hoangnt
Hội viên-
Số nội dung
1.909 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
6
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by hoangnt
-
Bài viết nào của bác sĩ Nguyễn Xuân Quang cũng rất quý và giá trị, tuy nhiên kết luận về quy tắc biểu tượng của các vua Hùng và Tổ tông của các ngài cần xem xét lại, tôi góp thêm vài ý ở phía dưới cuối bài. TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN, BỘ SỬ ĐỒNG BẰNG HÌNH CỦA ĐẠI TỘC VIỆT. Nguyễn Xuân Quang (phần 3 và hết). (Bài nói chuyện ngày 19-4-2015 tại Hội Phát Triển Nghệ Thuật Truyền Thống Việt Nam và Hội Quán Lạc Hồng tại Little Saigon, Nam Cali, Hoa Kỳ). clip_image002 II. SỬ SÁCH, LỊCH SỬ VIỆT TRONG SỬ ĐỒNG ĐÔNG SƠN VIẾT BẰNG HÌNH, CHỮ NÒNG NỌC VÒNG TRÒN QUE. Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là những hiện vật do con người làm ra và được cho là có từ thời Hùng Vương lịch sử nên bắt buộc có một khuôn mặt là bộ sách LỊCH SỬ VIỆT bằng hình, bằng đồng đích thực. Lưu Ý Các vua Hùng lịch sử là di duệ hay đội lốt các Thần Tổ Phụ Mặt Trời sinh tạo thế gian ứng với tứ tượng là: .Mặt Trời Ánh Sáng Đế Minh ứng với Lửa Vũ Trụ, Lửa Trời Càn mà dân gian Việt Nam gọi nôm na là Chàng (I) Lửa (thái dương II) tức III, quái Càn. .Kì Dương Vương ứng với Đất Lửa Li cõi đất dương gian mà dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Đất (thiếu dương OI) tức IOI, quái Li. .Lạc Long Quân ứng với Nước dương mà dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Nước , (thái âm OO) tức IOO, quái Chấn. . Tổ Hùng ứng với Gió dương mà dân gian Việt Nam gọi là Chàng (I) Gió (thiếu âm IO) tức IIO, quái Đoài. Mỗi Đại Tộc có bốn Tộc, mỗi Tộc có bốn Chi Tộc cũng ứng với tứ tượng. Ở cõi thế gian lịch sử, thú biểu bốn chân của các Vua Hùng Vương lịch sử là vật tổ chính còn chim biểu thường là biểu tượng cõi trời thế gian nhưng đôi khi cũng biểu tượng cả cõi vũ trụ tạo hóa, nhất là trên các trống vũ trụ có mặt trời có số nọc tia sáng bằng hay dưới 8. CHỦNG NGƯỜI TIỂU VŨ TRỤ HỒNG LẠC (LẠC HỒNG): LỬA NƯỚC, CHIM-RẮN. Hồng Lạc phải nhìn theo Vũ Trụ Tạo Sinh, Dịch học. Hiển nhiên ta thấy rõ trước mắt là khi thì gọi là Hồng Lạc khi thì gọi là Lạc Hồng. Gọi xuôi ngược như vậy là gọi theo hai diện chim rắn, Tiên Rồng nọc nòng, dương âm. Hồng là Đỏ là Lửa và Lạc là nác, Nước. Theo ngành Lửa, Chim, Tiên, Mẹ Âu Cơ thì gọi là Hồng Lạc (Hồng Lửa để trước) còn theo ngành Nước, Rắn, Rồng, Cha Lạc Long Quân thì gọi là Lạc Hồng. Như thế Hồng Lạc, Lạc Hồng phải hiểu nghĩa dọc theo suốt cả chiều dài của văn hóa Việt dựa trên Vũ Trụ Tạo Sinh từ thái cực, Trứng Vũ Trụ trở xuống. Hồng Lạc là chủng Người vũ Trụ Chim Rắn Viêm Đế-Thần Nông. -Ở tầng thái cực, Trứng Vũ Trụ, Hồng Lạc (Lạc Hồng) là Lửa-Nước (Nước Lửa) nhất thể, là vũ trụ, là Viêm Đế-Thần Nông hay Thần Nông Viêm Đế nhất thể, là Tổ Hùng Tạo Hóa nhất thể. Hồng Lạc là chủng Chim-Rắn và Lạc Hồng là Rắn-Chim nhất thể còn ở dạng thiên nhiên hay đã thần thoại hóa. Chứng sử đồng như đã nói ở trên, về phía Lạc Hồng là Rắn Nước-Chim Rìu Lửa ở đầu thuyền trên trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ… -Ở tầng lưỡng nghi, nòng nọc, âm dương đối cực, Hồng Lạc là Lửa-Nước, Chim Rắn tách riêng hai ngành. Nhìn theo hai cực đối ngược nòng nọc, âm dương, Hồng Lạc là chủng Chim Cắt Hồng Hoàng (Hán Việt chim cắt gọi là Hồng Hoàng) và Rắn Nước Lạc. Chứng sử đồng còn thấy ở thuyền Sông Đà. Đầu thuyền đầu Rắn nước, đuôi thuyền đầu chim cắt. clip_image004 Thuyền Lạc Hồng Rắn Nước Lạc-Chim Cắt Lửa Hồng (Hoàng) trên trống Sông Đà. Ở ngành chim Nọc Việt dương thái dương, nhìn dưới diện chim biểu cõi trên tạo hóa, Hồng Lạc là chủng Chim Hồng Hoàng Mỏ Cắt và Chim Nước Bồ Nông (chim nông Hán ngữ là Đường Nga, có Nga chỉ chung cả họ chim nước chân có màng là nông, ngỗng, ngan, vịt trời…). Chứng sử đồng còn thấy qua hình chim cắt và chim Nông bay. clip_image005 clip_image007 Chim cắt bay ở một tang trống Điền Việt và chim nông bay trên trống Ngọc Lũ I. Ở cõi trời sinh tạo thế gian là Chim Lửa Trĩ Việt (Đế Minh) clip_image009 Chim trĩ Lửa, Trĩ Việt trên nóc nhà mặt trời trên trống Ngọc Lũi I. và Chim Nước ngỗng, le le (Vụ Tiên)… Trên những trống Shan thường có các loài chim nước được cho là thuộc họ nhà vịt. clip_image011 Hình những con chim nước được cho là họ nhà Vịt trên một trống Shan. Lưu ý là tộc Shan nói tiếng Tầy Thái thuộc ngành nòng âm Thần Nông, Lạc Long Quân. HỒNG LẠC, LẠC HỒNG THẾ GIAN. Ở cõi thế gian nhìn dưới diện thú biểu là con thú Hồng, thú Hùng (đỏ, mặt trời, dương), đực (thư hùng), con thú Đực, con Đục, con Đọc, con Cọc, con Hươu sừng Kì Dương Vương. clip_image013 Một con hươu sừng đực trên trống Ngọc Lũ I. và con thú Lạc. Thú Lạc sống được dưới nước mang tính Việt (có sừng, mào, mõm nhọn, vi gai nhọn, vi sừng…). Con thú Lạc thấy nhiều trên các trống ở Việt Nam là con Cá Sấu Việt. Việt ngữ sấu biến âm với sẩu (xương sẩu). Sẩu có một nghĩa là sừng: xin khúc đầu những xương cùng sẩu. Sấu biến âm với sậu có nghĩa là cứng (ngô sậu, khoai sậu). Theo c=s (cắt = sắt) ta có cứng = sừng. Con sấu là loài sống được dưới nước như cá và có vi sừng. Theo ng = g (như ngẫm = gẫm), Hán Việt ngạc, cá sấu biến âm với Việt ngữ gạc, sừng. Cá sấu là con cá gạc (sừng), cá ngạc (Hán Việt). Sấu Dao Việt (xem dưới) là một khuôn mặt thú biểu vùng đất có nước như đầm hồ, ven sông, biển của Lạc Long Quân. Sấu Việt thấy trong sử đồng Đông Sơn trên trống Hóa Bình. clip_image015 Cá sấu Lạc Việt trên trống Hòa Bình. Hồng Lạc thế gian về thú biểu là Hươu Hồng-Cá Sấu Lạc. HỌ HỒNG BÀNG THẾ GIAN Theo truyền thuyết thì Họ Hồng Bàng thế gian kể từ Kì Dương Vương trở xuống. Như thế nếu nói chung thì họ Hồng Bàng phải kể từ thần tổ tối cao là thần mặt trời Viêm Đế của ngành Nọc Việt dương thái dương trở xuống. Tại sao Họ Hồng Bàng Thế gian chỉ kể từ Kì Dương Vương trở xuống? Điểm này dễ hiểu vì Kì Dương Vương được coi là con người đầu tiên của loài người, là thần tổ đầu tiên của người Việt, vua đầu tiên của nước Xích Quỉ, Người Việt Mặt Trời. Trong sử sách có nhiều tác giả giải thích về Họ Hồng Bàng nhìn dưới những góc cạnh khác nhau của văn hóa Việt có cốt lõi chim rắn Tiên Rồng nòng nọc, âm dương, Dịch học nên bất đồng ý kiến giống như các thầy bói sờ voi. Phải giải thích Họ Hồng Bàng cũng như những tên khác trong sử truyền thuyết lịch sử Việt (như Viêm Đế, Thần Nông, Đế Minh, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Tổ Hùng, Hồng Lạc, Văn Lang…) và tất cả các chi tiết khác của văn hóa Việt theo Vũ Trụ Tạo Sinh, Dịch học. Hồng Bàng cũng vậy. Như đã biết, vị thần tổ tối cao của phía người Việt Mặt Trời thái dương là thần mặt trời Viêm Đế, các Tổ Phụ Việt đều là các thần mặt trời, Hùng Vương trong ngành Nọc Việt dương thái dương là vua dòng Mặt Trời, Người Việt là Người Mặt Trời, Xích Quỉ là Người Đỏ, Người Mặt Trời (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), … như thế theo ngành Nọc Việt thái dương Mặt Trời ta phải hiểu một cách thật giản dị là lấy theo nghĩa Mặt Trời. Hồng Bàng là Họ Đỏ: Họ Mặt Trời thái dương. Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn luôn luôn có mặt trời ở tâm trống do con người thế gian làm ra nên có một khuôn mặt biểu tượng cho Họ Hồng Bàng Thế Gian. Còn lấy theo vật tổ thì như đã biết -Ở cõi trên tạo hóa, sinh tạo, chim tổ của ngành Nọc Việt mặt trời Viêm Đế có chim biểu là con chim mỏ rìu, mỏ cắt, chim Việt có mũ sừng nên Họ Hồng Bàng là Họ Chim Hồng Hoàng (xin nhắc lại tên Hán Việt của chim Rìu, Chim Việt, Chim Cắt là Hồng Hoàng). Có tác giả giải thích Hồng Bàng là họ chim Hồng và cho là con ngỗng Hồng, một loài chim nước, là chỉ nhìn theo đại tộc Lạc Long Quân, không nhìn theo toàn ngành chim Hồng Hoàng mặt trời Viêm Đế, như thế không hoàn chỉnh. -Ở cõi thế gian là những thú bốn chân có nghĩa là Việt, Họ Hồng Bàng thế gian kể từ Kì Dương Vương trở xuống là họ của các con thú Việt mặt trời biểu tượng của Kì Dương Vương là Hươu Việt, của Lạc Long Quân là Rắn Nước Việt (Cá sấu Việt, Thằn Lằn Việt), của Tổ Hùng là Sói Việt. … (sẽ nói rõ ở dưới). Như thế ở cõi thế gian gọi theo vật tổ bốn chân thì Hồng Bàng thế gian là Họ Thú Việt Mặt Trời của ba tiểu thế của cõi giữa nhân gian là Hươu Việt Đất Dương, Sấu Việt Đất Âm, vùng Nước và Sói Lang Việt Gió Dương, Bầu Trời. Trong đồ đồng Đông Sơn còn thấy một chiếc rìu thờ có khắc ba loài thú này, tôi gọi là Rìu Hồng Bàng thế gian: clip_image017 Rìu thờ Đông Sơn có ba thú biểu là Dao Long (Sấu Dao Việt thần thoại hóa), Hươu Việt và Sói Lang Việt. HÙNG VƯƠNG LỊCH SỬ. Hùng Lang sinh ra từ bọc trứng thế gian của Tổ Hùng thế gian đội lốt bọc trứng vũ trụ của Tổ Hùng Tạo hóa, một khuôn mặt của Thần Nông-Viêm Đế nhất thể. Như đã biết Tổ Hùng thế gian có ít nhất có ba khuôn mặt chính là -Khuôn mặt sinh tạo nòng nọc, âm dương Nhất Thể, Bọc Trứng Sinh Tạo thế gian. Đây là khuôn mặt sinh tạo ở cõi Tiểu Vũ Trụ đội lốt Thần Nông-Viêm Đế ở cõi tạo hóa. Hùng biến âm với Naacal Naga ngữ Hun là 1 (nhất thể), là Đấng Tạo Hóa Nhất Thể lưỡng tính phái ứng với trứng vũ trụ, trứng thế gian. clip_image019 clip_image021 Bọc Trứng Trăm Lang Hùng. -Khuôn mặt duy dương là ngành Nọc Việt thái dương mặt trời Viêm Đế tức 100 Lang Hùng sinh ra từ tròng đỏ trứng vũ trụ. Ngành này gồm hai nhánh: nọc Việt dương thái dương (Hùng Man, Hùng Kì) và nọc Việt âm thái dương (Hùng Lạc, Hùng Lang). -Khuôn mặt duy âm là nhánh Nòng Việt thái dương đại diện cho Nòng Bộc thái âm phía Thần Nông thái âm. Như thế Hùng Vương di duệ của Tổ Hùng cũng có ít nhất ba khuôn mặt chính: 1-Hùng Vương Bầu Trời sinh tạo nhân gian: nòng nọc, âm dương Nhất Thể sinh ra từ bọc trứng thế gian đội lốt Trứng Vũ Trụ Thần Nông-Viêm Đế cõi tạo hoá mang di thể (gene) Chim-Rắn nhất thể. Về chim biểu của khuôn mặt sinh tạo nòng nọc, âm dương nhất thể này, Hùng Vương lịch sử cũng có chim biểu là Cò Lang, Cò Việt, Cò Gió Lang đội lốt Cò Lang tiểu vũ trụ của Tổ Hùng. 2. Khuôn mặt Nòng Việt thái dương Đại Diện cho Ngành Nòng Bộc Thần Nông Thái Âm và cho Khuôn Mặt Nữ Âu Cơ (xem trống Đào Xá ở dưới). 3. Khuôn mặt Nọc Việt thái dương lịch sử. -Nhánh Hùng Vương Mặt Trời thái dương. Ở ngành Nọc Việt mặt trời thái dương Viêm Đế mang di thể Chim Viêm Đế có chim biểu là con cắt Lang trắng. -Nhánh Hùng Vương Không Gian Khí Gió. Theo thái âm là ngành nòng Bộc không gian thái âm Thần Nông mang di thể Rắn Thần Nông. Trên trống đồng (trống là đực) khuôn mặt Nòng Bộc thái âm Thần Nông thái âm này không có mặt, được đại diện bằng nhánh Hùng Vương nọc Việt âm thái dương và có chim biểu là con chim Nông thái dương. clip_image006 Chim nông trên trống Ngọc Lũ I trong mỏ có dấu (accent) nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > có một nghĩa thái dương. HÙNG VƯƠNG VUA MẶT TRỜI NGÀNH NỌC VIỆT THÁI DƯƠNG MẶT TRỜI VIÊM ĐẾ- ĐẾ MINH. Đại tộc Việt thuộc ngành Nọc Việt thái dương thần Mặt Trời Viêm Đế có các vua tổ thế gian là Hùng Vương. Hùng là gì? – Ở cõi trời thế gian, Tổ Hùng, như đã nói ở trên, có khuôn mặt đấng tạo hóa nhất thể, đội lốt Viêm Đế-Thần Nông nhất thể, thấy qua từ Hùng biến âm với chữ viết Naacal Đông phương Hun, có nghĩa là 1, Đấng Tạo Hóa. -Ở cõi thế gian Hùng Vương lịch sử nhánh Nọc Việt dương thái dương, mặt trời Viêm Đế thì Hùng có những nghĩa: .Hùng là Đực (hùng trĩ, thư hùng): Đực là dương, là Mặt Trời. .Hùng, hung là đỏ. Hung đỏ. Đỏ là mặt Trời. .Hùng là hồng là đỏ (hồng kỳ), Đỏ là tỏ, là mặt trời. .Hùng là mạnh. Hùng mạnh. Sức mạnh là Mặt trời. .Hùng là người đứng đầu, là số 1. Đây là lấy theo nghĩa duy dương của Hun, 1 của Naacal Đông phương. Ta thấy Hùng = hun = Mường ngữ Cun, người đứng đầu, số 1, tù trưởng của Mường Việt. ‘Cun lang bú chó, cun vó bú trâu’. Theo duy dương Số 1 là mặt Trời (Việt ngữ son, một mình, còn son, Anh ngữ solo, Pháp ngữ seul, Tây Ban Nha ngữ solamente ruột thịt với gốc sol, Pháp ngữ soleil, Đức ngữ sonn, mặt trời). .Hùng là Uighur ngữ Hun là Mặt Trời. Uighur lấy nghĩa theo duy dương của Naacal Đông phương Hun có nghĩa là Một, Đấng Tạo Hóa. Hiện nay các nhà làm văn hóa Việt Nam chỉ hiểu Hùng theo nghĩa ‘người đứng đầu, thủ lãnh, số 1’ bởi vì không nhìn dưới lăng kính Chim Rắn, Tiên Rồng nòng nọc, âm dương, Dịch học, cốt lõi của văn hóa Việt Nam. Như thế trong Đại tộc Việt thuộc ngành Nọc Việt thái dương thần Mặt Trời Viêm Đế, Hùng có nghĩa ở cõi sinh tạo là Hun, số 1, nhất thể, Đấng Sinh Tạo đội lốt Tạo Hóa và ở cõi nhân sinh lịch sử có nghĩa là Mặt Trời. CHỨNG SỬ HÙNG VƯƠNG LỊCH SỬ ĐẤNG SINH TẠO, VUA MẶT TRỜI TRONG SỬ ĐỒNG. Trống đồng của đại tộc Đông Sơn luôn luôn có mặt trời nằm trong vòng không gian tức trụ vũ, là bọc trứng thế gian sinh ra Hùng Vương, biểu tượng cho khuôn mặt sinh tạo của Hùng Vương. Theo duy dương trong ngành Nọc Việt thái dương Mặt trời thì mặt trời là biểu tượng cho Hùng Vương. Như thế trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có một khuôn mặt chính là trống biểu của Tổ Hùng sinh tạo trứng thế gian và vua Hùng Vương mặt trời thái dương (vì trống có nghĩa chính là đực, mặt trời). clip_image023 Trống Ngọc Lũ I. HAI NHÁNH HÙNG VƯƠNG CHIM RẮN, TIÊN RỒNG CỦA NGÀNH NỌC VIỆT THÁI DƯƠNG MẶT TRỜI VIÊM ĐẾ. Trống đồng có một nghĩa là đực, dương, mặt trời là trống biểu chính của ngành Nọc Việt mặt trời Viêm Đế. Ngành này chia ra làm hai nhánh: nhánh Nọc Việt dương thái dương có chim biểu là Chim sừng thái dương mỏ cắt, có hai đại tộc Hùng Man dòng Đế Minh, Hùng Kì dòng Kì Dương Vương và nhánh Nọc Việt âm thái dương có rắn biểu là Rắn sừng hay có mồng thịt âm thái dương gồm hai đại tộc Hùng Lạc dòng Lạc Long Quân và Hùng Lang dòng Tổ Hùng. Chứng sử đồng của hai đại tộc chim sừng, Chim Việt và rắn sừng, Rắn Việt này còn thấy rõ trong sử đồng Đông Sơn. . Đầu mũi thuyền trên trống Ngọc Lũ và các trống liên hệ, như đã nói ở trên, có hình chim rìu, chim mỏ sừng (hornbill), mỏ cắt cắm vào miệng rắn nước có sừng cong (cong mang âm tính, âm thái dương) : clip_image025 Đầu thuyền trên trống Ngọc Lũ I có chim rìu chim mỏ sừng, mỏ cắt cắm vào miệng rắn có sừng cong, bên trong sừng có chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que cong mang nghĩa nọc âm thái dương. .Trên trống Quảng Xương có hai nhánh người Việt mặt trời chim cắt sừng lửa và rắn dải nước có sừng : clip_image027 Trống Quảng Xương. clip_image029 Người mặt trời chim cắt mũ sừng. clip_image031 Người mặt trời rắn dải có sừng, có mồng. BỐN ĐẠI TỘC NGƯỜI VIỆT MẶT TRỜI THÁI DƯƠNG DÒNG HÙNG VƯƠNG MẶT TRỜI ỨNG VỚI TỨ TƯỢNG NGÀNH NỌC VIỆT THÁI DƯƠNG VIÊM ĐẾ. Như vừa nói ở trên ngành người Việt mặt trời thái dương con cháu Tổ Hùng, Hùng Vương ngành Nọc Việt mặt trời thái dương gồm có 4 đại tộc Hùng Man, Hùng Kì, Hùng Lạc, Hùng Lang ứng với tứ tượng dương thái dương. Thổ dân Mỹ châu cũng có quan niệm là chủng người tiểu vũ trụ, ngành mặt trời gồm có Tứ Dân (Four People). clip_image033 Quan niệm vũ trụ sinh ra Bốn Đại Tộc Người của Thổ dân Mỹ châu. Chứng sử Bốn Đại Tộc, Tứ Dân này còn thấy khắc ghi rõ trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Trên một trống đồng Điền Việt thấy qua tế vụ bốn tộc người chim mặt trời Việt bay quanh mặt trời trên trục thế giới giống như tế vụ Bay Quanh Trụ Palo volador của người Maya ở Mễ và Guatemala còn thấy hiện nay. clip_image034 Tế vụ Người Chim Mặt trời Việt bay quay trục mặt trời trên một trống Điền Việt và tế vụ Bay Quanh Trụ Palo volador của Maya ở Mễ và Guatemala hiện nay. NHÁNH NỌC VIỆT THÁI DƯƠNG. Nhánh Nọc Việt thái dương gồm hai chi: chi Nọc Việt dương thái dương có Hùng Man Đế Minh, Hùng Kì Kì Dương Vương và chi Nọc Việt âm thái dương có Hùng Lạc Lạc Long Quân và Hùng Lang Tổ Hùng. Chi Nọc Việt Dương Thái Dương. Đại Tộc Hùng Man. Như đã nói ở trên, Hùng Man dòng Đế Minh. Man, Mán, Mường là Người là Ngời là Sáng, là Minh. Đại tộc Hùng Man là Man Việt với Việt viết với bộ kim 鉞 (thấy từ đời nhà Chu). Kim là vật kim loại nhọn như vũ khí kim loại nhọn, là nọc lửa như tia ánh sáng minh. Trên đầu chữ kim có chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ^ có nghĩa là nọc, dương, lửa mặt trời, lửa thái dương sinh động ứng với Đế Minh. Về ngôn ngữ học: ở đây trống biến âm với chông (cọc, nọc nhọn). Nọc, cọc nhọn có một nghĩa là lửa, mặt trời. Chứng Sử Đồng Đông Sơn. -Về hình dạng Trong sử đồng Đông Sơn, về hình dạng, Man Việt Hùng Man có trống biểu là Trống LỬA hình Trụ Ống Nguyễn Xuân Quang II ứng với lửa thái dương Càn Đế Minh. Ví dụ một trống Lào hình trụ ống: clip_image036 Trống trụ ống Lào. Thân trống có nhiều vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là nọc, dương, lửa, mặt trời, thái dương sinh động, ăn khớp với trống Lửa hình trụ ống và những vành giới hạn nọc chấm lửa nguyên tạo ứng với Càn. Trống hình trụ ống Nguyễn Xuân Quang II với các vành dương, lửa thái dương này là trống biểu của Hùng Man dòng Đế Minh. -Về nội dung Trống Đông Sơn IV là trống biểu của Hùng Man dòng Đế Minh. clip_image038 Trống Đông Sơn IV. Trống có mặt trời 8 nọc tia sáng mũi mác. Số 8 là số Khôn tầng 2 (0, 8) thế gian. Khôn hôn phối với Càn ứng với Vụ Tiên Khôn hôn phối với Đế Minh Càn. Trống có bốn con cò Lửa bay chim biểu của Càn Đế Minh (xem dưới). Ngoài biên có hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là nọc, dương, lửa, mặt trời, thái dương sinh động. Như thế trống Đông Sơn IV là trống biểu Lửa thái dương Càn của Đế Minh, của đại tộc Hùng Man. -Về vật biểu. Về vật biểu, với tước vị Đế mang tính sinh tạo nên có vật biểu chủ yếu là một loài chim. -Nhìn theo dòng Viêm Đế thì Đế Minh có chim biểu là chim rìu, chim Việt, chim cắt lửa thái dương. Trên thân trống Lào đã nói ở trên, ở dưới có con chim cắt đứng giống như chim cắt đứng trên trống Duy Tiên. clip_image040 Hình chim cắt đứng trên một trống Lào. Nhìn dưới diện tượng Lửa thế gian thì chim cắt đứng này là khuôn mặt tượng lửa cõi tứ tượng của Hùng Man, Đế Minh. Phía trên thân trống có hươu sừng, thú biểu của Hùng Kì, Kì Việt Kì Dương Vương. Chim Cắt- Hươu nhìn chung là vật biểu của nhánh Nọc Việt dương thái dương Hùng Man (Đế Minh) và Hùng Kì (Kì Dương Vương). Tóm lại trống này là trống biểu của Hùng Man, Man Việt dòng Đế Minh và cũng là trống biểu của nhánh Nọc Việt dương thái dương Hùng Man-Hùng Kì. -Nhìn theo vật tổ của Tổ Hùng Vương ở cõi sinh tạo. Như đã biết Tổ Hùng sinh tạo có chim biểu là Cò Lang. Cò Lang cũng có bốn đại tộc ứng với tứ tượng. Ở đại tộc Hùng Man này là con Cò Lửa. Chứng sử đồng Đông Sơn là con cò lửa thấy trên trống Đông Sơn IV: clip_image042 Cò không có bờm, mỏ nhọn và cổ có hình nõ, cọc, bộ phận sinh dục nam trong có chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que có một nghĩa là lửa, thái dương, mặt trời… Đây là con cò Lửa thái dương, chim biểu của Càn Đế Minh. -Nhìn theo tượng lửa cõi đất nhân sinh là con chim Lửa, Trĩ Việt. Chim trĩ vốn thuộc họ nhà gà sống nhiều trên mặt đất. clip_image044 Chứng sử đồng còn thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là con chim trĩ trên nóc một căn nhà nọc mặt trời trên trống Ngọc Lũ I: clip_image046 Chim trĩ trên nóc nhà nọc mặt trời trên trống Ngọc Lũ I. Lưu ý trong nhà có hai người đang cung nghinh, tôn vinh mặt trời, ‘cầu trời’ và nhà có để hai trống ở hai bên nhà. Hai trống là hai đực, hai dương, thái dương. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời, con trĩ là trĩ lửa thái dương, trĩ Việt, chim biểu của Hùng Man, Đế Minh. -Về dân tộc học. Man, Mán, Mường là Người là Ngời, là Sáng, là Ánh Sáng dòng Ánh sáng Mặt Trời Đế Minh. Trên trống Ngọc Lũ I có hai nhóm người nhẩy múa. Trừ người thứ 7 trong nhóm 7 người nhẩy múa có trang phục đầu hình bầu nậm diễn tả người tiểu vũ trụ sinh ra từ bầu vũ trụ, còn lại 6 người trong mỗi nhóm có trang phục đầu hình chim có góc cạnh mang dương tính giống nhau cho thấy họ cùng một ngành người (Việt) mặt trời dương thái dương hóa trang chimthuộc chủng người tiểu vũ trụ. clip_image048 Nhóm 7 người nhẩy múa trên trống Ngọc Lũ I. Đầu chim phía trước có nọc cao cường điệu diễn tả sừng thái dương. Đây là con chim Cắt Mũ Sừng Lớn (Great Hornbill) chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế và cũng là của Đế Minh, cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế. Như thế những người này là những người Việt mặt trời ngành Viêm Đế-Đế Minh. Ta cũng thấy tay trái cầm dùi nọc thẳng biểu tượng cho nọc lửa thái dương Đế Minh và tay trái cầm phách hay lệnh để ở tư thế hình núi tháp nhọn ^ có một khuôn mặt biểu tượng cho Hùng Kì Kì Dương Vương Đất lửa Li. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời Đế Minh, những người này thuộc nhánh Nọc Việt dương thái dương Hùng Man-Hùng Kì. Trống Ngọc Lũ I là trống biểu nhánh Nọc Việt dương thái dương Hùng Man-Hùng Kì của ngành Nọc Việt thái dương. Đại Tộc Hùng Kì Đại tộc Hùng Kì là Kì Việt với Việt viết với bộ tẩu clip_image050 như thấy trong tên Việt Nam. Việt bộ tẩu diễn tả nọc nhọn rìu (Việt) biết chậy là con Cọc, con Sừng, Con Hươu Việt (tôi đã nói rõ trong bài nói chuyện Việt Là Gì?). Việt viết với bộ tầu là Kì Việt, Hùng Kì. Về ngôn ngữ học: ở đây trống biến âm với chống (cọc chống đỡ). Cọc chống, trụ chống có một khuôn mặt là Núi Trụ Chống Trời biểu tượng cho Đất dương Li ứng với Kì Dương Vương. Việt ngữ nổng là núi hình nọc trụ chống. Nổng biến âm với nống (nâng, chống người nào lên như cứ nống nó lên). Nam Dương ngữ gunung, núi, nổng chính là Việt ngữ gò nổng. Chống, núi trụ chống trời ứng với Đế (với nghĩa vật chống như đế hoa) của Viêm Đế. -Kì Dương hiểu theo Kì là trụ và Dương là mặt thời là Vua Mặt Trời Trên Trục Thế Giới, thiên đỉnh (zenith), chính ngọ. -Kì Dương hiểu theo Kì là Cọc, con Cọc (Hươu) và Dương là đực thì là Vua Cọc Đực, Vua Hươu Nọc, Hươu Sừng, Mang gạc, Hươu Sủa đực có nhũ danh là Lộc Tục (Hươu Đực), Hươu Việt. -Kì Dương Vương hiểu theo Kì là Cọc, con Hươu Cọc và Dương là mặt trời thì Kì Dương Vương là Vua Hươu Mặt Trời. Chứng Sử Đồng Đông Sơn. -Về hình dạng Trong sử đồng Đông Sơn, về hình dạng, Kì Việt, Hùng Kì có trống biểu là Trống Đất Dương hình núi tháp cụt tròn xoay Nguyễn Xuân Quang V (Heger II) ứng với lửa Đất thiếu dương Li Kì Dương Vương . Ví dụ trống Tân Long: clip_image052 Trống Tân Long, Hòa Bình có thân choãi rộng ra hình núi tháp trụ tròn xoay cụt đầu. Thân trống choãi ra nên có hình núi tháp tròn xoay cụt đầu. Đây là lý do tại sao các nhà khảo cổ Việt Nam tìm thấy loại trống này nhiều nhất ở vùng cao, vùng núi. -Về nội dung Trống Phú Xuyên là trống biểu của Hùng Kì, Kì Việt dòng Kì Dương Vương. clip_image054 Trống Phú Xuyên. Trống có mặt trời 14 nọc tia sáng mũi mác. Số 14 là số Tốn âm thái dương tầng 2 (6, 14) thế gian. Đây là trống thái dương như trống Ngọc Lũ I, trống biểu của nhánh Nọc Việt dương thái dương Hùng Man-Hùng Kì. Vì là trống thế gian nên khuôn mặt Hùng Kì, Kì Dương Vương mang tính chủ. Trống có bốn con cò Đất thái dương bay, chim biểu của Kì Dương Vương, Hùng Kì (xem dưới). Ngoài biên có hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là nọc, dương, lửa, mặt trời, thái dương sinh động. Như thế trống Phú Xuyên là trống biểu Đất thiếu dương Li của của đại tộc Hùng Kì, Kì Dương Vương (xem Trống Kì Việt Phú Xuyên). -Về vật biểu. .Thú biểu Hươu Sừng, Hươu Việt. Về vật biểu, Kì Dương Vương là con người đầu tiên trên thế gian, vua tổ đất của Việt Xích Quỷ có cốt là con Hươu Sừng, con Kì, con Kẻ. Vì thế Việt ngữ Kẻ chỉ người, nơi ở như Kẻ Sặt. Kẻ hiểu theo nguồn cội là người tộc núi, con dân của Hùng, Kì, Kì Dương Vương. Điểm này thấy rõ là Mường Việt là tộc ở trên núi nên thờ bà Ngu Cơ qua hình bóng con nai sao, dòng Hươu Cọc Kì Dương Vương nhiều hơn thờ Lạc Long Quân qua hình bóng con cá chép. clip_image056 Thú biểu nai sao của Ngu Cơ Mường Việt. Truyền thuyết Kì Dương Vương ăn khớp với truyền thuyết Đông Á, theo James Churchward, con người đầu tiên trên mặt đất là con Hươu Keh. clip_image058 Hươu sừng keh tiền thân của con người đầu tiên của nhân loại (James Churchward). Keh chính là Việt ngữ Kẻ, Kì ruột thịt với Ai Cập cổ ngữ Keb hay Geb, Thần Đất dương. Hươu Keh chính là Hươu Kè, Hươu Kẻ, Hươu Đực Lộc Tục, Hươu Sừng, Hươu Mặt Trời thượng đỉnh, Hươu Việt. Hươu Sừng gọi theo Việt ngữ là mang gạc (mang, mễn là hươu), Anh ngữ munjac chính là Việt ngữ mang gạc. Mã ngữ là kijang chính là Việt ngữ Kì Dương (con Cọc Đực, Lộc Tục). Munjac trong thiên nhiên còn gọi là con hươu sủa (barking deer) bởi vì về mùa nhẩy cái, hươu đực này phát ra tiếng gọi con cái như tiếng chó sủa. Gần đây tại Việt Nam mới tìm lại được loài hươu sủa mang gạc này ở Vụ Quang và được cho là ‘mỏ vàng sinh học’ ở Việt Nam. clip_image060 Hai con thú hai bên là mang gạc, hươu sủa Việt Nam. Như thế chúng ta đã tìm lại được thú tổ thế gian mang gạc Kì Dương Vương của Việt Nam. Tiếc rằng các nhà làm văn hóa ở Việt Nam không phát huy, phổ biến, truyền bá rộng rãi vật tổ Việt này cho dân Việt Nam và thế giới biết. Loài hươu này được chọn làm thú biểu cho Đất lửa dương Li vì sừng không có mấu hay sừng chỉ có hai mấu nhọn. Hai sừng là hai nọc có một nghĩa là lửa đất (hai que nọc dùi ra lửa). clip_image062 Sọ mang gạc có sừng không có mấu nhọn và có răng nanh lòi ra ngoài miệng. Mang gạc có một điểm đặc thù nữa là có hai răng nanh nhọn lòi ra như lợn lòi. Hai răng nanh nhọn lòi ra này xác thực mang gạc là con thú chủ (host) của linh thú Nghê mà Hán Việt gọi là Kì (lân). Xin nhắc lại con đực gọi là Kì. Như đã biết, Kì biến âm với kè, kèo, kẻ là nọc, đực. Theo biến âm ng = k như nghẹt = kẹt, ta có nghê = kì. Con thú cái gọi là Lân. Lân là dạng dương của nân, nang (túi, bao). Nang biến âm với nàng, nường (con gái). Chúng ta múa lân là theo dòng con cái nghĩa là có cốt là con nai không có sừng. Người Trung Quốc lầm gọi chung là qilin, kì lân. Ngay con đực họ cũng gọi là kì lân là sai. clip_image064 Con Nghê hay con Kì. Thân con Nghê, con Kì nhỏ như con chó, có sừng hai mấu và hai răng nanh lòi ra ngoài miệng giống con mang gạc, hươu sủa Kì Dương. Linh thú Nghê gốc là linh thú biểu của Kì Dương Vương Việt Nam. Chứng sử Vật Tổ Hùng Kì, Kì Việt trong sử đồng Đông Sơn. Trên trống Phú Xuyên có bốn con mang gạc hươu sủa: clip_image066 Mang gạc hươu sủa trên trống Phú Xuyên đang há miệng sủa. Hươu trông như con chó, con chồn có sừng hai mấu nhọn, đang há miệng sủa. Trên một trống Sangeang, Nam Dương có hình mang gạc: clip_image068 Mang gạc hươu sủa trên một trống Sangeang. Như đã biết, trên một chiếc rìu thờ Hồng Bàng thế gian của đại tộc Đông Sơn có hình mang gạc đi cùng với hình giao long và sói lang. clip_image070 Thú biểu bò. Ngoài ra con bò là thú bốn chân có sừng sống trên đất cạn tương đương với hươu nên cũng có tộc dùng làm thú biểu cho Đất dương thế gian như con bò Nandi của Ấn giáo. Bò biến âm với bổ (búa), sừng, qua từ đôi báng bổ, ta có báng = bổ. Bị trâu bò húc bằng sừng gọi là bị báng (bị trâu báng, bò báng). Bò = bổ = báng (sừng). Anh ngữ cow (bò cái) trong nhiều ngôn ngữ cũng phát xuất từ một gốc có nghĩa ‘sừng, có sừng, (Cow words sometimes are from roots meaning ‘horn, horned’) ví dụ như ngôn ngữ Lithuania karve, Cổ ngữ Church Slavic Krava, bò. Ta thấy rất rõ, theo k = g như kài = gài, ta có kar-, k®av- = gạc (sừng). Trong sử đồng, hình