật giáo và các vị thần, phật, tiên, thánh là các vua Hùng, chúng ta phải giải mật mã quan trọng nhất trong bộ Kinh Pháp Hoa và truyện Phật Bà Chùa Hương (vợ vua Thần Nông, chi tiết này tôi nhận định sai trong 2012 - Cuộc chuyển thế vĩ đại đã đăng là vợ vua Đế Minh). Sau đó kết hợp với kiến trúc chùa miền bắc Việt Nam, bàn thờ chính điện Đại Hùng bài trí tượng Phật, cùng so sánh đối chiếu với Thai Tạng Giới, Kim Cương Giới của Mật Tông, Kinh đà là ni xuất tượng, toàn bộ các thần thánh an trí trong tranh thờ Đạo giáo, tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống, Kinh Hoa Nghiêm, đối chiếu với tín ngưỡng cổ Ai Cập, Lưỡng Hà, đạo Hindu Ấn Độ, Kinh Trường A Hàm, Kinh A Tỳ Đạt Ma Câu Xá, Kinh ánh sáng hoàng kim, Kinh Lăng Nghiêm… cùng phối chiếu với thiên văn Đông phương, các phương pháp cổ như Tử Vi, Phong Thủy, Dịch Kinh, Thái Ất…): đã giải trong cuốn 2012 - Cuộc chuyển thế vĩ đại, cuốn này chỉ sai sót 5% cho các nhân vật lịch sử mà thôi. Cuối cùng, đối chiếu với bộ trống đồng âm dương Hoàng Hạ - Ngọc Lũ, bởi trống là pháp khí quan trọng nhất trong các tôn giáo và văn hóa dân gian Văn Lang, lúc này chúng ta sẽ biết bộ trống này được chế tác thời kỳ nào, và cũng sẽ biết được trống đồng Thương, Trung Quốc tương ứng. - Quan hệ quốc tế: Giải mã mật ngữ Ai Cập sẽ biết được tôn giáo thờ thần được lập khoảng 2700 tr.CN tức sau khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 tr.CN, sau 180 năm chứng tỏ đã có giao thương. Đối với Ấn Độ, di chỉ hohejo-daro có niên đại xưa nhất 2300 tr.CN cũng chứng tỏ không vượt quá thời kỳ tôn giáo Ai Cập. Vùng Lưỡng Hà, châu Mỹ cũng không ngoại lệ. Lịch sử các nền văn hóa thế giới ghi chép rõ tới khoảng 3100 tr.CN, chỉ lịch Maya nói năm bắt đầu chu kỳ khoảng 3140 tr.CN - đây chính là thời kỳ tương ứng vua Hòa Hy trong Phả hệ Hùng Vương ở trên. - Các vùng văn hóa khai quật ở Việt Nam và Trung Quốc: thời kỳ vua Đế Minh nằm trong thời đồ đồng, đá mới đang tiếp diễn, cho nên phải phối hợp xem xét nhận định, với một mốc quan trọng: đó là kinh đô Văn Lang ở Hà Nội, Việt Nam. Các văn hóa vật thể thời kỳ này là ống tông và đĩa bích, rìu Việt và nha chương. PHẦN ĐÃ DĂNG II Những sự kiện (tiếp theo): - Hồng Bàng Thị: như bác Lãn Miên đã phân tích trong các bài viết Tiếng Việt, tuy nhiên chữ “hồng” còn có ý nghĩa là lũ lụt tức “nạn hồng thủy” – ý nghĩa này được giả thích trong Tùy Đường Diễn nghĩa của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, mặt khác chữ “hồng” cũng là biểu tượng của vua Kinh Dương Vương “chim hồng” loài chim bay cao và xa nhất, có thể vượt hàng ngàn km không ngừng nghỉ. Từ những mật mã hoa mai, chúng ta triển khai phân loại âm dương ngũ hành cho các loài chim kiếm ăn dưới nước: Phương đông (mộc, hồng hạc) -> phương nam (hỏa, cò trắng) -> trung tâm (thổ, bồ nông) -> phương tây (kim, vạc xám) -> phương bắc (thủy, cốc đế). Mật mã này để giải mã tất cả các trống đồng Đông Sơn, đặc biệt là bộ trống đồng bố mẹ (trống đồng âm dương) Hoàng Hạ - Ngọc Lũ. - Xích Quỷ: tên nước thời vua Kinh Dương Vương, chữ “Quỷ” gồm 3 chữ “Vương” cho