hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Qua nội dung phân tích ở trên, chúng ta có một khoảng trống về mặt thời gian kể từ trận Đại hồng thủy cho tới thời tổ tiên Kinh Dương Vương tạm xác định là 5.000 năm trước. Cùng với sự đột phá về tri thức về vũ trụ và nhân sinh thời kỳ này đã chứng minh rằng, thời gian trước đó cũng đã có một sự kế thừa tri thức ở một mức độ xác định, đó chính là: - Nền văn hóa đồ đá và ngọc khí như đặc trưng ngọc khí vùng Chiết Giang (thuộc Văn Lang), Giang Tô (thuộc Trung Hoa), Tam Tinh Đôi (thuộc Trung Hoa) và các vùng lân cận (bao gồm các cả nền văn hóa khác nhau trên thế giới). Nền văn hóa cổ Văn Lang lấy "Rìu Việt" làm biểu tượng, tuy nhiên cũng còn những biểu tượng khác nữa nhằm thể hiện học thuyết Âm Dương Ngũ Hành một cách đầy đủ hơn. - Nền văn hóa đồ gốm. Tất nhiên, nó sẽ kết thừa nền văn hóa đồ đá và cũng thể hiện sự tiếp nối của tri thức trên. - Nền văn hóa tiền đồ đồng đang diễn tiến, cho nên trong khoảng 5.000 năm trước, các di vật đồ đồng không thể khai quật cho tới nay, một số vùng văn hóa trên thế giới mà trong sách vẫn ghi nhận đồ đồng trên 5.000 hầu như vô lý và không rõ ràng khi tham khảo, bởi chúng đã bị phân rã theo thời gian. Trong kinh sách cổ liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Văn Lang, kim loại đồng là hành Kim. Về mặt xương cốt, ngoại trừ trong trạng thái đặc biệt được bảo tồn do hóa thạch thì chiếu theo điều kiện tự nhiên như mộ Nam Việt Vương Triệu Muội (trước CN) thì phân rã hết chỉ còn mỗi bộ răng mà thôi, cho nên khi nói còn các di chỉ xương cốt khoảng 4.000 trước là rất nghi ngờ ngoại trừ còn lại trong kim tự tháp Ai Cập - lăng mộ của vua Tutankhamun còn hài cốt trên 3.000 năm. Cày cấy Ai Cập (dùng bò chứ không phải trâu) - Sự phát triển nông nghiệp và chăn nuôi gia súc cũng đã có từ thời trước đó, chúng ta cần chú ý trong lịch sử nước Văn Lang và Trung Hoa (thời Đế Minh thì Văn Lang và Trung Hoa là một quốc gia thống nhất, có tên là Đại Hòa, sau Nhật Bản lấy lại cái tên này cho nước mình) thì vua Thần Nông được biểu tượng cho ông tổ của ngành nông nghiệp, còn chính thất của ngài được biểu tượng cho bà tổ của ngành chăn nuôi động vật thuần hóa (THẦN NÔNG VÀ ĐỊA TRẠCH). Đặc biệt, dòng họ cây lúa là quan trọng nhất trong ngành nông nghiệp thượng cổ, ngay cả Ai Cập cũng tôn sùng công tác này và ông tổ của ngành đó chính là vua Thần Nông nước ta. Địa Trạch - Chính thất của vua Thần Nông Trong bức tranh Địa Trạch này, người đàn ông ở trục trung tâm tại hàng dưới chính là người con trai của Thần Nông - Địa Trạch tức Đế Thừa Sở Minh Công - kế thừa ngôi vị, người cha của Đế Minh. VĂN MINH LÚA NƯỚC Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã. Di vật đèn thuyền Văn hóa Đông Sơn- biểu tượng cho Văn minh lúa nước Quê hương cây lúa nước Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới. Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Lịch sử phát triển và khảo cổ học Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước. Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước. Tranh mô tả việc trồng lúa nước Nhật Bản-một nhánh từ Đông Nam Á Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc. Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước. Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze. Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là huyền vĩ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.
  2. Trong tiến trình lịch sử thời kỳ đồ đá cũ của nhân loại, có một sự kiện quan trọng nhất đó chính là trận đại hồng thủy trên thế giới, nó đã được ghi dấu trong truyền thuyết của hầu hết các dân tộc 5 châu. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học địa chất, địa cầu và các chuyên ngành khác, trận đại hồng thủy khủng khiếp thuộc khoảng thời gian từ 8.000 - 12.500 năm trước cách ngày nay, tức cũng tương ứng với kết quả thí nghiệm phóng xạ các bon cho các công cụ thời đá cũ tại Việt Nam. Đàn đá, phát hiện tại huyện Di Linh, có niên đại khoảng 2500 tới 3000 năm cách ngày nay. Về mặt lý thuyết, dấu tích phải còn lại trên mặt địa cầu, chẳng hạn khi xét bức tranh trong hang động phát hiện ở Sulawesi, tây nam Indonesia được xác định có tuổi thọ tới 40.000 năm phải chăng có dấu tích ảnh hưởng của trận đại hồng thủy này? Khi mà vùng đất Indonesia thuộc địa hình thấp trũng. Đồng thời, xét về mặt tổng thể thì niên đại của bức tranh này vượt quá xa thời kỷ đồ đá mới ngay cạnh nó là Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam... do vậy, khả năng bức tranh này được khắc họa thực sự chưa tới 10.000 năm. Con số 40.000 này chỉ thích hợp khi cho rằng nguồn gốc loài người từ châu Phi di chuyển dọc bờ biển tới Indonesia rồi tới các nước gần đó. Mặt khác, với trận đại hồng thủy này thì loài người gần như bị tiêu diệt hết, chắn chắn chỉ còn lại một số nhóm người trên khắp địa cầu sống sót khi ở trên núi cao. Điều này chỉ tới, sự phát triển trí tuệ tính từ thời điểm của trận đại hồng thủy - 5000 năm lịch sử là rất chậm chạp, cho nên khi tới thời tổ tiên Kinh Dương Vương đủ tích hợp tri thức mà khám phá ra những quy luật của tự nhiên như bốn mùa, đêm ngày, nam nữ, đực cái... mà từ đó, suốt theo các thế hệ xây dựng thành học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và phát triển hoàn hảo hơn. Tất nhiên, cũng thời gian này các ngài đã biết đến hành "Kim" tức kim loại rồi, nó cũng đã trở thành một thành tố của học thuyết trên. Chiếu theo thần phả, gia phả, truyền thuyết và huyền thoại Việt thì tới thời Hùng Vương Thứ Bốn (Hùng Hoa Vương) tức Sơn Tinh (bắt đầu thời Hùng Vương Thứ Bốn - 2253 TCN) mới kết thúc hình thành học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, qua bản tổng hợp liên hợp Thiên - Địa - Nhân: "Hồng Phạm Cửu Trù", được xem như là một quyết sách cho việc quản trị của mỗi quốc gia cũng như cho toàn thể nhân loại. 3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu. 4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ. (Ghi chú: ngay cả Hồng Phạm Cửu Trù cũng phải được cấu trúc theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ chứ không phải trên đồ hình Lạc thư theo truyền thuyết) Trong các phương pháp ứng dụng siêu đẳng của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, thì bộ môn Tử vi dùng để xác định các trạng thái trong tương lai của mỗi con người, với 110 biến số - sao quy ước trên một cấu trúc Thiên bàn tuân thủ theo công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, căn cứ công thức áp dụng cho các bài toán tổ hợp và chỉnh hợp của toán cao cấp thì 110 biến số này sẽ tương tác lẫn nhau tạo thành hàng tỷ tỷ... mối liên hệ đan xen, nhưng trong bộ môn này chỉ xét đến những tương tác lớn, có quy luận để giúp cho nhận thức và phân tích được dễ dàng hơn. Vậy, rõ ràng thời Hùng Vương đã thấu triệt đến tận cùng của vũ trụ nếu kết hợp với bộ môn Dịch học tiên tri (Dịch học là phương pháp tổng hợp cuối cùng bởi tính liên kết tức thì tới toàn bộ vũ trụ vô cùng), chúng ta sẽ có câu hỏi: Tử vi được hoàn thiện vào thời gian nào trong lịch sử Hùng Vương, trước Dịch lý (trước thời kỳ của Thánh Khổng Tử và trước cả Phật Thích Ca Mâu Ni) thời nhà Chu: Chu Dịch và còn có cả Dịch Phục Hy? Đại hồng thủy - truyền thuyết và khoa học Theo truyền thuyết, đại hồng thủy là sự trừng phạt của thần linh đối với sự bướng bỉnh bất tuân của loài người. Nhiều dấu vết tìm được mới đây cho thấy, các biến cố đó là có thật. Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống. Truyền thuyết về đại hồng thủy xuất hiện trong rất nhiều nền văn hóa cổ xưa như Lưỡng Hà, Trung Hoa, Hy Lạp cổ đại... Tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở để thống kê có bao nhiêu trận trong lịch sử loài người. Truyền thuyết nổi tiếng nhất là trận đại hồng thủy được ghi lại trong sách Sáng Thế ký (Kinh Thánh). Chúa trời quyết định xóa bỏ loài người vì những tội lỗi của họ gây ra, nhưng lại cứu ông Noah vì ông có đạo đức. Chúa đã dạy ông cách đóng một con thuyền lớn để tự cứu mình và các loài khác. Một truyền thuyết được coi là cổ xưa nhất về đại hồng thủy được ghi lại trong cuốn sách đá của nền văn minh Lưỡng Hà. Vị thần Enki đã cảnh báo vua Ziusudra thành Shuruppak (một triều đại cách đây 5.000-6.000 năm, nay thuộc lãnh thổ Iraq) rằng Thượng đế sẽ tiêu diệt loài người bằng một trận lụt ghê gớm. Thần Enki đã mách cho vua Ziusudra cách đóng một con thuyền lớn, vì thế mà Ziusudra đã thoát nạn sau trận đại hồng thủy kéo dài 7 ngày đêm. Trong truyền thuyết của Babylonie, người anh hùng Gilgamesh thuộc xứ Uruk muốn trở thành bất tử giống như tổ tiên của mình là UtNapishtim. Chính ông này đã báo cho Gilgamesh biết sắp có trận lụt lớn và dạy cách trở thành bất tử là thức 6 ngày 7 đêm, nhưng cuối cùng thì Gilgamesh đã ngủ quên mất. Tuy không trở thành bất tử nhưng Gilgamesh đã học được cách đóng một cái bè lớn để đưa gia đình, bạn bè và tài sản của mình lên đó để tránh lụt. Cuốn Luật lệ của Plato đã nói về trận lụt lớn xuất hiện trước thời của ông khoảng 10.000 năm. Ông viết rằng còn có rất nhiều trận đại hồng thủy khác cho đến khi thành Athens trở nên trù phú. Cuốn Cổ sử của Trung Hoa ghi nhận vào năm 700 trước Công nguyên hoặc sớm hơn, vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế đã có một trận lớn, nước dâng lên tận Thiên đình. Da Yu đã khống chế được lũ lụt và trở thành Hoàng đế đầu tiên. Sau này nhiều cuốn sách khác cũng viết về những trận đại hồng thủy do giao long sống tại sông Hoàng Hà vì giận dữ với loài người đã gây nên. Truyền thuyết về sự tích Hồ Ba Bể ở Việt Nam cũng liên quan đến đại hồng thủy. Thần Giao long hóa thân thành một bà già ăn mày đi dự hội “Vu Già” cầu Phật, do thấy người đời không có lòng nhân từ nên đã dâng nước nhấn chìm tất cả. Chỉ có hai mẹ con bà góa cho bà ăn mày ăn và ngủ nhờ nên được cứu. Thần đưa cho họ 2 vỏ trấu (sau đó biến thành thuyền) và một nắm tro để rải xung quanh ngôi nhà của mình. Khu đất đó không bị chìm trong nước và ngay nay là đảo Po-già-nải ở giữa Hồ Ba Bể. Những phát hiện của khoa học Các cuộc khai quật ở khu vực nền văn minh Lưỡng Hà (thuộc nước Iraq ngày nay) đã phát hiện nhiều dấu vết như lớp bùn trầm tích, hay các hóa thạch liên quan đến trận đại hồng thủy vào khoảng 2.900-2.700 năm trước Công nguyên. Trong những năm 1920, nhà khảo cổ học người Anh Leonard Wooley khai quật ở khu vực Nam Mesopotamia (vùng đất được coi là nơi sinh Abraham, tổ phụ của dân Do Thái) đã phát hiện các vỉa bùn sâu nằm dưới nước, chứng tỏ cư dân sống không liên tục. Ngoài ra còn có nhiều dấu vết nhà cửa vật dụng bằng gốm chìm dưới tầng bùn. Gần đây, các nhà khoa học tìm thấy dấu tích của một chiếc thuyền lớn trên đỉnh núi tại Thổ Nhĩ Kỳ. Họ cho rằng đó là chiếc thuyền nổi tiếng của ông Noah ghi trong sách Sáng Thế ký. Như vậy, có thể khẳng định những trận đại hồng thủy trong quá khứ là có thật. Các nhà khoa học cũng đưa ra giả thiết về nguyên nhân gây ra chúng. Họ cho rằng vào cuối kỷ băng hà (kéo dài từ 2,5 triệu năm đến 10.000 năm trước Công nguyên), nhiệt độ của trái đất rất thấp. Băng hà bao phủ toàn bộ bắc bán cầu. Sau đó, những khối băng cực lớn bắt đầu di chuyển, khối lượng ước chừng 30 triệu km2. Những núi băng khổng lồ đè nặng lên vỏ trái đất gây lún sụt ở nơi này và trồi lên ở nơi khác, tạo ra những vùng đất như Scandinavia, Scotland, Canada... Khi đó, mực nước biển rất thấp (thấp hơn hiện nay 120-150 m); châu Á và Bắc Mỹ nối liền nhau qua eo biển Bering. Thời kỳ cuối cùng của kỷ băng hà cách đây 10.000 năm, khí hậu trái đất nóng lên làm băng tan và mực nước biển dâng nhanh. Đó chính là nguyên nhân gây đại hồng thủy nhấn chìm nhiều vùng đất. Theo các thống kê mới đây nhất, các nhà khoa học đã khám phá những đại dương khổng lồ nằm ẩn sâu hơn 1.000 km dưới bề mặt trái đất và họ cho rằng đây chính là nguyên do gây nạn đại hồng thủy được kể trong truyền thuyết. Các khảo sát sóng địa chấn cho thấy có ít nhất hai đại dương ngầm bên dưới bề mặt lục địa Âu - Á và Bắc Mỹ. Các nhà khoa học Mỹ tin rằng các đại dương ngầm có lượng nước không kém hai đại dương vùng cực. Vì một lý do nào đó (động đất, chuyển động vỏ trái đất...), lượng nước khổng lồ này đã phun trào lên mặt đất. Hơi nước bốc lên cao gặp khí lạnh ngưng tụ thành những đợt mưa dài ngày gây đại hồng thủy và sau đó lại ngấm xuống đại dương ở trong lòng đất. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
  3. Nhằm minh xác cho sự nhận định trên, chúng ta cần nhìn nhận một số dữ kiện khảo cổ học và tự nhiên. Thực tế cho thấy, chỉ có một số loài dã nhân trong điều kiện thích hợp mới tiến hóa thành người, do vậy trên thế giới vẫn còn rất nhiều loài khỉ như đã biết chưa tiến hóa hay hầu như đang tiến hóa rất chậm cho tới thời đại của chúng ta ngày nay. Sự tiến hóa về mặt sinh lý "rụng lông, đứt đuôi" của các chủng loài dã nhân sẽ này sinh trong một thời điểm tương tác từ vũ trụ thích hợp nhất cho các điều kiện tự nhiên trên trái đất - đấy chính là tương tác thuộc hành Mộc, Thiệu Khang Tiết viết: "Trời sinh ở hội Tý, Đất sinh ở hội Sửu, Người sinh ở hội Dần", chúng ta đang ở hội Ngọ và nếu tính từ thời điểm bắt đầu chu kỳ của một Nguyên 129.600 năm thì tới thời chúng ta đã trên 50.000 năm rồi. Tuy nhiên, khoa học cho rằng sự tiến hóa này đã xác định 2.9-2.7 triệu năm với các đồ đá nằm trong địa tầng cổ sinh tương ứng??? (điều này theo khoa học, đối với cá nhân tôi là chưa rõ ràng) và thời kỳ đồ đá kết thúc được xem vào khoảng 10.000 năm nay. Đối với các di chỉ đồ đá tại Việt Nam, niên đại xác định bằng phương pháp phóng xạ các bon là 11.000-12.000 năm cách nay. Các di chỉ đồ đá phổ biến rộng khắp trên thế giới, chứng tỏ rằng sự tiến hóa là phổ biến đối với các loài dã nhân trên mặt địa cầu. Do vậy, nếu khoa học chứng minh cội nguồn nhân loại từ châu Phi rồi di chuyển đi khắp thế giới là kết luận phi logic. Đồng thời, nếu kết hợp với câu nói của Thiệu Khang Tiết ở trên, xác suất đột phá tư duy trong công cụ đồ đá cách nay trên 50.000 năm là hợp lý bởi vì nếu tính thêm một chu kỳ lặp vòng tròn nữa thì số năm cực lớn, không khả thi tương ứng với trình độ tiến hóa. Tương tác mang hành Mộc sẽ làm thay đổi cơ chế sinh lý của loài dã nhân, vậy tương tác thuộc hành nào sẽ làm thay đổi tư duy trừu tượng đột phá của chúng sau khi đã rụng lông, đứt đuôi!. Chúng ta nên nhớ rằng, các loài khỉ vẫn có thể dùng công cụ như nhánh cây để khều thức ăn, con chim đại bàng quắp con rùa bay lên cao thả xuống các mỏm đá cho vỡ chiếc mai cứng ra để ăn thịt chúng, rồi thì những con cua dừa biển Thái Bình Dương có khả năng trèo lên cây dừa dùng càng cắt đứt cuống dừa để trái dừa rớt xuống bể ra để ăn cùi... Xem lại thần thoại và truyền thuyết của Tây Tạng (thuộc Văn Lang) là rất độc đáo, họ cho rằng tổ tiên của dân tộc Tây Tạng là một con khỉ đã được Quán Âm Bồ Tát điểm hóa, có lẽ ý nghĩa này là độc nhất vô nhị, trong khi đó các tôn giáo lớn trên thế giới không công nhận thuyết tiến hóa của Đác Uyn và con người không phải từ loài khỉ tiến hóa, chứng tỏ đã có một sự trì trệ về mặt tổng hợp kiến thức khách quan hàng thiên niên kỷ cho tới tận ngày nay, cũng tức là không có bất kỳ một sự tiến hóa về mặt tri thức, bởi do "tính chấp" cứng như đá và đã bị "trói não" bởi cái được gọi là "đức tin" mà không dùng trí tuệ do một nhóm người nào đó có mục đích. Dưới đây là hình Nữ Oa và Phục Hy nắm tay một đứa bé trong hình hài " con khỉ nhỏ": Về hình thức so sánh tiến hóa tư duy giữa đồ đá và sử dụng lửa (cất giữ) trong nấu ăn, rõ ràng lửa là một sản phẩm sử dụng của tư duy cao cấp hơn đồ đá -> vấn đề này rất quan trọng trong sự đột phá về tư duy trừu tượng của người nguyên thủy. Kèm theo sau đó, chính là những bức tranh trên đá khi mà một số người nguyên thủy phát triển tư duy hơn nữa, qua hình tượng từ tự nhiên chuyển thành sản phẩm nhân tạo. Các bức tranh vẽ hang động phát hiện ở Sulawesi, tây nam Indonesia được xác định có tuổi thọ tới 40.000 năm. Ảnh: PA Ghi chú: về thần thoại và truyền thuyết của nước Văn Lang, Thượng Đế chưa phải là tiêu biểu cho khởi nguyên vũ trụ tức không phải "Người sinh ra vũ trụ" như một số tôn giáo... Ki tô giáo, trên ngài còn nhiều vị nữa và các vị trong gia phả sẽ có vai trò này, còn trước các vị này là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng không được lấy làm biểu tượng nguyên thủy. Vị này có tên là Nguyên Thủy Thiên Tôn (bộ ba chứa đựng tiềm năng của sự sống) trong Đạo giáo (phân lớp thần linh thừ 1).
  4. Sự xác định về mặt thời gian của năm Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 TCN khi đối chiếu với toàn bộ dữ kiện lịch sử tại Việt Nam, Trung Quốc và thế giới là chính xác, với sai số vài năm do 5 đời trước Ngài sẽ được tính thời gian trung bình của một đời người. Tại thời điểm này, so sánh tới sự phát triển xã hội sẽ có những vấn đề cần đặt ra: - Rơi vào thời kỳ tiền đồ đồng. - Rơi vào thời kỳ đồ ngọc - như ngọc Lương Chử vùng Chiết Giang (thuộc Văn Lang) và sự phân bố nha chương, rìu Việt, đĩa bích của Văn Lang -Đông Nam Á và Trung Quốc. - Vẫn còn một số đồ đá mới ở những vùng khác nhau. - Theo nhận định cấu trúc xã hội: đã có chế độ quản trị quốc gia Văn Lang và Trung Quốc và một số nơi khác, do vậy biểu tượng của quốc gia phải tồn tại, chẳng hạn học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, rìu Việt, nha chương, ống tông, đĩa bích, đỉnh đồng (nên tham khảo Nguồn gốc người Việt - người Mường của Tạ Đức) ... -> phải cân nhắc lịch sử trước đó đủ tích lũy kiến thức hình thành nên học thuyết và có sự đột biến tri thức, đồng thời sự kiện khả năng các vị Hùng Vương cũng suy tôn "thành quả" cho tổ tiên của mình. - Thời kỳ trước 3050 TCN sẽ là tiền đề của lịch sử Văn Lang, Trung Quốc và thế giới cho nên phải xem xét kỹ, nhưng do dữ liệu qua các cổ vật và các chuyên ngành khác nhau xác định cá mốc thời gian chênh lệch quá lớn làm cho sự xuyên suốt về mặt thời gian thường "nhảy cóc". - Cuối cùng, là sự hình thành nên các nền văn minh trên thế giới và nguồn gốc ban đầu của con người ở đâu? Châu Phi? tức phải xác định "người vượn" ban đầu ở châu Phi hay đồng loạt nhảy vọt "đứt đuôi, rụng lông" ở trên khắp thế giới? -> chỉ định vị sự xuất phát đầu tiên duy nhất tại châu Phi là sai cơ bản rồi (chưa cần sử dụng phương pháp ADN)!. Bởi vì rằng, trong một sự đột biến loài khỉ trên trái đất, với trái đất chỉ là 1 điểm như hạt cát trong sa mạc cho nên tương tác tại thời điểm chuyển thuộc tính tương tác từ vũ trụ là toàn thể trên trái đất, lúc này có thể đã có tư duy trừu tượng dù chỉ là ở mức độ nhỏ bé nào đó. Vậy thì, thông thường sự thuận lợi nhất của vùng sinh trưởng của động vật tại các vùng nhiệt đới, ôn đới... nơi mà có các loài dã nhân, phải chăng là nơi có trường khí Âm Dương hài hòa nhất sẽ chịu trường khí tương tác tốt nhất tại một thời điểm đặc biệt để tạo nên tình trạng đột phát này?
  5. Tôi ghi nhận những chú ý về mặt thời gian của các mốc cổ đại quan trọng của nước Văn Lang: - Thời điểm Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 TCN, vận 7, hội Ngọ (theo phả hệ, được xem là lúc 41 tuổi). - Kinh Dương Vương là Hùng Vương Thứ Nhất và An Dương Vương là Hùng Vương Thứ 108 - có tất cả 108 vua Hùng tương ứng với 18 đời Hùng Vương. - Cha mẹ và tổ tiên của Kinh Dương Vương được ghi chép tới 5 đời trước là kết thúc, thời điểm trước đó không ghi chép sử và gọi chung là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng. Như vậy, lịch sử Văn Lang ghi chép chính xác trong khoảng thời gian từ 3050-2950 TCN. Đối chiếu và phân tích: - Đối chiếu tới sử của Ai Cập là cực kỳ quan trọng, bởi vùng phía tây sa mạc của sông Nile nơi chôn cất Pharaohs và người dân hầu hết còn nguyên vẹn, cổ vật khai quật được nhiều vô cùng và phong phú với cả triệu cái xác ướp (mummy), truyền thuyết và thần thoại cũng rất độc đáo và hầu hết còn lưu giữ nguyên vẹn ý nghĩa nguyên thủy, nhưng cổ sử Ai Cập lờ mờ tại khoảng thời gian >2800 TCN. - Đối chiếu với sử Lưỡng Hà: bắt đầu lờ mờ khoảng >2300 CTN với cổ vật đồng và đá, tất nhiên phải có quá trình tích lũy và phát triển trước mốc thời gian này. - Ấn Độ cũng tương tự với các di chỉ Mohejo-daro và Harpara vùng Afganistan ngày nay, 2300 TCN. Đối chiếu với Trung Hoa, Nhật bản, hàn Quốc và Đông Nam Á, Tây Tạng, Bangladet: - Chỉ duy nhất tại Trung Hoa sử rõ ràng tới thời nhà Hạ, Thương, Chu, tức cũng khoảng 2300 TCN, lúc này cần phải đi chi tiết vào văn hóa đá mới, ngọc khí, đồ gốm... từ đó, lại dẫn tới đi chi tiết vào các văn hóa tương tự tại Việt Nam và Nam Dương Tử và các quốc gia cổ đại khác. Qua đó, sẽ thấy rằng lịch sử văn minh nhân loại có một bước nhảy vọt khoảng gần 5000 năm trước (do vậy, cuốn sách Nguồn gốc người Việt - người Mường của Tạ Đức là cực kỳ quan trọng, khi chúng ta bỏ qua những nhận định về thiên di...). Nhảy vọt về tri thức: Sự nhảy vọt này được xác định trong khoảng 2700-2300 TCN về nhiều mặt, đặc biệt về thiên văn, lịch pháp, nông nghiệp - với sự khai thác các loại cây lúa và cây nông nghiệp. Thời gian đại nhảy vọt này sau thời kỳ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương ước hơn 200 năm. Vũ trụ quan và thế giới quan cổ đại dựa trên hai lớp hệ thần thánh: từ vũ trụ nguyên thủy có lớp thần đầu tiên và sau đó có lớp thần tạo ra loài người, các nhân vật thần thánh được tôn thờ trên toàn thế giới quy ước tương ứng tới các chòm sao thiên văn, lịch sử... là các nhân vật lịch sử nước Văn Lang ở trên, do các ngài đã có công truyền bá tri thức đến toàn thế giới, và họ đã trở thành một thành phần của nền văn hóa bản địa vô cùng sâu sắc và độc đáo. Cái giá trị cao nhất mà các vua Hùng giúp cho thế giới cổ đại và vĩnh viễn cho tới ngày nay, cũng như mai sau đó là: "Đại Đạo chân chính" - hiểu rõ bản chất vũ trụ, đời người và diễn tiến của nó đi đâu, về đâu... Nền văn minh Atlantic: Sự trùng hợp về tên gọi Thái Bình Dương là Atlantic, chính là nền văn hóa này chứ không phải trước thời Kinh Dương Vương nhiều nghìn năm. Do vậy, năm 2879 TCN chính là mốc năm tham chiếu thời gian chính xác cho lịch sử văn minh nhân loại của toàn thế giới. Văn minh Atlantic bị chìm xuống biển (thế giới đi vào cung Song Ngư) chính là nói về bí ẩn của nền văn hóa Văn Lang đã bị mai một, cho mãi tới thời Nghiêu - Thuấn - Vũ của Trung Quốc vẫn là thời "thái bình thịnh trị", ngoại trừ các vùng Lưỡng Hà và Ai Cập với những công trình kỳ vĩ như kim tự tháp thì làm sao thái bình được với hàng chục triệu nô lệ và các cuộc chiến tranh. Ghi chú: Lịch sử của các nền văn minh trong các sách hiện nay còn có những mục đích "thần quyền" và "thế quyền" nữa, khi đọc cần chắt lọc một cách logic. Ví dụ, người ta sử dụng lịch sử thiên văn Ai Cập ghi chép cực kỳ chính xác các chòm sao của bầu trời phương bắc vào khoảng năm 150 TCN để giải thích tương ứng tới thiên văn Lưỡng Hà, nhưng lại cho rằng những con dấu bằng đá có tượng thần - chòm sao ở những năm 4000-3000 TCN, nhằm mục đích "thần quyền" cho vùng Lưỡng Hà với các tôn giáo đã biết (tất nhiên, họ không thể và không bao giờ biết được những vị thần đang tôn thờ là ai cả!), hàm ý "cái rốn vũ trụ" tức về mặt bản chất mong muốn duy trì tư tường nô lệ con người nhằm phục vụ cho cuộc sống ăn trên, ngồi trốc sung sướng của mình, chứ làm quái gì những ông ở đâu đâu Rome - nước Ý lại "chúng tôi thương các bạn lắm lắm" - lên thiên đường nhé, mấy nghìn năm mà chả thấy ông bà nào mô tả bản chất của thiên đường cụ thể cả (một số nhân vật có khả năng tâm linh cũng có kể lại đôi phần). Kẻ đã đắc đạo, giải thoát, lên thiên đường ở đâu? Tiên tri người Pháp cùng thời với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Naustradamus đã từng viết: "toàn những lời dối trá, hư ngụy". Bống bống, bang bang, Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Lịch sử đau thương của dân tộc cho thấy rằng, cơm hẩm, cháo hoa mà cổ nhân đã nói vẫn thực sự chưa... ngon, mà phải cơm sườn... người!
