hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Mặc dù vũ trụ vô hạn như vậy, nhưng có những Bậc giác ngộ vẫn thấy được một sự vật hiện tượng dù nó ở vô cùng: dùng "tính Thấy". Nếu chứng minh được rằng, vạn vật trên trái đất trong đó có một loài phức tạp nhất thì, điều này đồng nghĩa với việc ở biên giới vô cùng của vũ trụ có sự vật hiện tượng với cấu trúc đơn giản hơn, thậm chí đơn giản hơn đến vô số lần.
  2. Chúng ta nên có một chú ý rất tế vi, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong đó có đề cập đến Thái cực - trạng thái khởi nguyên của vũ trụ và không mô tả bản chất của nó. Nếu với các trạng thái thực tại được quy ước chung về khái niệm Âm Dương Ngũ Hành thì rõ ràng, Thái cực không thể quy ước được như vậy. Điều này là gì, nếu tách khái niệm Thái cực ra khỏi thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì học thuyết này vẫn đang mô tả thực tại, vậy phải chăng Thái cực là một khái niệm thừa hoặc chưa đầy đủ!. Để xác định mức độ phức tạp của sự vật hiện tượng, tôi trích lại ý nghĩa Tam Thân trong kinh sách Phật giáo. Tam thân (zh. 三身, sa. trikāya) là một thuật ngữ được dùng trong Phật giáo Đại thừa (sa. mahāyāna), chỉ ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân vật đã xuất hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh—chính là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó. Tam thân gồm: Pháp thân (zh. 法身, sa. dharmakāya), là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (sa. dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên Trái Đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (sa. buddha-dharma) như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (sa. dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (sa. tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (sa. śūnyatā), A-lại-da thức (sa. ālayavijñāna), hay xem nó như là Phật, Phật tính (sa. buddhatā), là Như Lai tạng (sa. tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân. Báo thân (zh. 報身, sa. saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân (zh. 受用身), "thân của sự thụ hưởng công đức": chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (sa. dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa (sa. daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ. Ứng thân (zh. 應身, sa. nirmāṇakāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thân có thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt. Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước (sa. asaṅga) trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và về sau được Đại thừa tiếp nhận. Đáng chú ý nhất là quan điểm Pháp thân nhấn mạnh đến thể tính tuyệt đối của một vị Phật và không chú trọng lắm đến Ứng thân của vị Phật lịch sử. Như thế, Phật là thể tính thanh tịnh của toàn vũ trụ, thường hằng, toàn tri. Các vị Phật xuất hiện trên Trái Đất chính là hiện thân của Pháp thân, vì lòng từ bi mà đến với con người, vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Thực ra những giải thích trên chưa tận cùng ý nghĩa: - Pháp thân là "bản thể vũ trụ" cho nên vạn vật đều "như nhau" nhưng tại sao lại diễn giải liên quan đến Phật tính? Bởi bản thể có đặc tính bao trùm mà khi chúng ta đang sống dựa trên nó để giải thoát. - Báo thân: tức sự tồn tại của chúng ta, tức được sinh ra trên cõi đời. - Hóa thân hay Ứng thân: Khi được sinh ra cõi đời, nếu đắc đạo hay không sau khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại, nó vẫn chính là chúng ta mà thôi nhưng có một cơ thể vô hình được gọi là "cơ thể tinh tú", "chúng ta vô hình" này gọi là Hóa thân tức đã biến hóa. Cho nên khi một vị Bồ Tát, Phật (cơ thể vật lý đã qua đời) hiện ra do thần thông thì tất nhiên, đây là Hóa thân. Còn khi đang sống có thần thông dù có biến hóa thế nào thì đây vẫn còn gọi là Báo thân mặc dù, chẳng hạn nếu tách linh hồn ra khỏi cơ thể (cơ thể lúc này lạnh như đồng) thì chính là Hóa thân tại thời điểm đó bởi chúng ta vẫn phải lấy mốc quán chiếu tại một thời điểm là thân xác vật lý (cơ thể vật lý còn tồn tại tức còn nhận thêm mọi thứ khác nữa dù chỉ là một sát na, điều này chỉ ra ta sau này sẽ khác ta trước đó, do vậy vẫn gọi là Báo thân). Ví dụ, chúng ta gặp và nói chuyện với linh hồn của một người đang sống có thần thông trong khi đó thân xác họ cách xa hàng trăm km, thì chúng ta đang nói chuyện với "Hóa thân tại thời điểm đó". Khi một người nào đó sinh ra, nhận được "nhân" từ vị Phật nào đó nhiều nhất để có "quả" - vạn vật trong vũ trụ đều có liên quan đến nhau, chẳng hạn Phật Sống Tây Tạng thì gọi là Ứng Thân, tuy nhiên bản chất họ vẫn không phải là vị Phật đó, họ vẫn chính là họ mà thôi, không khác. Liên quan đến thần thông thì vô vàn công năng, chẳng hạn Hóa thân một vị Phật dùng thần thông "truyền" kiến thức cho một người đang sống, tất nhiên người này phải ở trong một tình trạng tương ứng nào đó để có thể tích hợp được. Ví dụ, những bậc thầy Tây Tạng có thể dùng một pháp môn là đưa một chiếc búa vào đá núi và nó sẽ nằm trong đó, đấy chính là "quá búa thần thánh". Bà Blavaxkaia đã vật chất hóa một chiếc nhẫn kim cương thứ hai (màu nhạt hơn một chút) từ một bản gốc trước đó, sau đó bà đã tặng lại nó cho một người bạn, trong lúc dùng "thần lực" để vật chất hóa chiếc nhẫn kim cương, cơ thể của bà bỗng trở nên lạnh như đồng. Vậy thì, để hiểu được Tam Thân thì phải hiểu sự tồn tại linh hồn, để chứng minh sự tồn tại của linh hồn thì phải kết hợp được Tam Giáo (trong đó Phật giáo làm gốc rễ) và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
  3. Một trong những giới hạn của triết học hay cũng chính là những luận cứ của các "ông tổ triết học Tây phương" là "sự vô cùng vô tận" của vũ trụ, họ hầu như không thể khẳng định được điều này từ một học thuyết nào đó hay từ sự phân tích một cách có hệ thống nào, cho dù đã có vô số "Thánh" được "người" phong từ những công xưởng sản xuất hoặc tự phong với một số "lời nói" nào đó khiến cho con người suy diễn chí chết: đây là loài động vật lưỡng thê hay truyện ngụ ngôn "Cái Lưỡi" của Ê Dốp. Khi mà chúng ta nhận biết được sự vô cùng của vũ trụ thì không có cái gì dưới bất kỳ khái niệm nào "nằm ngoài nó cả", cho nên nhiều "bậc thầy thần học" vẫn còn lẩn thà lẩn thẩn gần 2.000 năm nay với khái niệm "vũ trụ sinh ra do lời phán" hay do "một vị Thượng Đế nào đó" tạo ra. Nhà bác học Albert Einstein Liên quan đến cái mớ lẩn thẩn đó tôi lại chợt nhớ đến một bài hát trong bộ đĩa Da Vàng của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn, trong đó có đoạn: Người nô lệ da vàng, ngủ quên, ngủ quên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ, Ngủ quên không thấy quê hương, ngửa tay xin áo, xin cơm. Bao giờ đập tan "gông cùm, xiềng xích vô hình" trói buộc dân ta, Bao giờ đập tan "gông cùm, xiềng xích vô hình" trói buộc tự do. Chính do sự vô cùng vô tận của vũ trụ mà chúng ta không thể truy bắt được biên giới không gian của nó, đồng thời cũng không thể xác định được mốc thời gian của điểm đầu và cuối của sự bắt đầu Bigbang và sau khi phân rã vũ trụ như hiện nay, đây cũng lại là hai giới hạn thực tại nữa của một Bậc Giác Ngộ. Biểu tượng của Thái Cực (Vô cực) Hệ Từ hạ truyện trong "Chu Dịch" chép: “Ngày xưa họ Bào Hy cai trị thiên hạ, ngẩng lên thì xem hình tượng ở trên trời, cúi xuống thì nhìn các phép tắc ở dưới đất, quan sát văn vẻ của các loài chim muông cùng những thích nghi với trời đất, gần thì lấy ở thân mình xa thì lấy ở sự vật, rồi làm ra Bát quái để thông suốt cái đức thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật.”.
  4. Như đã viết, chúng ta không thể thấy hay tiếp cận dưới mọi hình thức đối với bản thể vũ trụ, Lân Vi Trần. Mặt khác, khi vũ trụ tan rã tại một thời điểm nào đó cũng sẽ trở về trạng thái nguyên thủy, tất cả dữ liệu của một thời kỳ vận động trở về "0", do vậy chúng ta cũng không thể biết hay cả những bậc thầy cũng không thể biết được đã có bao nhiêu chu kỳ này. Đây chính là những giới hạn thực tại của các Bậc giác ngộ, tuy nhiên cũng không ảnh hưởng đến học thuyết và pháp môn giải thoát. Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Khi nhận định về sự sống thứ hai trong vũ trụ, cũng như như tác giả bài viết trên, những nhận định của chúng ta đã bị rơi vào một ma trận "vô cùng" mà chưa thấy lối ra, trong toán học đó là bài toán giới hạn "Lim->", vậy thì phương pháp nào chứng minh có hoặc không có người ngoài hành tinh phù hợp theo các tiêu chí khoa học!. Chu kỳ vận động của vũ trụ tới thời điểm nào đó sẽ bắt đầu giai đoạn tan rã từ từ, điều này hàm nghĩa có điểm tới hạn về sự vận động hoặc có sự tới hạn về sự cô đặc của các hành tinh... nó cùng đồng nghĩa với sự tới hạn của độ phức tạp hình thành nên vạn vật trong vũ trụ (do vạn vật đều liên kết tới nhau - tương tác). Một lỗ đen trong vũ trụ nuốt tất tật cả "cây xanh cổ thụ ở thủ đô", nó phi khái niệm, Hi Như vậy, sự vật hiện tượng nào được phân tích và nhận định như là phức tạp nhất trong vũ trụ để từ đó, động năng của vũ trụ cũng sẽ đạt điểm cực đại. Ngay sau khi đặt điểm tới hạn này, quá trình tương tác sau đó trong giai đoạn phân rã từ từ của vũ trụ có điều kiện để hình thành nên "sự vật hiện tượng phức tạp hơn" cái cực đại trước đó hay không? Sau khi trở về nguyên thủy, vũ trụ vận động trở lại, tiếp tục một chu kỳ mới và tất nhiên cũng phải đạt tới trạng thái tới hạn trên như đã mô tả, vậy "một trái đất mới" là khó xuất hiện? Vậy, điểm theo chốt bước đầu là "cái gì phức tạp nhất" trong vũ trụ này?
  5. Có sự sống ngoài trái đất không? Tôi tin là trong số tỷ tỷ hành tinh đó, có nhiều hành tinh không những có sự sống, mà thậm chí còn có những hình thái sống cao cấp hơn loài người rất nhiều. Hơn nữa, loài người đâu có phải là loại sinh vật thượng đẳng gì cho cam! Một loài người đã và đang tàn sát nhau không thương tiếc! Chúng ta tưởng tượng dải Ngân hà là tinh vân trong đó có hệ Mặt trời và Trái đất. Thiên văn học hiện đại đã phát hiện là trong vũ trụ mênh mông mà thiên văn học quan sát được có tới 100 tỷ tinh vân, tức là 100 nghìn triệu tinh vân. Và mỗi tinh vân có tới 100 tỷ vì sao, trong đó mỗi một vì sao là một mặt trời với khoảng 10 hành tinh xoay chung quanh. Như vậy, thì chỉ riêng trong phần vũ trụ mà thiên văn học hiện đại có thể quan sát được, phải có tới 100.000 tỷ tỷ hành tinh, tức là con số 1023. Ai dám nói, trong số hành tinh đó chỉ có Trái đất chúng ta là có sự sống mà thôi. Một giả định vô lý cực kỳ! Cho nên tôi tin là trong số tỷ tỷ hành tinh đó, có nhiều hành tinh không những có sự sống, mà thậm chí còn có những hình thái sống cao cấp hơn loài người rất nhiều. Hơn nữa, loài người đâu có phải là loại sinh vật thượng đẳng gì cho cam! Một loài người đã và đang tàn sát nhau không thương tiếc! Cách đây 50 năm, nhà Vậl lý học nước Ý là Enrico Fermi, giải thưởng Nobel Vật lý và là bạn của Einstein đã đặt câu hỏi: “Nếu họ tồn tại thì tại sao họ chưa có mặt ở đây?” Họ ở đây là những sinh vật thông minh, sống ở ngoài Trái đất. Câu nói đó được gọi là câu trái thường của Ferni (paradoxe de Fermi). Fermi lập luận: “Nếu sự sống thông minh có mặt phổ biến trong vũ trụ thì phải có nhiều nền văn minh tồn tại hàng triệu năm trước chúng ta, và nhất định là những nền văn minh đó đã có những phương liện giao thông liên lạc, cho phép họ liên lạc với chúng ta, nhưng vì sao họ không đến, vì sao họ im tiếng?” Tôi sẽ trở lại câu trái thường này của Fermi vào cuối bài. Tất nhiên, sự sống không thể chỉ tồn tại đơn độc trên Trái đất vô cùng nhỏ bé này và tuyệt đối vắng mặt trên hàng tỷ tỷ hành tinh khác trong vũ trụ bao la, ngay chỉ kể phần vũ trụ mà thiên văn học hiện đại quan sát được. Đồng thời, cũng phải thừa nhận là sự sống chỉ xuất hiện trong hoàn cảnh nhất định với những điều kiện nhất định. Đó là hoàn cảnh và điều kìện hiện hữu lại Trái đất này, cách đây 4 tỷ năm. Các tác giả cuốn sách “Rare Earth– Why Complex life is uncommon in the universe. Nhà xuất bản Coperbicus 2000” (Trái đất là hiếm có–Vì sao sự sống phức tạp là không bình thường trong vũ trụ?) là Donald Brownde, một nhà vậl lý thiên văn và Peter Ward, nhà cổ sinh vật học đã phân tích những điều kiện đặc biệt của sự kiện sự sống xuất hiện trên Trái đất như sau: Sự sống đòi hỏi điều kiện ổn định, và những điều kiện môi trường khá đặc biệt như sau. – Một Mặt trăng với kích thước vừa phải, ở độ xa vừa phải so với Trái đất để đảm bảo một sự quay vòng và độ nghiêng ổn định của Trái đất. – Một hành tinh lớn là sao Mộc (Jupiier) để hấp dẫn vào bản thân nó hầu hết các thiên thạch và sao chổi, và như vậy tránh cho Trái đất khỏi những va chạm tai hại. – Một Trái đất không gần quá mà cũng không quá xa so với Mặt trời, nếu không thì nước trên Trái đất sẽ đóng băng vĩnh cửu (nếu quá xa), hoặc sẽ bốc hơi mãi (nếu quá gần). – Mặt trời có vị trí vừa đúng trong tinh vân dải Ngân hà . – Những yếu tố hóa học có tầm quan trọng lớn đối với sự sống, không nhiều quá cũng không ít quá như oxy, carbon v.v... Những tiếng nói khác lạc quan hơn Tuy nhiên, cũng có những tiếng nói lạc quan, mặc dù chưa thật dứt khoát. Thí dụ, trong cuốn “Phải chăng chúng ta cô độc trong vũ trụ?” (Sommes nous seuls dans l'universe), tác giả Hubert Reeves cho rằng, nếu các quy luật vật lý đều tồn tại khắp nơi trong vũ trụ, trên bình diện vi mô như các nguyên tử oxy và carbon v.v... cũng như trên bình diện vĩ mô như các tinh vân và các hệ tinh vân, thì tại sao trên bình diện trung gian, các phân tử, các tế bào và sự sống lại không thể tồn tại ở nhiều nơi trong vũ trụ?... Tuy tác giả đặt câu hỏi mà không trả lời, thế nhưng như vậy cũng là đủ để cho chúng ta suy tư thêm về lời khẳng định của đạo Phật là không những có sự sống ở ngoài Trál đất, mà có những hình thái sống cao cấp hơn loài người rất nhiều, mà sách Phật gọi chung là loài Trời. Kinh Hoa Nghiêm, một trong những kinh điển Đại thừa nổi tiếng, trong phẩm “Sự hình thành của các thế giới”, còn nói tới số thế giới nhiều như biển, gọi là biển thế giới v.v... Nhưng hãy khoan, chúng ta hãy nói về quan điểm của nhà thiên văn sinh vật học (Astrobiologist), người Anh, ông David Darling, trong cuốn sách “Life everywhere” (Sự sống, khắp mọi nơi). Ông viết: “Những dấu hiệu của sự sống xuất hiện trên Trái đất vào khoảng 3,8 tỷ năm trước đây trên cơ sở những yếu tố cơ bản như nước ở thể lỏng, một vài nguồn năng lượng và chất hữu cơ. Vào thời ông Darwin, người ta tưởng rằng sự sống xuất hiện đầu tiên trên mặt biển hay hồ, trong một bối cảnh nóng và có mặt trời chiếu sáng. Nhưng bây giờ người ta lại nghĩ rằng sự sống có thể xuất hiện ở dưới lòng đất hay dưới đáy biển. Ðiều kiện này không phải hiếm ở các hành tinh ngoài Trái đất. Hơn nữa, các hành tinh thường va chạm với các loại thiên thạch và bụi sao chổi. Những thiên thạch này là tàn dư của quá trình hình thành các hành tinh. Chúng mang theo mình những chất hữu cơ; trong một số các thiên thạch, người ta phát hiện các chất axít amin, là thành phần tạo ra chất hữu cơ. Trong các đám mây trôi giữa các vì sao, người ta cũng phát hiện ra acid amin. Như vậy là các chất hữu cơ tồn tại khá phổ biến trong vũ trụ bao la.” Tuy nhiên, các hình thái sống có thể rất khác nhau từ hành tinh này sang hành tinh khác. Khi tiếp cận một vấn đề mới như thế này chúng ta phải có đầu óc cởi mở thay vì cứng nhắc giáo điều. Thí dụ, trên Trái đất, cơ sở của sự sống là chất carbon. Ở một hành tinh khác, cơ sở đó có thể không là carbon mà là chất silicium chẳng hạn. Vì trên phương diện hóa học mà nói thì chất silicium rất gần gũi với carbon. *** Trong khi các nhà khoa học phương Tây vào đầu thế kỷ XXI vẫn còn loay hoay nghiên cứu và tranh cãi là ngoài Trái đất ra, trong vũ trụ bao la có sinh vật hay không, có sự sống hay không, thì ngay từ khi Ðức Phật còn tại thế, Phật giáo đã có khái niệm tam thiên đại thiên thế giới với số nhiều không kể xiết các cõi sống tồn tại ở ngoài Trái đất. Một tiểu thế giới, tức một thế giới nhỏ, theo các nhà Phật học, là một hệ Mặt trời, trong đó có Trái đất. Một ngàn thế giới nhỏ tạo thành một Trung thiên thế giới, và 1000 Trung thiên thế giới tạo thành một Đại thiên thế giới... Và khái niệm tam thiên đại thiên thế giới sẽ bao gồm một con số không kể xiết mặt trời và hành tinh, và mỗi hành tinh có thể là một cõi sống ngoài Trái đất. Hơn nữa, sách Phật xem cõi sống trong Dục giới, tức là cõi sống còn có lòng dục nam nữ. Nhưng trên cõi Dục giới còn có cõi Sắc giới, bao gồm những cõi sống không còn có lòng dục với những sinh vật không phải là nam hay nữ. Chúng sanh ở đây, thường xuyên ở trong định và có thọ mạng rất lâu dài. Rồi trên cõi Sắc giới, lại còn có cõi Vô sắc giới với những chúng sanh có cuộc sống tinh thần thuần túy, và không còn có sắc thân nữa. Ngay trong phạm vi của Dục giới, vượt hẳn lên trên cõi người, còn có sáu cõi Trời tuy vẫn còn có lòng dục, có nam nữ, nhưng cuộc sống ở đây sung sướng hơn, đầy đủ hơn cõi sống người rất nhiều. Chỉ phác qua vài nét như vậy thôi, đủ biết vũ trụ quan của Phật giáo chấp nhận ngoài cõi sống của loài người ra, còn có rất nhiều cõi sống khác cao cấp hơn cõi sống loài người rất nhiều. Nếu chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, một trong những kinh Ðại thừa rất quan trọng, ở chương “Sự hình thành các thế giới”, chúng ta sẽ biết đạo Phật nói tới không phải một thế giới, mà là nói tới biển thế giới, với số thế giới nhiều vô tận. Ngay từ năm 70, rồi 167, sau đó đến giữa các năm 695 và 704 sau TL, ở Trung Quốc xuất hiện những bản Hán dịch của kinh Hoa Nghiêm rồi, lúc đầu là những bản dịch chưa hoàn chỉnh sau đó, với dịch giả Siksanada, chúng ta cuối cùng đã có được một bản Hán dịch hoàn chỉnh dưới triều đại hoàng hậu Võ Tắc Thiên. Trong khi đó thì mãi tới thế kỷ XV, ở Châu Âu, nhà thiên văn người Ba Lan, Copernic mới khẳng định Trái đất xoay xung quanh Mặt trời, và mãi đến nay các nhà khoa học phương Tây vẫn còn bàn cãi về vấn đề ngoài Trái đất, có sự sống hay không? Vì vậy mà chúng ta nói, từ hàng nghìn năm nay Phật giáo có một vũ trụ quan - đứng về mặt quan niệm mà nói, tiến bộ hơn vũ trụ quan của các nhà khoa học thiên văn hiện nay rất nhiều. Tuy rằng, Phật giáo không có những viễn vọng kính khổng lồ, nhưng phải chăng ngoài con mắt thịt, các bậc Thánh của đạo Phật còn có những con mắt khác như Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn, tức là các con mắt của loài Trời, của chính pháp, của trí tuệ và cuối cùng, hoàn thiện hơn tất cả là con mắt của chư Phật? Bây giờ tôi xin trả lời câu hỏi trái thường của nhà vật lý học Ý Fermi: “Nếu họ tồn tại thì tại sao họ chưa có mặt ở đây?”. Câu trả lời của tôi rất bình thường. Nếu chúng ta là những nhà du lịch vũ trụ thì chúng ta sẽ chọn hành tinh nào để đến thăm? Chúng ta có nên chọn hành tinh Trái đất, khi mà ở đây loài người tàn sát nhau không thương tiếc, đối đãi với nhau không phải bằng tình thương mà bằng hận thù, ganh tị, môi trường lại bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chúng ta nên đi thăm Trái đất hay là nên đi thăm một hành tinh khác. Câu trả lời bình thường của tôi là như vậy. Trước khi muốn người các hành tinh khác đến thăm Trái đất, chúng ta hãy chung sức chung lòng làm cho Trái đất tốt đẹp hơn./. Giáo sư Minh Chi Phụ chú: Tinh vân Ngân hà là tinh vân trong đó có hệ Mặt trời. Nhưng Mặt trời chỉ là một ngôi sao nhỏ nằm giữa hàng tỷ ngôi sao khác của tinh vân giải Ngân hà. Và bản thân tinh vân dải Ngân hà cũng chỉ là một trong hàng trăm tỷ tinh vân của vũ trụ mà thiên văn học hiện đại quan sát được. Như vậy để chúng ta có một ý niệm đúng đắn hơn về sự bé nhỏ của Trái đất chúng ta, của bản thân con người chúng ta nữa. * Bài này được đăng trong tuần báo Giác ngộ số 134 [Vu Lan] 2002) Một câu hỏi cần được giải quyết: Nếu vũ trụ tan rã khi tới chu kỳ của nó, thì trong chu kỳ vận động sau đó nó có thể tạo ra một "trái đất" như trái đất của chúng ta không?
  6. Tam thân (zh. 三身, sa. trikāya) là một thuật ngữ được dùng trong Phật giáo Đại thừa (sa. mahāyāna), chỉ ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân vật đã xuất hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh—chính là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó. Tam thân gồm: Pháp thân (zh. 法身, sa. dharmakāya), là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (sa. dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên Trái Đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (sa. buddha-dharma) như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (sa. dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (sa. tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (sa. śūnyatā), A-lại-da thức (sa. ālayavijñāna), hay xem nó như là Phật, Phật tính (sa. buddhatā), là Như Lai tạng (sa. tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân. Báo thân (zh. 報身, sa. saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân (zh. 受用身), "thân của sự thụ hưởng công đức": chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (sa. dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa (sa. daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ. Ứng thân (zh. 應身, sa. nirmāṇakāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thân có thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt. Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước (sa. asaṅga) trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và về sau được Đại thừa tiếp nhận. Đáng chú ý nhất là quan điểm Pháp thân nhấn mạnh đến thể tính tuyệt đối của một vị Phật và không chú trọng lắm đến Ứng thân của vị Phật lịch sử. Như thế, Phật là thể tính thanh tịnh của toàn vũ trụ, thường hằng, toàn tri. Các vị Phật xuất hiện trên Trái Đất chính là hiện thân của Pháp thân, vì lòng từ bi mà đến với con người, vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Thực ra những giải thích trên chưa tận cùng ý nghĩa: - Pháp thân là "bản thể vũ trụ" cho nên vạn vật đều "như nhau" nhưng tại sao lại diễn giải liên quan đến Phật tính? Bởi bản thể có đặc tính bao trùm mà khi chúng ta đang sống dựa trên nó để giải thoát. - Báo thân: tức sự tồn tại của chúng ta, tức được sinh ra trên cõi đời. - Hóa thân hay Ứng thân: Khi được sinh ra cõi đời, nếu đắc đạo hay không sau khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại, nó vẫn chính là chúng ta mà thôi nhưng có một cơ thể vô hình được gọi là "cơ thể tinh tú", "chúng ta vô hình" này gọi là Hóa thân tức đã biến hóa. Cho nên khi một vị Bồ Tát, Phật (cơ thể vật lý đã qua đời) hiện ra do thần thông thì tất nhiên, đây là Hóa thân. Còn khi đang sống có thần thông dù có biến hóa thế nào thì đây vẫn còn gọi là Báo thân mặc dù, chẳng hạn nếu tách linh hồn ra khỏi cơ thể (cơ thể lúc này lạnh như đồng) thì chính là Hóa thân tại thời điểm đó bởi chúng ta vẫn phải lấy mốc quán chiếu tại một thời điểm là thân xác vật lý (cơ thể vật lý còn tồn tại tức còn nhận thêm mọi thứ khác nữa dù chỉ là một sát na, điều này chỉ ra ta sau này sẽ khác ta trước đó, do vậy vẫn gọi là Báo thân). Ví dụ, chúng ta gặp và nói chuyện với linh hồn của một người đang sống có thần thông trong khi đó thân xác họ cách xa hàng trăm km, thì chúng ta đang nói chuyện với "Hóa thân tại thời điểm đó". Khi một người nào đó sinh ra, nhận được "nhân" từ vị Phật nào đó nhiều nhất để có "quả" - vạn vật trong vũ trụ đều có liên quan đến nhau, chẳng hạn Phật Sống Tây Tạng thì gọi là Ứng Thân, tuy nhiên bản chất họ vẫn không phải là vị Phật đó, họ vẫn chính là họ mà thôi, không khác. Liên quan đến thần thông thì vô vàn công năng, chẳng hạn Hóa thân một vị Phật dùng thần thông "truyền" kiến thức cho một người đang sống, tất nhiên người này phải ở trong một tình trạng tương ứng nào đó để có thể tích hợp được. Vậy thì, để hiểu được Tam Thân thì phải hiểu sự tồn tại linh hồn, để chứng minh sự tồn tại của linh hồn thì phải kết hợp được Tam Giáo (trong đó Phật giáo làm gốc rễ) và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
  7. Bí ẩn kim tự tháp bậc thang cổ nhất ở Ai Cập Kim tự tháp có nguồn gốc ban đầu là một lăng mộ Mastaba khoảng 4.700 năm trước - một kiến trúc mặt bằng hình bình hành, trải qua hàng loạt công việc xây dựng đã hình thành một kim tự tháp cao 60 mét với sáu tầng được xây chồng lên nhau. Kim tự tháp bậc thang Djoser là kim tự tháp lâu đời nhất Ai Cập. Người lập kế hoạch xây dựng kim tự tháp là Imhotep, tể tướng của triều đại sau đó đã được tôn sùng như một vị thánh nhờ các đóng góp của mình. Việc xây dựng kim tự tháp cần 11,6 triệu mét khối đá và đất sét. Các hầm bên dưới kim tự tháp tạo nên một đường dẫn dài khoảng 5,5km. Khu liên hợp Kim tự tháp nằm ở trung tâm khu liên hợp rộng khoảng 15 hecta, được bao quanh bởi một tường đá vôi gồm 13 cánh cửa giả cũng như lối đi thực sự ở phía đông nam. Một ngôi đền nằm ở phía bắc của kim tự tháp dọc với tượng đài của vị vua. Tượng đài được bao quanh bởi kiến trúc đá nhỏ được biết đến như là “serdad”. Phía nam của kim tự tháp là một cung điện được rào chắn xung quanh bởi một bệ thờ và các tảng đá. Rất nhiều các tòa nhà mặt tiền được xây dựng trong khu liên hợp, bao gồm một loạt nhà thờ nhỏ ở phía đông nam cũng như các sảnh đường bắc và nam ở phía đông kim tự tháp. Các cấu trúc phục vụ cho mục đích tôn giáo. Ở phía đông nam của khu liên hợp, cạnh các nhà thờ nhỏ là một cung điện có lẽ được xây dựng dành cho vua tổ chức các lễ hội Hed - Seb ở thế giới bên kia. Ở phía nam cuối của khu liên hợp là một lăng mộ huyền bí với một nhà thờ nhỏ. Nó gồm hàng loạt các đường hầm bắt chước kiểu dáng các đường hầm được tìm thấy phía dưới kim tự tháp. Điều gì được chôn giấu ở đó là một điều bí mật. Một nhà thờ nhỏ trong cung điện Hep-Sed ở kim tự tháp bậc thang Djoser Lăng mộ của Vua Bên dưới kim tự tháp bậc thang là một dãy hỗn tạp các đường hầm và căn phòng, trung tâm là một hầm sâu 28 mét ở dưới đáy là lăng mộ của vua Djoser. Các công việc bảo tồn gần đây ở lăng mộ phát hiện các mảnh quan tài bằng đá granit của vị vua và tên của các nữ hoàng vẫn còn có thể đọc được. Nhà Ai Cập học Zahi Hawass, nguyên giám đốc hội đồng di sản tối cao Ai Cập trong một đoạn video vào năm 2009 nói về công việc bảo tồn ở kim tự tháp: “Kim tự tháp bậc thang là kim tự tháp duy nhất trong triều đại cổ mà có mười một trong số các con gái của vua được chôn bên trong". Hầm mộ ban đầu có thể được trang trí bởi khối đá vôi chứa các ngôi sao năm cánh tạo thành một trần đầy sao. Tuy nhiên, không biết vì lý do gì, việc trang trí này bị những người xây dựng dỡ bỏ thay vào đó là một phòng chôn bằng đá granit đơn giản hơn. Đường hầm và cung điện dưới mặt đất Hai lối đi dẫn tới hầm ngầm và chia ngả thành ba hướng. Ở đó chứa ba phòng trưng bày, một hầm nhỏ đặc biệt chứa đồ ăn, và một phòng chưa hoàn thiện có thể đã được xây dựng làm cung điện dưới mặt đất của thế giới bên kia. Ba cánh cửa giả chứa các họa tiết cho thấy sự sùng bái tôn giáo của vua. Buồng được trang trí với hàng nghìn gạch vuông bằng sứ xanh bắt chước hình vẽ chiếu đan bằng sậy trong cung điện của nhà vua ở Memphis. Căn phòng ở bên dưới kim tự tháp này được hoàn thành một cách nhanh chóng. Một hầm khác, bắt đầu ở phía bắc của kim tự tháp, chứa 40.000 bát đá, nhiều trong số đó thuộc về tổ tiên của vua. Các quan tài và các phần của hài cốt cũng được tìm thấy. Sự bảo tồn ngày nay Kim tự tháp bậc thang là một công trình không bền chắc với những dự đoán cho thấy rằng nếu không có công việc bảo tồn thì các hầm bên dưới kim tự tháp có thể sập và tượng đài có thể mất đi một phần đáng kể trong một vài thập kỉ nữa. Người Ai Cập đã bắt đầu nỗ lực bảo tồn di sản nhiều năm trước và gần đây Cintec, một công ty xây dựng Anh đã được huy động để hỗ trợ nỗ lực bảo tồn. Họ sử dụng các túi khí lớn để nâng đỡ mái kim tự tháp trong khi thực hiện các công việc sửa chữa cấu trúc kim tự tháp. Sự vinh danh Với việc xây dựng kim tự tháp bậc thang, Imhotep cuối cùng được sùng bái như một vị thánh. Nhà Ai Cập học Marc Van De Mieroon viết trong cuốn sách “Lịch sử của Ai Cập cổ đại” của mình rằng vua Djoser dành cho Imhotep một đặc ân, cho phép tên và danh hiệu của ông được khắc vào nền tượng đài vua. Theo Khoahoctoday Theo văn bia kim tự tháp khắc ghi trên đá thì kim tự tháp bậc thang này, xưa nhất, được xây dựng khoảng năm 2640 TCN, cho nên những nhận xét về người ngoài hành tinh hay người cổ hàng vạn năm trước xây dựng đều sai bét cả. Lịch sử văn hóa, tôn giáo nước Văn Lang đều được đối chiếu tương ứng tới Ai Cập bởi nơi đây còn giữ lại gần như nguyên bản lịch sử, văn hóa, phong tục, tôn giáo... với đầy đủ vật chứng là cổ vật trong suốt thời kỳ này của 4.900 lịch sử. Tại sao đối chiếu tới Ai Cập là quan trọng? Bởi vì một số nền văn hóa khác bị "sửa sử về mặt thời gian" chẳng hạn vùng Lưỡng Hà, văn hóa Babylon có bộ luật Hamurabi 1900 TCN và trước đó chưa rõ ràng 2300 TCN nhưng các nhà nghiên cứu sử cứ nằng nặc cho rằng văn minh xuất phát từ đây rồi truyền qua Ai Cập, trong khi đó dữ liệu kim tự tháp đã ghi rõ lịch sử các triều đại. Thứ khác nữa, Tây phương cũng cứ lằng lặc cho văn minh từ Lưỡng Hà đi thế giới, bản chất là liên quan đến mấy câu truyện kinh thánh đấy mà, rồi không biết bằng cách nào cho rằng chữ Nêm từ 4000 TCN. Vì vậy, nghiên cứu sử cũng đi vào ma trận "lừa" như mọi thứ khác vậy.
  8. "Quả búa thần thánh" Khi xem quả búa này nên có những câu hỏi: - Từ thời Thượng Cổ cho tới nay, việc đào phá hay khai khoáng, san ủi núi rừng, đất đai... mãi cho tới nay mới tìm được "Một quả búa"? Nó phải tìm được nhiều hơn thế nữa, đối với thế giới thì con số phải là trăm ngàn cổ vật, không chỉ búa mà còn đủ thứ khác. - 400 trăm triệu năm: so sánh tới thời kỳ khủng long hóa thạch thế thì vô số "quả các loại" hóa thạch. - Tiến trình phát triển và công nghệ cho ra sắt thuần khiết cần "máy móc" cho nên phải có "quả máy móc". - Bằng mắt thường đã thấy sự không hợp lý giữa cấu trúc: búa, cán búa, đá, độ rỗng giữa chúng, quá trình khám phá tác động đến hiện trạng... nếu là dân chơi thạch ngoạn, cổ ngoạn, nhà địa chất khoáng vật -> Cười! đồ rởm đấy mà. Các thứ sau đó cũng tương tự. Để phân tích, cần tham chiếu đến các Mốc sau: - Khủng long thời kỳ. - Khoảng trống thời gian: khủng long - người vượn. - Loài vượn người: khoa học chưa nhận thức được sự tiến hóa phổ biến trên địa cầu, địa cầu nhỏ bé trong vũ trụ giống như một cái hồ nước chứa đầy nòng nọc vậy, đúng thời kỳ sẽ thành cóc, cho nên "con người" đầu tiên không chắn chắn xuất phát từ Châu Phi. Vậy, lý luận như thế nào về địa điểm này!!! - Đồ đá cũ và mới: sự còn lại của nó. - Đại hồng thủy: sự còn lại của nó. - Tiến trình phát triển xã hội và tiến hóa. - Sự đột phá kỹ thuật thế kỷ XIX trở đi và sự đột phá tư duy 5.000 trước thời Kinh Dương Vương và tổ tiên gần. - Sự liên kết của các bậc thầy tâm linh (có thần thông) tìm về "đời trước" xa tới đâu: 28.000 năm trước là xa nhất cho tới nay đã được ghi chép lại. Sẽ nhận thấy, khoa học của thuyết tiến hóa là hợp lý cũng như tiến trình phát triển của loài người. Nếu khoa học không phải là sự thật (không tuyệt đối), thì chúng ta thấy máy bay, tàu hỏa, ô tô... rơi, nổ, đâm nhau như pháo rang rồi. Vậy tại sao có trò chơi này, vì nó muốn đả phá thuyết Tiến Hóa khác với kinh sách thánh này nọ "chẳng qua cũng một trò chơi thôi mà": giả sử có linh hồn, lại sống mãi trong điều kiện này thì "sướng kiểu gì"?.