bò thấy ở thân các trống Đồi Ro, Làng Vạc I… clip_image072 Trống Đồi Ro. Nhưng bò thấy nhiều nhất trong đồ Đồng Điền. clip_image074 Tượng bò trên một trụ thờ trục vũ trụ Điền Việt làm bằng hai chiếc trống đồng. -Về chim biểu: .Nhìn theo dòng Viêm Đế, Đế Minh, Hùng Kì có chim biểu là chim rìu, chim Việt, chim cắt Đất như đã nói ở trên. .Nhìn theo chim tổ của Tổ Hùng Vương ở cõi sinh tạo. Như đã biết Tổ Hùng sinh tạo có chim biểu là Cò Lang. Cò Lang cũng có bốn đại tộc ứng với tứ tượng. Ở đại tộc Hùng Kì này là con cò Đất ngành nọc thái dương. Chứng sử đồng Đông Sơn là con cò Đất ngành nọc thái dương lửa thấy trên trống Phú Xuyên này. clip_image076 Cò Đất trên trống Phú Xuyên. Cò có bờm hình núi tháp nhọn đỉnh và thân-đuôi cũng hình núi tháp nhưng đặc điểm nhất là giữa cánh có chữ nòng nọc vòng tròn-que hình tam giác có một nghĩa là núi tháp nhọn Đất dương. Đây là con cò Đất dương chim biểu của Hùng Kì, Kì Việt dòng Kì Dương Vương. -Về dân tộc học. Trên trống Thành Vân có những người chim mặt trời có mắt mặt trời, đầu có cặp sừng cong, trong có bỏ dấu chấm nọc mang dương tính, diễn tả người mặt trời đại tộc Hùng Kì, Kì Việt. clip_image078 Người chim mặt trời Việt thuộc đại tộc Hùng Kì Hươu có mắt là chữ nòng nọc vòng tròn-que hình chấm-vòng tròn có một nghĩa là mặt trời và đầu có hai sừng có bỏ dấu chấm nọc mang dương tính trên trống Thành Vân. Trên thạp đồng Việt Khê có người hươu có thân hươu đầu người. clip_image080 Thạp Việt Khê (Charles Higham fig. 4.22). Chi Nọc Việt Âm Thái Dương. Đại Tộc Hùng Lạc. Đại tộc Hùng Lạc là Lạc Việt với Việt viết với bộ mễ 粤 (làm ruộng lúa nước, Lạc điền). Lạc là dạng dương của Nác, Nước. Lạc là nước lửa, lửa nước, nước dương, nước thái dương ứng với Lạc Long Quân. Về ngôn ngữ học: ở đây trống biến âm với tròng, lòng, dòng (nước). Chứng Sử Đồng Đông Sơn. -Về hình dạng Trong sử đồng Đông Sơn, về hình dạng, Lạc Việt Hùng Lạc có trống biểu là Trống NƯỚC hình âu hay bát Nguyễn Xuân Quang IV (Heger IV) mang nghĩa nước ngành thái dương Chấn Lạc Long Quân. Trống hầu như không có trụ trống, trông lùn tịt nên gọi là trống trệt. Trống loại này có rất nhiều ở Nam Trung Quốc, nhất là ở tộc Lạc Việt Tráng Zhuang, Quảng Tây nên Heger gọi loại này là trống trệt Nam Trung Quốc. clip_image082clip_image084 Trống trệt Nam Trung Quốc hình cái âu, cái bát. -Về nội dung Như đã biết Lạc Long Quân có nhiều khuôn mặt: .Thần tổ của đại tộc Hùng Lạc, Lạc Việt lịch sử. .Sinh Tạo đội lốt Tạo Hóa phía nòng âm Thần Nông là sấm mưa như đã nói ở trên. .Khuôn mặt đại diện cho Nòng Việt âm thái dương Âu Cơ (xem dưới). .Khuôn mặt đại diện cho ngành Nòng Bộc Thần Nông thái âm (xem dưới). Khuôn mặt Thần Tổ của Hùng Lạc, Lạc Việt. Lạc Việt lại chia ra làm những chi sống dưới nước gọi là long nhân, long hộ và những tộc sống ở vùng đất âm bên bờ nước, đầm, ao, sông làm ruộng nước, Lạc điền. 1. Lạc Việt Rắn long nhân, long hộ sống dưới nước (vạn chài, thuyền nhân). Những tộc này có tộc biểu là con Rắn Nước. Vì là ở ngành Nọc Việt thái dương nên con rắn này mang dương tính có sừng, có mồng thịt, rắn biểu của mặt trời Nước Lạc Long Quân. Ví dụ như đã nói ở trên, đầu thuyền Rắn Nước có sừng cong trên trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ và người tộc Rắn dải Nước có sừng trần truồng trên trống Quảng Xương clip_image085 Người Nước: long nhân, long hộ rắn dải nước có sừng trên trống Quảng Xương. Trên trống rất muộn Nam Ngãi II, người chim tộc Nước đã thể điệu hóa tối đa thành hình chữ nòng nọc vòng tròn-que móc nước dương. clip_image087 Trống Nam Ngãi II. 2. Đại Tộc Hùng Lạc, Lạc Việt: Tộc Sấu Dao Việt. Đây là tộc sống ở vùng đất âm có nước như đầm lầy, sông rạch là ruộng nước, Lạc điền. Những tộc này có vật tổ là con cá sấu mang dương tính nọc, Việt tức Sấu Việt. Cá sấu Việt loại này có mõm dài nhọn như dao (một thứ vật nhọn, việt) gọi là sấu dao (gavial, Tomistoma Schlegelii). clip_image089 Sấu mõm dao. hay loài con đực có sừng thịt (ghar) ở đầu mõm gọi là gharial. Ta thấy ghar = gạc. clip_image091 Sấu đực mõm sừng thịt gharial. Hình cá sấu mõm sừng thịt gharial thấy trên thạp Đào Thịnh. clip_image093 Thuyền sấu mõm sừng thịt trên thạp Đào Thịnh. Sấu mõm dao thấy trên trống Hoà Bình: clip_image095 clip_image096 Sấu Dao, Sấu việt trên trống Hòa Bình. Bốn con thú bốn chân trên trống Hòa Bình trông giống thằn lằn có con mắt âm hai vòng tròn đồng tâm. Hai vòng tròn là hai nòng âm OO, thái âm có một nghĩa là nước. Đuôi con vật cũng có hình sóng cuộn. Con thằn lằn này sống được dưới nước là con cá sấu. Con cá sấu này có mõm nhọn như dao là con cá sấu dao, sấu Việt. Trống Hòa Bình là trống biểu của tộc Lạc Việt Sấu Dao, Sấu Việt. Muộn về sau, cá sấu dao thần thoại hóa thành rồng cá sấu dao gọi là Dao Long (thường viết là Giao Long, tôi viết là Dao để nhớ con Dao Long có cốt là con cá sấu mõm Dao). clip_image098 clip_image100 Những tộc có tộc biểu là Dao Long là Dao Việt. 3. Đại Tộc Hùng Lạc: Tộc Thằn Lằn Rồng Đất. Những tộc ở bên bờ nước như sông suối nhưng không có cá sấu có thể lấy con thằn lằn mang âm tính nước làm vật tổ. Rồng đất thằn lằn cũng có nhiều loại như thấy qua bài đồng dao hát vòng quanh: Kỳ nhông là ông kỳ đà, Kỳ đà là cha cắc ké, Cắc ké là mẹ kỳ nhông… Các loài thằn lằn này gọi là Kỳ có nghĩa là Ki, Cây, Cọc mang dương tính của ngành Nọc ứng với Việt. Kỳ Nhông là con thằn lằn Cọc Nông (với h câm, ta có nhông = nông, có một nghĩa là khí gió như thấy qua tên Thần Nông). Kỳ Nhông là con thằn lằn Gió dương. Kỳ Đà có Đà có một nghĩa là nước như thấy qua các từ Đà Nẵng, Sông Đà, Đà Lạt, Đắc Lắc có gốc đác là nác là nước. Theo bài đồng dao này, Kỳ Đà mang nghĩa là con thằn lằn Nước dương (trong thực tế ngày nay người Việt gọi chung kỳ đà là loài thằn lằn rồng đất lớn). Cắc Ké có Cắc biến âm của cặc, cược, cọc và ké biến âm của kè (cây kè), kẻ (thước), qué (gà qué), que. Cắc Ké là con Cọc Que, con trụ nọc mang nghĩa biểu tượng cho Đất dương (lưu ý vì cắc ké có nghĩa cọc, que liên quan tới bộ phận sinh dục nam nên mới dùng như một tiếng chửi rủa: đồ cắc ké). Bài hát biểu tượng cho ba tiểu thế thế gian có kỳ nhông là cõi Trời (Gió), kỳ đà biểu tượng cho cõi nước và cắc ké biểu tượng cho cõi đất của ngành nọc Kỳ thái dương. Ở đây Kỳ Đà với nghĩa thằn lằn nước thích hợp với tộc Hùng Lạc, Lạc Việt. Vì vậy tôi dùng từ thằn lằn kỳ đà nước cho thú biểu thằn lằn của Hùng Lạc, Lạc Việt. Thằn lằn là vật tổ của các tộc thuộc nhánh nọc Việt âm thái dương thấy ở tộc Ao-Naga (Âu Long, Âu Lạc) ở vùng cực tây địa khối Vân Nam. Ngoài vật tổ chim cắt rắn nước, họ còn có tộc thờ thằn lằn. clip_image102 Vật tổ của người Ao-Naga: rắn nước mang dương tính (hình sóng nước nhọn đầu), hai con rắn tạo hóa, sinh tạo nòng nọc, âm dương cuộn tròn, thằn lằn (có loại thần thánh hóa trông như rồng đất, khủng long) và chim mỏ rìu (dưới dạng cây rìu). Chứng sử thằn lằn trong sử đồng Đông Sơn thấy ở Lào: trên trống đồng U Bông hay Nen-xỏng ở Lào có hình thằn lằn. Đảo Komodo, Nam Dương có loài thằn lằn khổng lồ có thể sống dưới nước (được cho là có nguồn gốc từ Úc bơi tới) gọi là Rồng komodo. Đây chính là loài kỳ đà nước khổng lồ nên được gọi là Rồng Komodo. clip_image104 Rồng Komodo ở đảo Komodo, Nam Dương. Rồng Komodo được dùng làm vật tổ tương đương với cá sấu thấy ở trống Sangeang Malakamau, Nam Dương. clip_image002[4] Nhà Nọc có hình thằn lằn khổng lồ dragon Komodo ở chái nhà bên trái trên trống Sangeang Malakamau. Ta thấy rắn nước Việt thần thoại hóa thành Rồng Rắn nước Việt, cá sấu Việt thành Rồng Sấu dao Dao Long, Dao Việt, thằn lằn Kỳ Đà Việt thành Rồng Kỳ Đà Việt… Chúng ta có Rồng Việt khác rồng Trung Quốc (có dịp tôi sẽ nói về đề tài này). .Khuôn Mặt Sinh Tạo Đội Lốt Tạo Hóa Phía Nòng Âm Thần Nông. Đây là khuôn mặt sấm mưa đã nói ở trên. -Về vật biểu. .Thú biểu Về vật biểu, Hùng Lạc lịch sử thế gian nên có khuôn mặt vật tổ chính là con thú bốn chân sống trên mặt đất. Như đã thấy ở trên là loài bò sát sống được dưới nước hay liên hệ tới nước (như có mầu đen) mang dương tính nọc Việt (như mõm dao nhọn, có sừng…) như rắn có sừng, có mồng, cá sấu dao, cá sấu mõm sừng gharial, thằn lằn kỳ đà… Về chim biểu: Chim biểu của Hùng Lạc, Lạc Việt phải là một loài chim nước chân có màng có mang dương tính Việt. .Ở cõi sinh tạo thế gian là con chim nông mang dương tính tức bổ nông đội lốt chim bồ nông ở cõi tạo hóa. .Nhìn theo dòng Viêm Đế, Đế Minh, Hùng Lạc có chim biểu là chim rìu Lạc Việt, chim cắt Nước mầu đen như đã nói ở trên. .Nhìn theo chim tổ của Tổ Hùng Vương ở cõi sinh tạo. Như đã biết Tổ Hùng sinh tạo có chim biểu là Cò Lang. Cò Lang cũng có bốn đại tộc ứng với tứ tượng. Ở đại tộc Hùng Lạc này là con cò Nước, cò Lạc. Chứng sử đồng Đông Sơn là con cò Nước ngành nọc thái dương lửa thấy trên trống Hữu Chung. clip_image109 Cò có bờm như mũ che mưa. Trên cánh có hình sóng nước nhọn đỉnh mang dương tính là sóng nước dương. Đây là con cò Nước, Cò Lạc chim biểu của Hùng Lạc, Lạc Long Quân. .Ở ngành nọc Việt âm thái dương là một loài chim nước mang dương tính Việt như thuộc loài ngỗng ngan, vịt trời Việt. Như đã nói ở trên, trên trống Shan có hình chim nước được cho là loài vịt. -Về dân tộc học. Trên trống Nam Ngãi II như đã nói ở trên có những người chim thể điệu hóa tối đa thành những hình móc xoáy nước diễn tả người mặt trời đại tộc Nước Hùng Lạc, Lạc Việt. Đại Tộc Hùng Lang Đại tộc Hùng Lang là Lang Việt với chữ Việt hình rìu cong. clip_image111 Chữ Việt trên giáp cốt văn hình rìu Việt có mặt trời vòng tròn tạo hóa, sinh tạo. Chữ Việt cổ rìu tròn trong giáp cốt văn, theo duy dương (vì là vật nhọn), vòng tròn biểu tượng mặt trời, tạo hóa, sinh tạo. Rìu Việt vòng tròn biểu tượng của Tổ Hùng Tạo Hóa thượng thế và Tổ Hùng Sinh Tạo thế gian. Rìu Việt nhà Thương hình câu liêm tức vòng tròn mở ra. clip_image113 Chữ Việt đời nhà Thương hình câu liêm. Vòng tròn mở ra là dạng vòng tròn kín chuyển động mang dương tính. Rìu câu liêm là biểu tượng của Tổ Hùng, Hùng Vương ngành nọc Việt mặt trời thái dương. Về ngôn ngữ học: ở đây, trống biến âm với không. Trống không. Không có một nghĩa là không khí, gió. Như đã biết Lang có nhiều nghĩa: -Ở cõi tạo hóa và sinh tạo thế gian Tổ Hùng có khuôn mặt là đấng tạo hóa, sinh tạo Trứng vũ trụ, trứng thế gian thì Lang là dạng dương của Nang (trứng). -Ở ngành Nọc Việt thái dương thì Lang là con trai, đực, dương, mặt trời trai trẻ, vua mặt trời mới mọc rạng ngời. Ở đây, Lang là lạng, lạn là sáng (sáng lạn), mầu của mặt trời. -Ở ngành Nọc Việt âm thái dương Lang là Nang (bọc túi) có khuôn mặt là bầu vũ trụ, bầu không gian, khí gió. Ở đây Lang có nghĩa là trắng, trong (trong trắng), mầu khí gió. Chứng Sử Đồng Đông Sơn. -Về hình dạng. Trong sử đồng Đông Sơn, về hình dạng, Lang Việt, Hùng Lang có trống biểu là Trống Gió Dương hình lọng vòm trời Nguyễn Xuân Quang III (Heger III) ứng với Gió Dương thiếu âm Đoài vũ trụ, Tổ Hùng, Hùng Vương thái tổ có bản thể Khí, Gió. Ví dụ trống: clip_image115 Trống Lương Sơn, Kim Bôi. clip_image002[6] Trống Karen. Trống có trụ trống và đế trống thẳng đứng như trụ lọng và phần bầu trống ứng với tán lọng hình vòm trời thường có tua gió. Lưu ý. .Lọng nhất là lọng thờ có nhiều loại có hình dạng mang nghĩa biểu tượng theo nòng nọc, âm dương. Lọng đĩa tròn đỏ biểu tượng mặt trời. Lọng có tán hình vòm trời có tua biểu tượng không gian gió. . Xin nhắc lại tộc Karen làm hầu hết loại trống này dùng làm trống biểu của họ. Karen nói tiếng Tầy Thái thuộc nhánh Nọc Việt âm thái dương. Karen là tộc dương của ngành nòng âm là thiếu âm, khí gió vì vậy họ lấy loại trống Gió này làm trống tộc biểu. -Về nội dung. Hùng Vương có liên bang Văn Lang gồm rất nhiều tộc vì thế có rất nhiều trống Gió, có nhiều loại cò Gió (cò sẽ nói ở phần chim biểu ở dưới). Hãy lấy một hai ví dụ: -Trống Quảng Xương. Như đã biết, trống Quảng Xương là trống Hùng Vương sinh tạo thế gian đội lốt Tổ Hùng Tạo Hóa. Trống có mặt trời 8 nọc tia sáng. Số 8 là số Khôn tầng 2 (0, 8). Như thế mặt trời là mặt trời Càn nằm trong không gian Khôn. Trống là trống càn-khôn. Mặt trời-không gian càn khôn là bọc trứng vũ trụ. Trống Quảng Xương là trống biểu của Tổ Hùng Trứng Thế Gian sinh ra 100 Lang Hùng Mặt Trời. Trên mặt trống diễn tả hai nhánh 50 Lang Hùng: nhánh Lửa Người Việt Mặt Trời Chim Cắt và nhánh Nước Người Việt Mặt Trời Rắn Dải của 100 Lang Hùng. -Trống Việt Khê. clip_image119 Trống Việt Khê. Trống có mặt trời 8 nọc tia sáng mũi mác giống như trống Quảng Xương. Như vừa mới nói ở trên, trống Quảng Xương có cảnh sinh hoạt nhân sinh là trống thế gian đích thực. Ở trống Việt Khê này không có cảnh sinh hoạt nhân sinh và thú bốn chân thì không thật sự là trống thế gian mặc dù có mặt trời 8 nọc tia sáng như trống Quảng Xương. Trống chỉ có một vành bốn con cò bay nghĩa là trống mang tính trống vũ trụ. Tại sao? Như đã nói ở trên, vì trống có một nghĩa là đực dương mang tính chủ nên trên trống đồng chính thống không có loại mặt trời đĩa tròn có số 0 ánh sáng tức số Khôn tầng 1 tạo hóa (loại mặt trời đĩa tròn 0 ánh sáng này thường diễn tả mặt trời nữ thái dương có thể thấy trên cồng, một khuôn mặt âm của trống hay trên gương đồng, biểu tượng chính cho phía âm nữ). Vì vậy trên trống đồng mặt trời có số Khôn 8 nọc tia sáng đôi khi đại diện cho mặt trời có số Khôn 0 như thấy ở trống Việt Khê này. Vì thế trống Việt Khê có khuôn mặt là trống vũ trụ mặc dù có mặt trời 8 nọc ánh sáng. Vì vậy trên mặt trống Việt Khê không có cảnh sinh hoạh nhân sinh và thú bốn chân mà chỉ có vành cò bay chủ yếu là vậy. Đây là bốn con cò Gió bay, chim biểu của Hùng Vương (xem dưới). Quanh mặt trời và ngoài biên chỉ có một vành trống không lớn diễn tả không gian, trong có bỏ dấu (accent) chữ nòng nọc vòng tròn-que chấm nọc nhỏ mang dương tính, lửa, thái dương nguyên tạo. Như thế hai vành trống không diễn tả không gian này mang tính dương, thái dương tức là Khôn dương Khí Gió. Ở dưới chân trống có con chim ngửa cổ lên trời hót mang hình bóng con chim tu hú, chim biểu tượng cho Gió. Như thế trống Việt Khê có khuôn mặt là trống vũ trụ, trống Gió Dương, Đoài vũ trụ mang tính sinh tạo, tạo hóa của một tộc Hùng Lang Gió. -Về vật biểu. .Thú biểu Sói Lang Việt. Về vật biểu, Hùng Vương lịch sử, thế gian nên khuôn mặt vật tổ chính là con thú bốn chân sống trên mặt đất. Con thú này theo nguyên tắc tên phải có nghĩa là nọc, Việt, mặt trời và tên phải là Lang. Đó là con thiên cẩu Sói Lang, Lang Việt. Ta thấy rất rõ Hùng Vương thứ nhất có hiệu là Lân Lang, Sói Lang Sáng Ngời (lân là lửa sáng như ma trơi, như lân tinh). Chứng tích vật tổ Sói Lang Việt còn thấy nhiều trong văn hóa, lịch sử Bách Việt. Ví dụ .Người Mường có câu ‘Cun lang bú chó, cun vó bú trâu’ xác thực Lang có một nghĩa là chó sói Lang và sói Lang là một vật tổ, vật biểu của tộc Mường [trong khi Cun vó là Cun loài bốn chân có móng như ngựa (vó ngựa) trâu, bò thì bú trâu]. .Tại vùng quê Việt Nam nhất là ở Huế trước đây có tục múa thiên cẩu (chó trời ám chỉ chó sói Lang với khuôn mặt tạo hóa, bầu trời) . clip_image121 Múa thiên cẩu (tranh dân gian). Người Lạc Việt Tráng Zhuang, tộc Jangxi ngày nay còn giữ tục múa chó để chào mừng trẻ em sơ sinh, cầu vật tổ Chó phù họ cho em bé. clip_image123 Tục múa Vật tổ Chó của tộc Jangxi, Tráng zhuang (ảnh của tác giả chụp tại Viện Bảo Tàng Sắc Tộc, Vân Nam). Lạc Việt hải đảo ở Nam Dương ngày nay vẫn còn giữ tục tôn thờ vật tổ chó Aso. clip_image125 Vật tổ Chó Aso. Chứng sử Vật Tổ Sói Lang Việt trong sử đồng Đông Sơn. Như đã nói ở trên, trên trống Miếu Môn I đi với những còn cò ‘Nang’ có túi gió, túi âm thanh hình tam giác dưới mỏ (hiện nay tưởng lầm là mồi) có bốn con thú mà các tác giả Việt Nam gọi là ‘thú lạ’. clip_image127 Cò ‘nang’ và thú ‘nang’ trên trống Miếu Môn I. Tôi đã dùng con “Nang’ này làm hình bìa cho cuốn Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc (Âm Dương) Đông Nam Á tập II. clip_image129 Như đã nói ở trên, đây là con thú có túi nang dưới cổ để hú, tru tức con chó sói, con Lang, thú biểu của Lang Hùng Vương có mạng khí gió. Như đã biết, trên một chiếc rìu thờ tôi gọi là Rìu Hồng Bàng còn ghi khắc hình con sói lang Việt, thú biểu của Tổ Hùng đi cùng với Hươu Sủa mang gạc Việt, thú biểu của Kì Dương Vương và Dao Long, linh thú biểu của Lạc Long Quân . clip_image070[1] Trên rìu thờ Hồng Bàng Thế Gian có con sói Lang Tổ Hùng đi với hươu sủa mang gạc Kì Dương Vương và dao long Lạc Long Quân. ….. -Về chim biểu: Hùng Vương thế gian có khuôn mặt sinh tạo đội lốt Tổ Hùng nên có các vật tổ chim cùng với Tổ Hùng như Cò Gió, Cò Lang. Cò Lang, ở đại tộc Hùng Lang này là con cò Gió mầu trắng ngành nọc thái dương . .Nhìn theo dòng Viêm Đế, Đế Minh, Hùng Lang có chim biểu là chim rìu, chim Việt, chim cắt Lang mầu trắng như đã nói ở trên. clip_image131 Một chứng sử đồng Đông Sơn là con cò Gió: -Như đã nói ở trên, cò Lang trên trống Ngọc Lũ I. clip_image133 -Trên trống Việt Khê này. clip_image134 Cò Gió trên trống Việt Khê. Cò có bờm tua gió. Cánh hình tán lọng, vòm trời giống linh tự bầu trời của Ai Cập cổ: clip_image136 Linh tự Ai Cập cổ ‘sky’ (bầu trời) diễn tả vòm trời như cái nắp vòm giống hình cánh cò ở đây trên có ‘viết’ chữ ba chiếc bình tròn diễn tả ba nòng âm OOO tức quái Khôn có một nghĩa là không gian, bầu trời thái âm. Thân cò cong hình vòng cung bầu trời. Thân và đuôi hình con diều gió. Đây là con cò Gió dương biểu tượng của Tổ Hùng, Hùng Lang có một khuôn mặt bầu vũ trụ, bầu trời, khí gió. Ở thân trống, như đã biết, có con chim tu hú, chim biểu của gió, của Tổ Hùng, Hùng Lang có mạng Gió. clip_image137 Chim tu hú trên trống Việt Khê. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời Việt rạng ngời trống Việt Khê là trống biểu của Tổ Hùng tạo hóa, Hùng Vương sinh tạo. ….. Mê Linh Hai Bà Trưng dòng dõi Hùng Vương quê ở Châu Phong : Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tam bạo thù chồng chẳng quên… lấy tên thủ đô là Mê Linh. Như đã biết, tiếng Ê- Đê có loài chim tên là mơ linh, mơ lang, Mã ngữ langling là chim cắt sặc sỡ ở miền Nam Mã Lai. Như thế Hai Bà Trưng lấy tên thủ đô Mê Linh là tên con chim Cắt Lang, chim biểu của Tổ Hùng, Hùng Vương. Châu Phong, Bạch Hạc. Hiển nhiên Châu Phong là châu Gió, vùng đất tổ Hùng và Bạch Hạc có nghĩa là Cò Trắng, Cò Lang, Cò Gió, chim biểu của Tổ Hùng, Hùng Vương. Việt Trì Việt Trì thường hiểu theo nghĩa là Ao Việt. Ao là ‘bọc nước’, hồ nước. Ao hồ. Ao sen còn gọi bầu sen. Rõ ràng bầu là bao bọc, ao. Ao biến âm với áo có một nghĩa là lớp bao bọc. Ao là bọc nước Nòng Nước. Như đã biết Việt là rìu, nọc nhọn, lửa. Việt Trì là Nọc lửa-Nòng Nước là Chim lửa- Rắn nước, Tiên-Rồng. Vì vậy mà Việt Trì mới là thủ đô của tỉnh Phú Thọ vùng đất Tổ Việt Nam, nơi có đền Tổ Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh. Con Số 18 của Hùng Vương. Có 18 con cò bay, 18 chim đứng trên mặt trống Ngọc Lũ I. Rất tiếc không có đủ hình vẽ của cả vành chim này nên không thể nhận diện chính xác từng con một. 18 con chim này ứng với con số 18 là mã số DNA của Hùng Vương (xem bài viết này). clip_image139 Một số cò bay và chim đứng trong vành 18 cò bay và 18 chim đứng trên trống Ngọc Lũ I. Theo nguyên tắc mỗi bán viên có 9 con cò bay và 9 con chim đứng. Trong sử sách có nói tới Cửu Lê, Cửu Lạc. Lê biến âm la, lá, lửa và Lạc biến âm với Nác, Nước. Cửu Lê thuộc ngành Lửa, Chim, Tiên và Cửu Lạc thuộc ngành Nước, Rắn, Rồng. Chín con cò bay và 9 con chim đứng ở mỗi bán viên có thể liên quan tới Cửu Lê và Cửu Lạc. Âu Lạc. Âu Lạc là liên minh Âu Việt nhánh Âu Cơ với Lạc Việt nhánh Lạc Long Quân còn thấy rõ trên trống Sông Đà. clip_image141 Trống Sông Đà. Những vành ngoài biên trống có vành những hình thoi chuyển động diễn tả gió dương Đoài vũ trụ, đại diện cho gió âm Tốn, một khuôn mặt của Âu Cơ và có những hình sóng cuộn gẫy cạnh diễn tả sóng nước dương Chấn Lạc Long Quân. Vành này cho biết có sự liên hợp Âu Lạc Việt. Trống Đào Xá cũng là trống biểu của một khuôn mặt Âu Lạc phía nòng âm thái dương (xem dưới). Văn Lang Đây là một liên bang của nhiều ngành, nhiều đại tộc, chi tộc nên Văn Lang có nhiều nghĩa. Cũng như các từ khác của văn hóa Việt Nam phải nhìn theo diện nòng nọc, âm dương và dọc suốt chiều dài của qui trình Vũ Trụ Tạo Sinh, của Dịch lý. .Nhìn dưới dạng sinh tạo. Văng Lang có thể là Vlang, là Lang, Nang (bọc, trứng) mang dương tính tức Bọc Trứng 100 Lang Hùng. Với nghĩa này, Văn Lang là liên bang 100 Lang Hùng, Tổ Hùng. Như đã biết trống Quảng Xương có một khuôn mặt là trống biểu của Văn Lang Tổ Hùng này. .Nhìn dưới dạng ngành Nọc Việt dương thái dương mặt trời Viêm Đế thì Văn Lang = Vlang = Lang (con trai) = Chàng (con trai, đục chisel) = Việt = Mặt Trời. Văn Lang theo nghĩa này là liên bang Người Việt mặt trời thái dương ngành Nọc Việt thái dương gồm hai nhánh Nọc Việt dương thái dương và Nọc Việt âm thái dương. Trống Ngọc Lũ I có một khuôn mặt là trống biểu của nhánh Nọc Việt dương thái dương này. .Nhìn dưới diện lịch sử thế gian có thú biểu là loài bốn chân sống trên mặt đất thì Văn Lang = Mang Lang. Văn có nghĩa là đực, phái nam thấy rõ qua chữ đệm Văn của tên người Việt như Nguyễn Văn X, nhìn chữ đệm Văn biết ngay là tên người nam (trong khi nhìn chữ Thị là biết tên người nữ). Đực là nọc (heo nọc), cọc. Con Cọc là con thú bốn chân có sừng tức con hươu, con mang. Theo v=m như váng = màng, ta có Văn = Man, Mang. Mang có một nghĩa là gai nhọn (thảo mang) cùng là vật nhọn với sừng. Con thú có mang (gai, vật nhọn) là con mang (Hươu sừng, mang gạc, mang mễn). Như thế nhìn dưới diện thú biểu bốn chân sống trên mặt đất thì Văn = Mang, con mang, con hươu sừng và Lang là con Sói Lang. Với nghĩa này Văn Lang là liên minh hai đại tộc Hươu mang gạc, munjac, hươu sủa, Hươu Việt, thú biểu của Hùng Kì, Kì Dương Vương nhánh Nọc Việt dương thái dương với đại tộc sói Lang, Sói Việt, thú biểu của Tổ Hùng, Hùng Vương nhánh Nọc Việt âm thái dương. Lưu ý thêm nữa là Mang gạc Hùng Kì Đất dương Li ứng với thiếu dương và Lang sói Hùng Lang, gió dương Đoài vũ trụ ứng với thiếu âm. Văn Lang Mang Lang là dạng kết hợp thiếu dương với thiếu âm tức giao hòa Tiểu Vũ Trụ (thiếu là tiểu) ở cõi người, thế gian. Văn Lang Mang Lang là nhánh Người Nọc Việt thái dương thuộc chủng người Tiểu Vũ Trụ. Như thế liên minh Mang Lang có thể mang nghĩa chính của Văn Lang vì đây là liên minh của Hùng Vương lịch sử, thế gian. Chứng sử đồng còn thấy là trống Miếu Môn I có mang gạc và sói ‘nang’ ở trên cùng một vành mang tính chủ yếu của trống (xem trống này). clip_image145 Trống Miếu Môn I. clip_image146 Hai nhóm Mang gạc và Sói Lang trên Trống Miếu Môn I. Trống Miếu Môn I là trống Văn Lang Mang Lang thế gian. .Nhìn dưới diện Vũ Trụ Tạo Sinh trọn vẹn thì Văn Lang là liên minh của cả ngành Nọc Việt thái dương gồm hai nhánh Nọc Việt dương thái dương và Nọc Việt âm thái dương có đủ tứ dân, bốn đại tộc ứng với tứ tượng ở tứ phương. Chứng sử đồng về hình dạng là loại trống Đông Sơn Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I). Trống này do trống biểu của bốn loại trống ứng với tứ tượng hợp lại. Đó là trống Lửa hình trụ ống Nguyễn Xuân Quang II (ví dụ một trống Lào Man Việt, Đế Minh), trống Gió hình lọng gió Nguyễn Xuân Quang III (trống Karen Lang Việt, Tổ Hùng), trống Nước hình cái âu, cái bát Nguyễn Xuân Quang IV (trống trệt Nam Trung Hoa Lạc Việt Lạc Long Quân) và trống Đất hình Núi tháp trụ tròn xoay cụt đầu Nguyễn Xuân Quang V (trống Tân Long Kì Việt Kì Dương Vương). clip_image148 Trống loại Đông Sơn này tìm thấy nhiều nhất ở Việt Nam xác thực Việt Nam là đất tổ của liên bang Văn Lang (federal seat) giống như Washington D.C. của liên bang Hoa Kỳ. . NHÁNH NÒNG VIỆT THÁI DƯƠNG. Trong sử đồng Đông Sơn dĩ nhiên không có trống thuần âm nòng nữ thái âm của ngành Nòng Bộc Thần Nông thái âm và của khuôn mặt nữ Âu Cơ. Thường chỉ có trống Nọc Việt âm thái dương đại diện. Tộc ‘Khủng Long’. Thằn lằn còn có tên là rồng đất. Có một loài thằn lằn rồng đất ‘kinh khủng’gọi là khủng long. Khủng long dinosaur có dino-, kinh khủng và saur có gốc Latin sauros, thằn lằn. Hình khủng long thấy trên Trống Đào Xá. clip_image150 Trống Đào Xá. Trống có mặt trời 6 vòng ánh sánh. Ánh sáng vòng tròn là ánh sáng Nòng âm. Như đã nói ở trên, trên trống đồng có hai loại ánh sáng nòng nọc, âm dương là ánh sáng Nòng vòng tròn như ở đây và ánh sáng Nọc mũi mác thấy gần như hầu hết trên các trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Văn hóa Đông Sơn gần như duy nhất là nền văn hóa mặt trời có hai loại mặt trời có ánh sáng nòng nọc, âm dương. Điều này cho thấy rõ và xác thực văn hóa Việt Nam có cốt lõi đích thực là Chim-Rắn Tiên Rồng, nòng nọc, âm dương, có triết thuyết là Vũ Trụ Tạo Sinh, Dịch Nòng Nọc Đông Sơn ăn khớp khắng khít với văn hóa Đông Sơn cũng dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương. Số 6 là số lão âm, âm thái dương. Sáu vòng ánh sáng là ánh sáng âm thái dương. Tính thái dương cũng được xác thực bằng hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là thái dương sinh động nằm ở hai bên 6 vòng ánh sáng. Như thế mặt trời là mặt trời nòng âm thái dương. Trống là trống biểu của một tộc thuộc Nòng Việt âm thái dương. Điểm này thấy rất rõ qua sự kiện là không có sự hiện diện của Chim, vật biểu của nhánh Nọc Việt thái dương. Ta đã biết loài bò sát rắn, cá sấu, thằn lằn nước là vật biểu của ngành Nòng Bộc Thần Nông thái âm. Nếu các vật tổ loài bò sát có liên hệ tới nước này có mang thêm dương tính (như sừng, mồng) thì là vật biểu của Lạc Long Quân thuộc nhánh Nọc Việt âm thái dương. Trong trường hợp này Lạc Long Quân là đại diện cho Nòng Bộc thái âm. Đuôi khủng long hình lông chim nhọn như lưỡi dao nhọn mang tính nọc lửa, thái dương, Việt. Ở đây những con khủng long mang một yếu tố dương lông chim nhọn nhưng không ở đầu mà lại là ở đuôi tức mang tính âm. Đây là khuôn mặt âm (O) thái dương II tức quẻ ba vạch OII, Tốn, khuôn mặt Nàng Lửa, mặt trời nữ thái dương của Âu Cơ hay Không gian (O) thái dương tức khí gió âm cũng là một khuôn mặt bầu trời, Gió âm của Âu Cơ (sinh ra bọc trứng). Như thế nhìn dưới một tộc duy nhất đây là tộc khủng long mang tính âm thái dương phía Âu Cơ. Tuy nhiên ở trên trống có khuôn mặt chủ là đực (gà trống) là nọc, là Việt nên có khuôn mặt âm nam Lạc Long Quân là đại diện (vì thế mà lông chim Âu Cơ để ở đuôi). Tóm lại trống khủng long có đuôi lông chim này nếu nhìn theo phía diện âm nữ thái dương là trống biểu của Âu Cơ nấp bóng Lạc Long Quân. Nếu nhìn dưới dạng kết hợp, liên minh Nước-Lửa thì khủng long thằn lằn-đuôi chim ứng với Lạc Long Quân-Âu Cơ. Chim ở đuôi nên khuôn mặt long ở đầu mang tính chủ. Điểm này dễ hiểu vì trên trống thì khuôn mặt nam Lạc Long Quân mang tính chủ (trên cồng âm nữ hay gương đồng khuôn mặt nữ Âu Cơ mang tính chủ giống như thái dương thần nữ Amaterasu của Nhật có vật biểu là gương). Nhìn dưới diện lịch sử thì đây là liên minh Lạc-Âu phía nòng âm thái dương. Hình khủng long-đuôi lông chim dưới dạng kết hợp này làm liên tưởng tới sự hôn phối giữa Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung. Chử Đồng Tử có nghĩa là chàng Con Trai ‘Sống ở Bãi Sông’ (dân