  6. VỀ TƯỢNG VIÊM ĐẾ VÀ HOÀNG ĐẾ MỚI ĐƯỢC XÂY DỰNG BÊN SÔNG HOÀNG HÀ Tác giả: Hà Văn Thùy. Theo các báo, ngày 18 tháng 4 năm 2007, tại thành phố Trịnh Châu, thủ phủ tỉnh Hà Nam Trung Quốc khánh thành tượng Viêm Đế và Hoàng Đế cao 106 m, được xây dựng trên một ngọn núi nhìn ra sông Hoàng Hà. Truyền thuyết cho rằng Hoàng Đế và Viêm Đế cùng trong một bộ lạc do Viêm Đế làm chủ. Sau đó, Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở trận Phản Tuyền. Viêm Đế quy phục. Nhưng bộ tướng của ông là Si Vưu nổi lên đánh lại, buộc Hoàng Đế phải tận lực tiêu diệt trong trận Trác Lộc. Người Hán được gọi là Viêm Hoàng tử tôn, tức là con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế. Đấy là truyền thuyết. Mà truyền thuyết thì không phải là lịch sử. Trong chính sử, ngườiTrung Quốc cho rằng, họ là hậu duệ của người Bắc Kinh, xuất hiện 600.000 năm trước tại di chỉ Chu Khẩu Điếm. Xa hơn nữa, tổ tiên của họ là người Nguyên Mưu, sống cách nay 1,7 triệu năm. Tuy nhiên, sang thế kỷ này, khoa học khám phá rằng, người Bắc Kinh và người Nguyên Mưu thuộc loài người Đứng thẳng Homo erectus, một loài tiền nhiệm của loài người hiện nay và đã bị tuyệt diệt khoảng 250.000 năm trước tại châu Á. Một thuyết khác ra đời năm 2005, căn cứ vào một số tiếng nói và tôn giáo cho rằng, tổ tiên người Trung Quốc là người Arian từ phía Tây tới. Tuy nhiên thuyết này mâu thuẫn với thực tế vì nếu vậy, người Trung Quốc hiện nay phải có mã di truyền Ấn-Âu giống với người Ấn Độ. Trong khi đó, 93% người Trung Quốc hiện nay có mã di truyền của người Mongoloid phương Nam. Từ khám phá của di truyền học đầu thế kỷ cho thấy, con người hiện đại xuất hiện đầu tiên ở châu Phi rồi từ đó theo ven biển Nam Á tới Việt Nam. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Khoảng 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng trên đất Trung Hoa nền kinh tế nông nghiệp phát triển rực rỡ. Tại văn hóa Ngưỡng Thiều phía nam Hoàng Hà xuất hiện trung tâm lớn của người Việt. Thần Nông (3320-3080 TCN) chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều, là con cháu người Lạc Việt, có nước da đen như da người Tây Nguyên hiện nay. Trong khi đó Hoàng Đế thuộc chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid), là thủ lĩnh bộ lạc du mục Hiên Viên, đánh trận Trác Lộc chiếm nam Hoàng Hà khoảng năm 2698 TCN. Như vậy, Hiên Viên là dân Mông Cổ rặt, có nước da sáng. Hoàng Đế sau Viêm Đế hơn 300 năm nên về thứ thế, chỉ ngang với với Đế Lai, cháu nhiều đời của Thần Nông. Vào chiếm vùng Trong Nguồn của người Việt (sau đổi thành Trung Nguyên), người Mông Cổ lai giống với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Ban đầu người Mông Cổ gọi người bản địa là “dân đen” – chỉ dân da đen. Sau này do hòa huyết nhiều đời với người Việt, Hoa Hạ cũng thành đen. Chắt của Hoàng Đế là Đế Khốc, tên Việt gốc là Cốc, do nước da đen như con chim cốc. Thành Thang tổ nhà Thương do nước da đen nên có tên Việt là Than, sau đọc trại là Thang. Thương tụng của Kinh Thư gọi là “huyền điểu”. Mãi sau này, Lão Tử cũng có nước da đen bóng của người Việt. Người Hoa Hạ tồn tại và giữ vai trò thống trị tới vương triều Chu. Cuối thời Chiến Quốc, nhà Chu bị diệt, dân Hoa Hạ tan biến trong khối dân Việt đông đúc của vương triều Tần rồi Hán. Tuy nhiên do vinh quang quá khứ của Hoa Hạ nên người Tần Hán dù không dính dáng gì tới máu huyết Hoàng Đế cũng nhận là Hoa Hạ. Do quan hệ huyết thống như vậy nên nói người Trung Quốc là Viêm Hoàng tử tôn chỉ đúng một phần! Rõ ràng, hai bức tượng được dựng theo truyền thuyết. Truyền thuyết là ký ức mơ hồ của cộng đồng, vừa thật vừa ảo, tồn tại tự nhiên trong tâm thức, như con cá bơi trong nước. Cá đưa ra khỏi nước sẽ chết. Một khi biến truyền thuyết thành lịch sử với tượng đồng bia đá, thì cái phần mờ mờ ảo diệu bị tước đi, còn trơ lại những điều không thật nên tượng đồng bia đá thành đồ giả! Bức tượng đồ sộ và trang trọng kia cho thấy, người Trung Hoa chưa thực sự biết tổ tiên họ là ai! Để biết được Viêm Đế và Hoàng Đế là ai đâu phải chuyện dễ dàng, cần sử dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng Hậu Thiên Bát Quái, Tiên Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và các dữ liệu như dưới đây: - Kinh thư. - Kinh thư diễn nghĩa (Lê Quý Đôn). - Lữ Thị xuân thu. - Hoài Nam Tử liệt truyện. - Sử ký Tư Mã Thiên. - Gia phả, thần tích Việt thời Hùng Vương. - Truyền thuyết và huyền thoại Việt và Trung Hoa. - Thần tiên truyện. - Tham khảo tới cổ vật Hạ, Thương, Chu. - Thiên văn, lịch pháp Đông phương. - Chu Dịch. -... Biết được: - Viêm Đế tức Đế Nghi - hành hỏa, phương nam, còn Viêm Đế Thần Nông là ông nội của Đế Nghi, thuộc cấu trúc cao hơn của Bắc và Nam Dương Tử. - Hoàng Đế tức Đế Lai (con trai trưởng của Đế Nghi, cha của bà Âu Cơ) - hành thổ, trung ương. Vậy, sẽ có câu hỏi: Đế Minh truyền cho Đế Nghi làm vua phương Bắc còn Kinh Dương Vương làm vua phương Nam, vậy tại sao Đế Nghi lại là hành hỏa, phương nam? Vậy mới gọi là mật ngữ, mộ của Đế Nghi hiện ở Việt Nam, còn của Đế Lai ở Trung Quốc chứ không chuyển về Việt Nam.
  7. Tôi đọc rồi, rất nhiều, xới tung cả lịch sử thế giới cổ đại lên nữa. Tôi ghi nhận những chú ý về mặt thời gian của các mốc cổ đại quan trọng của nước Văn Lang như sau: - Thời điểm Kinh Dương Vương lên ngôi: 2879 TCN (theo phả hệ, được xem là lúc 30 tuổi). - Kinh Dương Vương là Hùng Vương Thứ Nhất và An Dương Vương là Hùng Vương Thứ 108 - có tất cả 108 vua Hùng tương ứng 18 đời Hùng Vương. - Cha mẹ và tổ tiên của Kinh Dương Vương được ghi chép tới 5 đời trước là kết thúc, thời điểm trước đó không ghi chép sử và gọi chung là thời Tổ Tông - Hồng Bàng. Như vậy, sử Văn Lang chính xác trong khoảng 3050-2950 TCN. Đối chiếu và phân tích: - Đối chiếu tới sử của Ai Cập là cực kỳ quan trọng, bởi vùng phía tây sa mạc nơi chôn cất Pharaohs và người dân hầu hết còn nguyên vẹn, cổ vật vô cùng và phong phú, nhưng sử Ai Cập cũng lờ mờ tại thời gian >2800 TCN. - Đối chiếu với sử Lưỡng Hà: bắt đầu lờ mờ khoảng >2300 CTN. - Ấn Độ cũng tương tự. Đối chiếu với Trung Hoa, Nhật bản, hàn Quốc và Đông Nam Á: - Chỉ duy nhất Trung Hoa rõ ràng tới thời Hạ, Thương, Chu, tức cũng khoảng 2300 TCN, lúc này cần phải đi chi tiết vào văn hóa đá mới, ngọc khí, gốm... từ đó, lại dẫn tới đi chi tiết vào các văn hóa tương tự tại Việt Nam và Nam Dương Tử. Qua đó, thấy rằng lịch sử văn minh nhân loại nhảy vọt khoảng gần 5000 năm trước (do vậy, cuốn sách Nguồn gốc người Việt - người Mường của Tạ Đức là cực kỳ quan trọng, khi chúng ta bỏ quan những nhận định về thiên di...). Nhảy vọt về tri thức: Sự nhảy vọt này được xác định trong khoảng 2700-2300 TCN về nhiều mặt, đặc biệt về thiên văn, lịch pháp, nông nghiệp - đặc biệt là cây lúa. Thời gian đại nhảy vọt này sau thời kỳ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương ước 200 năm. Vũ trụ quan và thế giới quan cổ đại dựa trên thần thánh, tương ứng tới thiên văn, lịch sử... là các nhân vật lịch sử Văn Lang ở trên, do các ngài đã có công truyền bá tri thức đến toàn thế giới. Cái giá trị cao nhất mà các vua Hùng giúp cho thế giới cổ đại và vĩnh viễn cho tới ngày nay, cũng như mai sau đó là: "Đại Đạo chân chính" - hiểu rõ bản chất vũ trụ, đời người và diễn tiến của nó đi đâu, về đâu... Nền văn minh Atlantic: sự trùng hợp về tên gọi Thái Bình Dương là Atlantic, chính là nền văn hóa này chứ không phải trước thời Kinh Dương Vương nhiều nghìn năm. Do vậy, năm 2879 TCN là năm tham chiếu thời gian chính xác cho toàn thế giới. Ghi chú: Lịch sử của các nền văn minh trong các sách hiện nay còn có những mục đích "thần quyền" và "thế quyền" nữa, khi đọc cần chắt lọc một cách logic. Tôi chỉ viết sơ bộ vậy thôi.
  8. Tại Ấn Độ, kinh Veda, theo sử khoảng 1500-500 TCN, còn lịch sử khai quật cổ vật Mohejo-Daro và các vùng tương đương thuộc Afganistan trong khoảng từ 2300-1500 TCN, Sau đó, các thời kỳ đồ đá, đồng và đang khai quật tiếp, do vậy những kết luận "máy bay, vũ trụ..." cách chúng đến hơn... 5000 năm rõ ràng là có vấn đề. Ở Văn Lang, lúc 7000 năm trước, tìm mãi chỉ thấy rìu đá.., và các công cự cực kỳ đơn giản khác.
  9. Còn chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, theo nhà bác học Lê Quý Đôn (không nhớ chắc chắn) thì thờ 2 vị - nhưng không rõ? -> đấy chính là cha mẹ của thạch tiên An Kỳ Sinh, hai người có khả năng tạo lập "đại đồng". Chùa Hoa Yên,Chùa Thiên Trúc &Thiền viện trúc Lâm Yên Tử Quảng Ninh Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, phía Tây thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có đỉnh cao 1068m. Chùa Hoa Yên thường gọi là chùa Cả, tọa lạc trên núi Yên Tử, ở độ cao 516m. Chùa nguyên tên là Vân Yên, do Thiền sư Hiện Quang khai sơn. Ngài là đệ tử nối pháp của Thiền sư Thường Chiếu. Kế tiếp Thiền sư Hiện Quang là Quốc sư Trúc Lâm, Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu, Thiền sư Huệ Tuệ, Đại Đầu Đà Trúc Lâm tức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1299) v.v... Đại Đầu Đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ 6 ở Yên Tử, nhưng đến Ngài, Ngài đã thống nhất các Thiền phái đã có thành một Thiền phái Trúc Lâm nên người đời gọi Ngài là Trúc Lâm đệ nhất Tổ. Ngài cho mở chùa Vân Yên to rộng, tả hữu dựng viện Phù Đồ, lầu chuông trống, nhà dưỡng tăng, nhà khách, dưới sườn núi dựng nhà cửa suốt đến xứ Thanh Lương. Tăng đồ khắp nơi đến nghe giảng yếu chỉ Thiền tông rất đông. Chùa Vân Yên trở thành trung tâm Phật giáo thời bấy giờ. Đến khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), vua Lê Thánh Tông lên thăm chùa, thấy cảnh hoa nở đầy sân, bèn cho đổi tên là Hoa Yên. Trước chùa Hoa Yên có Hue Quang Kim Tháp xây năm 1309, an táng Xá Lợi Trần Nhân Tông, và hơn 40 ngôi tháp lớn nhỏ khác, đều là tháp cổ đời Trần. Hệ thống chùa ở Yên Tử hiện nay đang được trùng tu, xây dựng quy mô lớn : chùa Cầm Thực, chùa Giải Oan, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, chùa Thiên Trúc v.v… Tuyến cáp treo từ chân núi đến gần khu vực tháp Tổ đã hoạt động từ năm 2002. Yên Tử Chùa Thiên Trúc (chùa Đồng) trên đỉnh núi Yên Tử do một bà phi của chúa Trịnh phát tâm cúng dường. Ngôi chùa nhỏ ở dạng một khối đồng hình chữ nhật, cao 1,35m, dài 1,4m, rộng 1,1m, qua thời gian đã hư hỏng nhiều. Ngay 23-10-2005, UBND tỉnh và Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh đã làm lễ khởi công xây dựng lại chùa Đồng hoàn toàn bằng chất liệu đồng với khoảng 70 tấn đồng, diện tích khoảng 20m2 ; chiều cao từ cột nền tới mái là 3,35m, mỗi viên ngói nặng khoảng 4 kg, 4 cột chùa, mỗi cột nặng 1 tấn. Trong Đại lễ khánh thành chùa Đồng ngày 30-01-2007, Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng xác lập kỷ lục : Thiên Trúc Tự - ngôi chùa bằng đồng lớn nhất Việt Nam trước hàng ngàn Chư tôn đức Tăng Ni, quan khách, Phật tử và du khách tham dự. Đường lên Yên Tử Chùa Hoa Yên Thăm chùa Hoa Yên Tháp Huệ Quang Viếng Tháp Tổ Đường lên chùa Đồng Chùa Đồng Đại lễ khánh thành chùa Đồng Thiền viện Trúc Lâm, tức chùa Lân, chùa Long Động, nằm trên đường vào khu danh thắng Yên Tử, cách tỉnh lộ 18 khoảng 10 km, thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ cho khởi công xây dựng lại ngày 15-8-2002 và tổ chức lễ khánh thành ngày 14-12-2002. Đây là nơi trước kia Trúc Lâm đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông làm nơi giảng đạo. Trước sân Thiền viện có đặt một quả cầu Như Ý Báo Ân Phật bằng đá hoa cương đỏ (rubi), đường kính 1.590 mm, trọng lượng 6,5 tấn, được lấy tại mỏ đá An Nhơn (Quy Nhơn). Quả cầu đặt trên một bệ đá granit có tiết diện vuông, nặng 4 tấn, bọc bên ngoài là bể nước hình bát giác với tám bồn hình cánh hoa bao quanh tượng trưng cho Bát Chánh Đạo. Quả cầu do nhóm Phật tử Minh Hạnh Túc phát tâm cúng dường, được Công ty TNHH Hà Quang thi công trong 18 tháng. Lễ cúng dường được tổ chức vào ngày 06-7-2005 (01 tháng 6 năm At Dậu). Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục : Quả cầu Như Ý lớn nhất Việt Nam. Toàn cảnh Thiền viện Trúc Lâm Lễ hội Yên Tử bắt đầu ngày 10 tháng giêng (âm lịch) kéo dài đến hết tháng ba. Ca dao có câu : Trăm năm tích đức tu hành, Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu. Hiện nay mỗi năm, có khoảng cả triệu Tăng Ni, Phật tử và du khách về tham quan Khu di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng này ở Quảng Ninh. Di tích Trúc Lâm - Yên Tử đã được báo Sài Gòn Tiếp thị (số 16, ngày 28-4-2005) công bố là 1 trong 10 điểm du lịch hành hương được du khách hài lòng nhất năm 2005. Chánh Điện thờ Phật tại TV Trúc Lâm Điện thờ Trúc Lâm Tam Tổ Quả cầu Như Ý Báo Ân Phật Về thăm Yên Tử Đại biểu Phật giáo Toàn quốc về thăm Yên Tử Đặc biệt, Khu di tích danh thắng Yên Tử còn thường xuyên đón tiếp Chư tôn đức Tăng Ni lãnh đạo Phật giáo trong nước và các nước trên thế giới. Ngày 14-12-2007, hàng ngàn Chư tôn đức Tăng Ni, quan khách và Phật tử cả nước về Hà Nội dự Đai hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI đã về thăm Yên Tử. Ngày 17-5-2008, đã có hơn 1.000 đại biểu, trong đó, hơn 160 đại biểu Quốc tế đến từ hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cùng khoảng 7.000 Phật tử trong cả nước đến Hà Nội dự Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (Vesak 2008) đã hành hương về chốn thiêng Yên Tử để chiêm bái và làm lễ cầu nguyện hòa bình, an lạc, hữu nghị cho nhân loại. Và ngày 27-11 năm nay, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh chuẩn bị tổ chức Đại lễ kỷ niệm 700 năm ngày mất của đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông với quy mô hoành tráng, trang nghiêm tại Khu danh thắng tâm linh quan trọng Yên Tử, Quảng Ninh Tư liệu THÁP HUỆ QUANG Thờ Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm. Pháp danh : Hương Vân Đại Đầu Đà. Đạo hiệu : Trúc Lâm Đại Sỹ. Sanh vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (năm 1258). Hiển Phật : Đêm 03 tháng 11 năm Mậu Thân (năm 1308). Trụ thế : 50 năm. Sự nghiệp tu hành : Là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng Thái Hậu. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử. Từ nhỏ, Ngài đã được lĩnh hội tư tưởng Thiền tông từ ông nội Trần Thái Tông và người cậu Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung nên rất mộ đạo Phật. Trong lần về Yên Tử cùng vua cha (năm 1279), Ngài đã ngỏ ý xin ở lại Yên Tử để tu hành. Trở về kinh, vua Trần Thánh Tông vội cử Lễ Truyền ngôi cho Ngài, khi ấy Ngài tròn 21 tuổi. Trong 14 năm trên cương vị Hoàng đế, Ngài đã hai lần trực tiếp lãnh đạo toàn dân đánh thắng giặc ngoại xâm (năm 1285 và năm 1288), xây dựng cơ nghiệp nhà Trần được hưng thịnh. Đến năm Quý Tỵ (năm 1293), Ngài truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Thuyên rồi lui về Thiên Trường, chuyên tâm giảng cứu kinh sách Phật. Ở lứa tuổi 35, trí lực sung mãn, Ngài tập trung xây dựng một hệ thống giáo lý mới mẻ của đạo Phật dân tộc. Năm Ất Mùi (năm 1295), Ngài thực tập xuất gia ở hành cung Vũ Lâm (Gia Khánh, Ninh Bình) và có ý định tu ở đó. Tháng 8 năm Kỷ Hợi (năm 1299), Ngài rời Vũ Lâm, chính thức xuất gia về Yên Tử tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm, xây dựng Yên Tử trở thành Trung tâm của Phật giáo Đại Việt. Từ lúc xuất gia, Ngài được rảnh rang lo việc Đạo, Ngài đã đi khắp nơi trong nước để giảng giải cho chúng dân hiểu rõ và làm theo "Mười Điều Thiện" của đạo Phật. Ngài có công phát hiện và bồi dưỡng các tài năng có học vấn. có giới đức, xứng đáng là người Thầy tâm hồn của chúng dân. Đến năm Mậu Thân (năm 1308), tại chùa Siêu Loại, đức Điều Ngự tổ chức long trọng Lễ Truyền đăng trao Y Bát cho Thiền sư Pháp Loa kế vị làm Tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm, rồi hiển Phật vào đêm mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (năm 1308). Tháp xây dựng vào năm Kỷ Dậu (năm 1309), niên hiệu Hưng Long thứ 17, trong lăng Quy Đức, để quàn Xá Lợi đức Điều Ngự, tên gọi là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. (Bài văn bia tại tháp Huệ Quang, Yên Tử, Quảng Ninh) Bài và ảnh: Võ Văn Tường
  10. Trên đỉnh Yên Tử (Quảng Ninh), đoạn từ chùa Vân Tiêu đi lên chùa Đồng có một pho tượng đá mình bám đầy rong rêu, hình dáng giống một vị pháp sư đang cung kính lần tràng hạt, mặt hướng về phía Tây. Tương truyền đây chính là tượng đá An Kỳ Sinh (còn có tên gọi khác là Yên Kỳ Sinh) – một vị đạo sỹ nổi tiếng dưới thời Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, từng qua đỉnh Yên Tử tìm cây thuốc để luyện linh đan rồi hóa đá. Sự thật về tượng đá này cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Tượng đá hình đạo sỹ Tượng đá An Kỳ Sinh tọa lạc trên một khoảng đất khá rộng, cách tháp 7 tầng mới, điểm dừng chân cuối cùng của tuyến cáp treo Hoa Yên – Yên Tử khoảng 200m. Đây cũng chính là đoạn cao nhất trong dãy Yên Tử - nơi được mệnh danh là “non thiêng đệ nhất danh thắng”. Là tượng đá xanh nguyên khối, lại đứng giữa đất trời hàng nghìn năm nên trên mình tượng An Kỳ Sinh bám đầy rong rêu. Thoạt nhìn, tượng là một khối đá tự nhiên, giống dáng một vị sư khoác áo chùng thâm, hai tay đang lần tràng hạt, mặt hướng về phía Tây như đang hướng về đất Phật. Không ai biết “nhà sư” đứng như thế ở đây từ bao giờ, chỉ biết rằng ngài đứng ở đây thanh thản giữa đất trời, tà áo bay trong gió như một sự hiện hữu đầy lạ kỳ. Người dân khi đi qua pho tượng đều dừng lại thành kính thắp hương để cầu xin sức khỏe. Quan sát kỹ thì thấy tượng được dựng đứng trên một khối đá hình nấm, dưới chân tượng được cố định bằng xi măng. Trước mặt tượng được xây một bệ thờ ba bậc, bằng xi măng. Bậc trên cùng của bệ thờ đặt một bát hương bằng đá, có nhiều họa tiết hoa văn rất cổ kính, hai bậc giữa và cuối cũng bám đầy rong rêu và đã bị bào mòn bởi thời gian. Bên phải tượng An Kỳ Sinh có một bệ thờ nhỏ, đắp bằng xi măng. Không ai biết đích xác đó là bệ thờ ai, chỉ nghe tương truyền đó là bệ thờ một trong hai vị đệ tử của đạo sỹ An Kỳ Sinh từng theo ông học đạo trên vùng núi Yên Tử này. Bên trái tượng có một biển bằng xi măng cắm trên một cột bê tông hình chữ nhật, nét chữ khắc lõm phết sơn vàng ghi: “Tượng An Kỳ Sinh – di tích có giá trị, đã được xếp hạng bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm”. Theo PGS Nguyễn Duy Hinh – người đã từng bỏ rất nhiều tâm sức và thời gian để nghiên cứu về nhân vật An Kỳ Sinh và pho tượng đá kỳ lạ này thì thì trước đây, khu di tích này là một quần thể gồm một tượng đá đứng và hai ngôi mộ hình chữ nhật có núm nhô lên như hình hoa sen, đắp cao khoảng hơn 10cm. Xung quanh có kè đá che chắn khá kiên cố. Nhiều người dân ở đây cho hay, đó chính là tượng An Kỳ Sinh và hai ngôi mộ của hai học trò từng theo ông học đạo. Tượng tuy có hình dạng giống người nhưng lại không phải là đá mọc tự nhiên mà là do con người dựng- Chính vì thế dưới chân tượng mới có nhiều khối đá lớn như bệ để giữ cho tượng không bị đổ. Nếu quan sát kỹ sẽ thấy ở phần ngực tượng có một khung hình chữ nhật khắc lõm và một số vết khắc chữ Hán, qua năm tháng có thể đã bị mờ. Theo phỏng đoán của PGS Hinh thì đó có thể là ngày xưa khi đặt tượng người ta đã khắc tên An Kỳ Sinh như một cách “yểm tâm tượng” thường thấy trong dân gian. Đó cũng chính là dấu vết của một sự gia công của người sau. Gần tượng xưa còn có động Dược am và Thung am (am thuốc và am luyện thuốc) tương truyền là nơi đạo sĩ An Kỳ Sinh và các học trò luyện thuốc trường sinh. Một điều rất lạ là đoạn từ tháp 7 tầng đi lên chùa Đồng, đoạn nào cũng dốc, đá núi lởm chởm thì chỗ đặt tượng thờ An Kỳ Sinh lại bằng phẳng mặc dù rộng chưa đầy 100m2. Theo nhiều người bán hàng ở đây cho biết, chỉ duy nhất ở đoạn này, trên hành trình lên chùa Đồng không bao giờ xảy ra cảnh chen lấn, xô đẩy. Khi đi qua đoạn này, du khách thập phương thường kiên nhẫn đứng lại, chờ đến lượt mình được vào lễ bái chứ không tranh giành nhau như ở chùa dưới. Nhiều người cho rằng An Kỳ Sinh là một vị đạo sĩ chuyên luyện thuốc cứu người nên khi đi qua đây người đi chùa thường lấy một tờ tiền mới, chà lên mình tượng để cầu sức khỏe. Nhiều người dân còn đồn thổi: Có người khi mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa đã đến đây lập đàn cúng tế, xin cho bệnh tật tiêu tan, tai qua nạn khỏi đã rất linh ứng (?!). An Kỳ Sinh từng đặt chân đến Yên Tử? Từ trước đến nay, nhiều người vẫn tin rằng tượng đá kỳ lạ này chính là hiện thân của An Kỳ Sinh nhưng không ai biết An Kỳ Sinh là người nước nào và vì sao ông lại đến Yên Tử? Cũng có người từng đưa ra giả thiết: An Kỳ Sinh không phải là đạo sĩ mà là một vị thiền sư, sau khi đi truyền đạo đến Yên Tử thấy cảnh sắc nơi đây hùng vĩ liền dừng chân lập am hành đạo. Chính vì thế mà người ta lấy tên ông để đặt tên cho cả dãy Yên Tử này (Theo sách An Nam Chí của Cao Hùng Trưng, núi Yên Tử ban đầu có tên là Tượng Đầu sơn). Còn theo PGS Nguyễn Duy Hinh thì ông đã từng tìm hiểu rất nhiều sách vở và tài liệu cổ của Việt Nam lẫn Trung Hoa để lần tìm dấu vết của An Kỳ Sinh, song đây là một nhân vật có hành tung “ẩn tàng” khá ly kỳ. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà sử học Phan Huy Chú có dẫn bài thơ “Thủy văn tùy bút” của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Bài thơ này có nhắc đến Yên Kỳ Sinh như một vị tiên giả từng tu luyện linh đan trên đỉnh cao nhất của Yên Tử. Như vậy, ngay từ thời Trần trên núi Yên Tử đã có di tích An Kỳ Sinh, đó là một bằng chứng thực tế có thể tin tưởng được và như vậy có nghĩa là pho tượng đã này có tuổi đời khá lâu trước đó. Về nguồn gốc của vị đạo sỹ họ Yên này, PGS Hinh cho biết, theo sách “Liệt tiên truyện” của Trung Quốc thì Yên Kỳ Sinh là người Phụ Hương ở Lang Gia (vùng Chư Thành, tỉnh Sơn Đông ngày nay), chuyên bán thuốc ven biển Đông Hải, người bấy giờ gọi là Thiên Tuế Ông. Tần Thủy Hoàng đi tuần phương Đông đã từng nói chuyện với ông rồi tặng ông kim hoàng cùng ngọc bích. Không hiểu sao sau đó ông bỏ lại số quà tặng quí báu này trong đình Phụ Hương rồi để lại một bức thư, một đôi giày bằng xích ngọc để báo đáp và dặn Tần Thủy Hoàng mấy năm sau hãy đến tìm ông ở núi Bồng Lai. Theo lời dặn, mấy năm sau Tần Thủy Hoàng sai Từ Thị (Từ Phúc), Lô Sinh đem mấy trăm người ra biển tìm ông nhưng chưa đến núi Bồng Lai thì gặp bão nên phải quay về. Tần Thủy Hoàng cho lập hơn 10 chỗ thờ ông ở đình Phụ Hương và ven biển Đông Hải. Nhà Tần mất, ông ở cùng người bạn thân là Khoái Thông. Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ từng mời ông ra làm quan, ông bèn đi nơi khác, không biết chết ở đâu. Trong một số thư tịch và sử liệu khác của Trung Hoa còn có thêm chi tiết, Yên Kỳ Sinh đã từng tìm được cây thạch xương bồ để cứu một người qua cơn thập tử nhất sinh và cũng chính nhờ uống loại cây kỳ diệu này mà trở nên trường sinh bất tử, sống đến nghìn năm. Cũng theo PGS Hinh thì trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Việt Nam từng nhắc đến loại cây thạch xương bồ (tương truyền là một loại kỳ dược, có thể chữa được bách bệnh) mọc khá nhiều trên đỉnh núi các vùng Sơn Tây (Hà Tây), Tam Dương và Lập Thạch (thuộc vùng đất Quảng Ninh và Phú Thọ ngày nay). Như vậy, khả năng Yên Kỳ Sinh từng tìm đến Yên Tử để tìm cây thạch xương bồ cứu người hoặc luyện linh đan, sau đó ở lại nơi đây tu luyện là có thể xảy ra. “Thêm vào đó, dười thời Tần Hán con đường giao thương giữa Giao Châu với các miền ven biển Đông Hải khá thuận lợi. Những di tích khảo cổ học thời Ân Thương ở Quảng Đông và Việt Nam đã chứng tỏ mối quan hệ khó tưởng giữa hai nước. Cho nên, khả năng Yên Kỳ Sinh theo đường biển, vượt biên giới đến Yên Tử vào thứ kỷ III trước CN để tìm cây thuốc chữa bệnh cứu người hoặc tìm một vùng đất thiêng để luyện linh đan là có thể chấp nhận” – PGS Hinh cho biết. Về pho tượng đá An Kỳ Sinh, PGS Hinh từng nhận định rằng đây là một di tích ngoài trời mang tính dân gian, hoặc do môn đệ của Yên Kỳ Sinh lập nên hoặc do nhân dân tạo dựng để dánh dấu sự có mặt của Yên Kỳ Sinh và môn phái của ông trên đỉnh núi này. “Còn việc chỉ có mộ của học trò mà không có mộ của ông, có thể lý giải do Yên Kỳ Sinh là tiên nên bay lên trời chứ không chết nên không có mộ. Hoặc cũng có thể môn đồ của của ông đến đây luyện linh đan rồi chết, mộ của họ còn đó và bên cạnh là tượng thờ tổ sư” – PGS Hinh nói. Hà Tùng Long Yên Kỳ Sinh có hẹn 2.000 năm sau sẽ gặp lại Tần Thủy Hoàng, và ông để lại một đôi hài màu đỏ làm tin. Tại sao lại đôi hài màu đỏ? Nếu xem lại tục cúng 12 Bà Mụ khi đầy năm của trẻ sơ sinh người Việt thì phải làm 1 đôi hài màu đỏ và 12 đôi hài màu xanh -> mang ý nghĩa kết thúc chu kỳ cũ 12 cung Hoàng đạo và bắt đầu một chu kỳ mới và "giờ đã đến hẹn lại lên". An Kỳ Sinh chính là vị tiên Lữ (Lý) Đồng Tân, đang được thờ ở đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm. Hà Nội. Còn chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, theo nhà bác học Lê Quý Đôn (không nhớ chắc chắn) thì thờ 2 vị - nhưng không rõ? -> đấy chính là cha mẹ của thạch tiên An Kỳ Sinh, hai người có khả năng tạo lập "đại đồng".