  9. Dòng dõi của Thần Nông như sau: Sử kí - Chu bản kỉ [www.guoxue.com] 武王追思先圣王乃襃封神农之後於焦集解地理志弘农陕县有焦城故焦国也。 Vũ Vương truy tư tiên thánh Vương, nãi bao phong Thần Nông chi hậu ư Tiêu, [Tập giải: Địa lí chí: "Hoằng Nông Thiểm huyện hữu Tiêu thành, cố Tiêu quốc dã".] Vũ Vương ghi nhớ các bậc vua đời trước, bèn khen ngợi phong dòng dõi của Thần Nông ở đất Tiêu, [Tập giải: Địa lí chí viết: "Huyện Thiểm [1] thuộc quận Hoằng Nông có thành Tiêu, là nước Tiêu xưa vậy".] [1] Thuộc huyện Thiểm tỉnh Hà Nam ngày nay (今河南陕县). ______________________ Sử kí - Tề Thái Công thế gia [www.guoxue.com] 太公望吕尚者东海上人。◇集解吕氏春秋曰“东夷之土。”○索隐谯周曰“姓姜名牙。炎帝之裔伯夷之後掌四岳有功封之於吕子孙从其封姓尚其後也。”按後文王得之渭滨云“吾先君太公望子久矣”故号太公望。盖牙是字尚是其名後武王号为师尚父也。 Thái Công Vọng Lữ Thượng giả, đông hải thượng nhân dã. [Tập giải: Lữ thị Xuân thu viết: "Đông Di chi thổ". Sách ẩn: Tiếu Chu viết: "Tính Khương, danh Nha. Viêm Đế chi duệ, Bá Di chi hậu, chưởng tứ nhạc hữu công, phong chi ư Lữ, tử tôn tòng kì phong tính, Thượng kì hậu dã". Án: Hậu Văn Vương đắc chi Vị tân, vân: "Ngô tiên quân Thái Công vọng tử cửu hĩ", cố hiệu Thái Công Vọng. Cái Nha thị tự, Thượng thị kì danh, hậu Vũ Vương hiệu vi Sư Thượng Phủ dã.] Thái Công Vọng Lữ Thượng là người vùng ven biển phía đông. [Tập giải: Lữ thị Xuân thu viết: "Là đất của người Di phia đông". Sách ẩn: Tiếu Chu nói: "Tính Khương, tên Nha. Là hậu duệ của Viêm Đế, dòng dõi của Bá Di, trông coi bốn phương có công, phong họ ở đất Lữ [1], con cháu dựa theo đất phong mà đặt tính, Thượng là dòng dõi của họ vậy". Xét: Vũ Vương gặp được Thượng ở bến sông Vị, nói: "Vua cha ta là Thái Công mong gặp ngài lâu rồi" cho nên gọi là Thái Công Vọng. Có lẽ Nha là tự, Thượng là tên, sau Vũ Vương gọi là Sư Thượng Phủ vậy.] [1] Tập giải: Từ Quảng nói: "Đất Lữ tại phía tây huyện Uyển thộc quận Nam Dương". (集解徐广曰“吕在南阳宛县西。”) Tức thuộc huyện Nam Dương tỉnh Hà Nam ngày nay. (今河南南阳县) __________ Dòng dõi của Thần Nông thời Chu được phong ở đất Lữ, Tiêu đều thuộc đất Hà Nam ngày nay, sau này phân tán ra khắp nơi như họ Lữ làm vua ở nước Tề (dòng dõi Lữ Vọng). Trong chủ đề thuồng luồng & giao long, một chữ đáng chú ý là thận 蜃 viết bằng bộ trùng hợp với chữ Thìn/Thần hài thanh 辰: 1. thận có nghĩa là loài sò hến (clams) 2. thận còn có nghĩa là con giao 蛟 (thuồng luồng) và khả năng biến dạng thành ảo tượng (mirage, thận lâu): nghĩa này ít người biết hơn được Bản Thảo (Từ Trách 592-667 soạn) cũng như đại thi hào đời Đường Dương Cự Nguyên nhắc đến: 【 本草】 蜃 蛟之屬 [bản Thảo] thận, giao chi thuộc Một tương quan đặc biệt là chính âm thận-thần-thìn 辰 (chi thứ 5 trong 12 con giáp) lại liên hệ đến thuồng luồng (hay rồng huyền thoại) - vết tích của phương Nam trong tên gọi 12 con giáp (văn hoá Hán không thể giải thích như vậy được). Theo Thuyết Văn Giải Tự (thần/thìn) Unicode 278E8 : 【 說文】 與觶同 dữ chí đồng Rõ ràng âm thần/thìn có thể thay thế bởi âm *dran/tlan 單 - một lần nữa cho thấy liên hệ giữa Thần/Thìn (chi thứ 5 trong 12 con giáp) với âm *dran/tlan hay thuồng luồng thằn lằn ... trăn rắn rồng/long chình ... Tóm lại chủ đề thuồng luồng & giao long không chỉ đơn giản chỉ một loài vật huyền thoại, nhưng đã để lại nhiều vết tích trong văn hoá ngôn ngữ Việt cổ cũng như vết tích trong tiếng Hán cổ (dầu rằng bị đào thải hay 'chìm sâu' trong thư tịch cổ cần phải được gạn lọc ra!) '... Tra các chữ hiếm trong vốn từ Hán như chữ Hợi 豥 (Unicode 8C65) viết bằng bộ thỉ 豕 hợp với chữ Hợi 亥 hài thanh mà ta có thể phục nguyên một dạng âm cổ là *kui - đây cũng chính là dạng củi (cúi, lợn/heo) của tiếng Mường (Bi) - như các cách dùng củi cải (cúi cái, heo nái), củi tậc (heo đực), củi té (heo đẻ) ... (b) Một chữ hiếm nữa là hôi/khôi viết bằng bộ thỉ 豕 hợp với chữ thổ 土 (Unicode 4745) nghĩa là con heo; Một dạng âm cổ phục nguyên của hôi/khôi là *kui hỗ trợ cho dạng Hợi ở trên Tóm lại các âm cổ phục nguyên của Hợi 亥 có dạng *kui chỉ con heo: người Hán hoàn toàn không hiểu nghĩa nhưng người Việt và Mường đều có thể hiểu là loài heo cúi (khi đọc lên) chứng tỏ nguồn gốc Việt (Mường Cổ) của tên gọi 12 con giáp. Ngay cả khi truy tìm các vết khắc/viết cổ (giáp văn, kim văn, triện văn) trong thư tịch Hán cổ ta cũng không thấy liên hệ trực tiếp nào giữa Hợi 亥 và con heo ... ' ...v.v... Về tên gọi con cúi (heo) chỉ là vô tình đọc giống hoặc là người Mường ảnh hưởng của văn hóa Kinh (mà văn hóa Kinh lại chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán) thôi. 豥 hợi [www.zdic.net] 《爾雅·釋獸》豕四蹢皆白豥。 "Nhĩ nhã - Thích thú" viết: Lợn có bốn móng đều màu trắng, gọi là hợi. Con lợn (heo) nói chung người Hán thường dùng từ thỉ 豕, trư 猪, trệ 彘. _______________ Còn nữa liên hệ giữa hợi 亥 và 豕 thỉ: (象形。甲骨文字形,与“豕”的写法相似,象猪形。古代“亥”与“豕”很容易写混,成语:“鲁鱼亥豕”讲的就是这种误写现象。本义:猪) (Tượng hình. Hình chữ văn giáp cốt, hình vẽ giống chữ "thỉ", vẽ theo hình con lợn. Chữ "hợi" và chữ "thỉ" ngày xưa rất dễ viết lẫn lộn, cho nên câu thành ngữ "Lỗ ngưa hợi thỉ" nói về hiện tượng viết nhầm. Nghĩa gốc: con lợn) 豕与亥相似。——《吕氏春秋·慎行论》 Chữ thỉ giống với chữ hợi. - "Lữ thị Xuân thu - Thận hành luận" 亥,豕也。——《论衡·物势》 Hợi là lợn vậy - "Luận hành - Vật thế" 亥即豕,故曰首曰身也。——《左传·襄公三十年》 Hợi là lợn, cho nên gọi là đâu, gọi là thân - "Tả truyện - Tương Công tam thập niên". Chữ 辰 thần có nhiều nghĩa, một trong những nghĩa gốc được dùng sớm nhất nhất là chỉ Mặt trời, Mặt trăng, sao nói chung. Sau đó là tên 1 trong 12 địa chi để ghi ngày, tháng, năm. 辰 thần [www.zdic.net] (象形。金文字形,是蛤蚌壳之类软体动物的形象,“蜃”的本字。后经假借而产生了其他用法。本义;蛤蚌之类的软体动物) (Tượng hình. Là hình chữ kim văn, là hình vẽ động vật thân mềm có vỏ thuộc loài hàu, hến, là chữ gốc của chữ "thần". Sau này vay mượn nên sinh ra cách viết khác. Nghĩa gốc: động vật thân mền thuộc loài hàu, hến) ______________ Chữ 蜃 thần (形声。从虫,辰声。本义:大蛤) (Hình thanh. Theo bộ trùng, âm thần. Nghĩa gốc: con sò lớn) 蜃,雉入海化为蜃。——《说文》 Thần, chim trĩ nhảy vào biển hóa thành sò. - "Thuyết văn" 蜃,大蛤也。——《周礼·掌蜃》注 Thần, loài sò lớn vậy. - "Chu lễ - Chưởng thần" chú 小曰蛤,大曰蜃。皆介物,蚌类也。——《国语·晋语》注 Nhỏ thì gọi là cáp, lớn thì gọi là thần. Đều là vật có vỏ, loài sò vậy. - "Quốc ngữ - Tấn ngữ" chú 旦瓯文蜃。——《周书·王会》 Người Đán (Thả) Âu khắc hình con sò. - "Chu thư - Vương hội" 激女之山多蜃珧。——《东山经》 Núi vùng Kích Nữ có nhiều vỏ hàu hến. - "Đông sơn kinh" 春献鳖蜃。——《周礼·天官·鳖人》 Mùa xuân thì dâng ba ba, sò. - "Chu lễ - Thiên quan - Miết nhân" _______________ Liên hệ với từ thằn lằn. Nghĩa này xuất hiện muộn hơn, là chữ hình thanh, mượn âm đọc là thần, không liên quan đến con giáp là con rồng. 《本草》蜃蛟之屬其狀亦似蛇而大有角如龍狀紅鬣腰以下鱗盡逆食燕子。能吁氣成樓臺城郭之狀將雨卽見名蜃樓亦曰海市。其脂和蠟作燭香凡百步烟中亦有樓臺之形。 "Bản thảo": Thần, thuộc loài giao long, hình dạng cũng giống con rắn nhưng lớn, có sừng như hình con rồng, bờm đỏ, từ eo trở xuống đều là vảy, ăn chim én. Có thể thổi hơi tạo thành hình lầu đài thành quách, sắp mưa thì xuất hiện, tên là thần lâu, cũng gọi là hải thị. Mỡ và sáp của nó dùng làm nến, mùi thơm tỏa khắp trăm bước, trong khói cũng có hình dạng lầu đài. Tư duy 'ô vuông' (A) làm cho tôi liên tưởng đến loài vẹt với vốn từ giới hạn và chỉ lặp đi lặp lại cái gì đã được dạy cho (không biết cái mình học đúng hay sai). Cần phải nhìn vấn đề thuồng luồng và giao long từ các góc cạnh khác nhau mới thấy rõ vấn đề hơn cũng như tăng mức độ khác quan hơn. Trở lại với chữ thận 蜃, người Hán không thể nào hiểu được tương quan sâu xa đến loài rồng huyền thoại (tôi đã dẫn Bản Thảo: thận 蜃, giao thuộc) của phương Nam nên tư duy 'ô vuông' bắt đầu sơn son trét phấn vào loài giao (khũ, cù là các dạng biến âm cổ hơn - là thuồng luồng, thằn lằn song tiết hay trăn, rắn, rồng đơn tiết: chúng đều có liên hệ ít nhất từ góc độ ngữ âm) ..."Bản thảo": Thần 蜃, thuộc loài giao 蛟, hình dạng cũng giống con rắn nhưng lớn, có sừng như hình con rồng, bờm đỏ, từ eo trở xuống đều là vảy, ăn chim én. Có thể thổi hơi tạo thành hình lầu đài thành quách, sắp mưa thì xuất hiện, tên là thần lâu, cũng gọi là hải thị. Mỡ và sáp của nó dùng làm nến, mùi thơm tỏa khắp trăm bước, trong khói cũng có hình dạng lầu đài.... Đọc cách giải thích này tôi trở nên nửa tỉnh nửa mê - lại càng không hiểu loài sò hến gì mà kỳ lạ như thế? Tôi để ý bác LNC cũng đã hơi tiến bộ từ lúc lên diễn đàn đến nay (như bắt đầu trích các giọng địa phuơng TQ, dùng các từ như 'xát hoá' ...) nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi cái tư duy ô vuông: phải thêm chữ long khi dịch giao 蛟. Giao là thuồng luồng đấy (chủ đề phần này), xem các lời bàn chi tiết hơn về phạm trù nghĩa của chữ này trang [www.viethoc.org] . Thật ra, cách dịch giao long cũng không nằm ngoài phạm trù nghĩa của loài rồng (có vẩy, Quảng Nhã: hữu lân viết giao long). Chữ Giao cũng liên hệ đến Giao Chỉ đấy: như tôi đã viết nhiều lần trên diễn đàn. Tư duy ô vuông lại hiển thị rất rõ khi thấy các tương quan ngữ âm và cho đó chỉ là sự trùng hợp (và tư duy ô vuông đóng lại, vấn đề đã được giải quyết). Hãy nghe tư duy ô vuông trăn trở (cũng chỉ trong giới hạn ô vuông) '...Nhiều từ giống nhau, liên hệ về ngữ âm, có thể là vay mượn hoặc vô tình đọc giống nhau. Tựa như đặt tên cùng một sự vật nhưng mỗi người, mỗi nhóm dân lại đặt tên khác nhau vậy. Như người miền nam gọi sông là giang, người miền bắc gọi là hà. Vè xét về tên gọi từ giang giống tiếng Đông Nam Á, nhưng không có nghĩa là vay mượn của Đông Nam Á. Có lẽ chỉ là tiếp nối từ xa xưa mà thôi, con người gắn bó với sông nước, do đó nhiều nhóm dân gọi sông là giang, sông/krung... Tương tự nhiều từ khác, giống nhau cũng có lịch sử như thế. Nếu không chỉ là vay mượn của nhau...' - bác LNC kính, các học giả 'ngoài ô vuông' như Jerry Norman, Mei Tsu-Lin, E G Pulleyblank, P Benedict ... Hoàng Thị Châu, Trần Ngọc Vượng ...v.v... đều kết luận là giang (sông) có nguồn gốc phương Nam (Austroasiatic chẳng hạn, không phải gốc Hán) - có lẽ tốt nhất cho tư duy ô vuông là tham dự các hoạt động như dịch tiểu thuyết TQ như Hồng Lâu Mộng, Tây Du Ký ... chứ không nên trăn trở về ngôn ngữ và mạch nguồn văn hoá một cách sai lạc như vậy! Chính các học giả TQ, chỉ những năm gần đây mà thôi, mới bắt đầu so sánh các ngôn ngữ khác nhau và dẫn đến nhận xét 南方的河流多称“江”,如:“珠江”、“沅江”;北方的河流多称“河”,如:“洛河”、“渭河”、“漳河” Nam phương đích hà lưu đa xưng“ giang”, như:“ Châu giang” 、“ Nguyên giang”; Bắc phương đích hà lưu đa xưng“ hà”, như:“ Lạc hà” 、“ Vị hà” 、“ Chương hà” xem thêm chi tiết trang [www.zdic.net] Viết đến đây thì đhơi mỏi tay, xin tạm ngưng để khi khác viết tiếp - vài hàng tâm tình và cùng đóng góp (A) tư duy 'ô vuông' : như học chữ Hán cả đời (kể cả các chữ hiếm) và không thoát ra khỏi các giới hạn của thư tịch cổ ... Dẫn đến phương pháp từ chương thiếu sáng tạo và bảo thủ (không chấp nhận các dữ kiện trái với những gì mình bị nhồi sọ qua bao ngàn năm). Các hệ luận từ tư duy ô vuông 1. Đổi âm thanh để phù hợp với hệ thống âm thanh hay ngôn ngữ của tộc thống trị Đà 鼉 rất khác biệt (Hán hoá cao độ) với âm cổ *dran/tlan (gốc phương Nam) - hay thiện, đàn, điền - đây là hiện tượng dấu đầu lòi đuôi ...v.v... 2. Đổi hay nâng cấp (phạm trù nghĩa) từ cụ thể lên trừu tượng (hệ thống ghi thời gian, lý luận, bói toán ...) Định 定 - âm và nghĩa cổ TRÁN (cụ thể) thành ra làm cho yên, quyết định ... xem chi tiết trang này [www.viethoc.org] Tên gọi 12 con giáp: Mão Mẹo (mèo) thành thỏ Ngọ (ngựa) Sửu - âm cổ là *dru/tlu hay trâu Tý (*chút - chuột) Thần/Thìn - một dạng âm cổ phục nguyên là *klian/tlan - thuồng luồng ... rồng (Hán hoá cao độ) Hợi - âm cổ là *kui (cúi là heo/lợn), các dạng 'thuần Hán' như thỉ 豕, trư 猪, trệ 彘 ... đã thay thế tên cổ (trở thành huyền thoại) hợi 豥 (loài heo)... ...v.v... 3. Hoàn toàn đào thải trong vốn từ tiếng Hán hiện đại Hàm 䖔 hồm, hờm, hùm (TVGT - loài hổ) - xem chi tiết trang này [www.viethoc.org] ...v.v... Kết quả của các khuynh hướng trên là duy trì quân bình cho tư duy 'ô vuông', để tương thích với các thư tịch cổ (gốc Hán); Ngay cả chữ Phật cũng có cách giải thích hoàn toàn theo hệ thống Hán (<bất - là không - tính không ...v.v...) chứ chẳng phải là ký âm (mượn) từ tiếng nước ngoài! Không phủ nhận có nhiều phương ngữ ở Trung Quốc. Thời trước tiếng phổ thông của kẻ thống trị được dùng chuẩn cho cả nước. Mà tiếng phổ thông người Hán vốn là đơn âm, theo lối Xuân thu trọng ở lời văn ngắn gọn. Do đó các tiếng song âm của một số phương ngữ được nói gọn (điều này được Nhan Sư Cổ thời Đường ghi lại, người Ngô Việt nói thành hai âm, người Trung Nguyên chỉ nói 1 âm thôi). Đấy là điều dễ hiểu, vẫn lặp lại cách phiên âm tiếng Anh, tiếng Âu Mĩ, nước ngoài của người Trung Quốc ngày nay. Đấy không phải là cố tình dấu diếm làm gì? Ghi âm lại đầy đủ âm tiết cho tốn giấy mực, đọc mỏi mắt! Cái hay của chữ Hán có thể trong một chữ có thể thêm các bộ thủ chỉ ý là đủ rồi, ví dụ như chữ Đà/Điền chỉ cần thêm chữ chỉ âm là đan, thêm bộ trùng nữa là đủ rồi, cần gì phải kí âm đầy đủ là dran/tlan (đờ ran). Chữ hình thanh là biết là chữ kí âm rồi, dấu làm sao được. Nếu tiên sinh đi sâu nghiên cứu nên tìm hiểu lịch sử của từng chữ, nghĩa nào là phổ biến và dùng sớm nhất, từ thời nào, sách nào dùng chữ ấy, từ thời nào, do ai viết, người ở đâu. Như chữ định 定, nghĩa gốc là yên định là đúng rồi, nghĩa là trán chỉ là mượn âm âm, hình chữ để ghi âm tiếng địa phương nào đó mà thôi. Nếu xét hình chữ là chữ hội ý, trên có bộ miên 宀 ở trên, dưới có bộ chính 正 chỉ âm (chính/định). Được ở dưới mái nhà (bộ miên) sao chẳng yên định chứ! Tiên sinh đọc giải chữ 定 định ở đây [www.zdic.net] Còn 12 con giáp tôi đã nói rồi. Tiên sinh cũng nên tìm hiểu lịch sử của từng chữ. Ví dụ chữ mão 卯 - 1 trong 12 địa chi, cũng là 1 trong 12 con giáp. Nghĩa gốc là chữ tượng hình, vẽ hai cánh cửa mở ra. Xem giải chữ: [www.zdic.net] Chứ không phải là ghi âm mèo, mão chỉ con mèo. Người Hán dùng chữ miêu 貓 (chữ hình thanh) chỉ con mèo. Các chữ khác cũng nên tìm hiểu như thế. Nói thêm tôi cho rằng, người Việt Nam thời xưa vốn ít tiếp xúc với ngựa. Khi 12 con giáp truyền vào chữ 午 ngọ ứng với ngựa/mã馬, do đó mượn âm ngọ/ngựa luôn chứ không phải ngược lại. Nhiều chữ đào thải, không dùng nữa là chuyện thường. Ngày nay tiếng Bắc Kinh làm tiếng phổ thông thì các phương ngữ khác cũng bị lép vế. Tùy vào chính trị từng thời. Như chữ hàm 䖔 là chữ hình thanh, chỉ có chữ 虎 hổ là còn dùng rộng rãi, gọn nhẹ vẫn hơn. Đồng ý với bác về '...Nếu tiên sinh đi sâu nghiên cứu nên tìm hiểu lịch sử của từng chữ, nghĩa nào là phổ biến và dùng sớm nhất, từ thời nào, sách nào dùng chữ ấy, từ thời nào, do ai viết, người ở đâu ...' - bác có rảnh thì mời xem khoảng 16 bài viết (A) về từng chữ một (Tý Sửu Dần ... Tuất Hợi) trang này [www.chineseetymology.org] Điều này lại càng chứng tỏ âm TRÁN nguyên thuỷ (định 定) đã có từ trước - xem trang này về các cách khắc/vẽ cổ [www.chineseetymology.org] và sau đó bộ hiệt được thêm vào chữ định 定 để cho người Hán hiểu rõ hơn! Tóm lại, định 定 có âm cổ hơn là TRÁN (gốc phương Nam) đã bị đào thải vì không phù hợp với âm vận của người Hán (. Hiện tượng này cũng tương thích với cách gọi tên 12 con giáp (gốc phương Nam) bị đào thải (không còn liên hệ rõ ràng với tên gọi 12 con vật nữa). Vài hàng cùng đóng góp (A) có lẽ nên thêm một nhận xét là chữ định 腚 (Unicode 815A) còn có nghĩa là mông đít, hay cái TRÔN ( đề 題 có phạm trù nghĩa rộng hơn với tần số dùng là 321289 trên 369369126 so với ngạch 額 13329 trên 369369126 và tảng 顙 17 trên 237243358 - các dạng định đỉnh là có tần số dùng thấp nhất Đọc lại cả bài "Thi- Chu nam" ta sẽ rõ hơn: 麟之趾振振公子於嗟麟兮。 麟之定振振公姓於嗟麟兮。 麟之角振振公族於嗟麟兮。 Lân chi chỉ, chân chân Công tử, ư ta lân hề. Lân chi định, chân chân Công tính, ư ta lân hề. Lân chi giác, chân chân Công tộc, ư ta lân hề. Chân của lân, con cái của vua đông đúc, ô kìa lân kìa! Trán cua lân, trăm họ của vua đông đúc, ô kìa lân kìa! Sừng của lân, họ hàng của vua đông đúc, ô kìa lân kìa! [zh.wikisource.org] _______________ Rõ ràng chữ 定 định được viết gọn (dùng qua lại) của chữ 顁 định mà không sợ bị hiểu sai, chữ định trên phải hiểu là 顁 định, cái trán chứ không hiểu theo nghĩa chữ 定 định nghĩa gốc là yên định được. Tựa như chữ 交 giao trong 交龍 giao long vậy. Chữ 顁 định được ít dùng, chữ này là chữ hình thanh gồm chữ 定 định biểu âm, chữ 頁 hiệt biểu nghĩa. Mà hai chữ chữ 定 định và 頁 hiệt đều được giải chữ trong Thuyết văn rồi, cho nên không giải nữa cũng dễ hiểu thôi. Có lẽ "Thi - Chu nam" là một trong những bài hiếm hoi dùng chữ 定định (thông 顁 định) để chỉ cái trán. Kim văn, giáp cốt văn không có cũng vì nó hiếm dùng, mà giáp cốt, kim văn từ thời rất xưa, không phải chữ nào cũng được ghi lại.
  10. Thuồng luồng & giao long '... Phương Ngôn đã ghi nhận Giao 交 là con thuồng luồng (giao 蛟) [揚子·方言] 衿謂之交。 又同蛟 [Dương Tử, Phương Ngôn] câm vị chi giao, hựu đồng giao Tiếng Mường (Bi) còn gọi con thuồng luồng là khủ, và khủ cũng có nghĩa là sấu ... 水经注/37 Thủy kinh chú 北魏郦道元? — 527 Lịch Đạo Nguyên ? — 527 thời Bắc Ngụy soạn 叶榆水... 又东迳龙渊县故城南又东左合北水。建安二十三年立州之始蛟龙蟠编于南、北二津故改龙渊以龙编为名也。 Sông Diệp Du... Lại chảy về phía đông qua phía nam thành cũ của huyện Long Uyên, lại chảy về phía đông, phía trái hợp với nước sông phía bắc. Năm Kiến An thứ hai mươi ba bắt đầu lập châu, giao long chiếm cứ ở hai bờ nam, bắc, cho nên đổi tên Long Uyên, lấy tên Long Biên làm tên vậy. [zh.wikisource.org] ________________ Ít nhất đến năm Kiến An thứ hai mươi ba (năm 222 Công nguyên) thời Hán Hiến Đế vẫn còn giao long (cá sấu) ở huyện Long Biên của Giao Chỉ, tức Hà Nội ngày nay. 平吳大誥 Bình Ngô đại cáo 黎阮廌(1380 – 1442) Nguyễn Trãi (1380 – 1442) thời Lê soạn 開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而 斧 山 淘 沙, 採 明 珠 則 觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。 Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi căng yêu tù hải. Mở bãi tìm vàng, xông nơi lam chướng mà đục núi đãi cát, Tìm lấy ngọc châu, xông nơi cá sấu mà buộc eo bơi biển. [vi.wikisource.org] Nguyên văn là 蛟龍 giao long. Tác giả nói giao long ở biển là sai, phải nói 鯨鯢 kinh nghê hợp hơn. 1. Tục xăm mình không chỉ hiện diện trong đời sống người Việt Cổ, nhưng cũng có trong các dân tộc khác - theo kinh Lễ 《 禮-王制》 曰“ 東方曰夷 被發文身 又曰 南方曰蠻 雕題交趾 (A) 西方曰戎 被發衣皮 北方曰狄 衣羽毛穴居 《Lễ - Vương Chế》 viết “Đông phương viết dibị phát văn thânhựu viếtNam phương viết manđiêu đề giao chỉTây phương viết nhungbị phát y bìBắc phương viết địchy vũ mao huyệt cư Một cách hiểu câu trên là Nam phương xăm hình trên trán (hình con giao, con thuồng luồng) - và Đông phương (vùng biển đông hay Mân Việt) cũng có tục xăm mình ... 2. Chữ giao 交 khi chỉ sinh vật, có ít nhất 11 nghĩa như sau 2.1 giao là loài (chim) CÒ - giao thanh là cò xanh 2.2 giao là loài thuồng luồng (con CÙ) 2.3 giao là loài rồng nước 2.4 giao là loài cá sấu 2.5 giao là rồng mẹ 2.6 giao là rồng con 2.7 giao là rồng không sừng 2.8 giao là rồng có vẩy 2.9 giao là loài cá mập 2.10 giao là loài cá đuối 2.11 giao là loài người cá ...v.v... (xem thêm chi tiết trang [www.viethoc.org]) Rõ ràng là các học giả Trung Quốc không nhất trí về loài giao này, điều này khá dễ hiểu vì có thể âm giao là phiên âm lại từ một tiếng khác vùng ('ngoại ngữ'). Vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi xem qua tiếng Mường (Bi), mà một số âm và nghĩa Việt Cổ (lâu đời) vẫn còn hiện diện 3. khủ (Mường Bi) là con thuồng luồng (con cù - HV cư u thiết, *khu - khứ cửu thiết) trong huyền thoại người Mường - nhưng khủ cũng có nghĩa là sấu (quả sấu) so với dạng khlu (rồng, tiếng Pọong) - liên hệ Mường Việt kh-s rất rõ nét khi so sánh khảo - sáo khan - san khách - sách khăc - sặc khap - sắp khầm - sầm khét - sét khot - sọt khủ - sấu không - sông ...v.v... Do đó ta có cơ sở giải thích khủ (con sấu) cũng chính là con thuồng luồng. Quá trình biến âm có thể từ dạng cổ *krau thành *ku (cù) và khủ, tuy nhiên phụ âm r/l thường nhược hoá (Bà La Môn > Phạm/Phạn, crème > kà lem > kem gần đây hơn chẳng hạn) để *krau thành *kau (giao < keo kẻ cổ cò ...). Không những thế, tiếng Mường (Bi) có dạng nhao (giao ước) cho thấy kết quả của quá trình ngạc cứng hoá cũng như giao 交 thành nhau tiếng Việt (như gian 閒 &gt; nhàn, giao 跤 &gt; nhào, ngã nhào, gia 家 &gt; nhà ... phản ánh một lớp từ rất lâu đời trong tiếng Việt). Vài ý mọn cùng đóng góp (A) không chắc kinh Lễ nguyên thuỷ viết Chỉ là 趾 hay 阯, 址, 沚 (ba dạng sau chỉ địa danh, thông với 趾). Tuy nhiên Giao có thể chỉ Nam Giao, Giao Chỉ cho thấy cho thấy chức năng chữ này quan trọng hơn là Chỉ (bàn về chữ Giao 交) 州名 南越地 漢置交州。《 書 · 堯典》 申命羲叔宅南交。《 蔡傳》 南交 南方交趾地 châu danhNam Việt địaHán trí Giao Châu。 《Thư·Nghiêu điển》 thân mệnh hy thúc trạch Nam Giao。 《Thái truyện》 Nam Giaonam phương Giao Chỉ địa Như đã ghi nhận ở trên, Giao 交 và âm giao (âm trung cổ) khi chỉ sinh vật (thường dùng chung với các từ khác như long, hổ ...) có phạm trù nghĩa rất rộng 2.1 giao là loài (chim) CÒ - giao thanh là cò xanh 2.2 giao là loài thuồng luồng (con CÙ) 2.3 giao là loài rồng nước 2.4 giao là loài cá sấu 2.5 giao là rồng mẹ 2.6 giao là rồng con 2.7 giao là rồng không sừng 2.8 giao là rồng có vẩy 2.9 giao là loài cá mập 2.10 giao là loài cá đuối 2.11 giao là loài người cá (sống ở Nam Hải) ...v.v... Các bạn có thể xem vài hình ảnh 'phục nguyên' về loài hổ giao trang này [www.hudong.com] - nhắc lại: hổ giao 虎蛟 được ghi trong Sơn Hải Kinh, phần Nam Sơn Kinh 《山海经•南山经》… 泿水 出焉而南流注于海。其中有虎蛟其状鱼身而蛇尾其音如鸳鸯。食者不肿可以已痔 《San Hải Kinh•Nam Sơn Kinh》 “… Ngân thủy xích yênnhi nam lưu chú ư hải。Kỳ trung hữu hổ giaokì trạng ngư thân nhi xà vĩkì âm như uyên ương。Thực giả bất thũngkhả dĩ dĩ trĩ。”  Nhân đây cũng nêu ra một tương quan ngữ âm về chữ đà 鼉 (loài sấu)(A), Thuyết Văn Giải Tự/TVGT không ghi các chữ ngạc 鶚, 鰐, 鱷 nhưng lại có chữ đà 鼉 cho thấy chữ này đã hiện diện rất lâu Trích TVGT, biên hiệu 8956 鼉[ 徒何切 ] 水蟲。 似蜥易 長大。 從黽單聲 Đà[đồ hà thiết ]thủy trùng。Tự tích dịchtrưởng đại。Tùng mãnh đơn/đan thanh Rõ ràng là tả loài sấu là động vật sống dưới nước, giống như thằn lằn (tích dịch) nhưng to và dài ... Đặc biệt chú ý đến âm đọc là đan/đơn 單 Đà hiện diện trong kinh Thi, kinh Lễ ... hay 魚鱉黿鼉《 墨子 · 公輸》 Ngư miết ngoan đà《Mặc Tử·Công Thâu》 ...v.v... Thành phần hài thanh/HT đan/đơn (thiền, thiện) 單 lại có các tương quan sau 單 đan/đơn - TRơn (đơn giản, không có phức tạp như tay trơn, trống trơn...) 墠 thiện - đất TRơn (dọn trống để giã gạo hay tế lễ ...) 殫 đàn - TRọn (làm hết, làm trọn ...) 鱓 thiện - con LUƠN (hay 鱔) ... Do đó có khả năng đàn (đà) 鼉 có liên hệ đến *TRan hay *tlan (con trăn) của các ngôn ngữ phương Nam ( - xem thêm chi tiết trong bài viết [www.khoahoc.net]. Đây là một liên hệ tương thích với giang-*kr(l)ung mà nhiều người biết đến hơn ... Phản ánh quá trình giao lưu văn hoá ngôn ngữ thời Tiên Tần giữa các dân tộc đã từng hiện diện ở khu vực Dương Tử và phía Nam mà bác fanzung luôn nhắc đến trong phần Hán Việt (chủ đề Thuyết Văn Giải Tự online và phần Lịch Sử ....). Vài hàng vắn tắt gợi ý và cùng đóng góp (A) đà còn được gọi là Dương Tử ngạc 揚子鱷, đà long 鼉龍, trư bà long 豬婆龍 ... Đà có cách đọc trung cổ là đồ hà thiết 徒何切 (ĐV), đường cán thiết 唐幹切 (TV), thời chiến thiết 時戰切 và đồ duyên thiết 徒沿切 (âm điền 音田). Trong các cách ghi âm trên, đồ 徒 còn là TRÒ và điền 田 còn có thể đọc là TRẦN 陳 (sách Xuân Thu ghi Trần Hoàn 陳完 thì Luận Ngữ ghi Điền Hoàn 田完 ...). ( ngoài ra, xem qua các liên hệ Đồng (tử) - tròng mắt Đuốc - chúc Đột (nhiên) - chợt Đầm - chằm - chèm Đìa - trì Đỏ - chu 朱 (màu đỏ) Đò - chu 舟 (thuyền nhỏ) Đố 蠹 - chú 蛀 Đũa - trợ Đuổi - truy Đản - trần Đản - trứng Định chính chánh - trán Đoàn - tròn Đoàn 團 - truyền 傳 cùng thanh phù chuyên 専, so với chuyên/đoàn 摶 (vo tròn)... Điền Hoàn 田 完 (trong ‘Luận Ngữ’) - Trần Hoàn 陳 完 (trong ‘Xuân Thu’)4 Đục - trọc4 Độc (độc lâu, đầu lâu) - trốc Đồn - truyền - chuyền (loan) Đốn - truân - xuân Độn - trốn Đinh (bộ trùng + chữ đinh丁hài thanh/HT) - chuồn (chuồn) Đìa - trì Điểm (chữ chiêm HT) - chấm Điệp - chập, chắp, chất Đuốc - chúc Đúng - trúng (trung HT) Đổng 董 - Trọng 重– Gióng/thánh Dóng/Gióng là Phù Đổng thiên vương - một trong Tứ Bất Tử. So sánh với chủng 種 - giống, giồng - trồng cũng có thanh phù trọng重. Chữ Nôm dỏng (giỏng) còn dùng bộ khẩu 口 hợp với chữ Đổng 董: theo Truyền Kỳ Mạn Lục 'dỏng môi mà rao lời gièm chê' … Đồng 僮- Tráng 壯 (Choang) ... Đồ - chè – trà/chà (xem hình vẽ so sánh phạm trù nghĩa bên dưới) Có lẽ phải dài dòng giải thích thêm về Thuyết Văn Giải Tự/TVGT để thấy tầm quan trọng của tài liệu này - thí dụ như chữ giang 江 chẳng hạn - theo TVGT (biên hiệu 6953) 江[ 古雙切 ] 水。 齣蜀湔氐徼外崏山 入海。 從水工聲。 Giang[cổ song thiết ]thủy。Xích thục tiên để kiêu ngoại Dân (Mân) sannhập hải。Tùng thủy công thanh。 *kông tương ứng với các âm địa phương (Quảng Đông, Triều Châu ...) bây giờ - xem các cách đọc địa phương bên TQ trang này [www.zdic.net] - chính vì vậy mà một dạng âm cổ phục nguyên của giang là *krong với khả năng phụ âm r nhược hoá để cho ra dạng *kong hay gong1 bây giờ ... So sánh với các ngôn ngữ khác trong vùng klong (tiếng Bru), khlông (Miến Cổ), krung (Môn Cổ), krun (Môn), kron (Bahna), khlon (Mường Hung), krong (Chăm), karung (Katu), rong (Mnông, Kơho), kroung (Brou), Xrong (Sơđăng), khong (Mường Bi), krông (Riang), sungai (Inđônêsia), klang (Palaung) khung (Thái) ...v.v...(A) Rõ ràng là *krong có gốc phương Nam như nhận xét của Jerry Norman và Mei Tsu-Lin (1976), Paul Benedict (1976) ... Ở VN thì Hoàng Thị Châu, Trần Quốc Vượng ... cũng nêu ra nhận xét trên. Các học giả TQ cũng bắt đầu nhận ra quá trình giao lưu văn hoá ngôn ngữ thời cổ đại (khác hắn với định kiến 'nguồn gốc Hán')(A) - như bàn về cách dùng giang và hà như sau: 南方的河流多称“江”,如:“珠江”、“沅江”;北方的河流多称“河”,如:“洛河”、“渭河”、“漳河” Nam phương đích hà lưu đa xưng“ giang”, như:“ Châu giang” 、“ Nguyên giang”; Bắc phương đích hà lưu đa xưng“ hà”, như:“ Lạc hà” 、“ Vị hà” 、“ Chương hà” xem chi tiết trang [www.zdic.net] Vài hàng gợi ý (A) khuynh hướng này càng ngày càng rõ nét khi các dữ kiện ngôn ngữ (các dân tộc ở phía Nam như Choang, Di ...), khảo cổ ... được công bố (so với các dữ kiện lịch sử) (thêm chi tiết về âm LUƠN cho rõ ý) 鼉[ 徒何切 ] 水蟲。 似蜥易 長大。 從黽單聲 Đà[đồ hà thiết ]thủy trùng。Tự tích dịchtrưởng đại。Tùng mãnh đơn/đan thanh Rõ ràng là tả loài sấu là động vật sống dưới nước, giống như thằn lằn (tích dịch) nhưng to và dài ... Đặc biệt chú ý đến âm đọc là đan/đơn 單 Đà hiện diện trong kinh Thi, kinh Lễ ... hay 魚鱉黿鼉《 墨子 · 公輸》 Ngư miết ngoan đà《Mặc Tử·Công Thâu》 ...v.v... Thành phần hài thanh/HT đan/đơn (thiền, thiện) 單 lại có các tương quan sau 單 đan/đơn - TRơn (đơn giản, không có phức tạp như tay trơn, trống trơn...) 墠 thiện - đất TRơn (dọn trống để giã gạo hay tế lễ ...) 殫 đàn - TRọn (làm hết, làm trọn ...) 鱓 thiện - con LUƠN (hay 鱔) - một dạng chữ Nôm cổ hơn viết TRƠN bằng chữ liên 漣 so với chữ lươn thường viết dựa vào âm phù liên 連 Bác T. viết : ' ... Tên "Thuồng luồng" cũng chỉ là đồng âm khác của "thằn lẳn" = t'lăn trong ngữ hệ các tiếng Đông Nam Á mà thôi, đề chỉ con sấu. Từ âm "t'tăn" phái sinh ra các âm: rắn, rồng, long, trăn, lươn, chằn.... (Có thể tìm đọc lại một bài viết giá trị của HGS Huỳnh Sanh Thông về vấn đề này) "Giao long" là biểu tượng vật tổ hai con cá sấu giao nhau do dân Lạc Việt xâm lên mình hoặc khắc trên các hiện vật như trống đồng, rìu...' Quá trình giao lưu văn hoá và ngôn ngữ thời Tiên Tần còn để lại vết tích trong các chữ Hán chỉ loài sấu. Đà hay đàn 鼉 là loài cá sấu đặc biệt ở TQ, đà có thể đọc là đàn thiền thiện điền và liên hệ đến dạng *tlan *tlon hay LUƠN - THUỒNG LUỒNG (đơn âm hoá) - THẰN LẰN (A) tiếng Việt hiện đại. Tiếng Trung (Quốc) hiện nay dùng ngạc 鼉 hay 鶚, 鰐, 鱷 ... (è Bắc Kinh, ngok6 QĐ...). Xem lại Thuyết Văn Giải Tự, biên hiệu 8956: 鼉[ 徒何切 ] 水蟲。 似蜥易 長大。 從黽單聲 Đà[đồ hà thiết ]thủy trùng。Tự tích dịchtrưởng đại。Tùng mãnh đơn/đan thanh Rõ ràng là tả loài sấu là động vật sống dưới nước, giống như thằn lằn (tích dịch) nhưng to và dài ... Đặc biệt chú ý đến âm đọc là đan/đơn 單 Đà hiện diện trong kinh Thi, kinh Lễ ... hay 魚鱉黿鼉《 墨子 · 公輸》 Ngư miết ngoan đà《Mặc Tử·Công Thâu》 ...v.v... Đàn hay đà còn được gọi là Dương Tử ngạc 揚子鱷, đà long 鼉龍, trư bà long 豬婆龍 ... Đà có cách đọc trung cổ là đồ hà thiết 徒何切 (ĐV), đường cán thiết 唐幹切 (TV), thời chiến thiết 時戰切 và đồ duyên thiết 徒沿切 (âm điền 音田). Trong các cách ghi âm trên, đồ 徒 còn là TRÒ và điền 田 còn có thể đọc là TRẦN 陳 (sách Xuân Thu ghi Trần Hoàn 陳完 thì Luận Ngữ ghi Điền Hoàn 田完 ...). Thành phần hài thanh/HT đan/đơn (thiền, thiện, điền) 單 lại có các tương quan sau 單 đan/đơn - TRơn (đơn giản, không có phức tạp như tay trơn, trống trơn...) 墠 thiện - đất TRơn (dọn trống để giã gạo hay tế lễ ...) 殫 đàn - TRọn (làm hết, làm trọn ...) 