nên Xích Quỷ nghĩa là “Ba mặt trời” hay Tam Dương. Trong bức tranh Tam Dương Khai Thái và Tam Đa sẽ lý giải được Tam Dương chính là: Đế Minh (thần Shiva trong Đạo Hindu), Kinh Dương Vương (thần Vishnu) và Lạc Long Quân (thần Brahma). - Nước Văn Lang có 15 bộ và có một bộ tên Việt Thường: Ghi nhận Việt Thường trong Lĩnh Nam Chích Quái, sự kiện giao hảo Văn Lang với Trung Quốc thời vua nghiêu - tặng lịch rùa và khi về vua Nghiêu tặng “xe có gắn kim chỉ nam”, trong câu truyện thì Việt Thường là nước Phù Nam cổ (bao gồm Thái Lan, Campuchia ngày nay), tuy nhiên giao hội các sự kiện lịch sử thì đó phải là nước Miến Điện - bộ cuối cùng trong Văn Lang giáp ranh với Băng-la-đét. Trong Lĩnh Nam Chích Quái còn nói đến ranh giới nước Văn Lang qua câu truyện Ấn Độ Mahabrata được định vị trục nam bắc: Ấn Độ - Sri Lanca. Do đó, Việt Thường chắc chắn là Miến Điện, từ đó chúng ta có thể lý giải ý nghĩa chữ “Việt Thường” chính xác, đó là: thường nhiên, thường tại, sự quay trở lại, trở về, mãi mãi là nước Việt, người Việt. - 15 bộ Văn Lang chính là chòm sao Thiên Long ứng với 14 ngôi sao tạo nên chòm sao này, còn bộ Phong Châu trung tâm hay bộ Gió (bộ Vô Hình) nằm ở đầu não của chòm sao Thiên Long. Từ đó, chúng ta mới hiểu tại sao câu truyện Văn Lang tặng vua Nghiêu “lịch rùa” tức thời gian này đang trong chòm sao thiên cực bắc Thiên Long. - Giao Chỉ: đàn Nam Giao tế Trời Đất, chữ thập (số 10) chính trục Càn Khôn trên Hậu Thiên Bát Quái, chỉ chòm sao thiên cực bắc Tiểu Hùng. - Sự kiện Đế Minh nhân đi tuần thú phương nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vũ Tiên, sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương): trong Mật mã hoa mai thứ nhất về Ngũ Đế ở phương bắc hành thủy, còn Mật mã hoa mai thứ ba về 5 tôn giáo Văn Lang ở phương nam hành hỏa, lấy chính là sự chuyển đổi từ Tổ Tông -> Đạo giáo ứng từ bắc -> nam. - Tản Viên Sơn Thánh: thời vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương 107, là vị tướng và quân sư lỗi lạc, tài ba đã tư vấn cho vua Hùng truyền ngôi cho vua An Dương Vương “tùy thời biến dịch”. Vua An Dương Vương lập lời thề chém vào đá trên đỉnh Nghĩa Lĩnh (ghi nhận trong Tam Quốc Chí, thần tích và truyền thuyết). - Chử Đồng Tử Đạo Tổ: thời vua Hùng thứ ba đầu tiên tức Hùng Quốc Vương, đã giải rồi và từ đó, chúng ta hiểu được câu truyện Lão Tử hóa hồ tức Đạo Tiên đã truyền sang phương tây thời kỳ này, hoàn toàn phù hợp tôn giáo thờ thần Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ… Nhưng Lão Tử hay Chử Đồng Tử lại không xuất hiện trong các nhân vật thần thoại ở các vùng này. - Sự tích dưa hấu: đã giải mã, ranh giới đông bắc của nước Đại Hòa thời vua Đế Minh tức Nhật Bản ngày nay, sau này Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng mã hóa nền văn hóa Nhật Bản trong bộ bài Tam Cúc. - Tổ Quốc hay Quốc Tổ: cấu trúc “nội Công ngoại Quốc” của một ngôi chùa tức Âu Cơ - Quan Âm Bồ Tát và Lạc Long Quân - Di Lạc Bồ Tát -> có con là Hùng Quốc Vương đặt tên nước Văn Lang (tranh chim công Đông Hồ tức tranh Cao Quý Đồ Quan, Khổng Tước Minh Vương