hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Nơi lạnh nhất trong vũ trụ Tom Shachtman, Triệu phong dịch Nơi lạnh lẽo nhất vũ trụ nằm ở đâu? Không phải trên cung Hằng vì ở đó nhiệt độ chỉ xuống đến trừ 378 độ F. Cũng không phải ở ngoài không gian sâu thẳm vì ở đó chỉ phỏng chừng -455 độ F. Theo các khoa học gia, nơi lạnh nhất họ quan sát được là ở đây, chính ngay trên quả đất này. Con số kỷ lục này là thành tích mới đạt được gần đây về môn vật lý siêu lạnh, sự nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về vật chất khi đạt đến độ cực lạnh thì các nguyên tử và ngay cả đến ánh sáng cũng đều có những phản ứng hết sức bất thường. Khi ở khoảng dưới nhiệt độ -440 độ F một số phân tử bị mất đi tính điện trở, một hiện tượng được mang tên là siêu dẫn (superconductivity). Khi ở nhiệt độ thấp hơn nữa, một số chất khí ở thể lỏng trở nên “siêu lỏng” (superfluids) đến nổi có thể rò rỉ xuyên qua thành bình chứa; bấy giờ chúng thách thức luôn cả định luật về trọng lực vì chúng có thể trèo lên ra cả ngoài bình chứa. Các vật lý gia công nhận rằng họ không bao giờ có thể đạt đến được nhiệt độ số không tuyệt đối (absolute zero) mà từ lâu người ta đã tính ra là -459,67 độ F (*). Đối với các nhà vật lý nhiệt độ là một sự đo lường nguyên tử di chuyển nhanh đến mức nào, một sự phản ảnh của năng lượng, và số không tuyệt đối là lằn mức cuối cùng mà ở đó người ta không rút được từ vật chất một nhiệt năng nào còn sót lại nữa cả. Tuy thế một số nhà vật lý vẫn cố đạt đến càng gần được bao nhiêu càng tốt cái giới hạn lý thuyết đó. Để thấy rõ hơn, tôi đến viếng phòng thí nghiệm của Wolfgang Ketterle nằm trong trường MIT (Massachusetts Institute of Technology) ở Cambridge. Nơi đây người ta đã tạo được cái kỷ lục mà – ít nhất theo cơ quan chuyên ghi nhận những thành tích kỷ lục trên thế giới Guinness World Record 2008 – là nhiệt độ lạnh nhất từng đạt được ở mức 810 phần ngàn tỷ của một độ F trên nhiệt độ số không tuyệt đối. Ketterle cùng các cộng sự viên tạo được thành tích này vào năm 2003 khi đang làm việc với một đám mây phân tử natri có bề ngang chừng một phần ngàn inch, các phân tử này được giữ đứng yên nhờ lực hút của nam châm. Tôi yêu cầu Ketterle chỉ cho tôi xem nơi anh đã tạo được thành tích này. Trước khi được trình bày cho xem, chúng tôi đều phải mang kính bảo hộ mắt vào để tránh cho mắt khỏi bị mù vì tia hồng ngoại bắn ra từ chùm tia laser dùng để làm chậm lại tốc độ cực nhanh của các hạt nguyên tử. Từ phòng làm việc chan hòa ánh nắng, chúng tôi bước vào một phòng tối nơi đây chằng chịt những dây dợ, các dụng cụ vi tính công suất cao, nguồn phát chùm tia laser, các ống nghiệm chân không, cùng nhiều tấm gương nhỏ. “Ở chỗ này,” anh nói bằng một giọng cảm kích trong khi tay chỉ vào một cái hộp đen có một ống dẫn được bọc bằng lá nhôm. “Đây là nơi mà chúng tôi tạo được nhiệt độ lạnh nhất.” Thành tựu của Ketterle dẫn đến trong khi đang theo đuổi tìm kiếm một dạng vật chất hoàn toàn mới được gọi tên là BEC (Bose-Einstein Condensate). Condensates (ngưng tụ hay hóa đặc) không phải là trạng thái khí, lỏng hay rắn thông thường. Chúng được hình thành một khi mà một đám nguyên tử – có khi nhiều đến cả triệu – cùng một lúc rơi vào trạng thái định lượng (quantum) và tất cả cùng hoạt động như chỉ là một đơn vị. Cả Albert Einstein lẫn Satyendra Bose, nhà vật lý người Ấn, vào năm 1925 đã từng tiên tri rằng các nhà khoa học có thể phát sinh được vật chất ấy khi đưa nguyên tử xuống đến gần nhiệt độ số không tuyệt đối. Bảy mươi năm sau, Ketterle thực hiện ở MIT, và hầu như đồng thời, Carl Weiman làm việc ở trường University of Colorado ở Boulder, và Eric Cornell thuộc Viện Tiêu Chuẩn và Kỹ Thuật Quốc Gia (National Institute of Standards and Technology) ở Boulder đã tạo được dạng Einstein-Bose condensates (BEC) đầu tiên. Ngay sau đó cả ba đều cùng được giải Nobel. Nhóm của Ketterle thì dùng BEC để khảo cứu tính chất căn bản của vật chất, ví dụ như khả năng có thể chịu ép, và để hiểu rõ hơn về hiện tượng kỳ quái xảy ra ở nhiệt độ thấp như siêu lỏng. Nói cho cùng thì Ketterle cũng như mọi nhà vật lý khác đều hy vọng khám phá ra được một hình thức vật chất mới có thể mang tính siêu dẫn ở nhiệt độ bình thường trong phòng, bấy giờ sẽ cách mạng hóa khả năng con người vận dụng được năng lượng. Với đa số những người được giải Nobel, niềm vinh dự ấy gắn liền với một chuỗi đời trong nghề nghiệp. Nhưng với Ketterle, anh chỉ mới 44 tuổi khi nhận giải Nobel, sự tạo ra BEC mở ra một lãnh vực mới để rồi đây anh sẽ cùng các cộng sự viên thám hiểm trong hằng thập niên tới. Các nhà vật lý ở Massachusette đang cố công đạt đến nhiệt độ lạnh nhất đó là mức số không tuyệt đối. Đối thủ khác của điểm lạnh nhất nằm ở phía bên kia Cambridge, nơi phòng thí nghiệm của Lene Vestergaard Hau ở trường Harvard. Thành tích tuyệt diệu của riêng bà là chỉ một vài phần triệu của một độ F trên nhiệt độ số không tuyệt đối, cũng sấp sỉ như của Ketterle và cũng đã đạt được trong khi đang tạo dạng BEC. “Bây giờ thì ngày nào chúng tôi cũng tạo những BEC.” Bà nói trong khi đi xuống một cầu thang dẫn đến một phòng thí nghiệm chất đầy dụng cụ. Giữa phòng là một bàn phẳng có kích thước bằng một bàn bi-da trên đó các gương nhỏ hình trái soan cùng những tia laser nhỏ bằng ruột viết chì được bố trí như một mê trận. Bám trụ với BEC, bà cùng các công tác viên đã thực hiện được điều bất khả thi: họ đã đưa ánh sáng xuống đến một tốc độ gần như đứng yên. Tốc độ ánh sáng như chúng ta đều biết có một hằng số là 186.171 dặm/giây (khoảng 300.000 cây số/giây) trong môi trường chân không. Hiện thực thì khác, ví dụ ngoài môi trường chân không ánh sáng không những đi lệch mà còn bị chậm đi chút đỉnh khi đi qua thủy tinh hoặc nước. Tuy nhiên, vậy cũng chưa có gì đáng nói so với điều gì xảy ra khi Hau rọi một tia laser vào một dạng chất BEC; kết quả đưa đến tựa như khi ta thẩy một trái banh bóng chày vào một cái gối. “Thoạt đầu ta thấy tốc độ của ánh sáng giảm xuống bằng vận tốc của xe đạp,” Hau nói tiếp. “bây giờ thì nó như đang bò, và ta có thể làm nó đứng yên hẳn – đem hứng hoàn toàn vào trong BEC để chiêm ngắm, nghịch với nó rồi thả cho nó đi.” Bà ta có thể vận dụng ánh sáng theo cách ấy bởi nhiệt độ và tỷ trọng của BEC làm chậm lại xung động của ánh sáng. (Mới đây bà Hau bước thêm được một bước nữa trong những cuộc thí nghiệm; đó là làm ngưng một nhịp xung động của ánh sáng trong một BEC rồi chuyển nó thành điện năng, truyền qua một BEC khác, rồi thả nó đi.) Hau sử dụng BEC để khám phá thêm về trạng thái tự nhiên của ánh sáng, và để hiểu thêm làm thế nào sử dụng “ánh sáng ở vận tốc chậm” – đó là ánh sáng bị hứng trong BEC – để có thể giúp cải thiện tốc độ điều giải của máy vi tính và đồng thời có thêm những phương cách lưu trữ dữ kiện mới. Không phải nơi cuộc khảo cứu siêu lạnh nào cũng sử dụng đến dạng chất BEC. Ở Phần Lan nhà vật lý Juha Tuoriniemi vận dụng từ trường hạch các nguyên tử rhodium để đạt đến nhiệt độ 180 phần ngàn tỷ của một độ F trên nhiệt độ số không tuyệt đối. (Bất kể kết quả công bố của cơ quan ghi nhận kỷ lục Guiness, nhiều chuyên gia đánh giá Tuoriniemi đạt được nhiệt độ thấp hơn của Ketterle, nhưng điều đó còn tùy ở chỗ ta đo nhiệt độ trên một nhóm các nguyên tử, ví dụ một BEC, hay chỉ một phần của nguyên tử như hạch nhân.) Có vẻ như nhiệt độ số không tuyệt đối là mục tiêu đáng phải bỏ công sức để đạt đến cho được, nhưng Ketterle thì cho là anh biết rõ câu trả lời hơn cả, anh nói: “Chúng tôi không mất công làm việc đó đâu. Mức chúng tôi đạt được đã lạnh quá đủ cho các cuộc thí nghiệm.” Đơn giản mà nói là không đáng phải bỏ công vô ích – chưa nói đến, theo các nhà vật lý hiểu rõ về lý thuyết của nhiệt và định luật nhiệt động học (the laws of thermodynamics) thì đây là điều bất khả thi. “Muốn lấy ra hết năng lượng, hết trọn không còn chừa lại một phần li ti nào để đạt đến năng lượng số không và số không tuyệt đối – chắc phải mất thời gian lâu bằng tuổi đời của vũ trụ để hoàn tất.” (*) tương đương với -273.15 độ C.
  2. Thực ra đây chỉ là những vấn đề đặt ra giữa học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và thành quả của khoa học hiện đại, mà ta có thể nhận thấy đơn giản và rất rõ ràng mà thôi. Cũng từ đó có thể ghi nhận những vấn đề: 1. Nguyên thủy của vũ trụ: - Theo học thuyết ADNH thì đó là Thái cực, chắc chắn là nó chưa được mô tả rõ ràng và chính xác trong các bản văn cổ, chẳng hạn có một đặc tính được cho rằng: "không không gian" - cái này sai là bởi vì sự tồn tại của không gian là mang tính khách quan hoàn toàn, không phụ thuộc vào quy ước của chúng ta. Nó là "Tuyệt đối" - vậy "Tuyệt đối" là như thế nào so với cái tương đối tức cái vũ trụ mà chúng ta đang nhận biết và nhận thức về nó, cũng chưa rõ ràng. Giữa Thái cực, được xem như là nguồn gốc của vạn vật được quy ước thành Âm Dương Ngũ Hành thì nó có mối quan hệ với "không gian" là như thế nào? Hình "Thái cực" của Chu Đôn Di - Khoa học cho rằng trạng thái ban đầu là Bigbang từ kết quả thực nghiệm và suy luận từ lý thuyết. Lý thuyết Vụ Nổ Lớn (Big Bang) là mô hình vũ trụ học nổi bật miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành Vũ trụ.Theo lý thuyết này, Vụ Nổ Lớn xảy ra xấp xỉ cách nay 13,798 ± 0,037 tỷ năm trước,và được các nhà vũ trụ học coi là tuổi của vũ trụ. Sau giai đoạn này, vũ trụ ở vào trạng thái cực nóng và đặc và bắt đầu giãn nở nhanh chóng. Sau giai đoạn lạm phát, vũ trụ đủ "lạnh" để năng lượng bức xạ (photon) chuyển đổi thành nhiều hạt hạ nguyên tử, bao gồm proton, neutron, và electron. Tuy những hạt nhân nguyên tử đơn giản có thể hình thành nhanh chóng sau Big Bang, phải mất hàng nghìn năm sau các nguyên tử trung hòa điện mới xuất hiện. Nguyên tố đầu tiên sinh ra là hiđrô, cùng với lượng nhỏ heli và liti. Những đám mây khổng lồ chứa các nguyên tố nguyên thủy sau đó hội tụ lại bởi hấp dẫn để hình thành lên các ngôi sao và các thiên hà rồi siêu đám thiên hà, và nguyên tố nặng hơn hoặc được tổng hợp trong lòng ngôi sao hoặc sinh ra từ các vụ nổ siêu tân tinh. Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Một lý giải thường gặp đó là không gian tự nó đang giãn nở, khiến các thiên hà chạy xa nhau. Cái không hợp lý của Bigbang theo khoa học: - Là trạng thái vô cùng đặc và nóng của một dạng vật chất chưa xác định để hình thành nên vũ trụ "ngày càng giãn nở" như ngày này sau Bigbang và nó cũng đang giãn nở với tốc độ ngày càng lớn. Một cái vô cùng nhỏ trong không gian nhưng lại có tỷ trọng vô cùng lớn để phân rã ra nhiều cái vận động tới không gian cũng vô cùng lớn nốt. - Sự tồn tại của nó là ở đâu trong không gian? Chẳng nhẽ cứ mãi lơ lửng vô định? - Nếu lơ lửng trong không gian, thì sự phân rã là không có liên kết giữa các thành phần, vậy sao chúng ta còn thấy các lực liên kết giữa chúng, chẳng hạn lực hấp dẫn... Đạo đức kinh coi trạng thái nguyên thủy của vũ trụ chứa đựng tiềm năng vạn vật và gượng gọi là "Mẹ" - có thể hiểu Thái cực cũng được gọi là Mẹ nguyên thủy. Vì vậy, cần hiểu rõ quy ước "Dương tịnh Âm động" và "Dương trước Âm sau" trong học thuyết ADNH trong mối quan hệ với khái niệm "Mẹ". 2. Vũ trụ vận động: - Học thuyết ADNH cho rằng vũ trụ toàn là "Khí" cả, được miêu tả bằng vòng tròn "Âm Dương Khí" vận động qua một bức tranh dân gian Đông Hồ "Lợn ăn ráy". Tuy nhiên, phải chăng nó cũng nói rằng vũ trụ là "vô cùng lớn". Lợn ăn ráy (Thiên nhất sinh thủy) "Khí" vi tế là trạng thái không thấy được bằng giác quan thông thường, chẳng hạn Khí trong kinh mạch và huyệt đạo cơ thể con người, vậy mức độ vi tế tức nhỏ bé tới đâu thì dừng? - Đối với khoa học, thì vũ trụ đang giãn nở, với tầm quan sát của các loại kính khổng lồ thì nhìn thấy khoảng cách vượt xa 15 tỷ năm ánh sáng, điều này có nghĩa tầm quan sát vượt qua kích cỡ "vũ trụ tồn tại hiện nay", điều này lại nảy sinh những câu hỏi tiếp theo: + Vũ trụ này (vật chất hay Khí Âm Dương Ngũ Hành) lơ lửng trong không gian? + Ngoài nó chỉ thấy bóng đêm mịt mùng, vậy cái mịt mùng này đi tới đâu chẳng nhẽ vũ trụ cứ giãn nở mãi trong cái mịt mùng này sao khi xuất phát từ nguồn gốc ban đầu đã mô tả. Từ đây, có thể xác định được một yếu tố đó là: "Thái Cực được hình dung tốt đen như mực". Bằng cách quan sát chu kỳ vận động của các hệ thiên văn và mọi thứ khác, người xưa nhận thức được rằng Thái cực ở trạng thái chí tịnh. Cả khoa học và thuyết ADNH đều không xác quyết được vũ trụ đang trong giai đoạn phát triển hay phân rã, vậy tiêu chí nào liên quan đến lý thuyết về vũ trụ đối với khoa học hiện đại và các cấu trúc, khái niệm... của học thuyết ADNH. 3. Con người và động vật: - Đối với câu hỏi về "linh hồn" tức sau khi chết con người còn sống hay không" Hay có thể hiểu là con người tồn tại ở một dạng vật chất nào đó mà có tư duy như họ đang là hay không. Khoa học bế tắc vấn đề này. - Đối với học thuyết ADNH, nếu tham khảo tất cả các phương pháp ứng dụng của nó, và ngay chính cấu trúc cơ bản hình thành nên học thuyết này cũng không thấy việc xác định được sự tồn tại của linh hồn. Chỉ trong Chu Dịch có chép: "... Hồn thoát ra tạo nên biến hóa". Tham khảo đồ hình Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ - Về mặt ý thức chủ quan của mỗi cá nhân, khoa học chỉ cho là một rừng phản ứng sinh hóa của hàng tỷ tỷ tỷ tế bào thần kinh mà cho ra nhận thức. Còn học thuyết ADNH cũng không nói về bản chất của vấn đề này, trong khi đó môn Tử vi ghi nhận những tương tác có quy luật đến mỗi con người trong từng giai đoạn sống - cũng hàm ý vai trò của Tử vi đã bao trùm lên cả nhận thức của cá nhân đó trong suốt quá trình sống. 4. Hạt Higs - giới hạn bé: Vẫn chưa xác định rõ về nó, do nhiều nguyên nhân nhưng theo lý thuyết tính toán để phân rã được hạt này thì cần một máy gia tốc có năng lượng lớn hơn cả trái đất, hoàn toàn bất khả. Mô phỏng sự kiện xảy ra trong LHC của Viện Vật lý hạt châu Âu, CERN. Mô phỏng thể hiện sự phân rã thành hạt Higgs sau va chạm của hai proton trong thiết bị CMS. Dù là hạt gì đi nữa, nếu chiếu theo thuyết ADNH thì chúng cũng đang vận động trong một tổ hợp ADNH đặc trưng nào đó, rõ ràng thuyết ADNH cũng đang bị "dừng" khi xác định giới hạn nhỏ nhất của vật chất, nhưng vẫn đang được quy ước về "Khí" Âm Dương đang vận động. 5. Không gian, vật chất - giới hạn lớn: Đối với thuyết ADNH, như đang hiểu thì nếu vũ trụ to lớn đến vô cùng thì nó cũng là một khối "Khí" đang vận động, còn khoa học hiện đại đang giới hạn tầm quan sát ở mức 15 tỷ năm ánh sáng. Như vậy, nếu có cái vô cùng lớn Khí - không gian như vậy, thì Thái cực được định vị như thế nào - tất nhiên Thái cực trong trạng thái vô cùng vô tận. Tôi cũng đã viết về vụ trụ là một hệ kín hay hở, chẳng hạn như một chai nước đầy không thể nén được cho nên vũ trụ với cấu trúc vật chất "rỗng" hay Thái cực mang cấu trúc "rỗng". Nếu vũ trụ vô cùng, thì vật chất được liên kết như thế nào mà chúng vận động thống nhất thành "Một", nếu không sự vận động của bất kỳ trạng thái nào đó thuộc nó sẽ rối loạn ngay lập tức, điều này có thể hiểu là cần những "siêu lực liên kết nào đó" điều khiển chúng vận động như một hệ thống hoàn chỉnh (tất cả các tương tác của vật chất sẽ cần một khoảng "thời gian" nhất định để chuyển đổi), ví dụ trục trái đất quay quay 6 chòm sao thiên cực Bắc một chu kỳ 25.920 năm hay trái đất quay quanh mặt trời chu kỳ 1 năm. Siêu lực này có khả năng kết nối một cách tương ứng và đồng thời với "vô cùng trạng thái tồn tại và đặc tính riêng biệt của vạn vật" trong đại vũ trụ vô hạn - đây là một ý nghĩa kỳ diệu nhất của vũ trụ, sức tưởng tượng của mọi nhà triết học, khoa học, tôn giáo cổ kim tới đây là không thể vượt qua. Vậy thì, Thái cực cũng có một trạng thái siêu lực kết nối sự vô hạn như mô tả, vậy bản chất của nó là gì?. Ghi chú: - Những vấn đề đặt ra ở trên dễ gấp hàng trăm lần so với việc xác định chính xác lịch sử thời Hùng Vương và tổ tiên của các ngài. - Những vấn đề triết học của các học giả Tây Phương được cho là các ông tổ của triết học, khi so sánh tới thuyết Âm Dương Ngũ hành và các học thuyết của đạo Tiên và Phật giáo cũng tương tự như khi ta so sánh học sinh lớp 3 làm toán với sinh viên đại học giải toán cao cấp vậy ("Sin" đừng lấy làm buồn). "Long Hoa cứu khổ, cứu nạn, Long Hoa bàn đến tận cùng sắc, không". Phật Bà Quán Âm.
  3. Nếu nhìn về thành quả thì mục đích và đối tượng của khoa học hiện đại cũng giống như thuyết Âm Dương Ngũ Hành đều tương tự nhau, có khác chăng là những kết luận cuối cùng về sự đúng đắn của các quy luật thực tại chi phối, chẳng hạn khoa học vẫn mô phỏng trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, còn thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho đó là Thái cực. Chúng ta nên nhớ rằng, thuyết này chưa mô tả rõ ràng trạng thái của Thái cực là như thế nào. Mặt khác, thành quả của thuyết Âm Dương Ngũ Hành là việc ứng dụng vào trong thực tại sau khi nhận biết được các quy luật, tuy nhiên bài toán của nó như là các phương pháp ứng dụng như Dịch, Tử vi, Thái ất, Huyền không... liên quan đến trái đất, con người và một phần bên ngoài trái đất. Vậy, phải chăng nó đã mô tả được quy luật vận động tổng thể của vũ trụ để có thể gọi là "Học thuyết thống nhất vũ trụ". Cũng từ các phương pháp đó, đã có thể khẳng định biên giới của vũ trụ là vô cùng vô tận hay có giới hạn? Cũng như vậy, có thể xác định sự tận của của các dạng vật chất là như thế nào trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành hay chỉ quy ước về mặt tổng thể. Những hình ảnh xa nhất (và do đó cổ nhất) chụp được từ vũ trụ. Chụp bởi Hubble Ultra Deep Field; NASA, ESA Cũng từ sự vô cùng vô tận của vũ trụ (nếu có) thì cái gì liên kết toàn thể lại thành Một hay là chỉ từ các quy ước thực tại có quy luật như Âm Dương Ngũ Hành. Tham khảo câu chuyện Dịch học: THIỆU UNG - HOÀNG CỰC KINH THẾ Thiệu Ung 1011 – 1077, người đất Cung Thành, nước Tống, tự là Nghiêu Phu, Ông là Dịch học gia nổi tiếng thời Bắc Tống, có nhiều thành tựu về Dịch học, về mặt tượng số thì đặc biệt xuất sắc. Cống hiến chủ yếu của Thiệu Ung là sự đề xuất Tiên thiên Dịch học, học thuyết này đã khẳng định được vai trò của Dự trắc học, và có những phát triển quan trọng. Hoàng Cực Kinh Thế. Thiệu Ung đã lập riêng ra một trường phái, chủ yếu là phát triển "tượng" "số" học Kinh Dịch, bao gồm sự phát triển đối với Quái đồ của Kinh dịch và Dự trắc học. Ông sáng tạo ra: “Thái cực bát quái vũ trụ sinh thành đồ thức”, dẫn giải sâu sắc về bản nguyên Vũ trụ Thái cực Kinh Dịch. Đối với hệ thống tượng số, Ông đã suy tính được sự hưng suy trị loạn của Xã hội, của Lịch sử nhân loại, đây là một sự sáng tạo độc lập của Thiệu Ung, đã để lại những ảnh hưởng rất lớn trong dân gian, Ông chế định Niên biểu Lịch sử Vũ trụ, Dự trắc được quy luật sinh - diệt, thịnh – suy của thiên nhiên vũ trụ. Tiên thiên Dịch học là môn phái do Thiệu Ung khai sáng, theo phương pháp tư duy của mình, Ông cho rằng Tiên thiên đồ là do Phục Hy vẽ ra, tuy chỉ có Quẻ dịch, nhưng đã gồm đủ mọi lý về Trời Đất vạn vật trong thiên hạ, từ thuyết “tam tài” của Kinh Dịch, Thiệu Ung xây dựng mối quan hệ: Thiên Địa - Người – Xã hội Thiệu Ung cho rằng, lời của Quẻ dịch, và lời của Hào từ trong Kinh Dịch, đều do Văn vương làm ra, nó thuộc về Hậu thiên Dịch học. Nên, Thiệu Ung đã dốc sức vào Tiên thiên Dịch học, lập ra 14 bức Tiên thiên đồ, trong đó có: “Phục Hy Bát quái thứ tự đồ”, “Phục Hy Bát quái phương vị đồ”, “Phục Hy lục thập tứ quái thứ tự đồ”, “Phục Hy lục thập tứ quái phương vị đồ”, ...Chu Hy đều chép và bảo tồn trong trước tác: “Chu Dịch bản nghĩa”. Tiên thiên đồ của Thiệu Ung bắt nguồn từ lý luận Thái cực của Kinh Dịch, thông qua sự khởi nguyên và diễn biến của Bát quái, mà Quái thứ tự đồ đã tượng trưng cho sự khởi nguyên và sinh-thành của Vũ trụ vạn vật. Thiệu Ung dẫn giải trong trước tác HOÀNG CỰC KINH THẾ của mình: “Thái cực đã chia, hai nghi lập nên, Dương xuống giao với Âm, Âm lên giao với Dương, bốn tượng sinh ra. Dương giao với Âm, Âm giao với Dương, mà sinh ra bốn tượng của Trời ; Cứng giao với Mềm, Mềm giao với Cứng, mà sinh ra bốn tượng của Đất. Do vậy, Bát quái đã thành. Bát quái đan xen, sau đó sinh ra vạn vật. Do vậy, một phân thành hai, hai phân thành bốn, bốn phân thành tám, tám phân thành mười sáu, ..., Mười phân thành trăm, Trăm phân thành nghìn, ...,” (Hoàng cực kinh thế - Quan vật ngoại thiên – Tiên thiên tượng số đệ nhị). Ý nghĩa có giá trị lớn nhất của Hoàng cực kinh thế, là nguyên lý vũ trụ "Vô hạn khả phân”. Trong đó, Tiên thiên phương vị đồ, và Hậu thiên phương vị đồ, đã minh giải được thuyết “quái khí” Kinh Dịch và thúc đẩy được học thuyết này mang tính thực tiễn rất cao. “Lục thập tứ quái viên đồ” và “Phục Hy bát quái phương vị đồ” đều lấy Càn - Khôn cư Nam - Bắc, còn Khảm-Ly nằm ở Tây – Đông, mục đích xây dựng hai đồ này để tượng trưng cho quá trình tiêu trưởng chuyển hoá Âm Dương, bốn mùa trong một năm. Đối với “Phục Hy bát quái phương vị đồ”, thì: từ quẻ Chấn đến quẻ Càn, là quá trình dương trưởng âm tiêu, từ quẻ Tốn đến quẻ Khôn là quá trình âm trưởng dương tiêu, tượng trưng cho thời tiết trong một năm, chuyển biến từ mùa Đông sang mùa Hạ, rồi từ mùa Hạ sang mùa Đông. Đối với “Phục Hy lục thập tứ quái phương vị đồ” thì: từ quẻ Địa Lôi Phục đến quẻ Thuần Càn, là giai đoạn dương trưởng âm tiêu ; từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thuần Khôn, lại là thời kỳ âm trưởng dương tiêu. Thông qua phương vị đồ, đã giải thích quy luật “quái khí” âm dương tiêu trưởng. Thiệu Ung đã viết: “Dương ở trong Âm, Dương đi ngược. Âm ở trong Dương, Âm đi ngược. Dương ở trong Dương, Âm ở trong Âm, đều là đi thuận (xuôi). điều này thật là chí cái lý, nhìn hình vẽ là ta có thể thấy được.” (Sách đã dẫn). “Từ quẻ Địa Lôi Phục đến quẻ Thuần Càn, tất cả đều là 112 hào dương. Từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Khôn, tất cả là 112 hào âm. Từ quẻ Cấu đến Khôn, tất cả là 80 hào dương. Từ quẻ Phục đến quẻ Càn, tất cả là 80 hào âm. Càn 36, Khôn 24, Ly Đoài Tốn 32, Khảm Cấn Chấn 28.” HOÀNG CỰC KINH THẾ lấy chu kỳ: Nguyên - Hội - Vận - Thế phối hợp với Năm – Tháng – Ngày - Giờ làm một đơn nguyên (đơn vị) - Nguyên căn cứ vào sự vận hành của mặt Trời, xác định vòng quay của mặt Trời là một năm, do vậy lấy mặt Trời để phối với Nguyên. - Hội: trong một Năm, thì mặt Trời mặt Trăng giao hội 12 lần, do vậy lấy mặt Trăng để phối với Hội. - Vận: là sự vận hành của Sao trong một Năm là 360 độ, do vậy lấy Sao phối với Vận. - Thế: một ngày có 12 canh giờ, cho nên lấy “thần” (chỉ hằng tinh) để phối với Thế. Phương pháp tính là: lấy Nguyên là 1, lấy Hội là 12, lấy Vận là 360, lấy Thế là 4320. Phối hợp với thời gian (số năm) thì một Nguyên bằng 12 hội, một Hội bằng 30 vận, một Vận bằng 12 thế, một Thế bằng 30 năm. Khi đổi ra Giờ-Ngày-Tháng-Năm thì: một Nguyên là 1 năm, 12 Hội là 12 tháng, 360 vận là 360 ngày, do vậy 1 nguyên = 4320 thế. Theo hệ thống học thuyết của Thiệu Ung, thì một đơn vị tính là 129600, (một Nguyên),Ông căn cứ vào Lục thập hoa giáp làm đơn vị cơ sở: 60 x 60 x 60 x 60 = 129.600 Khi người xưa phân một canh giờ là 100 khắc, tức là một giờ âm lịch bằng 100 khắc, theo cách phân định thời gian của ngày hôm nay là 120 phút tương đương với 100 khắc, nên Thiệu Ung lấy 12960000 chia 100 = 129600, tương đương với: 4320 x 30 = 129600. Ví dụ, cụ thể như Biểu suy đoán chu kỳ trong Trời Đất của quẻ Thuần Càn: “Càn cung nhất nguyên” như sau: - Thuần Càn = 1 x 1 = 1 (Nguyên kinh Nguyên) - Trạch Thiên Quải = 12 x 1 = 12 (Nguyên kinh Hội) - Hoả Thiên Đại Hữu = 12 x 30 = 360 (Nguyên kinh Vận) - Lôi Thiên Đại tráng = 360 x 12 = 4320 (Nguyên kinh Thế) - Phong Thiên Tiểu súc = 4320 x 30 = 129600 (Nguyên kinh Năm) - Thuỷ Thiên Nhu = 129600 x 12 = 1555200 (Nguyên kinh Tháng) - Sơn Thiên đại súc = 1555200 x 30 = 46656000 (Nguyên kinh Ngày) - Địa Thiên Thái = 46656000 x 12 = 559872000 ((Nguyên kinh Giờ). Thiệu Ung với phương pháp “tư duy số” của mình, ông lấy “số” làm cơ sở để khởi Quái trên nguyên lý “Vạn vật giai số”. Bao gồm: quái số, thời số, vật số, âm số, can chi số, niên nguyệt nhật thời số, tự số, sinh thần số, xích số, độ số, nhân số, phương vị cửu cung số, ngũ hành sinh thành số, thập nhị sinh tiêu số. Nền tảng để Thiệu Ung hình thành phương pháp “tư duy số”, là Thiệu Ung coi mặt Trời là một chu kỳ vận động của một Ngày. Có nghĩa là một Hào của quẻ Dịch, luôn luôn tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ), tương đương với 60 ngày (Lục thập hoa giáp), do vậy một quẻ Dịch có 6 hào thì tương đương với 6 x 60 = 360 ngày. Đây là điều mà, khi các Nhà xuất bản tại Trung quốc không đề cập tới trong quá trình phát hành. Hoàng cực kinh thế là sản phẩm của phương pháp “tư duy số” mà Thiệu Ung đã sáng tạo nên, cụ thể để Dự trắc Vũ trụ và Xã hội loài người, lấy chu kỳ tăng giảm của Âm – Dương để giải thích các hiện tượng tự nhiên của Vũ trụ, phù hợp với nguyên lý Âm – Dương của Kinh Dịch. Nhưng Kinh Dịch lại “nhấn mạnh tính năng động chủ quan, coi trọng năng lực con Người”. Do vậy, khi tham khảo Hoàng cực kinh thế, ta cần chú ý tôn trọng sự thật khách quan của Lịch sử, trên tinh thần thực sự cầu thị. (Hoàng cực kinh thế có tên giống trung cung của Cửu Trù Hồng Phạm là Hoàng cực). Kính.