鱓 thiện - con LUƠN (hay 鱔) - một dạng chữ Nôm cổ hơn viết TRƠN bằng chữ liên 漣 so với chữ lươn thường viết dựa vào âm phù liên 連 禪 thiền - còn để lại vết tích của tổ hợp phụ âm tl- trong cách dùng chùa chiền: Việt Bồ La ghi chùa chiền, chùa TRIỀN ... Chữ Nôm còn dùng dạng triền 廛 để ký âm (Cư Trần Lạc Đạo, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập ...) ....v.v... Như vậy ta có cơ sở vững chắc để liên hệ trực tiếp âm đàn (đà) và các dạng tlan/klan trăn lươn ... tiếng Việt. Cũng như chữ giang 江 có nguồn gốc phương Nam, tương quan đàn (đà)-*tlan là một khám phá quan trọng phản ánh giao lưu ngôn ngữ thời cổ đại của các dân tộc từng sinh sống ở vùng Dương Tử Giang và phía Nam, trước khi văn hoá Hán khởi sắc (thời Tần, Hán và Đường) và ảnh hưởng mạnh mẽ các nước láng giềng. Vài hàng rất vắn tắt gợi ý (A) để ý định nghĩa SẤU (< khu/khau < *krau - keo/giao) theo tự điển Việt Bồ La : con thằn lằn, con rắn mối Hai học giả Jerry Norman và Mei Tsu-Lin viết tiếp trong bài và chứng minh từ HV giang 江 là mượn từ ngôn ngữ phương Nam (Nam Á) qua dạng cổ phục nguyên *krong (tiếng Việt hiện nay là sông). Kết quả này thoạt tiên là một cái sốc cho các học giả TQ hay những nhà văn hoá bảo thủ - nhưng sau 40 năm khuynh hướng tổng quát là được đa số các nhà ngôn ngữ chấp nhận (ở VN thì có Hoàng Thị Châu, Trần Quốc Vượng ...). Ngoài ra, sinh vật cổ đại sống trên sông (cá sấu) mà người Hán gọi là đàn (đà, tuó giọng BK) 鼉 cũng có nhiều tương quan ngữ âm với *dran/klan trăn rắn chằn lươn (đơn tiết) và thuồng luồng thằn lằn (song tiết) như đã ghi nhận ở các trang trên: như chú trọng vào âm lươn mà tiếng HV tương ứng là thiện: 鱓 thiện - con LUƠN (hay 鱔) - một dạng chữ Nôm cổ hơn viết TRƠN bằng chữ liên 漣 so với chữ lươn thường viết dựa vào âm phù liên 連. Thiện từng dùng như đàn (đà): 《Sử Kí•thái sử công tự tự》 ngoan thiện dữ xứ。 《Chú》 tác ẩn viết thiện âm đà 《 史記 • 太史公自序》 黿鱓與處。《 註》 索隱曰 鱓音鼉; Thiện còn đọc là đàn (đà) theo 《Tập vận》 đường hà thiếtâm đà。Dữ đà đồng《 集韻》 唐何切 音駝。 與鼉同. Qua dạng *tlan (trăn, lươn … đan/đà) ta có thể giải thích liên hệ ngữ âm của ‘đan’ cá sấu (thằn lằn, thuồng luồng - song tiết) và ‘lươn’ (đơn tiết); Dựa vào ngữ âm Hán thì rất khó giải thích và hiểu tại sao shàn (giọng BK hiện nay) lại liên hệ đến tuó (đà)! Âm thiện HV (thường diễn thiết/ĐV 常演切) thì lại là âm Hán trung cổ nhập vào tiếng Việt và là kết quả của nhiều quá trình biến âm nên rất khác biệt với dạng (gần) nguyên thuỷ lươn mà khẩu ngữ vẫn còn duy trì. Đây là các vết tích của cách gọi hay hiểu dân dã: 1. trích tự điển Việt Bồ La (1651) SẤU con thằn lằn, con rắn mối ...v.v... 2. trích thư tịch cổ TQ 《 集韻》 唐何切 音駝。 與鼉同 < Tập Vận > đường hà thiết, âm đà - dữ nghĩa đồng Tập Vận (khoảng năm 1037) ghi rằng thiện 鱓 (lươn) cũng là đà 鼉 (sấu) ...v.v... Từ góc độ 'cách phân loại' dân gian, ngay tiếng dragon (rồng) Tây phương cũng từng có nghĩa là rắn lớn - dragon có gốc Hi Lạp δράκων là con rắn nước, rắn lớn (serpent) ...v.v... Tóm lại, không nên ngạc nhiên về cách gọi hay phân loại dân dã về các loài sinh vật, nhất là khi văn hoá ngôn ngữ còn thô sơ ... Vấn đề trở nên lý thú hơn khi xem chữ ngạc cổ Unicode 2729C (bộ trùng + chữ nghịch 屰 HT)- Thuyết Văn Giải Tự/TVGT biên hiệu 8875 [吾各切 ]似蜥易長一丈水潛吞人卽浮出日南。从虫屰聲 ngạc[ngô các thiết ]tự tích dịchtrường nhất trượngthủy tiềmthôn nhân tức phùxuất Nhật Nam。Tùng trùng nghịch (ngược/ngạc) thanh Nhận xét thêm: định nghĩa của TVGT của ngạc là tựa tích dịch (giống như con thằn lằn) y như đan/đà 鼉 - cả hai dùng dài (nhưng tại sao diễn tả sấu phương Nam lại chi tiết hơn con sấu Dương Tử ở ngay trong nhà mình?)(A). Nhật Nam thời Hán có lẽ là từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến Quảng Ngãi, Bình Định. Vài hàng gợi ý (A) khả năng thông tin từ Giao Chỉ có lẽ rất hữu hiệu? (như Bụt hay Phật chẳng hạn) hay tài liệu góp nhặt và 'bị' đem về từ Giao Chỉ ??? Trong các chữ chỉ loài sấu, đan/đà 鼉 hiện diện trong giáp văn, kim văn, triện văn (cổ nhât) - còn chữ ngạc cổ Unicode 2729C chỉ có triện văn và khải thể so với các dạng 鶚, 鰐, 鱷 chỉ có khải thể (gần đây nhất) - âm ngạc theo một số tài liệu thì liên hệ đến ác 惡 (è BK, giọng Quảng Đông còn có thể đọc là ngok3)... Điều này cho thấy một lớp từ rất cổ (giang/sông, đan-đa/*dran-trăn-lươn ... sống trên sông) còn tồn tại trong tiếng Hán, vết tích của giao lưu ngôn ngữ của các dân tộc đã từng cư ngụ ở khu vực Dương Tử Giang (do đó đan-đà là Dương Tử ngạc) và phía Nam. Phần sau bài viết chứng minh khả năng giang 江 có nguồn gốc phương Nam (Nam Á - Austroasiatic) và nơi giao lưu văn hoá khi tộc Hán di thiên và gặp các dân tộc phương Nam ở khu vực Hồ Bắc (湖北): '...(3) 江**krong/kang/chiang ‘Yangtze River’, ‘river’ “river” in Mon-Khmer: VN sông; Bahnar, Sedang krong; Katu karung; Bru klong; Gar, Koho rong; La¬ven dakhom; Biat n’hong; Hre khroang; Old Mon krung. Cf. Tib. Klu ‘river’; Thai khl¬ : ŋ‘canal’. Chiang has a Second Division final in MC, and according to the Yakhontov-Pulleyblank theory, this implies a model –r- or –l- in OC.** The OC reading for this word in Li Fang-kuei’s system is *krung.* * Further evidence for –r- consists of the fact that some words with as their phonetic have disyllabic doublets, whose first syllable has a velar initial and whose second syllable is lung: 空=窟窿 ‘hole, empty,’ 项=喉咙 ‘neck, throat,’ 鸿=屈龙 ‘wild goose.’** The final has been reconstructed as –ung by Karlgren and Tung T’ung-ho, -awng by Pulleyblank, and –ong by Yakhontov.** In spite of these minor differences, it is clear that the final had a rounded back vowel in OC. It is immediately clear that the Mon-Khmer forms are related to the Chinese form. What remains to be discussed is the direction of the loan. There are reasons for thinking that the Chinese borrowed this word from the AA’s. OC has four common words for names for rivers: 水shui, 川ch’uan, 江chiang, 河ho. The first two are general words; the last two are proper names, chiang ‘Yangtze River’ and ho ‘Yellow River.’ On the other hand, krong etc. is a general word for ‘river’ in AA. In borrowing, a general word for a descriptive term often becomes a proper name in the receiving language; witness Mississippi and Wisconsin, ‘big river’ and ‘big lake’ in Algonquin, which became proper names in American English. The two general words for ‘water’ and ‘river’ in OC, shui and ch’uan, occur in the oracle bones and can be traced to Sino-Tibetan: ‘water’ Tib. ch’u; Bara, Nago dui; Kuki-chin tui; Chinese 水* siwər/świ/shui, 川* t’iwen/tś’iwän/ch’uan. The nasal final in ch’uan probably represents the vestigial form of a plural ending, and there is a phonological parallel in the sound gloss in the Shuo-wen 水准也(准 **ń*wən); shui and ch’uan are therefore cognaes. OC 河 ¬ɑ/g’*earlier * g’al or *g’*r, we suspect, is a borrowing from Altaic. ** Chiang is of relatively late origin. It did not occur in the oracle bones.** The bronze inscriptions contain one occurrence of this word, and the Book of Odes, nine occurrences, in five poems. When the word chiang acquired the general meaning of ‘river,’ its use as names of rivers was limited to south of the Yangtze. Both these facts again suggest that chiang was a borrowed word. Other etymologies for chiang are less plausible. Tibetan had klu‘river.’ But a Sino-Tibetan origin of klu/krong is ruled out because chiang is a late word with a restricted geographic distribution, and because MC 2nd Division generally corresponds to Tib. –r- but not to –l-. Similarly, the basic word for ‘river’ and ‘water’ in Tai is na:m; khl¬:ŋ is a secondary word restricted in its meaning to ‘canal’, with limited distribution in the Tai family; it is unlikely to be the source of Chinese * krong. The most plausible explanation is that both Tibetan and Thai also borrowed klu* and khl¬:ŋ from AA. We will now try to show that the Chinese first came into contact with the Yangtze in Hupei, anciently part of the Ch’u Kingdom. This must be region where the Chinese first came into contact with AA’s and borrowed chiang from them. The Han River has its source in Shensi whence it passes through Honan and joins the Yangtze in Hupei. As the Chinese came down from their homeland in the Yellow River valleys, it was natural for them to follow the course of the Han River. This general conclusion is also supported by textual evidence. The word chiang ‘Yangtze River’ occurs in five poems in the Book of Odes. In Ode 9,204,262, and 263, chiang occurs in conjunction with han ‘Han River, ’ either in the compound chiang-han or in an antithetical construction wit han in the other part. The only poem containing chiang but not han is Ode 22. But his poem belongs to the section Chao-nan 召南, and this term is also what the Chou people used for the region which formerly belonged to Ch’u.** Moreover, according to several authorities, the term 江南(literally ‘south of the River’) as used during the Han dynasty refers to Ch’ang-sha 长沙 and Y-chang 豫章, in present Hunan and Kiangsi.** The implication is that chiang in chiang-nan refers to the middle section of the Yangtze and not the entire river. The notion that the Chinese met the AA’s in the Middle Yangtze region of course does not exclude their presence elsewhere; it just gives a precise indication of one of their habitats. It is perhaps pertinent to mention that the Vietnamese believed that their homeland once included the region around the Tung-t’ing Lake 洞庭湖 which is in that general area.** Another Vietnamese legend states that their forefather married the daughter of the dragon king of Tung-t’ing Lake.** Textual and epigraphic evidence indicates that the word chiang came into the Chinese language between 500 and 1000 B.C. Mao Heng’s Commentary to the Odes also assigned all poems celebrating the southern conquest to the reign of King Hsan (827-781 B.C.). The first half of the first millennium B.C. can therefore be taken as a tentative date for the AA presence in the Middle Yangtze region. Recently, however, archaeologists are increasingly inclined to the view that contact between North China and South China occurred as early as the Shang dynasty: artifacts showing strong Shang and early Chou influence have been discovered in the lower Yangtze region, and according to some scholars, also in the Han River region.** If further investigations show that pre-Chou traffic between the North and the South was extensive and bi-directional, we may have to revise the date for chiang upward...' hết trích. Trường hợp chữ đan/đà 鼉 là loài sinh vật cổ đại ở sông Dương Tử - cũng như ở những vùng khí hậu ôn hoà hơn (phương Nam) cũng không thể tách hẳn tên sông (giang - nơi cư trú) và nếu giang (sông) có nguồn gốc phương Nam (vd. Nam Á) thì chẳng ngạc nhiên gì khi đan/đà 鼉 cũng cùng một nguồn gốc! Chính vì thế mà ta có những tương quan mà tôi đã ghi nhận về đan (đà 鼉) và *dran/tlan (thuồng luồng/sấu), trăn, rắn, lươn, chằn, chình ... (chú ý đến thành phần hài thanh đơn/điền 單): 單 đan/đơn - TRơn (đơn giản, không có phức tạp như tay trơn, trống trơn...) 墠 thiện - đất TRơn (dọn trống để giã gạo hay tế lễ ...) 殫 đàn - TRọn (làm hết, làm trọn ...) 鱓 thiện - con LUƠN (hay 鱔) - một dạng chữ Nôm cổ hơn viết TRƠN bằng chữ liên 漣 so với chữ lươn thường viết dựa vào âm phù liên 連. Thiện (lươn) từng được viết là 蟬, 蟺 ... 禪 thiền - còn để lại vết tích của tổ hợp phụ âm tl- trong cách dùng chùa chiền: Việt Bồ La ghi chùa chiền, chùa TRIỀN ... Chữ Nôm còn dùng dạng TRiền 廛 để ký âm (Cư Trần Lạc Đạo, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập ...) 燀 đan - rán RAN (giọng Bắc xát hoá cao độ > zán, so với rán, ran giọng Nam và chiên). Dựa vào các biến âm đ-l/r và ch- ta có thể giải thích được các dạng rán/ran và chiên đều cùng một gốc là đan hay *dran/tlan. Để ý ran cơm, cá ... đều hàm ý LĂN qua lăn lại ... 撣 đạn/điền/triền - RĂN (răn dạy, Thuyết Văn: đề trì dã 《說文》提持也)- một dạng chữ Nôm dùng bộ khẩu + chữ LÂN 粦. Bây giờ tiếng Trung (Quốc) không còn nghĩa cổ RĂN (dạy) nữa, mà là phẩy/quét bụi Cách đây hơn 60 năm, học giả Nguyễn Bạt Tuỵ cũng nhận ra liên hệ giữa các từ thằn lằn, rắn và trăn và cho rằng chúng cùng một gốc Khme là tlan (A). Học giả An Chi lại cho rằng chúng có gốc Hán lân 鱗 : trước là vẩy cá, sau 'đặc dụng' thành rắn (lân > rắn) (. An Chi nhắc lại cách giải thích của Lê Trung Hoa về thằn lằn là do lần lần (từ từ) biến âm thành: lần lần > thần lần > thằn lằn ©; Tuy nhiên An Chi bác bỏ cách giải thích này và cho rằng thằn lằn là dạng đơn âm hoá của tlan: tôi đồng ý với AC ở đây! Với dạng cổ *dran/tlan, ta có thể giải thích được dạng đơn tiết đan/đà 鼉 có từ thời giáp văn, kim văn ... và trăn, chằn, rắn, lân, chình, lươn ... và song tiết (đơn âm hoá) thằn lằn, thuồng luồng (D). Vài hàng gợi ý và cùng đóng góp (A) Nguyễn Bạt Tuỵ - "Chữ và vần Việt Nam" (1949) và in lại trong "Ngôn ngữ học Việt Nam" (1959) ( trang 107-112 Tập 4 "chuyện đông chuyện tây" - NXB Trẻ TP HCM (2006) © "Nguồn gốc của các từ thằn lằn, bồ nhìn" Lê Trung Hoa, trong Ngôn Ngữ & Đời Sống - 12, 1997 trang 26. (D) không phải chỉ có tiếng Việt mới còn giữ vết tích của các dạng đơn âm hoá từ dạng cổ *dran/tlan ~ klan mà chính tiếng Hán Cổ vẫn còn vài vết tích này: từ thời Lễ Ký 《 禮 • 月令》 蚯蚓出 《Lễ•Nguyệt lệnh》 khâu dẫn xuất。 (khâu dẫn là con trùn, giun/earthworm) 《 本草》 蚯蚓 一名曲蟺 一名土龍 入藥用。 白頸是其老者 《Bản Thảo》 khâu dẫnnhất danh khúc thiệnnhất danh thổ longnhập dược dụng。Bạch cảnh thị kì lão giả (để ý cách gọi con giun/trùn là khúc thiện/lươn và thổ long ~ *t-long) 《 爾雅》 謂之螼螾 巴人謂之朐䏰 《Nhĩ Nhã》 vị chi khẩn dẫnBa nhân vị chi cầu nhẫn (người nước Ba gọi giun là cầu nhẫn) Các dạng song tiết khâu dẫn, cầu nhẫn, khẩn nhẫn ... đều có thể được phục hồi một dạng âm cổ là *k-lan Điều đáng chú ý là dẫn 蚓 (âm cổ *lơn/lan, l- ngạc hoá thành d- nh-) còn liên hệ đến một loài RẮN 《 正字通》 蛇名。 大如蚓 有鱗 其尾如首 《Chính tự thông》 xà danh。Đại như dẫnhữu lânkì vĩ như thủ Tiếp tục chủ đề thuồng luồng và giao long - một vấn đề quan trọng mà không thiếu nhiều nghi vấn là địa danh Giao Chỉ - như đã ghi nhận trong phần Tiếng Việt, chủ đề "Địa danh - Kẻ Chợ, Cái Dăm, Cổ Lãm, Cửa Hàn?" Giao còn có nghĩa là con cù (khũ Mường Bi, thuồng luồng) (A). Có lẽ nên nhắc lại ở đây vết tích xưa nhất của cụm từ Giao Chỉ là trong Lễ Ký phần Vương chế (dù rằng đã bị nhuận sắc bởi các học giả thời Hán): 《 禮-王制》 曰“ 東方曰夷 被發文身 又曰 南方曰蠻 雕題交趾 (A) 西方曰戎 被發衣皮 北方曰狄 衣羽毛穴居 《Lễ - Vương chế》 viết “Đông phương viết dibị phát văn thânhựu viếtNam phương viết manđiêu đề giao chỉTây phương viết nhungbị phát y bìBắc phương viết địchy vũ mao huyệt cư Rõ ràng là đoạn này diễn tả phong tục tập quán của các giống dân trước thời Tần Hán: phương Nam thì có phong tục xăm vào trán (điêu đề) giao chỉ: giao 交 ở đây là con cù (thuồng luồng): Khang Hy giải thích về chữ giao 交 này là 又同蛟。【 前漢 · 高帝紀】 則見交龍於上。【 史記】 作蛟。 Hựu đồng giao。 【Tiền Hán·Cao đế kỉ】 tắc kiến giao long ư thượng。 【Sử Kí】 tác giao。 Và chỉ viết bằng dạng 阯 trong Sử Ký Tư Mã Thiên, Hán Thư nhưng lại là dạng 趾 trong các thư tịch đời sau như Hậu Hán thư, Từ Nguyên, Từ Hải ... Chỉ còn có các dạng khác như 址, 沚. Ba trong bốn dạng chỉ ở trên đều có nghĩa địa danh (hay bờ sông). Tóm lại, trong ngữ cảnh của đoạn trích từ Lễ Ký, Giao Chỉ không thể là hai (ngón) chân giao nhau như mà là hình hai con thuồng luồng (hay cá sấu sau này) giao nhau (đối xứng). Sách Lĩnh Nam chích quái (phần Hồng Bàng thị truyện) viết như sau: '...Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói: - Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại. Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tich nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy...' - trích [vi.wikipedia.org] - cũng trong trang này, một tộc trưởng của bộ lạc Maori cũng cho thấy phong tục xăm mặt và trán những hình đối xứng nhau. Ngay hiện tại ở miền nam TQ cũng còn một số giống dân xăm mặt ... Vài hàng cùng đóng góp (A) có thể Khang Hy đã đổi 阯 thành 趾 theo khuynh hướng (miệt thị) sau này! 趾 là chân, "Giao chỉ 交趾" đúng nghĩa tiếng Hán phải hiểu là "bắt chéo chân", có lẽ nói về kiểu ngồi bệt xuống đất, khoanh chân bằng tròn xếp lên nhau giống tư thế Phật ngồi tòa sen ấy, hay là ngồi trên ghế nhưng gác chân lên nhau (đắc chí ngồi rung đùi!), nói chung chẳng có nghĩa gì xấu cả. Nhưng chả hiểu từ đời nào có người dịch nhăng cuội, bảo chỉ 趾 là ngón chân cái, giao chỉ là ngón chân giao nhau, thật nực cười! hãy xem toàn văn mục từ 趾 trong Khang Hy TĐ, không có chổ nào giải 趾 là ngón chân cả: 【廣韻】【集韻】【韻會】諸市切【正韻】諸氏切音止。【爾雅·釋言】趾足也。【釋名】趾止也。言行一進一止也。【易·賁卦】賁其趾。【詩·豳風】四之日舉趾。【禮·曲禮】請袵何趾。 又【左傳·宣十一年】略基趾。【註】趾城足也。 又【禮·王制】南方曰蠻雕題交趾。【前漢·地理志】交趾郡屬交州。 又通作止。【前漢·法志】當斬左止者笞五百。【註】師古曰止足也。 --- Dầu sao thì Giao Chỉ = Kẻ Chợ vẫn là cách giải thích phù hợp nhất nếu căn cứ vào các khảo sát ngữ âm học lịch sử: 交, phục nguyên âm thượng cổ theo Bernhard Karlgren: ko ̆g , theo Vương Lực: keô 趾, phục nguyên âm thượng cổ theo Karlgren: ȶi ̯əg , Vương Lực: tɕiə, , theo William Baxter: tjəʔ , cả ba cách phục nguyên đó đều gần với âm "chợ" của tiếng Việt. Lễ kí viết về đặc điểm phong tục của bốn nhóm dân: Di, Man, Nhung, Địch. Nhóm Man là "xăm trán" 雕題, "giao chân" 交趾. "Giao chân" chính là cách ngồi xổmn như Fanzung nói, khác với cách ngồi bó chân của người Hán thời xưa. Nói thêm, cũng từ phong tục ngồi xổm, giao chân 交趾 của dân Man miền nam nên trong sách vở thời Tiên Tần đã dùng từ 交趾 Giao Chỉ để chỉ dân miền nam. Dân Giao Chỉ thì có đất Giao Chỉ, cho nên dùng từ 阯 thông với 趾 với ý chỉ địa danh đại biểu cho phương nam giống các địa danh U Đô 幽都 ở phía bắc. Do đó nếu nói về phong tục giao chân thì phải viết là 交趾, còn viết về vùng đất hoặc tên dân tộc thì dùng 交趾 và 交趾 đều được, sách vở xưa có viết như thế. Tuy nhiên dùng từ 交趾 là chuẩn xác với ý nghĩa ban đầu nhất. [www.viethoc.org] Như vậy 交趾 không phải là con giao long, con cá sấu vậy. Còn từ 交龍 thông với 蛟龍 là khác. Đây là từ ghép quá rõ ràng, đi kèm với chữ 龍 để chỉ loài thuộc họ rồng, chữ 交 và 蛟 đồng âm cho nên dùng qua lại mà không sợ người đọc hiểu sai. Nếu chỉ dùng chữ 交 để chỉ con rồng thì chẳng ai hiểu cả, phải dùng dùng chữ 蛟. Đây là tùy vào ngữ cảnh thôi. Chữ 交 với ý nghĩa là con giao long chỉ khi nó đi kem với chữ 龍. Tương tự ví dụ từ "giao tiếp", "giao hảo"... phải viết là 交接, 交好 mà không thể viết 蛟接, 蛟好 được.
  11. Thời đại đồ đá cũ là một thời đại tiền sử được phân biệt bằng sự phát triển của các công cụ đá. Về cơ bản, nó chiếm gần như toàn bộ lịch sử loài người trên Trái Đất, kéo dài từ khoảng 2,5 triệu năm trước, với sự xuất hiện của các công cụ bằng đá do các dạng người nguyên thủy như người khéo tay (Homo habilis) đưa ra, cho đến khi có sự xuất hiện của nông nghiệp vào khoảng 10.000 TCN. Thuật ngữ "Paleolithic", nghĩa văn chương là "Thời đại cổ của đá", đã được nhà khảo cổ học John Lubbock tạo ra vào năm 1865 và có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "παλαιός", "paleos" (cổ, cũ) và "λίθος", "lithos", (đá). Thời đại đồ đá cũ nói chung kết thúc khi thời đại đồ đá giữa (Mesolithic) bắt đầu, hoặc ở các khu vực với quá trình đồ đá mới hóa là sự bắt đầu của thời đại đồ đá cũ trên (Epipaleolithic). Thời đại đồ đá cũ được đặc trưng bằng việc sử dụng các công cụ bằng đá được ghè đẽo, mặc dù người nguyên thủy vào thời gian đó cũng sử dụng các công cụ bằng gỗ và xương. Các sản phẩm nguồn gốc hữu cơ cũng được sử dụng làm công cụ, bao gồm da và các sợi thực vật; tuy nhiên các loại công cụ này đã không được bảo quản ở mức độ đáng kể. Theo truyền thống, thời đại đồ đá cũ được chia ra thành ba thời kỳ, là thời kỳ đồ đá cũ hạ, thời kỳ đồ đá cũ trung và thời kỳ đồ đá thượng. Các thời kỳ này đánh dấu các tiến bộ trong công nghệ và văn hóa ở các xã hội loài người nguyên thủy khác biệt. Việc phát hiện hai ngôi mộ cổ có niên đại 27.000 năm chứa thi thể của những đứa trẻ sơ sinh khẳng định rằng trẻ nhỏ cũng chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội của những người thợ săn và người hái lượm thuộc thời kỳ đồ đá cũ. Nhóm nghiên cứu do Christine Neugebauer-Maresch thuộc Viện Hàn lâm khoa học Vienna (Áo) dẫn đầu đã phát hiện hai ngôi mộ thời đồ đá cũ. Trong ngôi mộ thứ nhất có hai đứa bé vài tháng tuổi được bao phủ đất son màu đỏ, một trong hai đứa bé có mang những hạt chuỗi nhỏ bằng ngà. Mộ của chúng được bảo vệ bởi một đoạn xương bả vai của voi mammoth tựa vào một mảnh ngà voi. Dựa theo kích thước xương đùi, các nhà nghiên cứu kết luận ra hai em bé này cùng tuổi và có thể sinh đôi. Ngôi mộ thứ hai chứa một đứa trẻ 3 tháng tuổi. Mộ người lớn thuộc thời kỳ đồ đá cũ đã từng được phát hiện, nhưng đây là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu tìm thấy mộ của trẻ sơ sinh. Những nghi lễ trên chứng tỏ trẻ sơ sinh cũng được hoàn toàn xem như những thành viên trong cộng đồng.
  12. KHỞI NGHĨA TÂY VU VƯƠNG Một số sử gia xác quyết rằng: Tại Giao Chỉ và Cửu Chân vào năm 111Tcn, xảy ra cuộc nổi dậy của nhân dân, chống lại sự xâm lược của nhà Tây Hán, do thủ lĩnh Tây Vu lãnh đạo. Nhà sử học Trần Quốc Vượng còn cho rằng: Tây Vu Vương đã thiết lập được một thái ấp hay chính quyền tại Cổ Loa. Căn cứ để khẳng định điều này là dựa vào câu: “Viên tả tướng của Âu Lạc cũ là Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương” được chép trong Sử ký cũng như Hán thư và câu: “Quận Giao Chỉ, có chín vạn hai ngàn bốn trăm bốn chục hộ, bảy mươi tư vạn một ngàn hai trăm ba mươi bảy khẩu. Có mười huyện: Liên Thổ; An Định; Câu Lậu; Mi Linh; Khúc Dương; Bỉ Đái; Kê Từ; Tây Vu; Long Biên; Chu Diên” được chép trong Hán thư. Thế nhưng khi xem xét lại thì chúng ta thấy những nghi vấn sau: 1. Sử ký chép: “Quân của Qua thuyền tướng quân – Hạ lệ tướng quân và quân của nước Dạ Lang mà Trì Nghĩa Hầu đem đi chưa xuống đến nơi thì đã bình nước Nam Việt rồi. Bèn đặt thành chín quận. Từ lúc quan Úy tên là Đà làm vua về sau là năm đời được chín mươi ba năm thì mất nước”. Như vậy là theo như Sử ký chép thì, chia nước Nam Việt thành chín quận, nhưng không cho biết tên của chín quận này. Trong khi đó; Hán thư chép: “Mùa xuân năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111Tcn), nhà vua đến làng Tân Trung huyện Cấp, lấy được đầu của Lữ Gia, do đó đặt ra huyện Hoạch Gia. Quân của Trì Nghĩa Hầu chưa kịp xuống đến nơi, nhà vua bèn sai đánh người Di miền tây nam, dẹp được chúng. Rồi đặt nước Việt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ”. Như vậy theo như Hán thư chép thì, nước Việt cũng được chia thành chín quận, đồng thời còn cho biết tên của chín quận ấy. Trong khi đó, Sử ký được Tư Mã Thiên soạn từ năm 109Tcn đến năm 91Tcn, còn Hán thư được Ban Cố soạn từ năm 58 đến năm 62. Như thế, cho thấy 2 tác phẩm này cách nhau khoảng 150 năm. Một điều cần hết sức lưu ý là, sự kiện nam chinh của Mã Viện kết thúc năm 43, đánh dấu việc thực tế Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc nhà Hán, diễn ra trước khi Hán thư được soạn. Như đã thấy, Hán thư đã làm rõ hơn tên của chín quận, nhưng tên của chín quận mà Hán thư đã kể, có phải là tên của chín quận ở thời điểm năm 111Tcn. Tên của chín quận mà Tư Mã Thiên biết nhưng không ghi trong Sử ký có trùng với tên của chín quận mà Ban Cố viết trong Hán thư. Hãy xem những bằng chứng sau đây để thấy rõ: Sử ký chép: “Năm thứ ba mươi ba(năm 214Tcn), phát những kẻ từng trốn tránh, ở rể, nhà buôn đi cướp lấy đất Lục Lương, đặt thành các quận Quế Lâm, Tượng, Nam Hải đem lính thú đến giữ”. Hán thư chép: “Năm Nguyên Phượng thứ năm(năm 76Tcn), mùa thu, bỏ quận Tượng, chia gộp vào các quận Uất Lâm, Tang Kha”. Như vậy là tới năm 76Tcn, tức là sau Tư Mã Thiên soạn xong Sử ký 16 năm, quận Tượng vẫn tồn tại, trong khi chín quận được Hán thư viết đến, không có tên quận này. Điều này chứng tỏ: Tên chín quận mà Hán thư đã kể, không phải là tên chín quận ở thời điểm 111Tcn. Tuy nhiên điều này chỉ cho phép chúng ta nghi ngờ thời điểm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc Hán, chứ không cho phép chúng ta khẳng định. 2. Về sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương, thì: Trong Sử ký phần Nam Việt Úy Đà liệt truyện không hề có bất cứ ghi chép nào về sự kiện này, tuy nhiên có ghi chép sự kiện Cư Ông dụ dân Âu Lạc, thậy vậy, Sử ký chép: “Quan Giám quận Quế Lâm của nước Nam Việt tên là Cư Ông dụ người Âu Lạc theo nhà Hán”. Trong khi đó; Hán thư chép: “Tương Thành Hầu làm chức Giám tên là Cư Ông trước làm chức Quế Lâm Giám [quan giám sát quận Quế Lâm của nước Nam Việt ngày trước] nghe tin quân Hán phá thành Phan Ngu, dụ hơn bốn mươi vạn dân Âu Lạc hàng nhà Hán, phong tước Hầu, thực ấp tám trăm ba mươi hộ. Ngày nhâm thân tháng năm [năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thời Vũ Đế (năm thứ 111 trước Công nguyên)] phong” và “Hạ Phu Hầu Tả tướng Hoàng Đồng làm Tả tướng của Âu Lạc ngày trước chém Tây Vu Vương, có công phong tước Hầu, thực ấp bảy trăm hộ. Ngày đinh dậu tháng tư [năm Nguyên Phong đầu tiên thời Vũ Đế (năm thứ 110 trước Công nguyên)] phong”. Như vậy, theo Hán thư thì, công lao của Cư Ông và Hoàng Đồng, cũng tương đương nhau mà thôi. Thế nhưng, tại sao Sử ký lại chỉ nhắc tới sự kiện Cư Ông dụ người Âu Lạc, mà lại không nhắc tới sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện. Một lưu ý nữa cần chú ý là, năm Cư Ông được phong hầu là năm 111Tcn, tức là sau khi nhà Hán diệt Nam Việt, còn Hoàng Đồng thì được phong hầu năm 110Tcn, tức là sau khi nhà Hán thôn tính Mân Việt. Nếu Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương năm 111Tcn, ở Giao Chỉ(Nam Việt) thì hẳn là ông phải được phong hầu cũng năm với Cư Ông. Sử ký chỉ cung cấp cho chúng ta thông tin về sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương trong phần biểu, thật vậy, Sử ký - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu chép: “Hạ Li Hầu vì làm Tả tướng của nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu”. Trong khi Hán thư cung cấp thông tin cho chúng ta không chỉ trong phần biểu, Hán thư - Cảnh Vũ Chiêu Tuyên Nguyên Thành công thần biểu chép: “Hạ Phu Hầu Tả tướng Hoàng Đồng làm Tả tướng của Âu Lạc ngày trước chém Tây Vu Vương, có công phong tước Hầu, thực ấp bảy trăm hộ. Ngày đinh dậu tháng tư [năm Nguyên Phong đầu tiên thời Vũ Đế (năm thứ 110 trước Công nguyên)] phong. Hạ Phu Hầu tên Phụng Hán nối nghiệp, ba năm sau, phạm tội chửi rủa Nhà vua, bắt chém ngang lưng. Huyền tôn ở quận Nam Dương”. Mà còn trong cả phần truyện, nhưng điều thú vị lại nằm trong chính thông tin mà phần truyện này cung cấp, Hán thư - Mân Việt truyện(Tây Nam Di-Lưỡng Việt-Triều Tiên truyện) chép: “Kịp lúc đó tướng của nước Đông Việt là Đa Quân, nghe tin quân Hán đến, bèn bỏ quân hàng, được phong làm Vô Tích Hầu. Có viên tướng của nước Âu Lạc là Tả Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương, được phong làm Hạ Phu Hầu”. Theo như thông tin trên mà Hán thư chép, thì sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương xảy ra tại Mân Việt vào năm 110Tcn, chứ không phải tại Giao Chỉ năm 111Tcn. Tổng kết: Như vậy là có cơ sở để khẳng định, sự kiện Hoàng Đồng chém Tây Vu Vương xảy ra tại Mân Việt vào năm 110Tcn, đồng thời khẳng định không có cuộc khởi nghĩa Tây Vu Vương nào ở Giao Chỉ, Cửu Chân vào năm 111Tcn. ÂU LẠC VÀ TÂY ÂU TRONG SỬ KÝ 1. Âu Lạc Sử ký - Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Thái sử công nói: Quan Úy tên là Đà làm vua vốn bắt nguồn từ Nhâm Ngao. Gặp lúc nhà Hán mới định, được xếp vào bậc chư hầu. Long Lư Hầu gặp khí ướt bệnh, cho nên Đà được thế càng kiêu. Người Âu Lạc đánh nhau làm nước Nam Việt dao động. Quân Hán vào cõi thì Anh Tề vào chầu. Sau đó mất nước là có gốc từ người con gái họ Cù; Lữ Gia giữ lòng trung nhỏ mọn, khiến cho Đà không còn dòng dõi. Lâu thuyền tướng quân theo ý muốn riêng mà khinh nhờn lầm lỗi; Phục ba tướng quân bị khốn cùng mà tỏ rõ trí khôn, biến họa thành phúc. Sự biến chuyển của thắng thua ví như tơ vò”. Như vậy thì, căn cứ vào mạch truyện, Âu Lạc trong câu “Người Âu Lạc đánh nhau làm nước Nam Việt dao động” là chỉ Mân Việt. Hán thư - Nam Việt truyện chép: "Vả lại đất phía nam ẩm ướt, ở giữa Man Di, phía tây có nước Tây Âu, dân chúng ở đây nửa yếu, ngoảnh mặt về phía nam xưng Vương; phía đông có nước Mân Việt, dân chúng ở đây có vài nghìn người, cũng xưng Vương; phía tây bắc có nước Trường Sa, dân chúng của nước ấy một nửa là người Man Di, cũng xưng Vương. Lão phu tự ý hiệu xưng Đế, để tự làm vui. Lão phu tự dẹp yên đất của trăm ấp, phía đông, tây, phía nam, bắc có mấy vạn, mấy nghìn dặm, quân mang giáp có hơn trăm vạn, nhưng ngoảnh mặt về phía bắc mà xưng thần theo nhà Hán, vì sao vậy ? Là vì không dám quên việc của người trước".(Thư gửi Hán Văn Đế của Triệu Đà). Sử ký - Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Lục Giả đến nước Nam Việt, Đà sợ lắm, soạn thư tạ lỗi nói rằng: "Thần là kẻ già cả người Man Di tên là Đà. Ngày trước Cao Hậu ngăn cách nước Nam Việt, thần trộm ngờ vua nước Trường Sa gièm thần, lại nghe đồn rằng Cao Hậu giết hết họ hàng, đào đốt mộ tổ tiên của Đà, ho nên tự ý đánh vào biên giới nước Trường Sa. Vả lại miền nam ẩm thấp, người Man-Di ở giữ, phía đông có nước Mân Việt có ngàn người hiệu xưng làm vương, phía tây có nước Âu Lạc là nước của dân cởi trần mà cũng xưng vương. Kẻ bầy tôi già này tự trộm xưng hiệu đế là tạm để tự làm vui, há dám để vua trên nghe nói đến sao!". Lại rập đầu tạ tội, nguyện mãi làm bầy tôi phên dậu, vâng chức cống”. Như vậy thì, Tư Mã Thiên đã đổi Tây Âu(của Triệu Đà) thành Âu Lạc. Nên Âu Lạc trong câu “phía tây có nước Âu Lạc là nước của dân cởi trần mà cũng xưng vương” là chỉ Tây Âu. Sử ký - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu chép: “Hạ Li Hầu vì làm Tả tướng của nước Âu Lạc chém Tây Vu Vương có công được phong hầu”. Như phần trên chúng ta đã chứng minh sự kiện này xảy ra tại Mân Việt, nên Âu Lạc trong câu này có thể là chỉ Mân Việt hoặc có thể là chỉ Nam Việt. Tổng kết: Như vậy là Âu Lạc trong Sử ký được sử dụng để chỉ vùng rộng lớn gồm: Mân Việt, Tây Âu, Nam Việt. Chúng ta có thể mở rộng: Âu Lạc là chỉ vùng rộng lớn, mà nhà Tần đã sai Đô Thư đem 50 vạn quân đi xâm chiếm. 2. Tây Âu Hoài nam tử chép: “Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến. Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn”. Chúng ta biết rằng: Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng, Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng, Phiên Ngung thuộc quận Nam Hải, Nam Dã là một huyện của quận Dự Chương, Dư Hãn(Dư Can) là một huyện của quân Dự Chương (theo Hậu hán thư). Và kênh Linh Cừ chảy theo hướng đông sang tây, nối Tương Giang (một chỉ lưu của sông Dương Tử) với Ly Giang (một chỉ lưu của sông Tây Giang). Như vậy: Hầu hết các đạo quân Tần đều đóng ở khu vực rặng núi Ngũ Lĩnh. Thêm vào đó, Hoài Nam Tử cũng cho chúng ta biết thêm, quân Tần đã giết được vua nước Tây Âu, tuy nhiên người Việt không chịu hàng, nên bầu thủ lĩnh mới và tiếp tục cuộc kháng chiến. Sử ký chép: “Lại sai quan Úy là Đồ Thư đem quân thuyền lầu xuống phía nam đánh người Bách Việt, sai quan Giám tên là Lộc đào kênh chở lương, vào sâu đất Việt, người Việt bỏ trốn. Ngày dài chờ đợi, lương thực thiếu hết, người Việt ra đánh, quân Tần thua to. Nhà Tần mới sai quan Úy tên là Đà đem quân đến đóng ở đất Việt. Lúc bấy giờ, nhà Tần phía bắc gây họa binh đao với người Hồ, phía nam kết oán với người Việt, đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được mà lui cũng không được. Trong hơn mười năm, đàn ông mặc giáp, đàn bà chuyển chở, khổ chẳng muốn sống, tự treo cổ trên cây bên đường, tuyệt vọng nhìn nhau. Đến lúc Tần Hoàng Đế băng, thiên hạ nổi lên chống” và “Năm thứ ba mươi ba (năm 214 TCN) phát những kẻ từng trốn tránh, ở rể, nhà buôn đi cướp lấy dất Lục Lương, đặt thành các quận Quế Lâm, Tượng, Nam Hải, đem lính thú đến giữ”. Hán thư chép: “Năm Nguyên Phượng thứ năm(năm 76 TCN), mùa thu, bỏ quận Tượng, chia gộp vào các quận Uất Lâm, Tang Kha”. Như vậy là theo như Sử ký chép thì quân Tần chiếm được đất Lục Lương đặt ra ba quận là Quế Lâm, Tượng, Nam Hải. Cũng theo như Hán thư chép thì quận Tượng nằm giữa Uất Lâm và Tang Kha. Lại theo như Sử ký thì quân Tần đóng ở đất vô dụng, tiến không được mà lui cũng không được, như vậy là cuộc nam chinh của quân Tần dừng lại ở Tây Âu. Không có cơ sở để khẳng định, quân Tần tiến xuống Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Sử ký chép: “Hơn một năm thì Cao Hậu chết(năm 180Tcn), liền rút quân. Đà nhân đó đem quân uy hiếp nơi biên giới, dùng tiền của trao tặng cho vua các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc, bắt vua các nước ấy theo phục”. Theo như Sử ký chép thì, vị thế của Tây Âu Lạc cũng tương tự như Mân Việt trong mối quan hệ với Nam Việt. Sử ký lại chép: “Đến năm Kiến Nguyên thứ sáu(năm 135Tcn), vua nước Mân Việt đánh nước Nam Việt”. Thông tin thú vị này cho thấy việc”bắt vua các nước ấy theo phục” dừng lại ở mức độ nào. Thực tế Mân Việt cũng như Tây Âu Lạc hoàn toàn độc lập với Nam Việt. Một điểm cũng cần làm rõ ở đây là: nước Tây Âu Lạc được hiểu như thế nào? Ở phần trên chúng ta đã biết Âu Lạc là một vùng rộng lớn, bao gồm Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu. Nên Tây Âu Lạc là Âu Lạc ở phía Tây hay chính là nước Tây Âu. Thêm một sự kiện nữa, Sử ký chép: “Quan giám quận Quế Lâm của Việt tên là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán”. Sự kiện này củng cố việc Tây Âu hoàn toàn độc lập tới khi Hán diệt Nam Việt năm 111Tcn. Âu Lạc trong câu này là chỉ vùng Quế Lâm, có thể cả Tượng. Tổng kết: Nhà Tần sai Đô Thư nam chinh, chiếm đất Lục Lương, đặt ba quận Nam Hải, Tượng, Quế Lâm. Quân Tần vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của người Tây Âu ở Quế Lâm và Tượng, sau khi Sử Lộc đào xong kênh Linh Cừ, quân Tần giết được quân trưởng và chiếm được đất của người Tây Âu, nhưng đó cũng là thời điểm bắt đầu nhà Tần bị sa lầy ở Tây Âu, cho tới khi diệt vong. Nam Việt hình thành sau đó, tồn tại song song và độc lập với Tây Âu cho tới khi nhà Hán thôn tính năm 111Tcn. GIAO CHỈ, CỬU CHÂN, NHẬT NAM (CỔ VIỆT) 1. Trong Sử ký Sử ký không cung cấp bất kỳ thông tin nào về ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam(Cổ Việt). Chẳng hạn như: Sử ký – Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Quân của Qua thuyền tướng quân – Hạ lệ tướng quân và quân của nước Dạ Lang mà Trì Nghĩa Hầu đem đi chưa xuống đến nơi thì đã bình nước Nam Việt rồi. Bèn đặt thành chín quận. Từ lúc quan Úy tên là Đà làm vua về sau là năm đời được chín mươi ba năm thì mất nước”. Hay Sử ký – Bình chuẩn thư chép: “Nhà Hán dùng binh ba năm liền (từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm Nguyên Phong thứ hai), đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu về phía tây đến phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới tạm theo tục cũ của họ để trị, không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo gần quận mới nào mà cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận mới đó”. Đáng chú ý nhất là: Sử ký – Hóa thực liệt truyện chép: “Các quận Hành Sơn, quận Cửu Giang, đất Giang Nam, quận Dự Chương, quận Trường Sa, là miền Nam Sở. Tính nết người dân phần lớn giống người miền Tây Sở. Sau khi dời đô từ thành Dĩnh đến thành Thọ Xuân, cũng là một nơi đô hội. Mà huyện Hợp Phì hai phía nam, bắc kề sông là nơi tụ góp da thú, cá ướp, gỗ. Người dân có tính nết xen lẫn với người đất Mân Trung, Vu Việt. Cho nên người miền Nam Sở ưa biện luận, khéo nói mà kém tín. Miền phía nam sông Giang ẩm ướt, đàn ông chết sớm. Có nhiều tre, gỗ. Quận Dự Chương có vàng ròng; quận Trường Sa có quặng chì, thiếc, nhưng những thứ này có ít ỏi, thu lấy không đủ để bù phí tổn. Từ núi Cửu Nghi, quận Thương Ngô về phía nam đến quận Đam Nhĩ, tính nết người dân giống với phía nam sông Giang, mà có nhiều người Dương Việt. Thành Phiên Ngu cũng là một nơi đô hội, là nơi thu góp ngọc trai, sừng tê, đồi mồi, trái cây, vải”. Rõ ràng, chúng ta có cơ sở để nghi ngờ Cổ Việt bị bắc thuộc, hay theo như Sử ký thì không có bằng chứng, chứng minh Cổ Việt bị bắc thuộc. Đó là ít nhất tới năm Tư Mã Thiên soạn xong Sử ký năm 91Tcn. 2. Trong Hán thư Khoảng 150 năm sau khi Sử ký hoàn thành, thì Hán thư cũng được viết. Chúng ta có thể dẫn ra những trích dẫn khá rõ ràng về Cổ Việt: Hán thư chép: “Mùa xuân năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN), nhà vua đến làng Tân Trung huyện Cấp, lấy được đầu của Lữ Gia, do đó đặt ra huyện Hoạch Gia. Quân của Trì Nghĩa Hầu chưa kịp xuống đến nơi, nhà vua bèn sai đánh người Di miền tây nam, dẹp được chúng. Rồi đặt nước Việt thành các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ”. Hay Hán thư lại chép: “Tước hầu tên là (Cư) Ích Xương nối tước, đến năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54 TCN) mắc tội khi làm Thái thú Cửu Chân lén sai người ra mua tê ngưu, nô tì(người hầu gái), tôi tớ(người hầu trai) từ trăm vạn người trở lên, làm việc vô đạo, bị tội chết”. Vậy là theo như Hán thư thì Cổ Việt thuộc Hán từ những năm 111Tcn, một sự kiện rất rõ ràng được biết tới ở Cổ Việt là Thái thú Cửu Chân tên Cư Ích Xương bị tội chết, năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54Tcn). 3. Trong Thủy kinh chú Thủy kinh chú do Lịch Đạo Nguyên viết cách Hán thư khoảng trên dưới 500 năm, tuy nhiên tác giả trích dẫn lại Giao châu ngoại vực ký, đã bị thất lạc, cách Hán thư khoảng trên dưới 300 năm. Giao châu ngoại vực ký chép: "Vua nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ”. Trong khi như Sử ký chép: “Mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ năm (năm 112 TCN), lấy Vệ úy là Lộ Bác Đức làm Phục ba tướng quân, xuất từ quận Quế Dương, xuống sông Hối; lấy Chủ tước đô úy là Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân, xuất từ quận Dự Chương, xuống cửa Hoành Phố; hai người Việt ngày trước được phong làm Quy Nghĩa Hầu làm Qua thuyền tướng quân, Hạ lệ tướng quân, xuất từ quận Linh Lăng, có nguời xuống sông Li, có người đến nước Thương Ngô; sai Trì Nghĩa Hầu đem người có tội đất Ba-Thục đến phát quân của nước Dạ Lang, xuống sông Tang Kha. Đều hẹn gặp ở thành Phiên Ngu. Mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ sáu (năm 111 TCN), Lâu thuyền tướng quân đem quân mạnh đánh vào vách núi Tầm, phá cửa đá, lấy được thóc trên thuyền của người Việt, nhân đó lên phía trước, đánh gãy mũi nhọn của người Việt, đem vài vạn người đợi Phục ba tướng quân. Phục ba tướng quân đem kẻ có tội đi đường xa, hẹn gặp sau, rồi chỉ có mấy ngàn người hội với Lâu thuyền tướng quân, bèn cùng đi. Lâu thuyền tướng quân đi trước đến thành Phiên Ngu. Kiến Đức-Lữ Gia cùng giữ thành. Lâu thuyền tướng quân tự chọn chỗ lợi, đóng quân ở mé đông nam; Phục ba tướng quân đóng quân ở mé tây bắc. Kịp lúc trời tối, Lâu thuyền tướng quân đánh bại người Việt, phóng lửa đốt thành. Người Việt vốn nghe nói về tiếng tăm của Phục ba tướng quân, lại trời tối không biết quân kia nhiều hay ít. Phục ba tướng quân liền đóng trại, sai sứ giả đến gọi kẻ hàng đến, ban cho ấn, lại tha về sai dụ nhau. Lâu thuyền tướng quân ra sức đốt địch, quân địch quay lại vào trong trại của Phục ba tướng quân. Kịp lúc trời mờ sáng, người trong thành đều hàng Phục ba tướng quân. Lữ Gia-Kiến Đức từ buổi đêm đã cùng mấy trăm thuộc hạ trốn vào sông lớn, lấy thuyền đi về phía tây. Phục ba tướng quân lại nhân đó hỏi những kẻ có chức cao đã hàng mình, biết chỗ mà Lữ Gia chạy đến, sai người đuổi theo. Do đó viên Hiệu úy tư mã là Tô Hoằng bắt được Kiến Đức, được phong làm Hải Thường Hầu; quan Lang người Việt là Đô Kê bắt được Gia, phong làm Lâm Sái Hầu”. Theo như Sử ký thì vua Việt là Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia ngay từ đầu đã chống lại nhà Hán, quyết giữ thành và đánh nhau với Lộ tướng quân, không hề có chuyện sai 2 sứ giả trông coi hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân tới gặp Lộ Bác Đức. 3. Trong Hậu Hán thư Hậu Hán thư được Phạm Diệp soạn vào thế kỷ thứ 5, cũng cách Hán thư tương đối xa, tuy nhiên đây là cuốn sử cung cấp nhiều thông tin về Cổ Việt, cũng như những đánh giá cao về giá trị của nó. Sử ký chép: “Nhà Hán dùng binh ba năm liền (từ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đến năm Nguyên Phong thứ hai), đánh người Khương, diệt nước Nam Việt, từ thành Phiên Ngu về phía tây đến phía nam quận Thục đặt ra mười bảy quận mới tạm theo tục cũ của họ để trị, không thu tô thuế. Các quận Nam Dương-Hán Trung trở đi đều tùy theo gần quận mới nào mà cấp tiền lương, đồ dùng, đồ xe ngựa cho quan quân của quận mới đó”. Theo như đó, giả như Cổ Việt có bị nhà Hán thôn tính năm 111Tcn, thì ở Cổ Việt, vẫn sử dụng tục cũ của người Việt để trị, chứ không theo luật của người Hán. Đồng thời cũng không thu tô thuế. Đến thời Vương Mãng thì như. Hậu hán thư chép: “Thời Bình Đế (năm 1Tcn - năm 5), người quận Hán Trung là Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, dạy bảo dân chúng dần dần theo lễ nghĩa. Tên tuổi sánh ngang với Diên. Cuối thời Vương Mãng, đóng bờ cõi tự giữ. Đầu năm Kiến Vũ, sai sứ giả nạp cống, phong làm Diêm Thủy Hầu. Phong tục ở đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai quan Thái thú ấy”. Chúng ta biết được phong tục Hán, được truyền bá đầu tiên ở đất Lĩnh Nam, bởi hai viên quan Thái thú là Tích Quang và Nhâm Diêm. Nhưng đến năm 34, khi Tô Định làm Thái Thú Giao Chỉ đã: “Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng Mi Linh, gả làm vợ của người huyện Chu Diên là Thi Sách, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật ép buộc, Trắc oán giận, cho nên làm phản”. (Lời chú của Lý Hiền trong Mã Viện liệt truyện – Hậu Hán thư). Theo đó, chính Tô Định đã áp dụng luật Hán ở Cổ Việt, thay thế cho tục Việt, việc này đã góp phần nổ ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà, để rồi nhà Hán cử Mã Viện dẫn quân xuống phương nam để đàn áp. Và như Viện tâu Hậu Hán thư chép: “Tấu kể luật của người Việt khác với luật của người Hán đến hơn mười điều, liền nêu rõ phép tắc cũ với người Việt để gò buộc họ, từ đó về sau người Lạc Việt làm theo phép cũ của Mã tướng quân”. Như vậy thì, theo như Hậu Hán thư, thì ít nhất là sau năm 43, người Việt mới chịu tuân theo luật Hán, còn trước đó họ vẫn sử dụng luật Việt. Chúng ta đã thấy và sẽ thấy, hình thức tô thuế không được áp dụng tại Cổ Việt, ít nhất cho tới năm 34, mà chỉ tồn tại hình thức cống nạp. Có sự khác nhau tương đối giữa hai hình thức này, nếu như hình thức tô thuế, mang tính phổ quát trong toàn xã hội, chính quyền tại địa phương, cấp quận huyện chỉ là cơ quan trung gian, thực hiện mối quan hệ giữa triều đình và dân chúng, nó khẳng định sự tồn tại của quan hệ quản lý. Thì hình thức cống nạp mang tính cục bộ, thể hiện mối quan hệ mà chủ đạo là giữa triều đình với chính quyền địa phương, thường là cấp quận, mà ở đây là giữa Hán triều với Thái thú các quận. Nên trên thực tế chưa thể nói gì về mối quan hệ giữa triều đình với người dân, khi không xác định được nguồn gốc của đồ cống nạp, nó có thể là đồ nộp của người dân để cống triều đình hoặc có thể do quan lại có được(để cống triều đình), nhưng không phải từ người dân. Hán thư chép: “Tước hầu tên là (Cư) Ích Xương nối tước, đến năm Nguyên Phượng thứ tư (năm 54 TCN) mắc tội khi làm Thái thú Cửu Chân lén sai người ra mua tê ngưu, nô tì(người hầu gái), tôi tớ(người hầu trai) từ trăm vạn người trở lên, làm việc vô đạo, bị tội chết”. Theo như đó, Cư Ích Xương được ghi nhận là Thái thú ở Cổ Việt đầu tiên được biết tới. Hậu hán thư chép: “Thời Bình Đế (năm 1Tcn - năm 5), người quận Hán Trung là Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, dạy bảo dân chúng dần dần theo lễ nghĩa. Tên tuổi sánh ngang với Diên. Cuối thời Vương Mãng, đóng bờ cõi tự giữ. Đầu năm Kiến Vũ, sai sứ giả nạp cống, phong làm Diêm Thủy Hầu. Phong tục ở đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai quan Thái thú ấy”. Hậu hán thư chép: “Trước đây, Bành thân thiết với quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng, gửi thư nêu rõ oai đức của nhà nước, lại sai Thiên tướng quân là Khuất Sung gửi hịch đến các quận miền phía nam sông Giang, ban bố chiếu lệnh, do đó Nhượng cùng bọn Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Võ Lăng là Vương Đường, Thừa tướng Tràng Sa là Hàn Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, Thái thú Thương Ngô là Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang cùng nhau sai sứ nạp cống, đều được phong làm liệt hầu” và “Năm Kiến Võ thứ năm (năm 29) mùa đông, tháng mười hai, quan Mục bộ Giao Chỉ là Đặng Nhượng dẫn đầu các Thái thú của bảy quận sai sứ đến nạp cống”. Tiếp theo, người được biết tới là Tích Quang, làm Thái thú Giao Chỉ, từ thời Bình Đế(năm 1Tcn – năm 5). Theo Hoa dương quốc chí do Thường Cừ soạn thời nhà Tấn (năm 266 – năm 420) chép: “Quận Ngụy Hưng vốn là huyện Tây Thành quận Hán Trung. Vào thời Ai-Bình, người huyện là Tích Quang tên chữ là Trường Xung làm Thứ sử châu Giao (bộ Giao Chỉ), chuyển làm Thái thú Giao Chỉ. Kịp lúc Vương Mãng cướp ngôi, bèn chiếm quận không chịu theo. Bấy giờ Mãng đang có việc trong nước, chưa chú ý đến quận. Kịp lúc trong nước dấy binh, rút cuộc tự giữ quận. Vua Canh Thủy lên ngôi, cho làm quan cũ. Thế Tổ (vua Quang Võ) khen lòng trung ấy, gọi về bái làm Đại tướng quân, Triều hầu tế tửu, phong tước Diêm Thủy Hầu”. Căn cứ vào sự kiện Tích Quang được gọi về, bái làm Đại tướng quân, Triều hầu tế tửu, phong tước Diêm Thủy Hầu, thì Tích Quang thôi giữ chức Thái thú quận Giao Chỉ năm 29. Như thế tới khi có Thái thú thay thế là Tô Định năm 34, thì cũng đến 5 năm Giao Chỉ không có Thái thú. Chúng ta cũng thấy, Bành không những gửi thư cho Nhượng, mà còn phải sai Sung gửi hịch ban bố chiếu lệnh, đồng thời việc quan Mục bộ Giao Chỉ cùng Thái thú bảy quận sai sứ đi cống, cho thấy sự tự chủ của các quận. Hậu Hán thư chép: “Nhâm Diên tự Trường Tôn, người huyện Uyển, quận Nam Dương. Năm mười hai tuổi làm học trò, học ở thành Trường An, hiểu rõ kinh "Thi", "Dịch", "Xuân thu", tên tuổi lẫy lừng ở nhà Thái học” và “Đầu năm Kiến Vũ (năm 25 đến năm 56), Diên dâng thư lên nhà vua muốn xin về quê, quỳ bái ở triều đình. Chiếu lệnh đi làm Thái thú Cửu Chân. Quang Vũ sai dẫn đến gặp, ban cho ngựa, lụa, ra lệnh cho vợ con ở lại thành Lạc Dương”. Chúng ta thấy, trong các quận cử sứ đi cống nạp, không có quận Cửu Chân và Nhật Nam. Xem, chiếu lệnh cho quan văn Nhâm Diên, hiểu rõ sách kinh, sang làm Thái thú quận Cửu Chân, sau khi nhóm Đặng Nhượng quy thuận năm 29, đã khẳng định, quận Cửu Chân không có Thái thú. Ít nhất là suốt thời kỳ nhà Tân. Hậu hán thư chép: “Năm Kiến Vũ thứ mười hai(năm 36), người Man Lí ở vùng Kiếu Ngoại quận Cửu Chân là Trương Du thống lĩnh người của bộ lạc mình yêu thích lễ nghĩa xin nội thuộc, phong làm Quy Hán Lí Quân. Năm sau, người Man Di ở vùng Kiếu Ngoại đất Nam Việt dâng chim trĩ trắng, thỏ trắng. Đến năm thứ mười sáu(năm 40), người con gái ở quận Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái của mình là Trưng Nhị làm phản, đánh quận”. Hậu Hán thư chép: “Diên coi việc được bốn năm, nhà vua gọi về thành Lạc Dương, bị bệnh ở lại đấy, rồi chuyển làm quan Lệnh huyện Tuy Dương, quan dân quận Cửu Chân dựng đền thờ sống Diên”. Năm 36 thủ lĩnh Man Lí ở quận Cửu Chân xin được nội thuộc, nghĩa là trước đó, quận Cửu Chân tự chủ. Hay Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân được 4 năm, đến năm 33, thì bị thủ lĩnh Man Lí tên Trương Du, chống lại, nên đành bỏ về phương bắc, có thể vì thế mà năm 34 nhà Đông Hán cử võ tướng Tô Định sang. Dưới áp lực ấy, hai năm sau Trương Du phải xin nội thuộc. Nhưng xuất hiện câu hỏi thú vị: Nhân vật Trương Du này có vai trò không trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà và cuộc chiến giữa Mã Viện với Đô Dương. Như Hậu hán thư chép: “Viện đem hơn hai ngàn chiếc thuyền lầu lớn nhỏ, hơn hai vạn chiến sĩ đi đánh bè đảng của Trưng Trắc là bọn Đô Dương ở quận Cửu Chân, từ huyện Vô Công đến huyện Cư Phong”. Như vậy có thể thấy, vai trò của các Thái thú là không có, đối với xã hội Cổ Việt, việc Giao Chỉ tới 5 năm, Cửu Chân thì ít nhất là thời kỳ nhà Tân không có Thái thú, mà xã hội chẳng hề có chút xáo trộn nào cả. Có lẽ là bởi, cái hệ thống thực sự điều hành xã hội Cổ Việt nằm ở chỗ khác, chứ không phải nằm ở chức Thái thú, cái hệ thống ấy, chính là Chế độ Lạc tướng mà đã có lần Giao Châu ngoại vực ký đề cập đến “các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ”. Chế độ Lạc tướng này có từ khi nào? Chắc chắn không phải thời Hán rồi, vì trước khi Lộ tướng quân tới năm 111Tcn, thì cái chế độ này đã có rồi và chính ông để các Lạc tướng trị dân như cũ. Cũng chắc chắn không phải từ thời Nam Việt, vì vua Nam Việt chỉ đặt 2 viên điểm sứ trông coi Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi. Khi quân Tần tiến đánh Tây Âu, đã giết được quân trưởng của Tây Âu tên Dịch Hu Tống. Vậy có thể khẳng định, chế độ Lạc tướng vốn là chế độ nguyên bản của xã hội Cổ Việt và nó vẫn giữ được vai trò quyết định đối với xã hội Cổ Việt trước khi diễn ra cuộc khởi nghĩa Hai Bà. Như vậy: Trong suốt thời kỳ từ Nam Việt đến Đông Hán(năm 34). Các triều đại phương bắc, coi Cổ Việt là lãnh thổ của mình và chia thành các quận huyện, đặt các chức quan quản lý song chỉ dừng lại trên danh nghĩa. Thực tế, Cổ Việt vẫn hoàn toàn tự chủ, với chế độ hành chính-quyền lực(chế độ Lạc tướng) và luật pháp(tục Việt) riêng biệt, vốn là chế độ nguyên bản của xã hội Cổ Việt. Trước thời điểm năm 34 không hề có sự xâm phạm lợi ích của Cổ Việt trên tầm phổ quát, nhưng thực tế đã thay đổi khi võ tướng Tô Định được cử sang làm Thái thú Giao Chỉ. Nhà Tây Hán cũng như Nam Việt trước đây đã sử dụng kế sách Hòa hợp Bách Việt. Thông qua Tô Định, nhà Đông Hán chuyển từ kế sách này sang chính sách Khai thác thuộc địa. Sự xâm phạm quyền lợi của Cổ Việt xuất hiện, đồng thời hình thành ý thức rõ rệt về sự xâm lược này. Để rồi Hậu hán thư chép: “Đến năm thứ mười sáu (năm 40) có người con gái quận Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh quận. Do đó người Man-Lí các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều ứng theo, đánh cướp cả thảy sáu mươi lăm thành, tự lập làm vua”. Một điểm khá thú vị ở trích dẫn trên là, ngoài hai quận Cửu Chân và Nhật Nam hưởng ứng cuộc khởi nghĩa là điều có thể hiểu được, thì còn có quận Hợp Phố. Từ đó phỏng đoán, Hợp Phố là lãnh thổ của người Tây Âu, nên Thương Ngô và Uất Lâm là lãnh thổ của Nam Việt. Tây Âu và Cổ Việt gần gũi về địa lý, người Tây Âu và người Cổ Việt(Lạc Việt) gần gũi về tập tục, văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Mỗi tộc người sống tập trung tại những khu vực nhất định, là trung tâm của từng tộc người và về cơ bản mỗi tộc người có lãnh thổ riêng tương đối ổn địn, song tồn tại ít nhiều việc sống xen kẽ với nhau, giữa hai tộc Tây Âu và Lạc. Tổng kết: Cho tới năm 34 Cổ Việt vẫn độc lập, tự chủ. Có chế độ chính trị(Chế độ Lạc tướng), có Luật pháp(Luật Việt) từ thời vua Hùng. Những chính sách của bắc triều chỉ là hình thức. Tuy nhiên Cổ Việt cũng bước đầu tiếp xúc với hình thái khác. Từ năm 34, sự áp đặt về nhiều mặt từ nhà Đông Hán thông qua Tô Định, khiến cấu trúc xã hội Cổ Việt biến đổi, sự xâm lược được ý thức ngày càng rõ ràng, cho tới năm 40, ý thức ấy được cụ thể hóa bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trương. Đây là cuộc khởi nghĩa(kháng chiến) rộng khắp, thành công và vĩ đại. Năm 34 là năm bắc triều chuyển từ chính sách Hòa hợp Bách Việt(Cơ sở) sang Khai thác thuộc địa, từ [Tự nhận] Cai trị danh nghĩa sang Cai trị thực chất(xâm phạm lãnh thổ). Kẻ Kiếm Tìm Thủy kinh chú (Bắc Ngụy - Lịch Đạo Nguyên soạn) 《交州外域記》曰:交阯昔未有郡縣之時,土地有雒田。其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王、雒侯,主諸郡縣。縣多為雒將,雒將銅印青綬。後蜀王子將兵三萬,來討雒王、雒侯,服諸雒將,蜀王子因稱為安陽王。後南越王尉佗舉眾攻安陽王。安陽王有神人,名皋通,下輔佐,為安陽王治神弩一張,一發殺三百人。南越王知不可戰,卻軍住武寧縣。按《晉太康記》縣屬交趾。越遣太子名始,降服安陽王,稱臣事之。安陽王不知通神人,遇之無道,通便去,語王曰:能持此弩王天下,不能持此弩者亡天下。通去,安陽王有女名曰眉珠,見始端正,珠與始交通。始問珠,令取父弩視之。始見弩,便盜以鋸截弩訖,便逃歸報越王。南越進兵攻之,安陽王發弩,弩折,遂敗。安陽王下船,逕出於海。今平道縣後王宮城見有故處。《晉太康地記》縣屬交阯。越遂服諸雒將。 Giao châu ngoại vực kí chép: Đất đai quận Giao Chỉ thời xưa chưa đặt thành quận huyện có 'ruộng Lạc', ruộng này theo nước triều lên xuống, người dân làm lụng ruộng này nhân đó có tên là 'dân Lạc'. Đặt ra 'Lạc vương', 'Lạc hầu' làm chủ các quận huyện. Ở huyện có nhiều Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh. Sau có con 'vua Thục' đem ba vạn quân đến đánh Lạc vương, Lạc hầu, chinh phục các Lạc tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là 'An Dương Vương'. Sau đó vua nước Nam Việt là Úy Đà đem quân đánh An Dương Vương. An Dương Vương có 'người thần' tên là Cao Thông xuống giúp đỡ, bày cho An Dương Vương làm một cái 'nỏ thần' bắn một phát giết ba trăm người. Vua nước Nam Việt biết không đánh được, rút quân đóng ở huyện Võ Ninh. Xét Tấn Thái Khang kí thì huyện (Võ Ninh) thuộc quận Giao Chỉ. Vua nước Nam Việt sai Thái tử tên là Thủy hàng phục An Dương Vương, xưng thần mà thờ An Dương Vương. An Dương Vương không biết Thông là người thần, đối đãi Thông không phải đạo, Thông bèn bỏ đi, bảo An Dương Vương rằng: "Giữ được nỏ này thì làm vương trong thiên hạ, không giữ được nỏ này thì mất thiên hạ." Thông đã đi, An Dương Vương có con gái tên là Mị Châu thấy Thủy đoan chính, Châu bèn thông giao với Thủy, Thủy hỏi Châu sai lấy nỏ của cha cho mình xem. Thủy thấy nỏ liền lén lấy cưa cắt lẫy nỏ rồi trốn về báo cho vua Nam Việt biết. Vua nước Nam Việt tiến binh đánh An Dương Vương, An Dương Vương bắn nỏ, nỏ gãy, bèn thua. An Dương Vương xuống thuyền đi tắt ra ở biển. Phía sau huyện Bình Đạo ngày nay còn thấy vết cũ thành cung của An Dương Vương. Xét Tấn Thái Khang kí thì huyện (Bình Đạo) thuộc quận Giao Chỉ.. Vua nước Nam Việt bèn chinh phục các Lạc tướng. __________________________ Lại xét Sử kí, Hán thư thì vua nước Nam Việt sau khi Lữ Hậu chết (năm 180 TCN) nhân đó đem binh uy, tài vật chinh phục các nước Mân Việt, Tây Âu, Lạc, bắt vua các nước ấy theo phụcc. Lạc là Âu Lạc, là quận Giao Chỉ sau này vậy. Bấy giờ Giao Chỉ chưa đặt thành quận huyện, dưới quyền thống trị của các Lạc tướng, trung tâm là thành Cổ Loa dưới quyền của An Dương Vương. Dễ thường vua nước Nam Việt là Triệu Đà tiến quân chắc không có sự chống giữ đáng kể ngoài thành Cổ Loa, do đó đóng quân ở huyện Võ Ninh, sai Thái tử tên là Thủy làm con tin. Sử cũ chép vua Nam Việt đánh An Dương Vương sau khi nhà Tần diệt (năm 206 TCN) là không có cơ sở nào. Sao vậy? Bấy giờ Triệu Đà chỉ là quan Úy quận Nam Hải đánh chiếm lấy ba quận xưng vương, mới đến đất Việt từ năm 214 TCN đến năm 206 TCN là chưa đến 10 năm thì làm sao mà lấy vợ sinh con và lập Thái tử tên là Thủy được? Vả lại từ năm 206 TCN đánh lấy ba quận xưng vương đến năm 180 TCN là khoảng hơn 20 năm là đủ để lấy vợ sinh con (Thái tử tên là Thủy) vậy, cũng có cháu ẵm là vừa hợp vậy. Đông quan Hán kí (Hán - Lưu Trân soạn) 馬援平交阯,上言太守蘇定張眼視錢,䁋目討賊,怯於戰功,宜加切敕。後定果下獄。 Mã Viện bình quận Giao Chỉ, dâng thư nói Thái thú là Tô Định trương mắt nhìn tiền, chỉ liếc mắt đánh giặc, nhút nhát ở việc đánh dẹp, nên ban lệnh nghiêm trị. Sau đó Định quả nhiên bị bắt vào ngục.\ Diêm thiết luận - Địa quảng (Hán - Hoàn Khoan soạn) 文學曰:「秦之用兵,可謂極矣,蒙恬斥境,可謂遠矣。今踰蒙恬之塞,立郡縣寇虜之地,地彌遠而民滋勞。朔方以西,長安以北,新郡之功,外城之費,不可勝計。非徒是也,司馬、唐蒙鑿西南夷之塗,巴、蜀弊於邛、筰;橫海征南夷,樓船戍東越,荊、楚罷於甌、駱;左將伐朝鮮,開臨屯,燕、齊困於穢、貉,張騫通殊遠,納無用,府庫之藏,流於外國;非特斗辟之費,造陽之役也。由此觀之:非人主用心,好事之臣為縣官計過也。」 Văn học chép: "Nhà Tần dùng binh có thể nói là cùng cực rồi, Mông Điềm mở cõi có thể nói là dài rồi. Nay (nhà Hán) còn vượt cả lũy thời Mông Điềm, cướp lấy đất địch đặt quận huyện, đất dài ra mà dân khổ sở. Từ quận Sóc Phương về phía tây, từ thành Tràng An lên phía bắc, công sức để đặt quận mới, phí tổn để đắp thành ngoài cõi thì không thể kể hết. Cũng không chỉ có vậy, bọn Tư Mã (Tương Như), Đường Mông mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, do đó người miền Ba-Thục vất vả vì người Cung-Tạc; Hoàng hải tướng quân (Hàn Thuyết) đánh người Di (Việt) miền nam, Lâu thuyền tướng quân (Dương Bộc) đóng giữ ở đất Đông Việt, do đó người miền Kinh-Sở khổ sở vì người Âu-Lạc; Tả tướng quân (Tuân Trệ) đánh nước Triều Tiên, đặt ra quận Lâm Đồn, người miền Yên-Tề khốn đốn vì người Uế-Mạch; Trương Khiên đi sứ qua lại miền xa lạ (các nước Đại Uyển, Đại Hạ) thu lấy những đồ vật vô dụng, khiến cho đồ vật trong kho phủ đem ra nước ngoài, không chỉ là phí tổn cho miền xa xôi, lao dịch cho miền Tạo Dương vậy. Do đó thấy rằng: Đấy không phải là chủ ý của nhà vua, mà là do từ bầy tôi ham việc (lập công) chuốc họa cho nhà nước vậy." _________________ Sử kí - Nam Việt liệt truyện (Hán - Tư Mã Thiên soạn) 甌駱相攻,南越動搖。 Âu-Lạc đánh nhau, Nam Việt dao động **************** Âu-Lạc đánh nhau là Đông Việt (Mân Việt) và Nam Việt đánh nhau, chỉ việc vua Đông Việt là Dĩnh đánh cướp biên giới Nam Việt, tập đoàn thống trị các nước Việt này có thể là người gốc Trung Quốc nhưng dân chúng và binh lính chủ thể là người Âu-Lạc. Hán thư - Cao Đế kỉ (Hán - Ban Cố soạn) 十一年夏五月,詔曰:「粵人之俗,好相攻擊,前時秦徙中縣之民南方三郡,使與百粵雜處。會天下誅秦,南海尉它居南方長治之,甚有文理,中縣人以故不耗減,粵人相攻擊之俗益止,俱賴其力。今立它為南粵王。」使陸賈即授璽綬。它稽首稱臣。 Năm thứ mười một (năm 196 TCN), mùa hạ, tháng năm, hạ chiếu rằng: "Tục của người Việt là ưa đánh đấu nhau, thời trước nhà Tần dời dân Trung Quốc đến ở ba quận miền nam (Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận), sai ở lẫn với người Bách Việt, kịp lúc thiên hạ diệt nhà Tần, quan Úy quận Nam Hải là (Triệu) Đà ở miền nam đứng đầu trị dân ấy, rất có văn lí, do đó người Trung Quốc không hao tổn, tục ưa đánh đấu nhau của người Việt càng giảm, đều nhờ vào sức ấy. Nay lập Đà làm vua nước Nam Việt." Sai Lục Giả đến trao ấn thao, Đà cúi đầu xưng thần. ************************ Tục người Việt ưa đánh nhau, bấy giờ như thời Xuân thu - Chiến quốc, đánh nhau vì tranh cướp đất đai của nhau, muốn xưng bá ở miền nam vậy. Theo sách Bắc đường thư sao (北堂書鈔) của Ngu Thế Nam thời nhà Tùy và Khổng Quảng Đào hiệu chú các sao chép nhầm lẫn mặt chữ (kiểu như chữ tác chữ tộ) trong Hán thư công thần biểu: 卷十七景武功臣表陳俞本同」斬西子王封下鄜侯「閩越傳雲故甌駱左黃同斬西千王封為下鄜侯○今案見漢書卷九十五閩越傳又見卷十七景武功臣表俱作西于王本鈔於誤子已照訂陳俞本亦作于」 Quyển mười bảy Cảnh Võ công thần biểu thì Trần Du chép vốn giống câu "chém 'Tây Tử Vương' phong Hạ Phu Hầu". Mân Việt truyện chép: "Tướng của Âu Lạc là Tả Hoàng Đồng chém 'Tây Thiên Vương' phong làm Hạ Phu Hầu". Nay xét thấy quyển chín muô lăm Hán thư Mân Việt truyện, lại thấy quyển mười bảy Cảnh Võ công thần biểu đều chép là 'Tây Vu Vương', bản chép lầm chữ thành chữ 'Tử', đã xét sửa lại thấy bản chép của Trần Du cũng chép là chữ 'Vu'. [www.guoxue123.com] _________________________ Tui đã tra thấy các bản chép 西于王 (Tây Vu Vương) có khi chép là 西子王 (Tây Tử Vương) 西千王 (Tây Thiên Vương), lại có khi lại chép là 西干王(Tây Can Vương), các chữ 于vu 子tử 千thiên 干can nhìn qua giống nhau, nhất là thời xưa viết tay hoặc khắc in trên gỗ thường dễ nhầm lẫn. Có lẽ Tả tướng Hoàng Đồng chém 'Tây Vu Vương' không phải là ở huyện Tây Vu quận Giao Chỉ đâu, mà có lẽ là 'Tây (...) Vương' gì đấy ở Mân Việt. Về việc nhầm lẫn các chữ trên, có thể lấy ví dụ vua khai sáng nước Tân La của Hàn Quốc là 赫居世 (Hách Cư Thế) hiệu là 居西干 (Cư Tây Can) nhưng các sách xưa nay có khi lại chép là 居西千 (Cư Tây Thiên), 居西于 (Cư Tây Vu).