Kinh). Cho nên, vua Lạc Long Quân và mẫu Âu Cơ được gọi là Quốc Tổ chứ không phải Hùng Quốc Vương hay Kinh Dương Vương, các vị này ở vai trò đặc biệt khác trong cấu trúc tín ngưỡng trên thế giới trong đó, vua Kinh Dương Vương là Ông Tổ của các Tôn giáo. - Ngày giỗ Tổ Hùng Vương tức là tổ của các vua Hùng tính từ vua An Dương Vương, Vua Kinh Dương Vương được suy tôn là Thần Mặt Trời - Đại Nhật Phật - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Ông Trời trong dân gian, ngày 8 tháng 3 âm lịch, 8 và 3 chính là độ số hành Mộc (cung Cấn, Chấn) trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà Đồ, cách sử dụng các độ số này được dùng như mộ quy tắc thời gian của những ngày đại lễ trong lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng Văn Lang. Ngày này sẽ kết hợp với ngày Tết Thanh Minh mùng 3 tháng 3 chính là Tây Vương Mẫu - Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay - Mẫu Thượng Ngàn - Bà chúa Tằm - Thái Dương Thần Nữ, số 3 trùng cũng độ số cung Chấn, ngày này gọi là ngày Tết Thanh Minh (gọi tên chính xác là ngày Tết Phụ Nữ) thời Hùng Vương với tục làm bánh trôi bánh chay. Đền Hùng với Đền Thượng, Đền Trung và Đền Hạ đã được giải mã, một số hiệu chỉnh cũng sẽ được bổ sung sau, tuy nhiên ngày giỗ Tổ Hùng Vương tức giỗ chung cho các vua Hùng và tổ tiên các ngài, hay tổ tiên dân tộc Việt nước Đại Hòa. Ngày này được phân biệt với ngày Tết Nguyên Đán - Tết Nhân Loại và Vũ Trụ. PHẦN ĐÃ DĂNG III Những sự kiện (tiếp theo): Như đã viết, lịch sử Văn Lang chính là lịch sử 5 Đạo giáo thời kỳ này, đồng thời cũng là phát tích các tôn giáo trên thế giới. Lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng Văn Lang đã bao phủ toàn bộ trái đất này, nếu không cho là quá đáng, chiếm tỷ trọng ít nhất 60% toàn bộ các nền văn minh trên thế giới thời cổ đại và kéo dài tới nay, và cho mãi mai sau. Chúng ta cần phải phân tích lại nguồn gốc của Phật giáo, kể từ thời Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo để làm rõ cổ sử Văn Lang. Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay vẫn chưa thống nhất nguồn gốc kinh sách của Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa, một số cho rằng đã có trước thời Phật Thích Ca (xa nhất khoảng 624 tr.CN), một số lại cho rằng từ Phật Thích Ca mà ra, sau được tổng kiết tập lần thứ nhất sau khi ngài nhập niết bàn không lâu. Trong kinh sách Tiểu Thừa ghi nhận có 5 vị cổ Phật và nhiều vị Bồ Tát trước Phật Thích Ca, đồng thời Các bản Gia phả Hùng Vương cũng ghi nhận những sự kiện ngài qua Văn Lang tại Hà Tây, Hà Nội, Việt Nam ngày nay học đạo, rồi đắc đạo cho đem kinh sách Phật giáo từ nơi đây về trước. Qua việc xác định biên giới nước Văn Lang tới Miến Điện, thì rõ ràng việc Phật Thích Ca “bước qua” nước Văn Lang quả thật là rất gần, đây là một khả năng. Ngày nay, tại Miến Điện còn lưu trữ lại những thông tin quý báu về các vị cổ Phật, đặc biệt ở ngôi chùa nổi tiếng Ananda và chùa Vàng, điều này chứng tỏ có những điểm khác biệt trong thờ tự của Phật giáo. Truyền thuyết của Nêpan nơi đản sinh Phật Thích Ca cho rằng, nước