  4. Liên quan đến các bài toán tới hạn, chúng ta cần xem lại những cấu trúc cơ bản và các phương pháp ứng dụng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành: - Cấu trúc cơ bản: Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư, Dương tịnh Âm động, Dương trong Âm ngoài, Dương trước Âm sau, Âm thuận tùng Dương, Lục thập hoa giáp và Ngũ vận lục khí, Thiên can và Địa chi, khái niệm Khí, các chu kỳ quy ước độ lớn sinh - lão - bệnh - tử và sinh - vượng - mộ. - Đông y: với hệ kinh mạch, huyệt vị trong cơ thể. - Khí công: với hệ thống kinh mạch và 7 luân xa. - Chu Dịch: với khả năng tiên tri. - Tử vi: tiên tri cho một đời người với hệ thống biểu tượng quy ước xây dựng hệ tương tác từ ngoài Huyền không phi tinh với chủ thể con người. - Huyền không: tương tác có quy luật từ ngoài hệ mặt trời. - Thái Ất: tương tự, với quy luật lớn hơn Huyền không. - Độn giáp: quy luật tương tác trong hệ mặt trời. - Bát trạch: tương tác có quy luật từ trường trái đất được định hình từ Huyền không. - Dương trạch và Loan đầu: ___. Tất cả các phương pháp này đều được xây dựng từ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành dựa trên tiên đề: Vũ trụ là Một, vạn vật đồng nhất thể, đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu và tính lặp của một chu kỳ vận động của một hệ thiên văn ví dụ như hệ mặt trời với độ lệch theo thời gian do vận động xoáy trôn ốc. Bằng phương pháp quy nạp, tất cả những phương pháp trên đã chứng tỏ một ý nghĩa quan trọng về: Vũ trụ là một hệ thống nhất và vận động có quy luật, cho dù bất kỳ giá trị tới hạn nào được đặt ra. Mặc dù vậy, vẫn còn một câu hỏi tối hậu nữa về sự liên kết các giá trị tới hạn. Một vấn đề quan trọng, vũ trụ đang trong giai đoạn phát triển hay tan rã? Lý giải như thế nào về sự tối đen của không gian quá 15 tỷ năm ánh sáng và bản chất của lỗ đen. Hình ảnh lỗ đen được vẽ bởi cơ quan NASA (Mỹ). Sao tối thời Newton Câu chuyện về lỗ đen đưa ta trở lại với trăn trở của Pierre-Simon de Laplace (Pháp) và John Michell (Anh) cuối thế kỷ 18. Ngày ấy các nhà khoa học đã biết, sở dĩ ta nhìn thấy một ngôi sao là do có ánh sáng phát ra (hay phản chiếu) từ nó. Theo Newton, ánh sáng gồm các hạt, vậy nó luôn bị lực hấp dẫn của ngôi sao hút trở lại. Lực hút này càng mạnh nếu khối lượng sao càng lớn (định luật vạn vật hấp dẫn). Laplace và Michell trăn trở: liệu có ngôi sao nào đủ nặng để sức hút của nó mạnh đến nỗi ánh sáng không thể thoát ra ngoài và do đó chúng ta không thể nhìn thấy ngôi sao ấy: một ngôi “sao tối”? Mặt khác, khả năng một vật thắng được lực hút hấp dẫn của một ngôi sao để thoát ra ngoài tỷ lệ với vận tốc khởi hành của nó. Để thoát khỏi sức hút của quả đất, phải có vận tốc ít nhất 11,2km/giây. “Sao tối” đủ sức “giam cầm” ánh sáng có vận tốc c ≈ 300.000km/s, vậy một vật muốn thoát khỏi sức hút của “sao tối” phải có vận tốc lớn hơn c! Với những hiểu biết hạn chế trong khuôn khổ của vật lý Newton và khả năng quan sát thiên văn eo hẹp của thế kỷ 18 – 19, nỗi trăn trở của Laplace – Michell dừng lại ở đó. Hơn một thế kỷ trôi qua, năm 1905, Albert Einstein xuất hiện với những công bố khoa học động trời. Ông tái khẳng định ánh sáng gồm các hạt, gọi là photon (nói “tái” bởi sau Newton, đã có thời người ta phủ nhận bản chất hạt của ánh sáng). Ông công bố thuyết tương đối đặc biệt, khẳng định rằng không có một đối tượng vật chất nào có thể chuyển động với vận tốc lớn hơn c. Điều đó có nghĩa là, nếu thực tồn tại “sao tối”, thì không một đối tượng vật chất nào (kể cả ánh sáng) có thể thắng được lực hút hấp dẫn của nó để thoát ra ngoài! Lỗ đen không phải là sao Lỗ đen chỉ thực sự trở thành đối tượng của khoa học vào năm 1917, khi Karl Schwarzschild giải phương trình trường hấp dẫn của Einstein. Trong lời giải này, lỗ đen xuất hiện như một tất yếu. Hãy tưởng tượng một ngôi sao, năng lượng của nó tạo áp lực hướng ra ngoài hòng chống lại lực hấp dẫn luôn ép vào trong. Nhưng, theo hệ thức Einstein, E = mc2, thì năng lượng (E) càng lớn đồng nghĩa với khối lượng (m) càng lớn và do đó sức hấp dẫn càng mạnh. Thành thử, càng gắng chống lại hấp dẫn, thì lại càng tăng cường sức lực cho nó, ngôi sao càng bị nén ép mạnh, thể tích của nó càng nhỏ, và mật độ khối lượng càng lớn. Đến một lúc nào đó, khi mật độ khối lượng đủ lớn, lực hấp dẫn đủ mạnh để áp đảo tất cả các lực khác, thì toàn bộ vật chất của ngôi sao bị rút vào trong, lực hấp dẫn càng mạnh hơn, để rồi cuối cùng tất cả co sập về chỉ một điểm, tại đó mật độ khối lượng lớn vô hạn, không gì có thể thoát ra khỏi điểm này, và thế là một lỗ đen ra đời. Thật khó tưởng tượng, toàn bộ vật chất của ngôi sao nặng gấp cả tỉ lần quả đất lại bị thu về một điểm! Cái điểm ấy thật kỳ bí, chưa ai biết điều gì đang diễn tiến ở đó, và người ta gọi nó là điểm kỳ dị (singularity). Thành thử, mặc dù có nguồn gốc là các ngôi sao, bản thân lỗ đen không còn là “sao” nữa, cho dù nó có phần nào gợi nhớ về “sao tối” thời Newton. Lỗ đen khủng ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của các ngôi sao trong các thiên hà hàng xóm. Thậm chí, nhiều nhà khoa học còn cho rằng các lỗ đen này đã điều tiết sự vận động và hình thành của chính các thiên hà. Rất may là để trở thành một lỗ đen, ngôi sao ban đầu phải có khối lượng đủ lớn. Đến như mặt trời nặng hơn quả đất cả nửa triệu lần, mà lực hấp dẫn vẫn chỉ có thể sẽ làm nó co lại thành một sao lùn trắng với kích thước cỡ như quả đất. Để đủ sức co sập toàn bộ vật chất của ngôi sao về một điểm, tạo thành lỗ đen, khối lượng của ngôi sao phải lớn hơn ba lần khối lượng mặt trời. Một may mắn nữa là, lực hấp dẫn giảm rất nhanh theo khoảng cách, nhờ vậy dù một lỗ đen có tàn bạo đến mấy, thì lực hút của nó cũng chỉ vượt trội hơn các lực khác trong một vùng không gian nhất định xung quanh điểm kỳ dị của nó. Tuỳ theo khối lượng, với mỗi lỗ đen ta có thể xác định một mặt cầu quanh điểm kỳ dị sao cho bên trong mặt đó (gần điểm kỳ dị) lực hút hấp dẫn mạnh đến nỗi không vật gì, kể cả ánh sáng, xuất phát từ đó có thể thoát ra ngoài. Còn, bên ngoài mặt này thì lực hút của lỗ đen quá yếu để có thể giữ ánh sáng lại và do đó ta vẫn “nhìn” thấy được. Bề mặt như thế có tên là “chân trời sự kiện” (event horizon), còn bán kính của mặt cầu này gọi là bán kính Schwarzschild. Lỗ đen càng nặng, bán kính Schwarzschild càng lớn. Tất cả những gì từ bên ngoài không may rơi vào trong qua “chân trời sự kiện”, thì đều bị hút vào điểm kỳ dị, không có con đường nào khác! Lỗ đen là miền không gian giới hạn bởi “chân trời sự kiện” bao quanh điểm kỳ dị. Những lỗ đen khủng Lỗ đen càng nặng, thì sức huỷ diệt của nó càng tàn khốc và vùng ảnh hưởng càng rộng lớn. Từ lâu các nhà khoa học đã giả định sự tồn tại của các lỗ đen siêu nặng (hàng tỉ lần khối lượng mặt trời), là cơ sở để giải thích nhiều hiện tượng thiên văn, trong đó có sự phát sáng chói loà của các quasar. Trong vòng 15 năm trở lại đây, một số lỗ đen khủng như vậy đã được ghi nhận, nhưng khủng nhất là hai lỗ đen do McConnell và cộng sự vừa phát hiện năm ngoái (Nature 8.12.2011). Chúng có địa chỉ ở hai thiên hà êlíp: thiên hà NGC3842 nằm giữa đám thiên hà cách quả đất 98 megaparsecs và thiên hà NGC4889 trong đám Coma cách chúng ta 103 megaparsecs (một megaparsec bằng khoảng 3 triệu năm ánh sáng). Mỗi lỗ đen này nặng gấp 10 tỉ lần mặt trời. Các lỗ đen khủng như vậy chỉ tồn tại ở các thiên hà êlíp nằm tại tâm các đám thiên hà, như con nhện nằm ở trung tâm của mạng nhện. Ở đó lỗ đen được nuôi rất “béo” nhờ hấp thụ khí và “xơi tái” cả các vì sao của các thiên hà lân cận, và trở nên cực nặng. Khó khăn trong nghiên cứu các lỗ đen này ở chỗ các đám thiên hà mà lỗ đen khủng cư trú đều nằm cách xa quả đất ít nhất cũng một trăm megaparsecs, nên việc đo đạc và xác định chính xác khối lượng của lỗ đen là cực khó. Lỗ đen khủng ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của các ngôi sao trong các thiên hà hàng xóm. Thậm chí, nhiều nhà khoa học còn cho rằng các lỗ đen này đã điều tiết sự vận động và hình thành của chính các thiên hà. Ý kiến tạm thời chưa thống nhất và người ta đang chờ các kết quả đo mới với các kính viễn vọng có đường kính tới 40m, như kính viễn vọng cực lớn của châu Âu. NGUYỄN TRẦN Theo sgtt.vn
  5. Học thuyết ADNH là không có giới hạn mà thôi - Bác Votruoc có thể giải thích một cách tổng thể chăng!
  6. Ảnh đẹp xả stress Lý học Biển một bên và em một bên, Trên đầu bầu rựu, dưới chân thịt rừng.
  7. Những bài toán tới hạn: Có một bài toán được cho là nghịch lý từ thế kỷ thứ IV TCN, lấy một đoạn thẳng của cái cây rồi chia đôi được một đoạn nhỏ hơn, cứ như vậy không thể kết thúc được gọi là vô hạn nhỏ, nhưng rõ ràng nó là một thực tại. Vậy bài toán được giải như thế nào tức nhát cắt tới đâu thì dừng. Có một tập hợp A thì sẽ luôn có một tập hợp B lớn hơn và bao trùm nó và cứ như vậy..., cuối cùng có một tập hợp lớn nhất vô cùng bao trùm mọi thứ tập hợp, vậy tập hợp này xác định như thế nào hay có thể hiểu là "vô hạn" được xác định như thế nào. Mọi thứ đều có nguyên nhân kết quả, vậy nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ này như thế nào nếu cho rằng vũ trụ là tập hợp vô cùng bao trùm. Trong Lý học là Thái Cực. Sự vận động của vật chất trong vũ trụ hiện nay là chân lý, vậy có cái được gọi là không vận động hay không. Chúng luôn biến dịch, vậy có dạng vật chất nào không biến dịch hay không. Trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành: cái vô hạn nhỏ lẫn lớn được hiểu như thế nào và mối quan hệ giữa chúng được diễn giải ra sao. Tạm thời, chưa nói đến "linh hồn" vả bản chất của sự "nhận thức" là cái gì!. Những vấn đề này có liên quan đến lịch sử Hùng Vương, bởi chúng được lấy làm biểu tượng cho các Vua Hùng và tổ tông của các ngài, mọi vấn đề như một dòng chảy lớn và không tách rời được những dự định của các bậc thầy. Cho nên, rất căng thẳng và phức tạp, dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Giải mã bí ẩn vật chất tối Các nhà khoa học Anh tin rằng, một loại hạt cơ bản hoàn toàn mới có thể lý giải bí ẩn về "vật chất tối", thứ vật chất được cho là chiếm phần lớn khối lượng của vũ trụ. Giới khoa học nhận định, vật chất tối chiếm 26,8% tổng năng lượng - khối lượng kết hợp của vũ trụ, trong khi vật chất thông thường chỉ chiếm 4,9%. Xét riêng khối lượng, vật chất tối được cho là chiếm tới 84,5% vũ trụ. Đối với các nhà thiên văn học, vật chất tối để lộ dấu vết của chúng thông qua cách lực hấp dẫn của chúng tác động đến các ngôi sao và thiên hà, giúp họ kết nối chúng với nhau và xác lập cấu trúc của vũ trụ. Dấu vết của vật chất tối cũng có thể nhìn thấy được trong nền vi sóng vũ trụ (CMB), những gì còn sót lại sau vụ nổ Big Bang. Tuy nhiên, bất chấp vô số nỗ lực của giới nghiên cứu, cho tới nay vẫn chưa có ai từng quan sát được trực tiếp vật chất tối. Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Southampton (Anh) vừa đề xuất giả thuyết về một loại hạt cơ bản hoàn toàn mới cho vật chất tối. Họ tin rằng, bản chất của loại hạt giả thuyết này có thể là lí do tại sao cho tới nay vẫn chưa ai có thể phát hiện trực tiếp thứ vật chất bí ẩn này. Hạt giả thuyết mới có khối lượng chỉ khoảng 0,02% khối lượng của một electron. Mặc dù không tương tác với ánh sáng, nhưng nó tương tác mạnh mẽ một cách đáng kinh ngạc với vật chất bình thường và thậm chí không thể xâm nhập vào bầu khí quyển Trái đất. Nếu các phỏng đoán trên là đúng, các hạt vật chất tối ít có khả năng bị các máy dò đặt trên Trái đất phát hiện. "Nghiên cứu của chúng tôi quy tụ nhiều lĩnh vực vật lý khác nhau: vật lý lý thuyết hạt, thiên văn học quan sát bằng tia X và quang học lượng tử thử nghiệm. Hạt chúng tôi đề xuất nghe có vẻ điên rồ, nhưng hiện dường như không có thử nghiệm hoặc quan sát nào có thể bác bỏ nó. Vật chất tối là một trong các vấn đề quan trọng, chưa được giải mã trong vật lý hiện đại và chúng tôi hy vọng, đề xuất của chúng tôi sẽ gợi nguồn cảm hứng cho các nhà khoa học khác phát triển lý thuyết hạt cho thiết và thậm chí là các cuộc kiểm tra bằng thí nghiệm", tiến sĩ James Bateman, một thành viên nhóm nghiên cứu của Đại học Southampton, nói. Ông Bateman và các cộng sự hy vọng kết hợp một nghiên cứu về loại hạt giả thuyết mới vào một thí nghiệm không gian có liên quan. Dự án Các thiết bị cộng hưởng lượng tử vĩ mô (Maqro) sẽ được xúc tiến nhằm kiểm tra các hiện tượng lượng tử, tức là hành vi kỳ lạ của các hạt hạ nguyên tử, ở mức quy mô lớn hơn. Trong thử nghiệm này, một hạt nano lơ lửng trong không gian sẽ được dùng để xem liệu vị trí của nó có bị luồng chảy vật chất tối làm thay đổi hay không. Tuấn Anh (Theo Daily Mail, Space)
  8. Hành Trình Nhận Thức Duy Niệm của Nhân Loại (PHẦN III) Triết học là gì, triết học khởi đầu ra sao? Triết học, từ Philosophy theo nghĩa khởi thủy của tiếng Hy Lạp (φιλοσοφία)“ Philein” có nghĩa là “yêu”, và “sophy” có nghĩa là “sự thông thái”. Vậy triết học có nghĩa là: tình yêu sự thông thái 1. Định nghĩa này khá rõ, nhưng cũng gây hoang mang cho chúng ta, bởi lẽ, nếu con người được định nghĩa như động vật yêu trí khôn của lý trí, thì ở đâu, hay bất cứ chuyên ngành nào con người chẳng cần đến sự thông thái. Cần gì phải gia nhập vào triết học? Vậy một cách riêng rẽ hơn, triết học bắt đầu từ đâu? Hiển nhiên, khi con người có mặt trong vũ trụ, là con người sẽ vấn hỏi để tìm kiếm sự thật về vạn vật xung quanh liên đới đến cuộc sống thiết yếu của mình. Chẳng hạn, người ta hỏi tại sao mặt trời lại nóng – lại có thể phơi khô quần áo hay củi? Tại sao nước lại mềm và mát có thể uống để thỏa khát, song hãy cẩn thận không biết bơi sẽ bị chìm? Còn muôn vàn côn trùng, cây cỏ, động vật, tại sao lá này ăn được, lá kia thì ngộ độc, tại sao bằng cách này thì bắt được cá bằng cách kia thì không, tại sao có thể sống chung với cừu mà không không thể đùa cùng rắn độc? Tất cả mọi câu hỏi và dò tìm về vũ trụ trước mắt cũng như xung quanh đặt con người vào trong ngành vật lý. Đó là ngành nghiên cứu mọi nguyên lý hoạt động của vật chất. Đi xa hơn những câu hỏi thông thường, con người sẽ tìm kiếm vũ trụ hình thành từ đâu. Chẳng hạn, người Trung Quốc cho rằng thế giới được kết thành từ 5 nguyên tố: Kim – mộc – thủy – hỏa – thổ; người Ấn Độ thì nghĩ vũ trụ được tạo thành từ bốn chất: Đất – nước – gió – lửa. Còn ở Hy Lạp: Ông Thales (585 trước Công Nguyên) quan niệm nước là nguồn gốc của cả vũ trụ. Sau đó đến ông Anaximene ( khoảng 570 – 526 trước Công Nguyên) lập thuyết: Không khí sinh ra nước – lửa và đất, để cấu thành thế giới. Và giờ phút đỡ thai nhi triết học đã đến, từ người mẹ nhận thức vũ trụ. Các bạn hãy lắng nghe và hiểu, sự đặt tên hài nhi “triết học” vô cùng mạch lạc của Aristote: “Vật lý là môn khoa học đầu tiên. Nhưng nếu tồn tại một bản tính bất động khoa học về bản tính này phải đến trước và phải là triết học đầu tiên. Và nó sẽ xem xét hữu thể như là đang có” 2. Theo đó, Aristote lý giải thật rõ, nếu vật lý nghiên cứu những chuyển dịch, vận động, hoạt động vật thể. Thì triết học là môn nghiên cứu vật thể đó trước khi hoạt động, Chính bởi quan điểm cốt yếu này, giới triết học đã sản sinh 2 quan điểm mật thiết sau: 1- Triết học là môn khoa học về Bản Thể (substanse). Bản thể là gì? Đó là bản chất cốt yếu định nghĩa vật thể như là chính vật thể đó. Vì vậy nó còn có một tên gọi khác là “Yếu tính” (essence) dễ hiểu hơn triết gia Kant còn gọi bản thể là “Vật tự thể” (noumène) 2- Triết học là môn khoa học về Hữu Thể. Hữu thể là gì? Tiếng Pháp là Être, tiếng Anh là Be, tiếng Đức là Sein hay Dasein nghĩa là Cái đó, Cái là. Hai quan điểm trên chia ra để dễ nhìn thôi, thực chất nó là một quan điểm đồng nhất. Trước hết, muốn xem xét vật thể nào, vấn đề nào, ta phải xem xét nó có hay không – đó là hữu thể của nó, sau đó ta xem bản chất quy định “gọi tên” nó là gì – đó là bản thể. Vậy ta có thể hợp nhất hai quan điểm trên thành một: Triết học là môn khoa học về hữu thể mang bản thể. Như vậy có thể suy diễn, triết học không thể xem xét một vật thể không nội dung không bản thể làm nên nó. Hay nghiên cứu về cái đang có mà chẳng có gì. Hữu thể phải đựng bản thể, cũng như bản thể phải mặc lấy hữu thể, bởi thế, trong triết học, về tên gọi, người ta không quá phân rẽ hữu thể và bản thể. Có thể gọi tên hữu thể thay cho bản thể, và ngược lại, bản thể thay cho hữu thể (song chớ nên lầm lẫn hữu thể là vỏ bọc hình thể và bản thể là nội dung). Khoa học về bản thể luận đầu tiên được manh nha bởi nền móng của Parmènide (khoảng 514 – 410 trước Công Nguyên). Ông cho rằng: Không gì trở thành cái gì khác với cái nó vốn có. Nghĩa là, không gì có thể biến đổi. Giác quan của chúng ta luôn bị đánh lui. Song song và đối nghịch với ông là sự phản bác nổi tiếng của Héraclite (khoảng 540 – 480 trước Công Nguyên). Ông quan niệm: Tất cả đều biến đổi Giác quan của chúng ta có thể tin cậy được. Cách nhìn của Héraclite, với vũ trụ biến đổi của vạn vật vẫn thiên về vật lý. Trong khi đó cách nhìn của Parmènide đã lập nên nền móng cho triết học. Chẳng hạn, ngay về mặt tự nhiên, Parmènide khi nghĩ ngọn lửa muôn đời vẫn là lửa, nước cũng vậy mãi mãi là nước. Đặc biệt hơn các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh học thuyết về thế giới được dựng lên từ những hạt nguyên tử bất diệt, bất biến và bất khả phân của Democrite (khoảng 460 – 370 trước Công Nguyên) là khá đúng. Hơn thế, các nhà vật lý hiện đại còn phát giác ra trong từng nguyên tử có những hạt cơ bản nhỏ hơn là proton, electon và neutron. Chúng có một giới hạn nào đó – bất biến – Bất phân để cấu thành vũ trụ. Dù vậy đó vẫn là cái nhìn của vật lý để tham chiếu vào triết học. Triết gia Zang Will có nói: “Mọi sự thay đổi trừ sự thay đổi”. Dòng sông chẳng hạn, nó luôn luôn chảy, nhưng nếu nó ngừng chảy nó không còn mang tên dòng sông nữa, việc luôn luôn chảy của nó chẳng bao giờ thay đổi cả. Một đại dương cũng vậy, sóng vỗ suốt ngày, thủy triều lên xuống, nếu không luôn luôn như thế, nó sẽ là một chiếc ao, dù lớn. Các hữu thể tuyệt đối bất biến không phải xét theo sự vật mà xét theo tính vấn đề của nó. Màu xanh chẳng hạn, lá cây có thể chuyển màu vàng khi mùa thu, có thể màu đỏ khi mùa đông, có thể rụng thành màu nâu, nhưng khi nói đến hữu thể màu xanh, vẫn phải là màu xanh ấy. Một đường thẳng được dựng qua hai điểm nó không thể biến đổi bằng cách cong đi, bởi khi nó cong nó sẽ không được xem như đường thẳng nữa. Một tam giác cũng thế, nó không thể được xem như một tam giác nếu vênh và hở. Cụ thể hơn, khi ta nói về những đứa bé, dù rằng nhất định mai kia chúng sẽ lớn lên nhưng không thể xem hữu thể tuổi trẻ là những ông già. Hoặc, mặc dù ai sống mà không phải chết, nhưng khi ta đem quà đến cho người sống nhất khoát không thể xem người đó đã chết. Chính vì tính bất biến của hữu thể, mà sau Parmenide, Aristote đã định ra tính đồng nhất của hữu thể: A phải là A, A không thể nào biến đổi để thành B. Vậy chúng ta có những hữu thể bất biến nào? Màu đỏ, màu xanh, màu vàng, đường thẳng, góc vuông, cuộc sống, cái chết… tất cả mọi vấn đề (hay đề tài) ở đời đều có thể coi là hữu thể. Sự nóng chẳng hạn, nó là một hữu thể, khi nó nguội dần đi ta có thể nhúng tay vào, vậy khi ta không đề phòng như nó nóng thì nó không còn nóng nữa, sự nóng ở chậu nước cụ thể trước mắt ta đã biến mất, nhưng tâm trí ta vẫn còn lưu giữ sự đề phòng về nước nóng. Nghĩa là hữu thể nóng không mất, không thể thay đổi bằng cách nguội đi. Hữu thể say đắm, chẳng hạn, ngày nào đó đôi tình nhân có thể ghét bỏ nhau, nhưng lúc đó họ sống trong hữu thể ghét bỏ, còn hữu thể say đắm vẫn còn lại với đời. Triết học trước hết nhắm đến hữu thể – nghĩa là nó có không, sau đó nhắm đến bản thể – nghĩa là bản chất (yếu tính) của nó là gì? Như vậy, triết học lần về cái nhân lõi đầu tiên của vật thể, giống như từ cây lần về hạt – cái là nguồn gốc của cây. Đó là con đường nhận diện bản chất của vật thể trước khi nó vận động trong dòng vật lý. Bởi thế, triết học không thể được xem xét như một môn tự nhiên chỉ tìm kiếm những hữu thể vu vơ. Mà như Aristote xác định, triết học phải là con đường nhận diện những bản tính và nguyên lý tất yếu. Ông nói: “Chỉ khi nào người ta nắm được cái gì tất yếu… thì người ta mới chú ý đến nhận thức triết học” 3. Muốn hiểu được cái tất yếu, quy luật tất yếu, hay nguyên lý của chúng, hầu hết các triết gia cho rằng, con người chỉ có thể hiểu biết bằng tư duy – tức lý trí – chứ không thể bằng cảm giác. Một khúc gỗ tươi chẳng hạn ném xuống nước, trước thị giác của chúng ta nó chìm, nhưng một khúc gỗ khô ném xuống nước thì nổi. Thị giác một lần chứng kiến gỗ chìm, lần hai chứng kiến gỗ nổi, chỉ có tư duy mới xâu chuỗi hai lần lại, để hiểu rằng, gỗ tươi khi khô thì nổi. Thế giới tự nhiên, từ hòn đá, đến con kiến, hay dòng sông, con người chỉ có thể hiểu chúng bằng tư duy. Con người có thể áp đặt, suy diễn cho một con rắn theo cách mình tư duy, nhưng không thể là chính con rắn để nắm bắt suy nghĩ của nó. Platon nói:“Vật tự thân không chu nào, chỉ có thể cảm nhận bằng tư duy”. Theo Hegel, và nhiều triết gia, thì cảm giác chỉ là cái riêng cho mình. Chúng sinh ra bởi những giác quan giúp cơ thể tồn tại như một cuộc sống bản năng của động vật. Còn lý trí là cái đã vượt lên giác quan để tham dự vào đời sống phổ biến của cộng đồng. Một người sờ tay vào nước nóng chẳng hạn, anh ta hô to “nước nóng đấy”, thì đó không còn là cảm giác nữa, mà anh ta đã công bố một sự thật để mọi người cùng tránh. Sự thật đó tự thân đã mang ý nghĩa chúng, bởi lẽ, nếu người khác nhúng tay vào không thấy nóng, anh ta sẽ bị mang tiếng là bịp bợm. Theo cách nào đó, có thể nói “Triết học là khoa học của lý trí”. Triết gia Morfaux nói: “Lý trí sắp đặt những nhận thức trong những tương quan xác định, tương quan từ nguyên lý đến kết cục, từ nguyên nhân đến kết quả, từ mục đích đến phương tiện. Điều đó lý giải tại sao con người thường xác định lý trí giống như chuyên ngành của những nguyên lý”4. Để xác định khả năng lý trí chỉ con người mới có, Engel trong cuốn “Phép biện chứng tự nhiên”5 khẳng định: “Con người là “con vật xương sống” mà trong nó cõi tự nhiên đi đến chỗ ý thức được chính mình”. Vạn vật không có ý thức, chúng sống trong tập tục thói quen của giác quan bản năng. Chỉ có con người mới có ý thức. Ý thức đó tìm tiếng nói chung – đó là công lý. Sự thật được mọi người đồng tình công nhận – đó là nền móng của chân lý. Và triết học là môn khoa học xây trên nền tảng đó, triết gia Wideband Vindhem nói: “Triết học là “học thuyết về những giá trị có ý nghĩa chung”6. Còn triết gia Husserl thì nói: “Nhiệm vụ căn bản của triết học là nhận thức một cách lý tính toàn bộ thế giới bao gồm nhân sinh và tự nhiên” 7. Chúng ta đã lần theo nguồn mạch, chức năng, nhiệm vụ của triết học. Nhưng có một câu “khởi đầu của mọi khởi đầu”, hay bao hàm toàn bộ hiện ra, đó là: “Triết học có phải là một trò chơi của lý trí vô thưởng vô phạt, đi tìm chân lý chơi vơi ngoài cuộc sống”? Không! Để trả lời triệt để – ráo riết – sinh tử, ông tổ triết gia Socrate đã nói: “Triết học là sự lo chết”. Nghe qua tưởng có vẻ phi lý, nhưng kỳ thực khi con người lo chết nhất là lúc thấy giá trị đáng yêu nhất của cuộc sống. Tại sao con người phải tới bệnh viện, phải lập các phòng khám, phải đi tìm thuốc trường sinh bất lão… vì con người muốn gạt bỏ nỗi lo chết ra khỏi cuộc sống. Về điểm này, triết gia Sartre xác định “nhận thức tự xác định nó bởi sự phủ định của nó”. Cái chết – là cái phủ định tuyệt đối, bởi thế chính nó là cái có sức mạnh nhất dạy người ta khao khát sống. Như người đời nói, chỉ khi nào một đồ vật bị mất người ta mới thấy hết ý nghĩa của nó. Cũng vậy, một con người vắng mặt nhiều khi lại công bố toàn vẹn về giá trị có mặt của anh ta. Lo chết chính là khát sống. Về điểm này, Marx cũng lý giải về tương quan song hành của sinh tử như sau: “Cái chết túm chặt lấy cái đang sống”. (Le mort saisit le vivant). Vì muốn sống, con người phải học biết sự thông thái để sống, giống một con vật học biết đường đi của con mồi mong rình bắt. Nhưng sự sống của con người lớn lao, cao cả, mênh mông, ý nghĩa, không chỉ hơn con vật gấp triệu lần, mà con người còn vươn lên làm ý nghĩa thống soái của cả vũ trụ này. “Thế giới chỉ có ý nghĩa trong và bởi tinh thần” (le monde n’a de sens que dans et par l’esprit)7. Bởi thế con người cũng phải học biết lẽ thông thái muôn vạn lần hơn để trở thành ý nghĩa – là vương miện tinh thần đội lên đầu vũ trụ. Để lý giải sự mở màn của nhận thức như năng lực tất yếu của cuộc sống, triết gia Aristote có nói: “Tôi sinh trong mê muội, sống trong hồi hộp, chết trong hoài nghi”. Sinh trong mê muội thì đúng rồi, có ai biết được lúc mình sinh ra, vì lúc đó mọi người chỉ là những hài nhi vô tri. Sống trong hồi hộp, thì hẳn rồi, nào bệnh tật, mưu sinh, chiến tranh, âm mưu, lo chết. Còn khi chết thì hoài nghi mọi sự, ít nhất là sự liệu ta có được phục sinh, hay bất tử? Tất cả những hoài nghi – lo âu – mê muội đó khiến con người phải mở trí tìm tòi những chìa khóa để mở vào cuộc sống. Và triết học, môn khoa học của sự thông thái đã ra đời, không viển vông chút nào, nó chính là khao khát sống, hơn cả thế là sống đời chân lý, sống cuộc đời lý tưởng về chân lý – toàn năng – toàn thiện – toàn bích và vĩnh cửu. Triết gia Platon nói: “Điều cao cả nhất của cuộc sống là học làm người, và học biết điều con người phải tìm kiếm”. Để kết thúc chương này, tôi xin dẫn ra hai lời khuyên: Nhà triết học A. Ben Rây phân biệt giữa khoa học và triết học: “Khoa học là thành quả của trí tuệ và của lý tính chỉ dùng để đảm bảo cho chúng ta thực tế chi phối được giới tự nhiên. Nó chỉ cho chúng ta biết cách sử dụng sự vật; nó không nói cho chúng ta biết gì về bản chất của sự vật” 8. Nói vắn tắt khoa học chỉ để tâm đến dụng thể (nghĩa là chi phối, sử dụng, sắp đặt vật thể), chứ không để tâm đến Bản thể của sự vật. Bản thể – đó là triết học. Bước vào triết học, là bạn bước vào những học thuyết cực điểm – cực đoan, để hiểu nó bạn hãy lao về tột cùng cực này rồi sang cực khác để lĩnh hội nhận thức về nó. Trong khi đó, bạn đừng cố chấp vào những suy lý hợp lý, bình thường – vụn vặt, mà quên đi việc đón nhận những ánh sáng chói gắt từ nguồn phát. Thi sĩ Paul Valery nói: “Giá trị của thế giới đặt ở những cực điểm, sự vững chãi của nó đặt ở những điểm trung bình”. Chúng ta đã nhận ra, và bước qua cổng chào triết học. Nào chúng ta hãy dấn bước đi tiếp lộ trình của nó! Nguyễn Hoàng Đức
  9. Hành Trình Nhận Thức Duy Niệm của Nhân Loại (PHẦN IV) Chân Lý! Trước khi đi vào nhận thức triết học, con người luôn luôn phải bước qua cổng thành Chân lý. Nói thế không có nghĩa, chân lý là đặc ân hay nguyên tắc riêng có của triết học. Một chiếc tên lửa của ngành vật lý chẳng hạn, nó không thể bay khi không đảm bảo những sự thật về trọng lực – vận động – và nhiên liệu. Ngành hóa học cũng sẽ không thể tác thành nổi dù một phân tử nước (H2O) nếu họ trộn 2 nguyên tử chưa thành Hydro với một nguyên tử Oxy rởm. Ngay trong đời sống hàng ngày từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất cũng đều phải bám sát chân lý. Một người đến cửa hàng dây điện cầm vào cả cuộn dây cũng không hề sợ, vì anh biết rằng ở đó không có điện; nhưng vào trường hợp chỉ có một mẩu dây điện đính trên tường, thì anh lại cầm bút thử điện thử xem có điện không? Bởi nếu anh không thận trọng sẽ bị điện giật. Nước chưa sôi không thể pha trà, bởi thế, khi sản xuất những bình đun kín người ta phải gắn đồng hồ đo nhiệt độ để xem nước đã ở khoảng 100o. Hai người va chạm nhau, kéo nhau ra tòa, người nói thế này, người nói thế kia, bởi thế tòa mới cần đến người thứ ba làm chứng cho sự thật, để phân giải theo sự thật. Con người sống, làm việc, hay nghiên cứu các ngành khoa học hiển nhiên điều phải tuân thủ những điều kiện và nguyên tắc chân lý. Nhưng đó là chân lý tự thân. Có thể so sánh các loài vật đều có sinh dục thì mới sản sinh – duy trì – phát triển, nhưng đó là sinh dục bản năng, và chúng chưa bao giờ có bộ môn “khoa học tình dục”. Các ngành khoa học nhắm đến những mục đích đặc thù, và chân lý là nguyên tắc hiển nhiên để lần tìm chân lý. Bởi thế, có thể nói, chỉ có triết học mới là ngành khoa học gần như trọn vẹn và duy nhất tìm tòi thẳng vào bản chất của chân lý. Cũng có thể nói, triết học là khoa học về chân lý (trong khi đó, các ngành khoa học khác là những khoa học nhắm đến những đối tượng riêng rẽ của mình dựa trên tinh thần chân lý.) Vào lúc khởi đầu triết học Hy Lạp, trước Công nguyên, triết gia Aristotes đã nói: “Tình yêu chân lý là đức hạnh lớn nhất”. Theo ông, chân lý không chỉ là tiêu chuẩn thiết yếu của nhận thức, mà mở màn, đó là đức hạnh. Tại sao là đức hạnh? Trước ông, triết gia Platon đã lý giải, mọi chân lý, mọi vẻ đẹp, mọi cao thượng ở đời sẽ trở nên vô nghĩa nếu không mang đức hạnh. Hai nhà triết học cùng nghiên cứu chân lý chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra, nếu vào ngày cuối cùng phát giác ra vấn đề mới của chân lý, một nhà triết học hất bỏ đồng nghiệp của mình công bố phát minh của người kia thành của mình? Hai họa sỹ cùng treo tranh lên tường triển lãm, giá trị cái đẹp sẽ ra sao nếu ngày trao thưởng người ta đánh thó trao cho bức tranh xấu hơn giải cao hơn và ngược lại? Trước tòa án cũng vậy, công lý ở đâu, nếu quan tòa hay kẻ làm chứng bị mua chuộc đã công bố cái không xảy ra là sự thật? Điều đó, cho thấy phát minh ư, tài năng ư, sẽ chẳng là gì nếu con người sống ngoài đức hạnh về chân lý? Chính bởi đức hạnh về một chân lý tối cao, mà Boileau quả quyết: “Không gì đẹp bằng sự thật, chỉ cái thật mới đáng yêu”. Cái thật – đó là chân lý – là cái khởi đầu mọi sự – và chính sự khởi đầu đặt căn bản trên sự thật đó, là cái duy nhất có thể đạt đến tột cùng. Nhà tư tưởng Krisnamurti nói: “Người ta không thể nào phủ nhận một sự kiện. Người ta chỉ có thể phủ nhận ý kiến về sự kiện”. Một cách tràn đầy hơn, trong Kinh Thánh, Chúa Trời phán bảo: “Không có gì bưng bít mà không bị lộ tẩy, không có gì dấu diếm mà chẳng bị vạch trần. Điều gì thầy nói cho chúng con trong bóng tối hãy công bố nơi sáng sủa. Sự gì chúng ta nghe thì thầm trong tai hãy nói trên mái nhà”. (Kinh Mathews) Vậy chân lý là gì? Tiếng Latin là Véritas, tiếng Pháp bắt nguồn từ đó là Vérité, một cách giản dị hơn tiếng Anh gọi là Sự thật với từ Truth. Chân lý là sự thật! Một cách giản dị trực tiếp và hiện thực, trí óc con người (cả loài vật) chỉ tiếp nhận cái gì là thật. Chẳng hạn, kiến trúc là ngành cổ nhất của con người vì việc đầu tiên con người phải tìm chỗ trú hay xây dựng tổ ấm, người ta buộc phải chọn hang nào không quá ẩm mốc để khỏi viêm phổi, nơi nào an toàn không bị thú dữ, rắn rết bọ cạp tấn công, nếu dựng nhà thì phải biết cách dựng cây cột cho thẳng để nhà không xiêu vẹo, đổ nát. Khi tìm thức ăn cũng vậy, người ta buộc phải nhận biết lá nào độc, cây nào ăn được. Gặp thú hoang thì con nào vô hại, con nào phải tránh. Hoặc nước mát nhưng có thể gây chết đuối, lửa nóng lại làm chín thức ăn. Tóm lại, một cách thiết thân, trí óc chỉ thâu nạp những gì là thật, những bản tin thật, và những gì đã lấy ra khỏi những lớp hình thức đánh lừa, giả ngụy. Triết gia Lagneau nói:“Tư duy chỉ có thể có được đối tượng là thực tại”1. Morfaux lý giải như sau: “Tư tưởng chỉ có thể đạt tới từ một trực giác đơn giản, cái thể hiện như “thật” trong một “hiển nhiên”, cái là riêng rẽ trong khi nó là “tư tưởng” hay hình ảnh của yếu tính”2. Chân lý là sự thật. Nhưng sự thật đó thế nào? Chẳng hạn như triết gia Descartes minh giải, khi chúng ta nhúng một chiếc que xuống nước, thấy nó bị cong to ra, và ngắn lại. Nhưng sự thực không phải vậy, chiếc que vẫn thẳng, nghĩa là sự thật của nó vẫn thẳng, chỉ có con mắt của ta bị tính khúc xạ của nước đánh lừa. Hay từ xa, chúng ta nhìn thấy một tháp chuông nhà thờ, trông nó tròn, nhưng lại gần thì nó vuông góc, sở dĩ có sự nhầm lẫn đó vì từ xa mắt chúng ta không nhìn ra nổi cạnh góc vuông. Sự thật của một chiếc gậy trong tầm tay, của một tháp chuông trong tầm mắt còn có khả năng gây lạc hướng như vậy, thử hỏi những sự thật tinh vi dấu sau vô vàn hiện tượng phức tạp, hay xa xôi vời vợi như các vì tinh tú, thì còn dễ lạc hướng đến đâu? Bởi thế muốn tìm đến chân lý, trí óc con người phải biết gạt bỏ những ảo ảnh lạc hướng, những giả trang che đậy, để tìm ra cốt lõi của sự thật. Hegel nói: “Bản chất là chân lý của tồn tại”3. Có thể hiểu, bất cứ sự vật nào, sự thật đích thực về nó phải quy về bản chất mang sự thật của nó – đó chính là cái làm cho nó tồn tại như là chân lý- và trong chân lý. Nhưng muốn tiến đến sự thật, đặc biệt là sự thật bởi chủ tri con người và cho con người. Con người không còn cách nào khác hơn là xúc tiến lý trí của mình mong tiếp cận – thâu tóm sự thật của đối tượng. Các nhà thực chứng, nghĩa là những con người chủ trương nắm bắt sự thật bằng Chứng – Nghiệm – Thực, như Leibniz và Hume đã đưa ra hai điều thật: Những cái tiên thiên (priori) được hiểu nhắm đến kinh nghiệm và sự phân tích (analytic). Những cái hậu thiên (prosterior) và còn là sự tổng hợp (synthetic) 4. Nghĩa là đứng trước một sự vật, bằng giác quan, như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, con người mở đầu tiếp nhận nó, sau đó có kinh nghiệm về nó và trí óc phân tích để phân loại, phân hạng, phân biệt… Còn “hậu thiên”là con người tổng hợp mọi phân tích của mình để tìm ra sự thật. Từ những nhà thực chứng, có thể rút ra: Thí nghiệm, thể nghiệm, ứng nghiệm, trải nghiệm là cách mà con người muốn đi vào để tìm ra chân lý. Con người dùng nhận thức của mình để tìm hiểu sự vật – thật sự như là sự vật, là con đường từ lý trí chủ quan gặt lấy chân lý khách quan. Trong “Từ điển triết học phương Tây hiện đại”, triết gia Moore chỉ ra: “Chân lý phải là sự phù hợp của phán đoán với bằng chứng và nhiệm vụ của triết học là phân tích bản chất của sự phù hợp đó” 5. Đến đây, chúng ta đang đi vào trung tâm của vấn đề chân lý. Ngay buổi rạng sáng của triết học Hy Lạp, Parménide đã xác định: “Trên con đường chân lý, người ta tuyên bố sự đồng nhất của hữu thể và tư duy” 6. Theo cách đó, thì khi tư duy có khả năng đồng nhất nhận thức của mình với bản chất của sự vật, nói cách khác, khi tư duy và sự vật tìm được tiếng nói chung về bản chất của sự vật, thì chân lý xuất hiện. Một cách đồng tình, Aristote cũng xác định: “Chân lý tương xứng, xứng thể giữa thức và thể.” Kế tiếp đó Hegel cũng khẳng định tính tất yếu của tồn tại chân lý trong và với ý thức: “Cái gì thực là cái có lý, cái gì có lý là thực”. Hegel còn chỉ rõ hơn, ngay cả khi ý thức chưa xuất hiện để thấu hiểu bản chất sự vật, thì bản thân sự vật vẫn thai nghén chân lý tự thân của nó. “Chân lý và thực tại luôn luôn song hành.” (La vérité et la réalité sont toujours marche)7. Còn Boieau thì diễn giải cụ thể hơn về chân lý: “Chân lý sự hòa hợp giữa tư tưởng với đối tượng của nó”. Trong “Bút ký triết học”, Lenin đã lĩnh hội về chân lý như sau: “Chân lý đó là cái khách quan, đó là quan hệ độc lập với người quan sát. Trên thực tế đó là cái được mọi người thừa nhận, đó là cái làm đối tượng cho kinh nghiệm phổ biến, cho sự đồng ý phổ biến”(trang 494) Tại sao chân lý luôn đòi hỏi hai thành phần sự vật và chủ tri? Bởi vì: Sự vật: Là đối tượng tự thân cung cấp cho con người “địa chỉ” hiểu biết về chính nó. Chủ tri: Là nhận thức của con người định hướng tìm hiểu bản chất của sự vật. Thế giới không có con người, thế giới vẫn tồn tại một cách khách quan, nhưng vô cảm – vô tri, bởi vì theo các triết gia thì “thế giới chỉ có ý nghĩa trong và bởi tinh thần” (le monde n’a de sens que dans et par la’esprit) 8. Một cách rõ ràng, Lenin diễn giải: “Con người cần phải công nhận: Chân lý mà con người có thể đạt được là một chân lý của con người. Với chữ này, chúng ta không muốn nói rằng chân lý đó là tương đối, theo ý nghĩa hoài nghi chủ nghĩa của chữ ấy. Mà muốn nói rằng chân lý phụ thuộc vào kết cấu của loài người và chỉ có giá trị đối với loài người mà thôi”9. Chân lý, đến đây, với chúng ta tưởng đã lộ hiện ra khá rõ ràng đó là: nhận biết đan kết đồng nhất với sự vật hay thực tại. Nhưng con đường của chân lý còn gian nan lắm, mà dường như mọi nỗ lực trên mới chỉ là bước khởi đầu. Pascal nói: “Chân lý bên này dãy Pyrénees là ngộ nhận ở bên kia”. Các nhà triết học thường dẫn dụ, người ở bên này con sống thường gọi người bên kia là “bên ấy”, người bên kia lại gọi nói họ đúng là “bên này”. Bên này hay bên ấy, bên ấy hay bên này không tùy thuộc thực thể địa lý mà phụ thuộc vào chỗ đứng của mỗi bên. Và có một chuyện rất điển hình về chân lý: Ngày kia, có hai hiệp sĩ tới từ hai phía đối diện, lúc gặp nhau, cùng lúc họ đều thấy một chiếc gia huy treo trên cành cây. Hiệp sĩ bên này nói “mặt nó bằng vàng”. Hiệp sĩ bên kia nói “mặt nó bằng bạc”. Hai bên cãi nhau, rồi lăn vào hỗn chiến. Sau nhiều hiệp hai người cùng ngã ngựa và ngã về hai hướng của nhau. Nhìn lên, hiệp sĩ “bạc” thấy gia huy mặt vàng, và hiệp sĩ “vàng” thấy gia huy mặt bạc. Thế là chiếc gia huy có hai mặt cả vàng lẫn bạc. Nhưng do chưa kịp nhìn kỹ cả hai phía, hai bên đã vội vàng cãi cọ và ẩu chiến lẫn nhau. Họ đánh nhau để bảo vệ “cái đúng” từ phía mình. Các triết gia cũng xác định, chưa nói đến những gì to tát và huyền bí, chỉ cần đặt một bao diêm trước mặt, chúng ta cũng không thể nào nhìn thấu cả sáu mặt của bao diêm, bởi lẽ ánh mắt của ta chỉ rọi từ một phía. Vậy thì chân lý dù chỉ là nhận thức của chúng ta đồng nhất với hữu thể, nhưng chính chúng ta còn chưa đồng nhất với nhau – nghĩa là chưa mang “giá trị có ý nghĩa chung” thì làm sao có thể thâu hái chân lý phổ quát như là công lý? Đó mới chỉ là thái độ sai lầm tự nhiên, nông nổi, bồng bột, tuy vậy vẫn là vô tư. Nhưng có một thái độ nguy hiểm hơn, đó là cách con người cố tình che đậy chân lý, đánh lạc hướng sự thật, thậm chí giết người diệt khẩu mong vùi chôn chân lý. Nhà văn Exupéry nói: “Chân lý cho kẻ này là xây dựng, nhưng cho kẻ kia nó lại là sử dụng”.Chẳng hạn, như chúng ta biết ngay khi phát hiện về nguyên tử được tìm kiếm, thì nhiều thế lực chưa vội vàng xây dựng nó cho dân sinh mà lập tức sử dụng nó như một thuốc nổ siêu công phá để tàn hại con người, răn đe đối phương. Trước một tòa án cũng vậy, không phải lúc nào sự việc cũng được xử theo công lý, đúng người, đúng tội, mà sự thật đã bị rất nhiều thế lực của tiền tài, quyền vụ khủng bố bóp méo. Rõ hơn, trong tương quan giữa ông chủ và người làm thuê, ông chủ thì muốn bóc lột nhiều hơn, người làm thuê thì muốn ăn bớt công đoạn, bớt nguyên liệu… giá trị sản phẩm là cái hai bên hội tụ nhưng bị phân thân thành hai vụ lợi, thử hỏi làm sao họ có thể nhất trí được về sự thật “công ăn việc làm”? Trong chiến tranh, người ta thấy không ít lần, hai bên đều gõ trống khua chiêng về sự chiến thắng của mình, để tìm cách khích lệ các chiến binh hãy đánh nhau tiếp. Đặc biệt với quân đội Đức trong chiến tranh thế giới II chỉ còn mấy ngày nữa là đội quân tan rã, vậy mà Hitle, giới Chóp bu và tướng tá vẫn bưng bít và làm ra vẻ một sự thật; quân ta đang chiến thắng, sắp khải hoàn. Trong văn chương, nghệ thuật, hay các ngành kinh doanh tồn tại không ít thói “khen vờ chê giả” mong tạo ra những giá trị giả ngụy, và chôn vùi những giá trị thật. Những dẫn dụ trên rất ít ỏi để minh chứng sự khó khăn của con người khi muốn đồng nhất với chân lý, bởi chính con người là cái tạo ra giá trị công lý, do vụ lợi, ngụy trá, ngụy biện cho mình, đã muốn biến sự thật không phải thành chân lý, mà thành miếng mồi cho mình sử dụng. Không chỉ chân lý xã hội cái bị mưu cầu lợi ích của người nay lẫn người kia, nhóm này hay nhóm khác, quốc gia này và quốc gia nọ bị bóp méo thành sử dụng mà với tự nhiên cũng vậy. Chúng ta thử hình dung, loài người cần bảo vệ môi trường sống, nhưng những kẻ săn ngà voi, đàn gỗ quý và lấy mật cá heo sẽ biện hộ thế nào để tiếp tục tàn phá thiên nhiên vụ lợi cho mình? Chân lý không chỉ hiện ra một cách khó khăn khi chính chủ tri con người nhiều khi vụ lợi đã tự đánh lạc hướng mình. Mà khó khăn hơn, một cách thành thật, con người bị mắc vào những éo le, những mâu thuẫn, những nghịch lý trong việc nhìn ra chân lý. Chẳng hạn, một vấn nạn rất lớn của đức tin, đó là Thượng Đế. Có nhà triết học nói: Cái tôi nhìn thấy thì tôi tin, điều đó chẳng có nghĩa gì. Chỉ khi nào tôi không thấy mà vẫn tin, thế mới là Đức Tin. Thêm nữa, nếu như phải tin về một Thượng Đế vô lượng, vô biên, toàn văn thì cách chi để con mắt giới hạn của ta có thể thấy ngài. Vả lại muốn thấy ngài như thấy một muôn mặt của trần gian là vô hình trung đã kéo phẩm chất thánh thần xuống phẩm chất thế tục. Những người uyên bác như Newton và Einstein, rút cục đều tin vào Chúa khi so sánh cái giới hạn của Khoa học với vũ trụ vô biên. Newton nói: “Khoa học chỉ là một chút đá cuội và vỏ sò trên bãi biển”. Còn Einstein thì bảo: “Mọi nghệ thuật và khoa học chân chính đều bắt đầu từ đức tin.” Như vậy, chân lý không chỉ đến từ lý trí phổ quát, khả nghiệm, khả giác, khả lý mà như nhà bác học Pascal đã vạch ra một con đường khác của chân lý: “Chúng ta đi đến chân lý không phải bằng lý trí mà bằng con tim”. Chưa hết, chân lý không phải chỉ là cái bộ phận, nó còn là cái toàn thể. Dòng sông khởi từ nguồn nhưng chảy về biển cả, ở nguồn hay ở cửa biển nó vẫn là sông. Một bé gái xét toàn thể sẽ là một bà già, vậy cô bé là lúc nào đây? Hay là tất cả? Và bé đó tất nhiên phải chết, vậy cuộc sống của bé có bao gồm cả cái chết? Nếu nói, cuộc sống của bé không bao hàm cái chết, thì tại sao khi chết, ảnh của “bé – bà” được treo trên bàn thờ, được nhớ, được cúng, được tham dự vào suy nghĩ, sinh hoạt của người sống? Một con người đang sống, không phải chết đứng, mà đang vận động, một sợi tóc hôm nay còn xanh mai đã bạc là bởi nó vận động trong từng tích tắc. Chính thế, mà mở màn “định lý vạn vật”, Heraclite đã nói: “Tất cả đều vận động, không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông, vì lần hai ta bước xuống, nước đã chảy khác đi.” Và chính bản thân ta cũng thay đổi khác trước, để không còn giống mình lần một khi bước xuống dòng sông. Nếu Aristote cho rằng: “Hữu thể là hữu thể đang có”, thì đến Hegel cho rằng: “Hữu thể là quá trình toàn thể”. Bởi thế, theo Hegel chân lý không chỉ đang có mặt, mà còn đang trở thành (có lẽ giống một cô bé sẽ trở thành thiếu nữ). Hegel nói: “Tất cả chân lý đều đang trở thành” 10. Và Lenin đã lĩnh hội ý của Hegel như sau: “Lịch sử khoa học cho chúng ta thấy chân lý trong cái sinh thành của một sự phát triển; chân lý chưa hình thành nhưng nó đang hình thành (có lẽ) chân lý không bao giờ hình thành, nó sẽ hình thành thêm mãi?” 11. Chân lý không phải chỉ là sự thật của sự vật trong khoảnh khắc nó là, mà là toàn bộ quá trình nó hình thành để hoàn thành, giống như dòng sông không thể chỉ chảy chỗ nọ không chảy chỗ kia, mà chảy trọn vẹn cả dòng trôi, sau khi phát kiến mọi chân lý đều đang trở thành, Hegel tổng quan: “Chân lý là toàn thể” (Das wahr is’t das gang) 12. Vì chân lý là quá trình trở thành, là toàn thể từ đầu đến cuối, nghĩa là vô hạn, trong khi đó con người chỉ là giới hạn không thể có nổi toàn năng – toàn trí để nắm bắt chân lý toàn bộ. Husserl nói: “Lịch sử của chân lý là lịch sử của nhận thức chân lý”. Theo đó, có thể coi, chân lý cũng vận động tiến triển như lịch sử của loài người. Emile Bréhier có một cách nói tương tự: “Bản chất của triết học là tìm kiếm chân lý chứ không phải nắm giữ chân lý”. Và có một quan điểm chia sẻ tính vận động của chân lý: “Chân lý không còn là chân lý khi ta cho rằng đã nắm được nó. Thực sự chân lý chính là cái thoát khỏi sự chiếm đoạt của ta”13. Đến đây, sau một hành trình, chân lý có vẻ đang nở rộ để thoát khỉ chính bản thân nó. Chân lý là hữu thể? Là thực tại? là đang hình thành? Hay toàn thể? Là những vấn nạn không dễ chút nào. Nhưng con người không thể lẩn trốn cuộc hành hương chân lý, bởi như Saint Augustine nói: “Chúng ta sẽ chẳng thu lượm được gì nếu không quên mình tìm đến mùa gặt chân lý”. Hay như Nietzsche công báo: “Một lôi cuốn vì đại sát cánh với chúng ta có thể là lôi cuốn to lớn nhất: lôi cuốn về chân lý”. Con người không thể không muốn sống thật, yêu thật, hạnh phúc thật, nhận thức thật, có phẩm chất thật, mang giá trị thật; bởi thế con người chắc hẳn luôn luôn tìm tòi sự thật, bản chất thật, ý nghĩa thật, nội dung thật. Nhưng cái gì là thật? Khi mà từ nội dung cho đến hình thức, từ chủ tri con người đến đối tượng luôn chòng chành – biến dịch – vận động – thay đổi – đang hình thành mà chưa hoàn thành? Về câu hỏi này Descartes đã giúp chúng ta. Ít nhất, để khởi sự, ông nói: “Ý chí là chân lý”. Đúng vậy, con người không thể tìm ra sự thật nếu mở mà không có ý chí đi tìm sự thật. Sau đó phải là thái độ dấn thân kiên trì để tìm ra sự thật. Không một phát minh nào không cố gắng tìm tòi mà có được, không một định lý nào có thể hạ sinh trước nhận thức không cố gắng của con người, không một chân lý nào tự bóc trần lộ hiện trước thái độ thờ ơ không bóc vỏ của nhận thức con người. Bởi thế, Saint Augustine đã công bố một thái độ không sợ sai dấn thân vì chân lý: “Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm là vì tôi sẽ thiết yếu liên tục đến chân lý”. Và giáo hoàng Pius XII cũng chia sẻ quan điểm tương tự: “Ngay cả trong chủ nghĩa sai nhầm, vẫn có thể ẩn giấu một yếu tố chân lý”. Để kết thúc chương chân lý, để làm minh bạch phần nào giúp tâm trí không bị trôi dạt qua hệ thống ốc đảo phức tạp của chân lý, tôi xin tóm lược toát yếu sau: I – Về tinh thần chủ tri, tính chất công lý, hay phạm vi xã hội, không gì hơn lời phán sau của người Latin: Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý. II – Về tính kỹ thuật chân lý được mở màn từ: Hữu thể và chân lý là một (triết kinh viện) Thực tại là chân lý. Platon nói: “Thực tại là thế giới của phân nửa chân lý” (La réalité était un monde de demi vérités) 14. Và sau cả quá trình hình thành triết học hơn hai thiên kỷ, Hegel vẫn cùng quan niệm:“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành” (La vérité et la réalité sont toujours en marche) 15. Chân lý biến thiên Về một chân lý đang vận động, chúng ta hãy tham chiếu một ý tưởng trong Bách khoa thần học: “Chân lý là tương quan bộ phận và khả biến, nó phụ thuộc vào cách thức trong đó chủ thể lĩnh hội nó; và nó đổi thay tùy theo hoàn cảnh của nơi chốn và thời gian” 16. Chân lý đang trở thành và hoàn thành trong toàn thể: đây là ý tưởng của Hegel mà chúng ta đã đề cập bên trên. Nguyễn Hoàng Đức