  13. Một số từ cổ dịch từ các tác giả Người ta thường nhắc tới tập An Nam dịch ngữ ( ANDN ) được biên soạn vào thế kỷ 15-16. Đây là tập từ vựng Hán-Việt đối chiếu do người Trung Quốc đời Minh soạn nhằm mục đích hổ trợ các sứ thần Trung Quốc trong việc thông hiểu và phiên dịch ngôn ngữ tiếng nước khác khi giao tiếp. ANDN có 716 mục từ được sắp theo 17 môn : Thiên văn, Địa lý, Thời lệnh, Hoa mộc, Điểu thú, Cung thất, Khí dụng, Nhân vật, Nhân sự, Thân thể, Y phục, Ẩm thực, Trân bảo, Văn sử, Thanh sắc, Số mục, Thông dụng. Theo ông Vương Lộc , người nghiên cứu sách An Nam Dich Ngữ , ( Hà Nội-Đà Nẵng, Nhà xb Đà Nẵng -1995 ) , tiếng Việt trong ANDN là phương ngữ Bắc Bộ. Một vài thí dụ theo thiển ý , cho thấy sự giống nhau giữa tiếng Mường ngày nay và tiếng Việt ở thế kỷ 15 , 16 : 1-Sách ANDN ghi âm tiếng chỉ ( lá ) DÂU bằng chữ 都 ( Đô ) . Như thế có nghĩa là ở thế kỷ 15 , 16 , người Việt vẫn còn gọi ( lá ) DÂU là TÔ giống như người Mường ngày nay , cho nên Tầu nó mới dùng chữ ĐÔ 都 để ghi âm . Người Mường ngày nay vẫn còn nói : / thảm ăn lá tô / = tằm ăn lá dâu 2-Sách ANDN ghi âm tiếng chỉ HÀ ( = SÔNG ) bằng chữ KHÔNG 空 . Như thế có nghĩa là ở thế kỷ 15 , 16 , người Việt vẫn còn gọi SÔNG là KHÔNG giống như người Mường ngày nay , cho nên Tầu nó mới dùng chữ KHÔNG 空 để ghi âm . 3- Sách ANDN ghi âm tiếng chỉ ( con ) TRÂU bàng 2 chữ 革蔞 CÁCH LÂU ,phương ngôn Mường ngày nay có nơi vẫn gọi con K'LU là con TRU , con TRÂU . "...họ Hồng Bàng(鴻鴻氏)( SIC ), với ý nghĩa là họ thời hồng hoang vĩ đại mở nước..." Cứ theo webside :[www.hanviet.org] nghĩa của từ ghép HỒNG BÀNG/LONG là : 鴻 hồng 1. (Danh) Chim hồng, một loài chim ở ven nước, to hơn con mòng, lưng và cổ màu tro, cánh đen bụng trắng, mỏ giẹt, chân ngắn, khi bay sắp thành hàng. ◇Tô Thức 蘇軾: Nhân sinh đáo xứ tri hà tự, Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê 人生到處知何似, 應似飛鴻踏雪泥 (Hoài cựu 懷舊) Cuộc nhân sinh, rồi đây biết sẽ như thế nào? Hãy coi như một chim hồng giẫm chân lên bãi tuyết. 2. (Danh) Họ Hồng. 3. (Tính) Lớn. § Thông hồng 洪. ◎Như: hồng hi 鴻禧 phúc lớn. 4. (Tính) Cao lớn. ◎Như: bàng đại 龐大 to lớn. 龐 bang 1. (Tính) Cao lớn. ◎Như: bàng đại 龐大 to lớn. 2. (Tính) Rối ren, ngổn ngang, tạp loạn. ◎Như: bàng tạp 龐雜 bề bộn. 3. (Danh) Mặt mày, diện mạo. ◎Như: diện bàng 面龐 diện mạo. ◇Tây sương kí 西廂記: Y quan tế sở bàng nhi tuấn 衣冠濟楚龐兒俊 (Đệ nhị bổn 第一本) Áo mũ chỉnh tề mặt mày tuấn tú. 4. (Danh) Họ Bàng. 渾然宏大。 古人以天體未形成之前, 宇宙渾沌一體稱為“龐鴻”。 ▶ 漢 張衡 《靈憲》: “道根既建, 自無生有。 太素始萌, 萌而未兆, 并氣同色, 渾沌不分。 故道志之言云, ‘有物渾成, 先天地生’, 其氣體固未可得而形, 其遲速固未可得而紀也。 如是者又永久焉, 斯謂龐鴻。” ▶ 晉 皇甫謐 《帝王世紀》: “太素始萌, 萌而未兆, 謂之龐洪。” Hỗn độn lớn lao. Người xưa cho rằng trước khi bầu trời chưa thành hình thì vũ trụ là một mớ hỗn độn gọi là 'bàng hồng'. Linh hiến của người thời Hán là Trương Hành chép: "Gốc đạo đã dựng, từ không thành có. Vật đầu tiên bắt đầu mọc, mọc nhưng chưa nảy ra, chỉ là một bọc khí cùng màu, hỗn độn không phân biệt, cho nên sách đạo có nói 'có vật sinh ra từ mớ hỗn độn, bắt đầu sinh ra trời đất', mớ khí ấy vốn chưa thành hình được, nó khi nhanh khi chậm chưa thể thành hình được. Như thế lại lâu dài, ấy gọi là 'bàng hồng'." Đế vương thế kỉ của người thời Tấn là Hoàng Phủ Mật chép: "Vật đầu tiên bắt đầu mọc ra, mọc nhưng chưa nảy ra, gọi là 'bàng hồng'." [tw.ichacha.net] ___________________ 鴻龐 hồng bàng cũng như 龐鴻 bàng hồng 鴻 hồng thông với 洪 hồng Vậy các sử gia thời xưa gọi dòng họ của Hùng Vương là dòng họ mở đầu dựng nên nước ta là họ Hồng Bàng (鴻龐氏), giống họ Hỗn Độn (渾沌氏) vậy. Đây là từ chỉ chung cho thời dựng nước. 鴻龐 Hồng Bàng còn chép là 鴻厖/洪厖 Hồng Mang/Hồng Mông nghĩa là rộng lớn, dày đậm, hồng hoang, hỗn độn... Lô sơn cao (Tống - Âu Dương Tu soạn) 上摩青蒼以晻靄,下壓后土之鴻厖。 Thượng ma thanh thương dĩ yểm ái, hạ áp hậu thổ chi hồng mang. Trên chạm vào trời xanh với mây phủ, dưới đè lên đất dày liền chân rộng. __________________ Không còn nghi ngờ gì nữa: 鴻龐氏 Hồng Bàng thị là thời kì hồng hoang hỗn độn, mới dựng nước, sơ khai của nước ta, theo ý của sử gia thời xưa là vậy đó. Lĩnh Nam Trích Quái , Toàn Thư - Ngoại Kỷ có thấy nói gì đến họ 鴻厖/洪厖 Hồng Mang/Hồng Mông bao giờ đâu ? Nước Văn Lang và cương vực của nó qua tài liệu ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu Trước đây, trong một bản báo cáo khoa học học đăng 1963 về mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, chúng tôi đã có dịp trình bày về một hệ thống tên sông được hình thành trên một cơ sở ngôn ngữ chung cho cả miền Đông Nam Á. Tiêu biếu cho hệ thống đó là sự trùng tên hai con sông lớn nhất trong vùng: sông Dương Tử và sông Mê-kông (cả hai đều có tên là Công). Hệ thống tên sông này có thể cắt nghĩa bằng ngôn ngữ của các dân tộc hiện đang sống ở đây. Điều này chứng minh rằng: những ngôn ngữ ở đây đã được phát triển liên tục. Trong quá trình phát triển lịch sử ở đây không xảy ra viện thay thế những ngôn ngữ khác nhau (1 Trường Đại học Tổng hợp: Thông báo khoa học, Tập Ngôn ngữ-Văn học Hà Nội, 1966). Tuy nhiên tên sông là loại địa danh cổ nhất, nó ứng với thời kỳ các tộc người chưa phân hóa rõ rệt thành những dân tộc cụ thể, với những tên gọi và những đặc trưng nhiều mặt khác nhau chưa hình thành rõ nét. Hệ thống tên sông ở Đông Nam Á chỉ giúp chúng ta hình dung được phần nào địa bàn sinh sống và nền tảng ngôn ngữ của những dân tộc kế tục phát triển trên đó. Nhưng trên cái nền bao quát đó, tổ tiên người Việt ở đâu? Đâu là nơi tổ tiên chúng ta dựng làng, lập nước, khởi đầu cho một dân tộc có truyền thống vẻ vang ngày nay? Muốn trả lời câu hỏi trên, chúng ta phải lần lượt xét đến nhưng loại địa danh gần gũi với chúng ta hơn như: tên nước, tên làng... Về tộc danh này đã có nhiều ý kiến giải thích như: “Văn Lang là nước của những quan lang xăm mình” Đào Duy Anh, “Văn Lang là do chép nhầm từ tên Dạ Lang” (Ma-xpê-rô). R.Xtai-nơ, tác giả cuốn Nước Lâm Ấp đặt tên Văn Lang vào trong một hệ thống tộc danh và địa danh có yếu tố “Lang” như Bạch Lang (Tứ Xuyên), Việt Lang (Quảng Đông), Dạ Lang (Quảng Tây), Mơ-ran, Mơ-ren, Mơ-nông, Tchang-lang, Khang lang... và đối chiếu yếu tố lang trong danh từ riêng với những danh từ chung chỉ ao, hồ, làng, đầm ở các địa phương trên. Xtai-nơ có ý muốn giải thích tộc danh Văn Lang bằng những từ này. Chúng tôi tán thành phương pháp làm việc của Xtai-nơ trong khi nghiên cứu vấn đề này, vì đó là một phương pháp ngôn ngư học, đúng hơn là phương pháp của các tác giả khác. Không theo giải thích tộc danh bằng cách phán đoán tùy tiện và hơn nữa lại tách một tên gọi ra làm hai phần và mỗi phần giải thích bằng một thứ ngôn ngữ khác nhau. Tên Văn Lang không đứng một mình mà nằm trong một hệ thống tộc danh có yêu tố chung là “-Lang”. Ở Đông Nam Á (cũng như ở nhiều nơi khác trên the giới) chúng ta có thề tìm thấy nhiều hệ thống tộc danh kiểu này. Chẳng hạn hệ thống tộc danh có yêu tố “pu” “phu”: Phu Xai là tên người Lào tự xưng, Phu Thung: tên một dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Thái mà người ta còn gọi là Mường Cửa Rào. Pu Y (Bố Y) là tên người Choang tự xưng ở các huyệt Long An, Điền Lâm, Tam Giang thuộc Quảng Tây. Pú Thủ (Bố Thổ): tên gọi người Choang ở huyện Điền Dương, Bách Sắc. Hệ thống tộc danh Mon, Moe, Mọi là tên tự xưng của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ-me sinh sống dọc Trường Sơn và rải rác ở vài nơi trên đất Miến Điện. Hệ thống tộc danh Thái, Xai, Đay, Tày... là tên tự xưng của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Thái. Và hệ thống tộc danh có yếu tố “Lang” chúng ta có thể bổ sung một vài tài liệu cho danh sách mà Xtai-nơ đã thống kê. Theo sử cũ chép lại thì có nhóm người Dạ Lang sinh sống ở bắc Quảng Trị. Theo các sách viết vào đời Minh ở Trung Quốc, như Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư, thì ở tỉnh Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang nhân), đâu đâu cũng thấy, do đó thổ bình vùng này được gọi là Lang binh. Thế là người Choang, cách đây đến 4, 5 thế kỷ vẫn còn được gọi là người Lang. Tên Choang tộc hiện nay đọc theo âm Hán Việt là Chàng tộc, chẳng qua chỉ là biến thể ngữ âm của tên Lang, cũng như cách phát âm khác nhau giữa tên lang Hán Việt và chàng trong tiếng Việt. Vậy những yếu tố được lắp đi lắp lại ở những địa danh trên là gì. Từ phu, phu trong hệ thống tộc danh thứ nhất tìm thấy trong các ngôn ngữ nhóm Thái với nghĩa là “người đàn ông”. Chính từ phu này đã thâm nhập vào tiếng Hán và với nghĩa là “đàn ông” “chồng” như: nông phu, thất phu, phu quân... Từ này còn tìm thấy trong những ngôn ngữ ở cực nam Trung Bộ như trong tiếng Bi-at, Stiêng thì bu có nghĩa là “Người”. Các từ môn, mol, mọi trong nhiều ngôn ngữ thuộc nhóm Môn Khơ-me dọc Trường Sơn và trong tiếng Mơ-nông đều có nghĩa là “người”. Trong tiếng Dao, từ mun cũng có nghĩa là người. Thông thường tộc danh và nhất là những tộc danh cổ đều xuất phát từ những danh từ chung có nghĩa là “người”. Trên thế giới loại tộc danh như thế, hiện nay còn gặp được rất nhiều, nhấl là ở những dân tộc thiểu sổ sống ở miền rừng núi. Vậy Lang có nghĩa là gì? Chúng ta thấy từ Lang xuất hiện trong tiếng Hán rất muộn, mãi đến đời Đường trong sách vở mới có từ này, với nghĩa là “đàn ông” đối lập với chữ “nương” là nàng. Trong tiếng Việt có những từ tương đương là chàng và nàng. Những từ này hiện nay không còn dùng với vẻ tôn kính như xưa. Nhưng nếu chúng ta đi thăm lại các di tích thờ cúng cũ như những nơi thờ nhân thần và thiên thần thời Hùng Vương như thờ Tản Viên và các vị quan lang con các Vua Hùng chẳng hạn thì chúng ta sẽ được nghe tên những vị thần đại loại như sau: Đức Chương Nhị đại vương, Đức Chương Út đại vương, Đức Cương Trực đại vương-tên 3 vị thánh thờ ở đình Bảo Đà, Việt Trì. Xã Hồng Hà (Lâm Thao, Vĩnh Phú) có đình thờ nữ thần tên là Non Trang da nàng... Những tên này được kiêng cữ rất kỹ, chỉ có cụ tiên chỉ và ông từ biết để khấu khi cúng hèm mà thôi. Như thế là trong tên nôm húy, các vị thần đều được gọi bàng chàng và nàng. Theo Lĩnh Nam chích quái thì các con trai Hùng Vương gọi là quan lang, con gái gọi là mỵ nương. Nhiều học giả cho rằng chính từ quan lang này đã lưu lại ở người Mường và về sau vẫn dùng để gọi giai cấp quý tộc phong kiến: quan lang là người đứng đầu một mường. Nhưng như chúng ta đã thấy ở trên, những từ lang và nàng (nương) dùng để gọi con trai con gái Hùng Vương vẫn được ghi lại trong các đình miếu người Việt và được phát âm theo kiểu hiện nay là chành và làng (sau này chúng ta sẽ trở lại những từ quan lang và mị nương). Vậy những từ lanq và nương đã từ những ngôn ngữ phía nam Trung Quốc thâm nhập vào tiếng Hán, cũng như từ giang là “sòng” đã được phân tích ở trên. Đi thêm vào các ngôn ngữ phương Nam, chúng ta sẽ gặp từ drang-lô trong tiếng Ba-na có nghĩa là “đàn ông”, trong tiếng, Ê-đê a-rang là “người”, trong tiếng Chàm u-rang, trong các ngôn ngữ In-đô-nê-xi-a, Mã Lai o-ranq đều có nghĩa là người. Vậy những tộc danh Lang, Văn Lang, Dạ Lang... đã bắt nguồn từ một danh từ có nghĩa là “đàn ông”, “người” với những hình thái biến đổi khác nhau tùy theo ngôn ngữ, phương ngữ và tùy theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Những tộc danh như Văn Lang, Việt Lang, Bạch Lang, xét về cách phát âm tiếng Việt cổ và tiếng Hán cổ (vì dùng tiếng Hán để phiên âm tiếng địa phương), đều bắt đầu bằng bán nguyên âm môi “w” hay phụ âm môi “p” và theo với quy luật biến âm thì những âm này thông vớt các nguyên âm trên môi, như o, u tức là có thể chuyển âm lẫn cho nhau từ trạng thái nọ sang trạng thái kìa, cũng như hai phụ âm l và r cùng thông với nhau. Những từ như Văn Lang, Việt Lang với u-rang, o-rang cũng như Dạ Lang với drang (trong drang-lô) vẫn được xem là những từ giống nhau trong phương pháp so sánh của ngôn ngữ học lịch sử. Hơn nữa, trong tiếng Hán, trong khoảng 2.000 năm trở lại đây, không có phụ âm r, do đó những từ có phụ âm r trong các ngôn ngữ khác đều được phiên âm sang chữ Hán bằng l. Chữ nôm của ta cũng phản ánh điều này. Nếu chúng ta chiếu trên bản đồ thì sẽ thấy khu vực có tộc danh Lang dài ra từ sông Dương Tử cho đến miền Trung Bộ Việt Nam, tập trung nhất ở vùng Lưỡng Quảng và Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Còn những danh từ chung chỉ “người” có dạng tương tự: lang, drang-lô, o-rang... chiếm một địa bàn lớn hơn: cả vùng đồng bằng duyên hải và các hải đảo bao quanh và tạo thành Nam Hải. Nếu vì vai trò của Nam Hải trong lịch sử các dân tộc Đông Nam Á với Địa Trung Hải đối với các nước Nam Âu và Bắc Phi thì cũng không có gì quá đáng. Mộl lần nữa, chúng ta lại bắt gặp sự liên quan về nguồn gốc giữa tên riêng với danh từ chung. Xét về phương diện địa lý thì vùng các dân tộc danh Lang nằm gọn trong lõi của địa bàn có danh từ chung tương tự. Thông thường, tên riêng gắn liền với quê hương cũ, nơi đó được sinh ra, còn danh từ chung theo với sự trao đổi, tiếp xúc giữa các tộc người và giữa các ngôn ngữ có thể đi xa hơn. Sự xuất hiện tộc danh đánh dấu thời kỳ bắt đầu phân hoá, cá tính hóa giữa các tộc người để hình thành các dân tộc (hiểu theo nghĩa rộng). Vậy tộc danh Văn Lang, đúng như truyền thuyết đã lưu lại, có thể là một trong những tộc danh cổ nhất của dân ta, đồng thời nó cũng chỉ cho chúng ta mối quan hệ chặt chẽ về họ hàng, về ngôn ngữ với những tộc người xung quanh và địa bàn sinh sống của họ. Theo Lĩnh Nam chích quái về các sách sử của nước ta như: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư thì Hùng Vương hưng khởi ở “bộ” Văn Lang, tức là đất Phong Châu cũ, bao gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội hiện nay, và từ đây thu phục các “bộ” khác xung quanh gồm cả thảy 15 bộ (con số theo truyền thuyết), chiếm cả một phần miền Lưỡng Quảng, Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Xem thế thì khu vực chúng ta tìm thấy các tộc danh Lang khá ăn khớp vớt cương vực nước Văn Lang trong sử sách. Bây giờ chúng ta chuy ển sang một loại tài liệu địa danh khác có thể xác minh thêm về cương vực nước Văn Lang: tên xã thôn. Với phương pháp thống kê địa danh học có thể vạch một cách khái quát ngay trên bản đồ những vùng dân cư có nguồn gốc khác nhau. Tây Bắc là vùng tập trung tên nơi cư trú với từ mường, chiền. Vùng Việt Bắc thì tập trung địa danh với từ bản, nà. Địa danh ở Tây Nguyên được chia thành hai cụm: -trên cao nguyên Đắc Lắc là cụm địa danh với từ buôn -ở cao nguyên Côn Tum lại là cụm địa danh với từ plây. Những từ như mường, bản, buôn, plây đều là những danh từ chung trong các ngôn ngữ dân tộc để chỉ những đơn vị cư trú tương đương với xã thôn. Bên cạnh những cụm địa danh ấy là một mảng rộng lớn những địa danh Hán Việt trải dài từ Bắc đến Nam. Nhưng đấy chỉ là quan sát địa danh theo sự phân bố hiện nay. Nhưng nếu chúng ta thử đào sâu xuống mảng địa danh Hán Việt đang trùm kín hầu như khắp nơi vùng người Việt ở thì có thể thấy, phía dưới còn có một lớp địa danh cổ hơn, đây là lớp tên nôm với yếu tố cấu thành là từ Kẻ. Không phải đi xa, chỉ cần ra ngoại thành Hà Nội, chúng ta có thể nghe các ông già, bà cả hay trong nhưng câu chuyện thân mật giữa những người cùng làng, những tên nôm như Kẻ Mẩy (tên Hán Việt là Mễ Trì, Kẻ Cót (tức là làng Yên Quyết), Kẻ Vọng (Dịch Vọng)… Những tên nôm như thế rất nhiều và có thể nói rằng hầu hết các xã thôn Việt Nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bắc Trung Bộ (Khu 4 cũ) đều có. Nhưng đi quá hơn nữa vào nam Trung Bộ và Nam Bộ thì không thấy nữa. Ở vùng thượng du Bắc Bộ và miền núi bắc Trung Bộ cũng không có. Tên nôm hiện nay đang bị quên dần vì ít được dùng đến, nhưng nó đã tồn tại rất lâu và trước đây trong một thời gian dài đó lồn tại song song với tên Hán Việt, với sự phân công khá rõ ràng, tên nôm dùng để gọi, tên Hán Việt dùng để viết. Do đó, mà tên Hán Việt còn được gọi là tên chữ. Như chúng ta đều biết, tên đặt ra trước tiên để gọi, và khi xã hội phát triển ở mức độ khá cao mới nảy sinh ra nhu cầu ghi chép. Hơn nữa, xét tương quan ngữ âm giữa cặp tên nôm và những tên chữ thì chúng ta thấy rất rõ là tên chữ được đặt ra bằng cách phiên âm tên nôm (và trong một vài trường hợp riêng biệt, bằng cách dịch nghĩa). Điều này một lần nữa, khẳng định nhu cầu ghi chép là điều kiện xuất hiện của tên Hán Việt. Sự tồn tại lâu đời của tên nôm còn có thể hiện ra ở bản thân nó là những từ khó hiểu, nhiều từ không tìm thấy trong từ vựng tiếng Việt hiện đại. Vì nhưng từ này càng cổ thì càng khó hiểu. Đọc thơ của Nguyễn Trãi, cách chúng ta có năm thế kỷ mà cũng lắm từ rất xa lạ với tiếng Việt ngày nay. Và cuối cùng cái biên giới mà lớp tên nên dừng lại, như đã nói ở trên, không vượt quá phía nam vùng Trị Thiên, cũng chứng tỏ rằng lớp địa danh này gắn bó với địa bàn sinh tụ của người Việt từ cổ cho đến đời Lý, Trần. Những miền đất đai người Việt đến ở về sau chỉ thấy có tên Hán Việt, không có tên nôm đi với từ kẻ nữa. Như thế tức là việc đặt tên nôm vời từ kẻ bây giờ bắt đầu lỗi thời và kiệu địa danh đặt bằng từ Hán Việt đã trở thành hợp thời, và từ kẻ từ sau thời Lý, Trần trở đi bị đẩy ra khỏi vốn từ vựng tích cực và đã trở thành từ cổ. Đến nay thì không ai biết đến nghĩa của nó nữa. Tuy nhiên xét vị trí và chức năng của chúng trong địa danh, chúng ta có thể hiệu được. -Từ kẻ đặt trước tên nôm để gọi một địa điểm cư trú tương đương với xã thôn hiện nay. Từ kẻ có thể thay thế bằng từ làng. Hiện nay từ kẻ không thấydùng một mình ngoài tên nôm nữa, vì nó là một bộ phận của tên nôm. Trong tiếng Mường cũng có một từ tương tự về nghĩa và âm với từ “kẻ”, đó là từ “ku-el”. Ku-el là một đơn vị hành chính cơ sở trong tổ chức xã hội người Mường tương đương với xã thôn của người Việt và cùng có một nội dung như từ kẻ. Ở thế kỷ thứ 17, còn thỉnh thoảng gặp từ “kẻ” trong tiếng Việt, và có nghĩa là “quê hương”, “xứ sở”. Từ quê có thể cũng là một dạng biến đổi của từ kẻ trong quá trình sinh sôi nảy nở danh từ chung trong vốn từ vựng tiếng Việt. Về vùng địa danh có từ “kẻ”, nhiều học giả còn chỉ thêm rằng, những từ có âm tương tự với từ “kẻ” Việt Nam như “cô”, “cổ”, “qua”, “quá“ là đặc điểm của tên nơi cư trú vùng Lưỡng Quảng (Từ Tùng Thạch, R.Xtai-nơ). Trong nhiều tên làng Việt Nam, từ “kẻ” trong tên nôm cũng được phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ “cổ” như: Kẻ Trai thành Cổ Trai (ở Thừa Thiên), Kẻ Nưa thành Cổ Ninh (ở Thanh Hóa), Kẻ Noi thành Cổ Nhuế (ở ngoại thành Hà Nội), Kẻ Giai thành Cổ Trai (ở Duyên Hà, Thái Bình), Kẻ Nét thành Cổ Niệt (ở Hải Phòng, vùng Kiến An). Đào Duy Anh cũng cho rằng từ “Cổ” trong tên Cổ Loa có lẽ được chuyển âm từ kẻ mà ra. Tuy nhiên Từ Tùng Thạch lại nghĩ rằng có, cổ, qua, quá, trong địa danh vùng Lưỡng Quảng là chuyển âm từ danh từ cá có nghĩa là “người”, cũng như Đào Duy Anh đã giải thích từ kẻ trong địa danh cổ Viểt Nam bằng một từ của tiếng Việt hiện đại, kẻ tức là “người”. Như thế là tên nơi cư trú có từ kẻ và những dạng tương tự như: cô, cổ, qua, quá... chiếm một khu vực bao gồm miền Lưỡng Quảng nối liền với vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Vậy một lần nữa, lần thứ ba, chúng ta lại tìm thấy một địa bàn, được vẽ lên bằng hệ thống tên xã thôn, cấu tạo với yếu tố “kẻ, cổ...” hoàn toàn khớp với địa bàn các tộc danh Lang và với cương vực nước Văn Lang được ghi lại trong truyền thuyết dựng nước. Có một điều đáng chú ý là trong địa danh bằng tiếng dân tộc chỉ nơi cư trú của người Việt, người Thái, người Tày, người Khơ-me, người Ba-na, Xtiêng, Ê-đê, Gia-rai và những dân tộc khác trên đất nước Việt Nam đều phản ánh một đơn vị tổ chức xã hội duy nhất và giống nhau ở mọi nơi. Đây là kẻ, là bản, là mường, là srok, là buôn, là plây... tức là đơn vị cơ sở, tương đương với xã thôn hiện nay. Những địa danh này không hề phản ánh những đơn vị tổ chức ở các cấp bậc cao hơn như quận, huyện, tỉnh mà như chúng ta biết, việc phân chia quận huyện ở nước ta đã có từ lâu, lúc bắt đầu thời kỳ Hán thuộc. Xét sự phát triển nghĩa của danh từ chung, chúng ta cũng thấy kẻ, mường, srok là những danh từ có nghĩa ban đầu là “làng, xóm” chuyển thẳng thành nghĩa “xứ, nước” mà không qua các cấp bậc trung gian: quận huyện, tỉnh. Trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ dân tộc anh em không hề có danh từ để gọi các đơn vị ở các cấp bậc cao hơn mà chỉ có danh từ gọi “làng” mà thôi, chúng ta phải vay mượn từ Hán để gọi những đơn vị kia. Ngôn ngữ dân tộc không chịu đặt tên cho chúng. Tất cả những sự việc vừa kể trên đều nói lên rằng kẻ hay bản, buôn, plây là những tổ chức cơ sở và đồng thời là tổ chức duy nhất-không có một tổ chức nào khác nữa-trong xã hội người Việt cổ và ở các dân tộc anh em gần đây. Hiện tượng khác biệt thổ ngữ giữa những thôn xã ở đồng bằng và Trung du Bắc bộ, Bắc Trung bộ Việt Nam rất đáng cho chúng ta chú ý. Ở đây, có khi hai thôn chỉ cách nhau một con đường hai một hàng cây mà thổ ngữ của hai bên rất khác nhau, nghe qua giọng nói có thể phân biệt ra người thôn nọ với người thôn kia. Trái lại, ở vùng thượng du Bắc Bộ, vùng nam Trung Bộ và Nam Bộ không có nhiều thổ ngữ phức tạp đến thế. Ở đây, tiếng Việt trong những vùng rộng lớn gồm đến hai ba tỉnh, cũng rất ít khác nhau, nhất là ở Nam Bộ khó tìm ra được những nét khác biệt trong tiếng nói các tỉnh. Hiện tượng thổ ngữ đa dạng, phức lạp nói trên ở nông thôn miền Bắc, một mặt phản ánh cội rễ lâu đời và bền vững, mặt khác cũng nói lên tính chất biệt lập của tổ chức xã thôn ở đấy. Vì những nét khác biệt này là kết quả của tập quán ngôn ngữ được hình thành dần dần từ thế hệ này qua thế hệ khác và chỉ có thể được tạo ra trong điều kiện gần như cô lập với những địa phương xung quanh. Chính thổ ngữ là sản phẩm trực liếp của các tổ chức gọi là “kẻ”, là con đẻ của cái “bầu trời riêng” đó-nếu ta dùng cách nói của Mác. Sau khi được hình thành, thổ ngữ lại trở thành một trong những đặc trưng khu biệt chủ yếu giữa các “kẻ”. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vùng thố ngữ đa dạng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn khớp với khu vực địa danh có tử kẻ. Ở những miền khác không có “kẻ” thì không có hiện tượng thổ ngữ khác biệt giữa những xã thôn liền nhau. Vậy tính chất của “kẻ” phù hợp vời tính chất của những “công xã kiểu châu Á” mà Mác rất chú ý nghiên cứu khi Người chuẩn bị viết cuốn “Tư bản”. Kết luận Thế là lần đầu tiên chúng ta đã áp dụng ngôn ngữ học để nghiên cứu một cách có hệ thống một vấn đề lịch sử lớn: thời kỳ lịch sử Hùng Vương và đã thu được vài kết quả bước đầu trong việc xác minh vùng đất đai cư trú cổ của người Việt. Như trên tôi đã lưu ý, không nói về từ kẻ, khả năng của ngôn ngữ học góp được phần soi sáng lịch sử cả về tổ chức xã hội và chính trị nữa. Chúng tôi cũng đã bước đầu nghiên cứu những từ cổ chỉ chức vị, thân phận xã hội, từ đó đã có một số kết luận đầu tiên về mặt này. Xin sẽ có dịp khác trình bày. Ở đây, xin kết luận về cương vực nước Văn Lang: 1.Về mối quan hệ ngôn ngữ và dân tộc với người Việt cổ.-Hệ thống tên sông đã chỉ ra khu vực, trên đó hình thành các nhóm ngôn ngữ cùng ngữ tộc ở Đông Nam Á. Sau đó, các hệ thống tộc danh và tên xã thôn giúp chúng ta thu dần địa bàn và thời điểm thăm dò từ khu vực rộng đến hẹp, từ lúc chưa hình thành các tộc người đến lúc tổ tiên ta dựng làng, lập nước: thời kỳ nước Văn Lang. Có một điều đáng chú ý là tộc danh, địa danh của ta ở thời kỳ này (cũng như một số từ xưng hô trong xà hội Văn Lang) được truyền thuyết lưu lại đều tìm thấy trong nhiều ngôn ngữ nhóm Thái và nhóm Mã-lai (như Chàm, Ê-đê, Gia-rai, Mã-lai, In-đô-nê-xi-a), tức là ngôn ngữ của những dân tộc ở miền duyên hải và hải đảo bao quanh Nam Hải, vùng Địa Trung Hải của châu Á. Điều này cho thấy rằng: ý kiến của Bê-nê-đích và sau đó của Ô-đri-cua về quan hệ gần gũi giữa hai nhóm ngôn ngữ Thái và Mã Lai là có cơ sở. 2.Đất đai “nước Văn Lang” của Hùng Vương nằm trong vùng có hệ thống tộc danh-Lang và tên xã thôn Kẻ, Cổ bao gồm một phần Lưỡng Quảng và miền Bắc nước ta hiện nay.
  14. Một số tên gọi và nội dung sách tham khảo Dịch giả: Tích Dã Tui rất tán thành cách phân tách các nhóm Bách Việt như bản đồ trên, dựa theo sử liệu thời Tần-Hán và Tiên Tần gồm các nhóm: 吳越 Ngô Việt: là nhóm người nói phương ngữ Ngô-Thượng Hải ngày nay, vùng đất màu xanh nhạt trên bản đồ. 邗越 Can Việt: là nhóm người nói phương ngữ Can ngày nay, vùng đất màu vàng trên bản đồ. 揚越 Dương Việt: là nhóm người nói phương ngữ Cống ngày nay, vùng đất mà tím trên bản đồ. 甌越 Âu Việt: là nhóm người nói phương ngữ Âu-Ôn Châu ngày nay, vùng đất màu xanh da trời trên bản đồ. 閩越 Mân Viêt: là nhóm người nói phương ngữ Mân ngày nay, vùng đất màu hồng trên bản đồ. 南越 Nam Việt: là nhóm người nói phương ngữ Việt ngày nay, vùng đất màu xanh đậm trên bản đồ. 西甌 Tây Âu: là nhóm người nói ngữ hệ Tráng-Đồng ngày nay, vùng đất màu sẫm trên bản đồ. 駱越 Lạc Việt: là nhóm người ngữ hệ Việt-Mường ngày nay, vùng đất màu đỏ trên bản đồ. Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Hội chư hầu ở thành Thành Chu, trên đàn giăng trướng đỏ thêu lông chim đen, thiên tử đứng ngoảnh mặt về phía nam, đội mũ cổn không rủ dải hạt châu, mặc áo thêu tám màu, tay cầm thẻ ngọc. Đường Thúc, Tuân Thúc, Chu Công đứng bên trái, Thái Công Vọng đứng bên phải, đều đội mũ cổn không rủ dải hạt châu, mặc áo thêu bảy màu, cầm thẻ tre, đứng cạnh thiên tử ở trên đài. Bên phải đài là Đường Công, Ngu Công đứng ngoảnh mặt về phía nam, bên trái đài là Ân Công, Hạ Công đều ngoảnh mặt về phía nam, đội mũ cổn không rủ dải hạt châu, mặc áo thêu năm màu, đều cầm thẻ tre. Để giúp chư hầu bị bệnh tật thì có quan Thái chúc họ Hoài, họ Vinh đứng ở bậc thềm cầm ngọc khuê-toản để thăm khám, đều ngoảnh mặt về phía tây; quan Mi tông đứng cạnh quan Thái chúc, coi việc cấp thuốc hữa cho chư hầu bị bệnh tật. Bọn quan tiếp khách là quan Thái sử tên là Ngư, quan Đại hành nhân đều mặc triều phục, đội mũ có rủ dải hạt châu. Đứng ngoảnh mặt về phía đông bên dưới đài là Quách Thúc giúp thiên tử thu nhận vật cống, đội mũ cổn không rủ dải hạt châu. Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Dứng ở phía tây hướng về phía bắc đài giữa là Ứng Hầu, Tào Thúc, Bá Cữu, Trung Cữu, kế đó là chư hầu bậc 'bỉ phục', kế đó là chư hầu bậc 'yêu phục', kế đó là chư hầu bậc 'hoang phục'. Đứng ở phía đông hướng về phía bắc là Bá Phủ, kế đó là Trung Tử. Chư hầu trong vòng ngàn dặm là 'bỉ phục', trong vòng hai ngàn dặm là 'yêu phục', trong vòng ba ngàn dặm là 'hoang phục', đấy đều là chư hầu chầu ở trong kinh kì. Phía đông bắc sau đàn giăng trướng đỏ, có bồn tắm ở trong đó, phía tây đàn đặt cỗ xe có sáu con ngựa kéo của thiên tử, trên xe cắm cờ gắn long chim le màu xanh đen. Đứng phía ngoài đài giữa, ở phía trái đài là quan Thái sĩ, ở phía bên phải đài là quan Mi sĩ, có tám người thu nhận vật cống, trong đó bốn người ở phía đông, bốn người ở phía tây. Bày vật cống ở đài ngoài, có mười hai con ngựa có bờm lông màu đen, mười hai tấm ngọc bích màu xanh đen, mười hai tấm da hổ-báo thêu sợi màu đen hạng ba, mười hai tấm ngọc bích thêu sợi màu đen hạng bốn. Bốn góc đài ngoài cũng giăng trướng đỏ để cho chư hầu nào muốn nghỉ ngơi thì đều nghỉ ngơi ở đấy, gọi là 'hào lư'. Chu Công tên là Đán đứng ra chủ việc thu nhận những vật cống của chư hầu miền đông, vật cống có ngựa lông xanh bờm đen, gọi là 'mẫu nhi', sai quân lính đắp tường, mặc áo xanh đeo cung tên cầm mâu để canh giữ. Phía đông đài có chư hầu hướng về phía tây và phía bắc cống các vật như sau: - Người nước Tắc Thận cống con nai lớn. - Người nước Uế cống con cá nghê đen, con cá nghê đen này như con khỉ vượn, biết đứng biết đi, tiếng kêu như tiếng trẻ con. - Người nước Lương Di cống con 'tại tử', con tại tử này có thân giống con ba ba, đầu giống đầu người, bụng trơn nhẫy, bôi mỡ vào bụng nó, lấy lá đậu ướp rồi nướng thì kêu tiếng là 'tại tử'. - Người nước Dương Châu cống con cá 'ngung', ngung là tên một loài cá. - Người nước Giải cống con 'du quán'. - Người nước Phát cống con 'bào bào', giống con hươu, chạy nhanh. - Người nước Du cống con ngựa khỏe. - Người nước Thanh Khâu cống con cáo chín đuôi. - Người nước Chu Đầu cống con 'huy đê', huy đê là một loài dê. - Người nước Hắc Xỉ cống con hươu trắng, ngựa trắng. - Người nước Bạch Dân cống con 'thừa hoàng', thừa hoàng giống con cáo, trên lưng nó có hai cái sừng. - Người nước Đông Việt cống con sò biển. - Người nước Âu cống con cá lươn, cá lươn làm món ăn ngon. - Người nước Ư Việt cống vải sợi. - Người nước Cô Muội cống vật lạ. - Người nước Cụ Khu cồng con sò vằn. - Người nước Công cống vỏ sò đen. - Người nước Hải Dương cống con cua lớn. - Người nước Tự Thâm cống vỏ quế. - Người nước Cối Kê cống cá 'đà'. Đều hướng về phía tây. Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Phía tây đài có chư hầu hướng về phía đông và phía bắc cống các vật như sau: - Người nước Nghĩa Cừ cống con 'từ bạch', con từ bạch là con ngựa từ bạch, có hàm răng như cái cưa, ăn được hổ báo. - Người nước Ương Lâm cống con 'tù nhĩ', con tù nhĩ mình giống hổ báo, đuôi dài có ba chỏm, ăn được hổ báo. - Người nước Bắc Đường cống con lừa, con lừa giống con 'du quan'. - Người nước Cừ Tẩu cống con chó 'câu', chó câu giống chó lộ, biết nhảy, ăn được hổ báo. - Người nước Lâu Phiền cống cái 'tinh thi', cái tinh thi giống cái cờ hình vòng đeo tai. - Người nước Bộc Lô cống bò 'cừu', bò cừu là một giống bò nhỏ. - Người nước Khu Dương cống con 'miết phong', con miết phong giống con heo, mình trước sau có đầu. - Người nước Quy Quy cống con lân, lân là một loài thú có tình người. - Người nước Tây Thân cống con chim phượng, chim phượng là loài chim có tình người có nghĩa có tín. - Người Đê Khương cống chim loan. - Người nước Ba cống chim 'bỉ dực'. - Người nước Phương Dương cống chim hoàng. - Người nước Thục cống con gà vằn, gà vằn giống gà 'cao'. - Người nước Phương Nhân cống chim khổng tước. - Người nước Bộc Nhân cống đá đan sa. - Người nước Di Dụng cống gỗ lan. - Người nước Khang Dân cống cây 'phù dĩ', cây phù dĩ có quả như quả mận, ăn vào dễ sinh con. - Người nước Châu Mi cống con 'phí phí', mình như mình người, nhảy ngược tự cười, cười thì vểnh môi lên ch cả mắt, ăn được người, người phương bắc gọi là con ếch đất. - Người nước Đô Quách cống con 'sinh sinh', chim 'khi vũ', con sinh sinh giống con chó lông vàng, mặt người biết nói. - Người nước Kì Cán cống con 'thiện phương', con thiện phương có đầu giống đầu con gà trống, nếu đeo nó vào người thì người không mê sảng. Đều hướng về phía đông. Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Phía bắc đài ngoài, ở góc phía đông, có các chư hầu đến cống như sau: - Người nước Cao Di cống con dê 'khiêm', con dê khiêm giống dê mà có bốn cái sừng. - Người nước Độc Lộc cống con 'cung cung', con cung cung là giống thú chạy khỏe. - Người nước Cô Trúc cống con 'cự khư'. - Người nước Bất Linh Chi cống cái cờ đen. - Người nước Bất Đồ Hà cống con gấu xanh. - Người nước Đông Hồ cống con gấu vàng. - Người nước Sơn Nhung cống cây đậu nhung Phía bắc đài ngoài, ở góc phía tây, có các chư hầu đến cống như sau: - Người nước Bà Ngô cống hổ trắng vằn đen. - Người nước Đồ Châu cống báo đen. - Người nước Ngung Thị cống con 'đào đồ'. - Người nước Đại Hạ cống con bò 'từ bạch', bò từ bạch là loài thú hoang, thân giống bò mà răng giống ngà voi. - Người nước Khuyển Nhung cống ngựa vằn, ngựa vằn lông đỏ xõa thân, mắt sáng như vàng ròng, gọi là 'cỗ xe cát hoàng'. - Người nước Số Sở cống bò 'môi', bò môi là một loài bò nhỏ. - Người nước Hung Nô cống chó 'giảo', chó giảo mình to, bốn chân lõa (không có lông). Đều hướng về phía nam. Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Phía nam đài ngoài, ở góc phía đông, có các chư hầu đến cống như sau: - Người nước Quyền Phù cống mắt ngọc. - Người nước Bạch Châu cống cây 'bỉ lư', hoa của nó như lông chim, chặt lấy gỗ nó để làm xe, đi suốt không hỏng. - Người nước Li Nhân cống cỏ may. - Người nước Lộ Nhân cống cây tre lớn. - Người nước Tràng Sa cống con ba ba. Phía nam đài ngoài, ở góc phía tây, có các chư hầu đến cống như sau: - Người nước Ngư Phúc cống bò 'chung chung'. - Người nước Dương Man cống lông chim trĩ. - Người nước Thương Ngô cống chim phỉ thúy, chim phỉ thúy bắt để lấy lông. Các chư hầu khác đều đến cống, chỉ chép được đến thế để biết được đấy là phép tắc từ xưa. Người phương nam đến cống đều hướng về phía bắc. ... Dật Chu thư - Vương hội giải (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) Y Doãn triều hiến, Thương thư chép: Vua Thang hỏi Y Doãn rằng: "Chư hầu đến dâng, có kẻ không dâng những thứ mà do bò ngựa sinh ra, mà lại dâng những vật ở phương xa, sự thật trái nhau. Nay ta muốn chư hầu dựa theo đồ vật mà mình có để dâng lên, tất dễ có được mà lại không đắt, sai ông đặt ra phép tắc dâng cống của chư hầu bốn phương." Y Doãn vâng mệnh, do đó đặt ra phép tắc dâng cống của chư hầu bốn phương rằng: "Ta đòi các chư hầu miền đông như các nước Phù Lâu, Cừu Châu, Y Lư, Âu Thâm, Cửu Chi, Thập Man, Việt Âu, các nước 'cắt tóc vẽ mình', hãy đem vảy da ca, thịt cá khô, thuẫn bọc da cá, kiếm sắc đến cống. Các chư hầu phía nam như các nước Âu Đặng, Quế Quốc, Tổn Tử, Sản Lí, Bách Bộc, Cửu Khuẩn, hãy đem đồi mồi, ngà voi, sừng tê, chim phỉ thúy, chim hạc, chó con đến cống. Các chư hầu phía tây như các nước Côn Lôn, Cẩu Quốc, Quỷ Thân, Chỉ Dĩ, Hấp Nhĩ, Quán Hung, Điêu Đề, Li Khâu, Tất Xỉ, hãy đem đá đan thanh, cờ mao trắng, sợi lông, rừng rồng, rùa thần đến cống. Các chư hầu phía bắc như các nước Không Đồng, Đại Hạ, Sa Cô, Cô Tha, Đán Lược, Báo Hồ, Đại Địch, Hung Nô, Lâu Phiền, Nguyệt Chi, Tiêm Lê, Kì Long, Đông Hồ, hãy đem con lạc đà, ngọc trắng, ngựa hoang, con đào đồ, con quyết đề, cung tốt đến cống." Vua Thang nói: "Được." Các tác giả thời Tiên Tần cho ta biết có các dân tộc (hoặc là các nước chư hầu phương xa) ở miền đông nam Trung Quốc từng đến cống nạp các sản vật địa phương cho nhà Thuơng-Chu. Thời nhà Thương có: 符婁 Phù Lâu 仇州 Cừu Chân 伊慮 Y Lư 漚深 Âu Thâm 九夷 Cửu Di 十蠻 Thập Man 越漚 Việt Âu 鬋髮文身 Tiễn Phát - Văn Thân (các dân cắt tóc vẽ mình) 甌鄧 Âu Đặng 桂國 Quế Quốc 損子 Tổn Tử 產里 Sản Lí 百濮 Bách Bộc 九菌 Cửu Khuẩn Thời nhà Chu có: - 稷慎 Tắc Thận - 穢人 Uế Nhân - 良夷 Lương Di - 揚州 Dương Châu - 解 Giải - 俞人 Du Nhân - 青丘 Thanh Khâu - 周頭 Chu Đầu - 黑齒 Hắc Xỉ - 白民 Bạch Dân - 東越 Đông Việt - 歐人 Âu Nhân - 於越 Ư Việt - 姑妹 Cô Muội - 具區 Cụ Khu - 共人 Cộng Nhân - 海陽 Hải Dương - 自深 Tự Thâm - 會稽 Cối Kê - 權扶 Quyền Phù - 白州 Bạch Châu - 禽人 Li Nhân - 路人 Lộ Nhân - 長沙 Tràng Sa - 揚蠻 Dương Man - 魚復 Ngư Phúc - 倉吾 Thương Ngô ************************* Có thể nói thời Thương-Chu (từ thời nhà Thương cho đến thời Xuân thu) chưa có khái niệm Bách Việt. Bấy giờ chỉ có các nước Đông Việt, Ư Việt, Việt Âu ở miền đông, theo suy đoán là miền bờ biển từ Thượng Hải đến Chiết Giang. Lại có nước Việt Thường (越常) ở phía nam Giao Chỉ từng đến tặng chim trĩ cho nhà Chu. Lữ thị xuân thu - Bản vị (Tiên Tần - Lữ Bất Vi soạn) 魚之美者:洞庭之鱄,東海之鮞。醴水之魚,名曰朱鱉,六足,有珠百碧。雚水之魚,名曰鰩,其狀若鯉而有翼,常從西海夜飛,游於東海。菜之美者:崑崙之蘋,壽木之華。指姑之東,中容之國,有赤木玄木之葉焉。餘瞀之南,南極之崖,有菜,其名曰嘉樹,其色若碧。陽華之芸。雲夢之芹。具區之菁。浸淵之草,名曰土英。和之美者:陽樸之薑,招搖之桂,越駱之菌,鱣鮪之醢,大夏之鹽,宰揭之露,其色如玉,長澤之卵。 Trong các loài cá đẹp thì có cá 'chuyên' ở hồ Động Đình, cá 'nhi' ở biển Đông. Có một loài cá ở sông Lễ tên là cá 'chu miết', có sáu chân, có trăm vảy bọc như hạt châu. Có loài cá ở sông Quán tên là cá 'diêu', mình nó giống cá chép mà có cánh, thường vào buổi đêm từ biển Tây bay lại dạo chơi ở biển Đông. Trong các loài rau cỏ đẹp thì có cỏ 'tần' ở núi Côn Lôn, hoa của cây 'thọ mộc'. Ở nước Trung Dung phía đông núi Chỉ Cô có lá của cây 'xích mộc', cây 'huyền mộc'. Ở mé cực nam phía nam núi Dư Mậu có loài cỏ tên là cỏ 'gia thụ', màu như màu ngọc bích. Có cỏ 'vân' ở đầm Dương Hoa, rau cần ở đầm Vân Mộng, rau hẹ ở đầm Cụ Khu. Có loài cỏ ở đầm Tẩm Uyên tên là cỏ 'thổ anh'. Trong những món ăn vị ôn hòa thì có củ gừng ở huyện Dương Phác, có vỏ quế ở núi Chiêu Dao, có măng ở nước Việt Lạc, có mắm cá 'triên', cá 'vĩ', có muối ở nước Đại Hạ. Có sương ngọt ở núi Tể Yết, màu nó như ngọc. Có trứng cá ở đầm Trường Trạch. Lữ thị xuân thu - Thị quân (Tiên Tần - Lữ Bất Vi soạn) 非濱之東,夷、穢之鄉,大解、陵魚、其、鹿野、搖山、揚島、大人之居,多無君;揚、漢之南,百越之際,敝凱諸、夫風、餘靡之地,縛婁、陽禺、驩兜之國,多無君;氐、羌、呼唐、離水之西,僰人、野人、篇笮之川,舟人、送龍、突人之鄉,多無君;鴈門之北,鷹隼、所鷙、須窺之國,饕餮、窮奇之地,叔逆之所,儋耳之居,多無君;此四方之無君者也。其民麋鹿禽獸,少者使長,長者畏壯,有力者賢,暴傲者尊,日夜相殘,無時休息,以盡其類。聖人深見此患也,故為天下長慮,莫如置天子也;為一國長慮,莫如置君也。置君非以阿君也,置天子非以阿天子也,置官長非以阿官長也。德衰世亂,然後天子利天下,國君利國,官長利官,此國所以遞興遞廢也,亂難之所以時作也。故忠臣廉士,內之則諫其君之過也,外之則死人臣之義也。 Ở phía đông bến Phi Tân, chỗ người Di-Uế, chỗ người Đại Giải, Lăng Ngư, Kì, Lộc Dã, Dao Sơn, Dương Đảo, Đại Nhân, phần nhiều không có quân trưởng; ở phía nam miền Dương-Hán, chỗ người Bách Việt, chỗ người Tệ Khải Chư, Phù Phong, Dư Mi, chỗ người Phược Lâu, Dương Ngung, Hoan Đâu, phần nhiều không có quân trưởng; chỗ người Đê-Khương, Hô Đường, ở phía tây sông Li, chỗ người Bộc Nhân, Dã Nhân, Biên Tạc, chỗ người Chu Nhân, Tống Long, Đột Nhân, phần nhiều không có quân trưởng; ở phía bắc ải Nhạn Môn, chỗ người Ưng Chuẩn, Sở Chí, Tu Khuy, chỗ người Thao Thiết, Cùng Kì, chỗ người Thúc Nghịch, chỗ người Đam Nhĩ, phần nhiều không có quân trưởng; đấy là những chỗ không có quân trưởng trong bốn phương, dân ở đấy ăn ở như hươu nai cầm thú, kẻ nhỏ sai khiến kẻ lớn, kẻ lớn sợ kẻ mạnh, kẻ có sức thì được xem trọng, kẻ bạo ngược thì được tôn quý, ngày đêm đánh nhau, không lúc nào ngơi cho đến diệt hết giống nòi mới thôi. Thánh nhân thấy sâu xa mối hại ấy, cho nên nghĩ kế lâu dài giúp cho thiên hạ, cho rằng chẳng gì bằng đặt ra thiên tử vậy. Nghĩ kế lâu dài giúp cho một nước, chẳng gì bằng đặt ra quân trưởng vậy. Đặt ra quân trưởng không phải là a dua theo quẩn trưởng, đặt ra thiên tử không phải là a dua theo thiên tử, đặt ra quan lại không phải là a dua theo quan lại. Sau đó thời loạn đức suy, thiên tử mưu lợi ở thiên hạ, quân trưởng mưu lợi ở các nước, quan lại mưu lợi ở việc quan, do đó các nước từ hưng thịnh thành ra vỡ lở, do đó gây ra loạn lạc. Cho nên trung thần khiêm sĩ thì phải can gián quân trưởng gây họa, ngoài thì phải dốc hết nghĩa của bầy tôi. [ctext.org] **************************** Bấy giờ là thời Chiến quốc, phía nam miền Dương-Hán có người Bách Việt, phần nhiều trong số họ không đặt ra quân trưởng như các chư hầu ở Trung Quốc vậy. Sơn hải kinh - Hải nội nam kinh (Tiên Tần - Khuyết danh soạn) 甌居海中。閩在海中,其西北有山。一曰閩中山在海中。 Người Âu ở giữa sông biển (ở chỗ đảo/cù lao). Người Mân ở giữa sông biển (ở chỗ đảo/cù lao), phía tây bắc xứ ấy có núi. Có người nói núi Mân Trung ở giữa sông biển. 三天子鄣山在閩西海北。一曰在海中。 Có núi Tam Thiên Tử Chương ở phía bắc biển tây đất Mân. Có người nói tại giữa sông biển. 桂林八樹在番隅東。 Có tám cây rừng quế tại phía đông đất Phan Ngu. 伯慮國、離耳國、雕題國、北朐國皆在鬱水南。鬱水出湘陵南海。一曰相慮。 Có nước Bách Lư, nước Li Nhĩ, nước Điêu Đề, nước Bắc Cù, đều tại phía nam sông Uất. Sông Uất chảy ra từ bờ nam đất Tương Lăng. Có người nói (nước Bách Lư) là nước Tương Lư. 梟陽國在北朐之西,其為人人面長脣,黑身有毛,反踵,見人笑亦笑;左手操管。 Có nước Kiêu Dương tại phía tây nước Bắc Cù, người dân nước ấy mặt người môi dài, mình đen có lông, chân khạng, thấy người cười cũng cười, tay trái cầm ống tre. 兕在舜葬東,湘水南,其狀如牛,蒼黑,一角。 Có loài thú ở phía đông mộ vua Thuấn, chỗ phía nam sông Tương, dáng của nó như con bò, mình đen thẫm, có một sừng. 蒼梧之山,帝舜葬于陽,帝丹朱葬于陰。 Có núi ở đất Thương Ngô, mộ vua Thuấn ở phía nam núi, mộ vua Đan Chu ở phía bắc núi. [www.yasue.cc] ********************************* Bấy giờ miền nam một dải từ Cối Kê, Mân Trung đến Quế Lâm, Nam Hải có các nước/bộ tộc: 甌 Âu 閩 Mân 番隅 Phan Ngu 伯慮 Bách Lư 離耳 Li Nhĩ 雕題 Điêu Đề 北朐 Bắc Cù 梟陽 Kiêu Dương 蒼梧 Thương Ngô Sử kí - Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu 太史公曰:匈奴絕和親,攻當路塞;閩越擅伐,東甌請降。二夷交侵,當盛漢之隆,以此知功臣受封侔於祖考矣。何者?自詩書稱三代「戎狄是應,荊荼是徵」,齊桓越燕伐山戎,武靈王以區區趙服單于,秦繆用百里霸西戎,吳楚之君以諸侯役百越。況乃以中國一統,明天子在上,兼文武,席卷四海,內輯億萬之衆,豈以晏然不為邊境征伐哉!自是後,遂出師北討彊胡,南誅勁越,將卒以次封矣。 Thái sử công nói: Người Hung Nô dứt hòa thân, đánh phá ải lối, người Mân Việt tự tiện đánh dẹp, người Đông Âu xin hàng. Hai người rợ ấy xâm lấn ở vào thời nhà Hán đang thịnh, do đó biết công thần nhận tước phong sánh ngang với thời tổ tiên vậy. Sao thế? Từ thời kinh Thi-Thư khen việc 'chống đỡ Nhung-Địch, đánh dẹp Kinh-Gia' về sau, bấy giờ Tề Hoàn Công qua nước Yên đánh người Sơn Nhung, Võ Linh Vương lấy nước Triệu cỏn con chinh phục Thiền vu, Tần Mục Công dùng sức lực của một nước rộng có trăm dặm mà làm bá ở miền người Nhung phía tây, vua các nước Ngô-Sở dẫn quân chư hầu bắt người Bách Việt theo phục còn được nữa là. Huống chi ngày nay Trung Quốc đã theo về một mối, có thiên tử sáng suốt ở trên, tài kiêm văn võ, ôm trọn bốn cõi, trong sửa trị hàng ức vạn dân chúng, há lại ở yên mà không đánh dẹp ngoài biên ải chăng! Từ đó về sau, bèn phát binh lên phía bắc đánh rợ Hồ mạnh, xuống phía nam dẹp người Việt cứng, tướng sĩ lần lượt được phong tước vậy. [www.sidneyluo.net] ******************** Đấy là Tư Mã Thiên nói về người Hồ ở phía bắc, từ thời Xuân thu đã từng vào đánh cướp biên ải, từng bắt giết U Vương nhà Chu, các nước Yên, Triệu từng phải đắp thành dài để ngăn chống. Kịp đến thời nhà Hán đang thịnh, Mặc Đốn ở phía nam thống nhất các bộ lạc người Hồ thành nước Hung Nô, vây Hán Cao Tổ bảy ngày ở Bình Thành, nhà Hán phải gả công chúa để xin hòa thân, sau đó lại bội ước, đánh phá biên ải phía bắc, do đó nhà Hán sai các tướng Vệ-Hoắc đi đánh đuổi. Bấy giờ người Việt ở phía nam tiếp kề các nước Ngô-Sở, sai Ngô Khởi chinh phục Bách Việt, lại chinh phục nước Việt, giáng vua làm quân trưởng, đến thời Hán phong dòng dõi vua nước Việt làm vua các nước Đông Âu, Mân Việt, phong tướng lại cũ nhà Tần làm vua nước Nam Việt, rồi lần lượt sai bọn tướng quân Phục ba, Lâu thuyền, Hoành hải đi đánh diệt. Do đó đất Việt một dải từ Cối Kê đến Giao Chỉ đều thành quận huyện.