này được lập bởi Bồ Tát Phổ Hiền, tuy nhiên ta đã biết ranh giới Văn Lang chỉ tới Miến Điện là hết. Đồng thời, Tây Tạng cũng cho rằng nước họ có tổ tiên là Quan Âm Bồ Tát, một trong những truyền thuyết kỳ lạ còn sót lại, không chỉ vậy, Tây Tạng là quốc gia được lập bởi “đất bùn của những con Dê” tức Dương - Mặt Trời - Đại Nhật Phật trong Kim Cương Thừa ở Tây Tạng. Việc khai quật di chỉ mohejo-daro của Ấn Độ làm phát lộ các cổ vật thời kỳ sớm nhất khoảng 2300 tr.CN về các tượng thần Shiva, Brahma tọa thiền… chứng tỏ tôn giáo thờ Thần đã có trước Phật giáo thời kỳ Phật Thích Ca rất xa, mà chúng ta cũng đã biết Tam vị nhất thể Shiva, Vishnu, Brahma chính là Tam Dương hay Tam Đa Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, cho nên khả năng có sự chuyển đổi từ Thần giáo (kể cả Hindu giáo) chuyển sang Phật giáo. Chưa kể, lịch sử tín ngưỡng thờ thần của vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy La… Sự kiện Bồ Tát Vô Trước (thế kỷ thứ IV) lên cung trời Đâu Suất học Duy Thức từ Bồ Tát Di Lạc, được ngài đọc cho ghi 100 quyển Du già địa sư luận chứng tỏ kinh sách Phật giáo vẫn có thể ra đời sau thời Phật Thích Ca (ông dùng phép xuất hồn - một trong những phép thần thông của Phật giáo). Trống đồng cha mẹ Hoàng Hạ - Ngọc Lũ ghi chép trò chơi Trồng nụ trồng hoa của các bé gái với nội dung bài hát trong trò chơi về ngày mùng 8 táng 4 đản sinh Phật, đã khẳng định thời kỳ chế tác trống đồng trên là đã có Phật giáo (ít nhất thế kỷ thứ VII tr.CN, theo phân tích ý nghĩa hoa văn nó có niên đại ít nhất thế kỷ thứ X tr.CN và cùng thời với trống đồng thời Thương muộn, chế tác tại Hồ Nam, Trung Quốc). Bồ Tát Từ Đạo Hạnh ghi nhận trong trò chơi Rối Nước: “Đám rước kiệu đi thần về Phật” là ý nói “một số các vị Thần trong Thần Đạo khi phân tích sẽ chính là các vị Phật”. Một di tích quan trọng là đại bảo tháp Sanchi ở Ấn Độ (thế kỷ III tr.CN) thời vua Asoka, còn lưu giữ những mật ngữ về Phật giáo và thuyết Âm Dương Ngũ Hành, minh chứng cho lịch sử Phật giáo và học thuyết trên vào thời kỳ này. Trên đây chỉ một vài chứng tích và chứng cứ về lịch sử Phật giáo còn chưa được rõ ràng với các câu hỏi. Dưới đây là một mật ngữ siêu đẳng về sự truyền y bát trong Phật giáo đối với công cuộc “Chuyển Pháp Luân”, nếu không nắm rõ thì cũng không giải được Việt cổ sử: - Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật (Chuyển Thánh Luân Vương): Nhất kỳ phổ độ. - Phật Thích Ca Mâu Ni (Chuyển Luân Vương): Nhị kỳ phổ độ. - Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc (Chuyển Thánh Luân Vương): Tam kỳ phổ độ, lần cuối cùng “Chân Lý” sẽ xuất hiện và sẽ tồn tại trong 70.000 năm nữa kể từ Năm chuyển thế 2012. PHẦN ĐÃ DĂNG IV Những sự kiện (tiếp theo): Nơi khởi nguyên đạo Phật Bồ đề đạo tràng được xem là khu thánh địa thiêng liêng bậc nhất trong các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ và được sự quan tâm với lòng kính trọng đặc biệt đối với Phật tử và các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Bồ Đề Đạo Tràng nằm ở phía Nam thành Gaya, nước Ma Kiệt Đà (Magadha) thời Ấn