vạn chài, đánh cá), Chử biến âm với Cừ (với h câm, Chử = Cừ). Cừ là cây nọc đóng ven sông. Nọc, cọc là con trai. Cừ, Chử là chàng trai sống ven sông. Như thế Chử Đồng Tử thuộc dòng nước Lạc Long Quân. Tiên Dung có Dung là Dong như bao dung = bao dong. Qua từ đôi bao dong ta có Dung, Dong = bao, bọc. Lá dong dùng bao bọc, gói bánh chưng. Bao bọc là Nang (túi) là Nàng, Nường, Nòng (các Nàng, Nường có bao, có túi, dạ con). Bao, bọc cũng biểu tượng cho khí, gió, bầu không gian, bầu trời, túi trời (Ông Túi Trời là ông Thần Gió). Nàng Dung có khuôn mặt gió âm Tốn thuộc dòng Âu Cơ. Còn Tiên hiểu theo nghĩa giai nhân sống trên núi hiển nhiên cùng dòng Tiên Âu Cơ. Tiên có một khuôn mặt là Lửa, Chim. Theo duy dương Tốn OII là Nàng (O) Lửa (II). Như thế Tiên Dung có hai khuôn mặt: Tiên là Chim, lửa ứng với khuôn mặt Nàng Lửa Tốn của Âu Cơ và Dung, Dong là Gió ứng với khuôn mặt Nàng Gió Tốn của Âu Cơ. Như vậy Chử Đồng Tử con cháu Lạc Long Quân và Tiên Dung con cháu Âu Cơ. Sự hôn phối giữa Tiên Dung với Chử Đồng Tử là một dạng hôn phối Chim-Rắn nòng nọc, âm dương. Theo cùng ngành nòng âm cùng bản thể âm, ta có sự kết hợp giữa Chủ Đồng Tử có Chử là Nọc Nước dòng Chàng Nước Lạc Long Quân lấy Tiên Dung có Dung, Dong là Nòng Gió, Nường Gió dòng Âu Cơ với khuôn mặt Nàng Gió Tốn. Nếu nhìn theo nòng nọc, âm dương đối nghịch ta có Nọc Nước Chử Đồng Tử lấy Nường Tiên (Dung) dòng Âu Cơ với khuôn mặt Nàng Lửa Tốn. Bây giờ đối chiếu con khủng long đuôi lông chim này với truyện Chử Đồng Tử-Tiên Dung. Ta thấy rõ khủng lỏng rồng đất khổng lồ (nói theo cách lười biếng, tắt ngang ở Việt Nam hiện nay là ‘Rồng Khủng’) là một khuôn mặt của Lạc Long Quân-Chử Đồng Tử và đuôi chim là một khuôn mặt của Âu Cơ-Tiên Dung. Sự đối chiếu này cho thấy rõ trống Đào Xá, theo duy âm, cùng bản thể âm là trống kết hợp giữa khủng long Lạc Long Quân Nước dương Chấn với lông chim Âu Cơ Gió âm Tốn. Ta có một loại Dịch với Tiên Thiên bát quái trong đó Chấn hôn phối với Tốn (gió âm). Theo âm dương đối nghịch trống Đào Xá là trống hôn phối giữa khủng long Lạc Long Quân Chấn Nước dương với đuôi chim Âu Cơ Lửa âm Tốn (lửa âm). Trống Đào Xá là một trống diễn tả khuôn mặt Nòng Việt thái dương (Âu Cơ) nấp bóng Nọc Việt âm thái dương (Lạc Long Quân). Đây là một trống được cho là rất muộn tuy nhiên về phương diện Vũ Trụ thuyết và sử học đây là một trống độc nhất hiện nay là trống biểu của ngành Nòng Việt thái dương. Đây là trống độc nhất hiện nay có ánh sáng âm nòng vòng tròn. Đây là một trống quí nhất trong trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. …… TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN LÀ CỦA VIỆT NAM. Bộ sử đồng này là một bằng chứng nữa, một bằng chứng kiên cố, không thể chối cãi được là trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn, là của Bách Việt. Trống đồng tuyệt nhiên không phải của người Trung Quốc (xem Trống Đồng của Việt Nam hay Trung Quốc?). Điều đáng buồn là người Việt Nam quá thờ ơ với quốc bảo, với di sản văn hóa và tâm linh của mình, trong khi đó người Trung Quốc tận lực phổ biến, phát huy trống đồng cho dân tộc họ và cho cả trong cộng đồng thế giới. Từ phi trường Nam Ninh về thành phố là Đại lộ Trống Đồng với những kiến trúc trống đồng khổng lồ để dọc theo bên đường. clip_image152 Đại lộ trống đồng. Những cơ sở văn hóa, trung tâm thương mại xây dựng theo hình dạng trống đồng. clip_image154 Bảo tàng viện cũng là một kiến trúc trống đồng vĩ đại. clip_image156 Nhìn sự quảng bá trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn này của người Trung Quốc mà thấy rưng rưng nước mắt… Kết Luận Nhìn tổng quát trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn chứa đựng một kho tàng văn hóa chính thống có cốt lõi dựa trên nguyên lý căn bản là nòng nọc, âm dương, chim-rắn, Tiên Rồng của Việt Nam. Trong đó có ba bảo thư bằng đồng là 1. Bộ Sách Văn Hóa Việt Bằng Đồng, Bằng Hình 2. Bộ Việt Dịch Đông Sơn Bằng Đồng, Bằng Hình 3. Bộ Việt Sử Đồng Đông Sơn Bằng Hình. Trống Đồng là Bộ Sử Đồng Bằng Hình chính thống của Đại Tộc Việt cách đây trên dưới 3.000 năm. Bộ sử này đã cho thấy sử miệng hay sử sách (dù có muộn về sau) vẫn giữ được nguồn cội ít nhiều so với sử đồng. Sử đồng cho thấy người Việt thuộc chủng Người Tiểu Vũ Trụ, con của Đại Vũ Trụ. Chủng người Tiểu Vũ Trụ gồm có hai ngành: -Ngành Nọc, Chim, Lửa, Mặt Trời ứng với Trụ của Vũ Trụ, ngành thần mặt trời Viêm Đế thái dương. Đây là ngành Nọc Việt thái dương. -Ngành Nòng, Rắn. Nước, Không Gian ứng với Vũ của Vũ Trụ, ngành thần không gian Thần Nông thái âm. Đây là ngành Nòng Bộc thái âm (Bộc hiểu theo nghĩa Bọc, Bao, Bầu đi với không gian). Đại Tộc Việt thuộc về ngành Nọc Việt thái dương. Trống có khuôn mặt chủ là nọc, đực (trống có một nghĩa chính là đực), mặt trời, Việt nên bộ sử đồng Đông Sơn có khuôn mặt chính là bộ sử của Người Việt Mặt Trời Thái Dương ngành Nọc Việt thái dương dòng thần mặt trời Viêm Đế. Nhìn chung trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống biểu của Ngành Nọc Việt mặt trời thái dương. [Trong khi cồng (khuôn mặt âm của trống đồng) là cồng biểu của Nòng Bộc phía dương và gương đồng có một khuôn mặt là gương biểu của Nòng Bộc phía âm nữ]. Các Hùng Vương lịch sử là Vua Mặt Trời thuộc ngành Nọc Việt thái dương, di duệ của thần mặt trời Viêm Đế nên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có khuôn mặt chính là trống biểu của Hùng Vương lịch sử. Mỗi trống là một chương sử đồng, một vài ví dụ như: 1. Ngành Nọc Việt thái dương. Gần như hầu hết trống đồng nòng nọc, âm dươngcủa đại tộc Đông Sơn có mặt trời có tia sáng dương nọc mũi mác là trống biểu của ngành Nọc Việt thái dương. Trong đó có -Trống Ngọc Lũ I là trống biểu của nhánh Nọc Việt dương thái dương của ngành Nọc Việt thái dương. -Trống Hoàng Hạ là trống biểu của nhánh Nọc Việt âm thái dương của ngành Nọc Việt thái dương. -Trống Quảng Xương là trống biểu của Văn Lang 100 Lang Hùng gồm hai nhánh Người Chim Cắt Tiên và Người Rắn Dải Rồng. -Trống Miếu Môn I là trống biểu của Văn Lang thế gian Hươu Mang Hùng Kì-Sói Lang Hùng Lang. -Trống Đông Sơn IV là trống biểu của đại tộc Man Việt dòng Đế Minh. -Trống Phú Xuyên là trống biểu của đại tộc Kì Việt dòng Kì Dương Vương. -Trống Hòa Bình là trống biểu của đại tộc Lạc Việt, tộc Sấu Dao dòng Lạc Long Quân. -Trống Việt Khê là một trong những trống biểu của đại tộc Lang Việt dòng Tổ Hùng. ……. 2. Ngành Nòng Việt thái dương. Rất hiếm thấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có mặt trời có ánh sáng âm nòng vòng tròn, trống biểu của ngành Nòng Việt thái dương. Hiện nay chỉ thấy có một trống Đào Xá. Ta hãy dùng bộ sử đồng này để kiểm chứng, đối chiếu, điều chỉnh và tu chính lại sử miệng và lịch sử Việt cho đúng. Hiện nay cổ sử Việt đã và đang bị diễn dịch và giáo dục sai lạc rất nhiều. Trống đồng là quốc bảo của Việt Nam và là bảo vật của thế giới. Trống đồng của đại tộc Đông Sơn là di sản văn hóa Việt, linh hồn Việt, là khí thiêng sông núi Việt, là bài vị của tổ tiên Việt… TRỐNG ĐỒNG PHẢI LÀ MỘT DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI UNESCO CỦA VIỆT NAM. Như đã nói ở trên, ngoài ra trống đồng còn là bộ Việt Dịch đồng Đông Sơn duy nhất bằng hình của nhân loại và là quyển tự điển bằng đồng chữ nòng nọc vòng tròn-que của nhân loại, có dịp tôi sẽ nói trong tương lai. Góp ý về bài viết: Các vua Hùng lịch sử ứng với Tứ tượng - Bốn phương chính định vị (khi nói đến Ngũ hành bao gồm cả Âm Dương, chẳng hạn hành Thủy gồm cả quái Khảm và Càn) và khi liên hợp tới thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong sự vận động sự vật, hiện tượng: - Đế Minh ứng với hành Hỏa, quái Ly trên Hậu thiên Bát Quái - Hà đồ. - Kinh Dương Vương ứng với hành Mộc, quái Chấn_________________. - Lạc Long Quân ứng với hành Thủy, quái Khảm_______________. - Tổ Hùng ứng với hành Kim, quái Đoài___________________. Đặc biệt, vị trí trung tâm ứng với Thần Nông, hành Thổ,__________. Mặc dù theo truyền thuyết Thần Nông là Viêm Đế, phương nam, hành hỏa bởi vì khi nói đến vấn đề này thì Viêm Đế Thần Nông trong quy ước Đại vũ trụ - Tiên Thiên (có trước) so với các "Đế" khác. Còn phần trên, Thần Nông ở trung tâm Hậu thiên Bát quái - Hà đồ là cấu trúc Tiểu vũ trụ - Hậu thiên (có sau) tương đương Thiên cầu, liên kết giữa "Đế" và "Hoàng". Như vậy, mật mã lịch sử sẽ có hai phân lớp như đã trình bày. Nếu không thấu rõ quy tắc này, rất khó hoặc (thực sự) bế tắc hoàn toàn khi xác định các vị Hùng Vương Lịch Sử đầu tiên trong gia phả Hùng Vương và Tổ Tông của các ngài từ thời thời thượng cổ.
-
Thôi thì, bỏ "Cục nợ xấu" của dân tộc cho nó rồi! Nhẹ gánh giang san. THẢO LUẬN VỚI CỤ HOÀNG THANH ĐẠM VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ BÙI KHA I. LỜI MỞ ĐẦU Cuối tháng 12 năm 2001, tôi có mua được cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thời Thế & Tư Duy Cách Tân” mà tác giả là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm, xuất bản vào tháng 3 năm 2001 tại TPHCM. Sách dày 336 trang, tác giả giành 24 trang để phê bình cuốn “Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Con người và Di Thảo” của Bùi Kha (bút hiệu là Nguyễn Kha) và Trần Chung Ngọc do Giao Điểm xuất bản vào tháng 4 năm 1998 (từ nay gọi là NTT,GĐ). Cuốn sách đem lại cho chúng tôi một niềm vui, vì từ lúc sách chúng tôi ra đời đến nay đã 4 năm, nhưng chỉ có một bài phê bình của ông Nguyễn Xuân Phong với lời tán thưởng. Nay có bài phê bình khác, chỉ trích nhiều hơn là đồng ý, vì thế, qua đó chúng tôi có dịp để đào sâu thêm vấn đề. Nhà sử học Hoàng Thanh Đạm có văn phong điềm đạm và thái độ chững chạc của một người nghiên cứu công phu, nên chúng tôi rất hân hạnh để trao đổi một số điểm dị đồng với nhà sử học lão thành nầy. Tổng quát, ông Hoàng Thanh Đạm có vài điểm tương đồng với chúng tôi lúc phê phán Nguyễn Trường Tộ, nhưng ông dùng chữ rất khéo như: “nhận thấy điều bất cập của Nguyễn Trường Tộ”, chứ không nói rõ hoặc có chỗ xử dụng lời lẽ “chua chát” như tôi (Bùi Kha), lúc thấy ai có thái độ hay hành động bán nước là tôi trở nên bực phiền. Do đó, văn phong có khi nặng về cảm tính mà cụ Hoàng (sinh năm 1926) lại cáo buộc sai lúc nghĩ rằng chúng tôi có tư tưởng “Bình Tây Sát Tả ”. Nhưng, có lẽ vì tuổi đời chồng chất và vì thiếu chứng liệu để bác bỏ luận điểm của chúng tôi về Nguyễn Trường Tộ nên rất nhiều chỗ cụ Hoàng tự mâu thuẫn với chính mình. Thí dụ: lúc phê bình Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, trang 123, cụ Hoàng viết: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng đề ra khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả ”. Đến trang 126, cụ viết: “Có thể nói rằng thái độ bài xích của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc đối với Nguyễn Trường Tộ là “có thể hiểu được” nhưng thực sự có thiên lệch, hoặc là quá nghiêm khắc, vì hai anh đứng trên một lập trường chủ chiến có phần cực đoan, tuyệt đối không chấp nhận bất cứ phương sách chủ hòa nào”. Nhưng qua trang 127, ông lại đoán rằng: “Hay là hai bạn ra sức công kích Nguyễn Trường Tộ để thỏa mãn yêu cầu của người đặt bài đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới...” Rất nhiều chỗ mâu thuẫn trong 24 trang phê bình cũng phát xuất từ những yếu tố khác, mà chủ yếu là tác giả muốn bẻ ngược lại những luận điểm của hai Việt kiều, nhất là muốn chứng minh tấm lòng của Nguyễn Trường Tộ đối với tổ quốc, nhưng lại không đủ sử liệu và logic, nên việc phê bình cho thấy quá nhiều “điều bất cập” của tác giả. Cũng vì thế, nên đoạn cuối trong bài phê bình (tr.128) tác giả viết thiếu logic: “Giữa thời đại ngày nay, thời đại của hòa hợp dân tộc...”. Tôi quan niệm rằng, hòa hợp dân tộc thì không nên hiềm khích hoặc khơi lại đống tro tàn, mà phải giáo dục quần chúng biết cái hay để bắt chước và cái dở nên bỏ đi, phải khoan dung và tha thứ tất cả, nhưng không có nghĩa là phải làm sai lạc hay chối bỏ lịch sử, hoặc sắp những kẻ Việt-gian ngang hàng với những anh hùng dân tộc. Đó là chưa nói đến những thành phần “sống trên quê hương nhưng vắng bóng giữa lòng quê hương”; họ chỉ kêu gọi hoà hợp và đoàn kết lúc ở thế yếu. Nhưng lúc mạnh hoặc đã kiếm được sự hậu thuẩn của ngoại bang, họ sẵn sàng rước voi dày mả tổ. Không thấy được điều nầy, quả là một “điều hết sức bất cập” khác của Hoàng sử gia. Thêm vào đó, bài viết có quá nhiều lỗi chính tả; không chấm câu trước lúc bắt đầu đoạn mới. Và trích ý chứ không phải trích nguyên văn bài viết của tôi, nhưng tác giả lại để đoạn văn trong ngoặc kép (“ “). Điều nầy cho thấy cách làm việc thiếu đứng đắn, làm sai lạc và đổi ý cả đoạn văn của người mà mình đang tranh luận. Đó là vài nhận xét tổng quát về bài phê bình trước khi đi vào những thảo luận lý thú về N.T.Tộ qua các sử liệu. Khách quan, Nguyễn Trường Tộ có vài ý tưởng xuất sắc như tôi đã nêu trong bài viết của mình: “...Trái lại có 3 Di Thảo không liên quan đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây 130 năm. Đó là Di Thảo số 10 “Thảo Thư gởi Tây Soái ”; Di Thảo số 47 “Về Việc Cải Cách Phong Tục”; Di Thảo số 50 “Về Việc Chỉnh Đốn Quân Đội Và Quốc Phòng” (Ba Di Thảo nầy gồm 18 trang) {trích nguyên văn NTT, GĐ, tr. 11 &12}. Phần nhận định bản Di Thảo số 27 “Tám Điều Cần Làm Gấp” tôi cũng viết rõ về Nguyễn Trường Tộ: “Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số “bệnh trạng” của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà” (tr.92)... Lác đác một vài ý tưởng khả dĩ có thể chấp nhận, được lồng vào trong vô số điều mâu thuẩn, sai lầm và tai hại của Nguyễn Trường Tộ đối với vận mạng quốc gia dân tộc, mà sử gia Hoàng Thanh Đạm, người đã để ra hơn 20 năm nghiên cứu ( ông cho biết như thế ) vẫn không thấy kế hoạch lộng giả thành chơn của ông N.T.Tộ. II. VẠCH NHỮNG SAI LẦM 1. Hợp tác với Pháp: Để có thể thấy rõ điều lợi hoặc hại lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu tổng quát tình hình quân sự và chính trị thời bấy giờ. Về phía quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam, thì từ 1858 đến 1863, họ đang ở trong tình trạng nguy khốn, mà chúng tôi đã trích thuật qua sáu văn thư mật của các ông đô-đốc Pháp gởi cho chính phủ của họ. Xin xem các trích dẫn trong cuốn Nguyễn Trường Tộ, Giao Điểm xuất bản (tr.21-29). Ở đây, chỉ lược trích vài đoạn ngắn : “...Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ... chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng ”(Đđ. Genouilly, 4.1.1859)...“Vì thế Hoàng-thượng tin cậy vào kinh nghiệm và sự sáng suốt của ông...có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên vương quốc An Nam không... hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí... và từ bỏ mọi mưu toan...” (Bộ Hải Quân 8.4.1859)... “Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam... Không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều” ( Genouilly 21.9.1859)... “Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công ngay những vị trí của chúng ta” ( lời kêu cứu của Bonard)... “ Các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... tôi bị đẩy vào thế tự vệ...” (Bonard 18.12.1862). Ngày 27.1.1863 Bonard cũng than thở: “Lực lượng chúng ta giảm dần... đang bị đuối sức từng ngày... không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế nầy”. Sử liệu Việt Nam cũng viết: “Ngày 17.12.1862 nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Rạch Trà của giặc Pháp, thu nhiều thắng lợi”. Qua ngày 18, “1.200 nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Thuộc Nhiêu (trên đường từ chùa Cây Mai đi Mỹ Tho) tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Hai trận tấn công thắng lợi liên tiếp trong hai ngày 17 và 18.12.1862 này của nghĩa quân Gò Công đã làm cho thực dân Pháp hoảng sợ. Bonard phải khẩn cấp xin viện binh” (Dương Kính Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử, 1858-1918, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Viện Sử Học, TP HCM, 1999, tr.34). Những sử liệu trên cho thấy tình hình quân sự đen tối của Pháp xẩy ra và đã kéo dài gần 5 năm, từ tháng 9, 1858 đến tháng 2, 1863, nghĩa là khoảng một tháng trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bài “Thiên Hạ Đại Luận”. Trong lúc quân thực dân nguy khốn đến thế thì Nguyễn Trường Tộ lại hù dọa: Tàu diệt Việt, Pháp diệt Á-đông... “ Quân ta mới nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi... Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên... Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách... nên để cho quân lính nghỉ ngơi... để họ (Pháp) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới..” (NTT, Giao-Điểm tr.24-40). Những nhận định sai lạc có dụng tâm nầy đã ảnh hưởng đến chính sách của triều đình vua Tự-Đức và tinh thần chiến đấu của nghĩa quân. Tại sao Nguyễn Trường Tộ có những tư tưởng nghịch lý đến thế ? Tôi thấy có hai lý do chính: Lý do tình thế : Sau hòa ước Nhâm Tuất,1862, phong trào chống Pháp rất mạnh, làm cho công cuộc bình định của Pháp gặp nhiều trở ngại. Triều đình Huế chia làm hai: phe chủ chiến và phe chủ hòa.“Phe chủ chiến có rất nhiều ảnh hưởng và thế lực”. Thượng-tướng Ohier (quyền đô đốc) gởi thư cho triều đình vua Tự-Đức phản đối phong trào chống Pháp làm trở ngại chương trình bình định của ông ta (Nguyễn Thế Anh,“Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Lửa Thiêng xuất bản, Saigon 1970, tr.63-64). Phong trào nghĩa quân kháng Pháp gây cho địch khó khăn đến nỗi :“Thực dân Pháp ra điều kiện: sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh-Long cho triều đình Huế, một khi triều đình Huế chấm dứt được các cuộc khởi nghĩa chống đối Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, và phải gọi tất cả các thủ lĩnh nghĩa quân trở về, tuyệt đối không còn bóng dáng một ai tại hai tỉnh đó nữa” (Dương Kính Quốc, SĐD, tr.32). Như thế, kế hoạch “hòa với Pháp là thượng sách... cho lính nghỉ ngơi để họ giữ bờ cõi cho mình” của Nguyễn Trường Tộ là cái phao đúng lúc để quân Pháp thoát hiểm và giúp cho chương trình bình định của thực dân có thể thực hiện được! Lý do tín lý và giáo dục : Nguyễn Trường Tộ không muốn thực dân Pháp rút về nước nên ông đã cố ý đưa ra những nhận định sai lầm về tình hình quân sự và khuyên hòa với Pháp để cứu vãn cơn nguy khốn cho thực dân. Sau đây là một số sử liệu giải thích tại sao. Người Công-giáo thường có khuynh hướng ly khai với tổ quốc, vì điều răn thứ nhất trong 10 điều răn của tôn giáo nầy là “Thờ Thiên Chúa trên tất cả mọi sự”, mà giáo-hoàng là người đại diện cho Chúa theo tín lý Công-giáo. Do đó, điều răn thứ nhất phải hiểu là “Thờ giáo-hoàng và Vatican trên tất cả mọi sự”, mà việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là do Vatican vận động và chủ động như chúng tôi đã chứng minh bằng nhiều tài liệu mật trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo” nói trên . Bởi thế, chúng ta không lấy làm lạ, những người như các Linh-mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trần Lục, giáo sinh Trương Vĩnh Ký, Giám-mục Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Giám-mục Hồ Ngọc Cẩn, Giám-mục Ngô Đình Thục... đều làm tay sai cho Pháp. Còn tín đồ Công-giáo Việt Nam thì chính Đô-đốc thực dân Page cũng mô tả: “Ngoài ra không một người Việt Nam nào theo đạo Công-giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt nam không theo đạo không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài (Bộ-trưởng) đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ tử thù (Du reste, pas un Vietnamien catholique n’hesita à demander à s’enriler comme soldat sous les drapeau francais, les roi payen du Vietnam n’etait point leur roi “Votre Excellence comprenda sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemies ?" Depêche de L’amiral Page, du 14-12 et 25.12.1859. Archives Nationales, Fonds Marines BB4-777, cité par Cao Huy Thuan, pp. 128 & 129). Lịch sử cho thấy, đã là người Công-giáo thì luôn luôn nặng tình với Vatican hơn là đối với chính quốc gia của họ, danh từ thông thường để chỉ thái độ nầy là “vong-bản”. Thật vậy, ngay cả nước Mỹ, không có người nào theo đạo Công-giáo mà có thể đắc cử tổng thống. Ngoại trừ Kennedy là một trường hợp đặc biệt ngoại lệ trong lịch sử 44 tổng thống vừa qua của đất nước nầy, nhờ có tài, nói năng hoạt bát, đẹp trai. Lúc ra tranh cử, có người đặt câu hỏi với ông về bổn phận một công dân và bổn phận của một tín đồ. Kennedy trả lời rằng lúc nào có sự xung đột giữa quyền lợi tôn giáo và đất nước thì ông sẽ nghiêng về phía tổ quốc. Tuy nhiên, vào thập niên 1960, Vatican có thái độ hòa bình để cứu tín đồ của giáo hội trong các quốc gia chiến tranh, thì Kennedy cũng muốn triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam, và ông bị ám sát năm 1963, đến nay chưa tìm ra thủ phạm. Nhưng người ta nghi rằng, một trong những nguyên nhân chính đưa đến cái chết là vì ông có tư tưởng phản chiến như giáo-hoàng. Tư tưởng đó và việc dự định rút quân ra khỏi Việt Nam của Kennedy đã đi ngược lại quyền lợi của giới tư bản vì khí giới chiến tranh còn thặng dư sau Thế Chiến Thứ 2. Mà khí giới chiến tranh chỉ có thể tiêu thụ bằng chiến tranh khí giới. Đất Việt-Miên-Lào là thị trường thuận lợi nhất vào giai đoạn đó để Hoa-Kỳ trút bom đạn xuống. Nhưng bom đạn và dụng cụ chiến tranh đâu phải miễn phí. Chính phủ Mỹ dùng tiền đóng thuế của dân chúng và tiền của các nước đồng minh viện trợ để mua khí giới do các công ty Hoa-kỳ chế tạo. Một số lớn giai cấp tư bản được giàu nhờ có nhiều cổ phần trong các công ty và kỹ nghệ chiến tranh ấy. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ là Tết Mậu-Thân, 1968, có nhiều nơi tại miền Nam (Việt Nam) không quân Hoa-Kỳ ồ ạt thả bom bình địa. Thủ tướng Trần Văn Hương (VNCH) rất bực phiền nhưng cũng chỉ phát biểu được: “Đánh con ruồi, chúng ta không cần phải dùng cái búa”. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ không những chỉ dùng cái búa con để đánh ruồi mà họ dùng cái búa tạ. Và trong cuộc chiến tranh Việt-Nam trước đây, “để giết một người lính cọng-sản, Hoa Kỳ phải tốn hơn 400 ngàn Mỹ kim” (To kill one communist soldier cost the U.S. no less than $400.000. Joseph Buttinger,Vietnam the Unforgetable Tragedy, NY. 1977, p. 93), một cuộc chiến tranh tốn kém chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Và số khí giới Hoa Kỳ tiêu thụ tại Việt Nam bằng tổng số khí giới của hai cuộc Chiến Tranh Thế Giới cọng lại. Tôi trình bày hơi dài dòng về vấn đề nầy để chúng ta thấy mối dây chằng chịt giữa các tôn giáo Tây-phương nhất là Công-giáo La-Mã và vấn đề chính trị cũng như giữa tư bản và ý thức hệ... Sử gia Hoàng Thanh Đạm bênh vực Nguyễn Trường Tộ và lý luận rằng: “... những khó khăn mà tướng soái Pháp nêu lên là ở thời điểm 1858-1862, trong đoạn khởi đầu xâm lược, còn điều mà Nguyễn Trường Tộ nói trong Thiên hạ đại thế luận về thế áp đảo của Pháp là ở thời điểm 1863 ” (Cách Tân, tr.112). Nhận định như vậy là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm thấy một mà không thấy được nhiều hơn. Vì ông Nguyễn Trường Tộ tự khoe là cái gì cũng biết hết, vậy thì tình trạng quân Pháp yếu quân ta mạnh trong giai đoạn trước lúc, không phải sau khi , viết bài “Thiên hạ đại thế luận” tại sao ông không biết ? Hơn nữa, một trong 6 văn thư mật mà tôi nêu trên là vào năm 1863; thời gian Nguyễn Trường Tộ viết bài chiêu dụ ấy. Để biết rõ thêm thái độ Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình hòa với Pháp là có hậu ý và dụng tâm của một người Việt không ngay, chúng ta nên biết thêm sử liệu sau đây: Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ, Linh-mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 5 người Việt Nam khác cùng đi với Giám-mục tình báo Gauthier đến cửa Mành Sơn, tại đây:“...Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẳng đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng đô-đốc chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Saigon. Do đó trước khi đem quân vào Saigon, Đô-đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (Giao-Điểm, SĐD, tr.166-167, dẫn theo TBC, SĐD, tr.22). Nhắc lại đoạn sử liệu nêu trên để thấy rằng, Nguyễn Trường Tộ đã không tham gia các phong trào chống Pháp. Trái lại, ông theo sát gót giầy của thực dân từ ngày chúng bắt đầu chà đạp quê hương, 1.9.1858. Ông là một trong những phần tử “làm áp lực để Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”. Bị Đô-đốc de Genouilly đuổi đi Hồng-Kông. Đến năm 1861 lại theo gót thực dân về làm thư ký cho Tổng hành-dinh Soái phủ tại Sài Gòn để chúng mở rộng vòng chiếm đóng. Từ năm 1858 đến năm 1863, ít nhất là hơn 4 năm ròng rã ông đi theo Pháp và sát cánh với Giám-mục tình báo Gauthier. Yêu nước Việt hay nước Pháp mà lạ đến thế ? Từ những sự kiện trên chúng ta có thể nói, Nguyễn Trường Tộ biết rất rõ tình hình nguy khốn của quân Pháp, nhưng ông sợ Pháp rút quân về nên viết bài để hù dọa quân dân ta và giữ chân Pháp. Nếu quả thật ông không biết tình hình của ta và Pháp đã và đang xảy ra xung quanh ông và trên các vùng mà Pháp vừa chiếm được tại Đà Nẵng và Sài Gòn, thì ông có thể biết được gì mà dám bàn “Thiên hạ đại thế luận”, tức là luận bàn những tình thế lớn trong thiên hạ! Sự mâu thuẫn quá lớn như thế, những người bênh vực N.T. Tộ trả lời thế nào ? Để hiểu rõ hơn, một lý do khác cho thấy hậu ý Nguyễn Trường Tộ khuyên dân Việt Nam hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu về nội tình của Pháp tại Việt Nam và tại Âu-châu trong giai đoạn Nguyễn Trường Tộ viết bài chiêu dụ “Thiên hạ đại thế luận” đầu năm 1863. ‘Theo hòa ước Nhâm Tuất, 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng, nhưng sự chiếm đóng nầy phần lớn là ở trung tâm thành phố, còn các đồng bằng và vùng lau sậy do nghĩa quân điều khiển. Các cuộc hành quân của Pháp rất vất vả trong các vùng nầy; lính bị muỗi đốt và nước độc sinh sốt rét và dịch tả chết rất nhiều. Mặt khác, nghĩa quân đánh theo lối du kích làm cho giặc Pháp tổn thất nặng nề. Hơn nữa, từ lúc bắt đầu đánh Nam-kỳ đến lúc đạt được hòa ước 1862, Pháp phải mất hơn 4 năm và thiệt mạng trên 2 ngàn người, đó là một con số rất lớn vào thời điểm ấy’ (Theo NTA, SĐD, tr. 25-54). Vì thế, các ông đô đốc Pháp đã than thở như chúng ta thấy ở trên. Với tình hình như thế, Nguyễn Trường Tộ làm việc dịch thuật cho Tổng hành dinh của quân đội viễn chinh Pháp, sống sát cánh với tên tình báo Gauthier, thì ông không thể không biết Pháp đang khốn đốn. Vì vậy, ông viết thêm nhiều bài khác khuyên triều đình cọng tác với Pháp để giải tỏa khó khăn cho thực dân. Còn sử gia Hoàng Thanh Đạm không đồng quan điểm nầy, nhưng ông đã không trưng bày được một sử liệu nào để làm nền tảng cho luận điểm của mình. Một cách gắn gọn, trong khi sáu bức thư mật của các đô đốc thực dân than thở về tình hình quân sự bi đát của họ tại Việt Nam, và tình hình chính trị tại Âu-châu cũng không thuận tiện cho lực lượng Pháp muốn mở rộng thêm vùng chiếm đóng tại Sài-gòn, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết tiếp: “Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi... để họ (thực dân Pháp, BK) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới”. Lý luận nầy cũng giống như nói rằng trong nhà có nhiều cô con gái đẹp, nên để cho hải tặc gìn giữ thì bọn sở khanh sẽ không “bén mảng tới ”. Thật là “cao kiến” chẳng còn gì để phê phán ! Đọc kỹ “Thiên hạ đại thế luận” và những bài chiêu dụ khác của nhà thuyết khách họ Nguyễn, chúng ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mâu thuẫn và sai lầm có dụng tâm. Lối trích dẫn của Hoàng sử gia cũng đầy mâu thuẩn và không để ý đến sự kiện và sử liệu. Ông viết: “Tháng 5.1863, viết Trần tình khải, ông (N.T.Tộ, BK) thanh minh rõ thái độ của mình trước quân thù xâm lược:“Đối với những hạng người cho quân Pháp là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt mà bảo như thế là làm tăng trưởng nhuệ khí của người ta mà tự diệt uy phong của mình...Tôi lại đem những lợi hại phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Xin cứ hỏi những người xung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không...” (Hoàng Thanh Đạm, SĐD, tr.114). Đoạn vừa dẫn cho chúng ta thấy một sự mâu thuẫn quá lớn: Bài “Thiên hạ đại thế luận” viết vào khoảng tháng 3-4.1863, ông nói rằng quân ta yếu, quân Pháp mạnh. Nhưng chưa đầy 2 tháng sau ông viết như trên: có nghĩa là quân Pháp yếu, quân ta mạnh. Như thế, ông đã phủ nhận những điều viết bậy có hậu ý trong bài “Thiên hạ đại thế luận”, và nói giống tôi. Thực ra, lúc viết “Thiên hạ đại thế luận”, N.T.Tộ cố tình xuyên tạc lịch sử để cứu nguy cho Pháp như tôi đã chứng minh. Nhưng có lẽ vì bị phản đối hoặc thấy sai lầm quá lộ liễu, nên viết bài khác để bào chữa và bảo vệ mình. Cũng vì tâm chất dối trá nên tiền hậu bất nhất. Vì thế, ông đã không thấy sự mâu thuẫn to lớn về hai bài vừa viết cách nhau chưa đầy 2 tháng ! Còn sử gia họ Hoàng đã nhọc công nghiên cứu đến hơn 20 năm, lại trích dẫn hai bài viết gần nhau của N.T.Tộ, trong đó mâu thuẫn rõ ràng đến thế mà không thấy, lại bênh vực ông ta và cho tôi viết sai về tình hình quân Pháp, và cố ý chối bỏ sự thực lịch sử trong các tài liệu mật của Pháp về thế khốn cùng của chúng, nên cụ Hoàng viết tiếp:“Chúng ta không vội nghi ngờ độ tin cậy của những câu trích dẫn (của Bùi Kha) được dịch ra tiếng Việt lại còn đăng tải cả nguyên văn tiếng Pháp” (HTĐ, SĐD, tr. 111). Một điểm quan trọng khác là trong bài nầy Nguyễn Trường Tộ viết :“...lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của quân đội Cần Vương...” . Mặc dầu Lm. Trương Bá Cần không nói rõ trong sách, nhưng tôi được biết rằng ông không biết chữ Nho, nên 58 bản chiêu dụ đều do ông Lý Kim Hoa dịch ra Việt-ngữ . Tuy vậy cả dịch giả lẫn tác giả Trương Bá Cần đã không thấy cụm từ “quân đội Cần-Vương ” [1] được nhắc đến trong bài “Thiên hạ đại thế luận” viết vào đầu năm 1863. Trong lúc đó, quân đội Cần-Vương chỉ xuất hiện 22 năm sau khi vua Hàm-Nghi bỏ kinh thành đi kháng chiến do cuộc nổi dậy chống Pháp bất thành tại Huế ngày 7. 