  11. Hệ mặt trời đã đi vào cung độ của chòm sao Giác (4 ngôi sao tạo nên hình Thánh giá đầu vòng trong Thần đạo Ai Cập - chiếc xương sống của thần chết Osiris) năm 2013 chứ không phải 2012 (định vị lại theo Việt lịch - Âm lịch): bắt đầu một mùa xuân vũ trụ, tức mùa xuân của Thiên cầu chu kỳ 25.920 năm. Giác: có nghĩa là "giác ngộ" một cách trọn vẹn, đầy đủ về ý nghĩa bản chất vũ trụ, đời sống con người và vạn vật. Sao Giác hay Giác Tú (tiếng Hán: 角宿) là tên gọi của một trong hai mươi tám chòm sao cổ đại Đông phương (Nhị thập bát tú). Nghĩa đen của nó là "sừng rồng" và con vật tượng trưng là cá sấu (Giác Mộc Giao). Nó là một trong 7 chòm sao thuộc về Thanh Long ở phương Đông, tượng trưng cho Mộc của Ngũ hành và mùa xuân. Ngày nay, người ta xác định được nó nằm trong khu vực có hai ngôi sao của chòm sao Thất Nữ là α Virginis (hay Spica), được gọi là Giác Tú 1 hoặc Thiên Môn và ζ Virginis, được gọi là Giác Tú 2. Nên xem lại! Chòm sao Thanh Long phương đông Sừng của con Rồng trong cổ vật thời Hạ, Thương, Chu thể hiện rõ ràng. Con Rồng dùng sừng húc tung đất đáy vực ở biển sâu mà nó đang ẩn mình trong 2.160 năm và bay thẳng lên không trung. Cổ vật thời Thương Hai chiếc sừng Rồng thời Thương cũng là biểu tượng của dãy núi Hindu Kush ở Afganistan.
  12. Lục Bạch có thuộc tính Âm Kim đới Thủy - tạo sao lại như vậy, khi trên Hà đồ là Âm Thủy. Vấn đề này chưa logic bởi vì sự thay đổi chỉ diễn ra trong một cung Âm Thủy, cho nên theo tôi, thuộc tính sao Lục Bạch vẫn chính là là Âm Thủy. (Mật ngũ hệ thiên văn lớn hơn mặt trời là thay đổi vùng tương giao, 1 vùng hay vài vùng, với sao Nhị Hắc Âm Hỏa đới Thổ?) Rõ ràng, quy luật phi tinh này đã vượt ra khỏi hệ mặt trời, với chu kỳ 9 năm, 81 lượt thay đổi của chín cung Hà đồ. Do cung mệnh của một đứa trẻ nam và nữ được quy ước theo Huyền không phi tinh, sau hình thành nên bộ môn Bát Trạch, nhưng đã chưa xét đến người mẹ sinh ra chúng tại năm phi tinh đó và người cha của đứa trẻ này, đây là mắt xích nhận định về quy tắc dùng Huyền không trong tiên tri, Thuận hay Nghịch? Trong Đông y, có một nguyên lý phổ quát gọi là "quy tắc mẹ sinh con - mẹ tròn con vuông" tức tính thuận quy luật bao trùm của tự nhiên, "nữ thuận còn nam nghịch tự nhiên" câu này tôi đã đọc đâu đó trong sách phong thủy hay lý học rồi. Vậy thì, khi muốn tiên tri cho một ngôi gia, vùng miền, quốc gia... sẽ áp dụng "Phi tinh thuận" tức tương đương áp dụng cho "nữ". Khi tiên tri cho toàn cầu, tất nhiên cũng không ngoại lệ, tuy nhiên vị trí trung cung đặt ở đâu trên trái đất? Nơi mà cân bằng Âm Dương, bắc và nam bán cầu, chính là đường xích đạo vuông góc với trục quay của trái đất, và cần xét đến các yếu tố đặc trưng khác: - Lục địa và đại dương. - Núi và sông trên địa cầu. - Vùng có sinh tụ động vật (tiền thân của con người), con người, các trung tâm văn minh. Xác định được, đó là vùng đất "Giao Chỉ". Đây chỉ là nhận xét cá nhân!.
  13. Phương pháp Huyền không phi tinh theo Trung Tâm Lý Học Đông Phương dựa trên Hà đồ là chuẩn xác. Trên cở sở này và tính hợp lý của mọi vấn đề và các hiện tượng liên quan đến Lý học Đông phương, Phong thủy Lạc Việt đã ứng dụng trong phương pháp Huyền Không Lạc Việt phi tinh. Phương pháp phi tinh theo Huyền Không Lạc Việt khác trên Lạc Thư từ cổ thư chữ Hán được so sánh trên đồ hình sau: Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng: Sư khác biệt giữa Huyền Không lạc Việt với Huyền Không trong cổ thư chỉ ở các phương vị phía Nam của Hà Đồ. Đây cũng là khác biệt chủ yếu của phương pháp Huyền Không Lạc Việt khi phi tinh, còn tất cả mối quan hệ phân tích tương quan các sao trong Huyền không và các mối tương quan khác và phương pháp luận trên cơ sở thuyết Âm Dương Ngũ hành không thay đổi. Tính chất của cửu tinh: - Số 1: Nhất bạch Tham lang: Là cát tinh đứng đầu. * Âm dương, ngũ hành: Dương thuỷ - Số 2: Nhị hắc Cự môn: là sao xấu, hung. * Âm dương, ngũ hành: Âm hoả đới thổ. - Số 3: Tam bích Lộc tồn: Là sao xấu. * Âm dương, ngũ hành: dương mộc. - Số 4: Tứ lục Văn xương: là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: âm kim. - Số 5: Ngũ hoàng Liêm trinh: Là sao xấu nhất, còn gọi là đại sát tinh. * Âm dương, ngũ hành: Thổ - Số 6: Lục bạch Vũ khúc: Là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: Âm kim đới thuỷ. - Số 7: Thất xích Phá quân: Là sao xấu. * Âm dương, ngũ hành: Dương hoả. - Số 8 : Bát bạch Tả phù: Là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: Âm mộc. - Số 9: Cửu tử - Hữu bật: là sao trung tính. * Âm dương, ngũ hành: Dương kim. Trong thuộc tính Cửu Tinh, chúng ta có những vấn đề: - Lục Bạch có thuộc tình Âm Kim đới Thủy - tạo sao lại như vậy, khi trên Hà đồ là Âm Thủy. - Thuộc tính Cửu Tinh phi trên Hà đồ khi đã chọn chủ thể nhận tượng tác và từ đó luận giải tốt, xấu: vậy phải chăng chúng ta quy ước trước cho các sao nào là tốt, xấu là chưa hợp lý? Nếu ví dụ tiên tri cho Việt Nam năm 2014: năm nay Thái tuế chiếu phương Nam (dựa theo Phi tinh thuận) thì tốt hay xấu nhiều... cùng Ngũ Hoàng, Nhị Hắc ở các cung khác...
  14. CHUYỆN KHỔNG TỬ VÀ HẠNG THÁC Tuhai.vn Một lần, Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo chu du khắp các nước. Đến một vùng nọ thấy có chú bé lấy đất đắp một tòa thành, rồi ngồi vào trong đó, Khổng Tử liền hỏi: “Này cháu, cháu trông thấy xe ta đi tới cớ sao không chịu tránh?” Chú bé trả lời: “Cháu nghe người ta đồn rằng, Khổng Phu Tử trên thông Thiên Văn, dưới tường Địa Lý, giữa hiểu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không phải vậy. Bởi vì từ xưa đến nay, chỉ nghe nói đến chuyện xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe đâu?”. Khổng Tử ngạc nhiên quá, liền hỏi: - Cháu tên là gì? - Dạ Hạng Thác - Năm nay cháu bao nhiêu tuổi? - Dạ, 7 tuổi ạ. - Mới 7 tuổi mà đã khôn ngoan vậy sao? - Dạ thưa, cháu nghe nói, con cá nở được 3 ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ sang hồ kia. Con thỏ 6 ngày tuổi đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra đến nay đã được 7 tuổi, lấy gì làm khôn? Lần này thì Khổng Tử thật sự kinh ngạc, bèn đưa ra liền 16 câu hỏi khó để thử tài Hạng Thác. Thế nhưng Hạng Thác đã trả lời trôi chảy, rồi nói: - Vừa nãy Khổng Phu Tử hỏi cháu nhiều quá. Bây giờ, cháu xin hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt nổi trên mặt nước? Tại sao chim hồng, chim hộc lại kêu to? Tại sao cây tùng, cây bách lại xanh cả mùa hè lẫn mùa đông? Khổng Tử đáp: Con ngỗng, con vịt nổi được trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông làm phương tiện. Chim hồng, chim hộc kêu to, là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc. - Thưa, không đúng! Hạng Thác reo lên - con rùa nổi lên mặt nước, đâu có phải nhờ đôi bàn chân vuông làm bàn đạp. Con ễnh ương kêu to mà cổ nó đâu có dài. Cây trúc cũng xanh bốn mùa, mà ruột nó rỗng đấy thôi. Khổng Tử chưa biết giải thích ra sao, thì chú bé lại hỏi: - Thưa Phu Tử, cho phép cháu hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ? Khổng Tử nói: - Là vì buổi sáng, mặt trời gần ta hơn. - Không phải ạ! Hạng Thác vặn lại. Một lần, Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo chu du khắp các nước. Đến một vùng nọ thấy có chú bé lấy đất đắp một tòa thành, rồi ngồi vào trong đó, Khổng Tử liền hỏi: “Này cháu, cháu trông thấy xe ta đi tới cớ sao không chịu tránh?” Chú bé trả lời: “Cháu nghe người ta đồn rằng, Khổng Phu Tử trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không phải vậy. Bởi vì từ xưa đến nay, chỉ nghe nói đến chuyện xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe đâu?”. Khổng Tử ngạc nhiên quá, liền hỏi: - Cháu tên là gì? - Dạ Hạng Thác - Năm nay cháu bao nhiêu tuổi? - Dạ, 7 tuổi ạ. - Mới 7 tuổi mà đã khôn ngoan vậy sao? - Dạ thưa, cháu nghe nói, con cá nở được 3 ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ sang hồ kia. Con thỏ 6 ngày tuổi đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra đến nay đã được 7 tuổi, lấy gì làm khôn? Lần này thì Khổng Tử thật sự kinh ngạc, bèn đưa ra liền 16 câu hỏi khó để thử tài Hạng Thác. Thế nhưng Hạng Thác đã trả lời trôi chảy, rồi nói: - Vừa nãy Khổng Phu Tử hỏi cháu nhiều quá. Bây giờ, cháu xin hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt nổi trên mặt nước? Tại sao chim hồng, chim hộc lại kêu to? Tại sao cây tùng, cây bách lại xanh cả mùa hè lẫn mùa đông? Khổng Tử đáp: Con ngỗng, con vịt nổi được trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông làm phương tiện. Chim hồng, chim hộc kêu to, là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc. - Thưa, không đúng! Hạng Thác reo lên - con rùa nổi lên mặt nước, đâu có phải nhờ đôi bàn chân vuông làm bàn đạp. Con ễnh ương kêu to mà cổ nó đâu có dài. Cây trúc cũng xanh bốn mùa, mà ruột nó rỗng đấy thôi. Khổng Tử chưa biết giải thích ra sao, thì chú bé lại hỏi: - Thưa Phu Tử, cho phép cháu hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ? Khổng Tử nói: - Là vì buổi sáng, mặt trời gần ta hơn. - Không phải ạ! Hạng Thác vặn lại Buổi sáng mặt trời gần ta hơn, sao lại mát, còn buổi trưa mặt trời xa ta hơn, sao lại nóng? Rồi Hạng Thác lý sự một hồi, khiến Khổng Tử phải thốt lên: - Cháu còn ít tuổi mà lại thích hỏi những chuyện xa xôi, viễn vông, ở tận đẩu tận đâu, chuyện trước mắt thì không hỏi. Hạng Thác cười khanh khách nói: - Vâng, cháu xin hỏi chuyện ngay trước mắt ngài: Vậy lông mày của Phu Tử có bao nhiêu sợi ạ? Khổng Tử không đáp, sai người đánh xe đi, và than rằng: “Hậu sinh khả úy!”. Câu “hậu sinh khả úy” ra đời từ đấy. Hạng Thác mất năm 10 tuổi, được lập đền thờ, gọi là Tiểu Nhi Thần, nghĩa là Thần Nhi Đồng, gọi tắt là thần đồng. Chữ “thần đồng” cũng có từ ngày đó. Bình: Đại gia nọ vốn ít chữ, nhờ mánh mung mà nhanh chóng phất thành tỉ phú, giàu có nổi tiếng một vùng. Tuy tiền bạc, của nả chẳng thiếu nhưng vị đại gia vẫn mặc cảm mình chỉ là kẻ trọc phú ít học. Bởi thế ông ta quyết chí tầm sư cho con mình trở thành thiên tài để khoe khoang với thiên hạ. Nghe đồn, muốn thành tài phải vào học những trường có tiếng, phải lựa chọn những thầy tên tuổi nâng đỡ kèm cặp, vị đại gia nọ bèn sắm sinh lễ vật lên đường tìm thầy giỏi, chọn trường hay cho con. Đại gia đi mãi, hết thành phố này đến thành phố khác vẫn chưa chọn được những lão sư có khả năng đào tạo thiên tài. Đang lúc mệt mỏi, vị đại gia nọ bỗng gặp một ông già quắc thước, râu tóc bạc phơ, tướng mạo tựa tiên ông, đại gia vội kể lể mục đích chuyến đi và nhờ ông lão chỉ đường đi tìm thầy giỏi. Ông lão cả cười hỏi: "Ông muốn con trai thành thiên tài, vậy có biết thiên tài học thầy nào không ?". Đại gia lúng túng một lúc rồi thưa: "Các danh sĩ tài năng như Lý Bạch, Đỗ Phủ đều theo học các danh gia từng là học trò của học trò thầy Khổng Tử như Tử Lộ, Tử Cống ạ". "Thế Tử Lộ, Tử Cống học ai ?". Đại gia nọ kiêu hãnh bảo: "Tất nhiên Tử Lộ, Tử Cống học giáo sư thiên tài là thầy Khổng Tử rồi". Ông lão vuốt chòm râu bạc hỏi tiếp: "Thế thầy Khổng Tử học ai ?". Đại gia nọ luống cuống không biết trả lời ra sao, bèn nói bừa: "Thầy Khổng là bậc Thánh nhân, cần gì phải học ai !". Ông lão ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Người đời lầm to. Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, con trai của Khổng Thúc Lương Ngột, là người chứ không phải thánh. Khổng Tử từng vái Hạng Thác tôn làm thầy". Nghe tới đó vị đại gia nọ mừng quá reo to: "Vậy lão hãy chỉ đường để tôi gặp thầy Hạng Thác, xin thầy dạy con tôi thành thiên tài như Khổng Tử, mất bao nhiêu tiền tôi cũng theo !". Ông lão mỉm cười bảo: "Được thôi, ta sẽ giúp ông gặp Hạng Thác. Nhưng ta nói trước, Hạng Thác chỉ là đứa trẻ bảy tuổi chưa biết chữ. Sở dĩ đức Khổng Tử tôn Hạng Thác làm thầy bởi ngài muốn đề cao đức khiêm tốn học hỏi cho người đời". Vị đại gia nghe ông lão nói vậy, tức giận thét lên: "Lão đừng có lừa tôi ! Tôi nhiều tiền, nhất định sẽ mời được thầy Hạng Thác về dạy con tôi thành thiên tài". Khổng Tử Bái Sư 孔子拜师的故事 - Đạo Giáo Việt Nam 越南道教
  15. Trong một năm vào mùa hè thì trái đất ở vị trí xa mặt trời và vào mùa đông thì trái đất lại ở gần mặt trời, đây là một thách đố của hiện tượng thiên văn, bởi vì lời giải thích là do trục nghiêng của trái đất so với mặt phẳng Hoàng đạo! Câu trả lời chưa đầy đủ và thực chất không rõ ràng, bởi chúng ta chỉ cần xê dịch một khoảng vi động thì trục trái đất vẫn xem như không đổi nhưng nhiệt độ thay đổi hay trái đất đủ nhỏ nằm trong trường nhiệt độ của mặt trời, do vậy cần một lời giải thích khác. Căn cứ vào thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mùa hè là trường khí Hỏa và mùa Đông là trường khí thủy -> tạo nên kết quả của bốn mùa. Tuy nhiên, có thể nhận thấy vào mùa hè trường khí thủy này áp đảo nhiệt độ của mặt trời so với mùa đông? vậy nguồn phát ra hành thủy hay nhiệt lạnh này từ quy luật của hệ thiên văn nào và nó nằm ở đâu trong không gian - so với Hệ mặt trời? Tại sao ta không cảm thấy trái đất chuyển động? Mỗi giây, trái đất vượt được chặng đường 30 km quanh mặt trời. Đó là chưa kể tới việc nó tự quay quanh mình với tốc độ ở đường xích đạo là 465 mét/giây. Chuyển động trái đất Vậy mà có vẻ như trái đất đang đứng yên, trong khi chỉ cần ngồi lên xe, bạn sẽ thấy xe lao đi nhanh chóng mặt. Trở lại với một tình huống thường gặp: Khi đi thuyền trên sông, bạn sẽ thấy thuyền lướt rất nhanh, cây cối và mọi vật hai bên bờ cứ trôi qua vùn vụt. Nhưng khi đi tàu thủy trên biển rộng, trước mắt là trời biển xanh biếc một màu, chim hải âu trông xa như một đốm trắng lơ lửng trên không trung, lúc đó, bạn sẽ cảm thấy tàu thủy đi quá chậm, mặc dù tốc độ của nó hơn hẳn tốc độ thuyền trên sông. Vấn đề chính là ở chỗ đó. Khi đi thuyền, cây cối hai bên bờ sông không di chuyển mà chính là thuyền di chuyển. Nếu cây cối ven bờ lao đi càng nhanh, chứng tỏ tốc độ của thuyền càng lớn. Nhưng trên biển rộng không có gì làm mốc để ta thấy tàu đang đi nhanh. Bởi thế bạn thấy nó lướt đi rất chậm, thậm chí có lúc đứng yên. Trái đất như một chiếc tàu khổng lồ trong không gian. Nếu bên cạnh quỹ đạo của nó cũng có những vật mốc như cây cối bên bờ sông, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy trái đất đang chuyển động. Nhưng ở gần trái đất, tiếc thay, lại không có vật gì làm chuẩn. Chỉ có những vì sao xa tít tắp giúp ta thấy được trái đất thay đổi vị trí theo ngày, tháng mà thôi. Các vì sao này ở quá xa, nên trong một thời gian ngắn mấy phút, mấy giây, chúng ta rất khó cảm nhận thấy trái đất đang chuyển dịch. Còn về việc trái đất tự quay quanh nó với tốc độ khá nhanh, chúng ta và mọi vật ở trên đó cũng đang quay với cùng một tốc độ, bởi vậy chúng ta không cảm nhận được chuyển động này. Nhưng các bạn chớ quên rằng, hàng ngày, chúng ta nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao mọc đằng đông và lặn đằng tây, đó chính là kết quả của việc trái đất tự quay quanh mình nó.
  16. Rất phức tạp khi phân tích cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái phối đối tượng nhận tương tác tức chủ thể quán xét trong các phương pháp cổ Đông phương, từ hoạch Quái gồm 8 Quái được lấy làm biểu tượng cho các đặc trưng tương tác có quy luật, cho nên chúng ta cần xem xét lại các yếu tố quan trọng khác có liên quan, đó là bộ ba khái niệm: Hình - Lý - Khí trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Để giải quyết vấn đề, chúng ta cần xem lại một số quy ước Âm Dương trong phong thủy cho các thành viên của một gia đình đang sống: Hậu Thiên Bát Quái sau khi đổi chỗ Tốn Khôn (chuẩn) Tứ Quái Dương trên Hậu Thiên Bát Quái: Khôn, Ly, Tốn, Đoài biểu tượng cho nữ giới. Tứ Quái Âm trên Hậu Thiên Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn biểu tượng cho nam giới. Qua đó, nhận thấy rằng: sự vật, hiện tượng nhận thức được Dương (Hình tượng) như lửa, kim loại, ban ngày... thì dùng làm biểu tượng cho Âm - với cái Lý của Âm động như lửa rất động, nhưng kim lại tịnh hơn do phải quán xét tổng thể "không - thời - vị" tương ứng Âm Dương Ngũ Hành trong hệ tương tác như mặt trời chẳng hạn. Ngựợc lại, hiện tượng nhận thức được Âm (Hình tượng) như nước, cây xanh, bóng tối... thì dùng làm biểu tượng cho Dương - với cái Lý của Dương tịnh. Đến đây nhận ra rằng: Bát Quái là quy ước cho Tượng Hình (ẩn trong nó là Lý, Khí), chẳng hạn phương hướng cũng là sự vật, hiện tượng được nhận biết, ít nhất là thông qua kim chỉ Nam. Đối với núi sông, địa hình thì nơi núi cao mang hình thế Âm chứa lý Dương - ứng với người nữ. Còn địa hình thấp trũng hay vùng biển thì rõ ràng mang hình thế Dương chứa lý Âm - ứng với người nam. Như đã phân tích, người nữ sống phù hợp với quy luật tự nhiên còn người nam thì ngược lại -> cho nên, mới thấy trong lịch sử cổ kim người đàn ông hùng hục đi tìm "Đạo". Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu: Đối với Khí, cần xem xét tới quy luật bốn mùa xuân - hạ - thu - đông của tự nhiên và trạng thái cưỡng bức, ví dụ như đặt một lò lửa cạnh một người thì cảm thất rất nóng và cần tránh xa do ảnh hường của nhiệt độ cao tức tương tác nhiệt từ lò lửa tới chủ thể. Vậy, khí chính là tương tác của sự vật, hiện tượng có quy luật hoặc cưỡng bức từ ý đồ của khách thể nào đó tới chủ thể xác định. Về mặt bản chất, Khí cũng chính là vạn vật trong vũ trụ, khí nhẹ thì bay lên khí đục thì tụ xuống thành "Hình tượng". Quy luật vận động của Khí chính là Lý, Hình - Lý - Khí không tách rời nhau và sẽ được quy ước một cách có hệ thống trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành như đã trình bày một phần cực nhỏ ở trên. Theo quy luật, thì chỉ có Khí của Âm Dương Ngũ Hành mà thôi (Khí Âm - Dương; khí Ngũ Hành; Khí Âm Dương Ngũ Hành), chẳng hạn mùa xuân có trường khí Mộc đi tới làm cho vạn vật trên mặt đất sinh sôi phát triển, đấy là do tương tác biểu kiến từ mặt trời tới trái đất (tất nhiên trong tổ hợp hệ mặt trời...). Tuy nhiên, khi triển khai chi tiết Khí Âm Dương Ngũ Hành sẽ biến hóa thành các trạng thái sự vật, hiện tượng như quyền, tiền, tình, buồn, vui, sướng, khổ... (hóa khí, hóa vật, hóa sinh - người). Khí đục tụ xuống thành vạn vật, thành hình và chúng sẽ trở thành một cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành và vận động theo những nguyên lý chung và riêng, nhưng tựu trung tuân thủ theo Hà đồ - Lạc thư và nhận tương tác quy luật như mùa xuân mô tả trên theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (Lạc thư ẩn - vì khi xét Đông y thì có hệ kinh mạch quy ước "Khí" theo Lạc thư) và Tiên Thiên Bát Quái. Đối với Số Hóa như độ số của Hà đồ và Lạc thư, đây là những quy luật Số được khám phá ra bởi cổ nhân, cũng như các sơ đồ hay công thức Dịch, Độ Số này cũng ăn khớp một cách tương ứng với luật Âm Dương Ngũ Hành - cần xem xét cực kỳ cẩn thận, nếu chúng ta sa vào "ma trận" Số - Sơ đồ Dịch... như đối xứng qua tâm Hà đồ hay Lạc thư là tổng 15 hay...! mà chưa rõ đến Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ, Lạc thư, Hình - Lý - Khí thì sẽ "tẩu hỏa nhập ma" trong tương lai gần - đó là điều chắc chắn. Chúng ta cũng nên chú ý biểu tượng Bát Quái của Tiên Thiên và Hậu Thiên, đây là cấu trúc hoạch quái siêu đẳng và được đối chiếu quy luật vận động vận vật mới ra được, có thể hiệu là sự chồng vạch Âm Dương tự thân nó đã tuân thủ và thể hiện tính quy luật Âm Dương thăng giáng và cần phân tích chi tiết hơn nữa về chính biểu tượng này. Hậu Thiên Bát Quái được chồng quái thành Chu Dịch - công thức và ý nghĩa Dịch là sự tổng hợp cuối cùng các phương pháp Đông phương như phong thủy, tử vi... bởi nó mang thêm tính "Tiên tri" - tức đã vượt ra khỏi chiều kích của các phương pháp nói trên, ngay cả Đông Y, hay có thể hiểu là "kết quả của sự phản ứng từ toàn thể vũ trụ ngay lập tức tới sự vật, hiện tượng cần quán xét".
  17. Để giải quyết vấn đề quy ước Hậu Thiên Bát Quái cho một vị trí xác định trên Trái đất (thông qua la kinh phong thủy) hay ngay cả cho chính Trái đất thông qua Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu (thông qua trục bắc - nam địa lý hay trục quay của trái đất), chúng ta cần tìm được mối liên hệ giữ chúng với vạn vật như thực vật, động vật và con người (Hà đồ phối Lạc thư) và đặc tính tương tự từ trường của nam châm, tức từ sự định vị phương hướng qua kim chỉ Nam. 24 sơn hướng của la kinh phong thủy - Trục bắc nam (Tý Ngọ) gọi là trục định vị Tại một vị trí trên trái đất, khi đặt la kinh thì sẽ nhận biết được 8 hướng thông qua kim chỉ Nam tức định hướng được một trục mà trong cổ thư gọi là "trục định vị", hay an vị được Hậu Thiên Bát Quái, nhưng tại sao lại định hình như vậy?: - Từ sự vận động của trái đất tự quay và xung quanh mặt trời (mặt trời chính Ngọ...), ... - Từ sự nhận biết địa hình sơn thủy và các trạng thái vật chất phân bố trên mặt đất và trong lòng đất, từ hai cực và khu vực xích đạo. - Từ sự phát triển thực vật và động vật, con người: xuân sinh, hạ trưởng, thu bế, đông tàng. - Từ kết quả nghiên cứu từ trường của nam châm và sự vận động của nam châm sinh ra trạng thái "điện", con người cũng có trạng thái này như "người nam châm". Bản đồ thế giới "Người nam châm" đang dùng bụng hút tấm nắp capo xe có 1 thanh niên đang đứng ở trên Cho nên, bất kỳ một vị trí nào trên trái đất và ngay cả trái đất đều định vị được "thuộc tính Bát Quái của vị trí" hay "8 phương hướng tương tác tới vị trí", cho nên Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu là chính xác. Chỉ có một điểm chú ý , đó là độ lệch Từ thiên khi phối Địa cầu cần hiệu chỉnh so với trục quay trái đất. Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu: Mặt khác, khi nghiên cứu tới vạn vật trên trái đất, có sự khác biệt rõ rệt với "vị trí xác định trên địa cầu", nó vận động theo công thức Hà đồ phối Lạc thư, đồng thời tuân thủ quy tắc "sinh, trưởng, bế, tàng" và "mộc, hỏa bốc lên - kim, thủy giáng xuống" do vậy, công thức Hà đồ và Lạc thư phải bài trí quy ước chuẩn "hỏa trên thủy dưới". Hà đồ với thủy dưới, hỏa trên (không quan tâm đến các Quái ở trong mỗi ô) Qua các bài viết trước, chúng ta nhận thức Hậu Thiên hay Tiên Thiên Bát Quái là công thức tương tác tới một chủ thể đã xác định, ở đây là vị trí trên trái đất hay chính trái đất, hoặc một con người. Bởi vì nguyên do con người được lấy làm chủ thể tương tác là chính, do vậy Hậu Thiên Bát Quái khi tương tác tới con người sẽ tương ứng với Hà đồ - Lạc thư ở trên, tức thủy dưới, hỏa trên. Như vậy, có hai sự khác biệt ý nghĩa đó là Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu và Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ (Lạc thư ẩn) -> tức là công thức Hậu Thiên bát Quái cổ là chính xác, bởi dựa trên chủ thể là con người. Hậu Thiên Bát Quái cổ sau khi đổi chỗ Tốn Khôn (chuẩn) Trong những tiến trình phân tích cực kỳ phức tạp và tinh vi như vậy, quan trọng nhất là cổ nhân đã nhận biết được trục định vị bắc - nam ứng thủy - hỏa là nguồn cội tương tác (Âm Dương vũ trụ). Đồ hình xích đạo trái đất Giả mã Thiên Cực - Thiên Hoàng Đại Đế: - Dữ liệu thiên văn Đông phương. - Dữ liệu Đạo giáo. - Dữ liệu văn hóa, lịch sử... Việt Nam. - Tiên Thiên Bát Quái của Phục Hy -> Tất nhiên, Hậu Thiên Bát Quái là Thần Nông. Thiên Hoàng Đại Đế chính là vua Phục Hy, đặc trưng Âm Dương, có thể hiểu là tâm Thiên Hà (dải Ngân Hà của chúng ta). Người rắn Hình vẽ Nữ Oa và Phục Hy đầu người mình rắn đào được ở Tân Cương. trong đó Nữ Oa cầm com-pa ("quy" 規), Phục Hy cầm ê-ke ("củ" 矩). Chiếc đỉnh trầm có con sự tử hý cầu trên nắm chiếc đỉnh, đây là biểu tượng kỵ vật của vua Thần Nông - hành Thổ trung tâm. Về phương pháp ứng dụng cổ, để hiểu ý nghĩa của Huyền Không Phi Tinh (tương tác từ ngoài Hệ mặt trời) với chu kỳ vận động của chín sao (đặc trưng thuộc tính tương tác) 9 năm phải đi từ Độn Giáp trước, cùng nguyên lý "nữ phi thuận nam phi nghịch" - đây là do đối đãi Âm Dương của Nam Nữ và quy tắc "Mẹ Con" của vũ trụ - được áp dụng phổ biến trong Đông Y.