  15. Cổ vật trong than đá chứng minh Thuyết tiến hóa là dối trá? Giáo dục nhà trường hiện nay căn bản đều chấp nhận thuyết tiến hóa giải thích nguồn gốc nhân loại với ý tưởng con người tiến hóa từ vượn cổ 4 triệu năm trước. Tuy nhiên, các phát hiện trong giới khoa học cùng nhiều bằng chứng khác cho thấy vấn đề không hề đơn giản. Chiếc búa được hai vợ chồng Max Hahn và Emma tìm thấy vào Tháng 6/1936. 1. Lưỡi búa “thần thánh” Tháng 6/ 1936, hai vợ chồng Max Hahn và Emma trong lúc leo núi gần khu vực một thác nước ở London (cũ) thuộc tiểu bang Texas, họ tìm thấy một tảng đá có cán gỗ xuyên qua. Thấy kỳ quặc, họ quyết định đem nó về nhà, tách tảng đá ra làm đôi và phát hiện một cây búa sắt cán gỗ bên trong. Sự kiện này đã gây chấn động cộng đồng khảo cổ và khoa học, vật được tìm thấy là một cây búa do con người tiền sử làm ra. Các phân tích niên đại sau đó kết luận, tảng đá bọc bên ngoài cây búa có niên đại khoảng 400 triệu năm, còn độ tuổi của cây búa qua phân tích phóng xạ cho thấy niên đại lên đến hơn 500 triệu năm. Một phần của cán gỗ đã dần hóa thạch. Lưỡi búa được làm bằng sắc với độ tinh khiết lên đến 96%, thứ không thể tìm thấy trong thiên nhiên và thậm chí còn vượt qua công nghệ tinh luyện thép hiện nay. 2.Tượng người đất sét hơn 15 triệu tuổi Năm 1889, gần Nampa, Idaho, các công nhân trong lúc khoan giếng đã tìm thấy một tượng người nhỏ làm bằng đất sét nung ở độ sâu khoảng 100m. Để đạt đến độ sâu này, các công nhân đã phải đào xuyên qua 15m dung nham núi lửa và các lớp hóa thạch khác. Chuyện không có gì đáng nói đến khi người ta phát hiện ra lớp hóa thạch đã đào qua phía trên có độ tuổi ít nhất là 15 triệu năm. Hiện nay, những người hoạt động trong ngành khoa học địa chất đều biết, than được hình thành từ xác động thực vật bị chôn vùi nhiều năm. Thảm động thực vật bị chôn vùi theo thời gian và được bao phủ bởi trầm tích, dần hóa thành than đá. Quá trình hình thành này phải mất đến 400 triệu năm. Vật được tìm thấy chắc chắn đã xuất hiện trước và có niên đại xa xưa hơn lớp dung nham trên. 3. Pháp khí 300 triệu năm tuổi Năm 1944, Newton Anderson, một chú bé 10 tuổi, khi chơi dưới tầng hầm đã làm rơi một tảng than đá vỡ nứt làm đôi. Vật tìm thấy bên trong đã thách thức mọi giải thích khoa học chính thống hiện nay. Bên trong khối than là một cái chuông có cáng cầm tay được làm bằng đồng thau với những nét điêu khắc vô cùng tinh xảo. Sau khi đem đi phân tích, người ta tìm thấy chiếc chuông được chế tạo từ hỗn hợp kì lạ, bao gồm đồng, kẽm, thiếc, asen, i-ốt và selen, các loại vật liệu không giống với bất kỳ phương pháp chế tạo hiện đại nào ngày nay. Và như trên đã nói, than đá là thứ chỉ hình thành qua hơn 300 triệu năm tuổi. Chiếc chuông này chắc chắn có niên đại lâu hơn. Trên đây chỉ là một trong nhiều khám phá dị thường đã được phát hiện gần đây, đều bị âm thầm mang đi cất giữ tại tầng hầm các bảo tàng trên thế giới, dấu đi khỏi tầm nhìn của công chúng. 4. Dây chuyền vàng hơn 300 triệu năm tuổi Tương tự một trường hợp khác ngày 11 /6/1891 ở Morrisonville, Illinois, theo một báo cáo cho biết bà Culp đã tìm thấy một xâu chuỗi tròn làm bằng vàng 8 cara, dài khoảng 25cm nằm kẹt trong một khối than đá. Xâu chuỗi này được gọi là “đồ cổ” hay “cổ vật”. 5. Chiếc nồi sắt hơn 300 triệu năm Hiện được trưng bày tại bảo tàng Glen Rose, Texas, nồi sắt đúc được một công nhân canh lò than nhà máy điện tìm thấy trong một khối than lớn năm 1912 . Khi người này đập vỡ khối than làm hai thì chiếc nồi sắt rơi ra để lại vết hằn bên trong. Vô vàn các trường hợp khác đã được công bố hoặc chưa. Khoa học thường thức hiện nay cho rằng những đồ vật trên “không nên tồn tại” vì nó đi ngược với nhận thức hiện hành về nguồn gốc và lịch sử loài người. Họ gọi chúng với những cái tên như “không có chỗ đứng”, “nghịch lý” và tìm cách đưa chúng xa khỏi tầm hiểu biết của công chúng. Khoa học hiện nay khi đối diện với vấn đề thường đưa ra hai giải pháp, một là cố gắng chứng minh làm sáng tỏ vấn đề, hoặc nếu không làm được điều thứ nhất thì họ đi theo hướng ngược lại là cố làm mất tính chính thống của sự kiện, tấn công vào tính khả tín của khoa học gia, phóng viên để chôn vùi những phát hiện vào bảo tàng, tìm cách để không cho chúng xuất hiện rõ ràng trước công luận lần nữa. Vì nếu không đưa ra được kết luận khoa học cho sự kiện, các khoa học gia hẳn sẽ rất “bẽ mặt”. Họ thường đánh đổ những sự kiện phát hiện trên với các tiêu đề như “lừa đảo” hay “báo cáo sai sự thật”, mục đích có lẽ là để giữ thể diện. Nói cách khác, khi một lý thuyết vốn được dùng để làm nền tảng cho mọi nghiên cứu phát triển khoa học khác, thì sự sụp đổ của lý thuyết này sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả một hệ thống tri thức khoa học, tác động quá lớn vào niềm tin của con người đối với khoa học, ảnh hưởng không nhỏ đến mọi tầng lớp, mọi quốc gia. Đó có thể chính là cái giá của sự thật. Nhưng cái giá quá đắt này liệu có ai đủ dũng khí để chi trả. Điều này đặt ra một vấn đề khác khiến chúng ta cần phải suy nghĩ, hệ thống khoa học được hình thành trên nền tảng móc nối giữa các lý thuyết khoa học; vậy thử đặt giả thuyết, nếu một mắc xích trong đó được chứng minh là sai thì chẳng phải cả hệ thống đó sẽ bị ảnh hưởng, và nhiều thứ phải bắt đầu lại. Điều này cho thấy những hạn chế của khoa học thực chứng bởi chúng phải đối mặt với quá nhiều rủi ro cùng những xác suất. Và sự thật là con người đặt rất nhiều niềm tin vào khoa học và luôn cả những rủi ro này. Tuy nhiên, khi ngày càng nhiều những phát hiện tương tự xảy đến thì trong công chúng sẽ manh nha những hoài nghi, sự thật vẫn là sự thật và nó không thể mãi bị che dấu. Thế nhưng hiện nay chúng ta vẫn phải chấp nhận một hiện thực rằng, dù các tri thức giáo khoa đã trở nên cũ kỹ và đầy hoài nghi khi các phát hiện như trên được đề cập đến, thì chúng vẫn được rao giảng không ngừng tại các lớp học, mà bất cứ ý kiến nghi hoặc nào đưa ra cũng sẽ rơi vào sự kì thị. Đôi khi một số nhà khoa học chân chính sẽ cố gắng làm sáng tỏ sự thật về những gì được phát hiện. Tuy nhiên, họ sẽ gặp phải chỉ trích và quay lưng từ đồng nghiệp, dẫn đến sự nghiệp cũng nhanh chóng bị kết thúc theo. Trở lại vấn đề Darwin và thuyết tiến hóa, ông cho rằng nhân loại tiến hóa từ vượn, rồi thành người tối cổ, bắt đầu từ khoảng 4 triệu năm trước đây, và phát triển cho đến ngày nay, có trí tuệ thông minh, biết lao động sản xuất. Nhiều giáo đồ của Darwin có thể đưa ra các bằng chứng như “tiến hóa ý thức hệ”, các bộ xương loài… Ở phía đối lập, các tôn giáo giảng rằng đấng tối cao tạo ra mọi thứ trên Trái đất đã từ rất lâu. Họ không có nhiều bằng chứng ngoài kinh sách ra và những câu chuyện được truyền thừa qua nhiều thế hệ. Nhiều kinh sách qua các lần cải tổ, chiến tranh, thiên tai đã bị thất lạc, biên dịch sai, hoặc thêm thắt vào đó nhiều diễn giải cá nhân làm mọi thứ trở nên rắc rối. Tuy vậy, tất cả đều yêu cầu phải giữ vững “đức tin”, cái họ cần nhiều hơn là “bằng chứng”. Sự thật về nguồn gốc loài người là một bí ẩn tổng quát. Chưa từng một ai, nơi nào, thực sự biết được nhân loại đã qua bao nhiêu tuổi và có nguồn gốc từ đâu. Một bí ẩn dường như tuyệt đối. Theo Tinhhoa Một số cổ vật trên chứng minh thuyết tiến hóa chưa hợp lý hay chính chúng là "rởm", bởi một số nhóm muốn lừa nhân loại để chống thuyết tiến hóa? -> Tôi sẽ viết ngay sau.
  16. Phật Di Lặc và Messiah: Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp Tác giả: Trương Kiệt Liên Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc là một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lạc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lạc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. Trong Kinh Thánh có lời tiên tri rằng, vào thời khắc tối hậu của nhân loại, sau khi người Israel phục quốc, Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới nhân gian. Còn Kinh Phật ở phương Đông nói rằng khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, Phật Di Lạc tương lai sẽ hạ thế phổ độ chúng sinh. Hiện tại, những sự việc được tiên tri đã lần lượt xuất hiện, Cứu Thế Chủ của cả Đông và Tây phương phải chăng đã tới ngay bên cạnh chúng ta? Cả Kinh Phật và Kinh Thánh đều đề cập tới nhân loại thời mạt kiếp ắt sẽ có Cứu Thế Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh. Kinh Phật cho rằng thời mạt pháp sẽ có vị Phật tương lai là Di Lạc hạ thế cứu độ chúng sinh, còn Kinh Thánh tin rằng khi thời mạt kiếp tới, tất sẽ có Cứu Thế Chủ Messiah giáng thế cứu vãn chúng sinh. Nếu như Kinh Phật và Kinh Thánh là đáng tin cậy, thì như vậy nhân loại nhất định sẽ xuất hiện hai Cứu Thế Chủ, ngoại trừ trường hợp Di Lạc trong Kinh Phật chính là Messiah trong Kinh Thánh. Phật Di Lạc và Messiah là cùng một người? Cố học giả của nền giáo dục Trung Quốc, nhà Phật học, nhà phiên dịch Quý Tiện Lâm và các đồ đệ của ông đã có một cống hiến quan trọng, đó là phát hiện mối liên hệ giữa Phật gia và Cơ Đốc giáo, ấy chính là “Vị lai Phật Di Lạc của Phật gia và Cứu Thế Chủ Messiah của Cơ Đốc giáo là cùng một người”. Theo nghiên cứu của Đại học Phục Đán Thượng Hải, vào khoảng năm 1.000 TCN, trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập, có một thứ tín ngưỡng thịnh hành về Cứu Thế Chủ của tương lai, và Messiah trong Đạo của Chúa Jesus chính là một loại tín ngưỡng có tính đại biểu nhất. Thực ra loại tín ngưỡng này đã có mặt ngay trong kinh Cựu Ước. Tín ngưỡng Di Lạc của Ấn Độ, theo xác nhận của giới học thuật, là có tương quan mật thiết với tín ngưỡng Cứu Thế Chủ trên phạm vi toàn thế giới; do vậy xét về ảnh hưởng, tín ngưỡng Di Lạc của Ấn Độ chính là một bộ phận hợp thành của tín ngưỡng Cứu Thế Chủ. Nếu dùng ngôn ngữ đơn giản nhất mà diễn đạt, thì Di Lặc chính là Vị lai Phật, là Cứu Thế Chủ tương lai. Nguồn gốc ở Ấn Độ và phạm vi lưu truyền rộng lớn thời cổ đại của tín ngưỡng này chính là một bộ phận của tín ngưỡng vào Messiah. Hai chữ “Di Lạc” (弥勒) trong tiếng Hán từ đâu mà đến? Thực ra, điều này liên quan đến một trong những bí mật lớn nhất của văn minh nhân loại lần này. Theo khảo cứu từ «Quý Tiện Lâm văn tập», quyển thứ 12 “Mai Lợi Da và Di Lạc”, thì đa số nguyên bản Kinh Phật thời kỳ đầu đều là “Hồ bản”, tức dùng văn tự của ngôn ngữ Trung Á và Tân Cương cổ đại để viết, chứ không phải là chữ Phạn quy phạm của Ấn Độ. Do đó, hai chữ “Di Lạc” rất có thể đến từ thứ tiếng Tocharian của Tân Cương, là dịch âm trực tiếp từ chữ “Metrak” hoặc “Maitrak”; chữ này rất có quan hệ với chữ “maitri” (từ bi, từ ái) trong tiếng Phạn, do đó “Di Lạc” dịch ý thì chính là “Từ Thị” (người có lòng từ). Vì vậy, ngay từ thời hậu Hán và Tam Quốc ở Trung Quốc, trong một lượng lớn tư liệu Phật điển dịch tiếng Hán đều xuất hiện đồng thời “Di Lạc” và “Từ Thị” (Bồ Tát). Nếu quả thực như vậy, khái niệm Di Lặc xét về thời gian và bề rộng thì vượt khỏi phạm trù Phật giáo. Tại Trung Quốc, tín ngưỡng sớm nhất của dân chúng không phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng không phải là A Di Đà Phật, mà là Di Lạc Bồ Tát. Người ta phát hiện rằng, tín ngưỡng Di Lạc ngay từ đầu đã là đúc kết tinh hoa văn hóa của toàn bộ nền văn minh thế giới, chứ không chỉ hạn cuộc trong Phật giáo, ngoại trừ khái niệm về Bồ Tát ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa nhân loại. Di Lạc, trong tiếng Sanskrit gọi là “Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”, và gần như không có quan hệ gì về phát âm với hai chữ “Di Lạc” trong tiếng Hoa. Pháp sư Huyền Trang của Đại Đường trong khi phiên dịch đã phát hiện thấy điểm này, bởi vậy Huyền Trang mới nói là dịch sai, và lẽ ra nên phiên dịch thành “Mai Lợi Da”. Tuy nhiên người ta không tiếp thụ ý kiến của vị cao tăng đáng kính Huyền Trang, lại còn cố định gọi thành “Di Lạc”, và “Mai Lợi Da” đã trở thành phát minh cá nhân của pháp sư Huyền Trang. Vị Thần mà người Tây phương chờ đợi gọi là “Messiah” trong tiếng Anh, tiếng Hán phiên thành “Di Trại Á”, và bắt nguồn từ chữ “Masiah” trong tiếng Hebrew (có lúc viết thành “Mashiach”). Tiếng Hy Lạp phiên dịch thành “Christos”, bởi vậy mới có chữ “Christ” (Cơ Đốc). “Messiah” và “Christ” về cơ bản là có nghĩa tương đương, và Tân Ước coi Chúa Cứu Thế tương đồng với Messiah của Do Thái giáo. Hai chữ “Maitreya” và “Masiah” có âm rất gần. Trên thực tế, “Di Lặc” nguyên từ tiếng Tocharian của Tân Cương và “Messiah” nguyên từ tiếng Hebrew của Israel là một từ đồng nhất, chẳng qua ở Tây phương đọc là “Messiah”, ở Ấn Độ đọc là “Maitreya”, còn ở Trung Quốc đọc là “Di Lạc”. Tình huống ngôn ngữ này cũng rất hay gặp trong lịch sử văn minh nhân loại. Chùa Labrang ở Cam Túc là một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lạc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lạc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. Tạo hình tượng Phật trong chùa Labrang ở Cam Túc ẩn chứa huyền cơ Theo Kinh Phật ghi lại, Di Lạc là Phật hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống từ tầng tối cao vào thời mạt thế, còn Pháp Luân Thánh Vương là Pháp hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống Pháp giới (nhân gian gọi là Chuyển Luân Thánh Vương), do đó Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói với các đệ tử của Ngài rằng: Pháp Luân Thánh Vương cũng được gọi là Di Lạc. Từ bi, chói sáng, hy vọng là nội hàm tinh thần của Phật Di Lạc tương lai. Trong chùa Labrang (Lạp Bặc Lăng) thuộc huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc, Trung Quốc có một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Di Lạc hạ thế độ nhân. Chùa Labrang được xây vào những năm Khang Hy của triều Thanh (năm 1709), là một trong lục đại tông chủ của Cách Lỗ phái (Hoàng giáo) trong Phật giáo Tây Tạng. Nguyên tên của chùa Lạp Bặc Lăng rất dài, gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ, ý tiếng Hán là “chùa Cát Tường”. Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng của chùa Labrang cũng ẩn chứa huyền cơ, đặc biệt tạo tượng lưỡng tôn Di Lạc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy. Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lạc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Theo lời giải đáp của vị Lạt-ma hướng dẫn khách du lịch khi được hỏi về tư thế tay của Phật thì: “Đây là Di Lạc Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ Di Lạc Phật sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Nghe nói nguyên danh Trát Tây Kỳ của chùa Labrang (ý Cát Tường) chính là có hàm nghĩa Pháp Luân chuyển động hiện Cát Tường. Ở chính giữa Đại Kim Ngõa Điện thờ cúng Đại Phật Di Lạc là một tượng đồng mạ vàng từ hơn 200 năm trước, do hai đời chủ chùa này đặc biệt mời thợ thủ công từ Nepal đúc thành, tượng Phật cao 10 mét. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Di Lạc là một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng một tế đàn này quả thực là hiếm thấy. Theo giải thích của vị Lạt-ma hướng dẫn khách tham quan thì: “Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lạc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân. Ngài là vị Như Lai có thần thông tối quảng đại, với năng lực lớn nhất trong vũ trụ; Ngài mang Pháp Luân tới cứu độ chúng sinh trong vũ trụ, tức Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng sinh toàn vũ trụ”. Không khó để phát hiện, cách tạo tượng đột nhiên hiện rõ Phật Di Lạc (Chuyển Luân Thánh Vương) với tầng thứ cực cao, Pháp lực cực lớn, mang theo từ bi hồng đại tới cứu độ toàn nhân loại. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong ngôi chùa này, điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu Kim Ngõa Điện, còn Di Lạc Phật Điện được gọi là Đại Kim Ngõa Điện. Thần tại cõi người Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah. Sau khi đại chiến thế giới thứ II kết thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái, Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn về “Israel phục quốc”. Tuy xã hội chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. nhưng Israel là Do Thái giáo, bởi vậy nhằm khống chế Jerusalem (một điều kiện để Thần trở lại), trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương đã một mực duy trì giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử. Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lạc tương lai (Chuyển Luân Thánh Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”. Hoa Ưu Đàm Bà La nở rộ tại tiểu bang Maryland ở Mỹ, năm 2011 (Ảnh: John Yu) Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh Trung Quốc, người ta liên tục phát hiện hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo, có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn sinh cơ bừng bừng. Từ xưa tới nay chưa gặp bao giờ, nay các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến. Năm nay (2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã thịnh khai tại các nơi trên thế giới, thực đúng là thiên thượng ban tặng. Cách tạo tượng dân gian và dự ngôn hiển rõ thiên cơ Trong dân gian Trung Quốc bảo lưu một phương thức tạo hình Di Lặc, một pho tượng Phật cười ngạo nghễ, vây quanh có 18 tiểu hài tử, nô đùa muôn hình muôn vẻ, được gọi là “Thập bát tử Di Lạc”. Thế nhưng “Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), tức báo trước Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng Di Lạc thập bát tử này đã lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc tiên tri: “Hà vi Thánh nhân, Mộc Tử tính thị” (“Thánh nhân là ai, họ là Mộc Tử”; “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李)), thuộc Thỏ, tháng Tư xuất sinh tại phía Bắc tam bát cấp (vĩ tuyến 38 độ Bắc phân chia Nam-Bắc Triều Tiên), Tam Thần sơn hạ (dưới chân núi Tam Thần sơn, tức Công Chủ Lĩnh dưới chân núi Trường Bạch)… Vị Thánh nhân này là “vương trung chi Vương” (Vua của các vua) trên thiên thượng, tức Pháp Luân Thánh Vương, lần này hạ phàm nhân gian gọi là Di Lạc Phật. Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự ngôn «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lạc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”. Nghĩa là Phật Di Lạc tương lai sẽ chuyển sinh đến “trung thiên Trung Quốc” vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc Tử” (Lý) làm họ. Ngày 13 tháng 5 năm 1951, tức ngày mùng 8 tháng Tư theo Nông lịch, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí đản sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, thuộc Thỏ, ngày này chính là “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “người phương Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa là Thỏ Phục Sinh (Thánh nhân thuộc Thỏ) và trứng Phục Sinh (có quan hệ với Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (thuộc Mộc), còn ám chỉ Thần ý huyền diệu khiến người ta kinh ngạc hơn nữa. Nostradamus người Pháp trong tác phẩm «Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các Thế Kỷ II, Khổ 29 đã dự ngôn minh xác về Cứu Thế Chủ cứu độ chúng sinh tại nhân loại vào thời mạt thế. Bài thơ này chính là tiên tri người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí, sau khi kết thúc truyền Pháp tại Trung Quốc Đại Lục sẽ sang Tây phương và truyền Pháp tại rất nhiều quốc gia Tây phương, khiến Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền toàn thế giới. Trong Các Thế Kỷ X, Khổ 75, Nostradamus cũng đề cập đến “Thần Hermes vĩ đại” để hình dung người sáng lập Pháp Luân Công hồng truyền Đại Pháp chính là giảng và truyền Đạo vũ trụ của Thần Phật cho nhân loại. Mà “Thần Hermes vĩ đại” có một cây thần trượng, dùng để đánh thức người đời, do đó câu thứ tư bài thơ trên mới nói “Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”. Khi Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, mỗi cá nhân trên thế giới đều bị đánh động, và thái độ của họ đối với Đại Pháp sẽ quyết định tương lai của chính họ. Các Thế Kỷ II, Khổ 29 Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp: Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài. Theo Kinh Phật ghi lại, Chuyển Luân Thánh Vương cũng như Đức Phật, có 32 tướng, 7 bảo; Ngài không dùng vũ lực, mà dùng chính nghĩa để xoay chuyển bánh xe Chính Pháp, cuối cùng trở thành vị Vua lý tưởng của thế giới. Bất kể theo Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho giáo, chỉ cần khoan dung với mọi người, thì đều có thể có duyên gặp Chuyển Luân Thánh Vương. Thế nhưng việc tốt hay gặp trắc trở, Thần đến thật rồi, mà con người vẫn nghi hoặc không tin. Thế nhân trong mê bất tỉnh Theo tục truyền, Bố Đại hòa thượng là hóa thân thế tục của Phật Di Lặc. Vào ngày 2 tháng 3 năm Trinh Minh thứ 2 triều Hậu Lương (năm 916 SCN), trước khi tạ thế, ông lưu lại bài kệ khắc trên bia đá trong chùa Nhạc Lâm như sau: “Di Lạc chân Di Lạc, Phân thân thiên bách ức, Thời thời thị thời nhân, Thời nhân tự bất thức” (Di Lạc ấy là Di Lạc thật, Phân thân hàng trăm nghìn vạn, Lúc nào cũng thị hiện người đời, Chỉ bởi người không tự biết). Bài kệ trước khi viên tịch của Bố Đại hòa thượng đã nói với người đời rằng, khi Phật Di Lạc tương lai hạ thế độ nhân, bất chấp chân tướng không ngừng triển hiện, thế nhân vẫn không thể đối diện với hiện thực. “Phúc âm John” trong Kinh Thánh viết (1:10-11): “Ngài đã vào thế gian, thế gian đã được tạo nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài. Ngài đã đến với dân Ngài, nhưng dân Ngài không tin nhận Ngài”. Kinh Thánh còn nói khi Cứu Thế Chủ giáng thế cứu người, ánh sáng của Ngài sẽ chiếu rọi thế giới trong nháy mắt, tựa như tia chớp từ trời tỏa sáng không trung. Thế nhưng người đời không nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, lại để Ngài phải chịu khổ không ít, thậm chí còn bị thế nhân không rõ chân tướng gièm pha. Trong «Các Thế Kỷ» có một bài thơ nổi tiếng minh xác về thời gian, đó là Các Thế Kỷ X, Khổ 72 tiên tri về đại sự kiện: Ngày 20 tháng 7 xác thực là một ngày đặc thù, được «Các Thế Kỷ» tiên tri là Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa, sẽ phát động cuộc đàn áp toàn diện đối với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Cuộc đàn áp gây bao đổ máu, phỉ báng lừa dối, tạo ma nạn tại Trung Nguyên, mê hoặc thế nhân khiến họ phạm tội. Đây chính là trận đại chiến Chính-tà tối hậu Armageddon giữa Chiên Con và thú mà “Khải Huyền” nhắc tới, đến nay đã 12 năm. Đối diện với ma nạn, vô số Thánh đồ đã kiên nhẫn giảng rõ sự thật để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Đảng Cộng sản Trung Quốc ngang nhiên chống lại Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ, đã rơi vào vũng bùn trong cuộc đọ sức Chính-tà này. Câu sấm “Cửu thập cửu niên thành đại thác” (Năm 99 thành sai lầm lớn) của dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường đã trở thành sự thực. Vào năm 1999, tháng 7, Để Đại vương Angoulmois phục sinh, Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống, Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ, Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Cuối cùng hướng về Thần Kinh «Trường A Hàm», quyển 18 viết: “Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế… thời các tiểu vương tại Đông phương thấy Đại Vương, đều dâng châu báu quy thuận. Ngoài ba phương Nam, Tây, Bắc đều như vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh viết (7:9-10): “Sau những việc đó, kìa, tôi thấy một đám đông rất lớn, không ai có thể đếm được, từ mọi quốc gia, bộ lạc, dân tộc, và ngôn ngữ đứng trước ngai và trước Chiên Con; ai nấy đều mặc áo choàng trắng và tay cầm cành thiên tuế. Họ cùng nhau cất tiếng hô vang rằng, ‘Ơn cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và thuộc về Chiên Con’.” Cho dù phải trải qua bao nhiêu ma nạn, cuối cùng con người cũng đều hướng về Thần; những người này đến từ các phương, các nước, các dân tộc. Kinh Phật và Kinh Thánh đều nhất trí khi miêu tả điểm này. Tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại Sau khi Cứu Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh, nhân gian sẽ nghênh đón tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại. Kinh «Di Lạc Hạ Sinh» viết: “Quốc thổ đều phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, đầu óc thường an lạc.” “Isaiah” của Kinh Thánh viết (65:19-20): “Tiếng than khóc sẽ không còn nghe trong thành ấy; Tiếng khóc than sẽ vĩnh viễn không còn. Trong thành ấy trẻ thơ sẽ không chết yểu; Không người già nào không hưởng trọn tuổi thọ của mình; Vì ai trăm tuổi mà qua đời sẽ bị xem là chết yểu; Người chưa được bách niên mà phải lìa đời sẽ bị xem là bị nguyền rủa”. “Isaiah” (65:23-25): “Chúng sẽ không lao động một cách luống công; Chúng sinh con ra chẳng phải để chuốc lấy âu sầu, Vì con cháu chúng sẽ là dòng dõi của những người được CHÚA ban phước, Và dòng dõi của chúng tiếp theo chúng nữa. … Chúng sẽ không gây tổn hại hay phá hoại trong khắp núi thánh của Ta,’ CHÚA phán vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh cũng miêu tả tân Thiên, tân Địa như sau (22:2): “Giữa quảng trường của thành, nơi rẽ ra của hai nhánh sông, có một cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân”. Bởi vậy, sau khi trải qua trận đại chiến Chính-tà này, những người có đạo nghĩa, duy hộ Phật Pháp sẽ được lưu lại và có phúc. Họ sẽ trường thọ an lạc, vô phạt vô tai, hoa quả sung túc, mỹ vị phong phú, chung sống hòa thuận, không tranh không đấu, nhân loại từ đó tiến nhập vào kỷ nguyên mới. (Hết)
  17. “Nhân Thần đồng tại” chính là ngày hôm nay Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] Trong chương trình biểu diễn nghệ thuật Thần Vận, giọng nam cao nổi tiếng Quan Quý Mẫn từng hát bài “Pháp Luân Thánh Vương”, khiến rất nhiều khán giả xúc động từ sâu thẳm trong tâm, thậm chí rơi nước mắt. Trong bài hát có nhắc tới “Đương kim thế giới nhân Thần đồng tại”, có thể nói là lời tiết lộ thiên cơ, hé mở đặc trưng trọng đại của thời đại ngày hôm nay. Từ Google tra cụm từ “Nhân Thần đồng tại”, kết quả trả về chỉ lác đác; từ mức độ phản ứng, có thể thấy nhân loại hiện nay vẫn thiếu hụt cảm giác về nguồn gốc đặc thù của chính bản thân mình. Không nắm được nhịp đập của thời đại, người ta chỉ bôn ba ứng phó các loại nguy cơ, mà không biết manh mối nằm ở đâu. Cũng như một thí sinh sắp dự thi, mà cũng chẳng biết là thi môn nào, toán, lý, hóa, hay là văn… “thảm cảnh” ấy là có thể tưởng tượng được. Phật Thích Ca Mâu Ni từng dự ngôn về thời đại “nhân Thần đồng tại” Người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí từng giảng Pháp như sau: “Vào thời Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, các đệ tử của Ông từng hỏi Ông: ‘Bạch Sư tôn, có thể không thoát ly các duyên thế gian mà tu thành Như Lai hay không?’ Cũng là muốn hỏi, liệu có thể ở thế gian không thoát ly hoàn cảnh cuộc sống và hoàn cảnh xã hội người thường mà tu thành Thần, tu thành Phật hay không? Thích Ca Mâu Ni nghĩ một lát rồi nói: ‘Vậy phải đợi đến lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế thì mới được’.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Quốc tế New York 2004). Hiển nhiên, Phật Thích Ca Mâu Ni đã khẳng định minh xác pháp môn tu luyện mà Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp độ nhân trong tương lai có thể khiến con người không thoát ly duyên thế tục mà tu thành Như Lai. Kỳ thực, từ một tầng diện khác mà xét, ở đây Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ rõ nhân loại tương lai sẽ xuất hiện một thời kỳ lịch sử đặc thù, mà đặc trưng nổi bật chính là: nhân-Thần đồng tại. “Không thoát ly duyên thế gian” chính là chỉ về mặt “người”, nhìn ở bề mặt, thì vẫn trải qua sinh hoạt bình thường như mọi người, bao gồm kết hôn và công tác thường ngày, nhưng thực tế lại khác với người bình thường, bởi vì họ cuối cùng không lạc vào “sinh-tử luân hồi”, mà có thể “tu thành Như Lai”. Cũng là nói rằng, những người này là người tu luyện đang đi trên “con đường trở thành Thần”, và đây chính là triển hiện phía mặt “Thần”. Có thể thấy thời kỳ “nhân Thần đồng tại” này sẽ có hai yếu tố lớn: một là tất sẽ có pháp môn truyền ra mà có thể chỉ đạo toàn diện người ta tu luyện viên mãn ngay trong cuộc sống thường ngày, hai là sẽ có một lượng lớn quần chúng thăng hoa trong tu luyện. Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế rồi sao? Kinh Phật nói: “Ưu Đàm Bà La hoa, ba nghìn năm mới nở một lần; khi loại hoa này xuất hiện, thì ý là Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế Chính Pháp tại nhân gian”. Từ năm 2005, rất nhiều ngôi chùa Phật giáo ở Hàn Quốc đã đua nhau phát hiện “hoa Ưu Đàm Bà La”; hiện nay, loại hoa Phật linh dị này đang khai nở tại các nơi trên thế giới và cả Trung Quốc. Từ đó có thể thấy, chúng ta chính đang trong thời đại “nhân Thần đồng tại”. Đây cũng là nhận thức chung của đông đảo giới có tri thức, là chính kiến, nếu không thì cũng như rơi vào cảnh ngộ khó khăn mà không tìm ra manh mối. Cuộc đối thoại “tiết lộ hết thiên cơ” giữa Lưu Bá Ôn và Minh Thái Tổ Lưu Bá Ôn triều Minh từng lưu lại một dự ngôn nổi tiếng gọi là «Thiêu Bính Ca», trong đó ông và Minh Thái Tổ có một đoạn đối thoại, miêu tả thế sự của thời kỳ “nhân Thần đồng tại”, có thể nói là đã “tiết lộ hết thiên cơ”. Trong đó chỗ mấu chốt nhất chính là phá giải đối với từ “Lão Thủy”, ở đây nên là chỉ một “Pháp” căn bản nào đó của vũ trụ. Bản thân chữ “Pháp” (法) là do “ba điểm Thủy” (氵) và chữ “khứ” (去) tổ hợp thành, ý là “Nước của quá khứ”, tức “Lão Thủy”. Nhìn từ một tầng sâu hơn, bản nguyên của vạn vật chính là Thủy. “Lão Thủy” có thể nói là chỉ thứ “nước” cổ xưa nhất, căn bản nhất sản sinh ra sinh mệnh, và từ một trình độ nào đó là ám chỉ Đại Pháp căn bản khai sáng vạn vật trong vũ trụ. Có thể thấy vị Chân Phật truyền Đại Pháp trong tương lai không phải có diện mạo tăng nhân hay đạo sĩ, mà ăn mặc kiểu phổ thông. Hơn nữa trong kinh Phật còn ghi lại, Phật Di Lặc tương lai chính là Phật hiệu khi hạ thế của Chuyển Luân Thánh Vương (hay còn gọi là Pháp Luân Thánh Vương). Hoàng Đế hỏi: “Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?” Bá Ôn đáp: “Có thơ làm chứng rằng: Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo, Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng. Chân Phật không ở trong tự viện, Ngài là Di Lạc nguyên đầu giáo.” Có thể thấy khi Pháp Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp, Ngài sẽ đản sinh trong một gia đình phổ thông, chứ không phải trong cung đình hiển hách hay Đạo quán Phật môn. Hoàng Đế hỏi: “Di Lạc hạ phàm tại nơi đâu?” Bá Ôn đáp: “Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc”. Chúng ta biết rằng năm 1992, người sáng lập “Pháp Luân Công”, ông Lý Hồng Chí bắt đầu truyền Pháp tại Bắc Kinh. Khi ấy Đại Pháp vũ trụ, hay “Lão Thủy” đã “về kinh đô”, báo trước Trung Hoa Đại Địa sẽ tiến nhập vào hành trình mới của “vận vận lại khai nữa”. Hoàng Đế hỏi: “Triều Thanh tận thế nào, ông nói rõ xem, để hậu nhân thấy?” Bá Ôn đáp: “Thần không dám nói hết, hải vận chưa khai là Đại Thanh, hải vận khai rồi động đao binh, nếu như vận vận lại khai nữa, ắt là Lão Thủy về kinh đô.” Ở đây dự ngôn đã giảng đến đặc trưng của thời đại này. Đại Pháp hồng truyền, người có duyên đua nhau đắc Pháp, người tu luyện phản bổn quy chân, ở bề ngoài thấy càng luyện trông càng trẻ. Người ta vẫn sống trong sinh hoạt bình thường, nhưng nội tâm không ngừng thăng hoa, điều này là tuyệt nhiên khác hẳn với tu luyện trong quá khứ, thời đại “nhân Thần đồng tại” cũng vì vậy mà sinh ra. Hoàng Đế hỏi: “Lão Thủy có gì ư?” Bá Ôn đáp: “Có có có. Chúng Đạo sẽ tiến vào tu hành, lớn thành nhỏ, già thành trẻ, hòa thượng muốn cặp kè với giai nhân, thật đáng cười đáng cười, thời tăng nhân lấy vợ sẽ đến.” Ở đây dự ngôn đã giảng về một phương diện khác của “nhân Thần đồng tại”. Người hiện đại vì sao có thể tu thành Thần, bởi vì họ nguyên là sinh mệnh cao cấp ở cao tầng chuyển sinh đến đây, chỉ đợi đồng hóa với Đại Pháp mà viên mãn trở về, tiến nhập vào vũ trụ mới. Về căn bản, con người thế giới hiện nay, ai ai cũng đều có lai lịch, chỉ tiếc rằng rất nhiều người đã mê mất rồi, quên cả nhà của bản thân mình, quên mất cả cơ duyên, thậm chí vĩnh viễn không trở về được nữa, hiện ra nỗi buồn vô hạn đằng sau “nhân Thần đồng tại”. Hoàng Đế hỏi: “Khanh nói gì về Đạo thời đó?” Bá Ôn đáp: “Lúc sắp kết thúc, vạn Tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này, chính là vị lai Phật, hạ thế truyền Đạo, thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ, nếu không gặp con đường Kim Tuyến, khó tránh kiếp này, bị tước quả vị, sau cùng Di Lạc phong bế hết 81 kiếp”. Ba hàm nghĩa trọng đại của “nhân Thần đồng tại” Ít nhất thì “nhân Thần đồng tại” cũng có ba hàm nghĩa trọng đại như sau: Đối với một cá thể người tu luyện mà nói, tu bỏ chấp trước nhân tâm, tầng thứ đề cao thăng hoa, thì “nhân Thần đồng tại” chính là biểu hiện của trạng thái trong quá trình tu luyện khi người chuyển hóa thành Thần; người tu nội tâm tự biết rõ biến hóa ấy, nhưng người ngoài thì rất khó mà quan sát. Đối với quần thể mà nói, rất nhiều người tu luyện Đại Pháp trong thực tiễn sẽ hình thành một trường thuần chính mang Thần tính, tương phản với người bình thường không tham dự tu luyện, từ đó cấu thành một hiện thực xã hội khách quan của “nhân Thần đồng tại”. Do Thần tính ở bề mặt thì là tính ẩn, nên ai cũng không nhìn thấy thần thông đại hiển, thế nhưng người tu luyện tại thế gian vốn có sẵn một lượng lớn nội chất Thần tính, thường siêu xuất khỏi “người” khiến người ta cảm thán. Nhìn từ quan hệ giữa người và Thần, “nhân Thần đồng tại” không chỉ là một bức họa tĩnh, mà là một vở kịch lớn tại nhân gian quy về thời mạt thế. Thần đang hoán tỉnh người, kéo người lên bên trên, trong khi ma đang mê hoặc người, kéo người xuống phía dưới. Vận mệnh của người chính là nằm ở thái độ của người đối với Đại Pháp vũ trụ. Người và Thần, rốt cuộc cũng không thể đồng tại mãi, Thần quy về Phật quốc, người lưu lại tam giới. “Nhân Thần đồng tại” là người tu luyện Đại Pháp cứu độ chúng sinh, hoàn thành sứ mệnh trong thời kỳ lịch sử trọng đại, thời gian tuy ngắn, nhưng chấn kinh hoàn vũ. Mọi nghi vấn tự nhiên được giải thích ổn thỏa Sau khi đã minh bạch đặc trưng trọng đại của thời kỳ “nhân Thần đồng tại” rồi, thì rất nhiều nghi vấn đều tự nhiên được giải thích ổn thỏa.