5.1885. Nhiều tác giả, trong đó có sử gia Hoàng Thanh Đạm, đã trích dẫn và ca tụng ông N.T.Tộ hết mình qua bài chiêu dụ nầy, nhưng quên để ý sự sai lầm trong thời gian tính của từng biến cố, cho nên có thể đây là một bài ngụy tạo. Dù ngụy tạo hay thật, và cụm từ nào đó bị dịch nhầm thành “quân đội Cần Vương”, nhưng nếu đọc kỷ bài nầy chúng ta cũng sẽ thấy cái tư tưởng: Ăn cơm Việt nam, thờ giặc Pháp của N.T. Tộ như đã chứng minh. 2. “ Lấy thịt đè người” : Sử gia Hoàng Thanh Đạm đã dẫn chứng rất nhiều nhân vật tên tuổi ca ngợi Nguyễn Trường Tộ, trong đó có cụ Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh. Quan điểm của tôi là mỗi nhân vật đều có sở trường và sở đoản, nhất là trong thời kỳ Pháp thuộc và đất nước chiến tranh, nhiều tài liệu mật bị khóa chặt trong các thư khố, còn một số sách thì được viết bởi phần lớn các người theo Công-giáo, mang đầy tình cảm tôn giáo, che đậy và đảo lộn sự thực vì mặc cảm. Thí dụ, ngay cả đến sau năm 1994, tiến-sĩ Thần-học Linh-mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, trong cuốn “Divers Voyages Et Missions”, dịch cụm từ “Plusieur Soldats” là vài binh lính. Lại còn chú thích là lính thừa sai chứ không phải lính chiến. Giáo-sư Chương Thâu, Viện Sử-học Hà-nội, lại bênh vực và đồng ý ngữ nghĩa nầy. Mà thực ra chữ “plusieur soldats” có nghĩa là nhiều binh lính và chữ missionaires mới có nghĩa là lính thừa sai (tức là giáo sĩ), và chữ quelque mới có nghĩa là (một) vài. Người ta cố tình đổi nghĩa văn tự như vậy để che đậy cái tội vận động chính phủ Pháp vào xâm chiếm nước ta của Linh-mục A. De Rhodes (năm 1652). Một thí dụ khác, Thánh-kinh Tân Ước xuất bản tại thành phố HCM năm 1997. Theo mấy trang đầu và lời giới thiệu của Tổng Giám-mục Nguyễn Văn Bình thì ban dịch thuật có đến 14 người gồm các linh mục, tu sĩ và những người có hiểu biết chuyên môn về Thánh-kinh và đã để ra hơn 20 năm để nghiên cứu và dịch thuật, nhưng có nhiều chỗ sai, nhất là chương 15, đoạn 22-26 sách Ma-thi-ơ (Matthew). Các dịch giả đã cố tình dịch sai có hậu ý mà tôi đã vạch rõ trong cuốn “Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi ?” (Giao Điểm, tái bản lần thứ nhất 2001, tr.13-18). [2] Vì thế, trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo” trang 184 tôi có đặt câu hỏi :“Một con người như thế tại sao có nhiều người nhầm lẫn ? Để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí...” Tôi đưa ra mấy lý do: 1. Thiếu sử liệu; 2. Vài tác giả trích vài câu, vài đoạn rồi ghép lại với nhau, nhưng không đọc hết toàn bài và lồng nó vào trong bối cảnh của tình hình lúc bấy giờ để tìm xem hậu ý của Nguyễn Trường Tộ đang thập thò sau bức màn canh tân là gì, v.v. Chính tôi lúc đầu cũng đã lầm và ca tụng ông về việc sửa đổi võ bị đến 11 trang trong bản thảo. Nhưng sau đó sực nhớ lại cuốn “Tôn Ngô Binh Pháp” mà tôi có đọc lúc học lớp 9. Sau khi đem ra đối chiếu, tôi đã tìm ra ít nhất là 6 binh lược mà Nguyễn Trường Tộ lấy từ trong đó lại còn không đề xuất xứ. Do đó, vấn đề đúng sai không thể hoàn toàn căn cứ vào số đông mà phải căn cứ vào sử liệu có chính xác hay không. Hơn nữa, chúng ta nên hiểu rằng lời ca ngợi của Chủ-tịch Hồ chí Minh đối với N.T.Tộ là mang tính chính trị và tâm lý của một chính khách, chứ không phải là lời phát biểu của một người nghiên cứu. 3. Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?: Cũng thế, nhằm mục đích chứng minh cho bằng được Nguyễn Trường Tộ có lòng yêu tổ quốc, sử gia Hoàng Thanh Đạm viết “Sau khi đã mất 6 tỉnh Nam-kỳ, triều đình cuống quýt lo toan cử người sang Pháp chuộc lại, thì Nguyễn Trường Tộ trong di thảo số 36 ngày 7.4.1868, bàn với triều đình nên “bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp...” Ông khuyên nên tính kế lâu dài, dầ⮠nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp...” (Cách Tân, SĐD, tr.116). Sử gia họ Hoàng cứ nghĩ N.T.Tộ thật sự yêu nước nên mới có cái “cao kiến” ấy, chứ không chịu tìm hiểu tình hình Pháp và Âu-châu thời bấy giờ để biết cái hậu ý tại sao ông Việt gian nầy lại khuyên triều đình nên “Bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp” ? Tôi xin trả lời hộ sử gia bằng sử liệu dưới đây: Tình hình Âu-châu lúc nầy rất bất lợi, không cho phép Pháp tiến hành một cuộc chiến tranh mới.“Đô-đốc La Grandiere nhận được lệnh phải từ bỏ mọi dự định chiếm đóng ba tỉnh miền tây Nam-kỳ”... “Chính phủ Pháp phản đối mọi biện pháp vũ lực có thể làm nước Pháp lâm vào một cuộc chiến lâu dài với Triều-đình Huế. Nhưng Đô-đốc de La Grandiere trông đợi ở sự thành công của hành động của ông để đặt chính phủ Pháp trước một sự việc đã rồi. Tân Bộ-trưởng Hàng-hải , Rigault de Genouilly, luôn luôn khuyến cáo La Grandiere phải tránh tất cả những gì có thể làm cho Triều-đình Huế lo ngại. Ngày 10.6.1867, ông còn viết cho La Grandere là: “Mặc dầu tình trạng (chính trị Âu-châu) bớt căng thẳng hơn, nhưng cho tới khi có lệnh mới ông đừng nghĩ tới chuyện biểu dương lực lượng đối với ba tỉnh. Cho nên, phản ứng đầu tiên của Rigault de Genouilly khi được tin quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây là bất mãn đối với La Grandiere... Điều quan trọng đối với ông (La Grandiere, BK) là làm sao khiến Triều-đình Huế chấp nhận sự việc đã xảy ra (đã chiếm 3 tỉnh miền Tây, BK); ngày 30.6.1867, ông gởi thư cho vua Tự-Đức để đề nghị thương lượng, nhưng vua Tự-Đức bằng một văn thư lời lẽ cứng rắn, trách cứ La Grandiere đã lạm dụng sức mạnh mà xâm phạm quyền lợi của chính phủ Việt Nam... Nhà vua còn tỏ ý là sẽ phái sứ giả sang Paris để thương lượng thẳng với chính phủ Pháp” (Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 54, 58, 59 & 60). Vua Tự-Đức nhất quyết không chịu thương thuyết với La Grandiere, nên tên thực dân nầy đã xử dụng đường lối chính trị khác. Theo phó tiến sĩ Y.Tsuboi thì:“Khi đạo quân bên nầy không thể áp đảo bên kia được thì tìm một giải pháp chính trị. Người Pháp biết rõ như thế và bằng cách sai một nhân viên mật vụ, Charles Duval, đến Bắc-kỳ với sứ mệnh xúi giục một cuộc nổi loạn chống chính quyền (Huế, BK), liên kết với giáo dân – đó là cuộc nổi loạn do Lê Duy Phụng chỉ huy – họ hướng Triều-đình Huế đến cuộc đình chiến ở Nam-kỳ” (Y.Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, 1847-1885, bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa Học Xã Hội Thành Ủy, TP HCM, 1990, tr.261-262). Như vậy, nếu Triều-đình Huế cử sứ bộ đi Pháp thì La Grandiere sẽ bị thượng cấp khiển trách và Việt-nam có thể đã lấy lại được 3 tỉnh miền Tây Nam-kỳ. Sự cố nầy dĩ nhiên là ông đô-đốc, các ông giáo sĩ, những kẻ Việt-gian, trong đó có Nguyễn Trường Tộ, không muốn ! Đó mới là lý do để ông viết thư khuyên triều đình “Bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp ” vào năm 1868, chứ chẳng phải ông Tộ có lòng yêu nước như sử gia Hoàng Thanh Đạm lầm tưởng ! Tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở một đoạn sau, và sẽ dẫn thêm một số sử liệu khác để thấy tâm địa thờ Pháp của N.T.Tộ. Biết được hậu ý của ông Tộ, nên trong bài trước đây tôi đã viết rõ :“...tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo những biến chuyển của tình hình và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam cũng như theo bối cảnh lịch sử Việt Nam thời đó”(NTT, Giao Điểm, SĐD, tr.9) để dối gạt triều đình và cứu nguy cho Pháp ! 4. Nhà nuôi trẻ: Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết “...Một kiến nghị thực tâm thiện chí như thế bị anh Nguyễn Kha thêm vào mấy chữ “do giám mục tình báo Gauthier cử người điều khiển” lập tức biến thành một âm mưu hại nước” (HTĐ, SĐD, tr.122). Như tôi đã viết trong bài, Nguyễn Trường Tộ lộng giả thành chơn; ông đưa ra một vài nhận định trông có vẻ hợp lý để đánh lừa, nhưng mục đích không phải nói cái nầy mà cái khác, cái hậu ý đàng sau đó. Nói theo kiểu người miền Nam:“Nói dậy nhưng không phải dậy ”. Tôi cũng đã đưa ra hai thí dụ về vai trò của các giáo-sĩ thời bấy giờ. Thứ nhất là vụ Linh-mục Ân ở Xuân Hòa (Huế). Thứ 2 là vụ Thiên Tân Giáo Án ở Trung Quốc (Nguyễn Trường Tộ, Giao Điểm, tr.131-133). Thực ra trong lịch sử có rất nhiều trường hợp phản loạn do người Công-giáo chủ xướng như Lê văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo-sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một “Vương quốc Công-giáo ly khai ”. Sau khi triều đình dẹp yên, gần 2000 giáo dân bị chém còn Marchand bị xử “lăng trì”. Cùng thời, tại Bắc-kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình với chiêu bài “Khôi phục nhà Lê”. Năm 1850 ở Trung Quốc có loạn “Thái Bình Thiên Quốc” của Hồng Tú Toàn với đạo quân Giê-su đánh chiếm nhiều tỉnh. Hiện tượng núp dưới chiếc áo chùng thâm [3] và xử dụng chiêu bài tự do tôn giáo cho mục tiêu chính trị, cũng được công sứ Bonnal cho biết: “Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục...” (Tiến-sĩ Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam, 1858-1897, Hoa-kỳ 1995, tr. 360-361). Ngay cả đến năm 1886 mà ông linh mục Việt gian tên “Trần Lục, quản xứ Phát Diệm...nhận phép của Giám-mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5 ngàn giáo dân. Vì vậy chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ” (... père Tran Luc, curé de Phát Diệm… Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris 뮠F. Rouvier, Loin du pays, Paris 1896, p.103-104, cité par le Father Tran Tam Tinh, Dieu et Casar, Paris 10.1978, pp. 41 & 42). Ngay gần 100 năm sau thời N.T. Tộ, con quạ lúc nào cũng vẫn màu đen: “Những giáo-sĩ Công-giáo tự động trở nên những“tác viên chính trị” tạo thành nền tảng quyền lực chính trị của Giáo-hội bất cứ nơi nào họ dựng lên những cọng-đồng Công-giáo” (Avro Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom, London 1952, P.365, NTT, Giao-điểm, SĐD, tr. 218, bài viết của Tiến-sĩ Vật-lý Trần Chung Ngọc ). Xin xem thêm kế hoạch Liên Minh Thánh và lời tuyên bố của Giáo hoàng Phao Lồ 2 trong cuốn NTT, GĐ, SĐD, tr.153, 154. Giám-mục Puginier cũng cho biết tín đồ Công-giáo là những người Pháp tay trong: “Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes). Hành động của giáo sĩ và giáo dân như thế mà ông Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị mỗi tỉnh mở một nhà nuôi trẻ do giám mục cử người đến điều khiển. Phải chăng, đó không phải là một hành động giúp cua thêm càng để có được một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam do chính các giáo sĩ chỉ huy con chiên dưới trướng họ? Sử gia Hoàng Thanh Đạm phê bình chúng tôi như trên, nhưng ông không nêu ra được một chứng cớ nào để cho thấy nếu theo kế sách đó của ông Tộ thì sẽ không có tình trạng nào đáng tiếc xẩy ra cho tổ quốc ? Giả sử N.T. Tộ có “thành tâm thiện chí” chứ không có âm mưu làm lợi cho Pháp như sử gia Hoàng Thanh Đạm hiểu lầm thì tôi đoan chắc rằng, kế hoạch nầy của N.T.Tộ sẽ giúp cho Pháp đánh chiếm Việt Nam mau lẹ và rút ngắn thời gian đồng hóa dân tộc ta mà thầy của ông từng chủ trương như tôi đã trình bày (NTT, SĐD , tr. 118-128 ). 5. Trọng tâm phê phán nhắm vào tôn giáo?: Đây cũng là một trong những điểm chính mà sử gia họ Hoàng phê bình. Ông còn cẩn thận hơn lúc viết :“Nguyễn Kha dùng tới 77 trang trong 188 trang của luận văn...và Trần Chung Ngọc dành 48 trang trong 70 trang để nói về các vấn đề tôn giáo nhằm phê phán Nguyễn Trường Tộ”. Tôi không xem lại để thấy số trang như vậy có đúng không. Nếu có, cũng không phải vì thế mà bài viết của chúng tôi giảm giá trị. Vả lại, tại sao chúng ta phải tránh né không chịu mỗ xẻ con người và cái tôn giáo đã tác hại cho tổ quốc và cả nhân loại ? Nhưng điều thiếu sót của Hoàng sử gia là không thấy trong hầu hết các bài viết, Nguyễn Trường Tộ đã lồng tư tưởng Thánh-kinh, nói đến giáo hoàng, nhắc tên mấy ông giám mục, linh mục Việt-gian và tình báo rồi đề nghị dùng họ vào việc canh tân và những việc khác. Ông Tộ đã xử dụng hầu hết 58 bản chiêu dụ để nói về Thánh-kinh, để thuyết khách theo sách lược của Pháp, của Vatican và của phái đoàn truyền giáo Hải-ngoại Paris. Dẫu sao, vấn đề quan trọng vẫn không phải ở chỗ tỉ số bao nhiều phần trăm trong bài viết nói về tôn giáo mà vấn đề là bàn đến “canh tân”(?), tại sao nhà thuyết khách họ Nguyễn lại đem những ý niệm sai lầm về Ki-tô-giáo, về Kinh Thánh, giáo-hội, giám-mục, linh-mục vào hầu hết các bản chiêu dụ với dụng tâm gì ? Do đó, nếu chúng tôi có nhiều trang viết về tôn giáo thì đó là điều không thể tránh. Nhưng nếu so với những bản chiêu dụ, chúng tôi thấy Nguyễn Trường Tộ thuyết minh về tôn giáo của ông đến khoảng 90 phần trăm. Và dĩ nhiên, Nguyễn Trường Tộ và có lẽ cả sử gia Hoàng Thanh Đạm chưa biết điều nầy: mấy năm trước đây,“Hội Jesus Seminar”, gồm các giám mục, mục sư, linh mục và các học giả người Công-giáo và Tin Lành, qua nhiều năm nghiên cứu Thánh-kinh, đã khám phá ra rằng “80% Thánh-kinh được ngụy tạo” (Jesus Seminar, which recently declared that Jesus did not say 80% of what is attributed to him. LA Times, 30.3.1991). Vì thế, Thánh-kinh được in thành hai loại mực, đỏ và đen. Mực đỏ là thật, mực đen là ngụy tạo. Thánh-kinh là tôn chỉ của một tôn giáo, cũng như hiến pháp là kim chỉ nam cho một quốc gia. Vậy mà tôn giáo đó lại được thiết lập trên cuốn Thánh-kinh ngụy tạo đến mức độ như thế thử hỏi còn gì là giá trị của nó ? Dẫu vậy, cuốn Thánh-kinh vẫn được xử dụng như một loại khí giới hiệu nghiệm nhất, và mấy chữ “tự do tôn giáo” đã được khai thác triệt-để trong quá khứ để chiếm thuộc địa và đồng hóa dân lành. Ngày nay nhãn hiệu tự do tôn giáo đang bị lạm dụng để ngoại bang theo đuổi một chính sách thực dân mới. Vì thế, Nguyễn Trường Tộ cặp kè với ông giám-mục tình báo và trình bày nhiều về tôn giáo của ông trong hầu hết các bài chiêu dụ là lý do cần phải hiểu . Ông là một trong những người xử dụng chiêu bài canh tân và sách lược tôn giáo nhằm đặt cái thứ có đến 80% ngụy tạo ấy lên đầu dân tộc ta để khống chế trước hết là lãnh thổ và tiếp theo là văn hoá. Chúng tôi không dám bàn thêm vấn đề nầy mà muốn thuật lại lời than phiền cay đắng về đạo Tin-lành và Công-giáo, [4] của vị giám mục Anh-giáo Desmond Tutu, người Phi-châu, được giải thưởng hòa bình Nobel năm 1984, như sau: “Lúc người da trắng đến, chúng tôi có đất đai, họ có cuốn Thánh-kinh. Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm mắt lại và cầu nguyện với cuốn Thánh-kinh trong tay. Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh-kinh, còn họ có tất cả đất đai của chúng tôi..” (We have our lands and they came with their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands). Sử gia Hoàng Thanh Đạm có thể cũng chưa có thông tin sau đây:“Từ 1975, số tân tòng Tin Lành Việt-nam thuộc các dân tộc thiểu số tăng 4 lần...Ý niệm về ngày xuống thế thứ nhì của Chúa vang vọng hấp dẫn đặc biệt với dân Hmong...Cọng-sản VN không quên rằng người Pháp đã cho dân Hmong (Mường) tự trị, và Hmong cũng đã được Mỹ hứa hẹn nhiều thứ. Nicholas Tapp, một học giả Hmong, nói, “Dân Hmong luôn luôn muốn có một quê hương riêng...” Vài nhà truyền giáo đã không ngần ngại hứa hẹn với dân Hmong rằng nếu họ chấp nhận đức tin Kitô (Công-giáo và Tin-lành, BK) thì họ sẽ có quê hương riêng, cũng như sự giàu có như người Mỹ” (báo Thời-Luận, Los Angeles, CA. Hoa-Kỳ, 29. 9.1999). Hai cái bánh vẽ: Chúa xuống thế lần thứ nhì để cứu chuộc và giàu có như Mỹ đã làm cho một số bộ lạc dân-tộc Thiểu-số nỗi loạn muốn ly-khai. Mà chính họ lại không biết rằng, ngài Giê-su đã không tự cứu được mình nên bị đóng đinh vào cây Thập-ác, ngài quá đau khổ khóc la, nước mắt chảy tràn trụa. Cứ nhìn vào ảnh tượng của ngài trong nhà thờ thì thấy rõ. Còn sự giàu có, nhìn nước Phi luật-Tân kế cạnh Việt-nam. 80% theo Kitô nhưng có giàu hơn Việt-nam không? Mặc dầu Phi độc lập và tự trị trước Việt-nam từ lâu. Và nhiều quốc-gia Châu Mỹ La-tinh theo Tin-lành toàn diện, lại là những nước nghèo nhất thế giới! Trong lúc đó, Nhật chỉ có 1% Tinh lành, Công giáo không đáng kể, Phật giáo đa số lại là một nước giàu thứ nhì trên thế giới. Những người đi dụ kẻ khác cải đạo để làm hại cho tổ quốc Việt-nam trả lời thế nào? Một trong những chủ trương của tôn giáo độc thần Tây-phương là đổi đạo dân miền Thượng để thiết lập những quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn, chúng tôi đã báo động 6 kế hoạch của họ trong bài “Những Đại Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam” trong cuốn “Phật Giáo Trong Thế kỷ Mới” tập I, Giao Điểm xuất bản năm 1996, và được nhắc lại trong cuốn Nguyễn Trường Tộ nói trên. Do đó, tháng 2 năm rồi (2001), tại Pleiku người sắc tộc đòi độc lập tự trị, chúng tôi đã biết trước nên không ngạc nhiên . Mấy thí dụ trên cho thấy đến thế kỷ nầy mà người ta còn trắng trợn chủ trương như thế huống nữa là thời ông Nguyễn Trường Tộ. Và do đó, một lần nữa chúng ta thấy rõ hơn tại sao ông Tộ lồng ý niệm Thánh-kinh, nói về Thượng-đế, nhắc đến giáo sĩ... vào hầu hết các bài khuyến dụ. Nghiên cứu ông Tộ hơn 20 năm mà Hoàng sử-gia vẫn chưa thấy cái chiêu bài tôn giáo lại còn phê bình sai: “Trọng tâm phê phán của N. Kha và T. C. Ngọc đối với N. T. Tộ tập trung nhất vào vấn đề tôn giáo” (HTĐ, SĐD. tr. 105). 6. Thực tâm mở Trường Kỹ Thuật?: Bài viết trước đây, tôi đã dành gần 20 trang (từ tr.110-130) để bàn luận về vấn đề nầy một cách khá đầy đủ, từ việc tốn kém mua sắm dụng cụ đến việc khao đãi của nhà vua và sự tán đồng chương trình mở trường kỹ thuật của các quan đại thần trong triều. Tôi cũng nêu lên lập luận sai lầm của Linh-mục Trương Bá Cần về lý do khiến việc mở trường thất bại, cũng như sự mâu thuẫn giữa lý lịch do Bộ Truyền Giáo Paris cho biết và tờ trình về khả năng các thầy giáo mà Tộ và Gauthier trình lên vua Tự-Đức . Tôi nghĩ là vì thiếu thận trọng và cố tình đánh bóng cho ông Tộ, nên Lm Tiến-sĩ sử học Trương Bá Cần đã để lại vô số mâu thuẫn và sai lầm trong sách của ông mà tôi sẽ phê bình vào một dịp khác. Lúc phân tích và đối chiếu sự mâu thuẫn nầy, tôi để đoạn văn trong ngoặc kép và in chữ nghiêng rõ ràng. Nhưng sử gia Hoàng Thanh Đạm trích sai rồi chê tôi, và ca ngợi Nguyễn Trường Tộ điều mà ông ta không hề có. Hoàng Thanh Đạm viết (trang 122): “Anh (Nguyễn Kha) chứng minh việc thầy giáo không có khả năng là: một ông thi đậu cử nhân văn chương mà nói là biết phép toán học, bản đồ và điện khí, một ông thì mới gia nhập Hội-truyền-giáo, đi học khóa kiến trúc một năm mà nói là thạo môn đồ bản và biết làm cột thu lôi...” Ý cũng như lời của đoạn văn nầy không có trong bài viết của tôi. Trái lại, tôi trích nguyên văn của Linh-mục Trương Bá Cần như sau (Nguyễn Trường Tộ, Giao-Điểm 1998, tr.115-117): “Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - “Linh mục Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi”. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - “Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ”. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - “Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tộ⠣ũng được gọi là giáo sĩ, “thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc”. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày “giáo sĩ” nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại”. - “Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng” (TBC, SĐD, tr. 49 & 50). Đoạn văn trên (trong sách của Linh-mục Trương Bá Cần, người ca tụng NTT) đã cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn và lừa dối về khả năng của thầy giáo do Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mời về để mở trường kỹ thuật hay không ? Sử-gia Hoàng Thanh Đạm viết bài tranh luận với chúng tôi nhưng trích dẫn sai cả ý lẫn lời. Ông tiếp tục: “Tất cả những chuyện nầy Trương Bá Cần đều viết rõ trong tác phẩm N.T.Tộ Con Người Và Di Thảo, và Nguyễn Kha đều sử dụng tư liệu của Tr.B.Cần, nhưng anh lờ đi đoạn văn quan trọng của Trương Bá Cần: “Triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam-kỳ đã mất vào tay Pháp (... nên có 3 chấm, BK). Việc dự án mở trường ở Huế không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong triều đình (...) Còn có cả một luồng dư luận khá rộng rãi trong triều đình cũng như ở các tỉnh tỏ ra dè đặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ Pháp (...) Những ngày tháng 4.1868 có một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người Công-giáo” ( Tr.B.Cần, sđd. tr. 51-53 , Hoàng Thanh Đạm, tr.122-123). Sử gia Hoàng Thanh Đạm trách không đúng. Vì cụ cho đoạn văn đó là quan trọng nhưng tôi không nghĩ như thế. Vì vậy mà tôi không trích chứ không phải “lờ đi ”. Thực ra, tôi đã bác bỏ luận điểm sai lầm của Linh-mục Trương Bá Cần về vấn đề thất bại trong việc mở trường và đã viết rõ như sau: “Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài giòng để thấy, triều đình Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và tòa Giám mục Huế, theo thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868 (TBC, SĐD, tr. 50). “Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (SĐD trang 52) ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier gởi thư cho bộ truyền giáo có đoạn như sau: “Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ nầy... Trong các quan thượng thư có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua”. “Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận “vì thế mà trường không mở được”. Theo tôi lý do nầy không đúng. Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4-3-1868 mà chúng ta đã thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị nầy có ý cản trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy. Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho bộ truyền giáo, đề ngày 31-3-1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng cho “phái bộ Gauthier...”. Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình. Hơn nữa Trần Tiễn Thành mới là nhân vật chính trong Triều (chức phụ chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng Bình. Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn thư “gởi cho bộ truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói. Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai ông nầy thì lừa dối triều đình có hậu ý: kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số bằng chứng” (8 đoạn chữ nghiêng trên là trích nguyên văn trong cuốn NTT, Giao-Điểm, tr.113-115). Sử-gia Hoàng Thanh Đạm đọc nhưng không thấy được các chứng cớ tôi đưa ra, nên đã nhận định sai lầm về những sự kiện lịch sử cũng như về người mà mình đang tranh luận. Vì thế ông viết tiếp: “Rõ ràng việc mở trường ở Huế không thành là do nguyên nhân thời thế chứ không phải do giám-mục Gôchiê và Nguyễn Trường Tộ là người đã cất công đi lo toan việc nầy trở mặt đánh lừa nhà vua bằng cách chọn thầy dạy học thiếu năng lực. Vả lại có ai cấm một cử nhân văn học mà có thêm hiểu biết về kỹ thuật, một linh mục học về kiến trúc một năm mà có được khả năng dạy vẽ đồ bản và cách làm cột thu lôi. Lời buộc tội của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc thật là gượng ép” (HTĐ, SĐD, tr.123). Về nội dung đoạn văn này, tôi không những đồng ý cách đánh giá của sử-gia Hoàng Thanh Đạm về khả năng thầy giáo, mà còn muốn nói thêm rằng bằng cấp chỉ là một nấc thang giá trị nào đó của học vấn, chứ nó không nhất thiết sẽ cho thấy kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ. Một chuyên gia không cần có bằng cấp nhưng có thể có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn về vấn đề mà mình muốn dạy cho người khác. Trong bài tôi không hề nói ông thầy giáo nầy chỉ có bằng cử nhân văn chương, ông linh mục kia chỉ có bằng kiến trúc sư ... Mà tôi trích văn thư của Bộ Truyền-giáo qua LM Trương Bá Cần. Rất mong sử gia Hoàng Thanh Đạm nên đọc kỹ hơn lúc tranh luận để tránh tình trạng “Trật đường rầy” (out of context). Giả sử không có ai cản ngăn và không vì hoàn cảnh v.v...như Lm. Trương Bá Cần nêu ra, nghĩa là trường kỹ thuật được mở như dự liệu, thì xin Sử-gia Hoàng Thanh Đạm cho biết bốn ông thầy giáo nêu trên với khả năng và tư cách (mà Bộ Truyền-giáo của họ cho biết) như thế, liệu họ có thể dạy cho trường kỹ thuật được không ? Tôi nghĩ không. Nhưng nếu có ai trả lời có thì câu hỏi khác được nêu ra: thầy trò gián điệp Gauthier - Nguyễn Trường Tộ một mặt : muốn “biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ ” rồi đồng hóa toàn dân Việt Nam như tài liệu mật đã cho thấy, mặt khác lại muốn giúp dân Việt Nam tiến lên để giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân qua con đường giáo dục kỹ thuật, phải chăng không có một sự mâu thuẫn quá lớn ? Trong sách (từ tr.117-129) tôi đã dẫn 5 sử liệu mật của Pháp cho thấy Giám-mục Gauthier là một tên gián điệp nguy hiểm nhất tại Việt Nam thời bấy giờ, ông ta chỉ thua ông giám mục gian ác nhất, Puginier, có một bậc! Còn Nguyễn Trường Tộ ít nhất là 10 năm ròng rã, từ lúc ra cửa Mành-sơn, phụ sức “làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm” vào năm 1858, đến lúc lao xao mở trường kỹ thuật vào 1868, vai kề vai lòng cạnh lòng với tên gián điệp Gauthier mà không biết ông ta là gián điệp, có ai tin nỗi điều đó không? Câu “thầy sao trò vậy”, va蠦#147;Cho tôi biết anh lân la với ai tôi sẽ nói anh thuộc thành phần nào” (Dire moi qui tu hantes je dirai qui tu es) sẽ không sai trong trường hợp Nguyễn Trường Tộ. Giả sử Nguyễn Trường Tộ thật tình không biết thầy mình là tên gián điệp phá nước mình, hại dân ta, thì việc ông lớn tiếng tự khoe cái gì cũng biết (NTT, GĐ, tr.177) sẽ trở thành một kẻ đại ngôn khoác lác và dối trá. Nếu biết mà không tố cáo lại còn viết “... xin giám mục giúp đỡ... Đừng cho giám mục biết tôi đã bàn với triều đình như thế..., Những việc Giám-mục Gauthier có thể giúp”, như thế thì quả thật đó là một loại ngôn ngữ kiểu gián điệp để đánh lừa những người nhẹ dạ cả tin mà thôi. Nên dùng ngữ nghĩa nào để đánh giá N.T. Tộ đây? 7. Bình Tây Sát Tả?: Sử gia Hoàng Thanh Đạm cho chúng tôi có tư tưởng “Bình Tây sát Tả ”. Đó là lời cáo buộc chỉ đúng một nữa, Bình Tây. Cũng như nghĩ rằng chúng tôi viết bài theo lối đặt hàng, và không muốn nước nhà canh tân đổi mới. Xin trả lại những ý nghĩ không có cơ sở và vu khống này cho sử gia. Mong rằng, không nên cáo buộc bất cứ người nào lúc mình không có bằng chứng. Trở lại vấn đề bình Tây sát Tả. Sở dĩ chúng tôi không có tư tưởng“Sát Tả” vì tín đồ Công-giáo và Tin-lành nguyên họ là những người Việt chân thật đầy lòng yêu nước thương nòi. Nhưng lúc trở thành con chiên, chính sách giáo dục của hai tôn giáo nầy đã biến họ từ một người Việt yêu nước thành những kẻ bán nước. Do đó, họ là nạn nhân của các ông giáo hoàng, nạn nhân của các ông giám-mục, linh-mục và mục sư, mà trên hết là nạn nhân của hai cuốn “Thánh” kinh; Tân-ước và Cựu-ước. Vì thế, như trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ, Thực chất con người và di thảo” trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng tại Việt-nam, các tín đồ Phật-giáo, Khổng-giáo và Lão-giáo không bao giờ bị triều đình hay vua chúa trừng phạt, nhưng chỉ có các tín đồ đạo Ki-tô bị mà thôi vì lý do như đã nêu trên. Đó là mấu chốt của vấn đề, chứ chẳng phải có gì khó hiểu để sử gia Hoàng Thanh Đạm cho rằng chúng tôi không hiểu được cái nghịch lý của thời cuộc, nghịch lý tôn-giáo và nghịch lý của triều-đình. Để rõ hơn, chúng ta nên lắng nghe những lời phát biểu sau đây: Giáo-sư Lý Chánh Trung, một trí thức Công-giáo trong cuốn “Tôn Giáo và Dân Tộc” phát biểu rằng ‘Đặt mình vào địa vị của các vua quan nhà Nguyễn thời bấy giờ, chúng ta cũng không thể làm khác hơn được’. Đô-đốc R.de Genouilly cũng khẳng định: “Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ” (các giáo sĩ, BK). Hiến pháp 1917 của Mễ Tây Cơ đặt giáo hội Công-giáo ra ngoài vòng pháp luật, mặc dầu 80% dân Mễ theo Công-giáo. Giáo-hội Công giáo Mễ bị truất hữu tài sản, linh mục và bà xơ bị cấm không được dạy học, không được nuôi trẻ, không có quyền bầu cử, ứng cử, ra đường không được mặc áo dòng...Sở dĩ hiến pháp phải buộc chặt tay họ như thế vì sợ họ bán nước cho ngoại bang như họ đã từng làm trong quá khứ. Ngay cả đến ngày nay mà nhân loại còn đặt mình trong tình trạng báo động về Ki-tô-giáo (Công-giáo và Tin-Lành). Thật vậy, quốc hội Nga ngày 22.7.1997 thông qua một dự luật với đa số tuyệt đối “Cấm Tin Lành và Công-giáo truyền đạo tại Nga, ngoại trừ Hồi, Do Thái, Phật và Chính-thống-giáo” (It pleges respect for Islam, Judaism, Buddhism, and the nation’s largest faith, Russian Orthodoxy. LA Times, Wed. July 23, 1997). Còn Do-thái và hầu hết các quốc gia Hồi-giáo, vì an-ninh quốc-gia, vì chủ quyền đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, nên họ không bao giờ cho phép các giáo-sĩ Kitô đến truyền đạo trên đất nước họ. Dẫu vậy, cũng chẳng có cường quốc nào hoặc tổ chức nhân quyền nào lên án vi phạm tự-do tôn-giáo và nhân quyền đối với các nước nầy. Gần chúng ta, hiện nay Trung Quốc cũng vẫn còn sợ cái “Đạo quân thứ năm (Fifth Column) là Công giáo và Tin-lành, đang mai phục sẵn trong nội địa ! Vì thế, trước ông Nguyễn Trường Tộ cả trăm năm, đại tư tưởng gia Voltaire (1694-1778) đã nhận định “Suốt 17 thế kỷ qua, Công-giáo và Tin Lành chẳng làm nên tích sự gì, chỉ có hại mà thôi ” ( The Christian sect has done nothing but harm). Tháng 2, 2001, đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành ở Pleiku đòi độc lập tự trị. Vì an ninh quốc gia và vẹn toàn lãnh thổ, và giả sử đó là chính quyền do Sử-gia Hoàng Thanh Đạm lãnh đạo, tôi không nghĩ là ông có thể ngồi yên ? Thế kỷ 17, sau những cuộc nổi dậy của giáo dân, chính phủ Nhật nhờ có Hòa Lan giúp sức, đã tiêu diệt được những kẻ nội thù trên quê hương họ vào năm 1637. Do đó, lúc canh tân, Nhật không bị các lực cản. Còn Việt Nam, giả sử vua quan nhà Nguyễn có chương trình canh tân, thì chính thầy trò Nguyễn Trường Tộ sẽ chống phá trước tiên. Vì nếu không, làm sao ông Giám-mục tình báo Gauthier thực hiện được kế hoạch “biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ” như ông đã từng chủ trương? Gauthier là một tên gián điệp cao cấp, tôi đã chứng minh bằng 5 tài liệu mật không thể chối cãi! Vì vậy, cựu thẩm phán Charlie Nguyễn, vốn là một trí thức Công-giáo, đã hô lớn: “Cách mạng 1 tháng 11, 1963 Muôn Năm. Điện Biên Phủ Muôn Năm. Bình Tây Sát Tả Muôn Năm” (Charlie Nguyễn, “Công-giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, Giao Điểm, hè 2001, tr.). Mặc dầu chúng tôi chỉ đồng ý việc “bình Tây” mà không “sát Tả ”, nhưng mỗi người có một cách nhìn chủ quan tuy cùng phát xuất từ tinh thần yêu nước như chúng ta. Vì thế, suy nghĩ chín chắn và nhìn lịch sử theo chiều dài của nó, từ đó có thể rút ra được một bài học để tránh những tái phạm. Một số vấn đề khác mà nói ra sẽ bị mất lòng, đụng chạm và dễ bị hiểu lầm. Nhưng dù nói hay không, thì nó là một sự thực không thể chối cãi. Đó là Phật-giáo, Cao Đài và Hòa Hảo, tuy có số lượng tín đồ đông tại nhiều nơi ở Việt Nam nhưng họ không bao giờ đòi độc lập tự trị. Trái lại, nếu là Công-giáo hay Tin-lành thì sự việc sẽ xảy ra. Lúc ở thế yếu, họ kêu gọi đoàn kết và hô hoán “không có tự do tôn giáo”. Nhưng lúc mạnh, họ giết và cưỡng bách kẻ khác phải theo họ, đổi đạo. Ngay cả những vấn đề như hôn nhân giữa các cặp vợ chồng, họ cũng “bắt bí”, cũng như lợi dụng hoàn cảnh tang chế của những gia đình nghèo để vào phút lâm chung cải đạo người ta. Tình trạng nầy đã kéo dài từ lâu, nay vẫn còn tiếp diễn. Thật là một sự vi phạm nhân quyền và chà đạp quyền tự do tôn giáo trắng trợn và phi lý đến thế ! Vậy mà cứ mở miệng ra là hô hoán “Vi phạm nhân quyền, chà đạp quyền tự do tín ngưỡng ”. Làm như hai thứ đó là đặc sản của riêng họ, không ai được phép đụng đến ! Hơn tám cuộc “Thánh” chiến đẫm máu trong lịch sử nhân là một bài học bi thảm. Đông Timor ở Nam Dương, sau bao năm biểu tình bạo động xương rơi máu đổ, đã độc lập tự trị sau một cuộc bỏ phiếu (tháng 8, 1999) là một bài học khác. Tin Lành và Công-giáo tại Bắc Ái Nhĩ Lan đang còn chém giết nhau vì số lượng tín đồ của hai tôn giáo nầy xấp xỉ bằng nhau. Tại Việt Nam, nếu một ngày nào đó số lượng con chiên Công-giáo và Tin-lành tăng lên ngang ngửa với tín đồ các tôn giáo khác thì Việt Nam sẽ nội chiến, và sẽ có nhiều tiểu quốc tự trị trên giải đất hình cong chữ S! Do đó, bất cứ ai, có thái độ “bảo hoàng hơn vua”, không dám đối diện với sự thực hoặc uốn bút theo thời, xa rời lịch sử là điều rất đáng phàn nàn và đắc tội với tổ quốc. Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết: “Trong lịch sử các tôn giáo khác nhau công kích nhau thậm tệ là chuyện bình thường. Có khi còn chém giết nhau nữa”. Chúng tôi cũng biết sử gia muốn nói gì trong câu nầy. Chúng tôi chỉ mong rằng ông đừng sợ, cứ nói rõ tên đó là tôn giáo nào, như thế câu văn mới đủ nghĩa. Và nếu khách quan, chúng ta sẽ thấy trong suốt chiều dài lịch sử, Phật-giáo chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm đổ máu bất cứ một ai để bảo vệ hay bành trướng hoặc bất cứ một lý do nào khác. Trong giáo lý đạo Phật, không có chỗ nào Phật dạy phải làm hại kẻ khác, kể cả các sinh vật hữu tình lẫn vô tình. Từ đó để thấy cuộc khủng bố tại Mỹ tháng 9 năm 2001 vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ thêm rằng từ nhiều ngàn năm nay, phần lớn các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ tôn giáo, nhưng trong đó không có Phật-giáo. Chú thích: [1] Trong cuốn “NTT, GĐ, tr.8, phần chú thích tôi đã viết: “Bài viết nầy tôi không tìm hiểu mức độ chính xác của việc dịch các bài Điều Trần từ nguyên bản chữ Hán và lúc sao chép từ bản gốc, người chép lại có thêm bớt hay bỏ sót câu nào hoặc đoạn nào không” . [2] Đó là chưa nói đến, những gián điệp văn hóa và tình báo được ngoại bang huấn luyện rồi để lại trên đất nước Việt-nam sau năm 1975. Những thành phần nầy, thường cố tình tráo trở lịch sử để chạy tội và để phục vụ cho ngoại bang [3] Áo màu đen, rộng của các giáo-sĩ. [4] Lúc so sánh sự tác hại giữa Công-giáo và Tin-lành, Đại-tá Robert Ingersoll ví Công giáo như con cá sấu lớn (alligator) và Tin-lành như con cá sấu nhỏ( crocodile) [Công-giáo chính sử, Trần Chung Ngọc, tr.259-260]. III. NHỮNG MÂU THUẪN VÀ SAI THỰC TẾ Để thấy rõ hơn về ông Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi tóm lược một số mâu thuẫn và sai thực tế giữa ý kiến của ông và tình hình chính trị cũng như thực trạng xã hội lúc bấy giờ. 1. Nguyễn Trường Tộ: “Ai hòa với họ là phúc, chống lại họ là họa... hòa với Pháp là thượng sách... nên cho lính nghỉ ngơi... để Pháp giữ bờ cõi cho mình như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Quân ta mới nghe thanh thế Pháp đã phách lãng hồn xiêu...”. Nhưng các tài liệu mật của Pháp cho thấy từ 1858 đến năm 1863, tình hình quân đội Pháp tại Việt Nam vô cùng nguy kịch. Họ có ý định rút về và bỏ hẳn mọi mưu toan đánh chiếm Việt Nam. Hơn nữa, lúc tổ quốc lâm nguy, giang sơn bị quân thù chiếm đóng mà “Cho lính nghỉ ngơi” thay vì tổng động viên. Một “danh nhân” cho đất nước nào mà kỳ quái đến thế ? 2. Nguyễn Trường Tộ: “Tại sao giết giáo sĩ ”. Ý kiến của Đô-đốc R. De Genouilly: “Không một nền cai trị nào, dẫu phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có thể dung thứ...” 3. Nguyễn Trường Tộ: “... giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống gian tà,... chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả ”. Nhưng Đô-đốc Boanrd (ngày 24.7.1862) cho biết: “Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại, thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ... Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha, thường chiếm cứ miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn”. 4. Nguyễn Trường Tộ: “Lúc đầu dân bản xứ xem họ như thù địch, dần dần chịu gần gũi... những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình... Họ là kẻ phở hoang mà ta thì hưởng cái thành quả” ! Tộ viết như vậy để thuyết phục Việt Nam hợp tác với Pháp. Nhưng lịch sử cấu trúc của Hoa Kỳ không cho thấy như thế. Ông viết tiếp: “Xin kể ra các phương pháp làm hột nổ và đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ học, hóa học, khai thác mõ than”. Nhưng đọc trong bài và kể cả các bài chiêu dụ khác chúng ta cũng không thấy ông nêu ra một phương pháp nào cả. 5. Nguyễn Trường Tộ: “Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với giáo hoàng...” để nhờ giúp đỡ. Nhưng kể từ Giáo-hoàng Innocent X, 1652, đến những ông giáo hoàng kế tiếp, tất cả đều vận động để Pháp chiếm nước ta. Dưới đây, là vài sử liệu thu gọn: “Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc... tiếp xúc với các đại diện Giáo-hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này... các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vật quan trọng như Tổng-giám-mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng-hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh-mục Huc,... cựu đại diện Giáo-hoàng ở Trung Quốc... và Giám-mục Pellerin đại diện Giáo-hoàng tại Bắc Nam-kỳ”... Kế đến tháng 11, Giám-mục Pellerin đi Rôma, Giáo-hoàng Pie IX tán thành các vận động...” (đánh chiếm Việt-nam, BK). Do đó, tôi đã kết luận: Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình thương hiếu với giáo hoàng cũng tương tự như khuyên cha mẹ gởi con cho cọp. 6. Nguyễn Trường Tộ: “Gấp rút việc sửa đổi võ bị”. Nhưng về chiến lược, thì ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Về binh, ông khuyên nên cho lính nghỉ ngơi thay vì phải tổng động viên, phải nghiên cứu phương pháp huấn luyện như thế nào, đánh theo cách nào cho hợp với tình hình mới và các phong trào nghĩa quân hiện có nên chỉnh đốn bổ túc thế nào để chống Pháp có hiệu quả hơn, v.v... Giả sử đất nước có điều kiện và phương pháp để canh tân, và ngay cả trong thời bình, cũng cần binh lính để giữ an ninh trật tư,uống nữa là thời chiến mà lính thì ông Tộ khuyên nên cho nghỉ ngơi. Thật là nghịch lý! Còn giải pháp nhờ người Anh huấn luyện lính cho ta mà ông Tộ đề cập trong bài “Lục lợi từ”, tôi đã chứng minh là không thể thực hiện được. Hơn nữa, dụng tâm chính của Tộ là dụ triều đình gởi con cho cọp. Tất cả các bài chiêu dụ, trong đó có bài LLT, của Tộ cũng được viết theo tình hình chính trị của Pháp và Việt Nam thời bấy giờ để bủa lưới, nhưng được ngụy trang và theo lối tình báo để che đậy cái hậu ý của mình, chứ chẳng phải canh tân canh cải gì đâu mà lầm! Để rõ hơn xin đọc tiếp dưới đây. 7. Nguyễn Trường Tộ: “Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam-kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa” (Di Thảo số 27, TBC, SĐD, tr.239). Tại sao Tộ khuyên như vậy ? Vì dân Nam-kỳ lúc đó đã làm cho thực dân khó bình định các vùng mới chiếm, như Sử-gia Chesneaux mô tả:“cuộc ra đi” hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam-kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến. “Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các đô đốc toàn quyền, muốn duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam-kỳ, chỉ còn xử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới. “Đề-đốc Rieunier, về sau, nói rằng “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực” (Xin xem thêm NTT, Giao Điểm, SĐD, tr.59-65). Đó là thêm một bằng chứng cho thấy cái tâm địa và hành trạng của ông Tộ, là một người “phục vụ những ông chủ mới”, một phần tử trong“những giáo dân và bọn du thủ du thực” núp dưới chiêu bài canh tân ! Chúng ta nên thận trọng, chớ lầm. 8. Nguyễn Trường Tộ: “Bổ túc kế hoạch đánh-úp Gia Định” viết ngày 9.2.1871. Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ “Kế hoạch đánh úp Gia Định” dễ khiến chúng ta có nhiều thiện cảm và kính trọng Nguyễn Trường Tộ, tác giả của kế hoạch. Sử gia Hoàng Thanh Đạm cũng nằm trong cái tâm tư yêu nước đáng quí ấy nên ông viết : “Thế rồi thời thế chuyển biến: năm 1870 nổ ra chiến tranh Pháp-Phổ. Pháp thua to,vua Pháp Louis Bonaparte bị bắt làm tù binh tháng 9-1870, rồi nổ ra cách mạng Công-xã Paris tháng 3-1871. N.T.Tộ thấy rõ đây là một cơ hội rất tốt phù hợp với điều ông dự đoán“cơ hội khôi phục phải sau 10 năm (N.tr.Tr.316). Từ tháng 2 đến tháng 5.1871 ông liên tục viết 7 bản điều trần liên quan đến kế sách khôi phục: Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ. Bổ túc kế-hoạch đánh úp thành Gia-định,” v.v. (HTĐ, SĐD, tr. 116 & 117). Sử gia bị thu hồn vào mấy chữ “kế hoạch thu hồi, kế hoạch đánh úp, cũng như kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chú trọng thực dụng, phải đổi mới, canh tân, v.v. ”, rồi cứ thế mà ca tụng ông Tộ lên tận mây xanh, chứ không chịu tìm hiểu xem các đề nghị được lồng dưới các cụm từ hoa mỹ đó có gì mâu thuẫn, khả thi và dụng tâm của N.T.Tộ là gì? Tôi nghĩ rằng Hoàng sử gia không phải nhọc công nghiên cứu ông Tộ đến 20 năm, mà chỉ cần khách quan tìm hiểu các đề nghị rồi đối chiếu với sử liệu, là sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng vì những mâu thuẫn nội tại, sai lầm, phi-lý và dối trá trong hầu hết 58 bài chiêu-dụ của ông, và đặc biệt, cái gọi là “Kế hoạch đánh úp Gia-định”. Thật vậy, trước đó 7 năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandiere bất chấp lệnh của chính phủ ông là “Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam-kỳ”, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandiere đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng ông Tộ viết bài chiêu dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã “cho lính nghỉ ngơi ” từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại “bày mưu” đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam-kỳ và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? N.T.Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định để chỉ huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông Giám-mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Trong bài chiêu dụ nầy, có thêm vài chi tiết rất quan trọng khác chúng ta cần lưu ý: (a) Ông Tộ tiết lộ: “ Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia Định đã nhiều lần muốn đem công việc bộ Công giao hết cho tôi ”(T.B. Cần, tr. 327). Điều nầy cho thấy ông ta được đô-đốc La Grandiere, tin dùng đến mức“đem công việc bộ Công giao hết cho” y. (b) N.T.Tộ viết :“Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế(Khoản nầy các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá để chôn thuyền như thế ? Và dưới đây là một đề nghị hết sức quan trọng: © Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết :“Kế nầy phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành” (T.B. Cần, SĐD, tr.331). Thời gian “hai năm” đã tố cáo cái dã tâm của ông. Thế mà một sử gia đã nghiên cứu ông ta đến hơn 20 năm mà vẫn không thấy hoặc cố tình không muốn thấy ? Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta nhất định thắng mà Pháp chắc chắn thua. Đó là điều mà ông Tộ, những người Việt-gian và thực dân không bao giờ muốn ! Cáo buộc N.T.Tộ không muốn Việt-nam thắng Pháp có oan không, chứng minh ? Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được ? Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19.7.1870, nhưng mãi tới ngày 5.8.1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều-đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục-tỉnh Nam-kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25.9.1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: “Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp-soái thương cho ta biết, ngài khiế⮠quan thương-bạc hỏi thăm”. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam-kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam-kỳ” (Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr.66). Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng N.T.Tộ khuyên phải “hai năm” sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế ? Mấy hàng đầu của bài“Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” (viết trước bài “Kế hoạch đánh úp Gia-định” 8 ngày) ông Tộ nói “Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”. Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn dối trá không biết ngượng, thế mà sử gia Hoàng Thanh Đạm cứ cặm cụi ca tụng “một danh nhân văn hóa, một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước”! Giả sử triều-đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính-trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam-kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc-kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc-kỳ, nhưng cũng giống như La Grandiere, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy: “Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá-tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: “Ở Bắc-kỳ, quan lại An-nam-mít bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần-dương-hạm, mà chỉ cần phái một tuần-dương-hạm cùng vài pháo-hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc-kỳ trở thành một thuộc địa Pháp” (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris,1910, p.125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 81). N.T.Tộ, một người “yêu nước, cao kiến, sáng kiến lớn” là thế đấy! Trên đây là vài phân tích để thấy cái hậu ý và âm mưu “Đánh úp Gia-định” của N.T.Tộ! Nếu nhìn kế sách nầy dưới khía cạnh tình báo, gián điệp và phản gián, chúng ta sẽ biết thêm một số dụng tâm khác của N.T.Tộ lúc đề nghị “phải hai năm” nữa mới đánh chứ không phải bây giờ. Mời độc giả đọc mục số 9 kế tiếp, để hiểu rõ thêm cái dụng tâm của ông. 9. “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” : viết ngày 1.2.1871, và“Kế hoạch đánh úp Gia-định” viết ngày 9.2.1871. Hai bài nầy viết cách nhau 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu “nước rút”. Tại sao vậy ? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy. Tại chính quốc, Pháp bị “tang gia bối rối ” vì thua Phổ. Triều đình Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một quốc gia vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước bằng võ lực, nhưng triều-đình vua Tự-Đức lại quá ngây thơ không chịu đánh. Dẫu vậy, quân đội Pháp tại Nam kỳ dĩ nhiên là thấp thỏm đứng ngồi không yên vì run sợ một trận đánh úp của quân đội Việt-nam có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Do đó, ông Tộ hẳn được lệnh quan thầy phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để “kẻ thù của Pháp” xử dụng con đường ngoại giao thay vì quân sự. Trong đó có việc cử phái đoàn đi Pháp, đi Anh và Y pha-nho để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ không dùng võ trang. Đó là kế đẩy đối phương (Việt-nam) về hướng khác, hướng ngoại-giao. Tuy vậy, khuyên theo kế sách ngọai-giao trông lộ liễu và phi lý quá! ngoài ra, để cầm chắc triều đình Việt-nam theo con đường đi xin chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ “Kế hoạch đánh úp Gia-định” nhằm mục đích nhận diện xem ai xuất hiện đề nghị đánh, thì Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoản binh, khuyên không nên đánh bây giờ mà phải “hai năm” sau, như đã phân tích ở mục số 8 nói trên ! Nói gọn, thời vua Tự-Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình một lòng quyết chiến chứ không hòa thì Pháp đã rút khỏi Việt-nam như đã chứng minh ở phần trước. Nhưng ông Tộ khuyên nên cho lính nghỉ ngơi, hợp tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình! Cơ hội hai là từ tháng 9 năm 1870 đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có, nếu đánh thì tất thắng, nhưng ông Tộ khuyên nên theo đường lối ngoại giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân đội Việt-nam có thể đánh, nên ông cũng bày ra chuyện đánh, nhưng không đánh bây giờ, mà phải hai năm sau. Nói rõ hơn, mặc dầu Hoàng sử gia hồ hởi ca ngợi, nhưng thực sự 7 bài viết của ông Tộ từ tháng 2 đến tháng 5,1871, chỉ xoáy vào một trọng điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách thuộc địa của Pháp là tránh, đừng để Việt-nam xử dụng vũ lực đối với quân Pháp tại Nam-kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết 58 bài chiêu dụ của ông N.T.Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt. Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt-nam xử dụng võ lực đối với thực dân Pháp. Hai, xử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám-mục linh-mục lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm Công-giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, ông Tộ phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải xử dụng những danh từ hoa mỹ, phải bày ra chương trình nầy, kế hoạch nọ để đánh lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp và Vatican mong muốn. Cũng thế, hành động của ông Tộ giống như ông Huỳnh văn Trọng, một điệp viên tình báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho cựu Tổng-thống Nguyễn văn Thiệu trước năm 1975 tại Sai-gòn. Ông Trọng phải giả bộ nguyền rủa “Bác và Đảng”, phải chê bai các nước Cọng-sản thậm tệ, phải năng nổ bày ra kế hoạch nầy chính sách nọ v.v., mới có thể che được mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt-nam Cọng-hoà, để hoàn thành nhiệm vụ mà đảng và nhà nước đã tin tưởng giao phó. Dưới đây, tôi sẽ phân tích một bài chiêu dụ khác của ông Tộ để thấy rõ thêm rằng, cứ mỗi bài viết, ông đều hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình và quyền lợi của thực dân Pháp và của Vatican. 10. N.T.Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phan Thanh Giản... và các sĩ phu yêu nước như : Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch...N.T.Tộ được gán cho hai chữ “canh tân” và “yêu nước”, nhưng đọc tất cả 58 bản điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông Tộ nhắc đến tên vài người Việt nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc “đánh úp” mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo-hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt-gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn Quyền de Lanessan và Giám-mục Puginier như sau: “ De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công-giáo cả.” (Nguyễn Xuân Thọ, SĐD, tr.436-437). Chúng ta nhớ rằng, Gauthier (thầy của ôngTộ) là thuộc hạ của Puginier tại Việt-nam vào giai đoạn ấy. Đó là lý do để giải thích tại sao Tộ không bao giờ nhắc đến tên một sĩ phu nào ngoại trừ các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt-gian. Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của ông Tộ, trong sách “Nguyễn Trường Tộ con người và di-thảo” của Lm. Trương Bá Cần cũng như trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ thời thế & tư duy cách tân ” của H. T.Đạm. Nhưng, bài nầy chỉ liệt kê10 trường hợp tiêu biểu nhân lúc viết về một chương sách mà Hoàng sử gia đề cập đến cuốn sách của chúng tôi. IV. KẾT LUẬN Như tôi đã viết trong bài trước đây, đọc hết 58 bản chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ, một vài chỗ ông tỏ ra thành khẩn, có lòng yêu nước và vài đề nghị hợp lý như cải cách phong tục, chỉ huy đào Thiết Cảng. Về kiến thức, so với những thanh niên Việt Nam khác lúc bấy giờ vào tuổi khoảng 35, thì Nguyễn Trường Tộ là người xuất sắc nhờ chu du nhiều nước. Nhưng về những đề nghị gọi là“cải cách” của Nguyễn Trường Tộ, thì dưới đây là một bức tranh khá chính xác về ông ta: 1. Ý thức hệ chủ đạo: ông Tộ phán: “Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được”. 2. Lúc đất nước lâm nguy: tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn rút về, ông khuyên“cho lính nghỉ ngơi” . 3. Về thế quốc tế: “thương hiếu với giáo hoàng La Mã” , như gởi con cho cọp. 4. Cố vấn: ông “Giám-mục tình báo Gauthier có thể giúp”. 