  10. NÓI CHUYỆN TRIẾT LÝ NGUYỄN ĐÌNH THI Ông Nguyễn Đình Thi, một trang thanh niên anh tuấn, đã từng viết những sách như Triết học Nietzsche, Triết học Kant và Triết học Einstein. Nay ông vì yêu Tri Tân, vui lòng cộng tác với chúng tôi về bài vở. Vậy, từ nay, bản chí sẽ lần lượt cho ra mắt các bạn những bài của Nguyễn Quân thuộc loại thường thức về triết học, rồi dần dần đi đến chỗ thâm áo của những học thuyết cao sâu. L. T. S. NGÀY NAY, những tiếng triết lý, triết học, dùng đã thành quen, nên cả những người không đọc triết học bao giờ cũng hiểu được lờ mờ thế nào là triết lý. Nhưng trong sự hiểu biết thông thường ấy, không khỏi có nhiều chỗ sai lầm. Bởi vậy, trước khi vào sâu hơn trong những vấn đề triết học, chúng tôi tưởng không gì hay hơn là thích nghĩa hai chữ thường dùng đó cho rõ rệt. Chúng tôi xin nói trước rằng ta chưa thể hiểu ngay được thế nào là triết lý. Vì triết học không phải một khoa học bất di bất dịch, mà biến đổi theo từng thời đại, và từng cá nhân nữa; nên nhời thích nghĩa dưới đây chỉ có một giá trị tạm thời. Chúng ta đều biết triết lý không phải là một tiếng sẵn có trong văn chương Việt Nam. Ta mượn nó ở tiếng Tàu. Nhưng người Trung Hoa xưa kia cũng không hiểu triết lý là gì, tuy họ vẫn luôn luôn bàn chuyện triết lý. Nói đến luân lý, ta biết. Nói đến triết lý, ta không hiểu. Điều đó không có gì lạ, vì triết lý chỉ là một tiếng dịch. Người ta dùng nó dịch chữ “philosophie” của người Pháp, và “philosophy” của người Anh, và “philosophie” của người Đức. Nguồn gốc philosophie không phải ở tiếng la tinh philosophia mà ở tiếng hi lạp, vì dân tộc hi lạp mới là tổ tiên của triết lý tây phương. Người Hy lạp viết một thứ chữ đặc biệt, nhà in ta không có, nên chúng tôi tiếc không thể viết ra đây được chữ “philosophie” hy lạp. Nhưng không hề gì. Bạn đọc chỉ cần nhận xét rằng tất cả những chữ triết lý, trong các tiếng nói kể trên, đều gồm hai lần: philo-sophia. Philo, trong tiếng hy lạp có nghĩa là yêu mến. Sophia có hai nghĩa: là biết (savoir) và hiền đức (sagesse). Vậy Philosophie nghĩa là muốn biết và muốn hiền, - biết theo nghĩa rộng nhất của chữ ấy, và hiền theo nghĩa cao đẹp nhất của chữ ấy. – Phân tích như thế, ta đã rõ hai vấn đề chính của triết học: tìm biết và tìm cách hành động cho hợp với lẽ phải. * * * Người Tàu dịch chữ “philosophie” thực đã khéo, - khéo đến nỗi ta có thể không cần đem chữ philosophie tây ra phân tích, cũng có thể định nghĩa được chữ triết lý. – Vì chỉ đem ra phân tích hai chữ “triết lý”, ta cũng có thể hiểu được những vấn đề chính của triết học là những vấn đề nào. Ông Đào Duy Anh định nghĩa chữ triết là trí đức: triết là sophia của tiếng la tinh, và sagesse của tiếng pháp. Nhưng có lẽ hiểu thế cũng chưa đủ. Trong chữ “triết” ta thấy một ý quan trọng: ấy là ý niệm về giá trị. Triết học là khoa học tìm biết giá trị của sự vật: khi phán đoán một sự việc về phương diện “triết”, ta tìm xem sự việc đó đáng giá bao nhiêu. Trong “triết” học, chỉ có những nhời phán đoán về giá trị (jugement de valeur). Nhưng nói đến giá trị là phải nói đến bảng so sánh: những bảng so sánh của triết học tóm tắt trong ba chữ chân, thiện, mỹ. Và các triết nhân xưa nay chỉ là những người đi tìm giá trị của sự vật về phương diện thật hay dối, thiện hay ác, xấu hay đẹp. Vậy “triết” học gồm có: luận lý học, nghĩa là khoa học dạy người ta cách suy luận cho phải (logique)’ luân lý học, nghĩa là khoa học dạy người ta cách ăn ở cho thiện (morale); mỹ học, nghĩa là khoa học dạy người ta cách sáng tạo cho đẹp đẽ (esthétique). “Triết” nghĩa như thế. Còn “lý”? “Lý” nghĩa là những gì có thực, và có ở ngoài lòng người. Trong Kiều có câu: “Tuy ngoài là lý nhưng trong là tình”. Lý trái mới tình, điều đó rất dễ hiểu. Nhưng “lý” còn mâu thuẫn với tất cả những gì thuộc về tâm hồn người, nghĩa là những gì luôn luôn thay đổi và biến động nữa. “Lý” là nguyên do: khi phán đoán một sự việc gì về phương diện lý, ta tìm xem trong thực tại, sự việc ấy thế nào. Ta muốn biết vật ấy là gì. Trong lý có những nhời phán đoán về thực tại (jugement de réalité). Ví dụ: Trời đất là gì? Sống chết là gì? “Lý” hợp với “savoir” của tiếng Pháp. “Lý học” là khoa học tìm biết sự vật, nghĩa là biết căn do, duyên cớ của sự vật. Lý khác với triết là như thế. Lý học có hai phần: Một phần tìm biết những gì ở giác quan ta thâu nhận được, những gì mắt trông, tai nghe, mũi ngửi, mồm nếm, tay sờ mó thấy: đó là vật lý học (physique). Một phần tìm biết những gì ngoài phạm vi các giác quan của chúng ta: ấy là siêu vật lý học (métaphysique). Nhưng người ta không dùng tiếng đó, mà dịch métaphysique là siêu hình học, hình nhi thượng học, hay gọn hơn: huyền học. Nói một cách khác thì vật lý học tìm hiểu bề ngoài sự vật, và nhường công việc tìm hiểu bề trong vũ trụ cho huyền học. * * * Chúng tôi cần nhắc lại: nhời thích nghĩa trên đây chỉ có một giá trị tạm thời: ngày nay triết lý nhũn nhặn hơn ngày xưa nhiều lắm. Bạn đọc xét lại nội dung trên đây của triết lý hẳn nhận thấy rằng triết lý có một phạm vi rất lớn. Ngày nay phạm vi đó đã hẹp lại, nhưng lại sâu xa hơn. Và tiếng triết lý sở dĩ không còn thông dụng bằng tiếng triết học, cũng vì khoa học mà người Pháp gọi là “philosophie” đó, nay thiên về phần “triết” hơn là phần “lý”, và muốn chuyên về phần tìm tòi những “giá trị” mà nhang bỏ phần tìm tòi những nguyên do. Điều đó không phải vô cớ: nhưng tìm biết cớ đó lại là chuyện ở kỳ sau.
  11. VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC CĂN BẢN NGUYÊN SA Những vấn đề triết học được đề cập tới trong lịch sử tư tưởng loài người đã làm cho ta ngạc nhiên, bỡ ngỡ không phải là ít. Chúng ta ngạc nhiên, bỡ ngỡ trước số lượng cũng như trước sự phức tạp mỗi ngày một biến thiên, một gấp khúc của những vấn đề... Người ta đã suy nghĩ về đời sống, về con người, và cả đến những sự kiện bao quanh con người, muôn vật trong hoàn vũ. Va chạm với vật giới, người ta đã ngạc nhiên như đứa trẻ ngạc nhiên trước tiếng trống, tiếng kèn, con ong, cái kiến, rồi người ta bước dần sang con đường dò hỏi về sự hiện hữu của vũ trụ. Đám mây vẫn bay, dòng sông vẫn luân lưu, dòng nước vẫn lưu thông dù có ta hay không có ta, hay tất cả chỉ là những hình ảnh giả tạo? Lửa đốt cháy tay, mưa làm ướt áo là những sự kiện có thực, chắc chắn, và ta là một nhân chứng hay ta đang sống trong tình cảm của một kẻ mơ ngủ bên nồi kê, không biết ta là bướm hay bướm là ta, tất cả chỉ là bóng sự thực, bởi vì ta bị giam cầm từ trứng nước trong một «hang kín» bịt bùng. Vũ trụ là một thực thể hay những điều chính xác chỉ là tư tưởng? Rồi những người suy nghĩ còn ngạc thiên trước sự suy tư của mình, ngạc nhiên trước cái khả năng đặc biệt của mình làm cho mình khác biệt với muôn loài trong vũ trụ. Tại sao ta suy nghĩ? Tại vì ta có một linh hồn hay tư tưởng của ta vốn chỉ là trò chơi của một cuộc pha trộn, dao động giữa trăm nghìn nguyên tử nhỏ bé li ti? Nếu có một linh hồn thì hồn có chỉ huy xác không? Ta có tự do không? Tất cả những.tương quan giữa xác và hồn ta phải xác định ra sao? Nghĩ về vật, nghĩ về mình, ta sẽ dò hỏi đến nguồn gốc loài người (ai sinh ra ta?), đến lẽ luân lưu, điều trật tự sinh hóa, đổi thay, tuần tự của muôn loài. Có những lúc những câu hỏi đó được nêu ra lẻ loi, từng lần riêng biệt. Như trong những bài học thực hành, những câu chuyện dậy răn của những bậc thầy Châu Á. Cũng có lúc những câu hỏi đó được nối liền, buộc chặt thành những hệ thống, xây dựng thành lâu đài đồ sộ. Đó là những tham vọng của những Aristote, St Thomas d’Aquin, Hegel ở trời Tây. Cũng có lúc con người ngừng suy nghĩ, tìm hiểu, dò hỏi hay nói cho đúng hơn, muốn ngừng dò hỏi để dò hỏi về giá trị của những lời dò hỏi của mình, giá trị hiểu biết của con người, biên giới của trí năng. Một Lão Tử đã phủ nhận khả năng quy định thế nào là Đạo. Một Kant phủ nhận giá trị của siêu hình học (mặc dầu đó cũng là một thái độ, một cố gắng siêu hình). Phủ nhận khả năng hiểu biết của con người trước những phạm vi ở bên ngoài, ở bên kia hiện tượng, phạm vi của ẩn tượng (noumène). Có những người đã muốn ý thức về ý thức của con người, để tìm một lối thoát dù đó là một luân lý thực hành của Kant, dù đó là một ngõ «vô vi» của Lão, một suy tư đơn độc của Kierkegaard. Cũng có những người đã bi quan đến nỗi biến trạng thái tâm hồn đó thành một chủ nghĩa. Đặt vấn đề? Vô ích! Tìm hiểu vô ích! Bởi vì sự thật ta sẽ không bao giờ đạt tới. Muốn đi tìm sự thật, ít ra ta cần phải phân biệt được cái đúng và cái sai. Làm thế nào phân biệt được sự chính xác vả sự sai lầm bởi vì muốn phân biệt ta cần phải có một mấu chốt nào để nhận rõ cái đúng là đúng, sai là sai. Ta biết lấy gì làm tiêu chuẩn cho sự thật? * Có những vấn đề, trước sự đổi thay của thời gian, biến thiên của lịch sử đã mất lý do sinh tổn. Người của thế kỷ 20 không còn nghi ngờ, dò hỏi về sự hiện hữu của bản thân. Nhà triết học không còn ngờ vực «có ta hay không có ta». Cũng như toàn thể loài người, nhà triết học muốn sinh sống, muốn suy nghĩ cần phải ăn, phải ngủ, phải giải quyết một cách tối thiểu những đòi hỏi căn bản của đời sống. Thể xác không phải là một cái bóng. một ảo ảnh, một lớp khói bên nồi kê, và cũng không phải chỉ là một «con thuyền mà linh hồn là người phi tiêu dẫn đạo». Nếu có nhiều lúc những tình cảm phát xuất từ vật chất đã bị chế ngự bởi ảnh hưởng của những lý tưởng cao xa, thì cũng lắm khi khối óc, con tim đã phải sống liên đới với chân, tay, dạ dầy, gan, ruột. Khi người ta đói thì không những tâm thần không còn được sảng khoái, tình cảm không được vững vàng, mà đến cả «đầu gối cũng phải bò». Những nhà tư tưởng, dù họ chuyên khảo về tâm lý như Piaget, hay về siêu hình như G. Marcel, J. P. Sartre... cũng đã nhắc đến dưới những hình thức khác nhau điều mà ta có thể gọi là «hoàn cảnh có thể» đó. Những sự thật tầm thường, giản dị không còn bị coi như những sự kiện bỉ ổi, sai lầm. Những sự kiện tầm thường, quen thuộc đó, dù chúng là cơ thể, là miếng cơm, manh áo, nét mặt, màu da, giai cấp, giống nòi, đời sống trăm năm, dù là những hoàn cảnh vật chất hay tinh thần, xã hội, cá nhân, người ta đều phải nhận rằng không thể nhất nhất gạt bỏ bằng một nét bút, bằng những lời trần thuyết hùng hồn. Nhà triết học còn phải nhận rằng mọi suy tư phải bắt nguồn từ những hoàn cảnh riêng tư đó. Hoàn cảnh của con người bị đe dọa bởi chiến tranh, chết chóc, bị giới hạn bởi thời gian, bởi bạo lực, bởi tình yêu (thí dụ tư tưởng và đời sống Kierkegaard)... Chấp nhận những sự kiện tầm thường đó, người ta cũng gạt bỏ được một số tình cảm ít hay nhiều nặng màu sắc tự kỷ trung tâm (egocentrisme). Con người ngày nay biết rằng mình sống trong một hoàn cảnh nào đó, nên không còn kể mình như một thực thể đặc biệt trong vũ trụ, không gian. Người không được đặt trước vũ trụ như một sự kiện đối lập, riêng rẽ, không quen biết, dính líu, liên can, như một điều siêu việt, «một nước trong một quốc gia». Triết học đã trả hoa về vườn, người về giữa lòng vũ trụ. * Nhưng giữa những vấn đề đổi thay, có những vấn đề còn nguyên vẹn. Bên những vấn đề đã biến chuyển còn những vấn đề giữ hầu như trọn vẹn hình thể lúc ban sơ. Người xưa đã suy nghĩ lung lao, đã lo âu vô hạn trước những biến chuyển của mọi vật trong vũ trụ, cõi đời. Nhìn quanh mình, con người dù Hy lạp, dù Á đông đã nhận biết có bao nhiêu là sự kiện: từ gỗ đá trơ trơ đến những sinh vật linh động. Tất cả muôn vàn sự vật đó luôn luôn đi lại không ngừng, luôn luôn sinh hóa, đổi thay - lẽ biến chuyển được kể gần như điều cốt yếu của vũ trụ, muôn loài. Có những đổi thay rõ ràng, cụ thể như gió thổi, mây bay, đời người trôi qua như dòng nước chảy. Nhưng cả những điều thoạt nhìn ta chợt tượng là vốn tĩnh, yên hàn như rừng rậm, núi cao, cá tính của con người hay những định đề toán học. Nhìn kỹ hơn, có lẽ ta phải nghĩ đến những sự chuyển dịch trong lòng những chuyển dịch khác. Người đi bộ nhìn tàu chạy, xe đi tưởng rằng mình đứng yên một chỗ. Sống trên trái đất quay nhanh ta tưởng như những vì sao đều bất động. Cái chuyển động nhỏ trong lòng chuyển động lớn tưởng rằng bất động nhưng cũng vẫn không ngừng sinh hóa đổi thay. Nên cả Héraclite, cả Khổng Tử đều ngạc nhiên trước sự biến dịch của muôn loài như nước chảy, và con người không thể tắm hai lần trong cùng một luồng nước của dòng sông. Cho nên người xưa đã tự hỏi, đã phân vân không biết trong lòng những thực tại đổi thay có gì là vĩnh viễn. Nếu có những sự kiện biến dịch không ngừng thì chúng đã đến từ đâu? Có chăng một bản thể (être) nào là nguồn gốc, nền tảng của những sự vật biến dịch không cùng? Và người ta tự hỏi: Cái gì có trước tiên? Đó là một điều hư vô hay một điều có thực, đó là một lẽ huyền diệu hay là một sự kiện không thấu triệt được bởi tri năng: Thalès đã trả lời rằng nguồn là nước. Những kẻ đến sau lần lượt cho rằng tất cả đến tử lửa, từ không khí, tư vô định hay từ những nguyên tử nhỏ bé li li. Những nguyên tử đó dưới mắt ông thầy của đạo Khổng là âm dương biến hóa đến từ cái lẽ thái cực diệu huyền. Rồi lần lượt Socrate, Platon, Aristote thay nhau đề cập đến vấn đề bản thể. Aristote còn bảo đó mới là vấn đề triết học chính thống. Bởi vì mỗi khoa học chỉ nghiên cứu được một cái khía cạnh của thực tại, nhưng không môn nào chuyên khảo về «cái có đó là gì?». Có những người đã phủ nhận khả năng con người trước những vấn đề như vậy. Lão Tử cho rằng hiểu đạo lả bất khả, giải đạo lại càng bất khả, bởi vi đạo cường thịnh vô cùng, huyền diệu, vô biên. Kant bảo ta nhận biết bằng giác quan nên chỉ biết những gì là hiện tượng, là cái vẻ ngoài bán tín bán nghi. Còn ẩn tượng (noumène) cái thực, cái có đã vượt ngoài mức hiểu biết của nhân gian. Nhưng dù muốn trả lời thẳng vào vấn đề: «cái có thực là gì?», «cái gì có trước tiên?», hay muốn tách ra khỏi vấn đề đó, người ta vẫn xây dựng triết học quanh vấn đề đó. K. Marx đã phải trả lời vấn đề bản thể (cái có trước tiên là vật chất). Cho nên phủ nhận triết học siêu hình, Marx vẫn ở trong vòng siêu hình như trong nghiệp chướng. Heidegger sau Parménide ngoài hai mươi thế kỷ nhấn mạnh rằng «vấn đề triết học căn bản là vấn đề bản thể». Cuốn sách then chốt của Sartre mang tên «Bản thể và hư vô». Triết học dù Âu dù Á, xưa và nay vẫn dò hỏi về vấn đề bản thể, vẫn phân vân về cái lý, cái đạo diệu huyền. Có lẽ đó là một nghiệp chướng, là số phận con người cho nên Kierkegaard đứng trước vấn đề bản thể đã bảo ta không thể hiểu thấu được nhưng cũng không thể ngừng tìm hiểu được. Như một con thiêu thân bay quanh ánh sáng của ngọn đèn. * Ta đi vào vấn đề bản thể như những con thiêu thân đi vào ánh sáng không phải chỉ vì cần thiết theo vết tiền nhân. Tất nhiên bánh xe lịch sử đã đi vào con đường triết học căn bản đó. Nhưng dù gạt ra ngoài những lý do lịch sử, những kinh nghiệm của thời xưa, ta cũng chưa ra ngoài được vấn đề bản thể. Ta sẽ nghĩ về những gì trong khi sinh sống? Về sự thật của vật giới? Nhưng nếu ta quan niệm rằng giác quan vốn lừa đảo vô cùng, làm ta lẫn lộn thực và hư, nóng lạnh, tất cả những gì ta biết được chỉ là những bóng giả tạo in trên vách đá của một hang kín, thì ta sẽ cho rằng cái có thật sẽ chỉ là tư tưởng, lý giới (monde des idées). Sự thật của vật giới bị phủ nhận tức thì nếu ta cho rằng bản thể là tư tưởng. Ta dò hỏi về vấn đề trí tuệ, linh hồn, sự hiện hữu của thượng đế? Tất cả mọi giải đáp về những vấn đề đó ít hay nhiều cũng trực thuộc vào quan niệm của ta về bản thể. Nếu cái có trước tiên, cái có thật nhất chỉ là vật chất thì trí tuệ ta sẽ chỉ là tổng hợp, là sự dao động tinh vi giữa trăm ngàn nguyên tử tạo nên khối óc, đường gân. Và sự tin tưởng ở thượng đế có thật sẽ bị gạt vào một «giai đoạn thần bí» nào đó như quan niệm của A. Comte. Trả lời rằng «cái có trước tiên», «bản thể của mọi sự vật» không phải là vật chất, ta sẽ tin ở linh hồn, ở thượng đế, và thế giới bên kia không phải là hư vô, ảo ảnh. Chính vì tùy theo quan niệm của một người về bản thể mà người ta liệt người đó vào lập trường duy vật, duy tâm hay một lập trường vượt ra ngoài sự chống chọi của chủ thể và khách thể (hiện hữu, nhân vị...) * Nhưng bên cạnh những lý do lịch sử, những tương quan giữa vấn đề bản thể và mọi vấn đề triết bọc khác, còn một lý do đã luôn luôn thúc đẩy con người tìm cách giải quyết vấn đề bản thể mặc dầu chưa bao giờ đạt tới. Cả những người ý thức được rằng ta sẽ thất bại như Kant, Jaspers cũng lăn mình vào. Lý do chính là vì con người âu lo cho đời sống, cho số phận của mình. Vấn đề «cái gì có trước tiên», «cái gì có thật sự» không phải là trò chơi của những người cuồng chữ. Mỗi hành động của đời sống đều mang ý nghĩa của một sự tin tưởng ở giải đáp nào đó. Kẻ ăn chơi đàng điếm cho thỏa mãn không nghĩ ngợi đến phần hồn, đến kiếp sau, đã nói lên một ý nghĩa «tất cả đến từ vật chất» mỗi khi nâng cốc rượu, mỗi ngày đêm mài miệt truy hoan. Người tu nhân, tích đức tin tưởng có Chúa, có Trời đã nói 1ên niềm tin tưởng ở cái có thực đầu tiên vốn là một sự kiện tinh thần. Mỗi hành động của con người đều mang nặng ý nghĩa địa ngục hay thiên đàng, đó là nhận xét của Kierkegaard. Con người luôn luôn phải lo âu vì vấn đề bản thể, bởi vì con người luôn lo âu phải sống như thế nào. Không tin tưởng, tìm kiếm một giải đáp cho câu hỏi này thì sẽ vô ý thức trong sự sống hàng ngày. Biết tất cả sự luân chuyển của hành tinh, sự sinh sống của tế bào, thông tỏ ngọn ngành về văn chương, khoa học mà không biết phải sống ra làm sao là đủ bỏ qua điều kiện thiết yếu. Pascal đã nhấn mạnh «biết phải sống thế nào là thâu tóm được một kho vàng mà những sự kiện khác là phụ tạp». Và chính vì ta lo âu về đời sống của ta nên phải dò hỏi về ta. Những giải quyết «ta phải làm gì», «nên làm gì» liên quan đến bản thể của ta, tùy thuộc ở câu hỏi: «ta là gì?». Đó là mối tương quan giữa cái nên có, phải có và cái có thực, đạo đức và tâm lý, xã hội, cơ cấu của con người. Vấn đề bản thể cũng là vấn đề bản thể ta, nên liên hệ đến ta, đến cách sống của ta, nên dù muốn dù không ta vẫn không gạt bỏ được vấn đề vì không tránh được lo âu về số phận của mình. * Vấn đề bản thể vì thế vẫn là vấn đề triết học then chốt. Những câu hỏi có tính cách thông thái «bản thể là gì» phản ảnh một trạng thái lo âu của tâm hồn, thiết yếu của đời sống. Câu hỏi đó có hiện ra dưới những hình thể đơn giản hơn «ta là gì?», ta không thể không suy nghĩ bởi vì mỗi giây, mỗi phút ta phải quyết định không ngừng «ta phải sống ra làm sao?» Cho nên những chủ nghĩa cực đoan trong lịch sử đều có một vài điểm giá trị, nhưng đã sai lầm khi độc đoán trong sự trả lời về vấn đề bản thể. Phải chăng sự thất bại của thực thể học (ontologie) là dấu hiệu của một nghiệp chướng dính liền vào đời sống con người, là dấu hiệu của số phận con người phải tự quyết về sự sống của mình. Phải chăng đó là dấu hiệu của tự do, và lẽ sống của cuộc đời?