Độ cổ đại, nay là vùng ngoại ô BodhGaya, cách thành phố Gaya khoảng 7 km về phía Nam bang Bihar, cạnh dòng sông Ni Liên Thiền (Niranjara). Vào thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên tây lịch, chính nơi đây đã xảy ra sự kiện trọng đại và chỉ xảy ra một lần duy nhất trong Hiền Kiếp đó là sự giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhāttha) dòng họ Thích Ca (Sakyā), dưới cội cây Pippala, hay còn được gọi là cây Bồ Đề, sau 49 ngày thiền định. Từ sự kiện trọng đại nhất mà trải qua nhiều đại kiếp mới xuất hiện trên thế gian, quý giá gấp trăm ngàn lần so với loài hoa linh thoại ngàn năm trổ hoa một lần, đó là người con Phật chúng ta có được diễm phúc tôn thờ đấng đại giác Thích Ca Mâu Ni nói riêng hay nhân loại thừa hưởng được một chân lý tuyệt vời, một niềm phúc lạc vô biên ngay tại cõi đời này nói chung. Giá trị nhất trong khu thánh địa này chính là ngôi Đại Tháp và cội cây Bồ Đề thiêng, nơi đức Phật thành đạo vẫn còn tồn tại mãi theo dòng chảy thời gian. Cho dù cuộc đời có đổi thay bao lần, sự cố tình tàn phá của những kẻ đối nghịch, sự biến thiên thăng trầm trong vũ trụ, thì những gì liên quan đến cuộc đời đức Phật vẫn còn lý do để tồn tại, để được biết đến như một báu vật trong tiến trình phát triển văn minh và văn hoá nhân loại. Vào ngày 27-6-2003, UNESCO, một tổ chức văn hoá, xã hội, giáo dục của liên hiệp quốc chính thức công nhận Bồ Đề Đạo Tràng trong danh sách di tích văn hoá thế giới. Mặc dù đó cũng là niềm vinh dự lớn lao nhưng không là vấn đề quan trọng mà quan trọng nhất là chân giá trị Phật giáo, đạo Phật đã đóng góp được gì cho thế giới cho nền văn minh nhân loại, cho hạnh phúc của con người thì sự công nhận muộn màng đó có nghĩa lý gì đối với bề dày lịch sử của Phật giáo chúng ta! Hiện nay, khu Bồ Đề Đạo Tràng có diện tích khoảng 3ha đất, bao gồm nhiều thánh tích quan trọng như tháp Đại Giác, cội Bồ Đề, Bảo Toà Kim Cương, bảy nơi đức Phật ngự sau khi thành đạo, quần thể tháp cổ..... Và dường như Bồ Đề Đạo Tràng khu là thánh tích còn nguyên vẹn nhất so với tất cả những thánh tích khác liên quan đến Phật giáo. Truyền thuyết Phạt Thích Ca Mâu Ni đắc đạo dưới cội Bồ Đề được xây dựng bởi người Việt để lại cho hậu thế, nếu chúng ta biết được lịch sử Văn Lang chính là lịch sử Phật giáo (chuyển tiếp của Thần Đạo): - Cây Bồ Đề: cùng họ Cây Đa - Tam Đa Phúc - Lộc - Thọ: Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân. Tây Du Ký viết Tôn Ngộ Không học 72 phép biến hóa từ Bồ Đề Tổ Sư trước khi có khả năng "quậy phá", đánh đến tận điện Linh Tiêu trên Trời, khiến Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng phải trốn nấp dưới ngai vàng. - 49 ngày: cũng là số ngày cúng tế của một con người sau khi mất, con số này chỉ duy nhất có ở Văn Lang mà thôi. Nó mang ý nghĩa khi "đắc đạo", chúng ta có những khả năng như điều động linh hồn tách rời thân xác và đi chu du bốn biển năm châu một cách dễ dàng, vô giới hạn về không thời gian. - Thế giới: các dân tộc khác cũng có thời gian tang ma nhưng không đúng con số 7x7 của Văn Lang. Ai Cập cũng tôn sùng