5. Trường kỹ thuật: được điều hành bởi “3 ông linh mục” không có khả năng, “còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện không thể dùng”. 6. Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: “các giám mục tình báo sẽ cử người coi sóc”. 7. Canh tân đất nước: có “4 ông linh mục” Việt-gian phụ trách : Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu [1] (Tất cả những chữ nghiêng và trong ngoặc kép là của N.T.Tộ và của Lm. Trương Bá Cần ) . Như thế, từ tư tưởng chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, từ ông có thế lực đến gả cố vấn, nhân viên thừa hành đều do ngoại bang, gián điệp và các tên giáo sĩ Việt-gian điều khiển hết ! Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng Nguyễn Trường Tộ cũng như Giám-mục Gauthier là hai tên tình báo song hành, đồng tác giả của 58 bản chiêu dụ, trong đó, ý thì của Gauthier nhưng lời thì của N.T.Tộ. Xuyên qua Gauthier, Pháp và Vatican muốn ông Tộ phải viết như thế nào, lộng giả thành chơn và ngụy trang như thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào các bẫy sập của chúng. Vì thế, nên chúng ta không lấy làm lạ tại sao những ý kiến trong các bài khuyến dụ của ông vừa trái ngược với tình hình, lại vừa mâu thuẫn với nhau, bủa một mạng lưới Công-giáo toàn cõi Việt Nam . Công-giáo toàn cõi Việt-nam thì sao? Có gì sai trái mà hai ông Bùi Kha và Trần Chung Ngọc“dị ứng” ? Sợ bị hiểu lầm có tư tưởng “Bình Tây Sát Tả”, nên chúng tôi mượn ý kiến và nhận xét của những người Pháp có thẩm quyền để trả lời câu hỏi ấy một cách chính xác như sau: Giám-mục Puginier: “Lúc nào Bắc-kỳ trở thành Công-giáo thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ” và “Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng”. Đô-đốc Page: “Không có một người Công-giáo An Nam nào lại không muốn làm lính dưới cờ Pháp”. Công-sứ Bonnal: “Khi một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ chối không đóng thuế, ...không thừa nhận chính quyền”. Đô-đốc Paul Bert: “Nếu tất cả dân An Nam đều Công-giáo, thì chúng ta sẽ lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta”. Nguyễn Trường Tộ, một người “yêu nước” nồng nàn, một nhà “canh tân” lớn, một kiến thức “vượt thời đại” đã hăm hở nhưng lại thập thò núp sau màn sa mù canh tân để đưa dân tộc ta vào kế hoạch mà 4 ông thực dân, gồm đô đốc, công sứ và giám-mục đã cho thấy như trên ! IV. CÔNG VÀ TỘI Nếu lọc lựa ý tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong 58 bài chiêu dụ rồi ghép lại có thứ lớp thì một số đề nghị của ông có giá trị và dùng được, nhất là thời bấy giờ. Rất tiếc, vì đường lối giáo dục của Vatican đã biến N.T.Tộ thành một người phục vụ cho Pháp và La-Mã, nhưng được núp sau bức màn canh tân và những mỹ từ :“Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chỉnh trang quốc phòng, kỹ thuật, thực dụng, đánh úp...”. Vì thế, nhiều người bị cuốn hút bởi những mỹ từ trống rỗng và lừa dối ấy. Một số khác ca tụng vì tình cảm tôn giáo và óc địa phương, hoặc nhặt vài khúc gỗ quí trong rừng rồi nghĩ cả cánh rừng đều chứa đầy gỗ quí. Nhưng không có cái gì có thể che đậy lâu dài dưới ánh sáng mặt trời. Thật ra, chúng ta có thể biết tâm chất của N.T.Tộ lúc thấy ông cùng với Giám-mục tình báo Gauthier đến cửa Mành-sơn ngày 16.10.1858 để hỗ trợ đồng bọn. Ở đó, đã có “Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẳng, đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”. Với hành động ấy, chúng ta kết luận như thế nào về N.T.Tộ, ông là một người yêu nước hay một tên đại Việt gian? Nhưng để được công bằng hơn, chúng tôi đề nghị công và tội của ông như sau: Công : 1. Chỉ huy đào Thiết cảng, 2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấgiờ là chỗ để cho các giáo sĩ gián điệp và Việt-gian cư trú, 3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, v.v. Tội : 1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc “làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”, 2. Năm 1861“làm thư ký và thông dịch” cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp“để mở rộng vùng chiếm đóng” tại Sài-gòn, 3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier hơn 10 năm, cùng với tên nầy thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình cho quyền lợi của Pháp và Vatican, 4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để cứu vãn cảnh lâm nguy của quân đội Pháp từ 1858, 5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế, 6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải-dương vào Huế để toàn dân nổi loạn, 7. Đề nghị thương hiếu với giáo-hoàng để thúc đẩy tiến trình Công-giáo hóa Việt-nam. 8. Đề nghị dùng linh-mục Việt-gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh-mục và giám-mục đã có mặt khắp nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt-nam, 9. Năm 1868, ngăn cản triều-đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam-kỳ, 10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N.T.Tộ khuyên phải dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau. Ba tội 1, 2 và 3 thuộc về đại hình, bảy tội sau thuộc về khinh tội. Những tội danh tóm lược như trên, cũng là nguyên nhân để giải thích lý do tại sao N.T. Tộ phải trốn ra nước ngoài và bị triều-đình nghi ngờ. Chứ chẳng có gì gọi là “Điều nghịch lý” như Hoàng sử-gia hiểu sai. Và chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận!” (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm). Mặc dầu bản tính của người Việt luôn luôn biết cảm thông và tha thứ cho những người đã biết ăn năn hối hận những việc làm sai quấy của mình. Nhưng để răn đe hậu thế, nên những con đường hay trường học mang tên N.T.Tộ để vinh danh ông cần phải tháo gỡ để khỏi nhục quốc thể, và để làm gương. Trên bia mộ cũng cần liệt kê công và tội của ông để lịch sử được phân minh. Viện sử học Việt Nam và Bộ Văn Hóa nên cử một ban nghiên cứu công và tội của một số người được vinh danh trước đây, trong đó có ông Nguyễn Trường Tộ, rồi công bố cho quốc dân biết. Còn ý kiến của chúng tôi dĩ nhiên không tránh khỏi khiếm khuyết cần được các bậc cao minh chỉ giáo. Bùi Kha 22. 2. 2002 VÀI LỜI VỚI CỤ HOÀNG THANH ĐẠM Lúc viết bài thảo luận với cụ về ông N.T.Tộ, tôi chỉ đọc 24 trang cụ phê bình cuốn sách của chúng tôi. Và nghĩ rằng, vì thiếu sử liệu nên cụ đã không thấy bộ mặt thực núp sau bức màn “canh tân” của ông Tộ, nên cụ mới phạm quá nhiều lầm lẫn về sử kiện, và để lại không ít những luận điểm sai và mâu thuẫn với nhau trong chương phê bình sách của chúng tôi. Nhưng lúc viết xong, tôi đã đọc hết cả cuốn sách. Tôi rất đổi ngạc nhiên và thành thật để thưa rằng, cụ chẳng phải là nhà nghiên cứu sử học hoặc sử gia, ít nhất là về N.T.Tộ. Tôi tìm thấy nơi cụ đã có một định kiến và cái khuôn đúc sẵn về ông Tộ, nên lối lập luận của cụ chỉ dựa vào cách suy diễn mang đầy cá tính và tùy tiện, thay vì khách quan và căn cứ vào sử liệu để phân tích, tổng hợp và kiểm chứng để truy tìm sự thật. Nói rõ hơn, sách cụ không phải là một tác phẩm nghiên cứu, mà chủ yếu là sắp xếp Linh-mục Trương Bá Cần... nói thế nầy, ông Tộ nói thế kia chứ không cần biết nói như vậy là hàm ý gì? Nói như kia đâu là bằng cớ? Cũng như hoàn cảnh và môi trường nào thúc đẩy ông ta nói như thế? Trong “Danh mục sách và tư liệu tham khảo”, cụ liệt kê một số sách mà tôi có đọc như : Cuốn sổ bình sanh của Trương vĩnh Ký của Nguyễn sinh Duy, Hành trình và truyền giáo của A. de Rhodes, Biên niên sử Việt-nam 1858-1896 của Dương kính Quốc, Việt-nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn thế Anh, Kinh Thánh Tân ước, v.v.. Đọc sách cụ, và đối chiếu số sách dùng để tham khảo, tôi thấy cụ chẳng để tâm đọc những cuốn sách nầy một cách nghiêm chỉnh, và cách trình bày lại thiếu phương pháp luận và sai lầm. Đặc biệt là trong danh mục tham khảo có liệt kê hai cuốn sách của hai giáo sư Dương Kính Quốc và Nguyễn thế Anh, cụ chẳng đọc để thấy sự dối trá của ông Tộ. Trái lại, cũng qua hai cuốn đó, tôi được biết thêm cái hậu ý của N.T.Tộ về việc khuyên triều-đình trong bài chiêu dụ“Bải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp”, bài “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” và bài“Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-định” v.v. như đã trình bày phần trước. Trong bài viết từ trang 95-98 (NTT, GĐ, SĐD), tôi đã chứng minh rõ: ông Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn “Tôn Ngô Binh Pháp” về “Việc sửa đổi võ bị”. Trang 118 cụ viết:“Khi N.T.Tộ bàn về kế sách quân sự thì Ng.Kha đối chiếu các câu văn trong Tôn Ngô binh pháp và phê phán “Hầu như N.T.Tộ lấy ý trong sách nầy, đã vậy ý của N.T.Tộ còn kém xa”. Điều đó có nghĩa là cụ đã biết ông Tộ ăn cắp ý của người khác. Thế nhưng, trong sách từ trang 209-212 (NTT, thời thế & tư duy cách tân) nhằm ca tụng ông Tộ cho bằng được, nên cụ không cần để ý đến điều nầy nữa. Trái lại, cụ viết,“ông (Tộ) đặt vấn đề một cách độc đáo”, rồi liệt kê 6 điều độc đáo để ca ngợi ông ta, mà thực ra 6 điều đó là của ông Tôn Tử trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Cách viết như vậy, thật là vô trách nhiệm. Độc giả đều cảm thông những người nhầm lẫn hoặc thiếu sử liệu, nhưng có lẽ không ai chấp nhận kẻ cố tình lấy văn và ý của người nầy gán cho người kia! Ngay cả lúc cụ tóm lược ý kiến của Chủ-tịch Hồ chí Minh (SĐD, tr. 56) nhận xét về ông N.T.Tộ, được trích ý từ cuốn hồi ký của cụ Vũ đình Huỳnh do nhà văn Sơn Tùng sưu tầm (cụ cho biết như thế), cụ đã không nhận ra quan điểm của một chính khách và chính sách của nhà nước, khác với lối nhìn dựa vào lịch sử của một nhà nghiên cứu. Đó là chưa nói đến xuất xứ và bối cảnh lúc phát biểu của Chủ tịch Hồ chí Minh về N.T.Tộ, và ngay cả việc Linh-mục Lê Hữu Từ (người chủ trương khu Công-giáo tự trị thân Pháp) mà cũng còn được mời làm cố vấn. Nếu có ai ngây thơ tưởng rằng Chủ-tịch Hồ Chí Minh cũng đồng ý “khu vực tự trị thân Pháp”, nên mới mời linh-mục nầy làm cố vấn cho mình, thì người đó nên trở lại trường tiểu học! Ngoài ra, cụ cũng không cho độc giả biết tên cuốn hồi ký, số trang trích dẫn và năm xuất bản . Đã vậy, trong Lời Bạt, giáo sư Chương Thâu lại để trong ngoặc kép và in chữ nghiêng đoạn văn mà cụ tóm lược từ cuốn hồi ký không tên không tuổi nói trên. Như thế, cụ được giáo sư Chương Thâu phụ họa để biến một ý kiến chưa chắc đúng và có thật, thành một “sử liệu nguyên bản” có nguồn gốc ! và ông còn cho đó là một“tư liệu lịch sử” ( SĐD, tr. 250). Tôi thấy cách viết như thế là một lối đánh lừa độc giả, ngụy tạo sử liệu, làm mất uy tín giới cầm bút. Và làm giảm giá trị nền học thuật nước nhà sau bao năm gian khổ chống ngoại xâm để dành lại độc lập và chủ quyền . Ở đây, tôi chỉ phát biểu cảm tưởng và dẫn chứng vài điểm trong vô số sai lầm trong tác phẩm viết cẩu thả và vô trách nhiệm của cụ. Một tác phẩm viết về sử, nhưng không căn cứ vào sử liệu, một tác phẩm vơ vét và lượm lặt những cái vụn vặt mà ông Tộ nói, chứ không cần tìm hiểu điều mà ông ta muốn nói. Tôi rất tiếc và xin lỗi, vì đã phát biểu những điều không vui cho cụ, mà đáng ra cụ cần có nhiều niềm vui trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, nhất là niềm vui về đứa con “tinh thần” của cụ sau hơn 20 năm miệt mài nghiên cứu. Dẫu vậy, tôi vẫn vô cùng biết ơn, vì nhờ bài phê bình của cụ mà chúng tôi có dịp biết rõ hơn và chính xác hơn về ông N.T.Tộ, một người được nhầm lẫn vinh danh do vô tình hoặc cố ý qua nhiều thế hệ! Về giáo sư Chương Thâu, tôi cũng đã có lần góp ý về bài viết quá sai lầm và hầu như cố ý của ông, trong âm mưu chính trị của Linh-mục Alexandre de Rhodes và nguồn gốc chữ quốc ngữ. Bài viết đó có tựa đề,“Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau”, Hà-nội 14.12.1995, đăng trong nguyệt san Công-giáo tại Việt-nam và tờ Hiệp Nhất của giáo-phận Orange, California, USA . Bùi Kha 31.2.2002 Ghi chú: [1] Cũng như N.T.Tộ, 4 ông linh mục nầy có đến đón quân Pháp và làm reo để Pháp đánh thuế cho chúng dứt điểm, 16.10.1858.
-
Thái Cực Đồ Thuyết THÁI CỰC ĐỒ THUYẾT VÀ THÔNG THƯ CỦA CHU LIÊM KHÊ * Phùng Hữu Lan (1895-1990) 1. Chu Liêm Khê Trong các Đạo học gia đời Tống (960-1279), Chu Liêm Khê 周 濂 溪 (1017-1073) và Thiệu Khang Tiết 邵 康 節 (1011-1077) đặc biệt nổi tiếng về việc đưa tư tưởng Đạo giáo vào Đạo học. Tống Sử chép: «Chu Đôn Di 周 敦 頤 , tự là Mậu Thúc 茂 叔 , người ở Doanh Đạo 營 道 , thuộc Đạo Châu 道 州 (nay là huyện Đạo 道 , thuộc Hồ Nam 湖 南 ). Tên ban đầu là Đôn Thực 敦 實 , nhưng để tránh tên huý cũ của vua Anh Tông 1 nên đổi là Di. Nhờ người chú tên Trịnh Hướng 鄭 向 , là học sĩ ở Long Đồ Các 龍 圖 閣 2 nên Chu Dôn Di làm chức chủ bạ ở huyện Phân Ninh 分 寧 (nay là huyện Tu Thuỷ 修 水 , Giang Tây).3 [...] Do bệnh tật, ông xin về an trí ở Nam Khang Quân 南 康 軍 ,4 nhân đó làm nhà bên chân núi Liên Hoa trong rặng Lư Sơn. Phía trước nhà có giòng suối chảy vào sông Bồn, nên ông dựa theo nơi cư ngụ ở Doanh Đạo mà lấy tên là Liêm Khê. [...] Khi mất, thọ 57 tuổi.5Hoàng Đình Kiên6 khen: "Nhân phẩm Đôn Di rất cao, lòng thênh thang như gió trong trăng tỏ. [...] Ông viết Thái Cực Đồ để làm rõ gốc gác của thiên lý và nghiên cứu đầu đuôi của vạn vật."»7 2. Thái Cực Đồ Thuyết Đóng góp quan trọng nhất của Chu Liêm Khê cho Đạo học là Thái Cực Đồ 太 極 圖 và Thái Cực Đồ Thuyết 太 極 圖 說 . Thái Cực Đồ Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê nguyên văn như sau: 無極 而 太 極 . 太 極 動 而 生 陽 ; 動 極 而 靜 , 靜 而 生 陰 . 靜 極 復 動 . 一 動 一 靜 , 互 為 其 根 . 分 陰 分 陽 , 兩 儀 立 焉 . 陽 變 陰 合 , 而 生 水 火 木 金 土 , 五 氣 順 布 , 四 時 行 焉 . 五 行一 陰 陽 也 , 陰 陽 一 太 極 也 , 太 極 本 無 極 也 . 五 行 之 生 也 , 閣 一 其 性 . 無 極 之 真 , 二五 之 精 , 妙 合 而 凝 . 乾 道 成 男 , 坤 道 成 女 . 二 氣 交 感 , 化 生 萬 物 . 萬 物 生 生 而 變 化無 窮 焉 . 惟 人 也 , 得 其 秀 而 最 靈 . 形 既 生 矣 , 神 發 知 矣 . 五 性 感 動 而 善 惡 分 , 萬 事出 矣 . 聖 人 定 之 以 中 正 仁 義 , 而 主 靜 , 立 人 極 焉 . 故 聖 人 與 天 地 合 其 德 , 日 月 合 其明 , 五 時 合 其 序 , 鬼 神 合 其 吉 凶 . 君 子 修 之 吉 , 小 人 悖 之 凶 . 故 曰 : 立 天 之 道 , 曰陰 與 陽 . 立 地 之 道 , 曰 柔 與 剛 . 立 人 之 道 , 曰 仁 與 義 . 又 曰 : 原 始 反 終 , 故 知 死 生之 說 . 大 哉 易 也 , 斯 其 至 矣! Phiên âm: Vô Cực nhi Thái Cực. Thái Cực động nhi sinh Dương; động cực nhi tĩnh, tĩnh nhi sinh Âm. Tĩnh cực phục động. Nhất động nhất tĩnh, hỗ vi kỳ căn. Phân Âm phân Dương, lưỡng nghi lập yên. Dương biến Âm hợp, nhi sinh thuỷ hoả mộc kim thổ, ngũ khí thuận bố, tứ thời hành yên. Ngũ hành nhất Âm Dương dã, Âm Dương nhất Thái Cực dã, Thái Cực bản Vô Cực dã. Ngũ hành chi sinh dã, các nhất kỳ tính. Vô Cực chi chân, nhị ngũ chi tinh, diệu hợp nhi ngưng. Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ. Nhị khí giao cảm, hoá sinh vạn vật. Vạn vật sinh sinh nhi biến hoá vô cùng yên. Duy nhân dã, đắc kỳ tú nhi tối linh. Hình ký sinh hĩ, thần phát tri hĩ. Ngũ tính cảm động nhi thiện ác phân, vạn sự xuất hĩ. Thánh nhân định chi dĩ trung chính nhân nghĩa, nhi chủ tĩnh, lập nhân cực yên. Cố thánh nhân dữ thiên địa hợp kỳ đức, nhật nguyệt hợp kỳ minh, tứ thời hợp kỳ tự, quỷ thần hợp kỳ cát hung. Quân tử tu chi cát, tiểu nhân bội chi hung. Cố viết: Lập thiên chi đạo, viết Âm dữ Dương. Lập địa chi đạo, viết nhu dữ cương. Lập nhân chi đạo, viết nhân dữ nghĩa. Hựu viết: Nguyên thuỷ phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết. Đại tai Dịch dã, tư kỳ chí hĩ! Lê Anh Minh 1. LAM chú: Tống Anh Tông tại vị 1064-1067, tên là Triệu Thự 趙 曙 (xem: Trung Quốc Lịch SửKỷNiên Biểu, Thượng Hải Từ Thư xuất bản xã, 1980, tr.112). Vậy, như Tống Sử đã chép, Thực là một tên huý cũ của vua. Việc Chu Đôn Thực đổi thành Chu Đôn Di tính từ năm 1064. ↩ 2. LAM chú: Long Đồ Các được thành lập vào những năm Đại Trung Tường Phù 大中 祥 符 (1008-1016) dưới đời vua Tống Chân Tông 真 宗 (tại vị 998-1022), để cho vua đọc sách, ngự chế văn tập, cũng như lưu trữ thư tịch và vật quý của triều đình. Ở đây có chức quan gọi là học sĩ. Khi Bao Chửng 包 拯 nắm quyền quản lý Long Đồ Các, ông bãi bỏ chức học sĩ ở đây, nên tục gọi nơi này là Bao Long Đồ 包 龍 圖 . (Xem: TừHải, mục từ Long Đồ Các). Theo Charles O. Hucker, Long Đồ Các không rõ là song hành hay trực thuộc Bí Khố 秘 庫 (văn khố triều đình) thuộc Trọng Văn Viện 重 文 院 . Năm 1082, Long Đồ Các sáp nhập vào Bí Thư Tỉnh 秘 書 省 (thư viện triều đình). (Xem: Charles O. Hucker, A Dictionary of Official Titles in Imperial China [Từđiển quan chức Trung Quốc], Đài Bắc, 1995, tr.325). Do tiến cử của chú, Chu Đôn Di được làm chức chủ bạ ở Phân Ninh, nhưng bản thân ông cũng có thực tài và liêm khiết, không nề hà nhiệm vụ gian khổ, nên được giữ nhiều chức quan: Tư lý tham quân 司 理 參 軍 ở Nam An Quân 南 安 軍 , làm quan lệnh ở Quế Dương 桂 陽 , Phán quan ở Quảng Đông 廣 東 . Năm Gia Định 嘉 定 13 (tức 1220) đời Tống Ninh Tông 寧 宗 (tức Triệu Khoách 趙 擴 , tại vị 1195-1224) Chu Đôn Di được vua ban thuỵ hiệu là Nguyên Công 元 公 . Đến năm Thuần Hựu 淳 祐 nguyên niên (tức 1241) đời vua Tống Lý Tông 理 宗 (tức Triệu Quân 趙 昀 , tại vị 1225-1264) ông được gia phong là Nhữ Nam Bá 汝 南 伯 và được đưa vào thờ phụng trong Khổng Miếu. (Xem: Bàng Phác, Trung Quốc Nho Học, Đông Phương xuất bản trung tâm, 1997, tập 1, tr.124). ↩ 3. Derk Bodde chú: Sự kiện này xảy ra năm 1040. Xem: Werner Eichhorn, Chou Tun-i, ein chinesisches Gelehrtenleben aus dem 11. Jahrhundert (ChuĐôn Di, cuộc đời một văn nhân Trung Quốc thếkỷ11), in trong: Abhandlung für die Kunde des Morgenlandes, vol.21, no.5 (Leipzig, 1936), trang 17-36.– LAM chú: Chức chủbạ không rõ ràng. Theo Charles O. Hucker (sđd., tr.182) đại khái chức chủbạ phụ trách công văn thư từ đi và đến trong các cơ quan từ đời Hán đến đời Thanh, chẳng hạn như trong Thái Thường Ty 太 常 司 đời Đường, Ngự Sử Đài 御 史 臺 đời Tống, Tư Thiên Giám 司 天 監 đời Liêu, Hồng Lô Ty 鴻 臚 司 đời Minh. ↩ 4. Derk Bodde chú: Nam Khang Quân nay là huyện Tinh Tử 星 子 , phía bắc Giang Tây, cách Lư Sơn vài dặm. Theo Werner Eichhorn, Đôn Di về an trí nơi đây không bao lâu thì qua đời (1073). ↩ 5. LAM chú: Chu Đôn Di sinh năm Thiên Hi 天 禧 nguyên niên (tức 1017) đời vua Tống Chân Tông 真 宗 (tức Triệu Hằng 趙 恆 , tại vị 998-1022); mất năm Hi Ninh 熙 寧 thứ 6 (tức 1073) đời vua Tống Thần Tông 神 宗 (tức Triệu Húc 趙 頊 , tại vị 1068-1085). ↩ 6. LAM chú: Hoàng Đình Kiên 黃 庭 堅 (1045-1105) tự là Lỗ Trực 魯 直 , hiệu là Sơn Cốc đạo nhân 山 谷 道 人 ; quê ở Phân Ninh 分 寧 thuộc Hồng Châu 洪 州 ; đỗ tiến sĩ, làm chức Lại bộ viên ngoại lang 吏 部 員 外 郎 . Văn chương ông lỗi lạc, Tô Thức rất khen ngợi. Ông còn là đại thư pháp gia, giỏi về các thư thể: hành, thảo, và khải; là một trong tứ đại thư pháp gia đời Tống: Tô, Hoàng, Mễ, Thái (Tô Thức 蘇 軾 , Hoàng Đình Kiên 黃 庭 堅 , Mễ Phất 米 芾 , Thái Kinh 蔡 京 ). ↩ 7. LAM chú: Hoàng Đình Kiên 黃 庭 堅 (1045-1105) tự là Lỗ Trực 魯 直 , hiệu là Sơn Cốc đạo nhân 山 谷 道 人 ; quê ở Phân Ninh 分 寧 thuộc Hồng Châu 洪 州 ; đỗ tiến sĩ, làm chức Lại bộ viên ngoại lang 吏 部 員 外 郎 . Văn chương ông lỗi lạc, Tô Thức rất khen ngợi. Ông còn là đại thư pháp gia, giỏi về các thư thể: hành, thảo, và khải; là một trong tứ đại thư pháp gia đời Tống: Tô, Hoàng, Mễ, Thái (Tô Thức 蘇 軾 , Hoàng Đình Kiên 黃 庭 堅 , Mễ Phất 米 芾 , Thái Kinh 蔡 京 ). ↩ Thái Cực Đồ Thuyết_2 Dịch nghĩa: Vô Cực cũng là Thái Cực. Thái Cực động thì sinh ra Dương; động tới cực điểm thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra Âm. Tĩnh tới cực điểm thì trở lại động. Một động một tĩnh, làm căn bản cho nhau. Phân ra Âm và Dương, thì lưỡng nghi thành lập. Dương biến Âm hợp, thì sinh ra: thuỷ (nước), hoả (lửa), mộc (gỗ), kim (kim loại), thổ (đất). Ngũ khí (năm khí của ngũ hành) thuận hoà phân bố tạo ra sự vận hành của tứ thời (bốn mùa). Ngũ hành hợp nhất là Âm Dương. Âm Dương hợp nhất là Thái Cực. Thái Cực có gốc là Vô Cực. Ngũ hành được sinh ra, mỗi hành có một tính. Cái chân của Vô Cực và cái tinh của Âm Dương ngũ hành, diệu hợp thì ngưng tụ. Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ. Hai khí Âm Dương giao cảm, hoá sinh vạn vật. Vạn vật sinh sôi biến hoá vô cùng. Chỉ riêng con người có được sự ưu tú, nên tối linh. Hình thể con người đã sinh ra rồi thì thần trí phát ra mà có ý thức. Ngũ tính (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) cảm động mà phân biệt thiện và ác, và vạn sự xuất hiện. Thánh nhân tự xác định mình theo: trung, chính, nhân, nghĩa, và chủ về tĩnh,1 lập thành chuẩn mực tối cao của con người. Cho nên Thánh nhân hợp nhất đức của mình với Trời Đất, hợp nhất vẻ sáng của mình với mặt trời và mặt trăng, hợp nhất thứ tự của mình với bốn mùa, hợp nhất cát hung của mình với quỷ thần. Quân tử tu dưỡng theo đạo Thánh nhân nên được cát, tiểu nhân làm trái đạo Thánh nhân nên gặp hung. Cho nên nói: «[Thánh nhân] xác lập: đạo Trời thì có Âm và Dương; đạo Đất thì có nhu và cương; đạo người thì có nhân và nghĩa.»2 Lại nói: «Suy cứu cặn kẽ từ khởi đầu đến kết thúc của vạn vật, cho nên biết giải thích về sống chết.» 3 Lớn thay đạo Dịch, trong đó có đầy đủ ý nghĩa vậy! Hệ Từ Thượng nói: «Cho nên Dịch có Thái Cực. Thái Cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát Quái. Bát Quái định cát hung, cát hung sinh ra sự nghiệp lớn.»4 Mấy câu đầu của Thái Cực Đồ thuyết sử dụng thuyết «Thái Cực sinh lưỡng nghi». Nhưng sau đó Chu Liêm Khê đề cập ngũ hành, chứ không phải Bát Quái. Tuy cuối bài ông khen ngợi Kinh Dịch, nhưng kỳ thực Thái Cực Đồ không hoàn toàn căn cứ trên Kinh Dịch. Vì lý do đó, nguồn gốc của Thái Cực Đồ đáng cho chúng ta nghiên cứu. Thượng Phương Đại Đỗng Chân Nguyên Diệu Kinh Phẩm Đồ 上 方 大 洞 真 元 妙 經 品 圖 trong Đạo Tạng có nhiều hình đồ, trong đó có Thái Cực Tiên Thiên Đồ như sau: Thái Cực Tiên Thiên Đồ(hình trên) Hình đồ này khá giống Thái Cực Đồ của Chu Liêm Khê. Tuy không biết tác giả của quyển kinh này là ai, nhưng trong đó có lời tựa của Đường Minh Hoàng 唐 明 皇 (còn gọi là Đường Vũ Hoàng 唐 武 皇 , tức Huyền Tông 玄 宗 hay Lý Long Cơ 李 隆 基 , tại vị 712-755), cho nên nó xuất hiện trước đời Tống. Có lẽ nó là nguồn cảm hứng cho Chu Liêm Khê viết ra Thái Cực Đồ chăng? Tống Sử (Nho Lâm Truyện) có chép truyện của Chu Chấn 朱 震 (1072-1138) rằng: «Cái học về kinh điển của Chu Chấn rất thâm hậu. Ông viết trong Hán Thượng Dịch Giải rằng: Trần Đoàn 陳 摶 (871-989) lấy Tiên Thiên Đồ 先 天 圖 truyền cho Chủng Phóng 種 放 (?-1014); Chủng Phóng truyền cho Mục Tu 穆 修 (979-1032); Mục Tu truyền cho Lý Chi Tài 李 之 才 (?-1045); Chi Tài truyền cho Thiệu Ung 邵雍 (1011-1077). [Chu Chấn còn nói rằng] Chủng Phóng lấy Hà Đồ và Lạc Thư truyền cho Lý Khái 李 溉 (?-?); Khái truyền cho Hứa Kiên 許 堅 (khoảng 976-984); Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngạc Xương 范 諤 昌 (?-?); Ngạc Xương truyền cho Lưu Mục. Mục Tu lấy Thái Cực Đồ truyền cho Chu Đôn Di.»5 Lê Anh Minh 1. Chu Liêm Khê tự ghi chú: «Thánh nhân chi đạo nhân nghĩa trung chính nhi dĩ hĩ.» 聖 人 之 道 仁 義 中 正 而 已 矣 (Đạo của thánh nhân chỉ có nhân, nghĩa, trung, chính mà thôi.) Và ghi chú về «nhi chủ tĩnh» 而 主 靜 (chủ về tĩnh) rằng: «Vô dục cố tĩnh.» 無 欲 故 靜 (Vô dục nên tĩnh.) ↩ 2. LAM chú: Câu «Lậpthiên chi đạo viết Âm dữ Dương, lập địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa» nằm trong Thuyết Quái: «Tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã, tương dĩ thuận tính mệnh chi lý. Thị dĩ lập thiên chi đạo viết Âm dữ Dương, lập địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa. Kiêm tam tài nhi lưỡng chi, cố Dịch lục hoạch nhi thành quái. Phân Âm phân Dương, điệt dụng nhu cương, cố Dịch lục vị nhi thành chương.» 昔 者聖 人 之 作 易 也 , 將 以 順 性 命 之 理 . 是 以 立 天 之 道 曰 陰 與 陽, 立 地 之 道 曰 柔 與 剛 , 立人 之 道 曰 仁 與 義 . 兼 三 才 而 兩 之, 故 易 六 畫 而 成 卦 . 分 陰 分 陽 , 迭 用 柔 剛 , 故 易 六位 而 成 章 (Ngày xưa khi thánh nhân sáng tác Kinh Dịch, các ngài thuận theo quy luật biến hoá của tính và mệnh của sự vật. Cho nên, các ngài xác lập: đạo trời thì có Âm và Dương, đạo đất thì có nhu và cương, đạo người thì có nhân và nghĩa. Các ngài gộp tam tài (thiên-địa-nhân) [thành quẻ đơn] và gấp đôi lên [thành quẻ kép], cho nên sáu vạch Kinh Dịch lập thành quẻ kép. Sáu vạch được phân làm hào Âm và hào Dương, được dùng lần lượt thành hào nhu và hào cương. Do đó sáu vị trí trong quẻ Dịch lập thành hình quẻ). Ngu Phiên chú Thánh nhân ở đây là Bào Hi (Phục Hi). Ở quẻ đơn (có ba vạch) thì hào dưới là địa, hào giữa là nhân, hào trên là thiên; tức là mỗi quẻ của Bát Quái đều gồm chứa tam tài. Ở quẻ kép (có sáu vạch) thì hai hào dưới là địa, hai hào giữa là nhân, hai hào trên là thiên; tức là mỗi quẻ của 64 quẻ Dịch đều gồm chứa tam tài. Sáu vạch phân thành hào Âm (nhu; hào lục) và hào Dương (cương; hào cửu). Lục vị là vị trí sáu hào trong mỗi quẻ kép, tính từ dưới lên: sơ, nhị, tam, ngũ, thượng. Cách sắp xếp này là do quan niệm «khí của Dịch sinh từ dưới» (Dịch khí tòng hạ sinh 易 氣 從 下 生 ); nó giải thích quy luật biến hoá của sự vật là từ thấp lên cao. Lý Đỉnh Tộ chú chương 章 là văn lý 文 理 , tức thiên văn và địa lý; Cao Hanh hiểu là văn chương; Wilhelm và Legge hiểu chương 章 là hình dáng của quẻ Dịch. Richard Wilhelm dịch: «Ngày xưa các Thánh nhân sáng tác Kinh Dịch, các ngài muốn tuân theo trật tự của các quy luật bên trong và của số mệnh. Do đó các ngài xác định đạo Trời và gọi đạo ấy là Âm và Dương, các ngài xác định đạo Đất và gọi đạo ấy là mềm yếu (nhu) và cứng chắc (cương), các ngài xác định đạo người và gọi đạo ấy là nhân ái và nghĩa. Ba sức mạnh cơ bản này, các ngài gộp lại và gấp đôi. Do đó trong Kinh Dịch, mỗi quẻ luôn luôn có sáu hào. Các vị trí được phân thành Âm và Dương, mà các hào nhu và cương luân phiên chiếm các vị trí này. Do đó, Kinh Dịch có lục vị tạo thành hình dáng sáu hào của quẻ.» – James Legge dịch: «Ngày xưa khi Thánh nhân sáng tác Kinh Dịch, thì các hình quẻ được thiết kế cho thuận với những nguyên lý nằm ngầm trong bản chất của con người và sự vật và thuận với các mệnh lệnh mà trời định cho chúng. Với quan niệm này, các ngài trình bày trong các hình quẻ về đạo Trời, gọi các hào là Âm và Dương; về đạo Đất, gọi các hào là mềm yếu và cứng mạnh; về đạo người, dưới các tên gọi nhân và nghĩa. Mỗi đơn quái (quẻ ba hào) bao gồm tam tài; và khi được chồng lên thì hình quẻ đầy đủ có sáu hào. Có sự phân biệt về các vị trí, và chúng được ấn định thành hào Âm và hào Dương. Các hào này luân phiên được chiếm giữ bởi dạng cương hoặc dạng nhu. Do đó hình dáng của mỗi quẻ kép được thành tựu.» ↩ 3. LAM chú: Câu «Nguyênthuỷ phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết» ở trong Hệ Từ Thượng: «Ngưỡng dĩ quan ư thiên văn, phủ dĩ sát ư địa lý, thị cố tri u minh chi cố. Nguyên thuỷ phản chung, cố tri tử sinh chi thuyết. Tinh khí vi vật, du hồn vi biến, thị cố tri quỷ thần chi tình trạng.» 仰以 觀 於 天 文 , 俯 以 察 於 地 理 , 是 故 知 幽 明 之 故 . 原 始 反 終. 故 知 死 生 之 說 . 精 氣 為物 , 游 魂 為 變 . 