  12. Vũ trụ là vĩnh hằng theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành Tác giả: Vu Long Lỗ Đen mới được các nhà Vật Lý tìm ra vào thế kỷ 20 còn “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ ra đời trước khái niệm Lỗ Đen ít nhất từ 4 tới 5 nghìn năm. Mọi người đều biết ở cái thời kỳ đó con người của chúng ta còn đang “Ở Trần Đóng Khố“ (hiểu đơn giản nó thuộc “Thời Kỳ Đồ Đá“), vậy mà tại sao họ lại có thể phát minh ra “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ và bảng “Nạp Âm 60 năm Giáp Tý“ để dự đoán vận mệnh của con người mà chúng còn tồn tại tới ngày nay? Ngoài dự đoán vận mệnh của con người nó còn có thể giải thích được các hiện tượng xẩy ra trong thế giới tự nhiên của chúng ta như vì sao Mặt Trời và ti tỷ các ngôi sao vẫn còn rực cháy tỏa ánh sáng cho tới ngày nay khi mà thời gian là vô tận, tất nhiên chỉ có thể giải đáp được điều này khi con người tìm ra được Lỗ Đen. Phải chăng ở “Thời Kỳ Đồ Đá“ đó đã xuất hiện một nền văn minh hơn hẳn nền văn minh của chúng ta bây giờ nhưng đã bị hủy diệt vì một lý do nào đó ? Điều này quá là vô lý bởi vì chúng ta cứ thử tính xem với nền văn minh của chúng ta đã trải qua ít nhất 4 tới 5 nghìn năm mà đến nay vẫn còn không thể hiểu được họ đã dựa vào những nền tảng Khoa Học nào mà có thể phát minh ra “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ và “Bảng Nạp Âm 60 năm Giáp Tý“. Rõ ràng bề dầy lịch sử phát triển của họ phải kéo dài hơn chúng ta (ít nhất cũng trải dài từ 5 tới 6 nghìn năm chẳng hạn). Vậy mà nếu nền văn minh của chúng ta bị hủy diệt thì sau 6 nghìn năm nữa một nền văn minh mới đang phát triển như của chúng ta ngày nay sẽ phải phát hiện được tàn tích của ti tỷ các thành phố đã từng tồn tại ở khắp mọi châu lục của chúng ta bây giờ. Trong khi mà chúng ta đã tìm được bao nhiêu Thành Phố và các tàn tích của nền văn minh từng tồn tại cách chúng ta 4 tới 5 nghìn năm trước? Tính cho đến giờ thì những cái mà chúng đã tìm thấy tàn tích của một nền văn minh mà chúng ta dự đoán đó chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Điều này quá đủ để cho chúng ta khẳng định rằng những tàn tích để lại đó chỉ là các dấu ấn còn để lại trên hành tinh của chúng ta bởi một sự thăm viếng của những người thuộc một nền văn minh ngoài trái đất mà thôi (nó tương tự như chúng ta đi du lịch thường khắc hay để lại một dấu ấn gì đó tại nơi đó trước khi trở về hay đi tiếp tới các nơi khác). Từ đây chúng ta có thể hiểu rằng ngày 22/12/2012 là ngày kết thúc bộ lịch của người Maya chỉ là một dấu ấn của họ muốn báo cho chúng ta biết rằng cách đây mấy nghìn năm họ đã biết đúng ngày đó là ngày mà Trái Đất của chúng ta cùng Mặt Trời và tâm của Ngân Hà nằm trên một đường thẳng chứ không phải là ngày tận thế như nhiều người suy đoán (nếu nó là ngày tận thế thì chỉ có thể do con người của chúng ta gây ra mà thôi). Nếu một ai đó không tin thì cứ thử tự hỏi rằng : Chả nhẽ họ văn minh hơn hẳn chúng ta mà lại không có cách gì để lưu lại cũng như để dạy các tri thức của họ cho các thế hệ trẻ của họ sao (như sách, vở, băng, đĩa, CD... các phòng thí nghiệm, máy móc, thư viện...), chả nhẽ họ không có thế hệ trẻ mà toàn là các ông già bà lão? (cứ cho rằng họ đã đạt tới mức độ truyền tri thức bằng cách "Bơm Tri Thức thẳng vào não..." thì họ vẫn phải có khoảng thời gian phát triển như của chúng ta ngày nay chứ). Nhưng một số người không biết đặt câu hỏi này và lại càng không thể trả lời nổi các câu hỏi này mà tin rằng tất cả tri thức của nền văn minh của họ đều được cất dấu trong cái "Máng Lợn" và một số người này đang hy vọng sẽ giải mã được những cái đang tồn tại trong đó (cái máng lợn) để hiểu được khởi nguyên của Vũ Trụ là "Khí tụ thành Hình" như thế nào. Chúng ta biết Vật Chất bao gồm Năng Lượng và Khối Lượng (kể cả như tinh thần, ý thức, linh hồn… đều thuộc Năng Lượng ). Do vậy mọi Học Thuyết đã xuất hiện trên thế giới từ trước tới nay đều phải phục vụ 2 đối tượng này cho dù chúng được diễn đạt theo một cách khác như “Khí“ tức Năng Lượng và “Hình“ tức Khối Lượng chẳng hạn. Do vậy nếu không có Vật Chất thì Vũ Trụ của chúng ta sẽ trống rỗng, khi đó không có cái gì có thể xác định được Không Gian và Thời Gian đang tồn tại trong cái Vũ Trụ này cả. Vậy thì Lỗ đen là cái gì mà nó có thể giải thích được vì sao trên bầu trời của chúng ta ngày nay vẫn tồn tại hàng ti tỷ ngôi sao đang rực cháy (như Mặt Trời của chúng ta) khi mà thời gian là vô tận (rõ ràng chúng ta có thể xác định được khoảng bao lâu nữa Mặt Trời sẽ tắt khi hết nhiên liệu để duy trì sự cháy đó). Điều này rõ ràng là phải có ít nhất một nơi nào đó trong Vũ Trụ có khả năng sinh ra các ngôi sao (Mặt Trời) để bù vào sự thiếu hụt này (các ngôi sao đã tắt), vùng đó chính là vùng bên trong các Lỗ Đen đang tồn tại. Chúng ta thử tìm hiểu Lỗ Đen qua “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia“: “Lỗ đen, hay hố đen, là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên (chân trời sự kiện) của nó, trừ khả năng thất thoát vật chất khỏi lỗ đen nhờ hiệu ứng đường hầm lượng tử. Vật chất muốn thoát khỏi lỗ đen phải có vận tốc thoát lớn hơn vận tốc ánh sáng trong chân không, mà điều đó không thể xảy ra trong khuôn khổ của lý thuyết tương đối, ở đó vận tốc ánh sáng trong chân không là vận tốc giới hạn lớn nhất có thể đạt được của mọi dạng vật chất“. Ở đây chúng ta (những người nghiên cứu “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“) chỉ cần quan tâm tới đoạn đầu: “Lỗ đen, hay hố đen, là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên (chân trời sự kiện) của nó“. Lỗ Đen chính là một nơi mà “không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó“. Câu này có liên quan gì tới câu: “Dương đến cùng cực thì sinh Âm còn Âm đến cùng cực thì sinh Dương“, nó là một trong các tính chất cơ bản của “Học Thuyết Âm Dương“ ? Rõ ràng ở đây có một sự liên quan không thể chối cãi được đó là “không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên (chân trời sự kiện) của nó“, tức là mọi dạng Vật Chất, kể cả ánh sáng (Năng Lượng) đều bị hút (tụ) vào tâm của Lỗ Đen. Mà bị Hút hay bị Tụ mãi vào tâm của Lỗ Đen thì trong Lý Học Đông Phương người ta thay từ này bằng từ “đến cùng cực“ và dĩ nhiên là “Khí (Năng Lượng) tụ (đến cùng cực sẽ) thành Hình (Khối Lượng)“. Điều này chứng tỏ vùng bên trong Lỗ Đen thì Năng Lượng tụ thành Khối Lượng, tức Năng Lượng chuyển đổi thành Khối Lượng. Điều này chứng tỏ chỉ có vùng này mới có thể tao ra được “Hạt của Chúa“ mà thôi, còn vùng mà các nhà Vật Lý đang tạo ra trong máy gia tốc hạt lớn LHC nằm bên dưới mặt đất tại biên giới Pháp-Thụy Sĩ chỉ có thể tạo ra vùng mà “Hình tán thành Khí“ như các phản ứng cháy trên Mặt Trời chứ làm sao có thể tạo ra độ Tụ đến cùng cực của Năng Lượng để có thể sinh ra Khối Lượng được. Ở đây xuất hiện một nghịch lý là trong Lỗ Đen, cứ cho là “Khí“ (Năng Lượng) đã tụ hết thành “Hình“ (Khối Lượng) - (nói chính xác thì cho dù Năng Lượng đã bị hút vào trong Lỗ Đen rồi nhưng nó phải bị hút vào tâm của Lỗ Đen tới một mức độ nào đó thì mới có thể chuyển thành Khối Lượng - điều này phụ thuộc vào độ lớn của từng Lỗ Đen. Cho nên trong Lỗ Đen vẫn tồn tại 2 dạng Năng Lượng và Khối Lượng) nhưng “Hình“ (Khối Lượng) lúc này cũng tụ đến cùng cực cơ mà, vậy thì “Hình“ sẽ lại sinh ra “Khí“ hay sao? Điều này là không thể chấp nhận được, vì vậy ở đây ta chỉ có thể chấp nhận được là “Khí“ đã tụ đến cùng cực để thành “Hình“ còn “Hình“ không thể tụ đến cùng cực được nên nó không thể sinh ra “Khí“. Nhưng theo “Học Thuyết Âm Dương“ thì “Dương đến cùng cực sinh Âm còn Âm đến cùng cực thì sinh Dương“, vậy thì từ “cùng cực“ ở đây có thể phải hiểu rộng hơn theo nghĩa bóng chứ không thể hiểu chỉ theo nghĩa đen như chúng ta thường vẫn nghĩ trước đây. Từ “cùng cực“ bây giờ có nghĩa là khi rơi vào trạng thái “cùng cực“ nào đó thì Âm và Dương có thể chuyển hóa cho nhau. Như trên thì “Khí“ đã bị rơi vào vùng “cùng cực“ là sức hút cực mạnh của Lỗ Đen đã biến Năng Lượng “Khí“ thành Khối Lượng “Hình“. Tương tự Khối lượng “Hình“ đã rơi vào vùng “cùng cực“ có nhiệt độ cực cao như phản ứng Nhiệt Hạch trên Mặt Trời nên Mặt Trời đã biến Khối Lượng “Hình“ (tán) thành Năng Lượng “Khí“. Nhưng ngay từ thời kỳ “Ở Trần Đóng Khố“ người ta đã biết rằng khi đốt củi để sưởi ấm hay nấu chín thức ăn người ta đã biết rằng rõ ràng là củi tức là Hình khi cháy đã tỏa (tán) ra Khí (đó là ánh sáng và hơi nóng). Vậy thì trong một môi trường có nhiệt độ nhỏ hơn nhiều với Mặt Trời mà “Hình“ (tức củi) cũng đã rơi vào vùng “cùng cực“ để tán thành “Khí“ (ánh sáng và hơi nóng). Từ đây chúng ta hiểu thêm là vùng “cùng cực“ đối với Vật Chất (Hình) khác nhau sẽ khác nhau. Còn với các loại Năng Lượng (Khí) khác nhau thì vùng “cùng cực“ của chúng có khác nhau không thì tôi chưa biết. Chính nhờ có “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ mà chúng ta có thể dự đoán rằng Năng Lượng đã chuyển đổi thành Khối Lượng trong Lỗ Đen và không như nhiều nhà Vật Lý trên thế giới tin rằng mọi thông tin khi rơi vào trong Lỗ Đen hay các thông tin mới xuất hiện trong Lỗ Đen sẽ bị mất, tức họ cho rằng các thông tin này không thể biết được vì chúng bị hút mãi vào tâm Lỗ Đen đến một điểm mà họ gọi là điểm Kỳ Dị (tức chúng không thể quay lại được Vũ Trụ của chúng ta). Đặc điểm của điểm Kỳ Dị này họ cho rằng tại nơi đó Không Gian sẽ biến thành Thời Gian còn Thời Gian sẽ biến thành Không Gian…. (quả thực đọc mà thấy nhức hết cả đầu). Nếu như các nhà Vật Lý này biết đến “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ thì họ chắc sẽ không có những ý tưởng “Khủng“ đến như vậy. Nhưng tại sao “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ có thể cho chúng ta biết được những cái gì (thông tin) đang diễn ra trong Lỗ Đen. Đó chính là trong thực tế chúng ta chỉ biết có một dạng của Vật Chất là Khối Lượng biến đổi thành Năng Lượng (như phản ứng Nhiệt Hạch (cháy) trên Mặt Trời hay các loại nhiên liệu trên Trái Đất cháy chẳng hạn) chứ chưa bao giờ chúng ta biết đến Năng Lượng có thể biến thành Khối Lượng cả. Vậy thì phản ứng cháy trên Mặt Trời cũng như trên các vì sao rồi sẽ tắt (khi nhiên liệu cung cấp cho phản ứng cháy hết). Vậy mà đến bây giờ trên bầu trời của chúng ta vẫn đang còn tồn tại ti tỷ các ngôi sao đang cháy khi mà thời gian là vô tận. Điều này chứng tỏ trong Vũ Trụ phải có những nơi có thể sinh ra được các vì sao mới thì mới hợp lý. Rõ ràng phản ứng cháy là phản ứng mà “Khối Lượng“ (Hình) biến thành “Năng Lượng“ (Khí) thì dĩ nhiên phải có chiều ngược lại theo đúng “Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành“ là “Năng Lượng“ (Khí) cũng phải biến thành “Khối Lượng“ (Hình), vì Âm Dương có thể chuyển hóa cho nhau. Đó chính là các vùng trong Lỗ Đen mà chúng ta đã chứng minh ở trên. Chúng ta thấy về logic thì chả có một vật nào như Lỗ Đen cứ hút mọi dạng Vật Chất (Năng Lượng và Khối Lượng) mãi mãi cả, nó hút mãi rồi tới lúc Bội Thực (tới hạn) thì nó phải phun ra để trở lại trạng thái Lỗ Đen bình thường của nó (cũng có thể sau khi nổ thì Lỗ Đen này không còn nữa?). Những cái mà Lỗ Đen phun ra đó chính là thông tin trong Lỗ Đen mà chúng ta có thể biết được. Một trong các thông tin đó chính là một số Vật Chất khi phun ra có khả năng tụ lại để sinh ra các ngôi sao mới mà ngày nay người ta đã phát hiện ra rất nhiều nơi trong Vũ Trụ đang Đẻ ra các ngôi sao (Mặt Trời). Đó chính là lý do để giải thích vì sao trong Vũ Trụ của chúng ta ngày nay còn tồn tại hàng ti tỷ ngôi sao như vậy. Vậy thì Vũ Trụ của chúng ta là vĩnh hằng tức nó không có điểm bắt đầu và kết thúc như nhiều người vẫn nghĩ (các nhà Vật Lý thì cho rằng BigBang còn các nhà Mệnh Lý Học Đông Phương thì cho rằng Thái Cực là khởi nguyên của Vũ Trụ). Thái Cực hay BigBang theo tôi nó chỉ có thể là thời điểm mà Lỗ Đen chuyển thành Lỗ Trắng. Điều này có thể giải thích là bởi vì trình độ hiểu biết về Vũ Trụ thiên văn… của những người “Ở Trần Đóng Khố“ cách đây trên dưới 4 nghìn năm là rất thấp nên khi sao chép lại những tri thức của những vị khách từ một nền văn minh bên ngoài Trái Đất truyền cho chỉ có thể hiểu được theo nghĩa đen của nó mà thôi. Câu nói chính xác của bà Vanga là: “Một lý thuyết uyên thâm cổ xưa sẽ trở lại với nhân loại“ chứ không phải nó là “Một lý thuyết thống nhất Vũ Trụ“ như một số người Ngộ nhận. Cho nên nếu có một lý thuyết như vậy xuất hiện bây giờ thì nó cũng chỉ giải quyết được những kiến thức đã có của con người lúc này thôi còn sau đó khi Khoa Học phát triển hơn nữa thì cái lý thuyết thống nhất đó rồi sẽ lạc hậu và người ta lại phải bắt tay vào để đi tìm một lý thuyết khác có thể giải quyết được tất cả các tri thức đã biết của con người tại thời điểm đó. Ví dụ như đến bao giờ thì người ta có thể biết hết được bên trong Lỗ Đen sẽ xuất hiện những lực nào ngoài 4 lực mà chúng ta đã biết chẳng hạn… Một số người cho rằng "Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành" chính là một "Lý Thuyết Thống Nhất Vũ Trụ", tức nó là một lý thuyết có thể giải thích được mọi hiện tượng trong Vũ Trụ của chúng ta. Quả thực đây là một suy luận ngớ ngẩn bởi vì cứ cho đã có một nền văn minh đã từng xuất hiện trên trái đất của chúng ta cách đây 4 tới 5 nghìn năm đi thì họ cũng chỉ văn minh hơn chúng ta tới một mức độ nào đó mà thôi (giống như nền văn minh của chúng ta ngày nay so sánh với "Thời Kỳ Đồ Đá" trước đây của chúng ta chẳng hạn) chứ làm sao họ đã có thể hiểu hết mọi bí mật của Vũ Trụ. Vậy thì tại sao một số người này lại cho rằng nó là một "Lý Thuyết Thống Nhất Vũ Trụ" là bởi vì với số người này cho rằng Vũ Trụ là cái Không - Thời Gian trong cái "Máng Lợn" (cám, bèo, nước, muối...) ấy mà. Cứ cho sự suy luận của tôi ở trên là đúng đi thì chúng ta có thể hiểu và thông cảm cho những người "Ở trần Đóng Khố" của chúng ta cách đây 4 tới 5 nghìn năm sẽ ghi lại như thế nào về Lỗ Đen chuyển thành Lỗ Trắng để tạo ra Vũ Trụ vật chất trong đó có các vì sao (Mặt Trời). 1 - Khi Năng Lượng (Khí) trong Vũ Trụ bị hút vào Lỗ Đen chúng sẽ TỤ thành Khối Lượng (Hình) nhưng Khối Lượng trong Vũ Trụ bị hút vào Lỗ Đen chúng cũng bị TỤ nhưng chúng vẫn là Khối Lượng chỉ có mật độ đậm đặc hơn mà thôi chính vì vậy mà trong Lỗ Đen vẫn tồn tại 2 dạng: Năng Lượng (chỉ có ở vòng ngoài - như đã giải thích ở trên) và Khối Lượng. Dĩ nhiên người xưa sẽ chỉ có thể hiểu được nghĩa đen của nó là Thái Cực (tức Vật Chất - bao gồm Khối Lượng và Năng Lượng). 2 - Khi Lỗ Đen đạt tới một giới hạn nào đó thì nó không thể Hút thêm được nữa và khi đó nó tuân theo một lực mới nào đó (mà chúng ta chưa biết) đã gây ra sự nổ của Lỗ Đen để tạo thành Lỗ Trắng. Lúc đó Vật Chất (gồm Khối Lượng và Năng Lượng) của Lỗ Đen khi nổ đã phun ra Khối Lượng và Năng Lượng và người xưa ghi lại là Thái Cực sinh Lương Nghi (tức Vật Chất đã tạo ra Khối Lượng và Năng Lượng). Nếu sự suy luận của tôi ở đây là đúng thì chúng ta có thể hiểu câu Thái Cực (Vật Chất) không phải sinh ra Lưỡng Nghi (Năng Lượng và Khối Lượng) mà là Thái Cực (Vật Chất) bao gồm Lưỡng Nghi (Năng Lượng và Khối Lượng). Đây chính là cái "Tổ Của Con Chuồn Chuồn" mà mấy nghìn năm nay người ta vẫn đang còn Mê Muội. Chính sự Mê Muội này mà người ta không thể trả lời được câu hỏi: "Cái gì sinh ra Thái Cực" hay "Trước Thái Cực là cái gì?".
  13. Về hệ thống Đạo giáo thời Hùng Vương, các bài trước cũng đã viết bao gồm: Đạo Tổ Tông, Thần Đạo (sau chuyển thành Phật giáo), Tiên Đạo, Đạo Mẫu và Đạo Nho. Đạo Tổ Tông ở trung cung cho nên ghi chép các đời tổ tiên của Hùng Vương là xa nhất, còn các Đạo khác cũng được mã hóa chính xác các nhân vật lịch sử tương ứng nhưng không đi tới tận cùng là mẹ của Đế Hòa. Biểu tượng Đạo Tổ Tông của một gia đình chính là bàn thờ gia tiên, nơi đây nếu thờ hai đời thì phải bài trí thêm bức hoành phi "Cửu Huyền Thất Tổ" để cùng với hai đời này tạo thánh con số "Cửu Cửu", đây cũng chính là con số vận động của Huyền Không Phi Tinh, mang ý nghĩa trường cửu, vĩnh cửu, vô cùng tức "Toàn thể vũ trụ" hay bàn thờ gia tiên là bàn thờ vũ trụ. Bàn thờ gia tiên Hoành phi Cửu Huyền Thất Tổ Nếu không có bức hoàng phi này thì thất cách, khó được "Âm phù" hơn, Trên bức hoành phi này không có bất kỳ một "nhân vật" nào nữa dù đó là ai, cho nên bàn thờ gia tiên là hoàng tráng nhất trong một ngôi gia. Chúng ta định vị lại các mốc thời gian của lịch sử Văn Lang - lịch sử trên 5.000 năm: - Năm lên ngôi của Kinh Dương Vương: 2879 TCN, cũng tương ứng cho Đế Nghi lên ngôi của Bắc Dương Tử. Đây cũng là mốc lịch sử của toàn thế giới thời cổ đại. - Trước Kinh Dương Vương có 6 đời được ghi chép thành sử, trước đó nữa gọi là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng Thị. - Hùng Vương gồm có 18 chi, tổng cộng có 108 đời vua tính từ Kinh Dương Vương và kết thúc là An Dương Dương Vương (tổng thời gian trị vì của các vị vua Hùng tính thiếu cho đời An Dương Vương khoảng 50 năm trong các cuốn chính sử hiện nay). Tên thời đại: - Từ Mẹ Oa của Đế Hòa trở về trước: Thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng (Đền Hùng). - Từ Đế Hòa ... Đế Minh gọi là: thời đại ánh sáng (phát sáng về trí tuệ - Đền Hùng). - Từ Kinh Dương Vương tới An Dương Vương gọi là: thời đại vàng (ngành vàng - Đền Hùng). - 5 đời Nhà Triệu khởi đầu là Triệu Vũ Đế gọi là: thời đại bạc (ngành bạc - Đền Đồng Xâm). - 1 đời Trưng Vương gọi là: thời đại đồng (ngành đồng - đền Đồng Nhân). Thời gian trị vì hơn 2.672 năm của các vua Hùng không có gì là hoang đường cả. Vì vậy mới có câu rằng: Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương, Nhất thống sơn hà thập bát vương. Dư bách hệ truyền thiên cổ tại, Ức niên hương hỏa ức niên phương. Nghĩa là: Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương, Thống nhất sơn hà mười tám vương. Trên trăm hệ truyền từ xưa đó, Vạn năm hương khói vạn năm thơm. Giải mã sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Cửu cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo dương đầu mã vĩ, Hồ binh Bát Vạn nhập Trường An. Đây chính là nói năm nay Giáp Ngọ và đầu năm tới Ất Mùi (kết thúc kỷ Dương 30 của Lục thập hoa giáp sau khi đổi chỗ Tốn Khôn), đạo binh của Phật sẽ nhập kinh đô Bắc và Nam Dương Tử, lúc cuối năm thứ nhất và đầu năm thứ hai của thời kỳ Bảo Bình (Hồ cũng là "bình", cũng là "phương Tây"; Bát Vạn là biểu tượng của Phật - trong quân bài Tổ Tôm). Hàm ý, cuối năm nay - năm Giáp Ngọ ý nghĩa chính xác của lịch sử thời Hùng Vương sẽ được giải mã xong và kết thúc.
  14. Căn cứ vào thần tích, gia phả của tổ tiên các vua Hùng và lịch sử thời Hùng Vương thì việc định vị những vị tiền bối cuối cùng được ghi chép là rất quan trọng, chẳng hạn như vua Thần Nông, Phục Hy, Hòa Hy... Trong những bức tranh cổ trên được ghi chép là "Nữ Oa - Phục Hy" vì trong sử sách Trung Hoa thì vua Phục Hy được xem là tổ xa nhất của dân tộc Trung Hoa, cho nên không có gì là lạ (truyện Bà Hoa Tư kể việc bà dẫm dấu chân khổng lồ sinh ra ông Phục Hy). Trong gia phả Văn Lang, Hòa Hy là cha của vua Phục Hy và mẹ của ông được xem là những con người xa xưa nhất được ghi chép trong trong chính sử (họ Hy học Hòa trong Kinh Thư) và thần tích (huyền sử), còn trước đó là tổ tiên chung gọi là thời Hồng Bàng. Mặt khác, tổ tiên Hùng Vương được quy ước theo cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành và các câu truyện có liên quan đến vũ trụ quan và nhân sinh quan từ học thuyết này thuộc vùng Nam Dương Tử, chẳng hạn truyện Ông Bàn Cổ khai thiên lập địa và Bà Nữ Oa lấy đá vá trời mà từ đó định vị được bức tranh trên là "Nữ Oa - Bàn Cổ", với Nữ Oa là chính thất của Đế Hòa và Bàn Cổ chính là Đế Hòa, hai vị tiêu biều cho Âm Dương. Tuy nhiên, bức tranh thời Hán dưới đây lại nói lên điều gì: Bà Chúa Hồng Bàng Thị Về mặt logic, nếu đã xác định được Đế Hòa và chính thất của Ngài thì phải xác định được cha mẹ của nhị vị, nhưng gia phả chỉ chép tới nhị vị và coi cha mẹ và tổ tiên trước đó thuộc thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng, điều dó chứng tỏ phải có "đại diện" cho thời kỳ này. Bức tranh cổ trên gốm thể hiện một vị "Nữ Chúa" ngồi ở giữa Bàn Cổ - Nữ Oa đã chứng tỏ rằng: một người phụ nữ đại diện cho toàn bộ, ý nghĩa này ứng với một đoạn văn của Đạo Đức Kinh: "Trước Thượng Đế còn cái gì nữa... gượng gọi đó là Mẹ" chính là ý nghĩa này. Hàm ý, vũ trụ nguyên thủy có vai trò ấp ủ tiềm năng của sự sống cho nên có vai trò như một người Mẹ, trong hình hài của một "quả trứng" và sau đó nở ra ông "Bàn Cổ", và dĩ nhiên đó chính là mẹ của ông Bàn Cổ - Đế Hòa được lấy làm biểu tượng đại diện cho thời kỳ Tổ Tông hay bà còn có ý nghĩa là "Sự Không" hay chung một tên họ của phái nữ là "Oa" là "Mẹ Oa" - tiếng khóc đầu đời của con trẻ. Cái độc đáo của ý nghĩa này chính là nói đến tổ tiên vô cùng mà khi đó ngôn ngữ chưa bắt đầu, và chữ "Oa" của đứa bé khi vừa ra đời cũng chính là từ đầu tiên của con người. "Oa" cũng là "con Cóc", cũng là con "Ốc cái", biểu tượng cho "cội nguồn", bản nguyên vũ trụ. Chúng ta cũng cần biết: Đế Hòa còn gọi là "Lịch Đại Đế Vương" tức người khởi đầu của sử được ghi chép cũng mang ý nghĩa lịch sử như trên, đồng thời Ngài cũng được tôn xưng là "Ông Tổ của lịch pháp": Ai về nhắn họ Hy Hòa, Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh. Trống canh ở đây là nói về sự điều chỉnh lịch pháp của một năm theo mỗi chu kỳ vũ trụ 25.920 năm khi hệ mặt trời quanh xung quanh các chòm sao thiên cực Bắc. Vua Phục Hy với biểu tượng Thanh Đế, phương đông thuộc Ngũ Hành rồi cho nên không thể lấy làm biểu tượng Âm Dương được, cho nên bức tranh trên không thể là Phục Hy - Nữ Oa. Hai vị thân người mình rắn Âm Dương liên kết tất cả các cõi phân chia lại thành "Một". Vậy thì, về ghi chép trong các bản thần tích, gia phả sẽ có 6 đời trước (tính trung bình cho các đời thượng cổ) vua Kinh Dương Vương rõ ràng -> Để từ đó khẳng định rằng: : Lịch sử nước ta có trên 5.000 năm. Đến đây thì thực sự lịch sử thời Hùng Vương đã hoàn toàn sáng tỏ, chỉ còn một bước kiểm tra lại nữa đó là đối chiếu tới thần tích Đạo Mẫu thời Hùng Vương. Chiếc khóa xuân của đô thành nước Việt kia, Ai là người mở, ai là người khóa!. Thơ cổ.
  15. Hình ảnh được coi là "Nữ Oa và Phục Hy" được tìm thấy khắc họa trên gạch, đồ gốm thời Hán dưới đây, cần chú ý tới chi tiết: Nữ Oa và Phục Hy - theo cách đọc trái trước phải sau (căn cứ nội dung đã phân tích ở các bài trước đó, đây là bức tranh Nữ Oa - Bàn Cổ) Nữ Oa (bên trái - Dương) đang nâng mặt trăng có hình con cóc (thiềm thừ) và Phục Hy (phải - Âm) đang nâng mặt trời có hình con quạ (kim ô). Cách bài trí hình họa này thể hiện ý nghĩa của vùng Bắc Dương Tử, bởi quy tắc nữ trái, dương và nam phải, âm. Do vậy, hình Phục Hy cài áo từ phải sang trái. Từ hình ảnh này, xác nhận tục cài áo dựa trên Huyền không phi tinh nhằm lưu giữ một phương pháp cổ của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Bức tranh đơn giản mà rất đặc biệt về một phong tục đảo ngược chung cho hai miền Bắc Nam Dương Tử, không có bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới cổ kim có phong tục độc đáo này và được khắc họa chính xác trên đồ đồng cách đây khoảng 3.500 năm trước, ngoài ra còn có nhiều bức tranh về hai nhân vật này. Trong bức tranh trên này, giả sử nhận định người phụ nữ ở giữa là ai là rất quan trọng, bởi lẽ chúng sẽ xác định lại một lần nữa bức tranh "Phục Hy - Nữ Oa" hay "Bàn Cổ tức Hòa Hy cha của vua Phục Hy - Nữ Oa" qua thần tích và sự logic trong gia phả tổ tiên Hùng Vương. (Chú ý công cụ của vua Phục Hy còn có "quả dọi"). Không chỉ vậy, "Huyền Không phi tinh" chẳng những bí ẩn về cách xây dựng nên phương pháp tính từ thiên văn mà "Huyền Không" còn mang ý nghĩa sử huyền ảo của chữ "Không", thử hỏi nơi nào có và hiểu nó từ thời thượng cổ và cho tới ngày nay cũng đã có vô số kinh sách viết về nó nhưng thực sự vẫn chưa rõ!. Chỉ tới thời Phật Thích Ca Mâu Ni, và sau này các nhà nghiên cứu vẫn đang còn có những nghi vấn về lịch sử kinh sách Đại Thừa Phật giáo thì chữ "Không" mới được diễn giải trong kinh Bát Nhã Ba La mật Đa.