  18. Chủ đề này tôi đã giải quyết xong rồi, tuy nhiên có một bài viết rất hay và kỳ công của bác sĩ Nguyễn Xuân Quang liên quan đến Hùng Vương và tổ tiên của các ngài, tôi trích ở đây và góp ý kiến về cách thức giải quyết chi tiết thông qua quy ước của Dịch Lý và cấu trúc thuyết Âm Dương Ngũ Hành. VIỆT DỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT Nguyễn Xuân Quang .Qua sử miệng đồng dao Chim Nông-Chim Cắt, ta có Việt Dịch Chim Nông-Chim Cắt, một thứ Dịch Chim Tạo Hóa Đại Vũ Trụ Tổ Hùng Thần Nông-Viêm Đế. .Qua sử miệng đồng dao Đám Ma Cò, ta có khuôn mặt chính là Dịch Sinh Tạo Tiểu Vũ Trụ ứng với Thái Tổ Hùng Vương lịch sử gồm hai nhánh: -Qua dị bản có Bổ Cu là trưởng ngành nọc dương thái dương ta có Dịch Đám Ma Cò Hùng Vương Hồng Lạc Thế Gian. -Qua dị bản có Diều Hâu là trưởng ngành nọc âm thái dương ta có Dịch Đám Ma Cò Hùng Vương Lạc Hồng Thế Gian. Đây là Dịch Hùng Vương đội lốt Diều Hâu Đế Minh ngành nòng âm. .Qua sử miệng đồng dao Thằng Bờm, một con dân Việt bằng xương bằng thịt, ta có ít nhất là hai thứ Việt Dịch Hùng Vương Nhân Gian đích thực, ở cõi Người Việt Mặt Trời, con cháu Tổ Hùng, Hùng Vương. Một là Dịch theo hôn phối vợ chồng là Dịch Thằng Bờm Hùng Vương Đoài-Hoàng Hậu Cấn Hồng Lạc Nhân Gian. Dịch này có Tiên Thiên Bát Quái Thằng Bờm Hùng Vương Đoài-Vợ Cấn Phục Hy Hồng Lạc Nhân Gian là Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy nguyên thủy. Hai là Dịch theo hôn phối đồng bản thể ruột thịt mẹ con là Dịch Thằng Bờm Hùng Vương Đoài-Mẹ Âu Cơ Tốn Hồng Lạc nhân Gian. Dịch này giống hệt Dịch Cửu Thần Ennead Ai Cập, Thần Shu Đoài hôn phối với chị/em ruột Tefnut Tốn (Sự Tương Đồng Giữa Ai Cập cổ và Cổ Việt). .Qua trò chơi giải trí dân gian Bầu Cua ta có một loại Việt Dịch Bầu Cua Đồng Quê. Theo duy âm mà dân gian thường gọi là Bầu Cua Cá Cọc ta có Dịch Hùng Vương Lạc Hồng tức Dịch phía Lạc Việt mang tính chủ. Theo duy dương theo thứ tự Bầu Cọc Cá Cua ta có Dịch Kì Dương Vương, Hồng Bàng Thế Gian, Dịch này mang tính thứ yếu. Bài viết này, qua truyền thuyết các Tổ Phụ và Tổ Mẫu Việt Nam ta có một loại Việt Dịch tôi gọi là Việt Dịch Sử Truyền Thuyết. (xin nhắc lại truyền thuyết có một khuôn mặt là một thứ sử của người xưa, ở đây nói về truyền thuyết của các vị Tổ Việt đúng là một thứ sử truyền thuyết Việt). VIỆT DỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT. Qua nhiều bài viết truyền thuyết các Tổ Phụ và Tổ Mẫu dòng mặt trời thái dương của Việt Nam, chúng ta đã thấy các vị tổ ứng tứ quái dương và tứ quái âm, tức ứng với một loại Việt Dịch (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Trước hết xin nhắc lại sơ qua về truyền thuyết Việt. Người Việt là Người Mặt Trời Thái Dương di duệ của thần Mặt Trời Viêm Đế của chủng người vũ trụ. Vị tổ tối cao tối thượng của chúng ta là Thần Nông-Viêm Đế. Ở cõi Tạo Hóa ứng với Trứng Vũ Trụ, thái cực là thần Tạo Hóa Nhất Thể lưỡng tính phái, theo duy âm, ngành nòng là Thần NôngViêm Đế (viết dính vì chỉ là một nhân vật nhất thể, Thần Nông viết trước vì theo duy âm ngành nòng, âm) và theo duy dương, ngành nọc dương là Viêm ĐếThần Nông. Ở tầng lưỡng cực, lưỡng nghi tách ra làm hai vị Thần Nông và Viêm Đế. Ở tầng tứ tượng, Thần Nông, Viêm Đế sinh ra bốn vị Đế. Thần Nông tách ra thành Thần, ta có Đế Thần (có một nghĩa là Nước) và Nông, ta có Đế Nông (Khí Gió) (xem Nhận Diện Danh Tính Thần Nông trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), Viêm Đế tách ra thành Viêm, ta có Đế Viêm (Nóng, Lửa) và Đế, ta có Đế Đế (Trụ Chống, Núi Trụ Thế gian, Đất thế gian) (xem Nhận Diện Danh Tính Viêm Đế). Theo truyền thuyết bao gồm cả Hoàng Đế của Hoa Hạ thì ngũ đế là Đế Thích (Thần Nông),“ Đế Thiên (Phục Hy), Đế Khôi (Viêm Đế), Đế Tiết (Hoàng Đế), Đế Thức (Thần Đế). Ta thấy rất rõ, Đế tối Cao là Đế Thích (Thần Nông) sinh ra bốn Đế ứng với tứ tượng, theo duy âm là Đế Thức (Thần Đế là con hay đội lốt Đế Thần Nước Chấn), Đế Thích (Phục Hy có mạng Đoài như Hùng Vương Đoài tức con hay đội lốt Đế Nông Khí Gió), Đế Khôi (Viêm Đế) con hay đội lốt Đế Viêm và Đế Tiết (Hoàng Đế) con hay đội lốt Đế Đế Đất dương (mầu Hoàng có một nghĩa là mầu đất hoàng thổ). Theo truyền thuyết Thần Nông Bắc thì bốn Đế là Đế Nghi, Đế Lai, Đế Li, Đế Du Vong (Trần Đại Sỹ, Từ Triết Học Tới Huyền Thoại Nguồn Gốc Tộc Việt, 20 Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995, Đại Nam 1995). Dĩ nhiên không hẳn là của phương Bắc. (Lưu Ý: Bốn vị Đế này mang tính ‘Đế’ cao hơn các vị vương nên cho là thuộc Thần Nông Bắc!). Bốn vị đế này có thể là đội lốt hay là con của các Đế Viêm, Đế Đế, Đề Thần, Đế Nông. Dựa theo sử truyền thuyết Thần Nông-Viêm Đế Việt thì: Ở ngành nọc thái dương của Người Việt Mặt Trời Thái Dương bốn vị Đế ở cõi tạo hóa này sinh ra bốn Tổ phụ Việt Nam là Đế Minh [Đế Minh là cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế, coi như mang tính cách biểu trưng (deus otiosus) đội lốt Viêm Đế (con Đế Viêm)], Kì Dương Vương (con hay đội lốt Đế Đế), Lạc Long Quân (con hay đội lốt Đế Thần) và Tổ Hùng (con hay đội lốt Đế Nông). Ba vị sau là Vương. Như thế tổng cộng ta có Ngũ Đế và Tam Vương. Về phía nòng âm, Thần Nông thái âm là thần tổ của Bốn Tổ Mẫu Vụ Tiên, Long Nữ, Âu Cơ, Hoàng Hậu Tổ Hùng. Bốn Tổ Phụ. Ở cõi tiểu vũ trụ thế gian ta có bốn Tổ Phụ con của bốn vị Đế là Đế Viêm thái dương Càn, Lửa trời, Đế Đế thiếu dương Li, Đất dương, Đế Thần thái âm Nước dương và Đế Nông thiếu âm Gió dương. Bốn vị Đế này thuộc về cõi Tạo Hóa, Đại Vũ Trụ. -Đế Minh Là cháu ba đời của thần mặt trời Viêm Đế, con của Đế Viêm Lửa trời, Đế Minh có nghĩa là Đế Ánh Sáng. Cũng nên biết, Đế Minh có khi cho là cháu ba đời thần Mặt Trời Viêm Đế (đời thứ nhất là Viêm Đế ở tầng lưỡng nghi, đời thứ hai là Đế Viêm ở tầng tứ tượng nên đến Đế Minh là cháu ba đời), có khi lại cho là cháu bốn đời của Viêm Đế (bốn đời là tính từ tầng tạo hóa thái cực, Trứng Vũ Trụ Viêm ĐếThần Nông nhất thể là tầng thứ nhất, đến tầng thứ hai là Viêm Đế lưỡng nghi, tầng thứ ba là tứ tượng Đế Viêm nên đến Đế Minh là cháu bốn đời). Đế Minh là vị duy nhất ở cõi tiểu vũ trụ có tước vị Đế. Như đã nói ở trên, Đế là vị tổ thuộc cõi tạo hóa, Vua Cõi Trời. Đế mang tính sinh tạo, tạo hóa thuộc cõi trên mang tính biểu tượng chỉ có khuôn mặt truyền thuyết không có khuôn mặt lịch sử. Các vị Đế mang tính tượng trưng, khi hoàn tất nhiệm vụ xong là ‘nghỉ hưu’ không còn tham dự vào việc về sau (deus otiosus) (xem dưới). Như thế Đế Minh có một khuôn mặt đội lốt Đế Viêm, Viêm Đế mang khuôn mặt chính sinh tạo thế gian đội lốt tạo hóa. Nói một cách khác Đế Minh có một khuôn mặt hoàn toàn truyền thuyết. Vì thế mới gọi là Đế, trong khi ba vị Tổ Phụ còn lại gọi là Vương (Kì Dương Vương, Hùng Vương) hay Quân (Lạc Long Quân). Vương mang tính dương và Quân mang tính âm, Vương và Quân là vua cõi thế gian có thể có khuôn mặt lịch sử ở cõi nhân gian như Hùng Vương lịch sử hay các vua lịch sử đội lốt truyền thuyết (thuộc nhánh Kì Dương Vương hay nhánh Lạc Long Quân). Như thế tổng cộng ta 9 vị thần tổ của ngành nọc dương mặt trời thái dương: ở tầng Tạo Hóa là thần mặt trời Viêm Đế, ở tầng tứ tượng là 4 vị Đế: Đế Viêm, Đế Đế, Đế Thần, Đế Nông và ở cõi trời thế gian ta có 4 vị Tổ Phụ là Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Tổ Hùng. Không kể Viêm Đế mang tính sinh tạo Tạo Hoá tượng trưng. Như thế chúng ta thật sự có Ngũ Đế là Đế Viêm, Đế Đế, Đế Thần, Đế Nông và Đế Minh và Tam Vương là Kì Dương Vương. Lạc Long Quân, Hùng Vương. Đế Minh là Đế Ánh Sáng, lửa trời, lửa dương ở Cõi Trời của thế gian. Diễn tả theo chữ nòng nọc vòng tròn-que, lửa là hai nọc que II (hai que dùi ra lửa). Lửa (II) ngành dương (I) là lửa trời III, quẻ Càn. Ta thấy rất rõ linh tự Ai Cập cổ ánh sáng, nắng cũng diễn tả bằng ba nọc que III, tức Càn. Linh tự Ai Cập cổ ánh sáng, nắng. Tiếng dân gian Việt Nam nôm na gọi là Chàng thay cho Đế cho Vua vì dựa theo các vị vua dòng mặt trời đều là các Lang (có một nghĩa là Chàng). Đế Minh Ánh Sáng, lửa mặt trời nôm na gọi là Chàng Lửa. Chàng là nọc (I) (chàng có một nghĩa là cái đục, chisel), lửa là hai nọc que II. Chàng (I) Lửa (II) là III, quẻ ba vạch Càn. Tóm lại Đế Minh hay Chàng Lửa ứng với quẻ ba vạch Càn đội lốt Đế Viêm. -Kì Dương Vương Đế Minh sinh ra Kì Dương Vương có nhũ danh là Lộc Tục. Kì có một nghĩa là Ki, Kẻ, Cây. Với nghĩa này Kì là núi Trụ Thế Gian, Trụ Chống Trời, Trục Thế Giới biểu tượng cho đất thế gian, đất dương, Trục Thế Giới biểu tượng cho Đất dương, Đất lửa thế gian, Trung Thế. Hiểu theo nghĩa này Kì Dương Vương có nghĩa là Vua Trụ Trời, Núi Trụ Thế Gian. Kì Dương Vương là vị Vua Cột Trụ Thế Gian mang hình bóng Cây Vũ Trụ vì thế là con người đầu tiên ở cõi thế gian, là vua đầu tiên của Nước Xích Quỉ, ‘Người Đỏ’, Người Mặt Trời (rõ ràng Đế Minh không có khuôn mặt thế gian). Kì là Kẻ có nghĩa cây, cọc, nọc cũng có nghĩa là con Cọc tức con vật có hai sừng như hai cây cọc nhọn, tức con hươu sừng, hươu đực. Ta cũng thấy Dương với nghĩa là Đực thì Kì Dương là Con Cọc Đực, Hươu Đực (xem Bầu Cua Cá Cọc). Qua ngôn ngữ học ta thấy rất rõ Kì, Ki, Kẻ chính là gốc Hy Lạp ker-, sừng như Pháp ngữ cerf là con sừng, con hươu. Hán ngữ lộc, hươu ruột thịt với Việt ngữ nọc (cọc) (l=n như lòng súng = nòng súng). Con hươu lộc là con nọc, con cọc. Như thế với nghĩa này, Ki Dương là Con Hươu Sừng, Hươu Đực (chỉ con đực mới có sừng, ngoại trừ loại tuần lộc reindeer con cái mới có sừng). Cũng vì thế mà Con Hươu Đực Kì Dương có nhũ danh là Lộc Tục tức con Hươu Đục, Hươu Đọc, Hươu Nọc, Hươu Đực. Thêm nữa, Dương cũng có nghĩa là Mặt Trời. Kì Dương Vương là Vua Mặt Trời trên đỉnh Trục Thế Giới, Mặt Trời Thượng Đỉnh (zenith) chói ngời nhất. Kì Dương Vương là Vua Hươu Mặt Trời thái dương. Hươu sừng là con thú bốn chân sống trên mặt đất có hai sừng là hai nọc có một khuôn mặt là lửa nghĩa là hươu sừng biểu tượng cho đất lửa, đất dương, lửa thế gian gọi theo danh pháp Dịch là Li thường hiểu theo Dịch Hoa Hạ là Lửa. Thật ra Li là lửa phát sinh từ đất, từ núi lửa khác với Lửa vũ trụ, lửa trời là Càn. Li phải hiểu theo nghĩa chính là đất lửa, đất dương, đất núi trụ, núi nhọn đỉnh mang dương tính. Li là Đất Lửa, lửa thiếu dương trong khi Càn là lửa thái dương. Dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Đất (thiếu dương OI) tức IOI, quẻ Li. Tóm lại Kì Dương Vương hay Chàng Đất ứng với Đất thiếu dương Li (đội lốt hay con của Đế Đế). .Lạc Long Quân Kì Dương Vương đẻ ra Lạc Long Quân. Vua Lạc Long gọi là Quân thay vì Vương vì Quân mang âm tính. Quân có mầu tím đen chỉ vua lúc chiều tím, mặt trời lặn, mặt trời hoàng hôn tím, mặt trời Nước. Lạc là Nác (Nước) dương. Lạc Long Quân ứng với Chấn có một khuôn mặt là nước dương tức Biển (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Nước (OO) tức IOO, quẻ Chấn. Tóm lại Lạc Long Quân hay Chàng Nước ứng với Chấn đội lốt hay con của Đế Thần. .Tổ Hùng (truyền thuyết). Lạc Long Quân sinh ra Tổ Hùng. Lưu ý Tôi dùng từ Tổ Hùng chỉ vị Tổ còn mang tính truyền thuyết khác với Hùng Vương lịch sử đội lốt truyền thuyết. Còn từ Hùng Vương tôi dành chỉ các Vua Hùng lịch sử bằng xương bằng thịt đội lốt (con cháu) Tổ Hùng. Cần phân biệt Tổ Hùng truyền thuyết với Hùng Vương lịch sử. Vì sinh ra từ Bọc Trứng Vũ Trụ nên Tổ Hùng có cốt vũ trụ, tạo hóa. Hùng Lang ‘toàn là con trai’ mang dương tính nên có khuôn mặt là mặt trời Trụ và không gian dương Vũ tức Khôn dương bầu vũ trụ, bầu trời, Khí Gió ứng với Đoài vũ trụ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Gió (thiếu âm IO) tức IIO, Đoài vũ trụ. Tóm lại Tổ Hùng hay Chàng Gió ứng với Đoài vũ trụ đội lốt Đế Nông. Lưu Ý Đoài thường hiểu theo dịch muộn thế gian của Hoa Hạ là ao đầm. Thật ra ở cõi tạo hóa, vũ trụ lúc sáng thế chưa có ao đầm. Đoài biến âm với đài, đẫy có một nghĩa là túi, bao, bọc. Anh ngữ Đoài gọi là Tui. Anh ngữ Tui biến âm với Việt ngữ Túi. Vũ trụ, trời là một cái bọc nên gọi là bầu vũ trụ, bọc vũ trụ, bầu trời, bọc trời. Da là cái bọc thân người, trời là cái bọc, cái bao nên cũng có da gọi là da trời. Ông thần gió khoác cái bao, túi gió trên vai. Ở cõi trời bọc (O) mang tính lửa, thái dương (II) tức Khôn dương là bọc khí gió IIO tức Đoài vũ trụ. Ở cõi thế gian bọc (O) nước ấm, nóng (II) là Đoài ao đầm thế gian. Vì thế ở cõi tạo hóa Đoài phải hiểu là bầu vũ trụ, khí gió Đoài vũ trụ phân biệt với Đoài thế gian hiểu theo Dịch muộn, thế gian Hoa Hạ là ao đầm. Cần phải phân biệt Đoài vũ trụ với Đoài thế gian. Như thế bốn Tổ Phụ dòng mặt trời thái dương của chúng ta là bốn quái (quẻ ba hào) Càn, Li, Chấn, Đoài có cốt là Bốn Nguyên Sinh Động Lực Lớn (Four Great Primary Forces) tương đương với tứ tượng. Bốn Tổ Mẫu -Vụ Tiên Vợ Đế Minh là Vụ Tiên có nghĩa là con Le Le, (oan ương, uyên ương), vịt trời. Le Le là loài chim Nước bay được thuộc họ chim nước, vịt, ngỗng tức Nước thái âm cõi trời. Vịt trời Le Le Vụ Tiên của Việt Nam bay ra tận Hawaii trở thành con ngỗng Ne Ne. Le Le đọc theo âm cổ là Ne Ne (một vài vùng miền Bắc Việt Nam vẫn gọi le le theo âm cổ là ne ne). Hawaii lấy con Ne Ne làm chim biểu cho tiểu bang (State Bird). Việt Nam và Hawaii có cùng vật tổ chim nước Le Le, Ne Me cũng dễ hiểu vì người Hawaii nằm trong tam giác Đa Đảo đến từ Nam Đảo, ven biển Đông Nam Á thuộc địa bàn cổ Việt. Họ có mang dòng máu Lạc Việt hải đảo (có bài viết riêng). Việt ngữ Le có nghĩa là nước như chua le, chua lè là chua chẩy nước dãi (và cũng có thể chẩy nước đái như thấy qua câu nói chua vãi đái). Lè biến âm với nhè (l=nh như lặt = nhặt), ta có lè = nhè. Qua từ đôi lè nhè, ta cũng có lè = nhè. Hay nhè là hay chẩy nước mắt, hay khóc. Tây Ban Nha ngữ leche, Pháp nghữ lait /le/ là sữa, một thứ nước dinh dưỡng nuôi con người lúc đầu đời. Như thế Vụ Tiên là Nàng ‘Nước Nước’ Le Le tức ‘hai nước’ tức nước thái âm. Le Le biết bay nên là nước ở cõi trời. Diễn tả theo chữ nòng nọc vòng tròn-que nước thái âm là OO và trời, không gian là nòng O. Nàng Vụ Tiên Le Le là Nước OO cõi trời O tức OOO, quẻ Khôn. Khôn âm là Nước thái âm cõi trời. Dân gian Việt Nam gọi Vụ Tiên Le Le là Nàng Nước. Nàng (O) Nước (OO) Vụ Tiên Khôn OOO, Nước cõi vũ trụ, cõi trời hôn phối với Chàng Lửa trời, lửa vũ trụ Đế Minh Càn. Tóm lại Vụ Tiên ứng với quái Khôn. -Long Nữ Vợ Kì Dương Vương là Long Nữ có khi gọi là Thần Long. Lưu Ý Trong Đại Việt Sử Ký có ghi là có sách nói Kì Dương Vương lấy con Thần Long ở Động Đình Hồ, có nghĩa là Thần Long là Long Vương Động Đình Quân. Chúng tôi may mắn đã có dịp viếng thăm Động Đình Hồ, hiện nay vẫn còn đền thờ Long Vương Động Đình Quân, ông ngoại Lạc Long Quân. Đền Thờ Long Vương Động Đình Quân ở Động Đình Hồ. Do đó tôi dùng từ Long Nữ chỉ vợ Kì Dương Vương thay cho từ Thần Long để tránh nhầm lẫn. Như đã biết Long là linh thú có cốt rắn nước nhưng biết bay lên trời. Long Nữ là ‘nước bay lên trời’ tức hơi nước. Hơi nước gặp lạnh tụ lại thành mây, mây thành mưa. Như thế Long Nữ có nghĩa là ‘Nước Bay’, ‘Hơi Nước’, ‘Gió Nước’, mù, mây, mưa. Qua chữ nòng nọc vòng tròn-que Khan, có một nghĩa là Khảm, nước. Ta thấy Khan, Khảm, Nước có KH hình bầu trời, A hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) Ʌ có nghĩa là nọc, dương, lửa thái dương hay núi tháp nhọn đất dương… và N là nước. Vì Long Nữ là vợ của Kì Dương Vương Li núi lửa thế gian nên ta chọn nghĩa của Ʌ (A) là núi tháp nhọn biểu tượng cho Đất thế gian. Như thế KHAN, Khảm rõ ràng có KH hình vòm trời phải hiểu là Nước Bầu Trời Bay Trên Đầu Núi, tức nước còn ở dạng mù hay mây biểu tượng của sự thể trung gian hay hòa vào nhau của những yếu tố (hay hành) Khí và Nước (mist is symbolic of things intermediate or the fusing together of the Elements of Air and Water) (J.E. Cirlot, A Dictionary of Symbols). Vì thế Khảm là nước trời khởi nguồn từ là mù, mây có nguyên thể thiếu âm khí gió. Khan, Khảm là nước thiếu âm thế gian khác với Khôn là nước âm thái âm không gian và Chấn là nước dương thái âm vũ trụ. Nước ở bầu trời O mang tính thiếu âm IO nguyên thể khí gió, tức OIO, quẻ Khảm. Tóm lại Long Nữ nước thiếu âm có nguồn gốc từ mù, mây dạng kết hợp giữa gió và nước ứng với Khảm. Dân dã Việt Nam gọi Long Nữ là Nàng Gió. Nàng (O) Khí Gió (thiếu âm IO) tức OIO, quẻ Khảm. Lưu Ý Cần lưu ý Khảm thường hiểu theo Dịch muộn thế gian Hoa Hạ là nước. Thật ra phải hiểu theo Dịch có nhiều loại nước. Khảm là hơi nước bầu trời thế gian, nước thiếu âm, rơi xuống thế gian thành nước mưa. Trường hợp này giống Li thường hiểu theo Dịch muộn thế gian Hoa Hạ là lửa. Thật ra Li phải hiểu là Đất Lửa, lửa đất, Lửa thiếu dương. Nàng Long Nữ Khảm Nước gió trời thiếu âm lấy Chàng Kì Dương Vương Li Lửa Đất thiếu dương. Tóm lại Long Nữ ứng với Khảm, hơi nước, mù, mây, nước mưa. -Âu Cơ Vợ Lạc Long Quân là Âu Cơ. Âu biến âm với Au là đỏ như au đỏ, đỏ au. Đỏ là lửa, mặt trời. Âu Cơ là Cô, Nàng Lửa, Nữ Thần Mặt Trời (tương tự Nữ Thần Mặt Trời Ameraterasu Nhật Bản). Dân dã Việt Nam gọi Âu Cơ là Nàng (O) Lửa (II) tức OII, quẻ Tốn (xem Nhận Diện Danh Tính Âu Cơ). Nàng Lửa Âu Cơ Tốn hôn phối với Chàng Nước Lạc Long Quân Chấn. Tóm lại Âu Cơ ứng với quái Tốn ở cõi trời, cõi sinh tạo, tạo hóa. -Hoàng Hậu của Tổ Hùng (truyền thuyết). Truyền thuyết và cổ sử không nhắc tới tên vị này nên tôi gọi là Hoàng Hậu Tổ Hùng. Còn lại Hoàng Hậu Tổ Hùng có khuôn mặt là Nàng Đất Cấn. Tổ Hùng Đoài vũ trụ có khuôn mặt bầu vũ trụ, bầu trời, khí gió, nói nôm na tổng quát theo dân dã là Trời hôn phối với một người nữ là Nàng Đất Cấn. Tổ Hùng và Hoàng Hậu là cặp hôn phối Trời với Đất, một khuôn mặt của cặp Bánh Dầy Bánh Chưng (vì thế mà ngày tết, giỗ Tổ Hùng thường cúng bánh dầy bánh chưng). Tóm lại bốn Tổ Mẫu của chúng ta ứng với Khôn, Khảm, Tốn, Cấn là bốn quái có cốt là tứ tượng âm. Việt Dịch Sử Truyền Thuyết Như thế bốn Tổ Phụ và Bốn Tổ Mẫu gộp lại ta có một loại Dịch gọi là Việt Dịch Sử Truyển Thuyết. Các vị Tổ Phụ của chúng ta thuộc ngành nọc dương mặt trời thái dương nên có khuôn mặt theo chiều dương mang tính chủ. Như thế, ở đây tất cả các vị Tổ đều là truyền thuyết. Theo duy dương và đọc theo chiều dương ta có Đế Minh Càn, Kì Dương Vương, Li, Lạc Long Quân Chấn và Tổ Hùng Vương Đoài vũ trụ (truyền thuyết). Bốn vị Tổ Phụ hôn phối với bốn vị Tổ Mẫu ta có bát quái viết bằng chữ nòng nọc vòng tròn-que sau đây: Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Sử Truyền Thuyết Việt. Theo Dịch đồ ở trên, nếu đọc theo ngành nọc dương thái dương tức theo chiều dương ngược chiều kim đồng hồ khởi đi tứ quái Càn ta có theo thứ tự bốn quái dương Càn, Li, Chấn, Đoài ứng với bốn Tổ Phụ Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Tổ Hùng. Về phía bốn Tổ Mẫu ở đây cùng ngành nọc dương thái dương, tức mang tính nọc âm thái dương, ta cũng vẫn phải đọc theo chiều dương, chiều ngược kim đồng hồ nhưng khởi đi từ cực âm đối ứng với cực dương Càn tức khởi đi từ quái Khôn Vụ Tiên (mẹ tối cao thế gian của Việt Nam) ta có theo thứ tự bốn quái âm Khôn, Khảm, Li, Cấn ứng với bốn Tổ Mẫu Vụ Tiên, Long Nữ, Âu Cơ, Hoàng Hậu Tổ Hùng. Vì các Tổ Phụ và Tổ Mẫu của chúng ta nhìn dưới diện truyền thuyết là các vị thần tổ mang tính sinh tạo, đội lốt tạo hóa nên Việt Dịch Sử Truyền Thuyết một thứ Tiên Thiên Bát Quái. So Sánh với Dịch Chim Nông-Chim Cắt Tạo Hóa. Như đã biết Dịch Chim Nông Chim Cắt là Dịch chim mang tính sinh tạo Tạo Hóa ta suy ra ngay là có sự tương đồng. Ta thấy rất rõ theo chiều dương Càn Đế Minh, Li Kì Dương Vương, Chấn Lạc Long Quân và Đoài vũ trụ Tổ Hùng theo đúng thứ tự của chim Di Càn, Sáo Sậu Li, Sáo Đen Chấn và Tu Hú Đoài vũ trụ. Như thế theo duy dương ngành nọc dương thái dương, mặt trời nọc thái dương Việt Dịch Sử Truyền Thuyết giống Dịch Nông Cắt cõi trời, cõi Tạo Hóa. Ta thấy rõ các khuôn mặt Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân và Tổ Hùng ở đây mang khuôn mặt sinh tạo, đội lốt Tạo Hóa. .So Sánh với Việt Dịch Đám Ma Cò Việt Dịch Đám Ma Cò là Dịch Hùng Vương Bầu Trời (Cò là chim Biểu Bầu Trời, Gió của Hùng Vương) hiển nhiên khác với Việt Dịch Sử Truyền Thuyết kể từ Viêm Đế-Thần Nông trở xuống. .So sánh với Dịch Thằng Bờm. Tương tự như trên Việt Dịch Thằng Bờm là Dịch Hùng Vương trực tiếp nhân gian khác với Dịch này. .So sánh với Việt Dịch Bầu Cua. Nếu nhìn theo diện tổng quát truyền thuyết, theo chiều dương, ta có Bầu Cọc Cá Cua ứng với Đế Minh Càn, Kì Dương Vương Cọc Hươu, Lạc Long Quân Cá và Tổ Hùng Cua giống với Viêm ĐếSử Truyền Thuyết ở đây. Tuy nhiên Việt Dịch Bầu Cua có khuôn mặt chủ là Việt Dịch thế gian Đồng Quê nên rõ ràng sự tương đồng mang này mang tính phụ. Theo chiều âm Bầu Cua Cá Cọc ứng với Đế Minh, Hùng Vương lịch sử Cua, nhánh Hùng Lạc Lạc Long Quân Cá và nhánh Hùng Kì Kì Dương Vương. Hiển nhiên khác với Việt Dịch Sử Truyền Thuyết. So Sánh Với Chu Dịch Nếu đem so sánh với Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy của Hoa Hạ, ta thấy các quẻ trên Việt Dịch Sử Truyền Thuyết và trên Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Hoa Hạ dùng từ cổ thời cho tới hiện nay có sự giống nhau về từng cặp quái hôn phối với nhau, chỉ khác Li và Đoài vũ trụ đổi vị trí cho nhau. Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Hoa Hạ. Như thế Việt Dịch Sử Truyền Thuyết cũng là một thứ Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy nhưng khác với Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Hoa Hạ về vị trí của Li/Đoài. Tôi gọi là Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Sử Truyền Thuyết Việt. So Sánh Với Dịch Văn Vương Hiển nhiên Việt Dịch Sử Truyền Thuyết Việt khác với Dịch Văn Vương. Tóm lại ta thấy rõ một điều là Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy Sử Truyền Thuyết Việt của Việt Dịch Sử Truyền Thuyết rập theo khuôn truyền thuyết Tổ Việt và khác với Thiên Thiên Bát Quái Phục Hy Hoa Hạ thì Việt Dịch Sử Truyền Thuyết phải là Dịch của Việt Nam không thể chối cãi được. Việt Nam có Dịch riêng, khác với Dịch Hoa Hạ. Những loại Việt Dịch như Dịch Chim Nông Cắt Tạo Hóa, Việt Dịch Đám Ma Cò, Việt Dịch Thằng Bờm qua ca dao tục ngữ, Việt Dịch Bầu Cua qua trò chơi dân gian và Việt Dịch Sử Truyền Thuyết qua sử truyền thuyết Việt xác thực một cách vững chắc chúng ta có Việt Dịch riêng khác với Dịch Hoa Hạ. DỊCH MAN VIỆT ĐẾ MINH. Ta biết, theo duy dương, ngành nọc mặt trời thái dương của Người Việt Mặt Trời nếu thay đổi vị trí của bốn quái dương ứng với bốn Tổ Phụ ta sẽ có bốn loại Dịch khác nhau của bốn đại tộc là Dịch Man Việt Đế Minh, Dịch Kì Việt Kì Dương Vương, Dịch Lạc Việt Lạc Long Quân và Dịch Lang Việt Hùng Vương. Khởi đầu ta xét Dịch Man Việt ứng với Đế Minh. Dịch này có quái Càn Đế Minh nằm trên đỉnh của Dịch đồ (cũng vẫn giống như ở Việt Dịch Sử Truyền Thuyết). Như đã biết, với hiệu là Đế là vua cõi trời, cõi trên, cõi tạo vẫn mang tính truyền thuyết, Đế Minh là tổ tạo hóa cõi thế gian của Đại Tộc Việt đội lốt Viêm Đế ở cõi Tạo Hóa. Như thế nếu Đế Minh nhìn dưới diện truyền thuyết theo tước vị Đế thì Dịch Man Việt Đế Minh nằm trong Việt Dịch Sử Truyền Thuyết, nói một cách khác Dịch Man Việt giống Việt Dịch Sử Truyền Thuyết. Nhưng nếu nhìn theo diện thế gian, đây là Dịch của chủng tộc Đế Minh, Đế Ánh Sáng Mặt Trời. Minh biến âm với Man, theo kiểu miên man, mênh mang. Man là Người (chính là Anh ngữ man). Người là Ngời, là Sáng. Man là Người, Là Ngời là Sáng, con dân của Đế Minh, Đế Ánh sáng, cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). DỊCH KÌ VIỆT THẾ GIAN Ở dịch này Kì Dương Vương có khuôn mặt nhìn dưới diện cõi thế gian hay đích thực là vua lịch sử tức của nước Xích Quỉ, khác với khuôn mặt truyền thuyết hoàn toàn ở cõi trên tạo hóa ở Việt Dịch Sử Truyền Thuyết. Như thế ở đây hai vị Tổ Lạc Long Quân và Tổ Hùng cũng có khuôn mặt thế gian hay lịch sử. Trong Dịch này Quái Li ứng với Kì Dương Vương phải để trên hết tiếp theo là hai quái Chấn Lạc Long Quân, Đoài Tổ Hùng/Hùng Vương rồi mới tới quái Càn Đế Minh, tức theo thứ tự Li, Chấn, Đoài Càn hay Li Đoài Chấn, Càn. 1. Theo Thứ Tự Li Chấn Đoài, Càn. Ta thấy nếu để theo thứ tự Li Chấn Đoài, Càn này thì Kì Dương Vương có khuôn mặt là thế gian/lịch sử sinh ra Lạc Long Quân thế gian/lịch sử và Lạc Long Quân thế gian/lịch sử sinh ra Hùng Vương thế gian/lịch sử. Còn Đế Minh Càn chỉ manh tính sinh tạo tượng trư ng (deus otiosus). 2. Theo Thứ Tự Li Đoài Chấn Càn. Còn theo thứ tự Li Đoài Chấn Càn thì Kì Dương Vương thế gian sinh ra hai nhánh: nhánh Hùng Lang Đoài và nhánh Hùng Lạc Chấn. DỊCH LẠC VIỆT THẾ GIAN/LỊCH SỬ. Kế tiếp, bây giờ ta chuyển quái Chấn lên trên hết. Càn Đế Minh vẫn coi là Đế tức vẫn coi có khuôn mặt truyền thuyết tượng trưng để sau cùng. Nhìn dưới diện thế gian, Chấn đứng đầu bát quái thế gian với bốn quái dương là Chấn, Li, Đoài, Càn. Ta có Dịch Chấn Thế Gian/Lịch Sử. Có hai thứ tự Chấn Li Đoài Càn và Chấn Đoài Li Càn. 1-Theo thứ tự Chấn Li Đoài Càn. Ở đây trường hợp thứ nhất Chấn đội lốt Càn tức Chấn thái dương nghĩa là Càn vẫn đứng đầu ngành trên hết nhưng chỉ mang tính tượng trưng (deus otiosus), ta có (Càn) Chấn Li Đoài. Ta có một loại Dịch giống hệt một thứ Dịch dùng làm bùa trừ tà trong dân gian Việt Nam mà tôi gọi là Dịch Lạc Việt thế gian (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc Âm Dương Đông Nam Á). Dịch Lạc Việt Thế Gian ngành thái dương Càn. Ta thấy rõ trong Dịch này, Chấn hôn phối với Cấn. Ở thế gian Lạc Long Quân có khuôn nước dương như sông, biển. Lạc Long Quân Biển lấy Âu Cơ Núi sinh ra hai nhánh. Nhánh 50 Lang Lửa phía mẹ Núi Cấn ứng với Li (Li Đất dương đại diện cho Cấn, núi âm). Đây là quái Li trên Dịch đồ. Nhánh 50 lang phía cha nước dương Biển ứng với Đoài thế gian là đầm ao nước ấm, nước nóng ứng với quẻ Đoài trên Dịch đồ. Theo thứ tự này quái Li đứng trước quái Đoài như thế nhánh Lang Âu Mẹ mang tính trội. Dịch Lạc Việt thế gian này của nhánh Âu Lạc. Tóm lại theo thứ tự (Càn) Chấn Li Đoài ta có Dịch Lạc Việt Thế Gian Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra hai nhánh là Âu Lửa Núi Li và Lạc Nước ấm Đoài Đầm. Nhánh Mẹ Âu Cơ mang tính trội. Đây là Dịch Lạc Việt thế gian nhánh Âu Lạc. Bây giờ nhìn dưới diện Chấn trực tiếp nghĩa là Chấn ở vị trí cao nhất và Càn mang tính truyền thuyết biểu tượng để sau cùng. Ta có hai thứ tự là Chấn Li Đoài Càn hay Chấn Đoài Li Càn. 1. Theo thứ tự Chấn Li Đoài Càn. Ta có quái Li trước quái Đoài như thế nhánh Lang Kì Li mang tính chủ. Ở đây ta có DịchLạc Việt với nhánh Lang Li mang tính chủ. 2-Theo thứ tự Chấn Đoài Li Càn. Ta có quái Đoài trước quái Li như thế nhánh Lang Đoài mang tính chủ. Ở đây ta có Dịch Lạc Việt Thế Gian với nhánh Lang Đoài mang tính chủ. DỊCH HÙNG VƯƠNG THẾ GIAN, LỊCH SỬ. Xin nhắc lại bài hát Bồ Nông là Ông Bổ Cắt xoay tròn, đầu thành đuôi, đuôi thành đầu, vô cùng vô tận mang ý nghĩa vũ trụ tạo sinh tuần hoàn vô cùng vô tận. Sinh tử, tử sinh là một vòng tử sinh. Bài hát xoay tròn cũng cho thấy chim tu hú là chim chót trong chu kỳ lại khởi đầu lại một vòng sinh tạo khác. Chim tu hú nếu tính theo phả hệ là cháu chắt, chút chit của bồ nông lại trở thành “chú bồ nông” ở một vòng sinh tạo thứ nhì…. Điều này cho thấy Đoài vũ trụ gió tu hú đội lốt hư không Nông. Đoài vòm trời thế gian đội lốt hư vô vũ trụ. Với những vai vế “ông”, “bác”, “dì”, “cậu”, “chú” rồi theo vòng xoay đảo lộn cho thấy muôn sự đều chuyển dịch theo lẽ tuần hoàn của vũ trụ tạo sinh, của Dịch. Ta thấy chu kỳ đầu Bồ Nông là ông Bổ Cắt diễn tả sự sinh tạo, sáng thế ở cõi tạo hoá. Chu kỳ thứ hai Tu Hú là chú Bồ Nông là chu kỳ sinh tạo ở cõi tiểu vũ trụ thế gian khở đầu từ Tu Hú chim biểu của Tổ Hùng. Giờ Tổ Hùng có một khuôn mặt sinh tạo ở cõi thế gian lịch sử sinh ra Hùng Vương lịch sử. Rồi tiếp tục nữa, chu kỳ thứ ba lại lộn về vòng sinh tạo Tạo Hóa v à chu kỳ thứ 4 lại trở về vòng thế gian và tiếp tục mãi mãi như vậy. Như vậy, bây giờ ta chuyển qua quái Đoài mang tính chủ. Trường hợp thứ nhất Đoài đội lốt Càn tức Đoài thái dương nghĩa là Càn vẫn đứng đầu ngành ở trên hết nhưng chỉ mang tính biểu trưng (deus otiosus). Có hai thứ tự: 1. (Càn) Đoài Chấn Li. Ta có một loại Dịch giống Việt Dịch Bầu Cua thế gian đồng quê theo chiều âm tức theo thứ tự là Bầu (Càn) Cua (Đoài) Cá (Chấn) Cọc (Hươu Li) và cũng giống Việt Dịch Đám Ma Cò ngành Càn Diều Hâu: Con cò mắc dò mà chết, Con diều xúc nếp làm chay. Tu hú đánh trống ba ngày. Bìm bịp nó dậy, nó bày mâm ra. Con cuốc nó kêu u oa, Mẹ nó đi chợ đường xa chưa về. Con diều hâu là loài mãnh cầm có một khuôn mặt biểu tượng cho mặt trời tức Càn nhưng diều hâu có tính bay lượn nên là Càn nhánh Gió Đoài. Tú Hú là chim biểu của Đoài vũ trụ Khí Gió. Bìm Bịp biểu tượng cho nước dương Chấn và Cuốc biểu tượng cho Đất âm, có Li Đất dương đại diện (Việt Dịch Đ ám Ma Cò). Nghĩa là ta có theo thứ tự Càn, Đoài, Chấn Li giống như ở trường hợp này. 2. (Càn) Đoài, Li Chấn. Ta có Dịch Hùng Vương lịch sử Đoài gồm hai nhánh Hùng Kì Li và Hùng lạc Chấn tức Việt Dịch Hùng Vương Hồng Lạc. Kết Luận Sử truyền thuyết Việt dựa trên lưỡng hợp nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng, nguyên lý căn bản cũa Vũ Trụ Tạo Sinh, Dịch. Vì thế Sử truyền thuyết Việt là một thứ Dịch tạo hóa: Viêm ĐếThần Nông nhất thể ứng với thái cực. Viêm ĐếThần Nông nhất thể phân cực thành Viêm Đế và Thần Nông ở tầng lưỡng nghi. Ở tầng tứ tượng ngành nọc dương thái dương, Viêm Đế sinh ra Đế Viêm và Đế Đế; Thần Nông sinh ra Đế Thần và Đế Nông. Ở tầng bát quái, bốn vị đế này sinh ra bốn tổ phụ Đế Minh Càn, Kì Dương Vương Li, Lạc Long Quân Chấn và Tổ Hùng Đoài vũ trụ. Ở ngành nọc âm thái dương ta có Bốn Tổ Mẫu Vụ Tiên Khôn, Long Nữ Khảm, Âu Cơ Tốn và Hoàng Hậu Tổ Hùng Cấn. Gộp lại ta có tám quẻ ba vạch hay bát quái. Ngoài ra mỗi ngành, mỗi đại tộc ứng với một loại Dịch khác nhau. Việt Dịch Sử Truyền Thuyết hiển nhiên khác với Dịch Hoa Hạ. Không thể dùng Dịch Hoa Hạ giải thích văn hóa Việt. Các loại Dịch sử truyền thuyết này còn ghi khắc lại trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn (xem Việt Dịch Đồng Ngọc Lũ I). Góp ý tới bài viết của bác sĩ Nguyễn Xuân Quang: - Để giải quyết vấn đề tổ tiên của các vua Hùng - tức trước Kinh Dương Vương phải sử dụng ý nghĩa cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành như sau: Đế Hòa và chính thất đại diện cho Âm Dương - Âm Dương hòa hợp nảy sinh cây đời, hành mộc, sự sống cho nên hành Mộc - Phục Hy bắt đầu, gia phả cũng ghi nhận vua Phục Hy là cha của vua Thần Nông. - Quy ước Bát Quái khi giải quyết thứ tự từ Đế Minh trở xuống: có bốn phương chính (tứ chính) Bắc, Nam, Đông, Tây sẽ ứng với "Dương" và bốn phương kia (tứ ngung) là biểu tượng của chính thất "Âm", chẳng hạn Đế Minh biểu tượng của phương Nam - độ số 7 thì chính thất Vũ Tiên biểu tượng của phương Đông Nam - độ số 2. - Quy ước Tứ Tượng Âm Dương khi giải quyết thứ tự từ Đế Minh trở xuống: có bốn phương chính Bắc, Nam, Đông, Tây sẽ ứng với Tứ Tượng "Dương" và "bốn phương đảo ngược" là biểu tượng của Tứ Tượng "Âm", chẳng hạn Đế Minh biểu tượng của phương Nam thì chính thất Vũ Tiên biểu tượng của phương Bắc... - Dịch Lý chỉ là duy nhất và chỉ dùng Chu Dịch - Hậu Thiên Bát Quái (không sử dụng Tiên Thiên Bát Quái - ngầm hiểu là tổ tiên trước cả Đế Hòa) là quy tắc, tuy nhiên khi quy ước theo Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ đối với phương vị địa hình theo la bàn thì phương Bắc ở trên, phương Nam ở dưới. Lúc này, Bắc Dương Tử tức Trung Hoa ứng phương Bắc (và Đông) - cung Dương và Nam Dương Tử tức Văn Lang ứng phương Nam (và Tây) - cung Âm. Nhấn mạn đây là quy ước địa lý. - Từ quy ước trên qua sông Dương Tử, hệ quả là một số bí áo của lịch sử tuân theo phương pháp "Huyền không phi tinh" như tục cài áo của Bắc (hữu nhậm - do cung Dương nên phi nghịch từ trái sang phải) và Nam Dương Tử (tả nhậm - do cung Âm nên phi thuận tức từ phải sang trái). Khuy áo là Dương, lỗ cài áo là Âm, cài áo là hướng từ lỗ khuy áo sang khuy áo. Tay trái là Dương tay phải là Âm. "Con người" là Dương - như một "Mặt trời" và "áo quần" là Âm che khuất lấp Mặt trời này -> đấy là lý do dùng "Huyền không phi tinh" tức Hệ thiên văn lớn hơn Hệ mặt trời. Kiểu cài áo hướng từ "trái sang phải" - Hữu nhậm Cổ vật thời Tây Hán - Cũng từ quy ước này, Nam Dương Tử sẽ tuân theo cấu trúc vận động của Lạc thư và Bắc Dương Tử tuân theo cấu trúc vận động của Hà đồ và từ đó dùng để dịch giải lịch sử của đôi bên. Theo truyền thuyết xưa của Trung Quốc, trên sông Hoàng Hà đã từng xuất hiện con long mã trên mình có đồ (hình) gọi là Hà đồ và trên sông Lạc Thủy xuất hiện con thần quy trên lưng có thư (sách) gọi là Lạc thư. Do đó mà người ta đặt ra Bát quái và Cửu cung. - Sông Dương Tử còn có nghĩa "Dương" là mặt trời, "Tử" là con hay mang ý nghĩa là "Con của Mặt Trời". Con sông này được lấy làm ranh phân chia Trung Hoa và Văn Lang theo Dịch Lý đã viết ở trên. Tất nhiên, con sông Hoàng (Hoàng hà) ở Trung Hoa và sông Hồng (Nhị hà) ở Văn Lang cũng có liên quan đến vấn đề bởi kinh đô đặt ở hữu ngạn hai con sông này: Hoàng hà với kinh đô của thời Đế Nghi và Nhị hà của thời Đế Minh và Kinh Dương Vương. - Quy ước này có trước chiến tranh Ân Thương thời Hùng Vương VI. Đây là những quy tắc để đi tới cùng lịch sử nước Văn Lang thời Hùng Vương và tổ tiên của các ngài.