是 故 知 鬼 神 之 情 狀 (Thánh nhân ngước lên quan sát các hiện tượng trên trời, cúi xuống quan sát các hình thể dưới đất, cho nên biết nguyên do của sáng và tối. Các ngài suy cứu cặn kẽ từ khởi đầu đến kết thúc của vạn vật, cho nên biết giải thích về sống chết. Tinh khí là vật [thần], du hồn thì biến hoá [quỷ], cho nên các ngài biết tình trạng của quỷ và thần.) – Wilhelm dịch: «Trong khi ngước lên quan sát tìm hiểu với sự giúp đỡ của các dấu hiệu trên trời và cúi xuống xem xét các đường vạch trên mặt đất thì người ta biết tình trạng của tối và sáng. Trong khi trở về các khởi đầu [của sự vật] và lần theo sự vật cho đến tận cùng thì người ta hiểu các thuyết giảng về sống và chết. Sự kết hợp giữa tinh và lực làm vật hoạt động. Sự xuất ra của hồn [khỏi vật] tạo ra sự biến hoá. Qua đó, người ta biết tình trạng của hồn xuất ra và hồn trở về.» Wilhelm xem chủ thể của những hành động trên là người ta nói chung, chứ không phải chỉ là Thánh nhân. Cách dịch lạ kỳ của Wilhelm chịu ảnh hưởng sâu đậm của Đạo giáo. Ông giảng: «Kinh Dịch dựa trên hai nguyên lý cơ bản: Âm (tối) và Dương (sáng). Các quẻ được hình thành từ các yếu tố này. Những hào riêng lẻ thì hoặc là tĩnh, hoặc là động. Khi các hào tĩnh (tức là hào được thể hiện bằng số 7 [cương = Thiếu Dương] và số 8 [nhu = Thiếu Âm]), thì chúng tạo thành quẻ nhất định. Khi các hào động (tức là khi hào được thể hiện bằng số 9 [cương = Lão Dương] và số 6 [nhu = Lão Âm]), thì chúng phân rã quẻ trở lại và biến thành một quẻ khác. Những quy trình này khai mở nhãn quan vào những bí mật của sự sống. Khi ta vận dụng hai nguyên lý này vào các thiên tượng (mặt trời = Dương, mặt trăng = Âm) và vào những vạch trên đất (tứ phương), thì ta biết những tình trạng tối sáng (Âm Dương), tức là những quy luật tàng ẩn trong sự luân chuyển của bốn mùa, mà sự luân chuyển này tạo điều kiện cho sự tiến thoái của sinh lực thực vật. Bằng cách này, nhờ quan sát những khởi đầu và chung cuộc của sự sống ta biết rằng sự sinh ra và sự chết đi chẳng qua là sự tuần hoàn mà thôi. Sinh ra là tiến vào thế giới hữu hình. Chết đi là thoái lui vào cõi vô hình. Cả sinh lẫn tử không ám chỉ một khởi đầu tuyệt đối hay một kết thúc tuyệt đối, giống như trường hợp năm đến rồi đi, năm đi rồi đến. Với con người thì có gì khác hơn đâu. Giống như những hào tĩnh lập nên quẻ, và khi chúng động thì tạo ra biến đổi, cái nhục thể của ta được tạo thành do dòng tinh nam xuất ra kết hợp với khí nữ. Cái nhục thể này lâu bền một cách tương đối chừng nào mà hai sinh lực cấu thành ấy tĩnh tại trong sự quân bình. Khi chúng động, sự phân rã sẽ xảy ra. Linh hồn xuất ra (phần thanh cao thăng lên, phần trọng trọc chui xuống đất); thể xác rữa nát. Tương tự, những sinh lực tâm linh (tạo ra và phân rã sinh thể hữu hình) hoặc thuộc nguyên lý Dương hoặc thuộc nguyên lý Âm. Dương thần (Thần) xuất ra; nó là phần tác động, có thể nhập vào một thể xác mới. Âm thần (quỷ) quay trở về nhà; nó là phần thoái lui, có phận sự tiêu hoá những gì mà sự sống gặt hái được. Trong khái niệm về Dương thần và Âm thần không hề ngụ ý thiện và ác, mà nó chỉ phân biệt hạ tầng trương giãn và hạ tầng co rút của sinh lực. Đó là hai tình trạng biến đổi (như thuỷ triều lên xuống) trong biển đời bao la.» – James Legge dịch: «Thánh nhân, căn cứ theo Kinh Dịch, ngước lên quan sát các hiện tượng sáng rỡ trên trời, cúi xuống xem xét các sắp đặt nhất định dưới đất, do đó ngài biết những nguyên do của tối (hay của vật tối) và của sáng (hay của vật sáng). Ngài truy cứu đến khởi đầu của chúng và lần theo tới kết cục của chúng, do đó ngài biết những gì có thể nói về sống và chết. Ngài biết cách thức mà sự kết hợp của tinh và khí tạo ra sự vật, và biết sự biến mất hay sự xuất ra của hồn làm biến đổi cấu tạo của sự vật, do đó ngài biết tính chất của quỷ và thần.» ↩ 4. Hệ Từ Thượng: «Thị cố Dịch hữu Thái Cực. Thị sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng sinh bát quái. Bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp.» 是 故 易 有 太 極 , 是 生 兩 儀 . 兩 儀 生 四 象 . 四 象 生 八 卦 . 八 卦 定 吉 凶 , 吉 凶 生 大 業 . – Richard Wilhelm dịch: «Cho nên, trong Dịch có Thái Cực (sơ nguyên lớn). Thái Cực sinh lưỡng nghi (hai sức mạnh cơ bản). Lưỡng nghi sinh tứ tượng (bốn hình tượng). Tứ tượng sinh bát quái (tám quẻ). Bát Quái xác định cát và hung. Cát hung tạo ra lĩnh vực hoạt động lớn.» – James Legge dịch: «Cho nên, trong hệ thống của Dịch có Thái Cực. Thái Cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng sinh bát quái. Bát Quái nhằm xác định mặt tốt và mặt xấu của mọi sự việc, và từ sự xác định này mà sự thực hiện thành công của sự nghiệp lớn của cuộc đời được tạo ra.» ↩ 5. Tống Sử (Nho Lâm Truyện): «Chấn kinh học thâm thuần, hữu Hán Thượng Dịch Giải vân: Trần Đoàn dĩ Tiên Thiên Đồ truyền Chủng Phóng; Phóng truyền Mục Tu; Mục Tu truyền Lý Chi Tài; Chi Tài truyền Thiệu Ung. Phóng dĩ Hà Đồ Lạc Thư truyền Lý Khái; Khái truyền Hứa Kiên; Hứa Kiên truyền Phạm Ngạc Xương; Ngạc Xương truyền Lưu Mục. Mục Tu dĩ Thái Cực truyền Chu Đôn Di.» 震 經 學 深 醇 , 有 漢 上 易 解 云 : 陳 摶 以 先 天 圖 傳 種 放 ; 放 傳 穆 修 ; 穆 修 傳 李 之才 ; 之 才 傳 邵 雍 . 放 以 河 圖 洛 書 傳 李 溉 ; 溉 傳 許 堅 ; 許 堅 傳 范 諤 昌 ; 諤 昌 傳 劉 牧 . 穆 修 以 太 極 傳 周 敦 頤 . ↩ Thái Cực Đồ Thuyết_3 Nói như thế, cái học về Tượng Số thời ấy bắt nguồn từ Trần Đoàn. Theo Tống Sử, Trần Đoàn là một Thần Tiên sống, rất nổi tiếng đầu đời Tống.1Học giả đời Thanh là Mao Kỳ Linh 毛 奇 齡 (1623-1716) đã viết trong quyển Thái Cực Đồ Thuyết Di Nghĩa 太 極 圖 說 遺 義 của ông rằng: Các hình đồ vốn có trong Tham Đồng Khế 參 同 契 đã bị đa số học giả bỏ đi sau khi Chu Hi (1130-1200) chú giải nó. Bản Tham Đồng Khế của Bành Hiểu 彭 曉 chú giải có hai hình đồ: Thuỷ Hoả Khuông Khoách Đồ 水 火 匡 廓 圖 và Tam Ngũ Chí Tinh Đồ 三 五 至 精 圖 .2Hình tròn thứ hai trong Thái Cực Đồ của Chu Liêm Khê chính là Thuỷ Hoả Khuông Khoách Đồ3 của Tham Đồng Khế. Hình thứ ba (có ngũ hành) trong Thái Cực Đồ của Chu Liêm Khê chính là Tam Ngũ Chí Tinh Đồ của Tham Đồng Khế. Hai học giả Hoàng Tông Viêm 黃 宗 炎 (1616-1686) và Chu Di Tôn 朱 彝 尊 (1629-1709) đều cho rằng Thái Cực Đồ của Chu Liêm Khê vốn gọi là Vô Cực Đồ. Hai ông cho rằng Trần Đoàn cư ngụ ở Hoa Sơn, khắc Vô Cực Đồ lên vách đá. Hình đồ ấy bố trí từ dưới lên trên như sau: (1) Hình tròn rỗng dưới chót gọi là «Huyền tẫn chi môn» 玄 牝 之 門 ; (2) Hình tròn rỗng kế tiếp gọi là «Luyện tinh hoá khí, luyện khí hoá thần» 鍊 精 化 氣 鍊 氣 化 神 ; (3) Hình chính giữa có ngũ hành liên lạc với nhau (bên trái là mộc và hoả, bên phải là thuỷ và kim, chính giữa là thổ) gọi là «Ngũ khí triều nguyên» 五 氣 朝 元 ; (4) Hình tròn có phân đen trắng (tức Thuỷ Hoả Khuông Khoách Đồ) gọi là «thủ Khảm điền Ly» 取 坎 填 離 ; (5) Hình tròn rỗng trên cùng gọi là «Luyện thần phản hư, phục quy Vô Cực» 鍊 神 返 虛 復 歸 無 極 .4 Hoàng Tông Viêm nói: «Khi Chu Liêm Khê có được hình đồ này, bèn đảo ngược thứ tự và đổi tên hình đồ [là Thái Cực Đồ], phụ đề Đại Dịch, xem là bí truyền của Nho gia. Bởi vì khẩu quyết của phương sĩ nghịch chuyển thì thành Đan, cho nên nó mô tả chuyển động từ dưới lên trên. Còn chủ ý của Chu Liêm Khê là thuận chuyển sinh con người, cho nên mô tả sự chuyển động từ trên xuống dưới.»5 Lời lẽ của Hoàng Tông Viêm và Chu Di Tôn chưa rõ thực hư thế nào, nhưng chắc chắn là Thái Cực Đồ của Chu Liêm Khê có quan hệ mật thiết với Đạo giáo. Chu Liêm Khê vay mượn hình Thái Cực Đồ mà các đạo sĩ dùng để tu luyện rồi đưa vào đó giải thích mới và ý nghĩa mới. Sự giải thích này (tức Thái Cực Đồ Thuyết) là một trong các trứ tác có hệ thống của Đạo học gia đời Tống và đời Minh. Khi giảng về sự phát sinh ra vũ trụ, đa số Đạo học gia đời Tống và đời Minh đều dùng thuyết này để suy diễn. Sau đây tôi luận chung về Thái Cực Đồ Thuyết và Thông Thư của Chu Liêm Khê. Thông Thư 通 書 (còn gọi là Dịch Thông 易 通 ) cũng là một trứ tác của ông giảng về Dịch. 3. Thái Cực Đồ Thuyết và Thông Thư Thái Cực Đồ Thuyết nói: «Thái Cực động thì sinh ra Dương; động tới cực điểm thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra Âm. Tĩnh tới cực điểm thì trở lại động. Một động một tĩnh, làm căn bản cho nhau. Phân ra Âm và Dương, thì lưỡng nghi thành lập.» Một động một tĩnh của Thái Cực có thể cùng lúc mà có. Thông Thư viết: «Động mà không tĩnh, tĩnh mà không động, đó là vật. Động mà không động, tĩnh mà không tĩnh, đó là thần. Động mà không động, tĩnh mà không tĩnh, chẳng phải là không động và không tĩnh. Vật không thông nhau, thần là cái linh diệu nhất của vạn vật.»6 Một sự vật đặc thù, khi động thì chỉ có động chứ không có tĩnh, khi tĩnh thì chỉ có tĩnh chứ không có động. Một sự vật đặc thù khi nhất định là thế này thì nó không thể là thế kia, khi nó nhất định là thế kia thì nó không thể là thế này. Do đó mới nói «vật không thông nhau». Thái Cực động mà không động, tức là trong cái động cũng có cái tĩnh; tĩnh mà không tĩnh, tức là trong cái tĩnh cũng có cái động. Cho nên trong phần Âm của nó có Dương, trong phần Dương của nó có Âm. Do đó mới nói «thần là cái linh diệu nhất của vạn vật». Thái Cực Đồ Thuyết nói: «Dương biến Âm hợp, thì sinh ra: thuỷ (nước), hoả (lửa), mộc (gỗ), kim (kim loại), thổ (đất). Ngũ khí (năm khí của ngũ hành) thuận hoà phân bố tạo ra sự vận hành của tứ thời (bốn mùa). Ngũ hành hợp nhất là Âm Dương. Âm Dương hợp nhất là Thái Cực. Thái Cực có gốc là Vô Cực.» Ở đây giảng rõ Thái Cực sinh Âm Dương và ngũ hành, nhưng Thái Cực kỳ thực lại nằm trong Âm Dương và ngũ hành. Thông Thư nói: «Hai khí Âm Dương và ngũ hành hoá sinh vạn vật. Ngũ hành khác nhau, Âm Dương là thực. Cả hai vốn là Một. Vạn là Một; Một phân làm vạn. Vạn và Một đều đúng đắn; cái lớn và cái nhỏ đều được quyết định.»7 Thái Cực Đồ Thuyết gọi ngũ hành là ngũ khí, gọi Âm Dương là nhị khí. Tức là Chu Liêm Khê xem Âm Dương và ngũ hành đều là Khí. Trong Thông Thư gọi Một là Lý, cũng tức là Thái Cực. Thái Cực là Lý, Âm Dương và ngũ hành là Khí. Hai khái niệm Lý 理 và Khí 氣 chiếm địa vị rất quan trọng trong Đạo học đời Tống và đời Minh. Hai khái niệm Lý và Khí do Chu Liêm Khê nêu ra đầu tiên, nhưng ý nghĩa của chúng phải đợi đến Chu Hi (1130-1200) mới được thuyết minh tường tận. Theo Thông Thư, vạn vật đều do Một phân ra. Do đó Thái Cực tức là ở trong vạn vật, nên Thông Thư mới nói «vạn là Một; Một phân làm vạn». Thái Cực Đồ Thuyết nói hai khí Âm Dương giao cảm, hoá sinh vạn vật. Những sự vật đặc thù như thế đều có cái được quyết định cho nên chúng không thông với nhau. Cho nên Thông Thư nói: «Vạn và Một đều đúng đắn; cái lớn và cái nhỏ đều được quyết định.» Thái Cực Đồ Thuyết nói: «Chỉ riêng con người có được sự ưu tú, nên tối linh. Hình thể con người đã sinh ra rồi thì thần trí phát ra mà có ý thức. Ngũ tính (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) cảm động mà phân biệt thiện và ác, và vạn sự xuất hiện.» Ở đây xem con người linh hơn vạn vật, được phú bẩm Lý của Thái Cực và có đủ các tính của ngũ hành. Lý của Thái Cực thì thuần tuý chí thiện Cho nên bản tính con người vốn là thiện. Tính bản nhiên của nhân tính gọi là thành 誠 (chân thành). Thông Thư nói: «Thành là gốc của thánh nhân. "Lớn thay sự khởi đầu của Càn, vạn vật bắt đầu từ nó," đó là nguồn của thành. "Càn đạo biến hoá, mỗi thứ tự chỉnh đốn tính và mệnh của mình, sự chân thành được lập nên, thuần tuý chí thiện vậy." Cho nên nói: "Một Âm và một Dương gọi là Đạo; cáikế tiếp là thiện; cái tạo thành [vạn vật] là tính." Nguyên và hanh là sự thông suốt của thành; lợi và trinh là sự trở về gốc của thành. Lớn thay đạo Dịch, đó là nguồn của tính và mệnh vậy.»8 Một Âm và một Dương gọi là Đạo; Đạo tức là một tên gọi khác của Thái Cực. Về nguồn gốc của cái ác, Thông Thư nói: «Thành vô vi, cơ thiện ác.» 誠 無 為 幾 善 惡 (Chân thành nằm trong trạng thái vô vi, hơi lay động thì tạo ra thiện và ác). Chữ «cơ» 幾 ở đây nghĩa là lay động rất nhỏ nhặt. Cho nên Thông Thư giảng: «Động nhi vị hình, hữu vô chi gian giả, cơ dã.» 動 而 未 形 , 有 無 之 間 者 , 幾也 (Động mà chưa có hình, cái nằm giữa hữu và vô gọi là cơ). Nhân tính vốn thiện, nhưng khi nó phát động ra để thi hành sự việc thì chưa chắc nó hợp với trung dung. Nếu nó phát ra mà không hợp với trung dung, thì cái không hợp với trung dung ấy gọi là ác. Thông Thư nói: «Trong tính có cương nhu, tạo ra thiện ác. Chỉ cần trung dung mà thôi. [bởi con người] không thấu đạt, [nên ta] nói: Thiện phát xuất từ cương là nghĩa, thẳng thắn, quyết đoán, nghiêm nghị, kiên định. Ác [phát xuất từ cương] là hung hãn, hẹp hòi, mạnh bạo. Thiện phát xuất từ nhu là thuận tòng, từ tốn. Ác [phát xuất từ nhu] là nhu nhược, không quyết đoán, tà nịnh. Chỉ có trung là hài hoà và tiết độ, là sự đạt đạo của thiên hạ, là sự việc của thánh nhân. Cho nên thánh nhân chủ trương giáo lý này, khiến cho con người tự thay đổi cái ác của mình, tự đạt tới sự trung dung của mình và dừng lại ở đó.»9 Dương thì cương, Âm thì nhu. Con người được phú bẩm hai khí Âm Dương, nên bản tính cũng có cương và nhu. Cương và nhu mất chính đáng cho đến ngũ tính (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) cảm động và không hợp với trung dung, như vậy đều là ác. Cho nên ác là cái tiêu cực, thiện là cái tích cực. Chu Liêm Khê nói: Bởi hơi bị lay động giữa thiện và ác, nên quân tử phải thận trọng khi hành động. Thái Cực Đồ Thuyết nói: «Thánh nhân tự xác định mình theo: trung, chính, nhân, nghĩa, và chủ về tĩnh, lập thành chuẩn mực tối cao của con người.» Thông Thư nói: «Đạo của thánh nhân chỉ là nhân, nghĩa, trung, chính mà thôi.» (Thánh nhân chi đạo, nhân nghĩa trung chính nhi dĩ hĩ 聖 人 之 道 , 仁 義 中 正 而 已 矣 ). Như vậy, chuẩn mực tối cao của con người tức là trung, chính, nhân, nghĩa. Thông Thư nói: «Trời lấy Dương để sinh ra vạn vật, lấy Âm để tựu thành vạn vật. Vật được sinh, đó là nhân ái; được tựu thành, đó là nghĩa. Cho nên thánh nhân ở trên cao, lấy nhân ái để dưỡng dục vạn vật, lấy nghĩa để chỉnh đốn vạn dân.»10 Thái Cực Đồ Thuyết nói: «[Thánh nhân] xác lập: đạo trời thì có Âm và Dương; đạo đất thì có nhu và cương; đạo người thì có nhân và nghĩa.» Tổng hợp lại mà xét, chúng ta phải lấy trung chính để uốn nắn bản thân, lấy nhân nghĩa để trị người; và phương pháp tu dưỡng để thành Thánh nhân chính là tĩnh 靜 . Theo chú thích của Chu Liêm Khê, «vô dục cho nên tĩnh» (vô dục cố tĩnh 無 欲 故 靜 ). Thông Thư nói: «Hỏi: "Người ta có thể học làm Thánh không?" Đáp: "Có thể." Hỏi: "Có nguyên tắc quan trọng gì chăng?" Ta trả lời là có, người ấy hỏi đó là gì, ta đáp: "Điều quan trọng là duy nhất. Cái duy nhất ấy chính là vô dục. Cái vô dục ấy lúc tĩnh thì hư không, lúc động thì ngay thẳng. Tĩnh và hư không thì sáng suốt, sáng suốt thì thông hiểu; động và ngay thẳng thì công bình, công bình thì phổ quát. Hễ sáng suốt, thông hiểu, công bình, phổ quát, thì thứ dân thành Thánh nhân vậy!»11 Vô dục thì tĩnh hư và động trực. Mạnh Tử nói: «Nay bỗng thấy một đứa bé sắp rơi xuống giếng, ai cũng sợ hãi và thương xót [mà đến cứu nó], chẳng phải vì họ quen biết cha mẹ nó, hay để làng xóm và bạn bè khen ngợi, hay vì sợ mang tiếng bất nhân.»12Các Đạo học gia đời Tống và đời Minh thường trích dẫn câu văn này. Lòng trắc ẩn khiến người ta muốn cứu đứa bé, đó là trực khởi 直 起 . Từ lòng trắc ẩn dẫn tới hành vi cứu ngay đứa bé, đó là trực động 直 動 . Trực khởi và trực động, chẳng màng lợi hại đối với bản thân, chỉ cần cứu được đứa bé, đó là công bình. Cho nên Chu Liêm Khê nói «động và ngay thẳng thì công bình». Tuy nhiên, nếu «vì quen biết cha mẹ nó, hay để làng xóm và bạn bè khen ngợi, hay vì sợ mang tiếng bất nhân» mà ta chạy đến cứu đứa bé, thì đó là dục 欲 . Ý niệm ấy khởi lên không phải là trực khởi; hành vi cứu đứa bé không phải là trực động. Ý niệm và hành vi ấy có sự cân nhắc lợi hại đối với bản thân, nên gọi là tư dục. Ý niệm vô dục khởi lên đó là Thánh hiền, còn ý niệm có tư dục khởi lên đó là cầm thú. Nếu trong tâm ta vô dục và tĩnh lặng thì tâm ta giống như gương sáng. Vô sự thì tĩnh hư, hữu sự thì động trực. Thông Thư nói: «Vắng lặng bất động tức là thành. Cảm động mà thông suốt tức là thần.» (Tịch nhiên bất động giả, thành dã. Cảm nhi toại thông giả, thần dã. 寂 然 不 動 者 , 誠 也 . 感 而 遂 通 者 , 神 也 ). «Vắng lặng bất động» tức là tĩnh hư; «Cảm động mà thông suốt» tức là động trực. Đó là điều mà các Đạo học gia đời Tống và đời Minh về sau thường thuyết giảng. Tuy nhiên Chu Liêm Khê chỉ đề cập dục như vậy; còn địa vị của nhân dục ở phương diện siêu hình và luân lý thì ông chưa từng nói rõ. «Sáng suốt thì thông hiểu» (minh tắc thông), khi chúng ta vô dục và tĩnh lặng thì tâm chúng ta như gương sáng. Vắng lặng mà thường chiếu. Hễ sáng thì có thể như thế, không sáng thì không thể như thế. Về «công bình thì phổ quát» (công tắc phổ), Thông Thư nói: «Đạo của Thánh nhân chỉ là chí công mà thôi. Có kẻ hỏi: "Vì sao nói thế?" Đáp: "Bởi Trời Đất chỉ là chí công mà thôi."» (Thánh nhân chi đạo, chí công nhi dĩ hĩ. Hoặc viết: Hà vị dã? Viết: Thiên địa chí công nhi dĩ hĩ 聖 人 之 道 , 至 公 而 已 矣 . 或 曰 : 何 謂 也 ? 曰 : 天 地 至 公 而 已 矣 ). Trời Đất chí công nên che chở tất cả, đó gọi là phổ 溥 (phổ quát, khắp nơi). Bởi công bình nên như thế. Nếu không công bình thì có sự che chở riêng tư cho mỗi loài. Đạo của Thánh nhân chỉ là chí công mà thôi. Cho nên, hễ sáng suốt, thông hiểu, công bình, và phổ quát, thì thứ dân trở thành thánh nhân vậy. Muốn đạt tới cảnh giới «vô dục và tĩnh lặng» thì chúng ta cũng phải trải qua một giai đoạn đáng kể. Thông Thư nói: «Hồng Phạm viết: "Suy nghĩ phải thấu triệt. [...] Thấu triệt sẽ thánh thiện." Không suy nghĩ là căn bản. Suy nghĩ thông suốt là ứng dụng. Hơi lay động ở chỗ kia, thì chân thành động ở chỗ này. Không suy nghĩ mà chẳng gì không thông suốt, đó là Thánh nhân. Nếu không suy nghĩ, Thánh nhân không thể thông suốt cái tế vi. Nếu không thấu triệt, Thánh nhân không thể thông suốt khắp nơi. Do đó, thông suốt khắp nơi phát sinh từ thông suốt cái tế vi; ứng dụng cái tế vi phát sinh từ suy nghĩ. Cho nên suy nghĩ là căn bản của công việc của Thánh nhân và là sự lay động dẫn đến cát hung vậy.»13 Vô tư (không suy nghĩ) tức là vắng lặng bất động. Suy nghĩ thông suốt tức là cảm động mà thông suốt. Muốn đạt tới cảnh giới «không suy nghĩ mà chẳng gì không thông suốt» (vô tư nhi vô bất thông) thì trước tiên phải có công phu suy nghĩ. Nhưng cái công phu suy nghĩ ấy phải như thế nào thì Chu Liêm Khê chưa hề nói rõ. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng công phu ấy có lẽ là thường xuyên chú ý đến trạng thái trong tâm chúng ta, giống như Mạnh Tử nói «tất hữu sự yên» 必 有 事 焉 (luôn canh cánh bên lòng).14 Thái Cực Đồ Thuyết nói: «Thánh nhân hợp nhất đức của mình với Trời Đất, hợp nhất vẻ sáng của mình với mặt trời và mặt trăng, hợp nhất thứ tự của mình với bốn mùa, hợp nhất cát hung của mình với quỷ thần.» Thông Thư nói: «Thánh nhân chỉ có chân thành mà thôi. Chân thành là gốc của ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), là nguồn của trăm hạnh.» (Thánh thành nhi dĩ hĩ. Thành ngũ thường chi bản, bách hạnh chi nguyên dã 聖 誠而 已 矣 . 誠 五 常 之 本 , 百 行 之 源 也 ). Thành 誠 (chân thành) là tính bản nhiên của nhân tính. Thánh nhân sở dĩ là Thánh bởi vì đã trở về với tính bản nhiên của nhân tính. Điều mà Lý Ngao nói, các Đạo học gia kể từ Chu Liêm Khê về sau đã nhất trí chủ trương.● * Lê Anh Minh dịch và phụ chú Nguồn: Phùng Hữu Lan 馮 友 蘭 , Trung Quốc Triết Học Sử中 國 哲 學 史 , Hương Cảng 1956. Trích dịch chương 11 của thiên thứ hai. Phụ chú của người dịch ghi là LAM chú. Lê Anh Minh 1. LAM chú: Trần Đoàn 陳 摶 (871-989) sống cuối thời Ngũ Đại và đầu đời Tống, tự là Đồ Nam 圖 南 , hiệu là Phù Dao Tử 扶 搖 子 , quê ở Chân Nguyên 真源 thuộc Bạc Châu 亳 州 (nay là Lộc Ấp 鹿 邑 , tỉnh Hà Nam 河 南 ). Thuở nhỏ đã đọc qua các kinh điển Nho giáo, đặc biệt ham thích sách dạy phương dược (thuốc trường sinh) của Đạo giáo, và có tâm chí dẹp loạn cứu đời. Những năm Trường Hưng 長 興 (930-933) đời vua Minh Tông 明 宗 (tức Lý Tự Nguyên 李 嗣 源 , tại vị 926-933) của Hậu Đường, ông thi rớt tiến sĩ, bèn chán đời, ẩn cư trong núi Vũ Đang 武 當 , rồi qua ở núi Hoa Sơn, kết bạn với Lã Động Tân 呂 洞 賓 và Lý Kỳ 李 琪 . Theo Tư Trị Thông Giám (Hậu Chu Ký), năm 956, tức năm Hiển Đức thứ 3 đời vua Thế Tông 世 宗 (tức Sài Vinh 柴 榮 , tại vị 954-959) của Hậu Chu, vua ham thích thuốc trường sinh (tức ngoại đan), nghe danh của Trần Đoàn bèn vời vào cung hỏi về thuật luyện đan, và phong cho Trần Đoàn làm Gián nghị đại phu, nhưng Trần Đoàn từ tạ. Vua ban cho Trần Đoàn hiệu Bạch Vân 白 雲 tiên sinh. Những năm Thái Bình Hưng Quốc 太 平 興 國 (976-984) đời vua Thái Tông của Bắc Tống, Trần Đoàn tuân chiếu chỉ vào kinh đô, ông khuyên vua chiêu hiền đãi sĩ, khoan nới sức dân, trừ khử nịnh thần, ban thưởng tam quân. Vua ban ông hiệu Hi Di 希 夷 tiên sinh. Trần Đoàn học thức uyên bác, trứ tác nhiều. Vô Cực Đồ của ông được Chu Đôn Di sửa đổi thành Thái Cực Đồ. Tiên Thiên Đồ của ông được Thiệu Ung kế thừa. Ông có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của Lý Học đời Tống. Trứ tác của ông đều mất cả, chỉ còn sót Âm Chân Quân Hoàn Đan Ca Chú 陰 真 君 還 丹 歌 注 được chép vào Đạo Tạng. Đạo giáo tôn xưng ông là Trần Đoàn Lão Tổ 陳 摶 老 祖 . Xem: Trương Chí Triết, Đạo Giáo Văn Hoá Từ Điển, Giang Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994, tr.207. ↩ 2. Phùng Hữu Lan chú: Trong Đạo Tạng, bản Tham Đồng Khế do Bành Hiểu chú giải cũng không có hình đồ nào cả.– Derk Bodde chú: Bành Hiểu sống thời Ngũ Đại (907-959). ↩ 3. LAM chú: Trong Thuỷ Hoả Khuông Khoách Đồ, nửa hình tròn bên trái tượng trưng quẻ Ly ☲, nửa hình tròn bên phải tượng trưng quẻ Khảm ☵ . Vòng cung đen là hào Âm, vòng cung trắng là hào Dương ↩ 4. Phùng Hữu Lan chú: Hoàng Tông Viêm 黃 宗 炎, Thái Cực Đồ Biện 太 極 圖 辯 (được trích dẫn trong Tống Nguyên Học Án 宋 元 學 案 ) và Chu Di Tôn 朱 彝 尊 , Thái Cực Đồ Thụ Thụ Khảo 太 極 圖 授 受 考 (in trong Bộc Thư Đình Tập 曝 書 亭集 , quyển 58). ↩ 5. Hoàng Tông Viêm, Thái Cực Đồ Biện: «Chu Tử đắc thử đồ, nhi điên đảo kỳ tự, cánh dị kỳ danh, phụ ư Đại Dịch, dĩ vi Nho giả chi bí truyền. Cái phương sĩ chi quyết, tại nghịch nhi thành Đan, cố tòng hạ nhi thượng. Chu Tử chi ý, dĩ thuận nhi sinh nhân, cố tòng thượng nhi hạ.» 周 子 得 此 圖 , 而 顛 倒 其 序 , 更 易 其 名 , 附 於 大 易 , 以 為 儒 者 之 秘 傳 . 蓋 方 士 之 訣 , 在 逆 成 丹 , 故 從 下 而 上 . 周 子 之 意 , 以 順 而 生 人 , 故 從 上 而 下. ↩ 6. Thông Thư: «Động nhi vô tĩnh, tĩnh nhi vô động, vật dã. Động nhi vô động, tĩnh nhi vô tĩnh, thần dã. Động nhi vô động, tĩnh nhi vô tĩnh, phi bất động bất tĩnh dã. Vật tắc bất thông; thần diệu vạn vật.» 動 而 無靜 , 靜 而 無 動 , 物 也 . 動 而 無 動 , 靜 而 無 靜 , 神 也 . 動 而 無 動 , 靜 而 無 靜 , 非 不 動不 靜 也 . 物 則 不 通 ; 神 妙 萬 物 . – LAM chú: Câu chót tôi dịch theo Derk Bodde: «For whereas things do not interpenetrate one another, spirit is the most mysterious of all things.» ↩ 7. Thông Thư: «Nhị khí ngũ hành, hoá sinh vạn vật. Ngũ thù nhị thực, nhị bản tắc nhất. Thị vạn vi nhất, nhất thực vạn phân. Vạn nhất các chính, tiểu đại hữu định.» 二 氣 五 行 , 化 生 萬 物 . 五 殊 二 實 , 二 本 則 一 . 是 萬 為 一 , 一實 萬 分 . 萬 一閣 正 , 小 大 有 定 . ↩ 8. Thông Thư nói: «Thành giả, thánh nhân chi bản. "Đại tai Càn nguyên, vạn vật tư thuỷ," (a) thành chi nguyên dã. "Càn đạo biến hoá, các chính tính mệnh, thành tư lập yên, thuần tuý chí thiện giả dã." ( B) Cố viết: "Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo; kế chi giả thiện dã; thành chi giả tính dã." © Nguyên hanh thành chi thông; lợi trinh thành chi phục. Đại tai Dịch dã, tính mệnh chi nguyên hồ.» 誠 者 , 聖 人 之 本 . 大 哉 乾 元 , 萬 物 資 始 , 誠 之 源 也 . 乾 道 變 化 , 各 正 性 命 , 誠 斯 立 焉 , 純 粹 至 善 者 也 . 故 曰 : 一 陰 一 陽 之 謂道 ; 繼 之 者善 也 ; 誠 之 者 性 也 . 元 亨 誠 之 通 ; 利 貞 誠 之 復 . 大 哉 易 也 , 性 命 之 源 乎 . – LAM chú: (a) Câu «Đạitai Càn nguyên, vạn vật tư thuỷ» là Thoán Truyện quẻ Càn. ( B) Chỉ có «Cànđạo biến hoá, các chính tính mệnh» là trong Thoán Truyện quẻ Càn. Còn «Thànhtư lập yên, thuần tuý chí thiện giả dã» tôi không thấy xuất hiện trong Chu Dịch và Tứ Thư. © Câu «NhấtÂm nhất Dương chi vị đạo; kế chi giả thiện dã; thành chi giả tính dã» này trong Hệ Từ Thượng. ↩ 9. Thông Thư: «Tính giả cương nhu thiện ác, trung nhi dĩ hĩ. Bất đạt, viết: Cương thiện vi nghĩa, vi trực, vi đoán, vi nghiêm nghị, vi cán cố. Ác vi mãnh, vi ải, vi cường lương. Nhu thiện vi thuận, vi tốn. Ác vi nhu nhược, vi vô đoán, vi tà nịnh. Duy trung dã giả, hoà dã, trúng tiết dã, thiên hạ chi đạt đạo dã, thánh nhân chi sự dã. Cố thánh nhân chủ giáo, tỷ nhân tự dị kỳ ác, tự chí kỳ trung nhi chỉ hĩ.» 性 者 剛 柔 善 惡 , 中 而 已 矣 . 不 達 , 曰: 剛 善 為 義 , 為 直 , 為 斷 , 為 嚴 毅 , 為 幹 固 . 惡 為 猛 , 為 隘 , 為 強 梁 . 柔 善 為 順 , 為 巽 . 惡 為 懦 弱 , 為 無 斷 , 為 邪 佞 . 惟 中 也 者 , 和 也 , 中 節也 , 天 下 之達 道 也 , 聖 人 之 事 也 . 故 聖 人 主 教 , 俾人 自 易 其 惡 , 自 至 其 中 而 止 矣 . ↩ 10. Thông Thư: «Thiên dĩ Dương sinh vạn vật, dĩ Âm thành vạn vật. Vật sinh, nhân dã; thành, nghĩa dã. Cố thánh nhân tại thượng, dĩ nhân dục vạn vật, dĩ nghĩa chính vạn dân.» 天 以 陽 生 萬 物 , 以 陰 成 萬 物 . 物 生 , 仁 也 ; 成 , 義 也 . 故 聖 人 在 上 , 以仁 育 萬 物 , 以 義 正 萬 民 . ↩ 11. Thông Thư: «Thánh khả học hồ? Viết: Khả. Viết: Hữu yếu hồ? Viết hữu, thỉnh vấn yên. Viết: Nhất vi yếu, nhất giả vô dục dã. Vô dục tắc tĩnh hư động trực. Tĩnh hư tắc minh, minh tắc thông, động trực tắc công, công tắc phổ. Minh thông công phổ, thứ hĩ hồ!» 聖 可 學 乎 ?曰 : 可 . 曰 : 有 要乎 ?曰 有 , 請 問 焉 . 曰 :一 為要 , 一 者 無 欲 也 . 無 欲 則 靜 虛 動 直 . 靜 虛 則 明 , 明 則 通 , 動 直 則 公 , 公 則 溥 . 明 通公 溥 , 庶 矣 乎 ! ↩ 12. Mạnh Tử, Công Tôn Sửu (thượng): «Kim nhân sạ kiến nhụ tử tương nhập vu tỉnh, giai hữu truật dịch trắc ẩn chi tâm. Phi sở dĩ nạp giao vu nhụ tử chi phụ mẫu dã; phi sở dĩ yêu dự vu hương đảng bằng hữu dã; phi ố kỳ thanh nhi nhiên dã.» 今 人 乍 見 孺 子 將 入 于 井 , 皆 有 怵 惕 惻 隱 之 心 . 非 所 以 內 交于 孺 子之 父 母 也 ; 非 所 以 要 譽 于 鄉 黨 朋 友 也 ; 非 惡 其 聲 而 然 也 . ↩ 13. Thông Thư: «Hồng Phạm viết: "Tư viết duệ. [...] Duệ tác thánh." Vô tư, bản dã. Tư thông, dụng dã. Cơ động ư bỉ, thành động ư thử, vô tư nhi vô bất thông vi thánh nhân. Bất tư tắc bất năng thông vi; bất duệ tắc bất năng vô bất thông. Thị tắc vô bất thông sinh ư thông vi; dụng vi sinh ư tư. Cố tư giả, thánh công chi bản, nhi cát hung chi cơ dã.» 洪 範 曰 : 斯 曰睿 . [...] 睿 作 聖 . 無 思 , 本 也 . 思 通 , 用 也 . 幾 動 於 彼 , 誠 動 於 此 , 無 思 而 無 不通 為聖 人 . 不 思 則 不 能 通 微 ; 不 睿 則 不 能 無 不 通 . 是 則 無 不 通 生 於 通 微 ; 用 微 生 於思 . 故 思 者 , 聖 功 之 本 , 而 吉 凶 之 幾 也 .– LAM chú: Nguyên văn trong Hồng Phạm là: «Ngũ sự: Nhất viết mạo, nhị viết ngôn, tam viết thị, tứ viết thính, ngũ viết tư. Mạo viết cung, ngôn viết tòng, thị viết minh, thính viết thông, tư viết duệ. Cung tác túc, tòng tác nghệ, minh tác triết, thông tác mưu, duệ tác thánh.» 五 事 : 一 曰 貌 , 二 曰 言 , 三 曰 視 , 四 曰 聽 , 五曰 思 . 貌 曰 恭 , 言 曰 從 , 視 曰 明 , 聽 曰 聰 , 思 曰 睿 . 恭 作 肅 , 從 作 乂 , 明 作 哲 , 聰作 謀 , 睿 作 聖 (Năm việc: 1- Dung mạo, 2- Nói năng, 3- Nhìn, 4- Nghe, 5- Suy nghĩ. Dung mạo phải kính cẩn, nói năng phải theo lý lẽ, nhìn phải sáng suốt, nghe phải tinh tế, suy nghĩ phải thấu triệt. Kính cẩn sẽ nghiêm túc, theo lý sẽ trật tự, sáng suốt sẽ khôn ngoan, tinh tế sẽ mưu lược, thấu triệt sẽ thánh thiện). ↩ 14. LAM chú: Câu «Tấthữu sự yên» 必 有 事 焉 trích trong Mạnh Tử (Công Tôn Sửu, thượng), Mạnh Tử nói về việc nuôi dưỡng khí hạo nhiên. Ta cần tích luỹ việc nghĩa thì khí hạo nhiên mới sinh ra. Nguyên văn: «Tất hữu sự yên vật chính, tâm vật vong, vật trợ trưởng dã.» 必 有 事 焉 勿正 , 心 勿 忘 , 勿 助 長也 . Chu Hi giảng chính 正 là dự kỳ 預期 (mong ngóng), ý nói việc nuôi dưỡng khí hạo nhiên chúng ta ắt luôn chú tâm đến, nhưng chớ mong ngóng hiệu quả, chớ quên nó, chớ thúc ép cho nó mau lớn. Cố Viêm Vũ bác bỏ giải thích này. Chẳng qua văn bản bị chép sai. Hai chữ chính tâm 正 心 tức là chữ vong 忘 bị chép sai. Câu này lẽ ra phải là: «Tất hữu sự yên vật vong, vật vong, vật trợ trưởng dã.» 必 有 事 焉 勿 忘 , 勿 忘 , 勿 助 長 也 (Trong tâm ắt có sự [nuôi dưỡng khí hạo nhiên], chớ quên, chớ quên, chớ thúc ép cho nó mau lớn). Xem: Tứ Thư Độc Bản, Tam Dân Thư Cục, Đài Loan, 1993, tr.367. James R. Ware (The Sayings of Mencius, New York, 1960, tr.65) dịch đúng ý của Cố Viêm Vũ: «Let it be constantly in your heart-and-mind, and do not engage in efforts to help it grow.» (Cứ để nó luôn trong lòng, chớ ép nó phát triển). Ở đây, Phùng Hữu Lan trích câu này là muốn nhấn mạnh ý nghĩa «luôn canh cánh bên lòng», chứ ông không quan tâm vấn đề nuôi dưỡng khí hạo nhiên.