  18. Trong quá trình phân tích, vấn đề quan trọng nhất nảy sinh đó chính là Kim chỉ nam dùng để định vị phương hướng bắc - nam của một khu vực nhất định, độ lệch hướng giữa góc bắc - nam theo từ tính sẽ lệch với trục quay trái đất tức bắc - nam địa lý một góc nào đó, gọi là độ lệch Từ thiên. Ví dụ về độ từ thiên có giá trị dương khi kim nam châm lệch về phía đông so với bắc địa lý. La bàn hiện đại định vị theo phương bắc, còn kim chỉ Nam định vị theo phương nam vì ngày xưa cổ nhân dùng loại sắt từ luôn chỉ về phương nam. Chiếu theo thiên văn phương bắc ứng chòm Đại Hùng và phương nam ứng chòm Thập Tự thì khi dùng kim chỉ nam trong la kinh phong thủy là tương đương, chúng ta kiểm tra lại các bộ môn phong thủy như Bát Trạch là chính xác. Như vậy, bắc - nam định vị bằng mắt theo thiên văn của các chòm sao trên Hoàng đạo cũng sẽ là bắc - nam của trục quay trái đất. La kinh quy ước hướng Tý - "0 độ" và "Ngọ - 180 độ" (chỉ tham khảo quy tắc phân độ) Vậy thì, phương hướng la bàn hay "Bát Quái Hậu Thiên đặt trên mặt đất" có mối quan hệ chặt chẽ đến quy luật Âm Dương Ngũ Hành, tức điểm định vị gốc tại mặt đất (gốc quy chiếu) có mối tương quan đến không gian và thời gian trong các nguyên lý chung. Khi nói đến Hậu Thiên Bát Quái là nói đến biểu đồ thể hiện tương tác có quy luật từ ngoài trái đất tới "vạn vật trên trái đất cụ thể là con người - xã hội", mà chúng đang vận động theo nguyên lý "Hà đồ phối Lạc thư", các đặc trưng của mỗi con người tương ứng với Bát Trạch được xác định cụ thể qua Huyền không Phi Tinh năm: nữ phi thuận nam phi nghịch. Điều này cho thấy, có mối quan hệ rất biện chứng giữa thuộc tính nam nữ và Bát Quái (Tây Đông tứ trạch) và vị trí bất kỳ trên trái đất -> có một mắt xích ở đây: Đó là "thuộc tính của con người -Đông Tây tứ trạch" không phụ thuộc tương tác từ vũ trụ định hình nên thuộc tính "vị trí xác định trên trái đất - Bát Quái đặt tại tâm điểm một ngôi nhà nào đó, hoặc...". Sau khi xác định như trên về cực bắc - nam của trái đất và ứng dụng Bát Trạch (từ trường trái đất), chúng ta sẽ thấy một cách hợp lý thì hướng bắc - đông và nam - tây sẽ giống như minh họa dưới đây là hợp lý. Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu: Sự minh họa trên sẽ có sự "mâu thuẫn" với định hướng của Hậu Thiên Bát Quái cổ văn khi "nam ở trên và bắc ở dưới", đồ hình minh họa dưới đây. Ghi chú: Tiên Thiên Bát Quái như đã phân tích là trường khí xoay quanh trục Thiên Hoàng Đại Đế - trục Thiên đỉnh vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo và trường khí Trái đất. Sự mâu thuẫn này nói lên "thuộc tính khu vực trái đất" có mối quan hệ như thế nào đối các hệ thiên văn như hệ mặt trời, hệ thiên hoàng 25.920 năm... và chính con người là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hánh vận động theo Hà đồ - Lạc thư? Trong một sự nhấn mạnh rằng: quy ước này không phụ thuộc vào vạn vật trên trái đất mà phụ thuộc vào quy luật tương tác của các hệ thiên văn. Đặc biệt, chính nó cũng không phụ thuộc vào Huyền Không Phi Tinh như nói ở trên mà chỉ phụ thuộc vào sự định vị phương hướng Bát Quái la bàn hay kim chỉ Nam mà thôi, tức hướng gốc Thiên Cực hay Thiên Hoàng Đại Đế đã viết ở bài trước. Ở đây chưa nói đến cấp độ quan trọng giữa Bát Trạch và Tử vi, bởi Tử vi tiên tri cho một đời người chứng tỏ nó vượt qua Bát Trạch hàm nghĩa vượt qua Huyền Không phi tinh về mức độ tương tác, cũng có thể hiểu là tương tác từ hệ thiên văn lớn hơn. Thiên bàn Tử vi Vậy thì, chính chúng ta phải xác định cho được quy ước Bát Quái trên trái đất hay tại một vị trí bất kỳ trên trái đất: bắc bán cầu, nam bán cầu... qua chính các tượng hình của trái đất và sự phân tích công thức Hà đồ - Lạc thư của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là chính trái đất - tức thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành của các lớp cấu trúc trái đất. Đồng thời, nên xem xét cấu trúc của sao Mộc - Âm Mộc của Hệ mặt trời và Mặt trăng là một vệ tinh của Trái đất - Âm Thủy của hệ chính là Trái đất. Cũng cần chú ý, trong một năm vào mùa hè thì trái đất xa mặt trời và mùa đông trái đất gần mặt trời, đây là thách đố tại sao vậy của hiện tượng thiên văn? Các tầng của Trái Đất Mặt cắt của Trái Đất từ tâm đến thổ quyển. Độ sâu[58] km Các lớp Mật độ g/cm3 0–60 Thạch quyển (5)[h] — 0–35 ... Lớp vỏ (6) 2,2–2,9 35–60 ... Phần trên cùng của manti trên (4) 3,4–4,4 35–2890 Quyển manti (3)&(4) 3,4–5,6 100–700 ... Quyển mềm — 2890–5100 Lõi ngoài (2) 9,9–12,2 5100–6378 Lõi trong (1) 12,8–13,1 (Tầng thạch quyển quy ước chiều dày không hợp lý, nó còn phải mở rộng bao trùm cả vệ tinh Mặt trăng nữa) Trái đất. Trái đất Hình giản đồ cấu trúc bên trong Mặt Trăng Minh họa mô hình cấu trúc bên trong của Sao Mộc, với một lõi đá phủ bởi những lớp vật chất lỏng dày của hiđrô kim loại.
  19. Như vậy, trường khí Tiên Thiên vận động trong cột sống con người, thông qua các luân xa mà phân phối "trường khí Hậu Thiên" đi tới các cơ quan như lục phủ ngũ tạng, ý nghĩa nguyên lý "Dương tịnh Âm động" và "Dương trong Âm ngoài" vẫn còn chính xác. Điều này lại khẳng định một lần nữa mặt trời trong Hệ mặt trời sẽ tuân thủ các nguyên lý trên tức mặt trời là Dương thổ và trái đất là Dương Mộc. Trong hệ thiên văn Hoàng đạo, hướng bắc được định hướng theo các chòm sao Thiên cực bắc và ngược lại là hướng nam, như vậy nó tương ứng với Tiên Thiên Bát Quái khi mà quái Càn - Âm Thủy hướng trên và quái Không - Âm Hỏa ở phía dưới, nhận định này theo tên gọi của các chòm sao thiên văn như Bắc Cực, Nam Cực, Bắc Đẩu... Khi định vị hướng bắc nam trên trái đất, chúng ta dùng la bàn hiện đại hay la kinh phong thủy Đông phương, la bàn hiện đại có "kim chỉ hướng bắc làm chuẩn" trong khi đó la kinh phong thủy lại có "kim chỉ nam" - tức khi xác định từ trường của một khu vực địa hình. Mặt khác, sự định vị bằng la bàn được áp dụng chung cho cả bắc và nam bán cầu, theo khoa học thì đường sức của từ trường ra bắc vào nam, chúng ta hãy xem biểu đồ dưới đây, có sự khác biệt giữa tên gọi địa cực và từ cực (tham khảo trên mạng) hay là sự đảo chiều kim chỉ nam khi đặt bắc và nam bán cầu. Kim màu đỏ chỉ hướng nam - còn màu trắng chỉ hướng bắc. Tiếp tục xét Hậu Thiên bát Quái, thì hướng nam trên bắc dưới, đảo ngược lại so với Tiên Thiên Bát Quái, đây là đặc tính từ trường khu vực hay đơn vị so với toàn thể trái đất, ý nghĩa này sẽ giống như mỗi một con người. Nếu xét nguyên lý Hà đồ phối Lạc thư cho mỗi con người, thì đặc trưng Hỏa bốc lên và Thủy giáng xuống chứng tỏ Hậu Thiên Bát Quái - Tương tác tới con người tương ứng với Hà đồ tức nam trên bắc dưới. Vậy khi xét tính toàn thể của trái đất, chúng ta thấy bắc bán cầu có hình thế bên ngoài vỏ trái đất có núi cao nhất chiếm diện tích lớn và nam bán cầu thì ngược lại, quán xét thì tây bắc có núi cao còn đông nam có biển sâu, còn đối với con người khi đối đãi nam - nữ thì "Âm nhô cao Dương trũng thấp" - tướng nhô cao (núi) Âm thì thuộc tính Dương, tướng trũng thấp (đầm nước) Dương thì thuộc tính Âm, theo quy ước dựa trên "thuộc tính Âm Dương" thì phương bắc mang thuộc tính Dương và ngược lại, do vậy bắc phù hợp với nam giới và nam với nữ giới. Vấn đề quy ước này sẽ tương đương với hành Thủy trên Hà đồ ở phía dưới và hành Hỏa trên Hà đồ ở phía trên. Hà đồ và Lạc thư với độ số quy ước phương bắc dưới và nam trên Do vậy, "Thủy - Mộc là quy ước Dương" và "Kim, Hỏa là quy ước Âm" theo trạng thái Hậu Thiên - khi có vạn vật hữu tình và cây xanh trên trái đất xuất hiện. Nội là bên trong, dương còn Ngoại là bên ngoài, âm Từ đó, nảy sinh quy ước "Âm trên Dương dưới", những vấn đề phân tích trên cũng cần phải xem xét lại một lần nữa khi so sánh một lần nữa với các phương pháp cổ khi ứng dụng Hậu Thiên Bát Quái, bởi vì khi xoay đồ hình thế nào ứng dụng vẫn được là do quy ước đã hợp lý.
  20. Từ lý giải khí Tiên Thiên chính là trường khí ban đầu tương tác giữa Trái đất và Không gian, trong đó Không gian nếu được xem là từng phân lớp của Tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành hay cho toàn bộ Vũ trụ? Đây là một câu hỏi, chẳng hạn phải chăng đó là trường khí từ Hệ mặt trời, Hệ Hoàng đạo... Vậy thì, chúng ta cần xem lại sự vận động của Trái đất, vì đây là trường khí Âm so với trường khí Dương Không gian ở bên trên so với vị trí gốc Trái đất. Đồ hình: Như vậy, chúng ta có một kết luận cực kỳ quan trọng: đó là trường khí từ Thiên giáng xuống chính là từ Vũ trụ vô cùng vô tận, nó vận động xoáy trôn ốc chung quanh một tâm Thiên Cực - THIÊN HOÀNG ĐẠI ĐẾ. Tất nhiên, trường khí Địa là từ Trất đất tạo ra thăng lên phía trên, đây chính là hai trường khí Tiên Thiên tương tác, mà chúng ta thường gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Thiên Hoàng Đại Đế này có phải là Ngọc Hoàng Thượng Đế Hay không? hay là một vị có cấp độ cao hơn một cấp, nhận định này dùng từ nguồn tại liệu cổ nào? Trường khí Thiên giáng là trường khí áp đặt "lệnh", mạnh hơn trường khí Địa thăng lên: điều này hàm nghĩa Thiên - Dương và Địa - Âm tức các trường khí Thiên (Càn, Đoài, Ly, Chấn) sẽ là Dương và ngược lại (Khôn, Cấn, Khảm, Tốn) sẽ là Âm. Và đặc biệt, Càn - Âm Thủy, Khôn - Âm Hỏa. Vậy tại sao trên Tiên Thiên Bát Quái cung Khôn lại là Âm Hỏa còn cung Càn lại là Âm Thủy? Tất nhiên chúng phải tương ứng với Hậu Thiên Bát Quái về mặt thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành!. Đồng thời, Tiên Thiên Bát Quái ứng dụng vào việc gì trong khi đó chỉ thấy nói đến Dịch Phục Hy tức Dịch triển khai từ Tiên Thiên Bát Quái - có đúng không?
  21. Liên quan đến Tiên Thiên Bát Quái chúng ta cần ghi nhận những vấn đề lịch sử: - Các nhân vật lịch sử thời Hùng với được lấy biểu tượng thông qua Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (Lạc thư ẩn) và Tiên Thiên Bát Quái, tuy nhiên do sự thay đổi phượng vị giữa chúng cho nên các biểu tượng sẽ có thể của cùng 2 nhân vật. - Tiên Thiên Bát quái được lý giải từ các hiện tượng trên không trung và dưới mặt đất của trái đất (hành Dương Mộc trong Hệ mặt trời), nó thể hiện sự tương tác của hai trường khí Âm Dương: giữa Trái đất và Không gian - Không gian này có thể là Hệ mặt trời, Hệ Hoàng đạo, vũ trụ lớn... Như vậy, hệ quả là Hậu Thiên Bát Quái sẽ lý giải tương tác tới các hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người tức là nói đến vạn vật trên trái đất. Qua đó, chúng ta thấy rõ khi nắm bắc được ý nghĩa tổng thể của Tiên Thiên Bát Quái thì sẽ hiểu rõ ràng hơn vai trò Hậu Thiên Bát Quái. - Hậu Thiên Bát Quái là các quy luật tương tác tới vạn vật trên trái đất, và Tiên Thiên Bát Quái cũng không ngoại lệ nhưng lại là cái có trước tức trường khí Âm - Trái đất và Dương - Không gian tương tác tới con người, theo sau đó là Hậu Thiên khí vận động. - Từ sự lý giải Tiên Thiên Bát Quái chúng ta cần chú ý tới sự việc: vòng tuần hoàn của nước. - Để lý giải Tiên Thiên khí, chúng ta sẽ phải nghiên cứu Đông Y, tức "khí Hậu Thiên" chạy trong kinh mạch, huyệt vị... và các luân xa trong cột sống của mỗi con người tức "khí Tiên Thiên", trong Đông Y quy ước ngược "Dương động Âm tịnh". Lúc này, lục phủ ngũ tạng chính là cấu trúc Hậu Thiên tiếp nhận trường khí Hậu Thiên và tất nhiên, chúng sẽ là Âm so với kinh mạch Dương, còn các Luân xa sẽ là Dương so với kinh mạch Âm. - Trong quá trình phân tích không được quên mỗi con người là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, vận động theo cấu trúc Hà đồ - Lạc thư. - Khi lý giải Tiên Thiên Bát Quái thì chúng ta sẽ nhận biết pháp môn Yoga không phải có nguồn gốc từ Ấn Độ hay bất kỳ một nền văn hóa nào trên thế giới thời thượng cổ, ngay cả khi Ấn Độ khai quật được tượng thần Shiva đang tọa thiền khoảng 2300-1500 TCN hay cổ vật Ai Cập thể hiện các luân xa trên cột sống như biểu tượng chìa khóa của sự sống Ankh khoảng 2600 TCN, lý do là chúng không thể xác định được nguồn gốc học thuyết về khí công mà chỉ nói lên ứng dụng hoặc nói về các kết quả nhận biết sau khi đạt được một số công năng mà thôi. Chẳng hạn một ví dụ, đồ hình dưới đây biểu tượng cho các vị thần của Ấn Độ giáo tương ứng, nhưng do không hiểu lịch sử thần linh trong tôn giáo cổ và học thuyết khí công nên quy ước đó là sai hoàn toàn, như vị trí của thần Shiva, Vishnu, Brahman hay một vị nữ thần nào khác nữa như nữ thần mẹ Shakti chẳng hạn. Tham khảo đồ hình:
  22. Vài tháng trở lại đây, câu chuyện rắn lục đuôi đỏ xuất hiện ồ ạt, bất thường ở nhiều tỉnh miền Trung như Nghệ An, Thanh Hóa, Đà Nẵng... đã và vẫn đang thành chủ đề nóng, khiến cho nhà nhà lo lắng. Đây là loài rắn duy nhất đẻ con, sau khi đẻ hết con trong bụng rắn lục mẹ chết ngay sau đó, điều đó chứng tỏ rằng rắn lục đuôi đỏ là loài rắn đã có sự tiến hóa cao hơn các loài rắn khác. Sự kiện hệ mặt trời vượt qua cung Song Ngư đi vào cung Bảo Bình, kết thúc một chu kỳ "vũ trụ" trên thiên cầu 25.920 năm, bắt đầu cho một kỷ nguyên Dương mới 12.960 năm đã làm phát triển sự sinh sôi của loài rắn nhạy cảm này. Chúng ta không biết khi nào chúng sẽ tiến hóa cao hơn, chẳng hạn rắn mẹ sẽ đẻ con nhưng không chết nữa. Rắn lục đuôi đỏ xuất hiện nhiều do thiếu thức ăn Môi trường sống bị thay đổi có thể là một trong những nguyên nhân khiến rắn lục đuôi đỏ xuất hiện nhiều thời gian qua ở các địa phương. Rắn lục đuôi đỏ liên tục cắn người trong khu dân cư / Rắn lục đuôi đỏ xuất hiện nhiều ở Thanh Hóa Thời gian gần đây, rắn lục đuôi đỏ xuất hiện ngày càng nhiều ở các địa phương như Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Nghệ An... và đặc biệt nguy hiểm khi chúng bò vào nhà cắn người. Giải thích hiện tượng trên với VnEpxress, Chủ tịch Hội động vật học Đặng Huy Huỳnh đưa ra hai khả năng. Thứ nhất, trong quá trình vận chuyển buôn bán của nhóm đối tượng nào đó, rắn đã xổng ra ngoài. Thứ hai là do môi trường sống thay đổi, rắn không còn thức ăn nên phải tìm kiếm ở khu vực khác. "Tình trạng phá rừng khiến rắn không còn nơi trú ẩn và thức ăn, chúng có thể vào nhà dân, nơi có chuột, ếch, côn trùng để tìm kiếm thức ăn và để ẩn nấp", giáo sư Huỳnh nói và cho biết, rắn thường chui vào gầm giường vì chúng ưa bóng tối và mát mẻ. Đồng quan điểm, tiến sĩ Lê Nguyên Ngật (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) cũng cho rằng, rắn lục xuất hiện ở khu vực nhà dân có thể do thức ăn của chúng đã cạn kiệt. "Rắn lục đuôi đỏ thường không gây nguy hiểm cho con người. Chúng không bao giờ chủ động cắn người mà chẳng may ai đó đụng vào chúng sẽ bị cắn", ông Ngật nói. Để tránh rắn lục đuôi đỏ, ông Nguyễn Quảng Trường (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) khuyên, người dân nên dọn dẹp sạch sẽ, phát quang bụi rậm. Khi bị rắn cắn, người bị thương nên dùng garo vải không dùng garo cao su và đưa tới bệnh viện gần nhất. "Rắn lục đuôi đỏ không phải loại rắn cực độc có thể gây chết người ngay như các loài cạp nong, cạp nia hay hổ mang, vì vậy việc sơ cứu ban đầu là rất cần thiết", ông Trường nói. Còn theo giáo sư Huỳnh, rắn sống thường sống và tìm kiếm thức ăn vào ban đêm, nên người dân cần đóng cửa kín khi ngủ, không nên nằm ở nền đất ẩm; bên cạnh đó, cần chú ý đến khu vực bể nước, nơi ẩm ướt, gầm giường. Các gia đình có thể dùng chó để đuổi rắn. "Khi thấy rắn, mọi người chỉ cần dùng que, gậy để xua đuổi, chứ không nên bắt, giết chúng vì rắn lục đuôi đỏ sẽ không tấn công nếu không bị đe dọa; đồng thời cũng là để bảo tồn đa dạng sinh học của loài này", giáo sư Huỳnh cho hay. Rắn lục đuôi đỏ tên khoa học là Trimeresurus albolabris có ở hầu hết dải đất Việt Nam. Chiều dài thân con đực 600 mm, con cái 810 mm. Thân của chúng tròn, có các vảy gồ lên. Đầu và thân chúng có màu xanh lá cây, cằm, cổ họng và bụng màu xanh lục nhạt hay trắng vàng nhạt. Loài này thường thích sống ở vùng đồi núi có độ cao dưới 400 m, trong các khu rừng thường xanh, đầm lầy hay các khu đất nông nghiệp. Thức ăn của chúng là chuột, chim, thằn lằn và ếch. Chúng ở trên mặt đất và ban đêm và nghỉ ngơi trên cây vào ban ngày. Hương Thu
  23. Y HỌC PHƯƠNG ĐÔNG : TÌM HIỂU NHỮNG CẤU TRÚC TÂM LINH TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH TẬT ::: ĐỖ ĐỨC NGỌC ::: Mục lục : I-Nguyên nhân bệnh : 1-Tắc tuần hoàn khí 2-Tắc tuần hoàn huyết 3-Tắc tuần hoàn tiêu hóa II-Cấu trúc vật chất và tâm linh Thể xác, phách, vía, hồn, thần, ý, trí III-Phân biệt tâm bệnh 1-Thần làm hại khí 2-Khí làm hại huyết 3-Tinh-Khí-Thần 4-Ngũ nguyên IV-Những hiện tượng liên quan đến y học 1-Chữa tổn thương thể phách 2-Rối loạn thể phách 3- Rối loạn thể vía 4- Rối loạn thể hồn 5- Rối loạn thể thần 6-Rối loạn thể ý 7-Rối loạn thể trí 8-Rối loạn thể thượng trí V-Những hiện tượng siêu hình 1-Xuất hồn 2-Liên lạc thể ý giữa cõi sống và chết 3-Cái chết đến như thế nào 4-Ranh giới giữa sống và chết 5-Nhập xác 6-Tái sinh VI-Thể thần với hệ nội dược VII-Thể thần với các luân xa I.NGUYÊN NHÂN BỆNH : Theo y học hiện đại, nhờ vào những xét nghiệm y khoa trong việc khám và chẩn bệnh, chúng ta mới biết được nguyên nhân hầu tìm ra cách chữa trị có hiệu qủa. Tuy nhiên đa số các bệnh đều là tổn thương thực thể, có những kết qủa xét nghiệm bất bình thường so với tiêu chuẩn mẫu mực. Ngược lại, có những bệnh không tìm ra được nguyên nhân vì các kết qủa xét nghiệm y học đều bình thường, trong trường hợp ấy chúng ta không rõ nguyên nhân, cho là bệnh tâm lý thần kinh. Nếu không biết cách chữa, một thời gian sau có biến chứng làm tổn thương thực thể rõ ràng, lúc đó việc chữa trị lại khó khăn hơn. Đối với y học phương đông, tìm nguyên nhân bệnh không dựa vào kết qủa xét nghiệm y khoa bằng máy móc dụng cụ, mà dựa vào quy luật khí hóa ngũ hành của tạng phủ (nguồn gốc của dịch y đạo), giống như dựa vào bảng tiêu chuẩn mẫu mực của Tây y, để so sánh giữa hai tình trạng khỏe và bệnh. Khí hóa ngũ hành của tạng phủ là những biến đổi trong cơ thể tạo ra những chu kỳ tuần hoàn của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn tim mạch, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ miễn nhiễm, hệ nội tiết, hệ thần kinh… thộng qua các tạng phủ và các chức năng riêng mà nó đảm nhận. Khi tất cả các sự biến đổi trong con người được điều hòa tốt, gọi là sự khí hóa chính thường, thì con người được khỏe mạnh, còn sự khí hóa bất thường làm mất quân bình sự khí hóa chung của tổng thể thì con người bị bệnh, do đó phải truy tìm nguyên nhân. Có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân bên ngoài cơ thể và nguyên nhân bên trong cơ thể. : Nguyên nhân bên ngoài gồm nguyên nhân chủ quan như va chạm tổn thương, môi trường sống và làm việc, do ăn uống, ngủ nghỉ không đúng cách… nguyên nhân khách quan ảnh hưởng do sự tuần hoàn của vũ trụ tác động bởi mặt trời và nước biển tạo ra khí hậu, thời tiết, mùa màng, cây cỏ, vạn vật để nuôi dưỡng con người bị khác thường không phù hợp. Đó là do ảnh hưởng khí hóa của vũ trụ. Nguyên nhân bên trong là sự khí hóa của tiểu vũ trụ để nuôi dưỡng tế bào, tác động bởi hai yếu tố tâm-thận. Tâm thuộc hỏa giống như mặt trời, Thận thuộc thủy giống như nước biển. Tim mạch và hơi thở tạo ra nhiệt năng tác động lên thận tạo ra sự tuần hoàn bên trong gọi là sự khí hóa tạng phủ. Vũ trụ và tiểu vũ trụ tạo ra sự tuần hoàn đều đặn nhờ vào sự biến đổi của hai yếu tố thủy-hỏa (âm-dương) để khí hóa, do đó đông y gọi là thiên nhân đồng nhất thể. Dù do nguyên nhân nào làm cho sự khí hóa bất thường sẽ không nuôi dưỡng tế bào, mà còn làm hại tế bào gây ra bệnh tật. Đông tây y cùng quan điểm, nhưng tây y tìm nguyên nhân qua xét nghiệm, đông y tìm nguyên nhân theo khí hóa. Theo đông y, có 4 loại khí hóa bất thường gây ra bệnh gọi là sự tắc tuần hoàn. : 1-Tắc tuần hoàn khí : Không bị tổn thương thực thể, xét nghiệm không thấy, nhưng vẫn có hậu qủa của nó như mạch đập đều nhưng mạnh hơn hay yếu hơn, chỗ mạnh hơn, chỗ yếu hơn khi bắt mạch.. làm cho nhức đầu, chóng mặt, đau nhức phong tê thấp, chậm tiêu hóa, mệt mỏi.. chỗ đau không nhất định.. 2-Tắc tuần hoàn huyết : Có tổn thương thực thể, đau nhức một chỗ cố định như huyết tụ, máu bầm, sung huyết não, tắc nghẽn mạch, huyết khô hóa vôi làm thoái hóa xương khớp… 3-Tắc tuần hoàn tiêu hóa : Thức ăn chứa lâu trong bao tử và đường ruột do tiêu hóa chậm sẽ hóa nhịêt độc gây táo bón, tiêu chảy, loét bao tử, tiểu đường, hoặc phát sinh vi khuẩn, sán lãi, vi trùng… thấm vào máu thành bệnh nhiễm trùng… 4-Tắc tuần hoàn tâm sinh lý : Do thói quen, phong tục tập quán về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, tư duy, cố chấp, bảo thủ, thành kiến, tánh tình vui, buồn, giận, lo sợ, xúc động, tích cực, tiêu cực, tánh khí bất thường…..có ảnh hưởng đến sức khỏe như vui qúa làm thần kinh hưng phấn tim mạch sẽ đập mạnh, vui qúa hóa điên dại mất lý trí, buồn hay thở dài hại phổi ( một trong những nguyên nhân ung thư vú của phụ nữ), giận qúa làm cơ gân co rút hại gan, tục ngữ có câu giận bầm gan tím ruột, lo qúa ăn mất ngon hại tỳ vị, sợ vãi đái hại thận ảnh hưởng thần kinh…Tắc tuần hoàn tâm sinh lý cũng không xét nghiệm được trực tiếp, chỉ khi nào do tình trạng bệnh kéo dài làm tắc tuần hoàn chuyển từ tắc khí sang tắc huyết làm tổn thương thực thể mới xét nghiệm được. Lý do biến đổi tâm sinh lý lại tùy thuộc vào mỗi người mỗi khác có liên quan đến cấu trúc tâm linh trong cơ thể nó tác động vào cấu trúc vật chất ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cho nên phương pháp chữa bệnh của đông y liên kết được cả hai phần vô hình và hữu hình qua sự khí hóa ngũ hành của tạng phủ. II. CẤU TRÚC VẬT CHẤT VÀ TÂM LINH : Ở mỗi con người chúng ta ai cũng có hai phần cấu trúc hữu hình và vô hình. Phần cấu trúc hữu hình là cơ thể vật chất tạo ra hình hài cơ thể nam nữ với đầy đủ các cơ quan tạng phủ do các tế bào hòa hợp lại. Phần cấu trúc vô hình là cấu trúc tâm linh, trong đó có một phần là tâm tánh khí tạo ra nét đặc thù của cá tính mỗi người do gène (DNA) mà khoa học đã chứng minh được, còn phần quan trọng nhất là thứ lớp của cấu trúc tâm linh hiện diện vô hình trong cơ thể, chúng ta cảm nhận được mà khoa học chưa chứng minh được. Chúng ta hãy xét nghiệm các trường hợp sau đây để có thể hình dung ra được các thứ lớp của cấu trúc theo quan niệm đông y. Đó là chìa khóa tìm hiểu sự khí hóa của tạng phủ trong việc chữa bệnh : 1-Thể Xác : Khi cơ thể không còn sự sống, mất sự hiện diện của các thể tâm linh, thân xác nằm bất động không còn thở, chúng ta gọi là xác chết, đó là phần cấu trúc vật chất. 2-Thể Phách : Khi con người hôn mê bất tỉnh, thân bất động, chỉ còn hơi thở để duy trì sự sống ( trong trường hợp hôn mê sâu=coma ), đông y gọi là còn thể phách. Đông y nói “ Phế tàng phách” là phần tâm linh vô hình cư trú ở phổi chỉ huy chức năng hoạt động của phổi, giúp phổi thở để duy trì sinh mạng thông qua sự tuần hoàn của khí. 3-Thể Vía : Thể vía chỉ huy mọi cử động cơ học, là phần tâm linh vô hình cư trú ở tiểu não sau gáy, khi bị va chạm tổn thương, hay say rượu, trúng độc hôn mê, đứt mạch máu não làm tê liệt, cử động sẽ bị giới hạn mất kiểm soát như ý muốn. 4-Thể Hồn : Thể hồn chỉ huy mạng lưới gân cơ, thần kinh, làm co rút hoặc thư giãn khiến cho cơ thể biết đau hoặc không đau. Đông y nói “Gan tàng hồn” là phần tâm linh vô hình cư trú ở gan, có nhiệm vụ giúp gan hoạt động theo chức năng của nó. Khi mất cảm giác, vô tri, là thể hồn đã rời thể xác. Còn đau đớn qúa sức chịu đựng làm thể hồn bị tổn thương kêu la thảm thiết như trường hợp ung thư hành hạ đau đớn, mà thực thể gan không bị tổn thương, thể hồn bị tổn thương sinh ra ác mộng. 5-Thể Thần : Thể thần chỉ huy tình cảm, hệ thống tim mạch, hệ thống tuần hoàn huyết làm cho da thịt hồng hào, mặt tươi tỉnh hoặc mặt mày mất sắc, mất thần như ngây dại, hoảng hốt. Đông y nói “ Tâm tàng thần” là phần tâm linh vô hình cư trú tại tâm giúp cho tâm hoạt động theo chức năng của nó về hệ tuần hoàn tim mạch và thần kinh… Khi bị tổn thương thì tim mạch nhảy loạn, thần sắc thay đổi, dễ xúc động, qúa khích động như điên khùng hoặc qúa bi quan, nói năng cười khóc bất thường. 