  16. Wiki: Tứ Xuyên (tiếng Trung: 四川) là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây Trung Quốc. Giản xưng của Tứ Xuyên là "Xuyên" hoặc "Thục", do thời Tiên Tần, trên đất Tứ Xuyên có hai nước chư hầu là Thục và Ba, nên Tứ Xuyên còn có biệt danh là "Ba Thục". Tỉnh Tứ Xuyên có một lịch sử lâu dài, cảnh quan đẹp, sản vật phong phú, từ xưa đã được gọi là "Thiên phủ chi quốc" (天府之国). Phía tây Tứ Xuyên là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số như người Tạng, người Di và người Khương. Bản đồ tỉnh Tứ Xuyên Trong suốt thời kỳ tiền sử và lịch sử ban đầu của mình, Tứ Xuyên và các vùng phụ cận trong lưu vực Trường Giang là các nôi của các nền văn minh bản địa có thể có niên đại ít nhất từ thế kỷ 15 TCN và trùng hợp với những năm cuối của nhà Thương và trong thời nhà Chu ở phía bắc Trung Quốc. Tứ Xuyên đã xuất hiện trong các thư tịch cổ Trung Hoa với cái tên Ba Thục (巴蜀) do kết hợp tên gọi của hai quốc gia cổ trong bồn địa Tứ Xuyên là Ba và Thục. Lãnh thổ của nước Ba nay là Trùng Khánh, vùng đất đông bộ Tứ Xuyên dọc theo Trường Giang và một số chi lưu của nó, trong khi nước Thục có lãnh thổ tại khu vực Thành Đô cùng các đồng bằng xung quanh và lãnh thổ lân cận ở tây bộ Tứ Xuyên.[1] Bản đồ Tam Quốc năm 262 Sự tồn tại của nước Cổ Thục được ghi lại rất nghèo nàn trong các chính sử của Trung Hoa, song trong Kinh Thư nước Thục được ghi là một đồng minh đã giúp nhà Chu lật đổ được nhà Thương.[2] Các mô tả về nước Thục chủ yếu là pha trộn giữa các câu chuyện thần thoại và truyền thuyết lịch sử, chúng được chép trong các biên niên sử địa phương như Hoa Dương quốc chí (華陽國志) được biên soạn vào thời nhà Tấn,[3][4] với các truyện kể dân gian rằng ông vua Đỗ Vũ (杜宇) đã dạy người dân làm nông nghiệp và đã tự hóa thân thành một con chim cu cu sau khi chết.[5] Khám phá khảo cổ học tại một thôn nhỏ có tên là Tam Tinh Đôi (三星堆) ở huyện Quảng Hán đã đưa ra ánh sáng về sự tồn tại của một nền văn minh phát triển cao với một ngành công nghiệp đồng độc lập tại Tứ Xuyên.[6] Di chỉ này được tin là một thành cổ của nước Cổ Thục, ban đầu nó được một nông dân địa phương phát hiện ra vào năm 1929 và ông ta đã tìm thấy các đồ tạo tác bằng ngọc bích và đá. Các cuộc khai quật do những nhà khảo cổ tiến hành trong khu vực đã mang lại một vài phát hiện có ý nghĩa cho đến năm 1986, khi người ta tìm thấy hai hố cúng tế lớn với các đồ vật bằng đồng đẹp đẽ cũng như các đồ tạo tác bằng ngọc bích, vàng, đất nung và đá.[7] Khám phá này cùng các phát hiện khác tại Tứ Xuyên gây mâu thuẫn với quan niệm truyền thống trong sử sách rằng văn hóa và kỹ thuật của Tứ Xuyên thua kém khi so sánh với nền văn minh tại thung lũng Hoàng Hà. Văn vật khai quật tại Tam Tinh Đôi, một đầu đồng lớn với hai mắt lồi ra, được cho là để mô tả Tàm Tùng (蠶叢), người sáng lập nước Cổ Thục Nước Ba thường được mô tả là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc độc lập liên kết lỏng lẻo cùng công nhận một vị vua. Các thị tộc người Ba rất đa dạng, bao gồm nhiều sắc tộc. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy người Ba dựa chủ yếu vào đánh cá và săn bắn, hoạt động nông nghiệp ở mức độ thấp và không có bằng chứng về thủy lợi. Nước Ba đã liên minh với nước Tần khi Tần đánh Thục. Sau khi Thục bị diệt, Tần ngay lập tức chinh phục đồng minh và bắt vua nước Ba. Ba sau đó trở thành một quận của Tần. Khu vực Tứ Xuyên thời cổ có niềm tin tôn giáo và thế giới quan riêng biệt. Có các tài nguyên quặng khác nhau. Thêm vào đó, khu vực này cũng thêm phần quan trọng khi nằm trên tuyến đường thương mại giữa thung lũng Hoàng Hà và các quốc gia khác ở phía tây nam, đặc biệt là các nước nay thuộc lãnh thổ Ấn Độ. Sau khi nước Tần tiêu diệt cả hai nước Thục và Ba, các bản văn cùng các thành tựu của hai nước này đều bị Tần phá hủy. Triều đình Tần sáp nhập Thục và Ba thành hai quận của mình, Tần gửi quan chức đến trực tiếp cai trị tại Thục và chủ động khuyến khích dân di cư từ Tần tới Thục. Tuy nhiên đối với Ba, ban đầu Tần vẫn để tầng lớp trên của nước Ba cũ tiếp tục cai trị trực tiếp và không tiến hành cưỡng bách người Tần di cư quy mô lớn đến lãnh thổ Ba, song tầng lớp này về sau đã bị đẩy ra ngoài lề trong một chính sách chia để trị. Tần dường như cũng đã đưa các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến đến Tứ Xuyên, khiến trình độ nông nghiệp tại đây ngang bằng với thung lũng Hoàng Hà. Tần đã cho xây dựng nên hệ thống thủy lợi Đô Giang Yển vào thế kỷ thứ 3 TCN trên sông Dân tại Tứ Xuyên. Công trình do thái thú Thục quận Lý Băng (李冰) giám sát thi công và là biểu tượng cho kỹ thuật nông nghiệp vào thời kỳ đó. Công trình này bao gồm một loạt đập nước, nó chuyển hướng dòng chảy từ sông Dân (một chi lưu lớn của Trường Giang) đến các cánh đồng và cũng làm giảm thiệt hại của các trận lũ lụt theo mùa. Việc xây dựng hệ thống thủy lợi này đã khiến sản lượng nông nghiệp của Tứ Xuyên tăng lên rất nhiều, Tứ Xuyên cũng trở thành một nguồn cung lương thảo và binh lính chính cho Tần khi nước này tiến hành các cuộc chiến nhằm thống nhất Trung Quốc. Trong suốt lịch sử sau đó của Trung Quốc, tầm quan trọng về quân sự của Tứ Xuyên cũng nổi lên ngang bằng với ý nghĩa về thương mại và nông nghiệp. Bồn địa Tứ Xuyên nằm lọt giữa cao nguyên Thanh-Tạng ở phía tây, Tần Lĩnh-Mễ Thương Sơn ở phía bắc, cao nguyên Vân-Quý ở phía nam, phía đông có Tam Hiệp, dãy núi Vu Sơn, và thường có sương mù. Do Trường Giang chảy qua bồn địa và là đầu nguồn so với vùng Hoa Trung và Hoa Đông, thủy quân có thể dễ dàng từ Tứ Xuyên đi thuyền về hạ du. Do đó, Tứ Xuyên đã trở thành căn cứ của nhiều lực lượng quân sự và cũng là nơi ẩn náu lý tưởng cho những người tị nạn chính trị của các triều đại Trung Quốc.
  17. Liên quan đến bộ môn Huyền không phi tinh thuộc phong thủy, đây là phương pháp tính toán tương tác từ ngoài hệ mặt trời, đặc biệt có sao Lục Bạch thuộc tính Âm Kim đới Thủy mà như bài viết trước tôi đã cho rằng thuộc tính của nó vẫn là Âm Thủy. Tuy nhiên, cũng ghi chú về tính chồng lấn vùng tương tác (cung) giữa hai hệ thiên văn. Chúng ta vẫn thấy rằng Huyền không phi tinh lớn hơn Hệ mặt trời do vậy Lục Bạch thuộc Âm Kim đới Thủy hàm ý cung Kim của Huyền không chồng lấn lên cung Thủy của Hệ mặt trời, mà từ đó sao Lục Bạch được quy ước thuộc tính nội trội là Âm Kim đới Thủy. Bản chất chính là độ lệch góc của hai hệ thiên văn. Người xưa dùng quy ước của Huyền không phi tinh cho nam, nữ để tạo nên tục cài áo trái, phải cho Bắc và Nam Dương Tử, chúng ta sẽ thấy những ý nghĩa cụ thể như sau: - Con người (như một mặt trời) mặc áo (như bị che đi tức cái vỏ bên ngoài hay hệ thiên văn lớn hơn). - Huyền không còn ý nghĩa quan trọng khác: đó là sự huyền diệu của chữ "không" mà sau này nó trở thành ý nghĩa quan trọng nhất của bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Tâm Kinh) Phật giáo. Điều này chứng tỏ tổ tiên Việt đã hiểu rõ vấn đề này từ hàng thiên niên kỷ trước và trong các bản thần tích, gia phả ghi đã chép Thái tử Thích Ca Mâu Ni đã học và đắc đạo ở kinh đô Văn Lang là cực kỳ chính xác (đã viết trong các bài trước), rồi sau đó Ngài cho chở theo các bộ kinh Phật về nước trước. OSHO - "Bậc thầy chứng ngộ" của thế kỷ XX, trong các cuốn sách của mình cũng nói: kinh Phật không phải có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng ông cũng không giải thích tại sao lại như vậy. - Biểu tượng của phương pháp Huyền Không chính là Lạc Long Quân. Một cổ vật Tam Tinh Đôi là tượng Phong Đô Đại Đế đang cầm một chiếc ngà voi - hình hài của mặt trăng khuyết và của Cõi Chết thuộc phương Tây (nam thần) thời Thương thuộc vùng Tứ Xuyên (Bắc Dương Tử), cho thấy tục cài nếp áo từ trái qua phải bên trong như dưới đây, bên ngoài là sợi đây đeo từ phải sang trái nổi rõ. Phong Đô Đại Đế biểu tượng cho cung Dương tức hành thủy, mộc cho nên áo được cài từ trái sang. Tượng Phong Đô Đại Đế - Văn hóa Tam Tinh Đôi Tượng Phong Đô Đại Đế trong hình hài của một pháp sư, đầu đội mão, trang phục pháp sư bên ngoài được treo bằng một dải băng vắt ngang qua vai, trang trí hoa văn rồng, 8 biểu tượng cho Bát Quái, có hai loại biểu tượng: - Hình tròn chấm - mặt trời (Dương). - Xoắn ốc thuận chiều kim đồng hồ, hình bàn tay nắm lại (hoặc hình loa tai - hàm ý kết hợp với mắt thành Thanh Sắc) với ngón trỏ đưa ra và ngay cả chân trước của con rồng cũng là hình một nắm tay - biểu tượng cú giáng của một chiếc chùy, hình ảnh của mặt trăng khuyết (Âm). Một cái lỗ "yểm tâm" hình chữ nhật (ấn Thái tử hình chữ nhật, ấn quân vương hình vuông: một dấu chỉ cực kỳ quan trọng của vương quyền nước Văn Lang) rất đặc biệt, nằm sau lưng ngay tại vị trí "ức", cũng một bức tượng Tam Tinh Đôi khác thể hiện hình mặt trời lửa ngay "chính tâm". Thần Mặt trời với hình mặt trời ở chính tâm Cửu cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
  18. Trong bài phú Tử vi, chúng ta cần hiểu câu đầu tiên: Ngân đăng giá bích câu Ánh đèn bạc làm băng lạnh con ngòi biếc. "Ánh đèn bạc" ở đây là nói về ánh sáng phát ra của dòng sông Ngân (chiếc đĩa bạc, dòng sông bạc, ngọn đèn bạc) trên bầu trời, các hệ sao trong Tử vi thuộc hệ Ngân Hà. Tuy nhiên, về mặt thiên văn ý nói hệ mặt trời bắt đầu đi vào cung Song Ngư - biểu tượng của thần Chết. "Con ngòi biếc" chính là dòng sông Nhị Hà (sông Hồng - trên hoa văn của các hòn đá cổ Sapa có khắc hình ảnh con sông Mẹ này) nơi có kinh đô Văn Lang, đồng thời cũng mang ý nghĩa biểu tượng của "chiếc ngòi bút" tức nói về lịch sử, văn hóa sẽ bị mai một, thất thoát. Sau này, chúng ta còn thấy tháp Bút ở đền Ngọc Sơn. Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Cũng từ lịch sử Văn Lang và Trung Hoa, các vị tổ tông được quy ước theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành: - Văn Lang: hành thủy, mộc thuộc cung Dương, cấu trúc tổ tông vận động theo Lạc thư. - Trung Hoa: hành hỏa, kim thuộc cung Âm, cấu trúc tổ tông vận động theo Hà đồ. - Văn Lang và Trung Hoa: lấy mốc hành Hỏa ứng Đế Minh và Đế Nghi làm điểm bắt đầu, cũng là lúc Đế Minh phân chia nước Bắc Dương Tử cho Đế Nghi và Nam Dương Tử cho Lộc Tục Kinh Dương Vương. Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh có câu tiên tri nói về sự kiện này: Song Ngư (cung) liền địa, Nghi Lộc (Đế Nghi - Lộc Tục) phát vương. Cũng từ đây, đã xây dựng nên tục cài áo bên trái của Văn Lang do thuộc cung Dương và ngược lại. Ý nghĩa này cũng hàm ý về sự vận động của Huyền không phi tinh - đã có từ thời cổ đại rồi (điều này rất logic, Tử vi có trước Chu Dịch và tất nhiên, Huyền không có trước Tử vi): - Văn Lang thuộc cung Dương chuyển nghịch - cài áo trái sang phải cho nam giới, còn nữ thì ngược lại. - Trung Hoa thuộc cung Âm chuyển thuận - cài áo phải sang trái cho nam giới, còn nữ thì ngược lại. Thánh Khổng Tử cũng đã viết trong thiên Hiến Vấn, sách Luận Ngữ: "Nếu không có Quản Trọng - (Tể tường phục hưng nước Tề thành bá chủ chư hầu) - thì người Hán bây giờ mặc áo cài vạt bên trái như người Nam Man rồi". Thời Khổng Tử không thể có người Hán hay nhà Hán, cho nên đây là chi tiết thêm vào của các nhân vật đời sau nhằm nêu cao tinh thần của nhà Hán - Hán Cao Tổ Lưu Bang. Mà cái tên "Hán" lại là do Hạng Vũ tặng cho Lưu Bang. Quay trở lại cấu trúc thờ thời Hùng Vương, liên quan đến chiếc đỉnh xông trầm ở trung tâm - cũng được ghi nhận chính xác trong bức tranh Hàng Trống có từ thời nhà Lý, với sự chú ý là chiếc đĩa chứa ngũ quả cũng được bài trí ở trung tâm đồ tế lễ. Tranh Hương Chủ Dưới đây là một chiếc đỉnh của thời kỳ sau này: Đỉnh đắp nổi rồng và sư tử hý cầu (năm 1736) - Như vậy, đến đây thì lịch sử của tổ tông nước Trung Hoa đã thực sự an bài rồi. Đồng thời, xác định rõ nguồn gốc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành. - Căn cứ thiên văn và sự hợp lý của Âm Lịch Việt thì năm Tận Thế 2012 theo lịch Maya bị sai số 1 năm do cách tính, tức là năm 2013 mới là năm siêu đặc biệt, do vậy năm nay 2014 chúng ta đang ở năm thứ nhất trong cung Bảo Bình, tức ứng với quẻ Phục cho chu kỳ vũ trụ (thiên cầu) 25.920 năm. Đối với trái đất thuộc hệ mặt trời, do quá nhỏ bé trong thiên cầu cho nên chỉ cần một thay đổi rất nhỏ (vi động) về tính chất tương tác từ thiên cầu tới là nó chịu ảnh hưởng cực lớn ngay - điều này hàm ý trái đất đang ở trong quẻ Địa Thiên Thái. - Năm nay trái đất đã ở trong trường khí của quẻ Địa Thiên Thái cho nên: trí tuệ - thanh khí của Việt Nam là cực mạnh. Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng. Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
  19. Bích câu kỳ ngộ Tác giả: Khuyết Danh Mấy trăm năm một chữ tình, Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi. Cơ duyên ngẫm lại mà suy, Trời Nam nào có xa gì cõi Tây. Tương duyên kỳ ngộ xưa nay, Trước kia Lưu, Nguyễn, sau này Bùi, Trương. Kìa ai mê giấc Đài Dương, Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu? Thành Tây có cảnh Bích Câu, Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao! Đua chen thu cúc, xuân đào, Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông. Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông, Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều. Một vùng non nước quỳnh giao, Phất phơ gió trúc, dạt dào mưa hoa. Triều Lê đương hội thái hòa, Có Trần công tử tên là Tú Uyên. Phúc lành nhờ ấm xuân huyên, Số trong tài mạo kiêm tuyền kém ai. Thông minh sẵn có tư trời, Còn khi đồng ấu mãi vui cửa Trình. Trải xem phong cảnh hữu tình, Lâm toàn pha lẫn thị thành mà ưa. Liền khu trùm một lầu thơ, Lau già chắn vách, trúc thưa giũ rèm. Thừa hư đàn suối ca chim , Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng. Của chung huy hoắc đâu bằng, Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen . Khắp so trong cõi ba nghìn , Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi. Thú vui bốn bạn thêm vui Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao Thoi đưa ngày tháng sương sao, Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa. Trời hôm giục bóng dâu tà, Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương . Não người thay! nỗi tang thương, Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh. Vai còn đôi gánh thâm tình, Bầu Nhan đã sạch sành sanh còn gì! Mấy phen hạ tới thu về, Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây. Chiều trời lạnh ngắt hơi may, Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương! Lơ thơ nửa mái thảo đường, Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa! Phong quang lạ khác dấu xưa, Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn. Sinh từ gặp bước gian truân, Vinh khô gọi nếm mùi trần chút chơi. Cùng thông dù mặc có trời, Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu. Lôi thôi cơm giỏ nước bầu , Những loài yến tước biết đâu chí hồng . Thề xưa đã nặng với lòng, Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi. Ao nghiên giá bút thảnh thơi, Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình. Thi hào dậy tiếng Phượng thành, Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào . Ngửa nghiêng lưng túi phong tao, Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi. Châu ken chữ, gấm thêu lời , Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền. Đã người trong sách là duyên , Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm. Lửng lơ chiếc lá doành nhâm, Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng. Ngọc hồ có đám chay tăng, Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội xuân. Dập dìu tài tử giai nhân , Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai . Thưởng xuân sinh cũng dạo chơi, Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu. Mảng xem "cây phạm" thú mầu, Vầng kim ô đã gác đầu non tê . Tiệc thô ai nấy cùng về, Gió chiều lay bóng hoa Lê la đà. Bân cầu đàn lũ năm ba, Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay! Sinh vừa tựa liễu nương cây, Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần. Mắt coi mới tỏ dần dần, Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu . Trông qua lặng ngắt giờ lâu, Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người . Vừa toan họa lại mấy lời, Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn. Thấy người trước cửa tam quan, Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ. Lạ lùng con mắt người thơ, Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương. Rành rành xuyến ngọc thoa vàng, Quần nghê tha thướt, sóng Tương rượm rà . Mỉa chiều nét ngọc làn hoa, Cá chìm mặt nước, Nhạn sa lưng trời . Gần xem vẻ mặt thêm tươi, Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều. Làn thu lóng lánh đưa theo, Não người nhăn chút lông nheo cũng tình . Vốn mang cái bệnh Trương sinh, Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao? Đưa tình một nét sóng đào, Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người. Nhân duyên ví chẳng tự trời, Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên. Dù mặt lạ đã lòng quen, Cả liều đến gốc thu thiên ướm nàng: "Quá vui nên trót sỗ sàng, "Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa." Khách rằng: "Trong hội Vô già, "Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi . "Gió bay những tiếng thị phi, "Trót lầm thôi có trách gì đến ai." Giọng kiều nghe lọt vào tai, Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình. Thưa rằng: "Chút phận thư sinh, "Đèn từ soi đến tấm thành với nao! "Chi viên nỡ hẹp hòi sao, "Mở đường phương tiện chút nào được chăng?" Rằng: "Đây về đạo kim thằng, "Trăng hoa sao khéo nói năng những lời. "Bến từ có hẹp chi ai, "Dốc đem thuyền giác độ người bến mê. "Ngán cho bên cõi bồ đề, "Phải đường ong bướm đi về đấy sao? "Đóa hoa sẵn nhạc vàng treo, "Tiếng oanh chỉ để lao xao trên cành." Lặng nghe lọt đến giọng tình, Lòng tham quanh cả bên mình mỹ nhân. Rằng: "Đây lầm xuống mê tân, "Tiền duyên xin để kim thân tu đền. "Ba sinh cho vẹn mười nguyền, "Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng. "Gậy linh mượn phép cao tăng, "Phá thành sầu khổ cho bằng mới cam. "Chày sương đợi khách cầu Lam, "Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu. "Nước bèo dù có duyên sau, "Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây." Người còn cợt gió, đợi mây, Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh. Ngóng theo đến Quảng Văn Đình, Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua. Mượn người thăm hỏi gần xa, Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây? Hay là quán nước, làn mây, Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao? Dám xin trỏ lối cho nao, Tới non Ngọc dễ ai nào về a! Ơn lòng nhắm liễu thăm hoa, Biết đâu sắc sắc vẫn là không không Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông, Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi. Xe loan gió cuốn lưng trời, Tiên về động bích, tình rơi cõi trần. Ngửa trông năm thức mây vần, Hồn chưa đến chốn non thần đã mê. Lần trăng ngơ ngẩn ra về, Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên. Nỗi nàng canh cánh nào quên, Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là? Bướm kia vương lấy sầu hoa, Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh! Có khi gẩy khúc đàn tranh, Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân. Cầu hoàng tay tựa nên vần, Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào. Có khi mượn chén rượu đào, Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy. Hơi men chưa nhấp đã say, Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình. Có khi ngồi suốt năm canh, Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương. Ỏi tai những tiếng đoạn trường, Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn. Có đêm ngắm bóng trăng tàn, Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya. Ngổn ngang cảnh nọ tình kia, Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai! Vui xuân chung cảnh một trời, Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. Lòng yêu tay tả nên thơ, Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo. Ả Hằng ví nặng lòng yêu, Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao! Hỏi cho giáp mặt hoa đào, Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru! Đồng song có gã họ Hà, Ướm tình mới hỏi lân la gót đầu. Cớ sao chuốc não mua sầu, Bữa thường ngao ngán như màu nhớ ai? Bấy nay vắng vẻ thư trai, Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân. Nguồn cơn ngỏ với cố nhân, Họa may sẽ giúp được phần nào chăng? Điều đâu thực khéo như rằng, Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người. Song mà tình chẳng riêng ai, Bệnh tương tư có trải mùi mới hay. Người ngu đấng thánh xưa nay, Tình chung chẳng ở vòng này hay sao? Nói dù nghe cũng thế nào, Lặng dù, nghe cũng nao nao chẳng đành. Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh, Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều. Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu, Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng. Những là tiếc phấn say hương, Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm. Sầu dường bể, khắc như năm, Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy! Nghìn xưa âu cũng thế này, Gánh sầu san sẻ ai đầy ai vơi? Lạ cho cái giống hương trời, Biết năm biết thuở, biết đời nào quên. Hà nghe nói hết căn nguyên, Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ. Chẳng thần nữ, cũng tiên phi, Duyên xưa còn có chút gì hay không. Lá hồng ra mối chỉ hồng, Nước bèo kia cũng tương phùng có phen. Ngọc Liên nghe có Hóa Tiên, Thánh Tông thuở trước qua miền ấy chơi. Lầu chuông bỗng gặp một người, Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm. Ngự khen tú khẩu cẩm tâm, Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ. Rước về rắp gạn tóc tơ, Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu? Mười lăm năm nọ chưa lâu, Còn di tích đó là lầu Vọng Tiên Lạ tai nghe những chẳng tin, Thử coi cho thấy nhãn tiền mà ghê. Nhận ra trong lá thơ đề, Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm. Những là én bắc nhạn nam, Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây? Tuy rằng cách trở đông tây, Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi. Gác xuân cách mấy dặm khơi, Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa. Hà rằng: "Hương lửa duyên xưa, "Có khi tình trước còn chờ hội sau. "Đành rằng kỳ ngộ nan cầu, "Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm. "Biết đâu nhắn cá gửi chim, "Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành. "Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh, "Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là. "Chuốc mua lấy nợ phong hoa, "Mối tơ phó mặc trăng già phải nao! "Xuân sang xuân đã già nào, "Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu." Vắt tay ngẫm nghĩ xưa sau, Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không. Nói cười tươi tắn thong dong, Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân thiên. Thôi mong khách, lại chờ tin, Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài. Bâng khuâng một mối viễn hoài, Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây. Ngày thường ngắm cảnh am mây, Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn. Còn trời, còn nước, còn non, Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa. Hoa đào còn đó trơ trơ, Mà người năm ngoái bây giờ là đâu? Vù vù gió thổi rèm lau, Càng như chất mối tơ sầu vào thêm. Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm, Tới đền Bạch Mã, giải niềm cầu duyên. Khấn rồi ra góc tây hiên, Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to. Bóng trăng vừa xế cành ngô, Giấc hoè dìu dịu, chăn cù êm êm. Thấy người cao mũ rộng xiêm, Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời. Trước sân sang sảng dạy lời, Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô. "Lọ là oanh yến hẹn hò, "Cầu Đông sẵn lối, cầu Ô đó mà!" Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa, Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo. Lòng yêu phải bước chân theo, Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì. Nước trong vắt, cỏ xanh rì, Thạch Kiều thấy đó giai kỳ nào đâu? Trông mong đã suốt giờ lâu, Ôm cây mãi thế, ra màu cũng quê. Chán chiều thơ thẩn ra về, Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười. Bỗng may lại gặp một người, Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa. Liền tay xin lĩnh xem qua, Truyền thần một tượng Tố Nga rành rành. Dịu dàng vẻ đạm màu thanh, Như người gặp Quảng Văn Đình ngày xưa. Càng nhìn nét bút càng ưa, Chàng Vương dẫu mạc bao giờ cho nên. Mua về treo chốn thư hiên, Như ai đem ngọc giải phiền lại cho. Mưa hoa khép cánh song hồ, Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi. Mâm chung một, đũa thêm hai, Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa. Tưởng gần thôi lại nghĩ xa, Có khi hình ảnh cũng là phát phu. Êm trời vừa tiết trăng thu, Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng. Chiều thu như gợi tấm thương, Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình. Kề bên năn nỉ bày tình, Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa. Từ phen giáp mặt đến giờ, Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn. Ấy ai điểm phấn tô son, Để ai ruột héo, gan mòn vì ai? Buồn đào nửa bước chẳng rời, Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng? Rày xin bẻ khóa cung trăng, Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao! Chợt trông mấp máy miệng đào, Mặt hoa hớn hở dường chào Chúa đông. Cho hay tình cũng là chung, Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân! Một khi ra việc tràng văn, Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng. So xem phong vị khác thường, Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào. Bếp trời sẵn đấy hay sao? Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi? Rạng mai cứ buổi ra đi, Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi. Sẩy đâu thấy sự lạ đời: Trong tranh sao có bóng người vào ra? Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa, Này người khi trước, đâu mà đến đây? Nàng đương trang điểm nào hay, Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào. Vội vàng đánh tiếng ra chào, Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình! Rằng: "Bấy lâu một chữ tình, "Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường." Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường, "Vì mang má phấn, nên vương tơ điều. "Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu, "Tiên thù là hiệu, Giáng Kiều là tên. "Ba sinh đã nặng vì duyên, "Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ. "Nhân duyên đã định ngày xưa, "Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân. "Cũng là nhờ đức tiên quân, "Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày." Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay, "Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi! "Đã rằng: Tác hợp duyên trời, "Làm chi cho vẩn lòng người lắm nau?" Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu, "Tấm son thề với trên đầu xanh xanh. "Dám đâu học thói yến oanh, "Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương. "Gieo thoi trước đã dở dang. "Sau nên nát đá phai vàng như chơi. "Mái Tây còn để tiếng đời, "Treo gương kim cổ cho người soi chung. "Lạ chi hoa với gió đông, "Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh. "Một mai mưa gió bất tình, "Vóc tàn, nên để yến oanh hững hờ. "Nghĩ trong thân phận yếu thơ, "Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau?" Nói thôi rút chiếc trâm đầu, Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra. Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa, Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương. Giọng tình sánh với quỳnh tương, Giả say sinh mớ toan đường lần khân. Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân, "Không dưng dễ xuống cõi Trần làm chi. "Song còn mấy bạn tương tri, "Bấy lâu chưa có chút gì là đâu. "Trước xin từ biệt cùng nhau, "Chữ duyên này trở về sau còn dài." Nghe lời nói cũng êm tai, Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây. Trước sân mừng cuộc tỉnh say, Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa. Bóng mây bỗng kéo quanh nhà, Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài. Tường quang sáng một góc trời, Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao! Người yểu điệu, khách thanh tao, Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai. Lả lơi bên nói bên cười, Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang. Đong đưa khoe thắm đua vàng, Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha. Yến tân chuốc chén năm ba, Người còn vui tiệc, khách đà cáo say. Kẻ ra nương bánh xe mây, Người vào trong gấm vui vầy bạn loan. Lả lơi cười với hoa nhan, Trải chăn thúy vũ, buông màn phù dung. Phòng tiên dìu dặt chén đồng, Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao. Ngẩn ngơ hé cửa động đào, Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân. Mấy vàng đổi được khắc xuân, Xưa nay tài tử, giai nhân lạ gì? Cho hay thiên tải giai kỳ, Trăng già xe đã phải thì đào non. Cũng là môt mốt tơ son, Năm trăm năm cũng vuông tròn từ đây. Đàn cầm từ thuở bén dây, Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung! Khi gió mát, lúc trăng trong, Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây. Khi tuyết xuống, lúc hương bay, Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình. Tài hoa quốc sắc khuynh thành, Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành Trần duyên. Ngươi tao nhã, khách thuyền quyên, Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời. Nhà lan sum họp ban mai, Đã trong tần tảo, lại ngoài ty ca. Dần dần năm đã kể ba, Hạnh và độ thắm, Liễu và phần son. Duyên ai tính đã vuông tròn, Nào hay nợ trước chút còn dở dang. Trần Sinh từ thuở gặp nàng, Vui vầy mê mải nên càng quá xưa. Một ngày say mấy canh thừa, Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều. Rằng: "Xin gửi một hai điều, "Thân trăm năm nỡ bỏ liều thế ư! "Thiếu gì những chuyện ngày xưa, "Còn bia miệng đó trơ trơ chưa mòn! "Ấy ai dỗi gót bên non, "Bóng trăng Thái Thạch là hồn ai say! "Ví còn lầm trước chưa hay, "Thì đem gương ấy sau này mà soi." Ngán thay khuyên nhủ đến lời, Nưóc kia dội đá có mùi gì đâu. Thôi ngày trọn, lại đêm thâu, Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh. Ma men quanh quẩn bên mình, Cho đàn trễ phím, cho bình nhạt hương. Mải mê say tỉnh tâm trường, Liệu bài nàng lại tìm đường van lơn. Trái tai vả lại ngứa gan, Đang tay nỡ dập hoa tàn tả tơi. Dây đồng đứt hẳn làm đôi, Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu! Nàng càng tầm tả tuôn châu, Ngán nhân tình khéo ra màu thắm phai. Rằng: "Thôi, tôi đã quá lời, "Xui lòng nghĩ lại một hai kẻo mà..." Sinh đang vui chén la đà, Vẩn vơ tính quỉ hồn ma biết gì. Nói thôi, nói cũng chi chi, Nghe ra tiếng nặng như chì, giọng say! Nàng rằng: "Duyên nợ bấy nay, "Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu. "Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu, "Doành thu nên để bắc cầu mấy phen! "Sá chi nữa, cái hoa hèn, "Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ càng. "Đã lòng rẻ thúy chia hương, "Đành lòng rẫy ngọc, ruồng vàng thì vâng. "Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng, "Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi." Lạy rồi, đứng lại sân ngoài, Bên bàn say tỉnh mặc người ngồi trơ. Sinh còn đương cuộc nào ngờ, Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao? Biết phương nào, biết chước nào, Có chăng còn lúc chiêm bao họa là! Non thần mấy dặm đường xa, Khói mây man mác dễ mà hỏi, vay! Cát vàng bụi bạc xa bay, Mây trên mặt đất, non xây chân trời. Ngắt chừng bể thẳm doành khơi, Đường xa bao ngả tình dài bấy nhiêu. Buồn trông quãng vắng đường queo, Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành. Buồn trông cửa bể mông mênh, Con thuyền thấp thoáng cuối ghềnh ngổn ngang. Buồn trông cuối phố hàng đường, Cánh hồng man mác, hạt sương đầm đìa. Buồn trông theo giải Tô Khê, Chim kêu bụi rậm, Trâu về đồng không. Cảnh buồn như giục tấm lòng, Lại thêm vấn vít mấy vòng tơ vương. Ấy ai phải vía chàng Trương, Non tiên cách một bước đường nên xa. Hay là lỗi sổ Hằng Nga, Đêm đông vò võ bóng tà sao thưa. Nghĩ tình nên những ngẩn ngơ, Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai? Dần dần trăng tối gió may, Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi pha! Trêu ngươi chi bấy trăng già, Xe dây mỏng mảnh ỡm ờ mà chơi. Cho nên cách trở đôi nơi, Hoa trôi cửa động, nước xuôi cõi Trần. Nghĩ riêng, riêng những ăn năn, Phấn Hồ, còn đó, tinh thần nào đâu? Càng thêm ngao ngán trăm chiều, Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon. Xác ve ngày một héo mòn, Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên. Tả lòng tay thảo mười thiên, Mấy câu mấy chữ, mấy nghìn câu rơi. Hà Sinh phải buổi sáng chơi, Xót tình khế hữu liêu bài giải khuyên: "Biết đâu rằng quỉ rằng tiên, "Một may một rủi thôi phiền não chi. "Dù tiên duyên đã mãn kỳ, "Chờ cho duyên hợp châu về mòn hơi! "Hãy xin gắng gượng làm tươi, "Gánh sầu trút cả cho người phải nao! "Lỡ ra khi đến thế nào, "Mà cho mắt tục trông vào sao nên." Rằng: "Xưa trót đã nặng nguyền, "Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi. "Cũng đành cho thế gian cười, "Còn hơn cam phụ với người tri âm. "Duyên xưa âu chẳng se lầm, "Bao giờ kéo hết tơ tằm mà hay! "Công đâu nghĩ mướn lo vay, "Dẫu mòn bia đá khôn lay tấc lòng." Xem chiều nói cũng như không, Hà Sinh ra ý sượng sùng cáo lui. Khách đà về chốn tây trai, Một mình một bóng đứng ngồi sao yên. Quyết tìm khắp nước non tiên, Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh. Giải là giũ sẵn bên mình, Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem! Gió hương đâu bỗng lai rèm, Bóng hoa đâu đã trước thềm lả lơi. Đương khi rằng một rằng hai, Sịch hài nàng đã tới nơi bao giờ! Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ, Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê. May sao may khéo đi về, Chậm chân chút nữa còn gì là ai! Mắt nhìn chung cả con ngươi, Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan, Sinh rằng: "Từ vắng phương nhan. "Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu. "Quản bao bể rộng sông sâu, "Đã toan quên cả cái cầu tư sinh. "Dám đâu riêng phụ với tình, "Dưới vàng có đất, trên xanh có trời. "Kể chi những sự đã rồi, "Sắt son ghi tạc một lời từ đây." Thưa rằng: "Cầm đã bén dây, "Có tri âm đó, cuốn dây sao đành. "Cũng công hương lửa ba sinh, "Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao." Đinh ninh gắn bó tất giao, Trước sau nối gót trướng đào song song. Vườn xuân hoa đã quen ong, Từng xa xôi lắm, lại nồng nàn thêm. Mấy thu gối ấm chăn êm, Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khóa tình. Trên đào vừa thấy tinh oanh, Gốc giao sớm đã nối cành Quế Yên. Chân Nhi rơi chút dấu tiên, Một mai dành để dõi truyền thi thư. Sinh càng chăm chút sớm trưa, Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây. Đường trời chưa mỏi cánh bay, Thung dung nàng lại giãi bày một hai. Rằng: "Coi cho thấu sự đời, "Giam danh khóa lợi, những người thế gian. "Trời thu mây hợp, lại tan, "Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy năm. "Gẫm trong tám, chín mươi năm, "Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru! "Thịt xương gửi đám Diêm Phù, "Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân. "Đố ai vượt khỏi lòng trần, "Sông mê chìm nổi, thế nhân đã đầy. "Anh hùng những mặt xưa nay, "Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là. "Dần dần tháng trọn ngày qua, "Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu. "Thôn hoang mấy nắm cổ khâu, "Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc Dương. "Chưa đầy một cuộc tang thương, "Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng. "Sao bằng ngày tháng cung tiên, "Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa. "Dọc ngang bốn bể, năm hồ, "Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu. "Ra vào kim khuyết quỳnh lâu, "Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn. "Đi về tuyết điếm hoa thôn, "Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn. "Một này trong thú thanh nhàn, "Mấy trăm mượn cảnh nhân hoàn đọ sao! "Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao, "Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?" Mảnh riêng sinh những bàng hoàng, Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm. Trót xưa túi sách con gươm, Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu? Thưa rằng: "Đã tiếng trượng phu, "Sự đời vinh nhục chi cho bận lòng. "Ví ham nghìn tứ, muôn chung, "Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời. "Làm chi cho bạn tiên cười, "Ai vui viên hạc, ai vui yên hà. "Vẩn vơ trong đám phồn hoa, "Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?" Sinh nghe tỉnh chuyện tiền nhân, Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê. Rằng: "Xưa Hoàng Đế, An Kỳ, "Nào phương thoát hóa tu từ sao đây?" Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay, "Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao! "Vả chàng dự bậc thanh tao, "Mà xem trong sổ Tiên Tào có tên. "Học sao cho hết chân truyền, "Tu sao cho hết tinh huyền thì tu." Tay trao một đạo tiên phù, Một phương hỏa tảo, một lò kim đan. Đường tu sẵn cách khảo bàn, Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng. Dần theo gió liễu, trăng đồng, Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng. Đương khi lốt trắng điểm vàng, Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lão Quân. Mây đưa năm sắc tường vân, Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người. Dang tay cỡi hạc cả cười, Nhủ Chân Nhi lại nối lời thề xưa: "Còn kỳ dậy gió tuôn mưa, "Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!" Nói rồi thẳng rẽ đường mây, Trông theo cánh hạc về Tây tuyệt vời. Bồng lai riêng một bầu trời, Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành. Tác Giả Hiện nay không biết tác giả của quyển Bích Câu Kỳ Ngộ là ai. Truyện này kể một sự tích ở nước ta, tức là việc một người học trò tên Trần Tú Uyên gặp một nàng tiên ở đất Bích Câu, bởi thế mới đặt tên truyện là Bích Câu Kỳ Ngộ (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu). Bích Câu (ngòi biếc) trước thuộc làng Yên Trạch, tổng Yên Hòa, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện còn đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là cái di tích của câu chuyện hoang đường này. Tác Phẩm I. Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (1 - 272): Trần Tú Uyên, một người học trò nghèo, thường đi chơi những nơi thắng cảnh; một lần đến đất Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh Từ, Hà Nội). Chiều đến, sắp về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ý ghẹo mình. Trông ra cửa Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo, đến Quảng Văn đình (nay là chợ cửa Nam Hà Nội) thì chợt người ấy biến mất. Từ đấy, Tú Uyên sinh ra ốm tương tư. II. Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (273 - 428): Sau Tú Uyên đến đền Bạch Mã (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm, thần bảo ông sáng hôm sau ra đợi ở Cầu đông (nay ở phố hàng đường) thì gặp người con gái ấy. Hôm sau ra đợi mãi đến chiều, chỉ gặp một ông lão bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đã gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông rình ở một chỗ, thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, thì người ấy nói tên mình là Giáng Kiều ở trên cung tiên xuống, xin kết duyên cùng ông. Giáng Kiều làm phép biến chỗ nhà của ông thành nguy nga tráng lệ. III. Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về nhà (429 - 558): Tú Uyên lấy Giáng Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn, ông không nghe, lại còn đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi. đến lúc tỉnh, ông đi tìm đâu cũng không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; chợt nàng Giáng Kiều hiện ra, ông bèn từ tạ, hai bên đoàn tụ như xưa. IV. Tú Uyên và Giáng Kiều lên cõi tiên (559 - 648): Từ bấy giờ Tú Uyên đối đãi tử tế với Giáng Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân Nhi. Nàng Giáng Kiều bèn khuyên ông nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi dặn dò Chân Nhi ở lại cõi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cõi tiên.
  20. Qua cấu trúc các bộ đồ tế khí, chúng ta sẽ nhận nhận một điểm quan trọng mà từ đó xác định được Viêm Đế của Trung Hoa là vị nào: - Phương Nam hành hỏa với biểu tượng của Đế Minh ứng với đỉnh đồng (Trung Hoa) và phương Đông với biểu tượng trống đồng ứng với Kinh Dương Vương, cấu trúc vận động theo Lạc thư. Còn Trong Hoa cấu trúc vận động theo Hà đồ với định vị phương Nam với biểu tượng của Đế Nghi ứng đỉnh đồng, Đế Nghi là em sinh đôi với Đế Minh. - Tam Hoàng Ngũ Đế có 2 cấu trúc: cho Toàn thể Bắc Nam Dương Tử và Nam Dương Tử; cho riêng Bắc Dương Tử. Để từ đó, xác định được Hoàng Đế là Đế Lai như đã viết ở các bài trên. Tuy nhiên, đỉnh đồng không thấy hay cực kỳ ít ở Nam Dương Tử, ngoại trừ vùng Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang sau khi thuộc về nhà Ân Thương, do vậy biểu tượng phương Nam là gì? Đó là chiếc Âu đồng, tế khí mang ý nghĩa chứa đựng, không có nắp, thường đựng đồ cúng như cơm... dùng cho sự sinh, còn đối xứng nó là thố đồng dùng co sự tử - hương trầm. Âu đồng Đông Sơn Lịch sử Tử vi còn ghi lại bài phú: # Ngân đăng giá bích câu Ánh đèn bạc làm băng lạnh con ngòi biếc. Có thể hiểu là giá trị giả thấp kém đã thay thế cho giá trị thật, cao quí. #Yên mãn tự chung lâu Lửa đã cháy đến tận đỉnh lầu chuông. Có thể hiểu là sự nguy nan của quốc gia Văn Lang có nguyên nhân từ bên trong không thể cứu vãn. #Hán địa siêu sài thấp Đất nhà Hán đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất. (Đất hay Nước và chỗ thấp nhất - trống không đối ứng với Lửa đã cháy đến tận đỉnh lầu chuông). Ngân đăng giá bích câu. Yên mãn tự chung lâu Hán địa siêu sài thấp Viêm Thuỷ lạc kim âu. Bắc Nam Dương Tử đã lạc tổ tông của mình Câu thứ tư này không lạc vận với 3 câu trên và trùng với nội dung ban đầu của nó với đủ ngũ hành (bổ sung bởi tác giả Thiên Sứ): Ngân (Kim) Đăng (Hỏa) Giá (Mộc) Bích (Thổ) Câu (Kim). Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc). Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy). Viêm (Hoả) Thuỷ (Thuỷ) Lạc (Mộc) Kim (Kim) Âu (Thổ). Chúng ta xem lại các địa chí: Bích Câu có nghĩa là ngòi biếc, ám chỉ ngày xưa ở đây có một con ngòi (kênh, mương) nước trong xanh chảy ra hồ Giám, Lương Sử, Ngô Sĩ Liên tới hồ Kim Âu gần phố Khâm Thiên. Tương truyền chúa Trịnh Sâm đã từng từ phủ chúa gần ngã tư Quang Trung-Tràng Thi đi thuyền theo một con ngòi đến hồ Kim Âu, qua ngòi biếc này ghé đến nhà tham tụng Nguyễn Khảm (anh ruột của Nguyễn Du) ở Văn Miếu[1] Vị trí phường Bích Câu theo phỏng đoán là cả một khu vực ôm lấy nội thành phía nam, tây nam và tây bắc vòng Hoàng thành Thăng Long. Nếu nhìn trên bản đồ hiện nay thì Bích Câu gồm các phố Quán Thánh, sang Hùng Vương, sang Nguyễn Thái Học, Quốc Tử Giám, xuôi nửa đường Tôn Đức Thắng, xuống các làng Hào Nam, Giảng Võ rồi ngang về phía cuối các trục đường Cát Linh, Kim Mã - cả Thủ Lệ, Đội Cấn, Hoàng Hoa Thám và một phần thuộc đất làng Thụy Khuê. Phường Bích Câu vốn có từ rất lâu trước khi Lý Công Uẩn dời đô về Đại La, lập thành Thăng Long. Từ thời nhà Lý trở đi thì phường Bích Câu phát triển thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế bậc nhất Thăng Long. Thời hoàng kim của Bích Câu kéo dài hàng thế kỷ văn minh từ thời trung đại cho đến hết thế kỷ 19. Cái tên Bích Câu được ra đời từ rất sớm, đã xuất hiện trong các câu truyện dân gian từ xa xưa. Các sách về địa chính Tống Bình, Đại La đã nói đến Bích Câu với sự tích văn hóa và lịch sử hình thành đặc biệt của nó. Trước đây Bích Câu này chỉ được gọi là trại, sau đổi là phường. Khu vực này tập trung đa phần là vua chúa, quan lại và danh sĩ ngay từ thời Văn Lang - Thục Phán. Theo Văn Kỳ Trung hưng, sinh hoạt của phường Bích Câu náo nhiệt nhất vào những năm 40 của thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19. Các sinh hoạt ở đây đã sớm hội nhập văn minh phương Tây lẫn thời Minh, Thanh của Trung Quốc, mạnh nhất là thời Khang Hy, Càn Long. Nơi đây đã từng tập trung vua chúa, quan lại, văn nghệ sĩ, bác học và cả những "Mạnh Thường Quân"... Gia đình của Nguyễn Du cũng ở phường Bích Câu, khi đó là một gia đình đại quý tộc. Bích Câu còn được nhắc tới trong tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ, kể về một học trò tên Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu. Bích Câu kỳ ngộ có nghĩa là cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu. Cuộc gặp gỡ Bắc - Nam, Cõi Âm và Cõi Dương. Bích Câu hay con ngòi biếc chính là sông Nhị Hà (sông Hồng) và Kim Âu chính là Bạch Long thành tức thành Thăng Long hay Hà Nội ngày nay, kinh đô của Văn Lang và của Đại Hòa thời Đế Minh. Tuy nhiên, trong bài thơ "Âu" hành thổ, trung tâm chứ không phải hành hỏa như nhận định, vậy biểu tượng phương Nam là cái gì? Cái âu ở trung tâm Hà đồ - Lạc thư! Đó là cái Ấm có hình con gà trống hay là cái nồi đồng Việt?. Đấy chính là cái nồi đồng Việt có dấu "hoa thị 6 cánh 1 nhụy = 7 độ số phương Nam" mà ngày nay còn sử dụng, chúng đượng dùng trong các buổi tế lễ, nó liên quan đến lửa - hành hỏa. Tất nhiên, trung tâm sẽ là cái Âu đồng Đông Sơn. Nồi sắt mộ Nam Việt Vương Triệu Muội. Âu đồng trung tâm liên quan đến đồ tế lễ và ứng với Đạo thờ Tổng Tông trong cấu trúc các Đạo thời Hùng Vương: Đạo Mẫu, Đạo Tổ Tông, Đạo Tiên, Thần Đạo và Đạo Nho, còn đồ tế khí trung tâm thì chính là cái Đỉnh xông trầm Đông Sơn, mà sau này được chế tác thành chiếc đỉnh trên các bàn thờ tổ tông Việt. Đỉnh xông trầm - cổ vật Đông Sơn
  21. Từ cấu trúc biểu tượng ở trên chúng ta có nhận xét: - Văn Lang với thố đồng - bắc, hành thủy và trống đồng - đông, hành mộc. - Trung Hoa với đỉnh đồng - nam, hành hỏa và chuông đồng - tây, hành kim. Chuông tai dê có "tượng voi" - phương Tây Cấu trúc này phản ảnh đồ hình Hà đồ - Lạc thư, sự phân chia cung Dương ứng với hành thủy, mộc và cung Âm ứng với hành hỏa, kim qua dòng sông Dương Tử - định vị tâm Hà đồ - Lạc thư. Qua cấu trúc này, một lần nữa khẳng định tính quy ước của đồ hình như đã phân tích trong các bài viết ở trước: Hà đồ - Lạc thư được định vị theo phương Nam trên Bắc dưới tức lấy con người làm chủ thể nhận tương tác, tức như đồ hình cổ trong Kinh Dịch. Đồ hình Hà đồ cần đảo ngược lại 180 độ. Đây chính là nền tảng để quán xét toàn bộ ý nghĩa tương hợp giữa Bắc và Nam Dương Tử về mọi mặt. Tuy nhiên, khí nói đến Hà đồ - Lạc thư là phải nói trên trung cung hành thổ, vậy biểu tượng đồ đồng của Văn Lang và Trung Hoa cho trung cung này là đồ tế khí loại nào? Đỉnh xông trầm - cổ vật Đông Sơn Chúng ta cũng đã nói về biểu tượng rìu Việt, có một sự chú ý trong bộ nghi trượng Lỗ Bộ thì dùng búa lớn (Phủ Việt) chứ không phải rìu Việt. Rìu Việt xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn dùng trong các buổi tế lễ tức liên quan đến Cõi Vô Hình - vũ khí trừng phạt của Ngọc Hoàng Thượng Đế qua tay của thần Sấm còn kiếm (gươm) mới là vũ khí của Cõi Hữu Hình chúng ta. Truyền thuyết về Rùa Vàng tăng gươm báu cho vua Lê Lợi mang ý nghĩa này. Pháp sư cầm rìu Việt trên trống đồng Đông Sơn Kiếm đồng Đông Sơn