cây Đa, Đề, Sung, Si, y như nước ta vậy, chẳng hạn đối với họ khi cầu con cái họ thường xin Cây Sung vì nó có vô số quả. Nếu chúng ta đi sâu vào tìm hiều văn hóa Ai Cập thì Cây Sung Ai Cập là biểu tượng cho nữ thần cho con Isis - Quan Âm Bồ Tát (Quan Âm Tống Tử) - Mẫu Âu Cơ Văn Lang. Cho nên, Pharaoh đã tạc con Sư Tử ở trước Kim Tự Tháp Kheops hướng về Đông tức là về Phong Châu - kinh đô Văn Lang (chứng minh phức tạp lắm, tùy duyên). Hoa Ưu đàm ba la: chỉ duy nhất viết trong kinh Phật, chưa ai thấy cả, sau 2.500 năm mới trổ hoa một lần, trong 12 năm qua (1 giáp) nó nở khắp nơi trên thế giới mà người ta lại "biết" - do cảm ứng. Khi xuất hiện, thì một vị Chuyển Luân Thánh Vương ra đời. PHẦN ĐÃ DĂNG V Những sự kiện (tiếp theo): - Nước Văn Lang có 15 bộ và có một bộ tên Việt Thường: Ghi nhận Việt Thường trong Lĩnh Nam Chích Quái, sự kiện giao hảo Văn Lang với Trung Quốc thời vua nghiêu - tặng lịch rùa và khi về vua Nghiêu tặng “xe có gắn kim chỉ nam”, trong câu truyện thì Việt Thường là nước Phù Nam cổ (bao gồm Thái Lan, Campuchia ngày nay), tuy nhiên giao hội các sự kiện lịch sử thì đó phải là nước Miến Điện - bộ cuối cùng trong Văn Lang giáp ranh với Băng-la-đét. Trong Lĩnh Nam Chích Quái còn nói đến ranh giới nước Văn Lang qua câu truyện Ấn Độ Mahabrata được định vị trục nam bắc: Ấn Độ - Sri Lanca. Do đó, Việt Thường chắc chắn là Miến Điện, từ đó chúng ta có thể lý giải ý nghĩa chữ “Việt Thường” chính xác, đó là: thường nhiên, thường tại, sự quay trở lại, trở về, mãi mãi là nước Việt, người Việt, cổ nhân gọi là luật "Thường". Tôi sửa ý nghĩa "xe có gắn chỉ nam" với bản gốc là "xa chỉ nam" - chữ "xa (xe)" ở đây có hình tượng gạch thẳng đứng qua hình chữ nhật, mang ý nghĩa sự ngăn chia, cách chia thể hiện biên giới hai nước, hai vùng... còn "chỉ nam" là chỉ về phương nam, kết hợp lại chính là "biên giới phương nam". - Trống đồng: nếu chúng ta phân tích trống đồng mà tách rời mỗi chiếc thì sẽ không đạt được kết quả, bộ trống Hoàng Hạ và Ngọc Lũ là bộ trống cha mẹ, âm dương cổ nhất còn lại so với trên 3.000 trống có trên thế giới, các trống còn lại là trống con cháu. Chẳng hạn, không thể xác định ý nghĩa chính của 14 cánh sao trên trống Ngọc Lũ và 16 cánh sao trên trống Hoàng Hạ. Trống Hoàng Hạ và trống Ngọc Lũ sẽ có cơ sở xác định được niên đại thời kỳ chế tác trống, muộn nhất là vào thế kỷ X trước Công Nguyên. Trống đồng là một trong những biểu tượng quan trọng của nước Văn Lang, riêng nó là biểu tượng quan trọng được xem là bậc nhất. "Đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu", mỗi khi tiếng trống vang lên, hay tiến niệm Hindu giáo Aum nổi lên, hoặc tiếng sấm trên bầu trời vang động, tiếng pháo ngày Tết Nguyên đán khoát hoạt... chính là âm thanh trầm hùng của trống đồng Đông Sơn được nối tiếp theo "phân lớp âm dương ngũ hành". "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt": Chỉ khi nào trục thiên cực bắc bị phá hủy, thì nước Văn Lang mới bị diệt, chứ đâu phải cái trụ đồng mấy tạ của Mã Viện.
-