6-Thể Ý : Thể ý chỉ huy sự diễn đạt của tư tưởng, tập trung hoặc mất tập trung, biết phân biệt tốt xấu, ưa thích hay không ưa thích, tính qủa quyết hay do dự… qua sự tiết hormone như truyền một tín hiệu có ảnh hưởng đến các cơ quan, phối hợp sự nói năng và cử chỉ phù họp với ý muốn. Đông y nói “ Tỳ tang ý ” là phần tâm linh vô hình cư trú tại lá lách. Khi thể ý bị tổn thương sẽ mất đi sự quyết đoán, không ham muốn, không thích cử động nói năng và ăn uống nữa mặc dù thực thể của lá lách không bị tổn thương. 7-Thể Chí : Thể chí chỉ huy sự hoạt động của bộ não, ẩn tàng sức mạnh ý chí, lý tưởng của thể xác và tinh thần, bao gồm phần tiên thiên và hậu thiên, phần tiên thiên là những dữ liệu tích lũy từ những kiếp trước đem vào bộ nhớ của não khi sinh ra, và những gène ( chủng tử) của cha mẹ, phần hậu thiên do sự nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần và sự học hỏi kinh nghiệm thu thập được trong gia đình, nhà trường và xã hội. Đông y nói “Thận tàng chí” là phần tâm linh vô hình cư trú ở thận, về tinh thần, nó làm cho con người phát triển hay không phát triển phần hạ trí như thông minh hay đần độn, nhớ dai hay mau quên, có ý chí sáng tạo hay ỉ lại…, về thể xác, nó điều hòa chức năng thận biến hóa các chất bổ dưỡng chuyển thành khí huyết, sinh tinh tủy, nuôi xương, bổ não, duy trì và phát triển, sản xuất tế bào mới thay thế tế bào cũ. Thể chí mạnh, duy trì được sự minh mẫn, trẻ trung, kéo dài tuổi thọ. Khi thận không bị tổn thương thực thể mà bị bệnh mất trí nhớ, mất ký ức phải nghĩ ngay đến phần hạ trí bị tổn thương do thể chí. 8-Thể Trí: Thể trí gồm hai phần, phần hạ trí và thượng trí. Thể trí cư trú ở não làm cho não phát triển. a-Thể Hạ Trí : Do con người khi phát triển đã học hỏi, tích lũy đươc những kinh nghiệm và khi sử dụng những kiến thức ấy thì cũng mới chỉ chiếm tối đa 7-8% tế bào não trong mọi sinh hoạt thường ngày. b-Thể Thượng Trí : Các thần đồng, các nhà bác học, các bậc thiền sư, kỳ nhân.. đã sử dụng được các phần tế bào não vượt ngoài giới hạn 8% so với những người khác. Những kiến thức hiểu biết này đặc biệt không ai có, nó khác lạ mới mẻ, chúng ta gọi nó là thể thượng trí. Trong bộ óc chúng ta, hơn 90% tế bào não còn lại là những băng đĩa còn bỏ trống chưa chứa dữ kiện nào, nó dành sẵn cho con người ghi thêm những kết qủa, những kinh nghiệm đã tìm tòi phát minh được ở đời này, hoặc để ghi nhận được những điều mới lạ học hỏi được ở các cõi thiền định hoặc trong những giấc mơ có ý thức khi ao ước tìm tòi phát minh một điều gì. Phần còn lại là những băng đĩa đã ghi đầy những kinh nghiệm trong qúa khứ nhiều đời tích lũy được, nhưng những dữ kiện ấy đem vào thân xác đời này bị vô minh che lấp nên không có khả năng khai mở được hết mà chỉ sử dụng được một phần nào, chúng ta gọi là bẩm sinh để trở thành các kỳ nhân, thần đồng, các nhà khoa học, mỹ thuật, nghệ thuật. Còn thông thường khi chúng ta có một vấn đề khó giải quyết, qua một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi, tự nhiên sáng dạy đã tìm được cách giải quyết, người đời gọi là thông minh. Thể thượng trí được khai mở qua phương pháp tập thiền, tập khai mở luân xa như yoga, hoặc do sau tai nạn bị chấn thương sọ não.. Khi sử dụng được thể thượng trí, nó dẫn ta vào không gian 4 chiều như thân xác ở một chỗ, mà thể hồn đi vào không gian khác, không gian qúa khứ để thấy biết những hoạt động của tiền kiếp, hay không gian tương lai ở những cảnh giới khác để học hỏi, tìm tòi, sau này trở thành một nhà phát minh như các nhà khoa học, hoặc trở thành nhà tiên tri.., còn đối với những người thỉnh thoảng mới xuất hiện thể thượng trí, khi có khi không, người ta gọi là linh tính, giác quan thứ sáu… Bẩy thể tâm linh vô hình cư trú trong cơ thể vật chất, có liên quan hai chiều nhờ vào thể thần, thông qua hệ thần kinh và các màng lưới thần kinh. Tất cả đều điều khiển chức năng hoạt động của tạng phủ, vừa nuôi dưỡng bảo vệ tạng phủ theo một quy luật tuần hoàn chung gọi là sự khí hóa ngũ hành. III.THÂN BỆNH-TÂM BỆNH Qua tám trường hợp trên, chúng ta thấy, ngoài Thể Xác được góp nhặt từ cát bụi ( theo Thiên Chúa giáo ) hay tinh cha huyết mẹ ( theo Phật giáo), thành một thân tứ đại gồm đất, nước, gió, lửa, mà đông y gọi là lục phủ ngũ tạng, có đủ tứ đại : đất thuộc thổ, trong thổ có chứa kim, nước thuộc thủy, gió thuộc phong mộc, lửa thuộc hỏa, trong thân còn chứa 7 thể tâm linh để giúp cho cơ thể hoạt động theo nhịp sinh học đều đặn và quyết định sự sống chết của con người khi phần tâm linh rời khỏi cơ thể thì thân xác chết, thi thể tan rã lại trở về với cát bụi. Như vậy sự bệnh hoạn, sống chết của thân ta lệ thuộc vào phần cấu trúc tâm linh, nó định đoạt cho ta tất cả mà chúng ta không biết chúng từ đâu tới, nó ở với ta bao lâu, khi nó lìa khỏi thân ta, nó đi về đâu, và chính bản chất nó được cấu tạo ra sao ? Những câu thắc mắc ấy đã được giải đáp đầy đủ trong triết lý Phật giáo. Đứng trên quan điểm y học, Tây y tìm tòi mọi phương pháp chữa bệnh tiên tiến nhất cũng chỉ giải quyết được phần thể xác, về lãnh vực trị liệu tâm lý thần kinh chưa phân biệt rõ phần tâm linh nào bệnh, và cách chữa ra sao nên vẫn chưa đạt được hiệu qủa như ý muốn. Dựa vào sự cấu trúc của cơ thể, phần bệnh của thể xác chúng ta tạm gọi là thân-bệnh, Phần cấu trúc tâm linh bị bệnh chúng ta gọi là tâm-bệnh. 1-Thần làm hại khí : Cấu trúc tâm linh là phần vô hình cư trú trong tạng phủ để điều khiển mọi chức năng hoạt động của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục.. qua hệ thần kinh và các tuyến nội tiết.. cho nên khi chúng bị bệnh sẽ làm xáo trộn mọi chức năng của các cơ quan, chứ không làm tổn thương thực thể thì y học tây phương tìm không ra bệnh, đông y gọi là giai đoạn thần làm hại khí. 2-Khí làm hại huyết : Nếu tâm bệnh cứ tiếp diễn lâu dài sẽ làm tổn thương thực thể, làm thay đổi hình dạng cấu trúc của thân xác như sưng, gẫy, lở loét, viêm, phù, thắt nghẹt lưu thông khí huyết tạo ra khối u hay chèn ép nứt xương…thì Tây y sở trường chữa được những loại bệnh này hơn là đông y. Nhưng những loại bệnh này, đông y chia làm hai loại cấp tính và mãn tính. Loại cấp tính do nguyên nhân bên ngoài như tai nạn, cần phải giải phẫu, hay cấp cứu ngay nếu không sẽ chết thì đông y không làm được. Còn loại sưng đau chấn thương chưa nguy đến tính mạng thì cách chữa đông y có thể thu ngắn thời gian và có kết qủa trị liệu hơn tây y. Loại bệnh mãn tính, theo đông y, phải tìm nguyên nhân gốc, và chắc chắn đã có ảnh hưởng không tốt cho phần cấu trúc tâm linh, giai đoạn này đông y gọi là khí làm hại huyết, cho nên tây y dùng phẫu thuật cũng chưa giải quyết được gốc bệnh, đa số các loại bệnh của con người ở loại này. Tây y thường giải quyết trực tiếp vào phần cơ thể bị bệnh bằng phẫu thuật để tránh lây lan và dùng thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh tiêu diệt vi trùng gây ra mầm bệnh. 3-Tinh-Khí-Thần : Phương pháp này khác hẳn về quan điểm chữa bệnh của tây y so với đông y. Tại sao ? Vì đông y coi con người là một tổng thể hòa hợp của thân và tâm, nên đã nhìn ra được ba yếu tố quan trọng trong vấn đề bệnh hoạn và sự sống chết của con người, đó là tinh-khí-thần. Tinh : Là những chất bổ do ăn uống để nuôi cơ thể, nếu hợp với nhu cầu mà cơ thể cần sẽ giúp cho cơ thể khỏe mạnh, không đúng nhu cầu sẽ làm cho cơ thể bệnh mặc dù khi phân chất thức ăn đó không có độc tố, trái lại chứa rất nhiều chất bổ dưỡng, nhưng cơ thể không muốn hấp thụ làm cơ thể phải tốn mất thêm năng lượng đào thải chúng ra ngoài, như vậy cơ thể cũng bị bệnh nếu lạm dụng nhiều chất bổ không cần thiết. (Thí dụ như chất đường, chất béo, chất vôi…không có độc, nhưng dư thừa làm con người bị bệnh.) Khí : Là chức năng hoạt động của các cơ quan lục phủ ngũ tạng làm công việc biến dưỡng, chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, ở thể động là sinh hóa thức ăn như co bóp, tiết dịch, phân tích, tổng hợp, hấp thụ, đào thải…ở thể tĩnh như nghỉ ngơi là chuyển hóa dưỡng trấp thành máu, vinh khí, nuôi dưỡng và phát triển cơ thể, và thành năng lượng vệ khí bảo vệ cơ thể, duy trì sức khoẻ và sự sống. Thần : Có hai loại là dục thần do cha mẹ sinh ra mang tâm tánh của cha mẹ, và thức thần mang tâm tánh cá biệt của mình có từ nhiều đời, cả hai loại là vô hình, nhưng phần hữu hình là tim mạch, bộ óc và hệ thần kinh cùng các gène mang tính di truyền. Thần có nhiệm vụ kiểm soát, điều chỉnh, hòa hợp mọi hoạt động của cơ thể thông qua những chức năng của các tạng phủ, cả hai loại thần được phát triển về hai mặt, mặt tiềm năng do bẩm sinh cấu tạo ra chức năng và tâm tính của mỗi người do ảnh hưởng cha mẹ và do ảnh hưởng qúa khứ nhiều đời, mặt khác do học hỏi tiếp tục ở trường học, xã hội và kinh nghiệm đang trải qua ở đời này. 4-Ngũ nguyên : Để có thể điều chỉnh được tinh-khí-thần hòa hợp giữa hai phần cấu trúc vật chất và tâm linh, đông y dùng hệ thống lý luận ngũ hành để liên kết chúng vào cùng một hành như : 1-Qủa tim, hệ tim mạch gồm đường kinh tâm, tâm bào, thuộc hành hỏa ,về phần tâm linh có hàm chứa nguyên thần, cái tạo ra cho con người biết trọng lẽ phải, biết suy nghĩ đúng sai, gọi là Lễ mới sinh ra thức thần. Khi thức thần bị dao động mạnh do cảm xúc sẽ làm hại tim. 2-Lá lách và kinh Tỳ thuộc hành thổ, về phần tâm linh có hàm chứa nguyên khí, cái tạo ra khí phách con người biết trọng chữ Tín hay không, nó sinh ra vọng ý nhiều hay ít, nếu vọng ý quá đáng sinh lo nghĩ nhiều sẽ hại tỳ ăn mất ngon. 3-Phổi và kinh Phế thuộc hành kim, về phần tâm linh có hàm chứa nguyên tình, cái tạo ra tình người có Nghĩa hay không, nó tạo thành phách, nó tạo ra tình cảm, khi tình cảm bị giao động sinh buồn sẽ làm hại phổi. 4-Thận và kinh thận thuộc hành thủy, về phần tâm linh có hàm chứa nguyên tinh, cái tạo ra sự khôn ngoan hiểu biết gọi là Trí, cái không hiểu biết, chỉ ham sắc dục nó sinh ra trược tinh mất sáng suốt, khi bị giao động sinh sợ hãi sẽ làm hại thận ( sợ vãi đái). 5-Gan và kinh Can thuộc hành mộc, về phần tâm linh có hàm chứa nguyên tánh, là bản chất tình người gọi là Nhân do hồn dẫn dắt, khi giận giữ mất tánh người sẽ làm hại gan ( giận bầm gan, giận mất khôn ). Như vậy, các bệnh liên quan đến chức năng của tạng phủ, tâm lý thần kinh, bệnh thuộc tâm linh, đông y dùng phương pháp lý luận ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc để điều chỉnh lại sự khí hóa của tổng thể, vì khi thân bệnh cũng ảnh hưởng đến tâm bệnh và ngược lại tâm bệnh cũng ảnh hưởng đến thân bệnh. Cả hai loại bệnh đều làm rối loạn chức năng hoạt động của tạng phủ, trực tiếp là rối loạn chức năng nội tiết mà đông y gọi là hệ nội dược. IV-NHỮNG HIỆN TƯỢNG LIÊN QUAN ĐẾN Y HỌC : Có sự đối đãi hai chiều giữa thân bệnh và tâm bệnh. Khi thân bệnh dù có tổn thương thực thể nhưng chưa làm mất chỗ cư trú của phần tâm linh thì thân bệnh không đáng ngại, nhưng tâm bệnh có thể làm tổn thương thân bệnh. Chúng ta hãy nghiên cứu đến các hiện tượng sau : 1-Hiện tượng chưa tổn thương thể phách : Thân thể dù có bệnh do thế gian đặt tên và phân loại bệnh dễ chữa hay khó chữa, miễn là nó chưa làm mất nơi cư trú của phần tâm linh và chưa làm hại đến sự rối loạn chức năng của hơi thở là thể phách, thì thân có bệnh không chữa được cũng vẫn kéo dài sự sống như bệnh phong cùi, lở lói, ung nhọt ngoài da.. có thể làm hư hỏng ngũ quan, tứ chi, ung thư da, hoặc coma, mà không làm rối loạn thể phách, thể phách vẫn điều khiển hơi thở đều đặn thì mạng sống vẫn được duy trì. 2-Hiện tượng rối loạn thể phách : Người khỏe mạnh, trung bình một phút hít vào thở ra tự nhiên được 18 hơi đều đặn, nhưng khi bệnh do cơn đau, hay bị ngộp thở do trúng độc, va chạm tổn thương, hoặc do khí tắc như suyễn sẽ làm hơi thở ngắn gấp, nhanh, dồn dập, đứt đoạn.. sẽ làm rối loạn thể phách thì khó bảo toàn tính mạng. 3-Hiện tượng rối loạn thể vía : Thể vía cư trú ở não sau gáy, khi bị va chạm đụng mạnh vào gáy, hay sung huyết não, trúng độc do thuốc, rượu, làm hôn mê nhẹ sẽ bị giới hạn cử động như tê liệt, bán thân bất toại, múa vờn, Parkinson, chân tay đầu cổ mắt mặt co giật, nói cà lăm, ngọng.. 4-Hiện tượng rối loạn thể hồn : Khi thể hồn rối loạn hay mơ thấy xuất hồn đi vơ vẩn không chủ đích, ngay cả lúc thân có bệnh, đi đứng nằm ngồi như người mất hồn, ngơ ngẩn. Ngoài bệnh gan, các bệnh mãn tính cũng làm ảnh nhưởng đến gan làm gân mạch và thần kinh co thắt gây đau đớn. Khi bệnh chạm vào thể hồn thì nhân cách và tánh tình thay đổi. Bệnh thực thì ngông cuồng qúa khích, dễ nổi nóng giận. Bệnh hư thì sinh bi quan, yếu đuối, hèn hạ, hờn dỗi, không phải gan bị tổn thương mà chức năng gan qúa yếu không thể tàng trữ huyết, không lọc được độc tố, không trao đổi oxy, không nuôi dưỡng được phần gân móng, làm chùng gân, không khai khiếu ra nơi tròng đen mắt làm mờ mắt, hỏng gai thị… nhìn cặp mắt như không có hồn. Đa số những người bị rối loạn thể hồn do thân bệnh đều liên quan đến sự thiếu máu trầm trọng, áp huyết rất thấp. Loại người này dễ bị du hồn vất vưởng mất thân xác nhập vào trở thành điên loạn tâm thần.. 5-Hiện tượng rối loạn thể thần : Thể thần có hai loại là dục thần và thức thần. Dục thần do cha mẹ sinh ra cư trú ở tâm, nên đông y gọi tâm tàng thần, có ảnh hưởng tâm tánh cha mẹ theo gènes. Còn thần thức là tâm tánh cá biệt do học hỏi nằm trong tiềm thức có ảnh hưởng đến sự phát triển con người. Thức thần sinh tam tâm là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm tương lai. Tâm qúa khứ ảnh hưởng đến tâm hiện tại, có cách suy nghĩ và hành sử theo bản năng riêng đã tích lũy được trong qúa khứ, cho nên tục ngữ có câu : cha mẹ sinh con, trời sinh tánh, còn tâm hiện tại ảnh hưởng của cha mẹ có sẵn và tâm tương lai do ảnh hưởng của học hỏi ở cả hai mặt vô hình và hữu hình trong cuộc sống thường nhật. Về hữu hình do sự giáo dục từ gia đình, học đường, xã hội, tu học, kinh nghiệm sống…Về vô hình do tu thiền, quán tâm, trong giấc ngủ có ý thức hoặc tập khí công thiền. Theo đông y, làm sao tập luyện được tâm không viên, ý không mã, lúc đó tâm không động thì định được thần, thần không động thì định được khí, ví như người làm xiếc đi trên dây thừng cao 10 mét, mặc cho khán giả la hét cổ võ, nếu tâm thần và khí không bị ảnh hưởng bên ngoài, mà trụ ở trên mỗi bước chân, cho nên họ đi trên dây đu một cách dễ dàng. Như vậy muốn khỏi động tâm thì tập mắt ngơ tai điếc tánh viên thông, làm cho tâm được sáng suốt sẽ học hỏi được nhiều điều ở trong cõi thiền. Vào được cảnh giới tĩnh lặng do thiền hay do tĩnh công như đi vào không gian 4 chiều. Không gian và thời gian của thân thì ở một chỗ, còn thể tâm linh có thể đi vào thời gian qúa khứ hay tương lai. Thần là cái biết trong tình trạng nhập thiền, mình vẫn biết rõ ràng mạch lạc khi nhắm mắt còn tỉnh thức, hoặc cơn ngủ sâu mà thấy cảnh giới quá khứ hay tương lai như một buổi xem phim chiếu bóng, mình có thể ở ngoài cuộc hay tham dự trong cuộc, mọi chi tiết đều nhớ rõ mà không hoang mang sợ sệt, chỉ dùng cái biết để quan sát, khi tỉnh dậy hoặc xuất thiền, nếu có thắc mắc, khi nhập thiền lại, vẫn có thể tìm hiểu thêm cho tường tận được. Thể thần khi bị rối loạn làm tình trạng tim mạch bất thường, tâm thay đổi bất thường kéo theo các thể tâm linh khác rối loạn theo, khi ngủ hay thấy ác mộng, lửa cháy, máu chảy, sợ bị giết hại… a-Trường hợp nhập thiền vào qúa khứ : Có một bệnh nhân bị bệnh hở van tim nặng, hai môi tím, dầy lên và xệ xuống miệng không khép chặt lại được, 10 ngón tay mầu đen như dính thuốc nhuộm quần áo, thở mệt, ngồi một chỗ, đi đứng thì mệt mỏi, nói chuyện còn tỉnh táo nhưng nói nhỏ hơi, nói nhiều cũng mệt. Bệnh nhân đã chữa đông tây y dược đủ thứ mà không khỏi. Tôi thấy ái ngại và để tâm suy nghĩ làm sao chữa được bệnh này. Khi trong mơ gặp được vị y tổ trong quá khứ mô tả một cây thuốc tên gọi cây óc chó phối hợp với lá hẹ chữa được bệnh hở van tim. Hình dáng của cây đã thấy trong mơ, nơi cây mọc đã được chỉ dẫn là ở hàng rào, bờ ruộng chỗ nào cũng có, cách dùng cũng được nghe giảng. Khi tỉnh dậy, cho người đi tìm hái về ở vùng Hốc Môn. Về tên của cây, dân gian cũng đã có tên sẵn, ở miền Nam gọi là cây ổi dại, ở miền Bắc gọi là cây sung dại.Cách sử dụng : Lấy 9 đọt (1 đọt là ngắt bẻ một đoạn dài bằng một gang tay đo từ ngọn xuống ). Pha một ít nước rồi giã 9 đọt cây óc chó, vắt lọc thành nửa ly . Giã 50g lá hẹ với một ít nước, vắt lọc thành nửa ly. Hai ly để riêng đem phơi đêm để lấy sương khí, lúc nửa đêm uống 1 ly nào trước cũng được, nửa giờ sau uống tiếp ly thứ hai. Uống luôn 2 đêm liên tiếp, bệnh nhân đã khỏi bệnh, khỏe mạnh như cũ, hai môi thu nhỏ, đổi sắc hồng, mười đầu móng tay hết tím xanh, người hết bị mệt thở. Như vậy bà bệnh nhân này cũng có tu được chút phước duyên mới có cơ hội được các vị thầy vô hình thông qua vị thầy thuốc để chữa khỏi bệnh cho mình. Nếu người thầy thuốc không tu tạo phước, nhân công lao đó về mình do tính kiêu ngạo, vị thầy đó sẽ mất hết khả năng chữa bệnh bằng tâm linh, sau này sẽ chỉ là một thầy thuốc tấm thường như các thầy khác ở thế gian. . b-Trường hợp nhập thiền trong hiện tại : Tôi có người bạn tu thiền, ngày 30 tháng 4 năm 1975, vợ chạy di tản, anh và con gái 5 tuổi bị kẹt ở lại, sau anh phải đi học tập cải tạo, anh gửi con gái anh cho một bạn gái, hai năm sau anh trở về, bạn gái anh cho biết bé đi học đã bị lạc mất tích. Mấy năm sau anh vẫn tập thiền đều đặn theo thời khóa 4 lần mỗi ngày vào giờ tý, ngọ, mẹo, dậu, mỗi lần nửa giờ. Tự nhiên một buổi trưa anh nhập thiền thấy con gái mình đứng trước cửa một căn nhà ở Củ Chi, anh ghi nhận mọi chi tiết về địa điểm căn nhà, rồi anh xả thiền, lấy xe gắn máy đến Củ Chi, quả thật anh đến đúng nơi và xin chủ nhà cho anh nhận lại đứa con gái của mình về. Môt trường hợp đặc biệt khác. Khi tôi đang làm việc tại phòng mạch ở Montreal, bỗng có điện thoại từ Ý gọi đến của một bệnh nhân người Ý xin cầu cứu, đứa con trai 6 tuổi sinh thiếu tháng, não thiếu oxy nên xương cổ èo oặt, hiện nó đang bị lên cơn crise cardiac chân tay dẫy dụa co giật, bà không gọi xe cứu thương mà bà gọi tôi. Tôi nhắm mắt lại, thấy một linh ảnh, đứa bé đang bị cúi gục đầu xuống nên nghẹt cổ họng không thở được, cơ thể thiếu oxy khiến tim sẽ ngưng đập. Tôi vội vàng nói với bà ta : Bà hãy mau dựng cổ đứa bé ngay lại. Sau đó tôi hỏi : Con bà hết co giật chưa. Bà trả lời : Nó khỏi rồi. Nhưng tôi cứ phải giữ cổ nó luôn à. Tôi trả lời. Nguyên nhân nó làm cơn do cổ nó yếu, bị gục xuống sát ngực nên ngộp thở. Bà nên mua một cái vòng chống cổ (collier) để giữ cho cổ khỏi bị gục xuống là không bao giờ bị lên cơn nữa. Một năm sau, bà đem cháu sang Montreal để tôi tái khám, bà nói : Từ ngày ông nói cho cháu đeo vòng cổ, cháu không bao giờ bị co giật nữa. Nhưng tôi không hiểu sao các bác sĩ chữa cho cháu lại không tìm ra nguyên nhân bị co giật là do cổ yếu, vì cứ mỗi tháng cháu bị vài lần như thế, môi tím tái, đều đem đi cấp cứu chữa về tim mạch và cho uống thuốc thần kinh mà không hết bệnh. c-Trường hợp nhập thiền vào tương lai : Có những cảnh tôi thường gặp khi tâm tĩnh lặng, cảnh đó xuất hiện nhiều lần rất quen thuộc, nhưng trên thực tế chưa đi đến bao giờ, ngay cả người và việc. Nhưng về sau tôi có dịp đến một nơi nào lạ lần đầu tiên thì cũng đúng là cảnh đã từng thấy làm tôi không bỡ ngỡ chút nào. Có lần, gia đình chúng tôi cần một người giúp đỡ để cho con đi ra khỏi Việt Nam sau năm 1975, địa chỉ ở vùng quê Trà Vinh, chỉ có số nhà, và Khóm, Xã, không có tên đường. Đêm hôm đó tôi xuất thần đi tìm để ghi nhận hình ảnh, địa điểm. Sáng hôm sau hai vợ chồng tôi đón xe đò đi xuống Trà Vinh. Tôi quan sát những đoạn đường đã đi qua, đến một nơi hai bên đường là đồng ruộng, có một xóm nhỏ vài nhà nằm cách đường lộ khoảng 100m phải đi qua một cây cầu khỉ, chúng tôi xuống xe giữa đường còn cách xa thị xã Trà Vinh. Bà xã tôi sợ quá, nếu không phải chỗ này, mà phải đi nữa thì tìm đón xe đi tiếp là chuyện rất khó khăn vào thời ấy. Tôi nói đúng chỗ này rồi, bà xã tôi lo lắng hỏi, anh đã đi đến đây bao giờ đâu mà nói đúng chỗ rồi, nhưng qủa thật chúng tôi vào đúng nhà đúng chỗ mặc dù chưa quen biết trước diện mạo chủ nhà. d-Trường hợp nhập thiền để học hỏi : Tôi có người bạn thiền muốn tu đốn ngộ, anh cứ thắc mắc thế nào là quả báo nhãn tiền ? Khi anh nhập thiền, anh thấy mình đang đứng ở đầu một ngõ hẻm cụt, nhìn thấy một tên ăn cắp tay cầm một cái ví tiền, chạy qua mặt anh vào trong ngõ cụt, rồi một thanh niên khác đuổi theo đang ngơ ngác không biết chạy vào ngõ hay chạy thẳng, anh buột miệng chỉ đường. Khi người thanh niên lấy lại được cái ví xong rồi chạy đi, tên ăn cắp đến đánh anh vì cái tội không biết đầu đuôi câu chuyện mà chỉ bậy, tên kia cũng là tên ăn cắp chạy theo để cướp lại. Bấy giờ anh mới hiểu, việc gì xảy ra cũng có nhân duyên qủa báo. Trường hợp suy nghĩ tìm tòi để phát minh ra những cái mới lạ cũng là một cách nhập tâm để vào thiền, có liên quan tổng hợp cả quá khứ, hiện tại, tương lai, thường xảy ra đối với các nhà khoa học, bác học, bác sĩ, nghệ sĩ, mỹ thuật hội họa, và các nhà tiên tri… 6-Hiện tượng rối loạn thể ý : Thể ý cư trú ở Tỳ, hay mưu toan nghĩ ngợi, lo qúa làm ăn mất ngon. Tỳ chủ hình sắc, ăn ngon, mặc đẹp, ngăn nắp, sạch sẽ, tính tình mực thước, đa mưu. Tỳ chủ ý muốn, sinh tâm nên ý chạy thì tâm chạy cho nên nhà Phật có câu nói tâm viên ý mã ( tâm như con vượn nhảy nhót lung tung không lúc nào dừng nghỉ, ý như con ngựa chạy theo). Khi thể ý bị tổn thương làm thành bệnh hoang tưởng. Thí dụ một người bị thương cụt tay, trong giấc ngủ mơ vẫn không thấy tay bị cụt, không cảm thấy đau. Trường hợp này thực tế là xác-thân có bệnh cụt tay, nhưng ý-thân không có bệnh. Ngược lại, khi ngủ mơ thấy bất cứ cảnh nào trong mộng cũng thấy tay còn nguyên nhưng bị đau như lúc tỉnh, như vậy bệnh mãn tính đã làm tổn thương thể tâm linh, ý-thân cũng bị bệnh đau tay, đó là lý do tại sao một thương binh đã bị cưa cụt tay mà vẫn cảm thấy đau ngoài cổ tay. Muốn chữa loại bệnh này cũng phải dùng ý để chữa, một thiền sư đã cho bệnh nhân một loại thuốc bôi đặc biệt để dụ bệnh nhân tin rằng bôi thuốc này vào sẽ hết đau. Thiền sư dặn, khi nào bệnh nhân cảm thấy tay đau, hãy bình tĩnh tìm xem chỗ đau ở đâu, rồi dùng thuốc này bôi vào. Cuối cùng bệnh nhân giác ngộ chỗ đau không có tay làm sao mà bôi thuốc, rõ ràng là bệnh không có thực mà do ý làm ra bệnh. Ý tại tâm, vạn pháp do tâm sinh ( nghĩ là có tay bị đau) thì vạn pháp cũng do tâm diệt (nghĩ rằng không có tay làm sao mà đau được.) Khi rối loạn thể ý, trong mơ hay thấy nhiều sự việc lung tung không có mạch lạc rõ ràng, thể ý bệnh làm cho thân bị bệnh mộng du, tỉnh dậy không hay biết mình đã làm gì, hoặc thân bị bệnh nói nhảm như điên khùng, như ma nhập thuộc bệnh tâm thần. Khi một người chết đi, thân xác không còn, bẩy thể tâm linh do ý làm chủ, lúc đó không phải là xác-thân mà là ý-thân thì thời gian và không gian không còn ngăn cách họ. Họ nghĩ muốn đến một nơi nào xa xôi là họ đã có mặt ở đó ngay. 7-Hiện tượng rối loạn thể hạ trí : Thể hạ trí liên quan đến thận và trí nhớ. Thể hạ trí bị rối loạn do sợ hãi một điều gì kinh khủng, do va chạm tổn thương thận, do mổ thận, chọc tủy sống, do té ngã va chạm não bộ làm mất trí nhớ. Có trường hợp không tổn thương thực thể về thận hoặc não, nhưng bị đe dọa tinh thần, bị khủng bố trí não, bị nghe những tiếng rên la thảm thiết, hoặc bị giam cầm hành hạ trí não làm rối loạn thể trí sẽ bị mất trí nhớ, hoặc bị ngộp thở do khí độc làm não thiếu oxy, hoặc trẻ em khi sinh ra thiếu oxy trong não làm trí nhớ kém phát triển. 