  22. Sử ký: Sở - Ngô - Việt thế gia Dịch giả: Tích Dã Sử ký - Sở thế gia (Hán - Tư Mã Thiên soạn, Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải, Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa) Tổ tiên của vua nước Sở xuất từ vua Chuyên Húc hiệu là Cao Dương. Cao Dương là cháu của Hoàng Đế, con của Xương Ý. Cao Dương sinh ra Xứng. Chính nghĩa: Đọc là 'xích chứng' phiên. Xứng sinh ra Quyển Chương. Quyển Chương sinh ra Trùng Lê. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thế bản chép Lão Đồng sinh ra Trùng Lê và Ngô Hồi." Tiếu Chu nói: "Lão Đồng là Quyển Chương." Sách ẩn: Quyển Chương tên là Lão Đồng, cho nên Hệ bản chép Lão Đồng sinh ra Trùng Lê." Hai họ nhà Trùng-Lê thay nhau coi việc về trời-đất, Trùng làm Mộc chính, Lê làm Hỏa chính. Xét: Tả thị truyện chép con của vua Thiếu Hạo tên là Trùng, con của vua Chuyên Húc là Lê. Nay lấy Trùng Lê là một người, lại là con cháu của vua Chuyên Húc. Họ Lưu nói: "Dòng dõi của vua Thiếu Hạo là Trùng, dòng dõi của vua Chuyên Húc là Trùng Lê. Đối với Trùng này thì gọi riêng là Lê, như tự nói nhà kia thì xưng là Trùng Lê. Cho nên nói vua nước Sở và họ Tư Mã đều là dòng dõi của Trùng Lê, không liên quan đến dòng dõi của vua Thiếu Hạo tên là Trùng." Kẻ hèn này cho rằng lời giải ấy là phải. Trùng Lê làm quan Hỏa chính của vua Khốc hiệu Cao Tân, Sách ẩn: Trùng Lê này làm Hỏa chính, dòng dõi của vua Thiếu Hạo là Trùng kia làm Mộc chính, biết rằng Trùng Lê này là dòng dõi của vua Chuyên Húc là Lê vậy. rất có công, nổi rõ ở thiên hạ, vua Khốc ban cho hiệu là Chúc Dung. Tập giải: Ngu Phiên nói: "'Chúc' là lớn, 'dung' là sáng." Vi Chiêu nói: "'Chúc' là bắt đầu.". Vua nước Cung Công làm loạn, vua Khốc sai Trùng Lê đánh diệt đi nhưng không dứt, vua Khốc vào ngày canh dần bèn giết Trùng Lê, lại lấy em của Trùng Lê là Ngô Hồi làm dòng dõi của Trùng Lê, cho làm lại quan Hỏa chính, vẫn hiệu là Chúc Dung. Ngô Hồi sinh ra Lục Chung. Lục Chung sinh ra sáu người con, đều mổ rạch mà sinh ra. Tập giải: Can Bảo nói: "Nhiều học sĩ nhà Nho thời xưa nghi ngờ việc này. Tiếu Doãn Nam tài cao học rộng, tinh thông môn lí số, soạn sách Cổ sử khảo, cho rằng là người soạn sách chép bậy, bèn bỏ đi mà không bàn đến. Ta cũng cho là cách sinh ra ấy là lạ. Nhưng xét thế phả của sáu người con ấy thì con cháu của họ có nước, lên xuống sáu đời trong khoảng mấy ngàn năm, làm đến nghiệp bá vương, trời giúp cho họ nổi lên, tất phải có vật lạ chăng? Như những sách cũ chép lại có chuyện Tu Kỉ rạch lưng mà sinh ra vua Vũ, Giản Địch mổ bụng mà sinh ra Khiết, thế đại lâu dài, chẳng đáng làm chứng. Nhưng gần đây vào năm Hoàng Sơ thứ năm thời nhà Ngụy có người vợ họ Vương của người quận Nhữ Nam là Khuất Ung sinh con trai, nước từ bụng dưới nách phải tràn ra, thế mà yên ổn như không có gì, mấy tháng sau thì vết thương tự lành, mẹ con không bị gì, đấy là việc đáng tin gần đây vậy. Lấy việc đời này để suy việc đời xưa, cho nên biết những ghi chép ấy làn không bậy vậy. Trời đất xoay vần, âm dương biến hóa, há lại chỉ có một mối, đại khái là lẽ thường chăng? Kinh Thi chép 'không mổ không rạch, không tai không hại' là ý của nhà thơ thời xưa nói đàn bàn thời xưa từng có chuyển mổ rạch mà sinh con vậy. Lại có chuyện vì sinh con mà bị tai hại, cho nên khen chuyện ấy (không mổ không rạch) là không có hại." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Lục Chung lấy em gái vua nước Quỷ Phương tên là Nữ Khoái." Con cả trong đó là Côn Ngô; Tập giải: Ngu Phiên nói: "Côn Ngô tên là Phàn, mang họ Kỉ, được phong ở ấp Côn Ngô." Thế bản chép: "Côn Ngô thuộc nước Vệ." Sách ẩn: Con cả là Côn Ngô. Hệ bản chép: "Một trong đó tên là Phàn, được phong ở ấp Côn Ngô." Lại chép: "Côn Ngô thuộc nước Vệ." Tống Trung nói: "Côn Ngô là tên ấp, vua nước ấy họ Kỉ." Tả truyện chép: "Vua nước Vệ nằm mơ thấy có người xõa tóc lên đài Côn Ngô." Xét: Trong thành Bộc Dương ngày nay có đài Côn Ngô. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Bộc Dương là nước Côn Ngô thời xưa. Thành cũ Côn Ngô tại phía tây huyện ba chục dặm, có đài tại phía tây huyện một trăm bước, là làng Côn Ngô vậy." thứ hai là Tham Hồ; Tập giải: Thế bản chép: "Tham Hồ thuộc nước Hàn." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ hai là Huệ Liên, được phong ở ấp Tham Hồ. Tham Hồ thuộc nước Hàn." Tống Trung nói: "Tham Hồ là tên nước, vua nước ấy họ Châm, không có dòng dõi." thứ ba là Bành Tổ; Tập giải: Ngu Phiên nói: "Tên là Tiễn, mang họ Bành, được phong ở ấp Đại Bành." Thế bản chép: "Bành Tổ là huyện Bành Thành." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ ba là Tiên Khanh, được phong ở ấp Bành Tổ. ẤpBành Tổ là huyện Bành Thành." Ngu Phiên nói: "Tên là Tiễn, mang họ Bành, được phong ở ấp Đại Bành." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Bành Thành là nước Bành Tổ xưa. Ngoại truyện chép cuối thời nhà Ân diệt nước Bành Tổ. Ngu Phiên nói tên là Tiễn. Thần tiên truyện chép người ấp Bành Tổ là Tiên Khanh, là cháu đời sau của vua Chuyên Húc, sống đến năm cuối thời nhà Ân đã bảy trăm sáu mươi bảy tuổi mà không già yếu, rút cuộc đến phía tây miền Lưu Sa cũng không chết đi vậy." thứ tư là Cối Nhân; Tập giải: Thế bản chép: "Cối Nhân thuộc nước Trịnh." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ tư là Cầu Ngôn, được phong ở ấp Cối Nhân. Cối Nhân thuộc nước Trịnh." Tống Trung nói: "Tên là Cầu Ngôn, vua nước Cối mang họ Vân." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành nước Cối xưa tại phía đông bắc huyện Tân Trịnh châu Trịnh hai mươi hai dặm. Mao thi phả chép là đất của vua Cao Tân ngày xưa, là ấp phong của Chúc Dung, trải từ thời nhà Đường đến thời nhà Chu là đất phong của dòng dõi Trùng Lê có vua họ Vân, đấy là vua nước Cối, bị Võ Công nước Trịnh đánh diệt." thứ năm là Tào Tính; Tập giải: Thế bản chép: "Tào Tính thuộc nước Trịnh." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ năm tên là An, được phong ở ấp Tào Tính. Tào Tính thuộc nước Trịnh." Tống Trung nói: "Tên là An, ấp Tào Tính mà nơi gốc của các họ Tào." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Nước Chu xưa tại phía đông nam huyện Hoàng Cương châu Hoàng một trăm hai mươi mốt dặm, sách sử xưa chép vua nước Chu họ Tào vậy." thứ sáu là Quý Liên, mang họ Mị, vua nước Sở là dòng dõi họ Mị ấy vậy. Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ sáu là Quý Liên, được phong ở ấp Mị Tính. Quý Liên là tổ tiên của vua nước Sở." Tống Trung nói: "Tên là Quý Liên, tổ tiên của vua nước Sở mang họ Mị." Mị, đọc là 'mi thị' phiên. 'Mị', là tiếng dê kêu. Vua nước Côn Ngô vào thời nhà Hạ thường làm hầu bá, vào thời vua Kiệt bị vua Thang đánh diệt. Vua nước Bành Tổ và thời nhà Â thường làm hầu bá, cuối thời nhà Ân diệt vua nước Bành Tổ. Quý Liên sinh ra Phụ Tự. Tập giải: Tôn Kiểm nói: "Còn chép là Tổ." Sách ẩn: Tự, đọc là 'tài tự' phiên. Phụ Tự sinh ra Huyệt Hùng, dòng dõi đời sau suy yếu, có kẻ ở Trung Quốc, có kẻ ở Man-Di, không chép được thế đại. Vào thời Văn Vương nhà Chu có dòng dõi của Quý Liên tên là Dục Hùng. Con của Dục Hùng giúp Văn Vương, chết sớm, có con là Hùng Li. Hùng Li sinh ra Hùng Cuồng. Hùng Cuồng sinh ra Hùng Dịch. Vào thời Thành Vương nhà Chu tiến cử dòng dõi của người có lao công giúp Văn Vương-Võ Vương, do đó phong Hùng Dịch ở miền Sở Man, ban cho ruộng thuộc bậc tước tử-nam, mang họ Mị, đóng giữ ở thành Đan Dương. Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại huyện Chi Giang quận Nam." Chính nghĩa: Truyện lệ của Dĩnh Dung chép: "Vua nước Sở đóng đô ở thành Đan Dương, là thành cũ huyện Chi Giang ngày nay vậy." Quát địa chí chép: "Thành cũ Quy ở phía đông nam huyện Ba Đông châu Quy bốn dặm là nước cũ của vua nước Sở là Hùng Dịch. Lại có mộ của Hùng Dịch ở huyện Tỉ Quy châu Quy. Dư địa chí chép phía đông huyện Tỉ Quy có thành Đan Dương, chu vi tám dặm, là chỗ Hùng Dịch được phong." Vua nước Sở là Hùng Dịch với vua nước Lỗ là Bá Cầm, con của Khang Thúc nước Vệ là Mâu, vua nước Tấn là Tiếp, con của Thái Công nước Tề là Lữ Cấp cùng giúp Thành Vương. ... [www.sidneyluo.net]
  23. Qua các cổ vật ngọc khí, chúng ta thấy biểu tượng rìu Việt phổ biến cho cả Bắc và Nam Dương Tử. Trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc cũng có viết về vùng Hà Nam, Hà Bắc, Trung Hoa nói tiếng Việt (không nhớ rõ chương nào). Cho tới thời Hạ, Thương, Chu thì biểu tượng này còn nổi trội hơn nữa qua những chiếc búa, rìu đồng có kích cỡ lớn. Chiếc bình có hình con cò, cá và chiếc rìu. Chiếc bình có từ Văn hóa Ngưỡng Thiều thời kì đồ đá mới được phát hiện vào năm 1978 ở tỉnh Hà Nam. Vật báu này phản ánh lối sống săn bắt của con người giai đoạn bấy giờ. Đồng thời, đây cũng là chiếc bình hiếm, quý giá về vẽ hình trên đồ gốm từ giai đoạn văn hóa Ngưỡng Thiều. Chiếc bình có hình con cò, cá và chiếc rìu. Chiếc bình có từ Văn hóa Ngưỡng Thiều thời kì đồ đá mới được phát hiện vào năm 1978 ở tỉnh Hà Nam. Vật báu này phản ánh lối sống săn bắt của con người giai đoạn bấy giờ. Đồng thời, đây cũng là chiếc bình hiếm, quý giá về vẽ hình trên đồ gốm từ giai đoạn văn hóa Ngưỡng Thiều. Dưới đây là một chiếc rìu thời Thương Đối với Văn Lang, tất nhiên rìu Việt là cực kỳ phổ biến và được dùng trong các buổi tế trâu bò tới đất trời, tổ tông. Hình ảnh của chúng còn được khắc họa trên thân trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ... ở trên tay của một phù thủy nhưng không thể hiện một cách to lớn, oai nghiêm như các loại búa, rìu thời Thương, Chu mà lại rất gần gũi và giản đơn, thường được gọi là rìu hài - biểu tượng trang phục quan triều thời Hùng Vương, lưu giữ qua trang phục của các pháp sư, phù thủy. Búa, rìu Việt sau cũng trở thành một trong các nghi trượng nơi thờ tự, gọi là Lỗ bộ. Trước đình, đền, chùa... chúng ta thường thấy hai tướng quân tạc vào hai bên cổng Tam quan thường cầm phủ Việt và đại đao. Trong thời kỳ đồ đồng, biểu tượng ghi nhận cho tới thời Hạ (truyền thuyết vua Hạ Vũ cho đúc 9 chiếc đỉnh đồng tượng trưng cho 9 châu thời nhà Hạ - biểu tượng cho thần quyền kết hợp), Thương, Chu chính là những chiếc đỉnh đồng dùng trong tế lễ. Thời Thương chúng được chế tác vô cùng công phu, to lớn, oai nghiêm với hoa văn long - hổ là chủ yếu, trong khi đó những chiếc chuông đồng lại không được như vậy. Cho tới thời Chu thì sự hoàng tráng của những chiếc đỉnh đồng lại giảm đi, mà cùng với chúng thì những chiếc chuông đồng lại được thăng hoa về mọi mặt như hoa văn, kích cỡ, số lượng và chủng loại. Đại Đỉnh có từ cuối thời nhà Thương (1400-1100 BC). Tư Mẫu Hậu đỉnh được một người nông dân ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc phát hiện vào tháng 3/1939. Đỉnh nặng 832.84 kg. Nó là chiếc đỉnh nặng nhất trong các nồi đồng được khai quật. Đỉnh được đúc cho vua Zugeng để cúng mẹ vua. Tư mẫu mậu đỉnh là minh chứng cho trình độ cao về kỹ thuật đúc đồng ở thời nhà Thương. Đối với Bắc Dương Tử thì đỉnh đồng chính là biểu tượng cho thần quyền, tất nhiên đi kèm còn những biểu tượng khác nữa cấu trúc thành một hệ thống. Còn đối với Nam Dương Từ thì sao? Ngoài những chiếc rìu Việt thì đó là biểu tượng nào liên quan đến thần quyền? Đó chính là những chiếc thố đồng Đông Sơn. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thố đồng chính là chiếc đèn treo hay là đồ đựng vật dụng, tuy nhiên chúng ta cần nhận thấy rằng, thố đồng được chôn theo như một vật tế khí, có kích cỡ chung nhất, hoa văn đơn giản, có móc treo trên cao đối với những ngôi nhà vùng đất thấp, hải đảo hoặc trên "thuyền nhà". Vai trò của chiếc thố đồng Đông Sơn chính là vai trò tổng hợp của chiếc "lư hương" và chiếc "đỉnh xông trầm" ngày nay, dùng chung cho việc thờ tự cắm hương, xông trầm. Trình độ kim khí ở thời đại văn hóa Đông Sơn cũng còn thể hiện qua bộ sưu tập sinh hoạt thường ngày phong phú về loại hình, kiểu dáng. Cần chú ý tới chiếc Âu - Âu vàng hay kim Âu trong thơ ca Việt. Cổ vật Đông Sơn cũng cần chú ý tới chậu đồng dùng trong các cuộc lễ tế nữa. Đồ minh khí (chôn cất cùng người chết) trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn rất phát triển. Trong ảnh là những chiếc thố đồng được xếp vào đồ minh khí. Vai trò của chiếc thố đồng Đông Sơn hầu như không được biết bởi các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cho tới tận ngày nay. Giữa thố đồng và đỉnh đồng có một mối quan hệ vô cùng mật thiết, thố đồng - biểu tượng cho Nam Dương Tử và đỉnh đồng - biểu tượng cho Bắc Dương Tử, chỉ khi liên hợp hai biểu tượng này mới hoàn thành lịch sử, giống như trong Đạo giáo Văn Lang, sự liên hợp của "lư đỉnh" trong tu luyện mới dẫn đến thành công - đắc đạo thành tiên. Thời Tây và Đông Chu thì những chiếc chuông đồng được tôn vinh! Vậy còn Văn Lang thì sao? Đó chính là những chiếc trống đồng Đông Sơn. Chuông khổng lồ thời Tây Chu, bảo tàng tỉnh Hồ Nam - một bộ của Văn Lang sau đó thuộc về triều đại Ân Thương trong trận chiến với Hùng Vương Thứ VI, Ngài không tổ chức lấy lại các vùng đất bị mất là có lý do của nó (còn gọi là Bạt Hổ - 4 phương Tứ tượng với 8 hổ Bát Quái) Trống đồng Làng Vạc, Nghệ An. Họa tiết hoa văn trên chiếc chuông được làm bằng đồng phát hiện tại Mộc Sơn, Thanh Hóa. Sự ứng đối giữa chuông đồng và trống đồng cũng tương tự như đỉnh đồng và thố đồng, vậy thì chúng ta đã có 4 biểu tượng đầy đủ của 4 phương, sự hợp nhất của Bắc và Nam Dương Tử tức Lưỡng Nghi: - Bắc và Nam Dương Tử liên hợp: rìu Việt (Yue) - Đế Thừa Sở Minh Công (cha của Đế Minh, Đế Nghi) trở về trước. Nó sẽ được phân tích trong mối quan hệ với các bộ tế khí nơi thờ tự. - Nam Dương Tử (bao hàm cả Đông Nam Á và Tây Tạng): trống đồng (đông) và thố đồng (bắc) - tính từ Đế Minh và Kinh Dương Vương trở về sau. - Bắc Dương Tử: chuông đồng (tây) và đỉnh đồng (nam) - tính từ Đế Nghi và Hoàng Đế - Đế Lai (cha của mẫu Âu Cơ - Quán Âm Bồ Tát) trở về sau. "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, Táo bạo, táo bạo hơn nữa". Bồ Tát Võ Nguyên Giáp.
  24. Chúng ta tham khảo một số cổ vật bằng đá ngọc được phân bố khắp Văn Lang và Trung Hoa: Đĩa bích có ở vùng Tây Tạng, còn Tứ Xuyên có cả ống tông, đĩa bích, rìu Việt, nha chương và chúng cũng được diễn họa trên đồ đồng thông qua các tư thế của các pháp sư, phù thủy. Một ngôi mộ ở tỉnh An Huy, Trung Hoa Trong hệ thống biểu tượng được quy ước hết sức chặt chẽ, thì rìu Việt là cực kỳ quan trọng và nó được lấy làm "công cụ" khai phá vũ trụ và lãnh thổ (rìu Việt là bản đồ nước Văn Lang cổ) qua câu truyện Ông Bàn Cổ khai thiên lập địa và sau đó là Bà Nữ Oa đội đá vá trời. Cùng với hai câu truyện trên, thì hình tượng Bà Nữ Oa và Phục Hy cũng thường được khắc họa trên đá hoặc đồ gốm thời trước Công Nguyên với hình người mình rắn, như vậy đã có sự mâu thuẫn hay tích hợp giữa Ông Bàn Cổ và Phục Hy. Hình vẽ Nữ Oa và Phục Hy đầu người mình rắn đào được ở Tân Cương. trong đó Nữ Oa cầm com-pa ("quy" 規), Phục Hy cầm ê-ke Chiếu theo thần phả, gia phả và huyền thoại Việt, Ông Bàn Cổ không phải là vua Phục Hy và là người tối cổ nhất, được lấy làm biểu tượng cho sự khai thiên lập địa và đó chính là Đế Hòa - cha của vua Phục Hy. Từ đó, bức tranh Phục Hy - Nữ Oa không chính xác mà đó phải là bức tranh Bàn Cổ - Nữ Oa, hai người này biểu tượng cho Lưỡng Nghi - Âm Dương, từ đó cũng có một sự liên hệt chặt chẽ khác nối tiếp: Tổ Tông Hồng Bàng trước hai vị này biểu tượng cho Thái Cực. Rìu Việt Như vậy, với sự phân bố rìu Việt và ý nghĩa biểu tượng Việt, cùng với kết quả thí nghiệm phóng xạ các bon cho các ngôi mộ có đồ ngọc khí đã chứng tỏ chúng có từ thời Đế Minh - trước khi chia đôi nước Bắc Dương Tử cho Đế Nghi và Nam Dương Tử cho Kinh Dương Vương (nhận định này cần kiểm tra lại một lần nữa). Dưới đây là một chiếc rìu ngọc Chiết Giang có chữ được phiên dịch có tên "Hoàng Đế" (Yellow Emperor): Ngoài ra, trong cổ mộ còn phát hiện những chiếc con lắc ngọc dùng để tìm nguồn nước và cảm ứng tiên tri cho những sự kiện cần hỏi, và cho tới nay chúng ta vẫn đang dùng nó. Liangzhu Jade Awl-shaped Object Từ các nhận định này, chúng ta lại một lần nữa đối chiếu với vai trò của Nguyên Thủy Thiên Tôn - một vị thần có chức cao hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế!. Những sự kiện mà chúng ta đang phân tích là hết sức chặt chẽ khi so sánh với lịch sử Hùng Vương của nước Văn Lang và tổ tông của Trung Hoa.
  25. Sự tiến hóa về mặt tri thức liên quan đến công cụ lao động và các sản vật ứng dụng từ tự nhiên là mang tính quy luật, trong thời đại Đá Mới và Đá Cũ thì chiếc rìu đá là công cụ sử dụng phổ biến nhất, sau này nó được lấy làm biểu tượng cho dân tộc Việt và chính nó có cái tên là "VIỆT" - "YUE", Chữ Yue Việt này cũng chính là nói về thời vua Đại Vũ nhà Hạ của Trung Hoa, Đại Vũ là người Việt vùng Giang Tô (Thuộc Trung Hoa) bởi Giang Tô và Chiết Giang cùng thuộc tộc Việt (vùng biển đảo, vùng thấp tức Lạc Việt) rõ rệt thời Đông Chu Liệt Quốc, mà Việt Vương Câu Tiễn nắm lấy địa bàn này để mà từ đó tranh bá đồ vương vùng Trung Nguyên. Theo Sử Ký, Việt Vương Câu Tiễn là con cháu vua Đại Vũ. Chúng ta cũng nhận biết được sự tiến hóa của người nguyên thủy xảy ra trên toàn cầu, do vậy ý nghĩa này cũng phải ăn khớp với tiến trình phát triển trước đó của các loài động thực vật nữa, điều này dẫn đến phải có sự đối chiếu với các thời kỳ trước đó như thời kỳ của các loài khủng long hóa thạch, rõ ràng vùng Đông Nam Á và Nam Bắc Dương Tử cũng xuất hiện loài khủng long hóa thạch hay các động vật cùng thời kỳ này. Hóa thạch khủng long tại tỉnh Vân Nam (một bộ của nước Văn Lang) Ngắm hóa thạch khủng long Đông Dương lưu giữ ở Việt Nam Những mẫu hóa thạch khủng long đang được lưu giữ tại Việt Nam thuộc về một loài khủng long ăn cỏ có kích thước khổng lồ. Chuyện về mẫu hóa thạch hiếm hoi của một loài khủng long đang được bảo quản ở Việt Nam là điều ít người biết đến. Năm 1936, trong khi nghiên cứu bản đồ địa vùng Hạ Lào, nhà địa chất học người Pháp Josúe Heilman Hoffet đã phát hiện ra nhiều mẫu xương hóa thạch trong khu vực Bản Tangvai, thuộc tỉnh Savanakhet, cách biên giới Việt Nam khoảng 200km. Những mẫu vật được khai quật bao gồm một xương đùi lớn và nhiều đốt xương sống của một loài sinh vật khổng lồ mà người dân bản địa chưa bao giờ bắt gặp. Các mẫu vật đã được chuyển về bảo tàng địa chất ở Hà Nội, thủ phủ của Đông Dương và được lưu trữ tại bảo tàng từ thời đó cho đến nay. Hiện nay, các mẫu hóa thạch trên đang được bảo quản tại tầng 3 của Bảo tàng Địa chất, nơi trưng bày một bộ sưu tập chuyên đề cổ sinh vật. Trong ba mẫu hóa thạch, có một mẫu xương đùi dài khoảng 60cm và hai mẫu xương khác nhỏ hơn. Các chuyên gia cổ sinh học quốc tế đã xác định các mẫu hóa thạch thuộc về một loài khủng long có tên khoa học là Titanosaurus falloti. Vào cuối thập kỷ 1990, tên của loài khủng long đã đươc đặt lại là Tangvaysaurus, nghĩa là thằn lằn bản Tangvay. Loài khủng long Titanosaurus falloti hay Tangvaysaurus thuộc về một chi khủng long có tên gọi Titanosaurus, còn gọi là thằn lằn hộ pháp, sống ở cuối kỷ Phấn Trắng cách đây từ 83-65 triệu năm. Các loài khủng long thuộc chi này có hình thái giải phẫu khá giống nhau, đều là các loài ăn thực vật khổng lồ, có cổ dài, khi trưởng thành có thể dài từ 9 đến 12m. Cho đến nay, Lào là quốc gia duy nhất trên thế giới phát hiện ra hóa thạch của loài khủng long Titanosaurus falloti. Theo Phó giáo sư - tiến sỹ Tạ Hòa Phương, Chủ tịch Hội Cổ sinh - địa tầng Việt Nam, điều kiện địa chất ở Việt Nam trong đại Trung sinh hoàn toàn có điều kiện để khủng long sinh sống. Việc tìm ra hóa thạch của khủng long ở Việt Nam là hoàn toàn có khả năng. Một số hình ảnh phục dựng về khủng long Titanosaurus: Hồng Quân Kể từ biểu tượng rìu Việt cho tới thời gian sau đó, hàng loạt các biểu tượng khác được ra đời nhằm mục đích tế tự và mô phỏng những nguyên lý của vũ trụ, nhân sinh. Đặc biệt, chúng ta thấy vua Thần Nông và chính thất của Ngài được hình tượng hóa thành ông tổ ngành nông nghiệp và bà tổ ngành chăn nuôi động vật thuần hóa, mà để duy trì cuộc sống vật chất này phải nhận biết được thiên văn, địa lý tức quy luật vận động của mặt trời (bốn mùa), mặt trăng (thủy triều, cày cấy, sinh đẻ, săn bắn...) mà từ đó nắm rõ Âm Lịch. Trong các cổ vật đồ ngọc khí tại vùng Chiết Giang và các vùng khác trên toàn thể Văn Lang và Trung Hoa nhưng giảm đi ở vùng Đông Nam Á, các biểu tượng đặc trưng và phổ biến nhất: - Rìu Việt. - Ống tông có hoa văn đặc trưng (Bắc Việt Nam và Đông Nam Á không thấy) và đĩa bích. - Nha chương. Hiện vật trong mộ ở Phú Thọ: 2 chiếc nha chương, 4 vòng tay đá, 1 chuôi rìu đá. Dịch giải: Rìu đá biểu tượng cho sự phân chia Âm Dương hay Thái Cực, 4 vòng tay Tứ Tượng và 2 nha chương biểu tượng cho Âm Dương. Nha chương là hiện vật quý và đẹp. Từ trước tới nay mới tìm được vài chiếc. Những ngày cuối cùng của năm 2006, giới khảo cổ lại vui mừng khi tìm thêm được 2 chiếc nữa được chôn ngay trong một ngôi mộ táng ở địa điểm khảo cổ nổi tiếng trên đất Phú Thọ. Ngày 24/12/2006, nhân dân xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh, Phú Thọ đã tìm được một số mảnh vòng trang sức bằng đá ở địa điểm khảo cổ học Xóm Rền dưới độ sâu khoảng 40cm trong khi đào đất. Nhờ ý thức bảo vệ di tích cao, người dân đã báo cho Bảo tàng Phú Thọ đến tiến hành khai quật. Một ngôi mộ táng được phát lộ đã làm cho các nhà khảo cổ hết sức vui mừng vì đồ tùy táng không những tương đối nguyên vẹn mà còn rất quý hiếm. Căn cứ vào vị trí của các hiện vật, chúng ta có thể hình dung được cách chôn cất chủ nhân ngôi mộ này. Vị trí đầu mộ tìm thấy khoảng 50 hạt chuỗi đá hình trụ và hơn 10 mảnh vỡ của một loại vòng đá đeo cổ. Vị trí mỗi bên cổ tay, người chết được đeo 2 chiếc vòng tay đá có mặt cắt ngang hình chữ T đường kính lớn đến 12,1cm. Đặc biệt, dọc theo thân người mỗi bên được đặt 1 chiếc nha chương bằng đá ngọc nêphơrit. Cả 2 chiếc đều còn nguyên vẹn. Chiếc thứ nhất có hình dáng là một thanh đá dài và dẹt, đá màu trắng vân xám. Phần chuôi hình chữ nhật, có lỗ ở giữa chuôi. Phần lưỡi có 2 ngạnh nhọn như hình đuôi cá và được mài vát một bên. Giữa chuôi và lưỡi có những mấu nhô ra được mài giũa khá tinh tế. Chiều dài của chiếc nha chương này đạt kỷ lục trong số các nha chương tìm được ở nước ta: dài 63cm, chỗ rộng nhất 11cm. Chiếc này được chôn ở phía sườn phải người chết, phần chuôi được đặt hướng về phía đầu và phần lưỡi được đặt hướng về phía chân. Kỹ thuật chế tạo chiếc nha chương này khá tinh xảo. Toàn thân được mài nhẵn bóng dường như không có một vết ghè đẽo. Thời bấy giờ chưa có dụng cụ kim loại, người xưa đã dùng những lưỡi cưa đá, khoan đá và sự kiên nhẫn đã tạo ra một sản phẩm tuyệt hảo đến vậy. Hai bên nha chương phẳng lỳ, nổi lên những đường vân đá ngọc. Có lẽ những thợ làm đồ đá mỹ nghệ ngày nay cũng chỉ làm được đến thế. Chiếc thứ hai có dáng hình gần giống chiếc thứ nhất nhưng nhỏ hơn, thân thẳng, rìa lưỡi cong tròn hơn là hình đuôi cá. Hiện vật có màu trắng, vân màu hồng. Chiều dài 32,4cm, chiều rộng 7,7cm. Toàn thân cũng được mài bóng và không có vết ghè đẽo. Chiếc này được chôn phía bên sườn trái người chết. Người xưa đặt chiếc nha chương này ngược hướng với chiếc thứ nhất: chuôi hiện vật hướng về phía chân. Việc định niên đại của nha chương cũng như ý nghĩa khoa học của nó đem lại nhiều vấn đề mới và lý thú. Đây là một ngôi mộ thuộc văn hóa Phùng Nguyên, cách đây khoảng từ 3.700 đến 3.400 năm. Địa điểm khảo cổ này đã nổi danh từ lâu mang tên là Xóm Rền, nằm gần sông Lô, thuộc địa phận huyện Phù Ninh và cách khu vực Đền Hùng không xa. Các nhà khảo cổ đã từng khai quật đến lần thứ sáu và thu được khá nhiều đồ đá, đồ gốm. Tại đây đã phát hiện 1 chiếc nha chương vào năm 1981 và 1 chiếc vào năm 2004 nhưng 2 chiếc này không đẹp và không lớn như 2 chiếc mới được phát hiện. Ngoài Xóm Rền là nơi có nhiều nha chương nhất, ở tại địa điểm Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao) cũng đã tìm được 2 chiếc nha chương vào năm 1985. Hiện vật quý và hiếm, mới tìm thấy trên địa bàn vùng Đất Tổ Phú Thọ, đã cho thấy đây quả là quê hương tập trung nhiều hiện vật điển hình và đặc sắc của nền văn hóa Phùng Nguyên. Mà, như các nhà khảo cổ giải mã thì chính văn hóa Phùng Nguyên là nền văn hóa khởi nguồn của người Việt cổ cách đây gần 4.000 năm. Nha chương: vũ khí hay một dạng quyền trượng? Nha chương là cái gì? Điều đó cho đến nay các nhà khảo cổ trong và ngoài nước vẫn còn tranh luận... Sự quý giá từ chất liệu đá ngọc, kỹ thuật chế tác đá đỉnh cao thì ai cũng thấy được nhưng với “vóc dáng” mỏng mảnh chỉ khoảng 0,5 - 0,8cm, thì làm công cụ và vũ khí sao được. Mặc dù có lưỡi mài vát một bên, nhưng do hình dáng mỏng dẹt mà chỉ đánh rơi cũng vỡ, bổ vào người hoặc thú săn thì nha chương gãy vỡ là không thể tránh khỏi. Không chỉ Việt Nam phát hiện loại hiện vật này mà Trung Quốc cũng có ở tỉnh Hà Nam, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Phúc Kiến, Hồng Công và cũng ít khi tìm được trong mộ táng. Theo Giáo sư Hà Văn Tấn, các học giả Trung Quốc có nhiều cách gọi loại hiện vật này. Có khi gọi là loại ngọc “Diễm Khuê”, có lỗ ở gần đốc, có 2 tia nhọn ở lưỡi là hình tượng của sát thương, chinh phạt. Mỗi khi chư hầu không tuân lệnh thì vua sai quan đại phu cầm đến để dụ cáo. Một số gọi đây là vật hình dao có lưỡi một đầu. Nhiều người gọi là nha chương (theo sách Chu Lễ thì nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn thú). Ngay bản thân chữ “Nha” tiếng Hán có nghĩa là răng nhọn đã bao hàm ý nghĩa công kích, uy hiếp. Tác dụng của nha chương như một thứ hổ phù hay một dạng “thượng phương bảo kiếm” đầy uy lực trong quân đội. Một số ý kiến lại cho rằng, đây là một vật nghi lễ chứ không liên quan đến quân đội. Nhưng tựu trung, các nhà khoa học đều cho rằng ở đâu xuất hiện nha chương thì ở đấy xuất hiện quyền lực thủ lĩnh. Nếu quan sát hiện vật cụ thể, chúng ta có thể loại bỏ chức năng thực dụng của nha chương chỉ còn chức năng nghi lễ. Tuy nhiên, đây cũng không hẳn là một loại hiện vật như thẻ bài, ấn tín sau này mà có lẽ cũng có chức năng tượng trưng cho một loại vũ khí, ít ra là buổi ban đầu, đó là những chiếc “qua”. Cũng cần giải thích thêm rằng, qua là một loại vũ khí phổ biến ở Trung Quốc giống như câu liêm được lắp cán dài dùng để bổ và chém, có lưỡi sắc và nhọn thường thấy ở trong nhiều bộ phim dã sử Trung Hoa. Những chiếc qua đá cũng tìm được trong văn hóa Phùng Nguyên. Nha chương có một số nét của qua thể hiện ở chỗ: có lỗ để xâu dây buộc cán, có phần gờ hai bên để buộc dây vào cán, nhiều chiếc cũng có phần lưỡi cong lệch về một bên. Vì thế, những chiếc nha chương có thể được coi là một loại “qua” nghi lễ, được lắp thêm cán và dần dà biến thành một thứ vũ khí tượng trưng cho quyền uy như một dạng quyền trường. Sản phẩm của sự giao lưu văn hóa Tương đương với niên đại của văn hóa Phùng Nguyên ở ta là đời nhà Thương bên Trung Quốc. Cả hai nước đều phát hiện ra loại hình nha chương tương đối giống nhau và khá sớm cách đây gần 4.000 năm. Nhiều người cho rằng, nha chương là hiện vật của văn hóa Trung Quốc vì tìm thấy số lượng nhiều hơn, mặc dù cũng ít khi tìm được trong mộ táng. Nếu như vậy thì những chiếc nha chương có mặt ở ta là do giao lưu văn hóa. Đó cũng là hiện tượng bình thường trong thời cổ đại, nếu như chúng ta biết rằng, ngay cả trong một ngôi mộ cổ ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc cách Việt Nam hàng ngàn cây số về phía bắc cũng có chôn theo một chiếc trống đồng minh khí đích thị của người Việt cổ. Khi mới tìm thấy, các nhà khảo cổ Trung Quốc cũng phải thừa nhận trống đồng minh khí không phải là sản phẩm của vùng này. Điều đó chứng tỏ không chỉ ngày nay mà con đường giao lưu kinh tế, văn hóa của Việt Nam đã sớm rộng mở và cũng vươn xa từ 4.000 năm về trước. Sự giao lưu hai chiều này đều có đi có lại. Mà không chỉ giữa ta và Trung Quốc mà còn với nhiều nước khác ở Đông Á và Đông Nam Á nữa. Tuy nhiên, những chiếc nha chương Xóm Rền vừa phát hiện được vẫn có khả năng sản xuất ở nước ta. Chất liệu làm 2 chiếc nha chương này hoàn toàn cùng loại đá ngọc màu trắng của 4 chiếc vòng tay, hạt chuỗi vòng đeo cổ điển hình của văn hóa Phùng Nguyên. Người Việt cổ vào thời điểm này cũng có trình độ chế tác đá tuyệt đỉnh thừa sức chế tạo nha chương và họ cũng có nhiều công xưởng làm đá ngọc mà điển hình là ở địa điểm Tràng Kênh, Hải Phòng. Cũng ghi nhận thêm một điểm là mộ táng mới phát hiện này đã cung cấp một bộ đồ trang sức tuyệt đẹp hiếm có của người xưa: vòng tay, hạt chuỗi, vòng cổ, tất cả đều làm bằng đá quý. Sự có mặt của loại nha chương ở Xóm Rền đã cho thấy xã hội người Việt cổ đã hình thành một số thủ lĩnh có quyền lực chi phối một cộng đồng người, nhen nhúm các tiền đề phân hóa xã hội để hình thành nên nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương trên vùng Đất Tổ. (Theo CAND) Độc đáo hơn nữa, vùng Tây Tạng (một bộ của Văn Lang) cũng xuất hiện những chiếc đĩa bích loại lớn có hoa văn mỹ thuật khác với vùng thấp ở trên, mà người ta cho là sản phẩm của "Người ngoài hành tinh". Để dịch giải nội dung của chúng, rất đơn giản, dùng lịch sử - văn hóa - học thuyết của Văn Lang là "ra tất". Từ nhiều thập niên gần đây, những chiếc đĩa đá cổ Dropa được cho là một trong những minh chứng rõ ràng về sự tồn tại của người ngoài hành tinh. Những hiện vật này được tìm thấy vào thập niên 1940, từ chuyến khảo sát của GS Tề Phúc Thái, một nhà khảo cổ đến từ ĐH Bắc Kinh.