Nhờ Ban Quản Trị tải lại giùm các hình ảnh của chuyên mục: Hành lang Cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành (2 trang) của tác giả Votruoc trong mục Lý học Đông phương. Trân trọng cảm ơn.
-
Như đã biết, Bạch Long là sự hợp nhất của không thời gian và vật chất, biểu tượng kỵ vật của Ngọc Hoàng Thượng Đế quản lý cả 3 cõi, dưới đây chúng ta thấy một trống đồng Điền thời An Dương Vương với trung tâm trống gồm 3 chiếc trống chồng lên nhau, thể hiện 3 cõi. Trống đồng Điền được dùng như một Trục Tam Thế, Trục Thế Giới, các vật hiến tế, tế vật thường đứng trên hay chung quanh một chiếc hay nhiều trống nhỏ chồng lên nhau ở tâm trống dùng như một Trục Thế Giới, đây là buổi lễ tế Tam Thế. Trống đồng Điền (thời An Dương Vương) Tỉnh Vân Nam, Trung Hoa (Bộ Vân Nam thuộc Văn Lang hay Âu Lạc sau này) Trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, trục Tam Thế này nằm ở đâu trên các đồ hình ứng dụng của các môn Phong thủy Huyền không - Bát trạch - Dương trạch - Loan đầu, Tử vi, Độn giáp, Thái ất, Dịch, Độn toán, Tử bình, Bát tự Hà lạc... Trục này không thuộc các bộ môn trên mà ở một bộ môn khác, đó là Khí công (Phật giáo gọi là Du già, Đạo Hindu Ấn Độ gọi là Yoga, Đạo giáo gọi là Khí công). Từ đồ hình Hậu thiên Lạc Việt với hai trục khái niệm Thiên - Địa và Quỷ Môn như sau (người hiệu chỉnh từ cổ thư chữ Hán - Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn): Chúng ta sẽ có các trục sau khi liên kết tới tất cả các bộ môn: - Trục bắc - nam: gọi là trục định vị. - Trục tây bắc - đông nam: gọi là trục Thiên môn - Địa hộ. - Trục đông - tây: gọi là trục sinh - tử (Đông độ - Tây Thiên). - Trục đông bắc - tây nam: gọi là trục nữ quỷ môn - nam quỷ môn. - Trục thẳng đứng ở tâm: gọi là trục thần thánh (hay trục nhân quả), chính là trục Tam Thế, trục Vũ trụ ở trên, trục này đi qua trục xương sống con người, khí Tiên thiên hay Tiên Thiên Bát Quái xoáy vào đỉnh đầu theo chiều ngược kim đồng hồ. Vầng hào quang cơ thể Vầng hào quang của cơ thể hình quả trứng là vành đai của các trường khí tương khắc, vận động theo nguyên lý của Lạc thư. Qua nguyên lý này, chúng ta sẽ biết Mặt trăng thuộc hành Âm Thủy so với Trái đất. Cuốn Tử vi đẩu số viết sao Thái Âm (Mặt trăng) thuộc hành Âm Thủy, điều này đã khẳng định lại một lần nữa: Hệ mặt trời được xác định theo nguyên lý "Dương trong Âm ngoài". Tuy nhiên, sao Thái Dương (Mặt trời) lại thuộc Dương Hỏa - trong khí đó về Lý của Hệ mặt trời thuộc Dương Thổ, điều này chỉ ra vai trò của Thái Dương trong Tử vi là như thế nào? Chủ thể là một con người với ngày - tháng - năm sinh. Huyền không phi tinh: Vấn nạn tiên tri khi dùng Huyền không phi tinh cả thuận lẫn nghịch. Do có 2 cách tiên tri như vậy, kết quả hoàn toàn khác nhau, vậy chúng ta phải dùng phương pháp nào: Thuận hay Nghịch? Đây rõ ràng là một mắt xích liên quan đến Bát trạch, Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và thuyết tiến hóa của Đác-uyn cùng với quy ước của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành của con người (Cha + Mẹ) và (Mẹ và Con) trong sự phân lớp của các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành nói trên.