8-Hiện tượng rối loạn thể thượng trí : Trường hợp ít gặp. Rối loạn thể thượng trí trong trường hợp cháy não do thiền sai tẩu hỏa nhập ma, do tập trung vào việc học sử dụng tối đa bộ não, nói đến những điều cao siêu hoang tưởng không ai hiểu được, thay vì là một thiên tài bị trở thành người vô dụng. Ngoài ra do một tình cờ va chạm làm rối loạn thể thượng trí một phần, làm màng lưới vô hình giữa hai luân xa vía và luân xa ý thông với nhau tạo ra một người có khả năng tiên tri làm thầy bói khi đúng khi sai, hoặc là người có giác quan thứ sáu tự nhiên, hoặc là phù thủy… Luân xa Đỗ Đức Ngọc Theo siêu hình học giải thích về tâm linh, trong con ngườI có 3 thể khí chính cấu tạo nên : Về thể chất : Do tinh cha huyết mẹ tạo ra xác thân. Thể khí của tiên thiên ẩn trong khí hậu thiên tạo cho con ngườI sự sống, sức khỏe khang kiện gọi là thể phách. Thể khí tiên thiên tạo ra tánh khí con ngườI là thể viá nhanh nhẹn hơn và khôn hơn thể phách. Thể vía phát triển học hỏi để tiến hóa hơn lên trong cõi trung giới lúc ấy con người mới có thể trí. Tiếp tục tiến hóa học hỏi nhiều hơn để đạt đạo, Phật gọi là ứng qủa Bồ đề ở thể thứ bẩy. Như vậy trong xác thân có thể phách, thể vía, thể trí, mỗi thể đều có các luân xa là các bí huyệt , tất cả chỉ là vô hình, chỉ khi nào con người tiến hóa học hỏi phát huy được các luân xa ấy mới biết được nó thế nào. Thể phách và thể vía đều có 10 luân xa cùng chung vị trí nơi xác thân, nhưng luân xa phách thuộc tam nguyên không gian nên ở phía ngoài, còn vía thuộc cõi tứ nguyên không gian ở sâu trong xác thịt. Chúng ta chỉ tham khảo 7 luân xa phách và vía, còn 3 luân xa nằm ở bộ phận sinh dục chúng ta không đề cập đến. Vị trí các luân xa và khả năng huyền bí của luân xa phách : Chỉ có hai nhiệm vụ giữ cho thân xác sống và làm trung gian cho sự tiếp xúc của ngũ quan ở thân xác vớI nộI tâm, vớI vía, vớI trí óc, tạo ra rung động, chậm chạp hay mau lẹ, khôn ngoan hay đần độn, giỏi hay dở.. Hào quang của Phách chỉ có hai mầu tím hoặc xám xanh thể hiện sự khang kiện của thân xác, làm cho lớp da của thân phát sáng khoảng cách từ 6 ly đến 1,5 tấc. Khi ngườI khỏe mạnh hào quang chiếu tia thẳng góc vớI da, ngườI yếu hào quang phát chiếu ủ rũ. Luân xa 1 : 4 cánh, nằm ở cuối xương cùng chứa luồng hỏa hầu, Ấn độ gọI là Kundalani, tạo sức nóng như lò lửa luyện thép, chia làm 7 bậc mạnh yếu khác nhau, đi theo 3 đường gân của cột sống lên não như rắn bò nên gọI là hỏa xà (feu serpent ). Nó đi qua luân xa nào làm cho luân xa đó hoạt động liền, nhưng ngược lại cơ thể chưa tập luyện cho khí tiên thiên đi theo vòng tiểu chu thiên để thanh lọc trược bản thể thì hỏa xà gây tác hại làm hư hỏng lục phủ ngũ tạng và não bộ, ngườI ta gọI là tẩu hỏa nhập ma. Luân xa 2 : 6 cánh, nằm ở tại lá lách (tỳ), là trung tâm thu hút năng lực biến thành 7 thứ nuôi dưỡng phách và bảo toàn mạng sống, giúp phát triển tinh thần, mở đường cho hỏa xà qua để thông đến các luân xa khác, phía trước thông vớI đan điền thần, phía sau thông vớI Mệnh môn. Luân xa 3 : 10 cánh, nắm tại Linh cốc huyệt nơi Đan điền tinh thông qua rốn, khi luân xa này phát triển con ngườI biết được ảnh hưởng ở cõi trung giới. Luân xa 4 : 12 cánh, nằm ở tim, trước thông vớI Đan điền thần, sau thông vớI Giáp tích quan. Khi nó phát triển, con người biết được sự rung động của tình cảm. Luân xa 5 : 16 cánh, nằm nơi thập nhị trùng lầu ( yềt hầu ) thông vớI Ngọc chẩm quan. Khi nó phát triển, con ngườI có thể nghe được âm thanh ở 4 cảnh dĩ thái có những tần số mà tai thường không nghe được ở cõi trần. Luân xa 6 : 86 cánh, nằm ở Hư vô huyệt lý nơi tam tinh Ấn đường. Khi nó phát triển có thể nhìn thấy 4 cảnh dĩ thái cấu tạo bằng các loại thể khí chứ không bằng vật chất mà mắt thường có thể thấy được, nó là con mắt thứ 3 của thể phách chứ chưa phải của thể vía nên chưa phải là thần nhãn. Luân xa 7 : 960 cánh, năm ở Nê hoàn cung thông Thiên môn. Khi nó phát triển sẽ làm cho con ngườI nhớ được những gì mình làm trong giấc ngủ ở cõi trung giới. Vị trí các luân xa và khả năng huyền bí của luân xa vía : Luân xa 1 : Giống như Luân xa phách, nhiệm vụ mở hỏa hầu. Luân xa 2 : tại tỳ, là trung tâm nguồn sinh lực, khi luân xa mở, lúc ngủ dậy sẽ nhớ những gì thấy và làm ở cõi trung giớI, thấy mộng đẹp, bay trên không trung ở các cảnh lạ. Luân xa 3 : tại rốn, khi mở sẽ cảm nhận được ảnh hưởng cõi trung giớI để phân biệt tốt xấu, cái nào hợp và không hợp, cái nào vui cái nào buồn.. nhưng không hiểu lý do tại sao lại thế. Luân xa 4 : tại tâm, khi khai mở sẽ biết được những sự vui buồn của ngườI khác. Luân xa 5 : tại yết hầu, khi được khai mở sẽ nghe được tiếng nói, âm nhạc hoặc tiếng xì xào kỳ dị bên tai, khi được mở hoàn toàn, nghe được chính xác mọi việc hoặc nghe được từ xa rất xa gọi là thần nhĩ. Luân xa 6 : tại Ấn đường, khi được khai mở nó là con mắt thứ ba, khi khai mở hoàn toàn sẽ thấy trước mọI việc và tầm nhìn rất xa gọI là thần nhãn. Luân xa 7 : tại Thiên môn, khi được khai mở, tâm thức được sáng suốt, thông minh, không còn bị gián đoạn, nhớ được những điều đã thấy, đã nghe, đã làm, đã học hỏi được ở cõi trung giới. Thể vía là một loại thân xác ở thể khí không phải là thể vật chất, nó sinh hoạt, hành động độc lập và học hỏi ở cõi trung giới. Hào quang ở thể vía có nhiều mầu sắc hơn ở thể phách, nó phát ra đỉnh đầu hay chung quanh thân, phản ảnh tính tình mỗI ngườI khi chúng ta có thần nhãn mớI thấy được. Còn chúng ta khi nhắm mắt nhìn vào Ấn đường sẽ thấy được mầu thể hiện tâm tính và sức khỏe của mình, tánh xấu hiện mầu xấu, tánh đổI tốt nó hiện mầu tươi tốt, vui thì mầu vui, buồn thì mầu buồn.. Phân biệt mầu sắc phản ảnh tâm tánh 1-Mầu tự nhiên của Tánh trong bản thể : Nhìn vào Ấn đường của mình hay của người khác : ĐEN : chỉ tính hiểm độc, oán ghét, hay bệnh nặng. Khi giận dữ có thêm những lằn vạch mầu đỏ đầu nhọn ở trong quầng đen phóng ra khủng khiếp, dễ đi đến sát nhân. XÁM ĐEN TRẮNG MỜ MỜ : Chánh tà lẫn lộn, bệnh chưa khỏi hẳn, chưa bệnh thì sắp bị bệnh biết trước mầu sắc để phòng ngừa. ĐỎ HỒNG : Tánh hay giận dỗi. ĐỎ HỒNG Mà SÁNG RỠ : Giận dỗi bất bình nhưng xây dựng cao thượng. ĐỎ MÁU BẦM : Ham vật dục ĐỎ NÂU ĐẤT : Tánh hiểm, có lẫn sọc nằm ngang tánh ti tiện. ĐỎ CAM : Trí tuệ tham vọng, tánh kiêu căng ngạo mạn. HỒNG, HƯỜNG : Tánh vị tha thương người. VÀNG : Tánh khôn ngoan, trí độ, ngườI tu có tâm từ nhưng chưa tiến bộ mấy. VÀNG KIM : Có trí khôn phán đoán, có tư tưởng triết học và khoa học. XANH LỤC : Con ngườI dễ đồng hóa và thích nghi vớI hoàn cảnh. XANH TƯƠI SÁNG BIỂN HAY BẠCH KIM : Có lòng tín ngưỡng cao thượng quảng đại. XANH XÁM NHẠT : Tánh e dè sợ sệt. XÁM NHẠT CÓ L_N BỌT : Tánh mưu mô xảo quyệt, lường gạt. XÁM NÂU : Ích kỷ. MẦU TỬ NGOẠI : NgườI đạt đạo, thông minh tài trí. MẦU HỒNG NGOẠI :Kẻ đạt được phép của bàng môn tả đạo. 2-Mầu thay đổI theo qúa trình tu học qua tư tưởng : Phẩm chất của tư tưởng hiện ra ở mầu sắc. Bản tính của tư tưởng là chu vi của mầu sắc và sự minh bạch rõ nét hay lờ mờ. a-Thể vía của người tiến hóa : Người có thần nhãn nhìn mình hay tự mình nhắm mắt nhìn vào Ấn đường khi tĩnh tâm. Mầu lục : Tánh thiện cảm và thích nghi. Mầu hường : Chỉ lòng từ ái. Mầu xanh : Chỉ lòng hiếu đạo, mục đích tín ngưỡng, sùng đạo. Mầu vàng : Chỉ tánh khôn ngoan của trí tuệ. Vàng sậm tối : trí tuệ ích kỷ. Vàng đất sét : Mở trí tuệ để kinh doanh sự nghiệp. Vàng ónh ánh : Mục đích khoa học, toán, triết học. Vàng sáng như ngọc châu : Vì tha nhân giúp đời. Mầu tím trên đỉnh đầu : Đã được khai mở tinh thần và trí tuệ. b-Khi mình phát đại nguyện : Làm việc thiện lành, yêu thương chúng sinh : Tư tưởng sẽ phát sinh mầu hường sáng rỡ. Cầu khẩn thành tâm chăm lo tu tập thân tâm : Tư tưởng phát sinh mầu trắng bạc. Cầu cố gắng làm cho tinh thần kiên cố trì trí tu học : có mầu hoàng kim rực rỡ.
  24. Sử kí - Bình chuẩn thư Dịch giả: Tích Dã Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Tập giải: Hán thư bách quan biểu chép: "Quan thuộc của quan Đại tư nông có Bình chuẩn lệnh." Sách ẩn: Quan thuộc của Đại tư nông có Bình chuẩn lệnh thừa, để chia đều của cải của các quận ấp trong thiên hạ, đắt thì bán ra, rẻ thì mua vào, làm cân bằng phú thuế để thu chở vào kinh đô, cho nên gọi là 'bình chuẩn'. Nhà Hán nổi lên tiếp nhận thói xấu của nhà Tần, đàn ông theo quân lữ, kẻ già yếu chuyển tiền lương. Làm việc nhiều mà tiền của thiếu, đến thiên tử cũng không có đi cỗ xe kéo bốn con ngựa cùng màu, Sách ẩn: Thiên tử ngồi cỗ xe có bốn con ngựa kéo, màu đều phải giống nhau. Nay nói là nhà nước nghèo, thiên tử không có đi cỗ xe kéo bốn con ngựa cùng màu. mà tướng quân, tướng quốc có người phải ngồi xe bò, dân thường không có cất chứa. Tập giải: Như Thuần nói: "Người dân ngang nhau không kể cao thấp, cho nên gọi là dân thường." Tô Lâm nói: "Không có của cải gì cất chứa được." Do đó vì tiền nhà Tần nặng khó dùng, Sách ẩn: Họ Cố xét: Cổ kim chú chép: "Tiền nhà Tần gọi là tiền 'nửa lạng', rộng một tấc hai phân, nặng mười hai thù." bèn cho dân được đúc tiền, Tập giải: Hán thư thực hóa chí chép: "Đúc tiền 'du giáp'." Sách ẩn: Thực hóa chí chép: "Đúc tiền 'giáp'." Xét: Tiền 'du giáp' nặng ba thù. lại đúc vàng ròng nặng một cân, Sách ẩn: Xét: Như Thuần nói: "Bấy giờ lấy tiền làm hàng hóa, một cân vàng ròng giá một vạn tiền." Không phải. Lại có Thần Toản chú giải rằng: "Nhà Tần lấy một dật là một vàng, nhà Hán lấy một cân là một vàng." Nghĩa là vậy. giảm cấm bớt luật. Nhưng những người dân chụp lợi không vâng lệnh, cất chứa dư thừa để giữ của cải, làm cho giá cao, Tập giải: Như Thuần nói: "Xem xét giá cả lúc đất khi rẻ ở chợ." Tấn chước chép: Nói là thấy giá hàng hóa ở ở chợ rẻ thì cất chứa thêm. Đến lúc giá đắt thì đem bán ra, cho nên giá hàng hóa rất cao." một thạch gạo giá một vạn tiền, một con ngựa giá trăm cân vàng. Thiên hạ đã yên, Cao Tổ lại ra lệnh nhà buôn không được mặc áo tơ, ngồi xe, đặt tô thuế nặng để làm khốn nhục họ. Vào thời Hiếu Huệ, Lữ Hậu là lúc thiên hạ mới định, lại nới lỏng lệnh cấm buôn bán, nhưng con cháu của nhà buôn cũng không được tiến cử làm quan. Đo đếm bổng lộc, đồ dùng của quan lại để thu thuế ở người dân. Còn tô thuế thu vào của sông núi, vườn ao, giếng chợ Chính nghĩa: Người xưa chưa có chợ và giếng cho nên tụ hội ở giếng múc nước, lại đem hàng hóa đến ở bên cạnh giếng mà mua bán, cho nên gọi là 'giếng chợ'. thì từ thiên tử cho đến những người được phong quân ở ấp thang mộc [1] đều tự lấy riêng để tiêu dùng, không nhận từ kinh phí của thiên hạ. Sách ẩn: Ý nói từ bậc được phong quân trở xuống đều lấy tô thuế của ấp thang mộc để tự tiêu dùng riêng, cho nên không nhận lấy tô thuế của thiên hạ, là tiền tiêu dùng trong một năm. Cho nên việc lấy thuyền chuyển thóc để cấp cho quan lại trong kinh sư mỗi năm không có quá vài chục vạn thạch. ... [www.sidneyluo.net] _____________________________ Chú giải: [1] Ấp thang mộc: là ấp của những người họ hàng, anh em của nhà vua được phong tước quân, khác với với ấp phong của chư hầu khác. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Đến thời Hiếu Văn, tiền 'giáp' [1] càng có nhiều vì nhẹ, Tập giải: Như Thuần nói: "Như tiền 'du giáp'." bèn lại đúc tiền nặng bốn thù, trên tiền có khắc chữ là 'nửa lạng', ra lệnh người dân được tự ý đúc tiền. Cho nên Ngô Vương là chư hầu mà lấy đồng ở núi để đúc tiền, Sách ẩn: Xét: giàu ngang thiên tử, sau đó rút cuộc vì vậy lại làm phản. Trịnh Thông làm Đại phu, vì đúc tiền mà có của cải nhiều hơn bậc vương. Cho nên tiền của Ngô Vương, họ Trịnh có khắp thiên hạ, cho nên mới ra lệnh cấm tự đúc tiền. Người Hung Nô nhiều lần vào cướp biên giới phía bắc, nhiều lính thú đóng giữ, thóc ở biên giới không đủ để cấp cho người ở đấy ăn. Do đó gọi những người dân nào nộp và chuyển thóc được thì phong tước, tước được đến bậc Đại thứ trưởng. Sách ẩn: Xét: Hán thư thực hóa chí chép: "Văn Đế nghe lời của Triều Thố rằng: 'Ra lệnh người nào nộp sáu trăm thạch thóc cho biên giới thì phong tước Thượng tạo; nếu lên đến bốn ngàn thạch thì làm Ngũ đại phu; một vạn hai ngàn thạch thì làm Đại thứ trưởng; đều xét số thóc nhiều ít mà phong cho'." Vào thời Hiếu Cảnh, từ quận Thượng về phía tây khô hạn, cũng lại ra lệnh bán chức tước nhưng đặt giá rẻ để dụ dân, đến cả những kẻ bị tội đi đày cũng được đem thóc đến sở quan huyện để xóa tội. Làm thêm vườn ngựa để dùng nhiều, Sách ẩn: Nói là làm thêm vườn tược, dựng chuồng mà nuôi ngựa để dùng nhiều, vì ngựa là đồ dùng cho việc quân việc nước. lại sửa làm thêm cung thất, quán xá, xe ngựa. Đến thời nhà vua ngày nay [2] lên ngôi được mấy mấy, bấy giờ nhà Hán nổi lên được khoảng hơn bảy mươi năm rồi, nhà nước không có việc gì, không kể lúc gặp cái hại của nước lụt, khô hạn thì người dân được no đủ, kho tàng ở kinh sư quận huyện đều đầy, mà phủ chứa cũng thừa tiền của. Tiền ở kinh sư có đến hàng vạn, đến nỗi xâu tiền mòn mà không đếm được. Thóc bày đặt ở kho lớn chồng lên nhau, chất chứa đầy tràn ra ở ngoài, đến nỗi mục nát không ăn được. Ở ngõ làng người dân có ngựa ở giữa bờ bãi họp thành bầy, đến nỗi kẻ cưỡi ngựa cái bị xua gạt mà không được tụ họp. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Mọi người đều cưỡi ngựa đực, nếu có kẻ cưỡi ngựa cái xen vào giữa thì đá gạt ra, cho nên xua đuổi ra khỏi hội." Kẻ coi cổng làng ăn thịt ngon, kẻ làm quan thì lâu năm đến thời con cháu. Tập giải: Như Thuần nói: "Bấy giờ không có việc gì, quan lại không bị chuyển, đến thời con cháu lớn rồi mà không bị chuyển chức tước." Cho nên người người tự yêu mình mà sợ phạm pháp, trước làm việc nghĩa, sau tránh sỉ nhục. Vào thời bấy giờ, luật lệ nới lỏng mà người dân giàu có, nhiều tiền của mà thêm kiêu, có kẻ đến nỗi lấn chiếm cả bọn hào phú, dùng sức ra oai ở làng ấp. Sách ẩn: Nói là bọn hào phú ở làng ấp không có chức quan, nhưng lấy thế oai để nắn cong uốn thẳng, cho nên nói là 'dùng sức ra oai'. Từ họ hàng nhà vua, sĩ công khanh, đại phu trở xuống đều tranh nhau tiêu xài xa xỉ, đến nỗi nhà cửa, xe, áo đẹp hơn cả nhà vua, không giảm bớt. Việc đời thịnh rồi suy, vốn là lẽ biến đổi của nó vậy. ... [www.sidneyluo.net] ___________________ Chú giải: [1] Tiền 'giáp': còn gọi là tiền 'du giáp', là loại tiền đúc bằng đồng mỏng nhẹ, chỉ nặng ba thù, hình dạng như lá cây du, cây giáp. [2] Nhà vua ngày nay: chỉ vua Vũ Đế nhà Hán. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Đến thời Hiếu Văn, tiền 'giáp' [1] càng có nhiều vì nhẹ, Tập giải: Như Thuần nói: "Như tiền 'du giáp'." bèn lại đúc tiền nặng bốn thù, trên tiền có khắc chữ là 'nửa lạng', ra lệnh người dân được tự ý đúc tiền. Cho nên Ngô Vương là chư hầu mà lấy đồng ở núi để đúc tiền, giàu ngang thiên tử, sau đó rút cuộc vì vậy lại làm phản. Trịnh Thông làm Đại phu, vì đúc tiền mà có của cải nhiều hơn bậc vương. Cho nên tiền của Ngô Vương, họ Trịnh có khắp thiên hạ, cho nên mới ra lệnh cấm tự đúc tiền. Người Hung Nô nhiều lần vào cướp biên giới phía bắc, nhiều lính thú đóng giữ, thóc ở biên giới không đủ để cấp cho người ở đấy ăn. Do đó gọi những người dân nào nộp và chuyển thóc được thì phong tước, tước được đến bậc Đại thứ trưởng. Sách ẩn: Xét: Hán thư thực hóa chí chép: "Văn Đế nghe lời của Triều Thố rằng: 'Ra lệnh người nào nộp sáu trăm thạch thóc cho biên giới thì phong tước Thượng tạo; nếu lên đến bốn ngàn thạch thì làm Ngũ đại phu; một vạn hai ngàn thạch thì làm Đại thứ trưởng; đều xét số thóc nhiều ít mà phong cho'." Vào thời Hiếu Cảnh, từ quận Thượng về phía tây khô hạn, cũng lại ra lệnh bán chức tước nhưng đặt giá rẻ để dụ dân, đến cả những kẻ bị tội đi đày cũng được đem thóc đến sở quan huyện để xóa tội. Làm thêm vườn ngựa để dùng nhiều, Sách ẩn: Nói là làm thêm vườn tược, dựng chuồng mà nuôi ngựa để dùng nhiều, vì ngựa là đồ dùng cho việc quân việc nước. lại sửa làm thêm cung thất, quán xá, xe ngựa. Đến thời nhà vua ngày nay [2] lên ngôi được mấy mấy, bấy giờ nhà Hán nổi lên được khoảng hơn bảy mươi năm rồi, nhà nước không có việc gì, không kể lúc gặp cái hại của nước lụt, khô hạn thì người dân được no đủ, kho tàng ở kinh sư quận huyện đều đầy, mà phủ chứa cũng thừa tiền của. Tiền ở kinh sư có đến hàng vạn, đến nỗi xâu tiền mòn mà không đếm được. Thóc bày đặt ở kho lớn chồng lên nhau, chất chứa đầy tràn ra ở ngoài, đến nỗi mục nát không ăn được. Ở ngõ làng người dân có ngựa ở giữa bờ bãi họp thành bầy, đến nỗi kẻ cưỡi ngựa cái bị xua gạt mà không được tụ họp. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Mọi người đều cưỡi ngựa đực, nếu có kẻ cưỡi ngựa cái xen vào giữa thì đá gạt ra, cho nên xua đuổi ra khỏi hội." Kẻ coi cổng làng ăn thịt ngon, kẻ làm quan thì lâu năm đến thời con cháu. Tập giải: Như Thuần nói: "Bấy giờ không có việc gì, quan lại không bị chuyển, đến thời con cháu lớn rồi mà không bị chuyển chức tước." Cho nên người người tự yêu mình mà sợ phạm pháp, trước làm việc nghĩa, sau tránh sỉ nhục. Vào thời bấy giờ, luật lệ nới lỏng mà người dân giàu có, nhiều tiền của mà thêm kiêu, có kẻ đến nỗi lấn chiếm cả bọn hào phú, dùng sức ra oai ở làng ấp. Sách ẩn: Nói là bọn hào phú ở làng ấp không có chức quan, nhưng lấy thế oai để nắn cong uốn thẳng, cho nên nói là 'dùng sức ra oai'. Từ họ hàng nhà vua, sĩ công khanh, đại phu trở xuống đều tranh nhau tiêu xài xa xỉ, đến nỗi nhà cửa, xe, áo đẹp hơn cả nhà vua, không giảm bớt. Việc đời thịnh rồi suy, vốn là lẽ biến đổi của nó vậy. ... [www.sidneyluo.net] ___________________ Chú giải: [1] Tiền 'giáp': còn gọi là tiền 'du giáp', là loại tiền đúc bằng đồng mỏng nhẹ, chỉ nặng ba thù, hình dạng như lá cây du, cây giáp. [2] Nhà vua ngày nay: chỉ vua Vũ Đế nhà Hán. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Đến thời Hiếu Văn, tiền 'giáp' [1] càng có nhiều vì nhẹ, Tập giải: Như Thuần nói: "Như tiền 'du giáp'." bèn lại đúc tiền nặng bốn thù, trên tiền có khắc chữ là 'nửa lạng', ra lệnh người dân được tự ý đúc tiền. Cho nên Ngô Vương là chư hầu mà lấy đồng ở núi để đúc tiền, giàu ngang thiên tử, sau đó rút cuộc vì vậy lại làm phản. Trịnh Thông làm Đại phu, vì đúc tiền mà có của cải nhiều hơn bậc vương. Cho nên tiền của Ngô Vương, họ Trịnh có khắp thiên hạ, cho nên mới ra lệnh cấm tự đúc tiền. Người Hung Nô nhiều lần vào cướp biên giới phía bắc, nhiều lính thú đóng giữ, thóc ở biên giới không đủ để cấp cho người ở đấy ăn. Do đó gọi những người dân nào nộp và chuyển thóc được thì phong tước, tước được đến bậc Đại thứ trưởng. [/color=red]Sách ẩn: Xét: Hán thư thực hóa chí chép: "Văn Đế nghe lời của Triều Thố rằng: 'Ra lệnh người nào nộp sáu trăm thạch thóc cho biên giới thì phong tước Thượng tạo; nếu lên đến bốn ngàn thạch thì làm Ngũ đại phu; một vạn hai ngàn thạch thì làm Đại thứ trưởng; đều xét số thóc nhiều ít mà phong cho'." Vào thời Hiếu Cảnh, từ quận Thượng về phía tây khô hạn, cũng lại ra lệnh bán chức tước nhưng đặt giá rẻ để dụ dân, đến cả những kẻ bị tội đi đày cũng được đem thóc đến sở quan huyện để xóa tội. Làm thêm vườn ngựa để dùng nhiều, Sách ẩn: Nói là làm thêm vườn tược, dựng chuồng mà nuôi ngựa để dùng nhiều, vì ngựa là đồ dùng cho việc quân việc nước.lại sửa làm thêm cung thất, quán xá, xe ngựa. Đến thời nhà vua ngày nay [2] lên ngôi được mấy mấy, bấy giờ nhà Hán nổi lên được khoảng hơn bảy mươi năm rồi, nhà nước không có việc gì, không kể lúc gặp cái hại của nước lụt, khô hạn thì người dân được no đủ, kho tàng ở kinh sư quận huyện đều đầy, mà phủ chứa cũng thừa tiền của. Tiền ở kinh sư có đến hàng vạn, đến nỗi xâu tiền mòn mà không đếm được. Thóc bày đặt ở kho lớn chồng lên nhau, chất chứa đầy tràn ra ở ngoài, đến nỗi mục nát không ăn được. Ở ngõ làng người dân có ngựa ở giữa bờ bãi họp thành bầy, đến nỗi kẻ cưỡi ngựa cái bị xua gạt mà không được tụ họp. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Mọi người đều cưỡi ngựa đực, nếu có kẻ cưỡi ngựa cái xen vào giữa thì đá gạt ra, cho nên xua đuổi ra khỏi hội." Kẻ coi cổng làng ăn thịt ngon, kẻ làm quan thì lâu năm đến thời con cháu, Tập giải: Như Thuần nói: "Bấy giờ không có việc gì, quan lại không bị chuyển, đến thời con cháu lớn rồi mà không bị chuyển chức tước." người làm quan lấy tên kho tàng đó làm tên họ. Tập giải: Như Thuần nói: "Là họ Thương, họ Dữu." Cho nên người người tự yêu mình mà sợ phạm pháp, trước làm việc nghĩa, sau tránh sỉ nhục. Vào thời bấy giờ, luật lệ nới lỏng mà người dân giàu có, nhiều tiền của mà thêm kiêu, có kẻ đến nỗi lấn chiếm cả bọn hào phú, dùng sức ra oai ở làng ấp. Sách ẩn: Nói là bọn hào phú ở làng ấp không có chức quan, nhưng lấy thế oai để nắn cong uốn thẳng, cho nên nói là 'dùng sức ra oai'. Từ họ hàng nhà vua, sĩ công khanh, đại phu trở xuống đều tranh nhau tiêu xài xa xỉ, đến nỗi nhà cửa, xe, áo đẹp hơn cả nhà vua, không giảm bớt. Việc đời thịnh rồi suy, vốn là lẽ biến đổi của nó vậy. Từ đó về sau, bọn Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần vẫy gọi người nước Đông Âu, Chính nghĩa: Đọc là 'ư hầu phiên. Là huyện Vĩnh Ninh châu Đài ngày nay. dụ người hai nước Việt, Chính nghĩa: Nam Việt và Mân Việt. Nam Việt là huyện Nam Hải châu Quảng ngày nay. Mân Việt là huyện Kiến An châu Kiến ngày nay. Miền giữa sông Giang, sông Hoài rầu rĩ tốn kém. Bọn Đường Mông, Tư Mã Tương Như mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, đào núi thông đường dài hơn ngàn dặm để mở rộng đất Ba-Thục, dân đất Ba-Thục mệt mỏi. Bành Ngô đến diệt nước Triều Tiên, Sách ẩn: Bành Ngô mở đường mà đến diệt nước ấy. đặt ra quận Thương Hải, do đó miền giữa nước Yên, nước Tề lướt theo xáo động. Kịp lúc Vương Khôi bày mưu ở thành Mã Ấp, người Hung Nô bèn dứt hòa thân, xâm lấn biên giới phía bắc, dùng binh liên miên không nghỉ, thiên hạ khổ vì lao dịch, mà việc can qua ngày càng nhiều. Người đi thì mang vác, kẻ ở thì đưa chở, trong ngoài rối ren mà cấp cho nhau, trăm họ khốn đốn, luồn lách luật pháp, của cải hao tổn mà không đầy đủ. Kẻ nộp tiền thì được làm quan, người dâng của thì được xóa tội, việc tuyển chọn bỏ bê, thật giả lẫn lộn, kẻ có sức mạnh được chọn dùng, pháp lệnh nghiêm ngặt. Những bầy tôi bày mưu kiếm lời có từ đấy vậy. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Là bọn Tang Hoằng Dương, Khổng Cận." Sau đó tướng của nhà Hán hằng năm lại đem mấy vạn quân kị ra đánh rợ Hồ, kịp lúc Xa kị tướng quân tên là Vệ Thanh đánh lấy đất phía nam sông Hà của người Hung Nô, Chính nghĩa: Là đất ba châu Linh, Hạ, lấy vào năm Nguyên Sóc thứ hai. đắp thành Sóc Phương. Chính nghĩa: Là châu Hạ ngày nay. Quát địa chí chép: "Châu Hạ thuộc quận Thượng thời Tần. Nhà Hán chia đặt quận Sóc Phương, nhà Ngụy đông đổi, nhà Tùy đặt ra châu Hạ. Vào thời ấy, nhà Hán mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, có mấy vạn người làm đường, ngàn dặm gồng gánh lương thực, đem hơn chục chung mà đến nơi chỉ còn một thạch, phát tiền cho người đất Cung, đất Bặc để chiêu tập họ. Sách ẩn: Ứng Thiệu nói: "Đất Lâm Cung thuộc quận Thục, đất Bặc thuộc quận Kiền Vi." Nhưng mấy năm đường không thông, người Man-Di nhân đó nhiều lần chặn đánh, quan lại phát binh đánh họ. Dốc hết tô thuế của người đất Ba-Thục cũng không đủ để cấp cho quân ấy, bèn mời dân nhà giàu đến làm ruộng ở chỗ người Di miền tây nam mà thu thóc cấp cho quan huyện, lại nạp tiền về cho kinh đô. Phía đông làm đường đến quận Thương Hải, tiền xài của bọn này cũng ngang với việc làm đường đến chỗ người Di miền tây nam. Lại phát hơn chục vạn người đắp giữ thành Sóc Phương, dùng thuyền chở rất xa xôi, người miền Sơn Đông đều bị vất vả, hao phí đến mấy chục trăm cự vạn tiền, kho tàng càng trống rỗng. Lại dụ người dân nào nộp nô tì thì được miễn tô thuế suốt đời, nếu làm quan Lang thì thêm bổng lộc, cho đến việc nạp dê được làm quan Lang cũng bắt nguồn từ đấy. ... [www.sidneyluo.net] ___________________ Chú giải: [1] Tiền 'giáp': còn gọi là tiền 'du giáp', là loại tiền đúc bằng đồng mỏng nhẹ, chỉ nặng ba thù, hình dạng như lá cây du, cây giáp. [2] Nhà vua ngày nay: chỉ vua Vũ Đế nhà Hán. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Sau đó tướng của nhà Hán hằng năm lại đem mấy vạn quân kị ra đánh rợ Hồ, kịp lúc Xa kị tướng quân tên là Vệ Thanh đánh lấy đất phía nam sông Hà của người Hung Nô, Chính nghĩa: Là đất ba châu Linh, Hạ, lấy vào năm Nguyên Sóc thứ hai. đắp thành Sóc Phương. Chính nghĩa: Là châu Hạ ngày nay. Quát địa chí chép: "Châu Hạ thuộc quận Thượng thời Tần. Nhà Hán chia đặt quận Sóc Phương, nhà Ngụy đông đổi, nhà Tùy đặt ra châu Hạ. Vào thời ấy, nhà Hán mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, có mấy vạn người làm đường, ngàn dặm gồng gánh lương thực, đem hơn chục chung mà đến nơi chỉ còn một thạch, phát tiền cho người đất Cung, đất Bặc để chiêu tập họ. Sách ẩn: Ứng Thiệu nói: "Đất Lâm Cung thuộc quận Thục, đất Bặc thuộc quận Kiền Vi." Nhưng mấy năm đường không thông, người Man-Di nhân đó nhiều lần chặn đánh, quan lại phát binh đánh họ. Dốc hết tô thuế của người đất Ba-Thục cũng không đủ để cấp cho quân ấy, bèn mời dân nhà giàu đến làm ruộng ở chỗ người Di miền tây nam mà gặt thóc cấp cho quan huyện, lại về nhận tiền ở trong kinh đô. Phía đông làm đường đến quận Thương Hải, tiền xài của bọn này cũng ngang với việc làm đường đến chỗ người Di miền tây nam. Lại phát hơn chục vạn người đắp giữ thành Sóc Phương, dùng thuyền chở rất xa xôi, người miền Sơn Đông đều bị vất vả, hao phí đến mấy chục trăm cự vạn tiền, kho tàng càng trống rỗng. Lại dụ người dân nào nộp nô tì thì được miễn tô thuế suốt đời, nếu làm quan Lang thì thêm bổng lộc, cho đến việc nạp dê được làm quan Lang cũng bắt nguồn từ đấy. Bốn năm sau đó, Tập giải: Từ Quảng nói: "Vào năm Nguyên Sóc thứ năm." nhà Hán sai Đại tướng quân đem sáu vị tướng quân, hơn mười vạn lính đi đánh Hữu hiền vương, bắt chém hơn một vạn năm ngàn đầu giặc. Năm sau, Đại tướng quân đem sáu vị tướng quân vẫn lại ra đánh rợ Hồ, bắt chém hơn một vạn chín ngàn đầu giặc. Quân lính bắt chém được đầu giặc được ban cho hơn hai mươi vạn cân vàng ròng, hơn một vạn quân giặc đến hàng cũng được thưởng lớn, cơm áo trông vào quan huyện cấp cho; mà người ngựa của quân Hán chết đến hơn mười vạn người, con, không kể tiền phí chuyển chở bằng xe thuyền cho quân lính trong đó. Do đó tiền của trong kho của quan Tư nông hao giảm, dốc hết tô thuế mà vẫn không đủ để cấp cho quân lính. Quan coi việc ấy nói: "Thiên tử nói: 'Trẫm nghe nói pháp lệnh của ngũ đế không lặp lại nhau mà nước yên, phép tắc của vua Vũ, vua Thang không giống nhau mà nước mạnh, đi con đường khác nhau nhưng lập đức là một. Biên giới phía bắc chưa yên, trẫm rất lo lắng. Vừa rồi Đại tướng quân đánh rợ Hung Nô, chém một vạn chín ngàn đầu giặc, dồn chứa không có gì ăn. Sách ẩn: Xét: Nói là người giàu cất chứa thóc lúa thì người nghèo không có gì ăn. Bàn rằng ra lệnh cho dân được mua chức quan và lấy tiền chuộc để miễn giảm tội'. Xin đặt lệnh thưởng quan, gọi là tước võ công. Tập giải: Toản nói: "Mậu Lăng trung thư có chép tước võ công, cấp thứ một là 'Tạo sĩ', cấp thư hai là 'Nhàn dư vệ', cấp thứ ba là 'Lương sĩ', cấp thứ bốn là 'Nguyên nhung sĩ', cấp thứ năm là 'Quan thủ', cấp thứ sáu là 'Bỉnh đạc', cấp thứ bảy là 'Thiên phu', cấp thứ tám là 'Nhạc khanh', cấp thứ chín là 'Chấp nhung', cấp thứ mười là 'Tả thứ trưởng', cấp thứ mười một là 'Quân vệ'. Đấy là tước mà Vũ Đế đặt ra để ban cho người có công về việc quân." Mỗi cấp giá mười bảy vạn tiền, cả thảy là hơn ba mươi vạn cân cân vàng. Sách ẩn: Đại Nhan nói: "Một cân vàng giá vạn tiền. Tính ra mười một cấp, mỗi cấp mười bảy vạn tiền, tổng là một trăm tám mươi bảy vạn cân vàng." Mà đây nói là "hơn ba mươi cân vàng", số này tất có sai. Họ Cố xét: Có kẻ giải thích là lúc đầu mỗi cấp là mười bảy vạn tiền, từ đấy trở lên mỗi cấp thêm hai vạn tiền, đến mười một cấp, tổng là ba mươi bảy vạn. Những kẻ mua tước võ công đến cấp 'Quan thủ' thì được dùng thử làm quan, cho nhậm chức trước; mua đến cấp 'Thiên phu' thì như bậc Ngũ đại phu; Sách ẩn: Thiên phu là cấp thứ bảy của tước võ công; Ngũ đại phu là tước thứ chín trong hai mươi tước. Nói là bổng lộc của cấp Thiên phu ngang với bổng lộc của tước thứ chín trong hai mươi tước là Ngũ đại phu, cho nên Dương Bộc lấy cấp Thiên phu mà làm quan. Kẻ có tội lại bị giảm hai bậc, tước chỉ đến cấp 'Nhạc khanh'. Tập giải: Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: "Từ tước thứ mười là Tả thứ trưởng đến tước thức mười tám là Đại thứ trưởng, tên là Lạc khanh. Lạc khanh châu ở ngôi vị cửu khanh, thêm chữ Lạc để phân biệt tước Chính khanh. Lại có tước thứ mười chín là Nhạc công, ăn bổng lộc như công khanh mà không có chức quyền gì." Xét: Đây là nói tước võ công chỉ đến được bậc Nhạc khanh. Mậu Lăng thư mà Thần Toản dẫn có lẽ là người đời sau chép tước ấy sai thứ tự. để nếu rõ công của quân sĩ." Quân sĩ được thưởng công phần nhiều hơn bậc ấy, lớn thì phong hầu, khanh, đại phu; nhỏ thì làm quan Lang, quan Lại. Phép tắc chọn quan lại rườm rà mà nhiều cách, cho nên quan chức này bỏ bê. Từ lúc Công Tôn Hoằng đem nghĩa của kinh Xuân thu bó buộc bầy tôi mà làm Thừa tướng của nhà Hán, Trương Thang dùng pháp lệnh nghiêm ngặt mà làm Đình úy, do đó sinh ra luật 'thấy biết', Tập giải: Trương Yến nói: "Quan lại thấy biết mà không nói ra thì bị xét tội." lại dùng hình phạt đến cùng với những kẻ ngăn trở chê bai nhà vua. Tập giải: Như Thuần nói: "Ngăn trở pháp lệnh của thiên tử, khiến cho không làm được. Chê bai là cho rằng việc mà nhà vua làm là sai, như Nhan Dị phản bác." Sách ẩn: Xét: Những kẻ ngăn trở pháp lệnh của thiên tử mà không làm và chê bai nói xấu nó thì đều bị phạt đến cùng, cho nên nói là 'dùng hình phạt đến cùng với những kẻ ngăn trở chê bai nhà vua'. Năm sau đó, Hoài Nam Vương, Hành Sơn Vương, Giang Đô Vương mưu phản bị lộ, cho nên công khanh tìm tội mà phạt họ, xét lỗi cả phe đảng của họ, cho nên có mấy vạn người bị khép tội chết. Các quan trưởng lại càng khắc nghiệt mà pháp lệnh rạch ròi. Vào thời bấy giờ, nhà vua ưa chọn kẻ sĩ văn học ngay thẳng, hiền lành, có người làm đến công khanh, đại phu. Công Tôn Hoằng làm Thừa tướng của nhà Hán, mặc áo vải, ăn không hai món, làm gương trước thiên hạ, nhưng không ích chi cho thói tục, dần dần người ta hùa theo việc lập công tìm lợi. Năm sau đó, Phiếu kị tướng quân vẫn lại ra đánh rợ Hồ, bắt chém bốn vạn đầu giặc. Mùa thu năm đó, Hồn Da Vương đem mấy vạn người đến hàng, do đó nhà Hán phát hai vạn cỗ xe đi đón. Đã đến nhận thưởng, lại ban tặng cho quân sĩ có công. Năm đó tiêu tốn cả thảy hơn một trăm cự vạn tiền. Lúc trước vào hơn mười năm trước vỡ đê sông Hà ở huyện Quan, Tập giải: Từ Quảng nói: "Quan là tên huyện, thuộc quận Đông, vua Quang Vũ Đế đổi tên là huyện Vệ, là nước của người được phong tước công. miền nước Lương, nước Sở vốn đã nhiều lần bị khốn, mà đê ngăn sông Hà ở các quân ven sông Hà lại vỡ đổ, tiêu phí không sao kể hết được. Sau đó Phan Hạ muốn muốn giảm việc chở bằng thuyền vòng qua núi Để Trụ, bày cách đào kênh dẫn nước sông Phần, sông Hà vào ruộng, có đến mấy vạn người làm; Trịnh Đương Thời vì chở bằng thuyền theo kênh sông Vị xa vòng, bày cách đào kênh thẳng từ thành Trường An đến phía bắc núi Hoa, có mấy vạn người làm; ở quận Sóc Phương cũng đào kênh, có mấy vạn người làm; đều trải hai, ba năm mà chưa thành công, cũng đều tiêu phí đến mấy chục cự vạn tiền. Thiên tử vì việc đánh rợ Hồ mà nuôi nhiều ngựa, có mấy vạn con ngựa cho đến ăn ở thành Trường An, lính chăn nuôi ngựa ở miền Quan Trung không đủ, bèn gọi lính ở các quận gần bên đến. Lại có người Hồ đến hàng đều trông chờ quan huyện cấp cho cơm áo nhưng quan huyện không cấp đủ, thiên tử bèn giảm đồ ăn, bớt ngựa xe cưỡi, dốc tiền của trong kho phủ của mình để cấp cho họ. Năm sau đó, miền Sơn Đông bị nạn nước lụt, nhiều người dân thiếu đói, do đó thiên tử sai sứ giả dốc hết kho lúa của quận ấp để cứu dân nghèo. Nhưng không đủ, lại dụ người giàu có đem cho vay. Vẫn không cứu nhau được, bèn dời dân nghèo đến ở từ cửa quan đến phía tây và đến quận Sóc Phương về phía nam đến miền Tân Tần Trung, Tập giải: Phục Kiền nói: "Tên đất, ở miền bắc ngàn dặm." Như Thuần nói: "Từ thành Trường An lên phía bắc, từ thành Sóc Phương về phía nam." Toản nói: "Nhà Tần đuổi rợ Hung Nô để lấy miền phía nam sông Hà, dời dân đến ở đấy, gọi là đất Tân Tần. Nay đã thành đất trống, cho nên lại dời dân đến ở đấy." có hơn bảy mươi vạn người, cơm áo đều trông vào quan huyện. Trong mấy năm, phát cho của cải, sứ giả chia ra giúp đỡ họ, mũ lọng nối nhau, tiêu phí đến hàng ức tiền, không kể hết được. Do đó quan huyện hết sạch tiền của. Nhưng nhà buôn bán lớn giàu có kẻ dồn trữ hàng hóa để ép người nghèo, chở mấy trăm xe thóc, cất chứa ở ấp, Bùi Nhân xét: Như Thuần nói: "Chứa hàng hóa rẻ ở trong ấp để đợi giá đắt." Sách ẩn: Phục Kiền nói: "Chứa thóc ở trong ấp." những người được phong quân đều cúi đầu trông họ cấp cho. Tập giải: Phục Kiền nói: "Trông nhà buôn cấp cho." Sách ẩn: Xét: Phục Kiền nói: "Trông nhà buôn cấp cho." Nhưng Lưu Bá Trang cho rằng: "Những người được phong tước quân cùng nhà buôn lớn đều cúi đầu mua bán riêng để tự cấp, không giúp thiên tử." Vậy không phải. Có kẻ đúc sắt nấu muối, tiền của đến một vạn cân vàng mà không giúp cái khó của nhà nước, dân đen càng khốn. Do đó thiên tử bàn với công khanh, đổi tiền làm tệ để chi dùng, lại xét tội bọn chiếm đoạt hoang phí. Bấy giờ trong vườn cấm có nuôi hươu trắng mà ở phủ quan Thiếu phủ có nhiều bạc, thiếc. Từ thời Hiếu Văn làm mới tiền bốn thù đến năm nay là hơn bốn mươi năm, từ năm Kiến Nguyên đến nay dùng ít, quan huyện nơi nơi lại có nhiều núi đồng mà đúc tiền, người dân cũng lẻn trộm đúc tiền, không sao kể hết. Tiền càng nhiều mà nhẹ, Tập giải: Như Thuần nói: "Mài tiền lấy vụn vậy." Toản nói: "Nhiều người đúc tiền cho nên tiền bị coi nhẹ. Coi nhẹ là rẻ." hàng hóa càng ít mà đắt. Tập giải: Như Thuần nói: "Chỉ đúc làm tiền mà không làm ra hàng hóa." Quan coi việc nói: "Ngày xưa lấy da làm tệ, chư hầu lấy để dâng nạp. Vàng có ba loại, vàng ròng là hạng đầu, vàng trắng là hạng trung, vàng đỏ là hạng cuối. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Vàng trắng là bạc. Vàng đỏ là đồng sáng đỏ." Sách ẩn: Thuyết văn chép: "Đồng là vàng đỏ." Chú giải rằng: "'Đồng sáng đỏ' là theo Thần dị kinh chép: 'Núi vàng miền tây có đồng sáng đỏ'." Nay luật là tiền 'nửa lạng' nhưng nặng có bốn thù, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Trên tiền khắc chữ 'nửa lạng', nhưng thực chỉ nặng bốn thù." lại có kẻ gian hoặc kẻ trộm mài tiền để lấy vụn, tiền càng mỏng nhẹ mà hàng hóa lại đắt, do đó người phương xa dùng tiền ấy ruờm rà mà không tiện." Bèn lấy da hươu trắng vuông một thước, viền thêu tua tía, làm tệ da, giá bốn mươi vạn tiền. Họ hàng, vương hầu chầu gặp cống nạp, phải lấy miếng ngọc đặt lên tệ da rồi mới được vào. Lại đúc bạc, thiếc làm vàng trắng. Tập giải: Như Thuần nói: "Đúc lẫn thiếc, bạc làm vàng trắng." Cho rằng trời dùng không gì bằng con rồng, Sách ẩn: Dịch chép: "Bay leê mây đi giữa trời chẳng gì bằng con rồng." đất dùng chẳng gì bằng con ngựa, Sách ẩn: Dịch chép: "Đi trên đất chẳng gì bằng con ngựa." người dùng chẳng gì bằng con rùa, Sách ẩn: Lễ chép: "Chư hầu lấy mai rùa làm vật báu." cho nên vàng trắng có ba loại: một là nặng tám lạng, hình tròn, trên có khắc hình con rồng, Sách ẩn: Họ Cố xét: Tiền phổ chép: "Trên có khắc hình con rồng, nửa ẩn nửa hiện, viền lỗ đều tròn, lại có khắc hình đám mây." tên là 'bạch tuyển', Sách ẩn: Thượng thư đại truyện chép: "Họ Hạ Hậu không dùng hình phạt giết người có tội, kẻ bị tội chết thì phạt hai ngàn tuyển tiền." Mã Dung nói: "Một tuyển là sáu lạng." giá ba ngàn tiền; hai thì làm nặng ít hơn, hình vuông, khắc hình con ngựa, giá năm trăm tiền; ba thì nhỏ hơn nữa, hình hẹp vuông, Sách ẩn: Nói là dài mà vuông. khắc hình con rùa, giá ba trăm tiền. Ra lệnh quan huyện hủy tiền 'nửa lạng', lại đúc tiền nặng ba thù, khắc chữ như cân nặng. Kẻ lẻn đúc các loại tiền vàng đều bị tội chết, nhưng vẫn có quan dân trộm đúc vàng trắng không kể hết được. Do đó lấy Đông Quách Hàm Dương, Sách ẩn: Đông Quách là họ, Hàm Dương là tên. Xét: Phong tục thông có chép Đông Quách Nha là quan Đại phu của nước Tề. Hàm Dương là dòng dõi của người ấy. Khổng Cận làm Đại nông thừa, coi việc thu muối, sắt; Tang Hoằng Dương lấy coi việc tính đếm, làm Thị trung. Hàm Dương là người nấu muối lớn ở nước Tề, Khổng Cận là kẻ nấu sắt ở quận Nam Dương, đều giàu có đến ngàn cân vàng, cho nên Trịnh Đương Thời tiến cử với nhà vua. Hoằng Dương là con nhà buôn ở thành Lạc Dương, đếm trong lòng, mười ba tuổi làm Thị trung. Cho nên ba người nói về việc kiếm lợi thì kể ra từng kẽ lông. Sách ẩn: Xét: Ý là mọi vật nhỏ bé đến mùa thu đều mịn đẹp. Nay nói ba người bọn Hoằng Dương nói việc kiếm lời kín kẽ, có thể bới móc đến tận kẽ lông chim vào mùa thu. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Pháp lệnh càng nghiêm, nhiều quan lại bị bãi truất. Nhiều lần động binh cách, nhiều người dân mua chức tước để tránh lao dịch, làm đến chức Ngũ đại phu, càng ít quân lính bị gọi phát. Do đó cho bọn tước Thiên phu, Ngũ đại phu làm quan, nếu kẻ nào không muốn làm thì nạp ngựa; những quan lại cũ đều bị bãi, sai chặt cây cức ở vườn Thượng Lâm, Tập giải: Vi Chiêu nói: "Muốn sai nạp ngựa, nhưng những kẻ không có ngựa thì sai đi chặt cây cức." Sách ẩn: Những quan lại cũ đều bị chuyển đi chặt cây cức. Là nói quan lại cũ bị bãi trước, đều dời đi chặt cây cức ở vườn thượng lâm, không nói kẻ không có ngựa. Họ Vi nói sai. làm ao Côn Minh. Sách ẩn: Xét: Hoàng đồ chép: "Ao Côn Minh bao quanh bốn mươi dặm, để tập đánh trên nước." Lại theo Tuân Thuyết nói: "Bấy giờ vua rợ Côn Minh ở giữa ao Điền, cho nên tập trận trên nước để đánh nó." Năm sau đó, Đại tướng quân, Phiếu kị tướng quân đem quân lớn ra đánh rợ Hồ, Tập giải: Từ Quảng nói: "Vào năm Nguyên Thú thứ tư." bắt chém tám, chín vạn đầu địch, thưởng cho năm mươi vạn cân vàng. Quân Hán chết đến hơn mười vạn người ngựa, không kể tổn phí xe thuyền chuyển chở trong đó. Bấy giờ của cải thiếu, nhiều quân lính không được cấp lương. Quan coi việc nói tiền ba thù nhẹ, dễ làm gian, bèn lại xin các quận ấp đúc tiền năm thù, có viền bao quanh để không mài lấy vụn được. Quan Đại nông tấu lời của quan coi muối, sắt là Khổng Cận, Hàm Dương rằng: "Núi biển là kho chứa của trời đất, đều nên cho đặt ở phủ quan Thiếu phủ, Sách ẩn: Vi Chiêu nói: "Là chỗ mà thiên tử lấy dùng riêng. Dùng việc công thuộc vào quan Đại tư nông." bệ hạ không lấy riêng để cho quan Đại nông thu thuế. Xin dụ người dân tự cấp phí, lấy đồ dùng của quan lại mà nấu muối, quan lại cấp cho đồ chậu. Tập giải: Như Thuần nói: "Chậu là cái chậu để nấu muối." Những kẻ mải miết ăn bám Sách ẩn: Kẻ ăn bám là chỉ chư hầu, không phải là bọn buôn bán, thợ nghề, cho nên nói là 'ăn bám'. muốn giữ lấy cái lợi của núi biển để dẫn đến giàu có, Tập giải: Trương Yến nói: "Là như nắm giữ then cửa kho tàng." kiềm lời ép dân đen. Lời bàn ngăn việc này của chúng. Tập giải: Bọn Cận nói là kho tàng của núi biển nên cho vào sở quan Đại nông, bọn ăn bám muốn giữ lợi tất có lời bàn ngăn việc ấy, cho nên không nên nghe theo chúng. không nên nghe theo. Kẻ dám lén đúc sắt nấu muối riêng thì cùm chân trái, Vi Chiêu nói: "Cùm là cái lấy sắt làm nên, gông chân trái để thay hình phạt chặt chân." Sách ẩn: Xét: Tam thương chép: "Cùm, là cái kìm gông chân." Hán thư luật tự của Trương Phỉ chép: "Hình như cái ủng chân, để gông chân, dưới chân nặng sáu cân để thay hình phạt chặt đầu gối, thời Vũ Đế nhà Ngụy đổi thay hình phạt chặt chân." thu lấy đồ dùng. Quận nào không có sắt thì đặt chức Tiểu thiết quan, cho thuộc vào huyện của quận đó." Sai bọn Khổng Cận, Đông Quách Hàm Dương ngôi xe đi xét muối, sắt trong thiên hạ, làm phủ quan, cho nhà giàu nhờ làm nghề nấu sắt làm muối làm quan. Con đường làm quan càng lẫn lộn, không cần tuyển chọn, cho nên có nhiều nhà buôn làm quan vậy. Nhà buôn vì tiền thường đổi cho nên cất chứa nhiều hàng hóa để kiếm lời. Do đó công khanh nói: "Nhiều quận ấp bị nạn nước lụt, người nghèo không còn của cải thì cho dời đến chỗ đất rộng tốt. Bệ hạ giảm ăn bớt xài, phát tiền trong cung cấm để giúp dân đen, nới lỏng thuế nợ, nhưng người dân không phải đều là từ kẻ làm ruộng, mà nhà buôn cũng nhiều. Người nghèo không có cất chứa, đều trông vào quan huyện. Thời trước đặt thuế cho kẻ đi xe nhỏ Sách ẩn: Phó Tử chép: "Thời Hán đánh thuế rẻ với người đi xe nhỏ, nay đánh thuế cao lên." Nói là đánh thuế kẻ đi xe nhỏ, kẻ có xe nhỏ thì phải nạp thuế một toán, hai toán tiền. thì xâu tiền của nhà buôn đều có ít, Lí Phỉ nói: Xâu làm sợi tơ để xâu tiền. Một xâu có ngàn tiền, là hai mươi toán. Kinh Thi chép: 'Người dân thật thà, lấy vải đổi tơ'. Cho nên nói là xâu." xin đặt thuế như cũ. Những nhà buôn làm nghề ngọn cho vay bán, cất chứa các hàng hóa ở ấp và những kẻ mua bán kiếm lời, dẫu không có tên trong sổ chợ, cũng đều phải xét đếm hàng hóa của mình, Sách ẩn: Xét: Quách Phác nói: "Nói là xét đếm hàng hóa nhiều ít mà làm sổ bạ nạp cho quan lại. Nếu không xét đếm không hết thì thu vào sở quan." lời được mỗi xâu hai ngàn tiền phải nạp một toán. Những kẻ làm thợ nghề và thợ rèn đúc Tập giải: Như Thuần nói: "Dùng sức tay mà làm ra hàng hóa để bán." thì lời mỗi xâu bốn ngàn tiền phải nộp một toán. Những kẻ không thuộc hàng quan lại là 'tam lão', quân kị ở biên giới phía bắc, Tập giải: Như Thuần nói: "Không phải quan lại mà được sánh với quan lại, gọi là tam lão, là quân kị ở biên giới phía bắc. Lâu thuyền tướng quân chọn những kẻ nhà giàu ở các quận biên giới phía bắc làm quân kị đi xe." kẻ có xe nhỏ phải nộp một toán, nhà buôn bán có xe nhỏ phải nộp hai toán; Tập giải: Như Thuần nói: "Nhà buôn bán có xe nhỏ thì nộp thuế hai toán là đánh thuế nặng." kẻ có thuyền dài năm trượng trở lên thì nạp một toán. Kẻ nào giấu không tự xét đếm hoặc xét đếm không hết thì bắt đi lính thú ở biên giới một năm, thu lấy một xâu tiền. Kẻ nào báo lên thì được thưởng một nửa tiền của của kẻ bị phạt. Nhà buôn có tên trong sổ chợ cùng với người nhà đều không được có sổ ruộng để làm lợi cho người làm ruộng. Sách ẩn: Nói là nhà buôn có tên trong sổ chợ thì không được mua lấy ruộng. Kẻ dám trái lệnh thì thu lấy ruộng, nô tì. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Thiên tử lại nhớ đến lời của Bốc Thức, gọi đến bái Thức làm Trung lang, tước Tả thứ trưởng, ban cho mười khoảnh ruộng, báo khắp thiên hạ để mọi người biết rõ. Trước đây có người quận Hà Nam tên là Bốc Thức, làm nghề làm ruộng, chăn nuôi. Cha mẹ chết, Thức có em nhỏ, kịp lúc em lớn, Thức rời nhà ra ngoài, chỉ lấy nuôi hơn trăm con dê, còn ruộng nhà, tiền của đều cho em. Thức vào trong núi nuôi dê hơn chục năm, có đến hơn một ngàn con dê, mua lấy ruộng nhà. Nhưng em Thức lại phá hết của cải của nó, Thức lại nhiều lần chia cấp cho em. Bấy giờ nhà Hán đang nhiều lần sai tướng đánh rợ Hung Nô; Bốc Thức dâng thư muốn đem nửa tiền của nhà mình cho quan huyện để giúp biên giới. Thiên tử sai sứ hỏi Thức rằng: "Muốn làm quan chăng?" Thức nói: "Thần thủa nhỏ chăn nuôi, không quen làm quan, không muốn." Sứ giả hỏi: "Nhà có nỗi oan nà muốn việc chi không?" Thức nói: "Thần sinh ra không có tranh giành với người ta. Kẻ nghèo ở ấp thì Thức cho họ vay, kẻ không tốt thì Thức dạy dỗ họ, người ở đây đều theo Thức, cớ chi Thức bị người ta gây nỗi oan! Không có chi muốn nói vậy." Sứ giả nói: "Nếu thư vậy, ông há muốn cái chi?" Thức nói: "Thiên tử đánh rợ Hung Nô, kẻ hèn này cho rằng người hiền nên liều chết ở biên giới, kẻ có tiền của thì nên chuyển chở đến, như thế thì mới diệt được rợ Hung Nô." Sứ giả đem lời ấy về báo lên. Thiên tử đem lời ấy nói với Thừa tướng tên là Hoằng. Hoằng nói: "Đấy chẳng hợp tình người, là bầy tôi không theo pháp lệnh, không nên đem làm thế mà gây rối pháp lệnh. Xin bệ hạ đừng nghe." Do đó nhà vua lâu ngày không báo cho Thức. Được mấy năm, lại đuổi Thức. Thức về, lại làm ruộng, chăn nuôi. Hơn một năm, gặp lúc nhiều lần phát quân ra đánh, bọn Hồn Da Vương hàng, quan huyện tiêu tốn nhiều tiền của, kho tàng trống rỗng. Năm sau đó, dời nhiều dân nghèo, đều trông quan huyện cấp lương, không sao cấp hết được. Bốc Thức mang hai mươi vạn tiền trao cho quan Thái thú quận Hà Nam để cấp cho dân đi dời. Thái thú quận Hà Nam dâng sổ kể tên người giàu giúp người nghèo, thiên tử thấy có tên Bốc Thức, biết được, nói: "Là kẻ trước đây muốn đem nửa tiền nhà giúp biên giới." Bèn ban bốn trăm người lao dịch ở ngoài cho Thức. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Lao dịch ở ngoài là nói lính thú ở biên giới. Mỗi người nộp ba trăm tiền, gọi là thay lao dịch. Thức mỗi năm được mười hai vạn tiền. Có kẻ nói là bốn trăm kẻ được miễn trừ lao dịch ở ngoài." Thức lại đem hết cho quan huyện. Bấy giờ nhà giàu có đều tranh cất giấu tiền của, riêng Thức lại muốn chuyển giúp tiêu xài. Do đó thiên tử cho rằng Thức là bậc hơn người, nêu rõ để làm thói tục cho trăm họ. Trước đây, Thức không muốn làm quan Lang. Nhà vua nói: "Ta có nuôi dê ở vườn Thượng Lâm, muốn sai ngươi nuôi chúng." Thức bèn bái làm Lang, mặc áo vải đi dép cỏ mà chăn dê. Hơn một năm, dê nhiều béo. Nhà vua qua xem dê ấy, khen hay. Thức nói: "Không chỉ chăn dê, trị dân cũng như vậy đó. Tùy lúc nghỉ dậy, con xấu thì nhanh bỏ đi, không cho làm hại cả đàn." Nhà vua cho Thức là lạ, bái Thức làm quan Lệnh huyện Hầu Thị để thử Thức, người dân huyện Hầu Thị được lợi. Lại chuyển làm quan Lệnh huyện Thành Cao, coi việc chở bằng thuyền rất tốt. Nhà vua cho là Thức trung thực, bái làm Thái phó của Tề Vương. Còn Khổng Cẩn đi sứ khắp thiên hạ để đúc đồ dùng, trong ba năm được bái làm Đại nông, xếp vào hàng cửu khanh. Tập giải: Từ Quảng nói: "Bấy giờ là năm Nguyên Đỉnh thứ hai, vào năm bính dần." Còn Tang Hoằng Dương làm Đại nông thừa, trông coi các việc tính đếm, dần dần đặt quan Quân thâu để chuyển chở hàng hóa. Tập giải: Mạnh Khang nói: "Nói là những hàng hóa nên chở đến sở quan, đều sai chở từ chỗ nào có nhiều, cân bằng giá tiền ở chỗ ấy, quan lại chuyển sang bán ở chỗ khác. Kẻ chở đã tiện mà quan lại cũng có lợi. Hán thư bách quan biểu chép quan thuộc của quan Đại tư nông có Quân thâu lệnh." Bắt đầu ra lệnh quan lại nào nạp thóc thì được tăng chức, làm quan Lang được bổng lộc sáu trăm thạch thóc. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Năm năm sau khi đúc vàng trắng, tiền năm thù, bèn tha tội chết cho mấy chục vạn quan dân lén đúc tiền vàng. Những kẻ không bị phát giác thì có kẻ giết nhau, không biết bao nhiêu mà kể. Có đến hơn trăm vạn người tự nạp tiền để được tha. Nhưng có một nửa không tự nạp tiền được, phần lớn người trong thiên hạ không lo làm việc khác mà đều đúc tiền vàng. Sách ẩn: Xét: Phần lớn không lo làm việc khác là nói phần lớn đều theo việc đúc tiền, lại không lo làm việc khác. Nhiều người phạm tội, quan lại không bắt giết hết được, do đó sai quan Bác sĩ là bọn Chử Đại, Từ Yển chia nhóm đi xem xét các quận ấp, Tập giải: Phục Kiền nói: "Chia nhóm ra đi xét tội." kết tội bọn làm quan thú-tướng chiếm đoạt tiền của. Lại nữa Ngự sử đại phu tên là Trương Thang đang được tôn quý dùng việc, bọn Giảm Tuyên, Đỗ Chu làm Trung thừa, bọn Nghĩa Tung, Doãn Tề, Vương Ôn Thư dùng hình pháp khắc nghiệt nặng nề làm quan đến hàng cửu khanh, lại đặt ra quan Trực chỉ như bọn Hạ Lan. Rồi quan Đại nông tên là Nhan Dị bị tội chết. Tập giải: Từ Quảng nói: "Vào năm Nguyên Thú thứ tư, bấy giờ là năm nhâm tuất." Lúc đầu, Dị làm đình trưởng ở nước Tế Nam, vì trong sạch mà dần chuyển làm quan đến hàng cửu khanh. Nhà vua và Trương Thang đã làm tệ da hươu trắng, hỏi Dị. Dị nói: "Nay vương hầu đem ngọc xanh giá mấy ngàn tiền đến chầu mừng mà tệ da ấy chỉ là bốn mươi vạn tiền, vậy là gốc ngọn không xứng nhau." Thiên tử không vui. Trương Thang lại có hấn với Dị, kịp lúc có người đem việc bàn luận khác của Dị báo cho nhà vua, việc này giao cho Trương Thang xét tội Dị. Dị từng nói với người khách, người khách nói là pháp lệnh mới ban ra có chỗ không tiện. Dị không đáp, hơi bĩu môi. Thang tấu là Dị đang làm quan hàng cửu khanh, thấy pháp lệnh không tiện mà không nói ra, lại chê bai trong bụng, xét tội chết. Từ đó về sau, có đặt tội 'chê bai trong bụng', do đó công khanh, đại phu phần nhiều xu nịnh để yên thân. ... Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Thiên tử đã ra lệnh xâu tiền mà coi trọng Bốc Thức, trăm họ rút cuộc chẳng ai chia tiền của giúp quan huyện, do đó Dương Khả tấu việc xúi xét xâu tiền. Người các quận ấp phần nhiều trộm đúc tiền, tiền nhiều mà nhẹ, do đó công khanh xin ra lệnh quan Chung quan lệnh đúc tiền viền đỏ ở kinh sư, [coưor=red]Tập giải: Như Thuần nói: "Lấy đồng đỏ làm viền bao quanh. Nay tiền cũng thấy có viền đỏ, không biết cách làm ra sao." Sách ẩn: Chung quan lệnh coi việc đúc tiền viền đỏ.[/color] một tiền này bằng năm tiền thường, nếu không dùng tiền viền đỏ cho việc quan thu thuế thì không được làm. Tập giải: Hán thư âm nghĩa chép: "Người đời quen gọi là tiền xanh đỏ." Vàng trắng ngày càng rẻ, dân không chuộng dùng, quan huyện ra lệnh cấm nhưng không ích gì. Hơn một năm, rút cuộc bỏ vàng trắng không dùng nữa. Năm đó, Tập giải: Từ Quảng nói: "Là năm Nguyên Đỉnh thứ ba." gặp lúc Trương Thang chết nhưng dân không nghĩ. Sách ẩn: Nhạc Sản nói: "Nắm các việc cất lên đẩy xuống, cậy trên nẹt dưới, đều là từ Thang, cho nên dân không tiếc nhớ hắn." Hai năm sau đó, tiền viền đỏ cũng rẻ, người dân lách luật dùng nó, tiền này không tiện, lại bỏ. Do đó cấm hết các quận ấp không cho đúc tiền, sai chỉ có ba quan ở vườn Thượng Lâm mới được đúc. Tập giải: Hán thư bách quan biểu chép: "Năm Nguyên Đỉnh thứ hai thời Vũ Đế mới đặt chức Thủy hành đô úy, coi việc ở vườn Thượng Lâm, quan thuộc có Quân thâu lệnh, Chung quan lệnh, Biện đồng lệnh." Vậy thì ba quan ở vườn Thượng Lâm là ba quan lệnh này chăng? Đúc tiền đã nhiều, mới ra lệnh không phải tiền của ba quan ấy đúc thì không được dùng, những tiền trước mà các quận ấp đúc đều đem hủy bỏ, chở đồng ấy đến chỗ ba quan. Do đó người dân càng ít đúc tiền, vì tính ra cái lợi không bằng phí tổn, chỉ có thợ giỏi, kẻ gian lớn mới trộm đúc nó. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Bốc Thức làm Thừa tướng ở nước Tề là lúc việc Dương Khả tố cáo nhà buôn cất giấu tiền của đã lan khắp thiên hạ, Tập giải: Toản nói: "Là nhà làm nghề thợ và nhà buôn cất chứa hàng hóa, không phải là người làm nghề làm ruộng trồng dâu, gọi những kẻ ấy là 'mân'. Mậu Lăng trung thư có chép đến nô tì, ruộng của nhà 'mân'." Sách ẩn: Họ Dương, tên Khả. Phần lớn những nhà giàu có từ hạng trung trở lên đều bị tố cáo. Đỗ Chu trị tội những kẻ ấy, ít kẻ phạm tội thoát được. Tập giải: Như Thuần nói: "Trị tội những nhà buôn cất giấu tiền của, những người này ít có kẻ thoát được án phạt." Lại sai các quan Ngự sử-Đình úy-Chính giám chia quan thuộc đi đến các quận ấp để trị tội những nhà buôn cất giấu của cải, thu được tiền của trong dân chúng đến hàng ức, bắt thu hàng ngàn-vạn nô tì, thu lấy hàng trăm khoảnh ruộng ở huyện lớn, hơn một trăm khoảnh ruộng ở huyện nhỏ, thu được nhà cửa cũng như thế. Do đó phần lớn trong những nhà buôn từ hạng trung trở lên đều bị phá sản, người dân lo ăn ngon mặc đẹp, không màng đến việc cất chứa của cải, mà các quan huyện vì có việc đi thu muối-sắt và tố cáo nhà buôn mà càng giàu có. Bấy giờ mở thêm miền trong cửa Hàm Cốc, đặt hai quận phụ tả-hữu của kinh sư. Tập giải: Từ Quảng nói: "Năm Nguyên Đỉnh thứ ba là năm Đinh Mão, dời thêm cửa Hàm Cốc sang phía đông huyện Tân An. Trước đây, quan Đại nông trông coi nhiều đồ muối, sắt, vải, đặt quan Thủy hành đô úy để trông coi đồ muối, sắt; kịp lúc Dương Khả tố cáo nhà buôn thì vườn Thượng Lâm cất chứa càng nhiều tiền của, bèn sai quan Thủy hành đô úy trông coi vườn Thượng Lâm. Vườn Thượng Lâm chất đầy của cải, càng thêm rộng. Bấy giờ người Việt muốn dùng thuyền để tranh đua với nhà Hán, nhà vua bèn sửa sang ao Côn Minh, dựng lầu gác quanh ao, lại làm thuyền lầu cao mấy chục trượng, cắm cờ xí ở trên thuyền rất to đẹp. Sách ẩn: Có lẽ lúc trước xuyên ao Côn Minh là muốn đánh với vua nước Điền, đến đây lại vét ao rộng thêm là muốn tranh đua với Thừa tướng của nước Nam Việt là Lữ Gia, cho nên làm thuyền lầu, đấy là hiệu của tướng quân là Dương Bộc. Bên ao Côn Minh có gác Dự Chương. Dự Chương vốn là tên quận, là nói sẽ xuất quân ở quận Dự Chương đi đánh. Do đó thiên tử ưa việc đắp dựng, bèn làm đài Bách Lương cao đến mấy chục trượng. Việc đắp sửa cung thất cũng ngày càng to đẹp. Nhà vua lại chia tiền của nhà buôn cho các quan lại, các quan Thủy hành đô úy-Thiếu phủ-Đại nông-Thái bộc đều đặt ra quan coi việc làm ruộng, những khoảnh ruộng ở các quận huyện bị thu lấy đều được trồng trọt. Những nô tì bị thu lấy đều chia ra các vườn để chăn nuôi chó, ngựa, cầm thú hoặc cấp cho các quan lại. Các quan lại mới đặt càng nhiều, do đó dời nô tì đến cấp cho các quan mới ấy cũng nhiều theo, do đó thuyền chở trên sông Hà mỗi năm có đến bốn trăm vạn thạch lương đến cấp và quan lại tự mua thêm gạo mới đủ dùng. Sách ẩn: Xét: Là nói thiên tử cấp lương ăn rất nhiều, cho nên quan lại cũng phải tự mua thêm mới đủ dùng. Sở Trung Sách ẩn: Là họ tên người. Phục Kiền nói: "Làm quan Chưởng cố, đấy lấy sách ở nhà Tư Mã Tương Như. Phong thiện thư chép là Công Tôn Khanh nhân lời của Sở Trung mà nói về cái vạc báu." nói: "Con em nhà quyền thế giàu có có kẻ chọi gà, đua chó ngựa, săn bắt, đánh bạc làm loạn dân thường." Bèn trị tội kẻ phạm lệnh cấm, kéo nhau đi có đến mấy trăm người, gọi là 'bọn chọi gà bị bắt đi'. Những kẻ nộp tiền phạt thì được làm quan Lang, việc chọn quan Lang nay kém như thế. Sách ẩn: Văn loại chép: "Kẻ chọi gà thắng gọi là 'chu'." Bấy giờ miền Sơn Đông bị nước sông Hà gây lụt, lại thêm mấy năm không được mùa, trong khoảng một-hai ngàn dặm có người dân thịt lẫn nhau. Thiên tử xót việc ấy, hạ chiếu rằng: "Người miền Giang Nam làm ruộng theo lối đốt lửa dẫn nước ngập, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Đốt cỏ, dẫn nước vào để trồng lúa, cỏ cùng mọc với lúa cao đến bảy-tám tấc, do đó cắt bỏ cỏ, lại dẫn nước vào ruộng thì cỏ chết, chỉ còn cây lúa mọc, cho nên gọi là 'đốt lửa dẫn nước ngập'." hạ lệnh cho dân đói được đến làm ăn ở miền Giang-Hoài, nếu muốn thì cho ở lại đấy." Sai sứ giả đi mũ lọng liền nối nhau trên đường để giúp đỡ, hạ lệnh quận Ba-Thục phát thóc đến để cứu đói. Năm sau đó, thiên tử bắt đầu đi tuần các quận ấp. Qua sông Hà đi về phía đông, Thái thú Hà Đông không ngờ nhà vua đến, không kịp sắm sửa, tự sát. Lại vượt núi Lũng đi về phía tây, Thái thú Lũng Tây cũng vì nhà vua đến thình lình, không cấp đủ đồ ăn cho quan lại đi theo thiên tử, Thái thú Lũng Tây cũng tự sát. Do đó nhà vua lên phía bắc ra khỏi cửa Tiêu, dẫn mấy vạn quân kị đi săn ở miền Tân Tần Trung để khuyến khích quân lính ở biên giới rồi về. Bấy giờ ở miền Tân Tần Trung có nơi trong khoảng một ngàn dặm không có đình lũy, Tập giải: Toản nói: "Đã không có chòi gác, lại không có đình lũy, không có sắm sửa phòng bị ở biên giới." do đó bắt giết từ quan Thái thú trở xuống của quận Bắc Địa, lại sai dân được chăn nuôi ở các huyện biên giới, Tập giải: Toản nói: "Trước đó, miền Tân Tần Trung trong khoảng một ngàn dặm không có dân ở, sợ giặc nên không dám chăn thả, nay sai đặt đình lũy, cho nên dân được chăn thả." lệnh quan lại cho dân mượn ngựa cái, được ba năm lại trả lại, đẻ thêm chục con thì nộp một con, lại bỏ tố cáo cất chứa tiền của, để làm giàu có cho miền Tân Tần Trung. Bấy giờ nhà vua đã có được cái vạc báu, bèn dựng miếu thờ Hậu Thổ-Thái Nhất, Tập giải: Từ Quảng nói: "Năm Nguyên Đỉnh thứ tư thì dựng miếu thờ Hậu Thổ, năm thứ năm thì dựng miếu thờ Thái Nhất. Công khanh bàn việc phong thiện, do đó các quận ấp trong thiên hạ đều làm sẵn cầu đường, sửa các cung cũ và những con đường sẽ đi qua ở các huyện, các huyện cũng cất chứa sắm sửa sẵn đồ dùng để đợi đón nhà vua đi đến. Năm sau đó (năm 112 TCN), người Nam Việt làm phản, người Khương phía tây vào biên giới gây hại. Do đó thiên tử vì miền Sơn Đông không có đủ, bèn tha những kẻ có tội trong thiên hạ, phát hơn hai chục vạn quân lính đi thuyền lầu ở miền nam đi đánh nước Nam Việt, lại phát mấy vạn quân kị ở từ miền Tam Hà về phía tây đi đánh người Khương phía tây, lại phát mấy vạn người qua sông Hà đi đắp thành ở huyện Linh Cư.Linh, đọc là 'linh'. Họ Diêu đọc là 'liên'. Vi Chiêu nói: "Huyện thuộc quận Kim Thành." Bắt đầu đặt các quận Trương Dịch-Tửu Tuyền. Lại đặt ruộng công ở các quận Thượng-Sóc Phương-Tây Hà-Hà Tây, phát hơn sáu chục vạn lính thú ở biên ải đến làm ruộng ở đấy. Người Trung Quốc sửa đường, chở lương, xa thì đi hai ngàn dặm, gần thì đi hơn một ngàn dặm, đều trông vào quan Đại nông cấp cho lương ăn. Binh khí ở biên giới không đủ, bèn phát binh khí ở phủ khố quan lại để cấp cho. Xe ngựa cưỡi cũng thiếu hết, quan huyện lại ít tiền khó mua được ngựa, bèn hạ lệnh sai những kẻ được phong tước quân trở xuống cho đến những quan lại có bổng ba trăm thạch lương trở lên theo cấp bậc phải nộp ngựa cái cho các đình trong thiên hạ, trong đình có nuôi ngựa cái, mỗi năm càng đẻ thêm. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Thừa tướng nước Tề là Bốc Thức dâng thư nói: "Thần nghe nói vua lo thì tôi nhục. Người Nam Việt làm phản, cha con thần xin cùng những người nước Tề quen dùng thuyền đến liều chết với chúng." Thiên tử hạ chiếu rằng: "Bốc Thức dẫu tự thân cày ruộng chăn nuôi nhưng không lấy làm lợi, có của thừa liền cho giúp quan huyện. Nay thiên hạ không may có việc gấp, mà cha con Thức tự nguyện liều chết vì việc ấy, dẫu chưa đánh nhưng có thể nói là cái nghĩa đã tỏ ở trong rồi. Nay phong cho tước Quan nội hầu, ban cho sáu chục cân vàng, mười khoảnh ruộng." Bố cáo thiên hạ, người trong thiên hạ chẳng ứng theo. Có mấy trăm người được phong tước Liệt hầu đều chẳng ai xin theo quân đánh người Khương-Việt. Kịp lúc mở hội uống rượu, quan Thiếu phủ xét vàng, Tập giải: Như Thuần nói: "Xem xét vàng của chư hầu có cái nặng cái nhẹ. Hoặc có kẻ cho rằng đến lúc mở hội uống rượu ở tông miếu, quan Thiếu phủ xét vàng của chư hầu bị thiếu." do đó có mấy trăm Liệt hầu bị tội dâng thiếu vàng mà bị cắt tước. Tập giải: Như Thuần nói: "Hán nghi chép là con của vua chư hầu được phong tước hầu, mỗi năm phải đem vàng ròng cho nhà Hán. Hoàng đế đến nhận vàng dâng để cúng tế. Vào ngày lễ tế lớn thì mở hội uống rượu, lúc uống rượu thì nhận vàng. Vàng ít không đến nửa cân, màu xấu, lại mài bớt, bèn bị mất tước hầu." Lại bái Thức làm Ngự sử đại phu. Bốc Thức làm quan, thấy phần nhiều quận ấp không tiện cho quan huyện làm muối-sắt, đồ sắt thô xấu, giá đắt, có kẻ còn bắt ép người dân mua bán đồ sắt. Mà làm thuyền cũng bị đánh thuế, người mua ít mà giá lại đắt, bèn nhân lời Khổng Cận mà nói về thuế làm thuyền. Do đó nhà vua không ừa ý với Bốc Thức. Nhà Hán dùng binh ba năm liền, đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu về phía tây đến phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới, Tập giải: Từ Quảng nói: "Diệt nước Nam Việt chia thành chín quận." Bùi Nhân xét: Tấn chước chép: "Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì bình nước Việt đặt thành các quận Nam Hải-Thương Ngô-Uất Lâm-Hợp Phố-Giao Chỉ-Cửu Chân-Nhật Nam-Châu Nhai-Đam Nhĩ; bình người Di miền tây nam đặt ra các quận Vũ Đô-Tang Kha-Việt Tủy-Thẩm Lê-Vấn San; và theo Địa lí chí, Tây nam Di truyện chép thì đặt các quận Kiền Vi-Linh Lăng-Ích Châu, cả thảy là mười bảy quận." tạm theo tục cũ của họ để trị, không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo gần quận mới nào để cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận mới đó. Nhưng người các quận mới ấy có lúc lại làm phản, giết quan lại, mỗi năm nhà Hán phải phát mấy vạn quan quân ở miền nam đến đánh dẹp, tiền phí đều do quan Đại nông cung cấp. Quan Đại nông sai quan Quân thâu lệnh trông coi muối-sắt để thu thuế, cho nên mới đủ tiền của. Nhưng các huyện có quan quân đi qua chỉ cung cấp sao cho không thiếu mà thôi, không dám nói là làm theo phép tắc nạp thuế bình thường. Bình chuẩn thư Hán - Tư Mã Thiên soạn Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa Nhữ Thành chuyển ngữ, Tích Dã chú giải Năm sau đó là năm Nguyên Phong thứ nhất (năm 110 TCN), Bốc Thức bị giáng xuống làm Thái tử thái phó, còn Tang Hoằng Dương làm Trị túc đô úy, lĩnh chức Đại nông, thay Khổng Cận trông coi hết muối-sắt trong thiên hạ. Hoằng Dương cho rằng các quan đều tư buôn bán, tranh lẫn nhau, cho nên giá cả tăng vọt, mà tiền thuế thu trong thiên hạ cũng không đủ để bù cho chi phí chuyển chở, bèn xin nhà vua đặt đặt mấy chục viên quan thuộc quan Đại nông, chia ra coi việc ở các quận ấp, các huyện đặt ra quan trông coi về chuyển chở hàng hóa và trông coi muối-sắt, hạ lệnh nhà buôn phương xa khi đem hàng hóa đi bán đều phải đem hàng hóa quý để nộp thuế, rồi mới cho mua bán lẫn nhau. Đặt quan Bình chuẩn lệnh ở kinh sư, đều thu nhận hàng hóa chở đến trong thiên hạ. Những thợ nghề làm các đồ dùng xe cộ ở phủ quan đều được quan Đại nông cung cấp cho chi phí. Các qụan thuộc của quan Đại nông nắm hết hàng hóa của thiên hạ, đắt thì bán ra, rẻ thì mua vào. Cho nên những nhà buôn lớn giàu có không thu được nhiều tiền lời, liền quay về làm nghề gốc, mà giá của hàng hóa cũng không tăng vọt, đè giá hàng hóa của thiên hạ được cân bằng, gọi là 'bình chuẩn'. Thiên tử cho là phải, nghe theo. Do đó thiên tử lên phía bắc đến quận Sóc Phương, sang phía đông đến núi Thái, đi tuần miền bờ biển, rồi men theo biên giới phía bắc đi về, đi qua đâu cũng dùng đến hơn trăm vạn bó lụa, hàng cự vạn tiền vàng để ban thưởng, đều có quan Đại nông chi đủ. Hoằng Dương lại xin nhà vua sai quan lại được thu thóc vào phủ quan và thu tiền chuộc của những kẻ phạm tội. Lại hạ lệnh người dân được nạp thóc vào kho ở cung Cam Tuyền, đều theo thứ bậc mà được miễn lao dịch. Lại không còn tố cáo nhà buôn. Các quận ấp khác đều chở thóc đến nơi cần gấp, những người làm ruộng cũng đều phải đem thóc đến nộp thuế. Ở miền Sơn Đông Mỗi năm chở thêm sáu vạn thạch thóc đến kinh sư, do đó trong vòng một năm, kho Lớn và kho ở cung Cam Tuyền đều đầy. Ở miền biên giới cũng thừa thóc và đồ dùng, mỗi năm chở năm trăm vạn bó lụa nạp vào phủ quan Quân thâu lệnh. Dân không phải nạp thêm thuế mà đồ dùng trong thiên hạ được đầy đủ. Do đó Hoằng Dương được phong tước Tả thứ trưởng, ban cho hai trăm cân vàng ròng. Năm đó hơi khô hạn, nhà vua sai quan lại làm lễ tế cầu mưa, Bốc Thức nói rằng: "Các quan huyện chỉ nên ăn lấy tô thuế mà thôi, nay Hoằng Dương sai quan lại ngồi ở chợ bày đặt quầy quán, bán hàng hóa kiếm lời. Cứ nấu Hoằng Dường để tế thì trời sẽ mưa." Thái sử công nói: "Các nhà buôn, thợ nghề, người làm ruộng trao đổi hàng hóa qua lại thì nảy sinh ra các loại tiền làm bằng mai rùa, tiền vàng, mảnh đao, mảnh vải, những cái ấy đã có thời xa xưa, từ trước thời họ Cao Tân rồi, không sao mà ghi lại được. Cho nên kinh Thư chỉ chép được các việc từ thời họ Đường-Ngu, kinh Thi kể được các việc từ thời nhà Ân-Chu. Vào thời yên ổn thì thường mở trường học, trọng nghề gốc bỏ nghề ngọn, làm việc lễ nghĩa để ngăn ngừa việc kiếm lời. Vào thời biến đổi nhiều việc thì làm trái lại như vậy. Cho nên muôn vật thịnh rồi lại suy, đến cùng cực sẽ chuyển đổi, khi mộc mạc lúc văn hoa, đấy là cái lẽ biến đổi trước sau vậy. Thời vua Vũ đặt cách cống nạp cho chín châu đều dựa vào muôn vật mà vùng đất đó đó được, người dân tùy vào muôn vật nhiều hay ít mà cống nạp. Đến thời vua Thang-Võ tiếp nhận cái xấu của thời trước bèn sửa đổi, khiến cho người dân không phải vất vả, đều làm việc cẩn thận, cho nên yên ổn. Thế rồi đời sau dần dần suy yếu sút kém. Hoàn Công nước Tề dùng mưu của Quản Trọng, bày cách dùng tiền nặng nhẹ, thu lấy cái lợi của miền núi biển mà hội họp chư hầu, khiến cho nước Tề nhỏ nhoi được nổi danh xưng bá. Vua nước Ngụy dùng Lí Khắc thu lấy hết mối lợi của đất đai mà thành nước mạnh. Từ đó về sau, thiên hạ đánh đấu tranh giành, coi trọng sức mạnh mà coi rẻ nhân nghĩa. Xem nặng chuyện giàu có có xem nhẹ chuyện nhún nhường. Cho nên trong dân chúng có kẻ giàu có đến hàng cự vạn tiền mà có người lại nghèo đến nỗi bã hèm còn chẳng đủ mà ăn; trong thiên hạ có nước mạnh chiếm lấy các nước nhỏ để bắt chư hầu làm bầy tôi, mà vua các nước nhỏ đến nỗi bị dứt việc cúng tế mà mất dòng dõi. Cho đến thời nhà Tần bèn lấy hết các nước. Tiền vàng thời Ngu-Hạ có ba loại là màu vàng, màu trắng, màu đỏ; Sách ẩn: Màu vàng kà vàng ròng, màu trắng là bạc trắng, màu đỏ là đồng đỏ, xem ở Thực hóa chí. có khi gọi là 'tiền', có khi gọi là 'đao'. Hoặc làm từ mai rùa, vỏ sò. Sách ẩn: Xét: Tiền vốn gọi là 'tuyền', ý nói hàng hóa trao đổi như nước suối chảy, cho nên nhà Chu có quan Tuyền phủ. Kịp đến thời Cảnh Vương mới đúc tiền lớn. Gọi là 'bố' là trao đổi vải, cho nên Chu lễ có chép vải của hai vị Đại phu. Thực hóa chí chép đầu của 'bố' dài sáu phân, nhánh chjân dài tám phân. Gọi là 'đao' cũng là tiền. Thực hóa chí có chép 'khế đao', 'thác đao', hình giống lưỡi đao, dài hai tấc, giá ngang năm ngàn tiền. Lại nữa thời xưa vỏ sò, mai rùa. Thực hóa chí chép mười bằng là năm vỏ sò, đều dùng làm hàng hóa, đều có ít hoặc nhiều. Một mai rùa có giá mười vỏ sò, có giá hai ngàn một trăm sáu mươi tiền. Kịp đến thời nhà Tần, trong cả nước chia tiền làm ba loại, vàng ròng là tiền hạng trên, tính theo từng 'dật'; Tập giải: Mạnh Khang nói: "Mười hai lạng là một dật." tiền đồng là tiền hạng dưới, trên mặt tiền khắc chữ là 'nửa lạng', cân nặng như chữ khắc; còn các loại ngọc trai, mai rùa, bạc, thiếc để gắn lên đồ dùng vật báu, không làm tiền. Nhưng đều tùy vào từng thời mà có giá đắt hay rẻ khác nhau. Do đó nhà Tần ở ngoài thì đánh người Di-Địch, ở trong thì đắp dựng lập công, người đàn ông trong nước ra sức cày ruộng cũng không đủ thóc ăn, đàn bà thêu dệt cũng không đủ áo mặc. Thời xưa thường vét hết của cải trong thiên hạ để dâng cho vua trên, vua trên vẫn tự cho là không đủ, cũng không khác như vậy. Việc ấy như nước chảy xô vào nhau, co chi đáng lạ?" Sách ẩn: Thuật tán rằng: "Lập quan Bình chuẩn, Trao đổi hàng hóa, Chuyển vào phủ quan, Cấp chẩn Hoa-Hạ, Làm bằng vàng đồng, Khắc hình rồng ngựa, Tố cáo nhà buôn, Lấy giàu cho nghèo, Hoằng Dương bày kế, Bốc Thức dựng nên, Kinh sư được đủ, Lấy cho quận ấp."
  25. Hệ thần kinh và các luân xa Luân xa chính và phụ Hào quan cơ thể: Luân xa 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể. Chủ trị các bệnh thần kinh, phối hợp với các LX khác chữa trị hầu hết các bệnh. Luân xa 6: Liên quan vỏ não và tuyến tùng là “Thần nhãn”. Chủ trị về Thần kinh, mất trí, huyết áp và hoạt động tứ chi. Luân xa 5: Chữa trị hô hấp, mũi, họng, phổi, suyễn, bệnh về da, dị ứng (allergy). Luân xa 4: Chữa trị về tim và cholesterol. Luân xa 3: Điều hòa năng lượng cơ thể. Chữa trị các bệnh về tiêu hóa, gan, dạ dày, ruột, lá lách, thận. Luân xa 2: Chữa trị về bộ phận sinh dục, bài tiết. Luân xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ. Sự hiểu biết về hệ thống và vị trí các luân xa là rất quan trọng trong quá trình tập thiền. Luân xa là các huyệt đạo chính trên cơ thể, được sắp xếp theo các cặp đối xứng. Luân xa 6-16, 7-1, 5-8, 4-9, 3-10, 2-11 mà trong đó các luân xa 6, 7, 5, 4, 3, 2 nằm trên mạch đốc (mạch dương), các luân xa 8, 9, 10, 11 và 1 nằm trên mạch nhâm (mạch âm). (Ghi chú: Trong một số tài liệu khác người ta xếp các luân xa theo cặp A-B.) Ngoài các cặp luân xa trên, các huyệt và cơ quan tạng phủ sau còn có liên quan tới quá trình trao đổi năng lượng: - 2 huyệt Lao Cung trong 2 lòng bàn tay: huyệt ở trên đường văn tim của gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và ngón vô danh (ngón 4 hay còn gọi là ngón nhẫn) chạm vào đường văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đường nếp gấp giữa lòng bàn tay (đường tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt - xem ảnh dưới - 2 huyệt Dũng Tuyền trong 2 lòng bàn chân: huyệt nằm trên gan bàn chân. Lấy khoảng cách từ ngón chân thứ 2 (ngón chân trỏ) tới gót chân chia làm 5 phần, thì huyệt Dũng Tuyền là điểm lõm nằm cách ngón chân trỏ 2/5 khoảng cách đó (cách gót 3/5) - xem ảnh trên - Cửu khiếu: 2 lỗ tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết - Lục phủ - rỗng: 6 bộ phận quan trọng trong vùng bụng là vị (bao tử), đảm/đởm (mật), tam tiêu (thượng tiêu là miệng trên của bao tử, trung tiêu là khoảng giữa bao tử, hạ tiêu là miệng trên của bàng quang), bàng quang (bọng đái), tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già) - Ngũ tạng - đặc: 5 bộ phận quan trọng trong vùng ngực và bụng là tâm (tim), can (gan), tỳ (lá lách), phế (phổi), thận (cật) - và 2 huyệt Thái Dương ở chỗ lõm phía sau ngoài đuôi mắt 1 tấc, ấn vào có cảm giác ê tức.