  19. Người dân Đà Nẵng rơi lệ viếng ông Nguyễn Bá Thanh Đông đảo người dân đã được tạo điều kiện vào viếng ông Nguyễn Bá Thanh. Rất nhiều người đã nghẹn ngào bật khóc khi lần cuối được nhìn thấy ông Bá Thanh. Như tin đã đưa, lúc 14h30 chiều 14/2, lễ viếng ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính TƯ, nguyên Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng đã được bắt đầu tại nhà riêng của ông ở số 189 Cách Mạng Tháng Tám (phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Người dân vào viếng ông Nguyễn Bá Thanh (Ảnh: HC) Cùng với các đoàn của các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, đại diện các bộ ngành TƯ, các địa phương bạn trong cả nước và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn TP, đông đảo người dân Đà Nẵng cũng được tạo điều kiện để vào thắp nén nhang viếng ông Nguyễn Bá Thanh. Bất kể giàu có hay nghèo khó, bất kể ăn mặc sạch sẽ tinh tươm hay lam lũ, từ ông già, bà lão đến đàn ông, phụ nữ, thanh niên, trẻ em… thuộc đủ mọi tầng lớp đều xếp hàng ngay ngắn chờ đến lượt vào viếng ông. Có người còn mang theo cả hình của ông Nguyễn Bá Thanh khi đến lễ viếng. Và rất nhiều người trong số họ đã nghẹn ngào bật khóc khi lần cuối được nhìn thấy ông đang yên nghỉ trong chiếc quan tài đậy nắp kính. Dưới đây là những hình ảnh mà PV Infonet ghi nhận được: Người dân xếp hàng ngay ngắn vào viếng ông Nguyễn Bá Thanh Có người mang theo cả hình ông Nguyễn Bá Thanh đến lễ viếng Các cụ hưu trí tuy đã già yếu cũng nhờ người dìu đến viếng ông Nguyễn Bá Thanh Người dân quỳ khóc trước linh cửu ông Nguyễn Bá Thanh Theo thông báo của Ban lễ tang, lễ truy điệu ông Nguyễn Bá Thanh sẽ diễn ra lúc 9h30 ngày 16/2 (tức 28 tháng Chạp; lễ di quan sẽ được cử hành lúc 11h15 ngày 18/2 (tức 30 tháng Chạp) và lễ an táng diễn ra lúc 12h45 cùng ngày. HẢI CHÂU
  20. Ông Nguyễn Bá Thanh mất tại nhà riêng lúc 13h10 13:16 | 13/02/2015 (PetroTimes) - Theo thông tin của phóng viên PetroTimes báo về từ Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, ông Nguyễn Bá Thanh đã được đưa từ bệnh viện về nhà riêng trên đường Cách mạng Tháng Tám vào lúc 12h30 trưa nay, 13/2. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật thông tin đến bạn đọc! Thông tin ông Bá Thanh đã mất lúc 12h12 là chưa chính xác. Thời điểm đó, ông bị ngưng tim nhưng các bác sỹ đã kịp thời cấp cứu và dùng máy kích nhịp tim để gia đình đưa ông về nhà. Đến 12h40, trao đổi qua điện thoại với phóng viên PetroTimes, ông Trần Thọ, Bí thư Đà Nẵng cho biết: Anh Thanh đang yếu lắm, khó có thể qua khỏi. 13h10, ông Nguyễn Bá Thanh trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng. Xe cứu thương trong sân nhà ông Nguyễn Bá Thanh. Người dân tập trung gần nhà ông Nguyễn Bá Thanh khi ông được đón về. Trước đó, tối 12/2, ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ TW cho biết: “Tình hình sức khoẻ anh Thanh nói chung là khó khăn, rất khó khăn. Đến giờ này đây là lọc máu lần thứ hai. Bây giờ phải lọc máu, lọc máu phải cho an thần lại. Lọc máu là khi gan thận không còn thực hiện đầy đủ chức năng, giống như ta tổng vệ sinh. Tình hình ăn uống của ông Bá Thanh trong ngày hôm nay đều phải truyền, truyền đạm, truyền dinh dưởng, kể cả truyền máu. Sáng mai chúng tôi sẽ xét nghiệm đánh giá lại". Ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ TW trả lời báo chí. Đi cùng với đoàn công tác, GS Phạm Gia Khải - Chủ tịch Hội Tim mạch học Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương cũng cho biết thêm: “Các chỉ số huyết học của ông ấy tất cả đều kém đi, bởi vì do tự thân bệnh sinh ra. Hiện tại, vừa có nước trong màng bụng và nước tiểu cũng có máu. Thứ hai nữa là chức năng gan rất tồi, sắc tố mật tăng lên trong máu dữ dội. Lượng hồng cầu trong máu còn rất ít, phải truyền máu. Nói chung là tổng thể sức khoẻ của anh Thanh hiện đang rất xấu. Việc sử dụng Đông y theo như phác đồ điều trị trước đây vẫn tiếp tục nhưng không giải quyết được gì cả. Tất cả Đông y – Tây y đều được sử dụng hết. Đây là một giai đoạn nặng và ngày mai chúng tôi sẽ xem lại lần cuối.” GS Phạm Gia Khải chủ tịch hội Tim mạch học Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương. Sáng ngày 13/2, các chuyên gia, bác sĩ của Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe TW sẽ hội chẩn lần cuối để đưa ra các phương án điều trị trong thời gian tới cho ông Nguyễn Bá Thanh. Anh Nguyễn Hiền ở phường Hòa An, quận Cẩm Lệ cho hay: “Tôi đọc trên mạng nghe tin ông Thanh qua đời ở bệnh viện lúc 12h15 (ngày 13/2-PV), tôi bỏ dở bữa ăn trưa chạy xe thẳng xuống nhà riêng ông Thanh xem tình hình thế nào”. Tuyến đường Cách mạng tháng Tám dường như chật hơn khi dòng xe và dòng người liên tục đổ dồn về đây. Chúng tôi rất cảm động khi chứng kiến tình cảm của người dân Đà Nẵng trước tin ông Nguyễn Bá Thanh bị hôn mê từ ngày 11/2. Khi xe cứu thương chở ông Nguyễn Bá Thanh về nhà riêng, không ai bảo ai, cả ngàn người hướng về đây với một tâm nguyện cầu mong ông đừng vội ra đi… Trung Hội - Thanh Hiếu (tổng hợp) Anh hùng phút chốc hóa thành người thiên cổ! Xin chân thành chia buồn cùng với gia quyến.
  21. Tiên Long châu hành Tác giả: Thái Dịch Lý Đông A Non Kỳ, nước Nhuế, mấy thu trường, Ði lại tìm noi dấu cố hương. Ðỉnh dốc Bòng Bong nhiều ái ố, Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương. Kinh luân vận mệnh là văn vũ, Doanh dưỡng thiên dân ấy Thánh Vương, Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc, Thực hư ai biết khách cương thường? Máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân. Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân. Mình ngự ngôi Thần làm Đế cực, Tay vẫn chuôi Ðẩu bả thiên luân Nước non Lạc Nhuế cơ hiển Thánh. Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân Ðại địa từ xưa không huyệt táng, Ðan thanh một điểm tại thông thần. Rồng Tiên vốn có chủ trương nhà, Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa, Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp, Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa, Cơ thiêng núi Ngự tầng non Ngọc; Trẫm triệu đùn xây cửa động hoa. Nam Bắc không ngừng xoay Tý, Ngọ, Ngàn năm ta lại biết là ta. Bác ngư lạc lối nhập đào nguyên, Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên. Ấy phủ Ðộng Ðình ngày đản noãn, Hay gò Bồng Ðảo lúc chiêu duyên? Ba sinh nợ cũ tình cố đế. Một tấc oan hồn dạ Ðỗ Quyên. Nhắn có Long chương, phiền tý chút, Lên xem nước thủy của Huyền Thiên. Cổ kim chơi xóa tựa do cờ, Non nước còn ta đến tận giờ! Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng Bạc, khi quân Lam Thủy, lúc Hoa Lư. Vận thần thụy ứng ngày chân mệnh Khi chính thâm tàng chốn hóa cơ. Nguyệt quật, Thiên căn ai biết được? Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư. Guồng máy lung linh độ chuyển vần. Non xanh nước biếc có kinh luân. Truyền danh đã hẳn là linh dị, Ứng thụy rồi ra mới tác dân. Hư thực anh hùng trông rõ thực, Giả chân, hào kiệt biết rành chân. Xưa nay bất trắc, cơ khôn nói, Ðể hỏi đời ai bất thế nhân? Hình hài thấp thoáng bóng tinh anh. Dâu bể tìm ai trúc sử xanh? Ðụn thóc, cây tiền, kho giáo dưỡng Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh, Sồng Hằng, nước Hán đều quy lại, Ðảo Úc, tầng A cũng phục quanh, Ruộng đất muôn xưa nhà Bách Việt, Hồng Bàng còn để mối tân canh. Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng, Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng. Ngán núi Kình Thiên bao nắng hạ, Thương dòng nước ngược mấy mưa đông, Hai tư giáo hóa giềng cương kỷ; Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông, Tháp cuốn Chà Bà, mây Ngũ Lĩnh, Qua sông ta lại trở sang sông. Bước chân cao thấp mãi không cằn, Chỉ vị đan thanh chút nhọc nhằn, Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật; Dò vào cửu cực nắm thiên căn. Cương thường không ngoại guồng thân mệnh, Giáo đường gồm trong trục vũ văn, Giữ được Xuân Thu tròn vẹn mãi, Còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn. Ðất đỏ, trời xanh, giữa một ta, Chung quanh vẫn của nước non nhà, Theo đường Tiên mở đem chiêng xuống, Vạch lối Rồng xây lấy ngọc ra. Tim óc xoay vần nên tuế nguyệt, Tay chân tạo tác nổi sơn hà, Ðấy ai suốt hết Thần cơ nhỉ? Tảng đá đầu ghềnh bỗng nở hoa! Vận hội ngàn năm dễ mấy lần, Quét thanh lang sói mở canh tân, Anh hùng dậy khắp vùng lau lách, Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân. Ðại cáo lại ban lời Bách Việt, Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY DÂN. Trời Nam chung bọc Rồng Tiên cả. Nhắc để lên đài sống Vạn Xuân. Một lối vô danh há dễ bàn! Ðem nguồn cảm hứng nói non ngàn Cơ trong vật lý, nên thần dụng, Ðạo ở nhân tình, chớ dị đoan. Một nếp DUY DÂN cầm chính trị, Trăm con Hồng Lạc hết gian nan. Tiên Long Châu ấy nơi hùng thắng, Ðể lại năm sau chốn ẩn nhàn. 4822 T.V. X.Y. Thái Dịch Lý Đông A 4823 tuổi Việt ( 1944 ) ( Trích trong Huyết Hoa)
  22. Chúng ta không thể không giải thích ý nghĩa của Lỗ đen vũ trụ, bởi vì nó cũng là trung tâm của dải Ngân hà chúng ta đang sống, chính cái tên Ngân này đã có từ thời thượng cổ, cũng thường gọi là Thượng kiều, còn con sông Hạ Kiều của Cõi Chết quản lý bởi Diêm Vương là con sông Nhị (sông Hồng) nối trục Càn Khôn. Tuy nhiên, cần đi vào một vài vấn đề khác trước. Biểu tượng cho Thái cực là một hình tròn viên mãn, cũng thường được trình bày trong tranh thiền tông của Nhật Bản. Vòng tròn viên mãn Mặt khác, một đơn vị Thái cực cũng diễn họa bằng chính vòng tròn này nhưng tên của nó là "Minh châu", trong các ngôi đình, đền, chùa, miếu Việt... chúng ta thường thấy hình tượng "Lưỡng long minh châu". "Lưỡng long minh châu" Còn biểu tượng "Song Long triều nguyệt" trên chiếc lư hương thể hiện sự vận động của Âm Dương. "Song long triều nguyệt" Đồ hình Âm Dương Việt ở đền Bạch Mã, xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương. Tỉnh Nghệ An. Chúng ta cần chú ý, trên đỉnh điện thờ luôn có chiếc đèn lồng màu đỏ chiếu sáng khu vực thờ tự hoặc những chiếc đèn treo Đông Sơn, nó mang ý nghĩa biểu tượng là "Mặt trời", do vậy trên đỉnh mái chùa gọi tên là "Lưỡng long minh châu" chứ không phải là "Lưỡng long triều nhật". Sau này, chiếc đèn này gọi là "Đèn Vua" tức đèn kéo quân có 8 mặt trong những dịp lễ hội như Tết Trung Thu. Đèn Kéo Quân Chiếc đèn sáng của trí tuệ là biểu tượng của Nhiên Đăng Cổ Phật trong Phật giáo. Đèn (nến) treo Đông Sơn (Ghi chú: người ngồi trên đỉnh, móc treo o, chim én chầu, người chầu trên đèn đồng) Thời Hùng Vương, vũ trụ chưa vận động được biểu tượng qua chiếc bình đồng Đông Sơn có nắp (không có nắp gọi là hũ, cũng tùy ứng dụng), khi ta đổ nước ra hàm ý vũ trụ vận động. Thông thường chiếc vòi nước trong hình tượng chiếc vòi voi, gọi là bình voi. Chiếc bình đồng là hình ảnh của phương Tây, Cõi Chết, tịch lặng được lấy làm hình ảnh của vũ trụ nguyên thủy. Bình voi Đông Sơn, thời kỳ đầu Công nguyên Nếu nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm và bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Phật giáo, thì chúng ta sẽ thấy nội dung viết về cấu trúc cơ bản của Thái cực tương ứng với một hình lập phương (một đơn vị không gian tối ưu nhất) có một hạt "Lân vi trần" ở trung tâm của hình lập phương này (cân bằng tương tác lục phương - thời đại Bảo Bình Hùng Quốc Vương là "Lục hợp đồng xuân"). Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, có bức tranh "Lục hợp đồng xuân" này và tên chợ Đồng Xuân ở Hà Nội cũng mang cái ý nghĩa ấy. Hạt Lân vi trần là hạt nhỏ nhất của vũ trụ (chỉ tồn tại "cái có" vật chất, còn "cái không" thì thuộc không gian), đây chính là bản thể của vũ trụ, hình ảnh của nó chính là hạt "Minh châu" ở trên. Nó cũng còn được gọi là "Kim cương điểm" nữa, một cách gọi tên khác trong các phương pháp ứng dụng chính là "Tử vi". Từ "Lân" này cũng là con "Kỳ Lân" và Hùng Lân Vương - Hùng Quốc Vương - Hùng Vương Thứ Ba. Đến đây bài toán chẻ đôi một đoạn thẳng ở giữa (có từ thế kỷ IV TCN) sẽ biết điểm dừng cuối cùng của nó. Cái lớn nhất Thái cực là hình tròn (cầu) viên mãn (Âm Dương vận động cũng được diễn tả trong vòng tròn này), cái nhỏ nhất Lân vi trần cũng là một hình tròn (cầu) viên mãn: mang ý nghĩa sự đồng nhất giữa chúng ở trạng thái nguyên thủy - một biểu tượng diệu kỳ. Múa Lân Đến đây thì đã rõ ràng, cái khó nhất chính là định hình cho được Thái cực, nó cũng là cái cuối cùng của nhận thức. Nó không thể nắm bắt mà chỉ nhận thức được, nếu muốn "thấy" nó thông qua "tính Thấy" thì sẽ chỉ thấy được cấu trúc "nhóm hạt sơ cấp" ngay sau nó mà thôi. Lỗ đen Ngân hà: chính là trường khí tương tác theo cấu trúc Tiên Thiên Bát Quái. Hôm nay, ngày 23 tháng Chạp năm Giáp Ngọ thuộc hội Ngọ là ngày đưa Ông Công Ông Táo về trời, năm đầu tiên của thời kỳ Bảo Bình - biểu tượng của Hùng Quốc Vương - Thần Cả - Thần Vũ Dũng, cũng sẽ một là năm siêu đặc biệt bởi vì đã nhận thức được tới cái tận cùng của vũ trụ, đã hoàn toàn được giải mã và khám phá. Thiên hạ thái bình (Phượng hoàng hàm thư - ngậm cái lông của chính nó) (Ghi chú: hoa hồng biểu tượng của tình yêu - thuộc phương Nam của Tiên Dung và Chử Đồng Tử) CHÚC MỪNG SỰ MUÔN NĂM VĨ ĐẠI CỦA NƯỚC VIỆT. "Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh, Can qua xứ xứ khởi đao binh. Mã đề Dương cước anh hùng tận, Thân Dậu niên lai kiến thái bình". Sấm Trạng Trình.
  23. Nhân loại đang sống trong... lỗ đen vũ trụ? Một số nhà vật lý học tin rằng, loài người của chúng ta đang sống trong một lỗ đen mà không thể nào thoát ra được. Theo lý thuyết trên, “hạt giống” có trước vụ nổ vũ trụ là một điểm dày đặc các hạt vật chất nhỏ được hình thành bên trong một lỗ đen. Hạt giống này có sức mạnh kích hoạt sản xuất tất cả các hạt khác tạo thành các hành tinh khác nhau. Lỗ đen được hình thành từ những ngôi sao khổng lồ bị hết nhiên liệu. Những lỗ đen có thể là một trong những lực lượng tàn phá mạnh nhất trong không gian nhưng cũng có thể chứa các nền văn minh tiên tiến giống như của loài người. Chính con người đang sống trong một lỗ đen mà không thể nào thoát ra được do lực hấp dẫn lớn. Tiến sỹ Nikodem Poplawski, trường Đại học New Haven, tin rằng: "hạt giống có trước vụ nổ vũ trụ được tạo ra bên trong hố đen. Hạt giống này nhỏ có thể kích hoạt sản xuất các hạt khác để tạo thành dải ngân hà, hệ thống năng lượng mặt trời, các hành tinh và cả con người". Hình ảnh mô phỏng lỗ đen với lực hấp dẫn lớn khi con người không thể thoát ra được. Lỗ đen được tạo ra khi những ngôi sao khổng lồ hết nhiên liệu và sụp đổ vào bên trong. Lúc đó sẽ tạo ra một siêu tân tinh từ vụ nổ một phần của ngôi sao trong không gian. Kết quả là lực hấp dẫn kéo mọi thứ, thậm chí cả ánh sáng cũng không thể thoát khỏi. Lực hấp dẫn quá mạnh như vậy do vật chất bị dồn vào một không gian nhỏ. Chính vì thế, hố đen có thể là một “cánh cửa” ngăn cách giữa hai vũ trụ. Nếu vũ trụ của chúng ta được tạo ra bởi một “hạt giống” thì cũng có thể chúng ta đang sống bên trong một trong những lỗ đen. Điều này có nghĩa, nếu chúng ta đang sống ở trung tâm của lỗ đen thì không bao giờ có thể thoát ra được ngoài miệng hố đen. Theo nhà vũ trụ học Nga Vyacheslav Dokuchaev, nếu cuộc sống tồn tại bên trong một hố đen siêu lớn thì nó sẽ phát triển để trở thành một nền văn minh tiên tiến nhất trong thiên hà. Trong năm 2011, giáo sư Dokuchaev cùng Viện Nghiên cứu hạt nhân Moscow đã tìm ra những bằng chứng về một số loại lỗ đen mà bên trong vòng quay lỗ đen có những vùng các photon có thể tồn tại ổn định định kỳ. Một số người tin có một hạt nhân có trước vụ nổ vũ trụ đã tạo Trái đất Từ đó, ông dự đoán rằng nếu có quỹ đạo ổn định đối với các photon, thì có thể có quỹ đạo ổn định cho các vật thể lớn hơn, như các hành tinh chẳng hạn. Nhưng vấn đề ở chỗ, các quỹ đạo ổn định sẽ chỉ tồn tại khi bạn bước qua ngưỡng cửa của chân trời các sự kiện nằm ở miệng của lỗ đen, khi đó thời gian và không gian hòa vào nhau. Tuy nhiên, bên cạnh chân trời sự kiện thì còn tồn tại một dạng khác trong hố đen đó là chân trời Cauchy, nơi này có thời gian và không gian ở trạng thái bình thường, có thể có sự sống tồn tại. Nhưng ở đó lại có lực thủy triều dao động lớn và nền văn minh này được xếp hạng loại III, loại cao nhất theo thang đo xếp hạng các nền văn minh Kardashev Scale. Còn loài người chúng ta mới đang tìm kiếm để đạt được cấp độ I, cấp độ làm chủ hành tinh của riêng mình. Cũng theo lý thuyết này, các nhà vật lý tin rằng, cuộc sống càng ở trong những lỗ đen siêu lớn thì nền văn minh càng phát triển. Theo Danviet/Dailymail Lỗ đen sẽ được giải thích tổng quát theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành như thế nào? ->
  24. Không gian - Thời gian - Vật chất và đặc tính siêu giới hạn Chúng ta cũng đã nhận biết được cấu trúc của Thái cực là rỗng, điều này tất nhiên sẽ dẫn đến một hệ quả là toàn bộ vật chất trong vũ trụ đều có cấu trúc như vậy. Chúng ta dùng ngôn từ " vật chất trong vũ trụ" hàm ý vật chất trong không gian, do cấu trúc rỗng cho nên dễ dàng thấy rằng, những "khoảng rỗng" này mang đúng ý nghĩa trống rỗng, không chứa gì, đây chính là đặc tính của "không gian". Cũng chính từ đặc tính này mà chúng ta sẽ nhận biết được: mọi vấn đề chỉ xảy ra trực tiếp đối với vật chất mà thôi, nhưng phải chăng vật chất cũng biểu hiện qua không gian: ví dụ cấu trúc cơ bản của Thái cực thể hiện một cách tương ứng và tối ưu nhất đối với cấu trúc cơ bản tối ưu nhất của không gian 3 chiều? Ảnh một cấu trúc vật liệu tham khảo Một điều dễ thấy là khi vũ trụ vận động tức vật chất vận động trong không gian, điều này mang ý nghĩa các khoảng rỗng sẽ thường xuyên bị lấp đầy hoặc rỗng đi do vật chất chuyển động qua nó. Sau Thái cực, từ nhát búa thần thánh của ông Bàn Cổ vũ trụ vận động, tương tác, lúc này vật chất hay Khí cô đặc dần, vấn đề này sẽ dẫn đến có nhiều khoảng rỗng hơn hay có những khoảng rỗng to lớn dần so với khoảng rỗng nguyên thủy của chúng, lúc vũ trụ chưa vận động - Thái cực. Những chiếc âu đồng và bình đồng Đông Sơn đặc trưng có chân đế rỗng Khi vũ trụ vận động và phát triển tới hạn, tức là sẽ hình thành nên những trạng thái vật chất cô đặc tới hạn (Khí tụ thành Hình) sẽ bắt đầu giai đoạn phân rã trở lại (có thể hiểu là không còn đủ năng lượng dưới nhiều dạng khác nhau để tạo nên sự cô đặc này), vậy những đặc trưng nào chứng tỏ có những trạng thái tới hạn đó? Cũng từ đó, sẽ định hình nên những hệ Thiên hà có kích thước giới hạn tương ứng trong vũ trụ. Quay trở lại đặc tính siêu giới hạn của vật chất, nó phải thỏa mãn mọi hình thức và mọi thuộc tính tồn tại của vật chất, ví dụ như ngọt, đắng... ánh sáng và bóng tối, sự phản xạ của gương của mặt nước, đặc tính của kim loại, từ tính, của tốc độ (liên quan đến thời gian)... và đặc biệt, của sự cảm nhận như ghét, thương yêu..., của tư duy con người và động vật...v.v. Không còn ngôn từ nào khác, cổ thư của Phật giáo đặt tên nó là "tính Không" chứ không phải "tính Tuyệt đối", và với những bản chất của nó đã chứng tỏ "vạn vật đều được phản ánh trong nó và cũng là chính nó". Về mặt tư duy con người, kinh Lăng Nghiêm có nói về "tính Thấy", đây cũng là một ý nghĩa của "tính Không" khi diễn giải rõ hơn về nguồn gốc của cái thấy bằng mắt. Ví dụ, cái nghe bằng tai được gọi là "tính Nghe"... Tranh 8 của bộ tranh "Thập mục ngưu đồ": Nhân ngưu câu vong - Người trâu đều quên. Trong văn hóa Việt, bức tranh Hàng Trống "Lý ngư vọng nguyệt" mang ý nghĩa "tính Không" này, và nó chính là nền tảng của bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lý ngư vọng nguyệt - Cá chép trông trăng Các bậc thầy phải dùng đến biểu tượng của bức tranh trên mới diễn tả được cái ý nghĩa siêu việt như vậy, bởi vì nó hoàn toàn không hiển lộ ra mặc dù vạn vật hiện hữu trong vũ trụ được xem là vô cùng, vô tận. Chính vì đặc tính này liên quan đến trạng thái khởi nguyên vũ trụ Thái cực không thể nhận biết nên mới có câu truyện "Thầy bói sờ voi" là vậy. Con voi to đùng biểu tượng cho vũ trụ và mọi hình tượng trong vũ trụ với từ đồng nghĩa "tượng" trong Lý học, thời nhà thơ Khuất Nguyên có dùng từ "tượng trời" chính là nói về hình tượng trên bầu trời như các ngôi sao, Ngân hà... Vậy, cấu trúc nguyên thủy của Thái cực được mô tả như thế nào? Dải Ngân hà trong một buổi đêm Do vậy, vũ trụ hình thành là cũng chính tự thân nó chứ không do ai sinh ra cả, cho nên kinh thánh cũng lại sờ voi mà thôi, vì vậy những tay nào viết đi viết lại hàng nghìn năm qua về nội dung của nó mà không chịu "động lão" thì cũng giống như đang nhai rơm vậy, lúc nào cũng muốn làm cha, làm cố thiên hạ, lại còn nghênh ngang, hùng hổ dám xưng là "Tao - Đại diện thứ nhất, cái băng đệ tử của Tao - đại diện thứ hai của Chúa Trời". Những chú Tễu và các rổ rá có cấu trúc rỗng
  25. 2 nguyên tố hóa học mới đã có tên 25/05/2012 Liên hiệp Hoá học Thuần tuý và Ứng dụng Quốc tế (IUPAC) đã đề xuất tên mới cho nguyên tố 114 và 116, 2 nguyên tố nặng mới được thêm vào bảng tuần hoàn gần đây nhất. Các nhà khoa học đề xuất tên cho 2 nguyên tố hóa học mới. (Nguồn: sciencedaily.com) Các nhà khoa học đến từ Phòng Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore đã đề xuất tên Flerovium cho nguyên tố 114 và Livermorium cho nguyên tố 116. Vào tháng 6/2011, IUPAC chính thức chấp nhận nguyên tố 114 và 116 là 2 nguyên tố nặng nhất sau hơn 10 năm được các nhà khoa học đến từ Viện Nghiên cứu Hạt nhân ở Dubna và các nhà hoá học đến từ Phòng Thí nghiệm Lawrence Livermore phát hiện. Người ta chọn tên Flerovium (ký hiệu hoá học là Fl) để vinh danh Phòng Thí nghiệm Phản ứng Hạt nhân Flerov, đây chính là nơi các nguyên tố siêu nặng (trong đó có nguyên tố 114) được tổng hợp. Georgiy N. Flerov (1913-1990) là 1 nhà vật lý nổi danh, đã phát hiện sự tự phân hạt nhân của chất Urani và là người tiên phong trong ngành vật lý ion nặng. Livermorium (ký hiệu hoá học là Lv) được chọn để vinh danh Phòng Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore và thành phố Livermore ở California. Một nhóm nghiên cứu gia đến từ phòng thí nghiệm này cùng với các khoa học gia đến từ Phòng Thí nghiệm Phản ứng Hạt nhân Flerov đã tham gia trong 1 công trình nghiên cứu được thực hiện tại Dubna, Nga về việc tổng hợp các nguyên tố siêu nặng, bao gồm nguyên tố 116. Hai tên mới này sẽ được sử dụng chính thức trong vòng 5 tháng nữa. Nguồn xaluan.com Xem "quái vật khổng lồ" mắc nghẹn khi ăn ngôi sao 29/01/2015 Các nhà thiên văn học vô cùng bất ngờ khi phát hiện một hố đen khổng lồ đang cố "nuốt chửng" ngôi sao bằng cách kéo dài nó ra như sợi mỳ và thưởng thức. Mới đây, các nhà thiên văn học Mỹ đã chứng kiến hình ảnh một hố đen khổng lồ đang cố "nuốt chửng" ngôi sao bằng cách kéo dài nó ra như sợi mỳ và thưởng thức. Tuy nhiên dường như hố đen bị nghẹn nên vô cùng chật vật với "bữa ăn" này. Theo các nhà khoa học, việc hố đen khổng lồ nuốt trọn mọi thứ trên đường đi không phải là quá xa lạ. Với sức mạnh của mình, chúng sẽ "càn quét" và khó bỏ qua những gì thấy trên đường đi. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn tin rằng, hố đen có kích thước càng lớn thì lực hấp dẫn càng lớn và càng "tham ăn". Tuy nhiên, một nghiên cứu trước đã cho thấy, với hố đen có kích thước bình thường, chỉ bằng 1/15 kích thước Mặt trời nhưng có khối lượng gấp cả triệu lần. Dù với kích thước nhỏ nhưng chúng vẫn thể hiện sự "háu ăn" bằng cách cố gắng tiêu thụ một ngôi sao có kích thước lớn hơn. Theo tính toán, để ăn hết ngôi sao, hố đen sẽ phải mất khoảng một triệu năm nhưng thời gian này khá ngắn trong vũ trụ. Ông J. Craig Wheeler - người đứng đầu nhóm nghiên cứu siêu tân tinh của Đại học Texas cho biết: "Chúng tôi vô cùng bất ngờ khi phát hiện ra sự kiện này. Điều này cho thấy, lực hấp dẫn khổng lồ của hố đen đã gặp khó khăn khi "gặm" một bên của ngôi sao. Vì thế, hố đen sẽ phải cố gắng nhào nặn ngôi sao thành sợi mì dài để có thể thưởng thức". Nhà nghiên cứu Jozsef Vinko của Đại học Szeged (Hungary) chia sẻ: "Ngôi sao không rơi trực tiếp vào hố đen mà đang dạo chơi quanh đó, bất ngờ bị hố đen bắt gặp. Sức hút của hố đen đã xé toạc ngôi sao. Việc ăn những ngôi sao sẽ giúp cung cấp vật chất, giúp hố đen ngày một lớn hơn. Tuy nhiên, cũng có những phản lực hướng ra trong quá trình này khiến cho việc hấp thụ vật chất sẽ chậm, từ đó làm giảm tốc độ phát triển của một hố đen". Video dưới đây sẽ cung cấp cho các bạn hình ảnh rõ nét về cuộc chiến giữa hố đen khổng lồ và ngôi sao này. Nguồn: Dailymail Thông điệp ẩn trong thiên thạch tiết lộ thời điểm Trái đất bị diệt vong 22/01/2015 Các nhà khoa học hi vọng bí ẩn trong mảnh thiên thạch có niên đại hàng tỷ năm sẽ tiết lộ nhiều điều thú vị về Trái đất. Nghiên cứu của các nhà khoa học Anh mới đây đã chỉ ra, việc "mổ xẻ" những thiên thạch có niên đại hàng tỷ năm sẽ bật mí cho chúng ta thời điểm Trái đất kết thúc. Cụ thể, các chuyên gia đã sử dụng kỹ thuật tia X khổng lồ hay synchrotron chiếu trên những mảnh thiên thạch tìm được nhằm tìm hiểu khối kết cấu ẩn giấu sâu trong mỗi vật liệu. Những thiên thạch mà chúng ta đang có là mảnh vỡ của một hành tinh mẹ mà ban đầu đến từ vành đai tiểu hành tinh, nằm giữa sao Hỏa và sao Mộc. Chúng được biết đến như đá thiên thạch pallasite chủ yếu được tạo thành từ sắt và niken, silicat đá quý chất lượng. Những tinh thể này có kích thước vô cùng nhỏ - khoảng 100 nanomet - 1/1000 chiều rộng của một sợi tóc con người. Những thiên thạch đến từ tiểu hành tinh được tạo ra trong vài triệu năm đầu tiên sau khi hệ Mặt trời hình thành. Tại thời điểm đó, hành tinh được đun nóng bởi sự phân rã phóng xạ cùng nền nhiệt nóng làm chúng tan chảy - phân loại thành một lõi kim loại lỏng bao quanh bởi một lõi kim loại lỏng và được bao phủ bởi vỏ manti. Theo các chuyên gia, việc tính toán những từ trường bên trong sẽ giúp chúng ta có thể tính toán chính xác những khoảnh khắc lõi sắt Trái đất hình thành trong tiểu hành tinh cũng như khi chúng bị đóng băng. Giống như dữ liệu được ghi trên bề mặt ổ cứng máy tính, các tín hiệu từ trường bằng "văn bản" cụ thể hiện lên trong mảnh thiên thạch sẽ tiết lộ cách hoạt động trong quá khứ của lõi Trái đất và dự đoán thời điểm diệt vong. Lõi Trái đất có vai trò quan trọng bởi nó tạo ra trường điện từ của Trái đất và trường điện từ này đang suy yếu. Hiện tượng này đang gây tác động trong không gian, chẳng hạn như gây trục trặc các vệ tinh mà trường điện từ bảo vệ chúng khỏi bức xạ Mặt trời cũng như bức xạ khác trong không gian. Ngoài ra, giới khoa học còn muốn tìm hiểu liệu cực từ có đang chuẩn bị lật nhào, cực Bắc thành cực Nam và ngược lại. Bởi trong lịch sử Trái đất, hiện tượng này đã từng xảy ra. Từ trường của Trái đất có thể sẽ "chết" đi khi lõi hoàn toàn đóng băng. Tiến sĩ James Bryson cho biết: "Chúng tôi lấy số đo từ trường cổ đại trong các vật liệu có kích thước nano với độ phân giải để hiểu hơn lịch sử của tiểu hành tinh - điều này giống như khảo cổ học vũ trụ". Tiến sĩ Richard Harrison đến từ Đại học Cambridge cho biết: "Ý tưởng về việc nghiên cứu lõi Trái đất đã và đang được giới khoa học tìm hiểu nghiên cứu. Chúng tôi tin rằng, từ trường Trái đất có liên quan chặt chẽ đến lõi Trái đất. Bằng cách nghiên cứu về mảnh thiên thạch của tiểu hành tinh, chúng ta có thể lập ra được bảng quy trình hình thành, làm việc của nó trên Trái đất". Nhóm nghiên cứu đo từ trường cổ đại trong vật liệu nano với độ phân giải cao nhất như một cách để khảo cổ học vũ trụ. Các chuyên gia nhận thấy kể từ khi tiểu hành tinh có kích thước nhỏ hơn nhiều so với Trái đất, chúng nguội đi nhanh hơn. Điều này phần nào giúp ta có thể tính toán toàn bộ quá trình cốt lõi kiên cố của Trái đất. Không những vậy, các chuyên gia còn xác định từ trường đang giảm 10% ở hai cực từ. Với tốc độ giảm trong suốt 150 năm qua, từ trường sẽ có thể biến mất trong vòng 1.500 - 2.000 năm nữa. Sự biến mất của từ trường sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến Trái đất. Tiến sĩ James Bryson nói rằng: "Hiện chúng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, kết quả thu được hứa hẹn sẽ giúp giới khoa học có được nhiều phát hiện mới trong tương lai". Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Nature. Nguồn: BBC, Dailymail