-
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ, TRƯƠNG VĨNH KÝ và A. DE RHODES Bài Phỏng Vấn Ông Bùi Kha của đài BBC LUÂN ĐÔN, ÔNG NGUYỄN GIANG thực hiện ngày 22.10.2002 http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha02a_NTT.php VÀI LỜI MỞ ĐẦU Mấy năm gần đây, một số người viết sử có quan niệm là lịch sử cần phải được thấy là chứ không phải là lịch sử cho thấy là. Từ ý nghĩ đó nên năm 1992, Trung Tâm Hán Nôm thuộc viện Khoa Học Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, có nhiều bài tham luận trong số 47 bài, viết với chiều hướng lịch sử cần phải được thấy là, in trong tập kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ Với Vấn Đề Canh Tân Đất Nước. Và ông Chương Thâu, giáo sư viện Sử-học Hà Nội, trong bài viết Từ Một Câu Chữ Của Alexandre de Rhodes Đến Các Dẫn Dụng Khác Nhau đăng ở Nguyệt San Công Giáo tại Việt Nam và cũng được in lại trong Nguyệt San Hiệp Nhấtsố 43, Giáo Phận Orange County, California, Hoa Kỳ tháng 7. 1996. Qua bài viết này, chúng ta thấy ông Chương Thâu đồng ý với Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên trong việc cố tình dịch cụm từ plusieusr soldats là mấy chiến sĩ. Đã thế, còn chú thích đó là chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải lính chiến, tức là mấy người cầm súng đánh giặc. Đúng ra, thì chữ quelque mới có nghĩa là mấy hay một vài, còn chữ plusieurs có nghĩa là nhiều. Và chữ soldats có nghĩa là binh lính hay lính chiến, còn chữ missionnaires mới có nghĩa là lính thừa sai hay là các nhà truyền giáo. Sở dĩ hai ông Chương Thâu và Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch ép giá như vậy là để che đậy cái tội vận động thực dân Pháp vào đánh chiếm nước ta của Linh Mục A. de Rhodes và cũng để vận động chính phủ Việt-Nam làm tượng đài kỷ niệm tại Hà-Nội và đặt tên đường tại thành phố Hồ Chí Minh để vinh danh kẻ tội đồ của dân tộc Việt thay vì lên án kẻ đội lốt tôn giáo nầy. Nhận thấy cách đặt vấn đề, viết sai lầm có hậu ý và vô trách nhiệm đến thế nên tôi đã viết bài để biện chính với tựa đề Góp Ý Với Giáo Sư Chương Thâu Về Vai Trò Của Linh-Mục A. De Rhodes và Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ, đăng trong tạp chí Giao Điểm số 24, 1996 tại Hoa Kỳ, và cũng được nhiều người photocopy phổ biến rộng rãi trong giới giáo chức và sinh viên tại Việt-Nam. Về sau, có người đề nghị tôi viết về Nguyễn TrườngTộ, nhưng tôi không có sử liệu. Rất may có người bạn ở Việt Nam gởi cho cuốn Nguyễn Trường Tộ Con Người và Di Thảo của Linh Mục Trương Bá Cần, tiến sĩ sử học tại Pháp. Đọc hết 58 bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ trong cuốn của Linh Mục Trương Bá Cần, tôi cảm thấy hết sức ngạc nhiên và lạ lùng là không biết tại sao tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ như vậy mà từ trước đến giờ hầu như ai cũng ca tụng ông ta. Vì thế tôi bắt đầu nghiên cứu để viết về nhân vật nầy. Tôi gọi giáo sư Trần Chung Ngọc để viết chung, và sau mấy tháng làm việc (dĩ nhiên là bán thời gian) chúng tôi hoàn thành cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo, Giao Điểm xuất bản 1998. Bài viết của tôi gồm có 190 trang, cọng với bài viết của giáo sư Trần Chung Ngọc 70 trang. Sách dày 260 trang. Mấy tháng sau, ông Nguyễn Xuân Phong viết bài ca tụng cuốn sách này. Bẳng đi một thời gian khá lâu, tháng 3 năm 2001 tại Việt Nam, ông Hoàng Thanh Đạm viết cuốn Nguyễn Trường Tộ Thời Thế & Tư Duy Cách Tân. Tác giả dành một chương gồm 24 trang để phê bình sách của chúng tôi. Vì phê bình sai lầm và viết cẩu thả vô trách nhiệm, nên tôi và giáo sư Trần Chung Ngọc viết bài biện chính. Tháng 4 năm 2002, chúng tôi hoàn thành cuốn sách mới với tựa đề là Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước? Vài tháng sau khi xuất bản, một số độc giả đề nghị đổi thành Nguyễn Trường Tộ Một Sự Lừa Dối Hào Nhoáng cho đúng với tâm chất của ông. Sách được mang về Việt Nam do những người về thăm quê. Tháng 7 - 8, cuốn Nguyễn Trường Tộ Một Sự Lừa Dối Hào Nhoángvà cuốn Petrus Trương Vĩnh Ký Nhìn Từ Những Khía Cạnh và Nhận Thức Khác Nhau được in không có giấy phép tại Việt Nam. Cũng khỏang đầu tháng 8 năm 2002, tờ Sài-Gòn Giải-Phóng đăng bài Hai Cuốn Sách Lạ của ông Dạ Sinh. Trong đó tác giả không hề đề cập đến nội dung của hai cuốn sách mà chỉ cáo buộc rằng người in vi phạm luật xuất bản vì không có giấy phép, in số lượng lớn, gửi bán ở các tiệm sách tư, gửi đi các công sở và ngay cả bán dạo trên đường phố. Gần 6 giờ sáng thứ Ba ngày 22. 10. 2002, ông Nguyễn Giang, đài BBC Luân Đôn, gọi điện thoại và để lại lời nhắn trong máy trả lời (answering machine) của tôi. Ông muốn nói chuyện với tôi về cuốn sách Nguyễn Tường Tộ, sau đây là lời nhắn của ông Nguyễn Giang: Đó có phải là ông Bùi Kha không, tôi là Nguyễn Giang, ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn muốn được nói chuyện với ông về cuốn sách Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước hay không đó. Số điện thoại của tôi ở Luân-Đôn là 0044 vào nước Anh , sau đó là 207 -557-2303. Rất chờ tin của ông. Cám ơn. (Đúng ra phải là 01144, BK). Mười phút sau, tôi gọi điện thoại trả lời ông Nguyễn Giang và cuộc phỏng vấn được tiến hành từ đó. Tôi được phỏng vấn đột ngột, chưa chuẩn bị tinh thần trước và hơn nữa là giọng nói của người Quảng-Trị chắc sẽ làm cho thính giả có vài đoạn khó hiểu. Được phỏng vấn bất ngờ nên có một số vấn đề lúc trả lời, cá nhân tôi cũng cảm thấy chưa được thỏa mãn. Dưới đây, qua mạng lưới âm thanh Internet, chúng tôi ghi lại cuộc phỏng vấn của ông Nguyễn Giang đài BBC Luân-Đôn: 1. BBC: Thưa quí vị thính giả, Nguyễn Trường Tộ là một nhân vật lịch sử Việt-nam được công nhận rộng rãi trong và ngoài nước (qua nhiều thế hệ)* như là một người suốt đời kêu gọi canh tân xứ sở khi nhà nước phong kiến Việt-Nam triều Nguyễn đối mặt với cuộc xâm lăng của người Pháp trong thế kỷ thứ 19. Nhưng trong một cuốn sách ra năm nay ông Bùi Kha và ông Trần Chung Ngọc tại Hoa Kỳ đã cho rằng Nguyễn Trường Tộ không yêu nước như nhiều người vẫn tưởng. Trong cuộc phỏng vấn hằng tuần hôm nay mời quí vị nghe cuộc trò chuyện của Nguyễn Giang với ông Bùi Kha. BBC: Trong chương trình phỏng vấn hàng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần này do Nguyễn Giang phụ trách, tôi xin mời quí vị cùng nói chuyện với ông Bùi Kha là một trong hai tác giả cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước và dấu hỏi rất lớn ở đằng sau. Ông Bùi Kha và ông Trần Chung Ngọc là những trí thức Việt Nam tham gia nhóm Giao Điểm có tư tưởng cổ vũ cho Phật Học tại Hoa Kỳ. Câu hỏi đầu tiên đến với ông Bùi Kha là rất nhiều nhà nghiên cứu Việt-Nam ở nước ngoài cũng như trong nước tại Việt-Nam hiện nay người ta đều ca tụng Nguyễn Trường Tộ và phê phán nhà Nguyễn là có tư tưởng cổ hủ không thực hiện các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch v.v. và Phạm Phú Thứ để cải cách đất nước vì thế Việt Nam mới mất nước, nhưng tại sao ông lại cho rằng Nguyễn Trường Tộ không yêu nước? Bùi Kha: Thưa anh, không phải chúng tôi cho Nguyễn Trường Tộ không yêu nước, nhưng trong lịch sử và trong sử liệu mà chúng tôi có là những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ rất mâu thuẩn. Đọc trong đó kỹ lưỡng chúng ta sẽ thấy rằng ông Nguyễn Trường Tộ nói canh tân cái nầy hay cái khác, nhưng thực ra là chiêu bài củ cà rốt để che đậy hậu ý của ông là nhằm giúp Pháp trong vấn đề đô hộ Việt Nam. Nói rõ hơn, nếu đọc phớt qua thì thấy Nguyễn Trường Tộ đề nghị canh tân cái này, cải cách thứ khác và dùng chữ canh tân để đánh lừa dư luận nhưng hậu ý của ông là chỉ muốn giúp đỡ cho Pháp mà thôi. Nếu ai đọc kỹ lưỡng về Nguyễn Trường Tộ thì sẽ thấy tất cả 58 bản điều trần, tôi gọi là bản chiêu dụ, Nguyễn Trường Tộ nhắm vào hai mục đích chính. Thứ nhất là làm thế nào, vận động thế nào để tất cả quân và dân Việt Nam (nên hòa và hợp tác) đừng bao giờ dùng vũ lực đối với thực dân Pháp. Thứ hai là qua những mánh lưới chính trị lươn lẹo, ông đề nghị người này người khác vào trong vấn đề canh tân đất nước, vào làm việc trong các trại tế bần, nhưng đó là vỏ bọc bên ngoài, còn thực chất là ông ta chỉ muốn (gài người vào) để giúp Pháp mà thôi. BBC: Vâng, nhưng ông nghĩ thế nào chẳng hạn như liên tục trong 8 năm liền từ 1863-1871, Nguyễn Tường Tộ gửi lên triều đình Huế 58 bản điều-trần chẳng hạn, có bản điều trần viết rằng, theo cuốn Tư Tưởng Canh Tân Đất Nước Dưới Triều Nguyễn xuất bản tại Việt Nam trong thời gian qua, ông viết rằng nước chưa giàu sao không đặt kế hoạch để giàu, binh chưa mạnh sao không lo cho võ bị để mạnh v.v. tức là ông cũng nhắc đến cái chuyện là tăng cường võ bị hay là như Việt-Nam nói bây giờ tức là tăng cường cái nội lực để chống lại âm mưu xâm chiếm của thực dân Pháp thời đó, thì tại sao ông cho rằng cái quan điểm chẳng hạn như nâng cao võ bị của Việt-Nam , nâng cao giáo dục cho dân chúng lại là một âm mưu nào đó? BÙI KHA: Thưa ông, ông ta nói nâng cao giáo dục hay canh tân đất nước, ông ta chỉ nói vậy mà thôi, chứ ông không hề có chủ tâm như vậy. Nếu đọc những bản điều trần khác thì thấy chúng mâu thuẩn. Vì năm 1863 (trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận) ông đã nói rằng việc Pháp đánh chiếm Việt-Nam là do Thượng-Đế an bài như vậy rồi chúng ta không thể cưỡng được, và nếu chống lại họ thì cũng giống như châu chấu lay trụ đá mà thôi. Và ông khuyên nên cho quân lính nghỉ ngơi. Khi đề nghị cho quân lính nghỉ ngơi (để người Pháp giữ bờ cỏi cho mình như trong rừng có hổ báo thì chồn cáo không giám bén mảng đến) thì canh tân võ bị như thế nào và canh tân để làm gì? Trong (đề nghị) canh tân võ bị ông cũng không có cái sáng kiến nào cả, ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp, chứ ngoài ra cũng không có một phương pháp nào khả dĩ theo đường lối võ bị mới để canh tân xứ sở, để làm cho dân giàu nước mạnh. Trong lúc đề nghị dân giàu nước mạnh, ông cũng chỉ xử dụng danh từ suông vậy mà thôi, chứ ngoài ra cũng không có chương trình kế họach nào hết. Thí dụ như ngay việc đề nghị mở trường kỹ thuật ở Huế, ông và ông Giám-mục Gauthier được vua Tự Đức nhờ đi Pháp mua dụng cụ máy móc đem về và mời thầy giáo về để mở trường kỹ thuật. Nhưng 4 ông thầy giáo được mang về, 3 ông (linh-mục) thì không có kiến thức, còn ông Ca-Xanh đòi lương quá cao không thể dùng được. Thành ra những điều ông Nguyễn Trường Tộ nói một đường nhưng làm một ngả, cái hậu ý của ông đàng sau đó là khác. BBC: Đó là những suy diễn của quí vị chứ còn ngay trong những bản điều trần chẳng hạn ông đề nghị chất đá cho nhiều để dành khi hữu sự hay là chế tạo các loại vũ khí mới lạ mới đối phó được với giặc chẳng hạn, rồi quân sự thông thường các chiến tập công khai để dân chúng học tập v.v. Hay những đề nghị xây dựng công sự bằng gạch đá v. v. thì những cái đó là rõ ràng để bảo vệ đất nước chứ hả? BÙI KHA: Thưa nếu chỉ trích đoạn đó không thôi thì thấy một số ý kiến của ông như có vẻ đúng. Thực tế ông nói như vậy nhưng không làm như vậy. Thí dụ như ban nảy tôi đưa thí dụ là khi mở trường Kỹ Thuật ở Huế ông mời 4 ông giáo sư về, rồi viết tờ trình lên vua Tự Đức rằng ông nầy có kiến thức nầy, ông kia có kiến thức kia, ông nọ có kiến thức nọ. Nhưng theo tài liệu của Bộ Truyền Giáo thì 3 ông (linh-mục) mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong danh sách thì chỉ có bằng cử-nhân văn chương mà thôi chứ không có kiến thức về khoa học. Ông nói thì có vẻ hợp lý nhưng cái hợp lý đó với hậu ý khác. Như khi ông đề nghị mỗi tỉnh mở một viện dục anh và trại tế bần để giúp đỡ những người nghèo khổ, giúp đỡ những em mồ côi là những đề nghị đúng và hay. Nhưng lúc ông có dụng ý để Giám Mục tình báo Gauthier bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục để coi sóc các trại đó là những đề nghị tai hại. Vì như Giám-mục Puginier đã cho biết Nếu không có giáo-sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ gãy hết càng. Do đó, việc Nguyễn Trường Tộ đề nghị mở viện dục anh và trại tế-bần là có hậu ý để tạo một mạng lưới gián điệp (gồm linh mục và giám mục) bủa khắp cả nước Việt-nam. Đó cũng là hành động giúp CUA (Pháp) có thêm càng để dễ thôn tính nước ta. Cho nên điều mà ông nói mới nghe thì có vẻ như hợp lý nhưng thực hành thì hoàn toàn sai và tai hại. BBC: Quí vị đang nghe trên mục phỏng vấn hằng tuần của ban Việt-Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha từ Hoa-Kỳ, một người có quan điểm phê phán Nguyễn Trường Tộ, và tiếp tục nói chuyện với ông và xin hỏi ông là ông có nói Nguyễn Trường Tộ thực ra là có cái ý xấu tức là phục vụ người Pháp, nhưng thử hỏi rằng nếu trong cái giả sử là như vậy thì phải chăng là tất cả các bản điều trần của ông đều sai trái và không có một ý tưởng gì mới cho canh tân Việt Nam, và một mặt khác thì phải chăng chúng ta nên hiểu rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ là người đưa lên những đề nghị cho triều đình nhà Nguyễn thời đó, chứ ông ta đâu phải là người có toàn quyền thực hiện? BÙI KHA: Có phần đúng như vậy thưa anh, như trong bài viết cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước? Và trước đây, 1998, tôi có viết với ông Trần Chung Ngọc cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo, chúng tôi cũng có nhắc lại rằng một số (rất ít) bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nếu áp dụng thì có thể thực hiện được, rất tốt. Thí dụ như cải cách võ bị, khi ông nói rằng lính đi đánh giặc nhưng không đủ lương thực, tiền lương không đủ để ăn làm sao đánh giặc được. Trong lúc các ông tướng, sau khi đánh giặc về, họ lo ăn chơi không chăm sóc binh lính làm sao lính có thể hy sinh tánh mạng đối với đất nước được. Và nhà vua không trọng đãi họ, làm sao họ có thể hy sinh tánh mạng để bảo vệ tổ quốc? Nói như vậy thì đúng. Và trong bài đề nghị Cải Cách Phong Tục Nguyễn Trường Tộ rất đúng. Nhưng chỉ có một vài bài và vài đề nghị nhỏ như vậy mà thôi, chứ còn toàn bộ 58 bản Điều-trần ông nói thế nầy nhưng với dụng tâm khác mà chúng tôi có vạch rõ trong sách. Ba thí dụ sau đây tôi có trình bày lúc trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Giang, nhưng có lẽ vì thời lượng của đài có giới hạn nên không thấy có 3 dẫn chứng nầy trong các lần phát thanh về Việt Nam. Tôi xin nêu ra đây để làm rõ thêm tâm chất của Nguyễn Trường Tộ. Thí dụ 1: Năm 1867 Đô-Đốc La Grandière lạm dụng uy quyền chiếm thêm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ mà không được sự đồng ý của chính phủ ông. Vua Tự Đức dự định cử phái bộ đi thương lượng thẳng với chính phủ Pháp để đòi lại, thì Nguyễn Trường Tộ, ngày 7.4.1868, viết kiến nghị gởi lên triều đình khuyên nên Bải Bỏ Việc Cử Phái Bộ Đi Pháp nên tính kế lâu dài, dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao-thiệp...Mấy cụm từ nên tính kế lâu dài, dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp ai cũng tưởng ông có lòng đối với đất nước, nhưng thực ra là sợ Pháp có thể trả lại 3 tỉnh vừa chiếm, và cũng để gỡ rối cho La Grandiere đang có thể bị chính phủ ông trừng trị vì chiếm 3 tỉnh miền Tây mà không được chính phủ ông đồng thuận trước. Thí dụ 2: Tháng 9 năm 1870 Pháp thua Phổ, chính phủ bị giải tán, vua Louis Bonaparte bị tù. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để Việt-Nam dùng vũ lực đuổi thực dân Pháp về nước, thì Nguyễn Trường Tộ viết bài Kế Hoạch Thu Hồi Sáu Tỉnh trong đó ông khuyên nên dùng phương pháp ngọai giao thay vì vũ lực để đòi lại các tỉnh đã bị Pháp chiếm. Thí dụ 3: Nhưng có lẽ vì thấy phi lý nên 8 ngày sau (9. 2. 1871) ông viết bài Bổ Túc Kế Hoạch Đánh Úp Gia-Định. Vì tự ái dân tộc và nhục vì bị trị nên lúc nghe mấy chữ Kế Hoạch Đánh Úp dân Việt Nam ai cũng mừng cũng hãnh diện và cứ thế mà biết bao người qua nhiều thế hệ đã ca tụng ông ta. Nhưng Nguyễn Trường Tộ chỉ dùng cụm từ Kế Hoạch Đánh Úp nghe cho đã lỗ tai vậy thôi chứ ông không có ý đánh, mà với hậu ý khác. Vì nếu đánh bây giờ thì sợ Pháp bị thua nên ông khuyên phải 2 năm sau. Lịch sử cho thấy nếu đánh ngay thì Việt Nam thắng còn 2 năm sau chắc chắn thua. Tâm chất dối trá của Nguyễn Trường Tộ hầu hết là như thế cả; nói một đường làm một nẻo và tùy theo tình hình quân sự của Pháp mà viết kiến nghị, có hậu ý, gởi cho triều-đình vua Tự Đức. BBC: Và giả thử xin được hỏi ông Bùi Kha một câu có tính chất hoàn toàn lý thuyết là giả thử như triều đình nhà Nguyễn hay và những người lãnh đạo thời đó ở Việt Nam bắt chước Nhật Bản thực hiện toàn bộ những điều trần của Nguyễn Trường Tộ thì đất nước Việt Nam sẽ đi đến đâu? BÙI KHA: Nếu Việt Nam thực hiện cải cách như Nhật Bản (không phải như NTT*) thì tôi nghĩ rằng nước Việt Nam sẽ khá giàu mạnh, nhưng có điều chắc chắn rằng ông Gauthier là thầy của Nguyễn Trường Tộ và ông Nguyễn Trường Tộ giao dịch sống chung với ông gián điệp tình báo nầy trên 10 năm như tôi đã chứng minh bằng các tài liệu mật trong sách. Ôâng Gauthier lại là người muốn biến đổi xứ Bắc-Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ và sau đó sẽ biến Việt Nam thành một nước chư hầu nhỏ của Pháp. Cho nên nếu Việt Nam canh tân thì chính ông Nguyễn Trường Tộ và ông Gauthier là hai người sẽ đứng ra cản ngăn và phá phách trước tiên, và không bao giờ có thể canh tân được. Nêu ra điều đó chúng ta cần thấy thêm rằng sau ngày 1.9.1858 ông Nguyễn Trường Tộ với Giám Mục tình báo Gauthier và 6 người khác ra tại cữa Mành Sơn Đà-Nẵng và tại đó có các linh mục giám-mục người Pháp có mặt sẵn, Giám-mục Pellerin, người đứng đầu phái bộ, đã cổ động tất cả những người có mặt làm reo Để Pháp đánh Huế cho chóng dứt điểm. Trong những người làm reo đó có ông Nguyễn Trường Tộ. Về sau ông Nguyễn Trường Tộ sợ nên trốn đi Hồng Kông. Từ Hồng Kông, năm 1861 Nguyễn Trường Tộ về lại Sài-gòn, theo lời yêu cầu của ông Charner, để mở rộng vùng chiếm đóng. Cho nên có thể nói rằng nếu Việt Nam thời nhà Nguyễn bắt chước Nhật Bản để canh tân thì chính Nguyễn Trường Tộ và Gauthier là những người sẽ phá phách trước tiên. BBC: Không, nhưng giả sử ta bỏ ông Nguyễn Trường Tộ sang một bên, nhưng theo cái quan điểm của những nhà gọi là có tư tưởng canh tân thời đó kể cả Phạm Phú Thứ sau chuyến đi gọi là Sứ Đi Tây hay là của Nguyễn Lộ Trạch về sau nầy, giả sử không nói đến các nhân vật đó nhưng nếu triều-đình nhà Nguyễn thực hiện tất cả chính sách canh tân đó thì liệu Việt-Nam có thể trở thành giàu mạnh và không bị lệ thuộc nước Pháp không? BÙI KHA: Tôi nghĩ nếu Việt-Nam làm như vậy thì có lệ thuộc nước Pháp cũng có thể thoát ra khỏi được nếu giàu mạnh như Nhật-Bản. Nhưng rất tiếc, triều đình nhà Nguyễn thời bấy giờ cũng bị thù trong giặc ngoài. Trong nước thì có các giáo sĩ và giáo-dân chỗ nầy chỗ khác họ đã chống lại triều đình rồi. Cho nên cũng khó lòng canh tân giả sử triều đình có chương trình để canh tân, vì những con nội trùng trong đất nước khó lòng dẹp yên. Nhưng lúc đó tôi thấy rằng triều đình nhà Nguyễn về phương diện tư tưởng canh tân xứ sở thì các vua quan, nhất là vua Tự Đức, có lòng đối với đất nước, nhưng cũng chưa có chương trình khả dĩ có thể gọi là canh tân, chưa có phương pháp gì cả. Có thể nói là mơ hồ, chỉ lo để chống ngoại xâm và bảo vệ dòng tộc nhiều hơn là có một chương trình canh tân, nếu thật sự có canh tân thì đất nước Việt Nam sẽ khá. BBC: Nhưng mà nếu giả sử là chẳng hạn như nhìn lại một số, đây chúng ta đang nói chuyện với nhau trong cuộc phỏng vấn hằng tuần hôm nay của đài BBC Luân Đôn, tất cả chúng ta nói chuyện chỉ là giả thuyết và giả tưởng ở chỗ là sự việc xẩy ra là nước Việt Nam sau thời Tự Đức thì mất nước và bị nước Pháp đô hộ nhiều năm và sau đó thì trải qua hai ba cuộc chiến khủng khiếp của thế kỷ 20 và đến bây giờ thì đất nước cũng đang ở một giai đoạn đòi hỏi phải canh tân, thì bài học từ thời Tự-Đức mà ông và các cọng sự của ông nghiên cứu trong lúc phê phán Nguyễn Trường Tộ thì cái bài học rút ra cho thời Tự Đức đó là gì? BÙI KHA: Bài học rút ra cho thời Tự Đức là luôn luôn nhà cầm quyền phải nhìn cái hướng đi lên của thế giới và sự phát triển của các nước đã đi qua để xét lại đất nước mình có những điều nào còn tụt hậu, điều nào vẫn còn kém thì mình phải cố gắng phát triển nền kinh tế của nước nhà. Rất buồn, thực tế hiện thời nạn tham nhũng đã đục khoét đất nước Việt-Nam hết sức nguy hiểm như anh thấy. Nạn Năm Cam, tôi nghĩ rằng vốn liếng của ông ta nhiều lắm là 4 đến 5 chục triệu đô la nhưng ông có thể mua đến thứ trưởng, tổng giám đốc, mua nhân viên các bộ, các ngành. Nếu nạn tham nhũng ở Việt Nam không được trừng trị đích đáng và chấm dứt, thì có thể người nước ngoài họ bỏ ra vài trăm triệu đô la là có thể mua hết. Đó là điều nguy hiểm, tôi nghĩ rằng Việt-Nam trong lúc đang trên đà canh tân đổi mới để làm cho dân giàu nước mạnh thì một trong những vấn nạn ưu tiên là chính phủ Việt-Nam cần trừng trị đích đáng thành phần hối lộ tham nhũng. BBC: Quí vị đang nghe trên mục phỏng vấn hằng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha. Trở lại với cái thời Tự-Đức giả sử như các ông vua triều Nguyễn hồi đó vất bỏ cái ý thức hệ Nho Giáo mà nhiều người chính ngay ở trong nước đã gọi là cỗ hủ, tức là vất bỏ cái gánh nặng ý thức hệ đó để tự mình Tây Phương hóa đi hay là mình giống Nhật Bản nghĩa là tự mình hiện đại hóa thì phải chăng mình có cái cơ hội nào đó dù phải trả một cái giá nhất định về mặt bản sắc nhưng mà vẫn có thể trở thành một cường quốc trong khu vực? BÙI KHA: Thưa anh, tôi đồng ý quan điểm của anh như thế. Vì nếu Việt Nam bỏ đi những cái cổ hủ của Nho Giáo, dĩ nhiên trong giáo lý của Nho Giáo, trong ý thức hệ của Nho-Giáo cũng có một số vấn đề đúng chúng ta nên giữ lại. Còn những điều sai như tinh thần trọng nam khinh nữ chẳng hạn, hay thí dụ như vua bảo thần chết thì thần phải chết. Đó là quan niệm xưa, sai lầm. Nếu bỏ những cái cỗ hủ và bắt chước những điều tốt đẹp của Tây Phương thì Việt Nam sẽ khá. Như Nhật Bản, họ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho Giáo, nhưng họ biết gạn lọc, lấy cái hay cái tốt, bỏ cái dở và theo phương pháp Âu hoá của Tây Phương, dựa trên khoa học kỹ thuật để canh tân xứ sở, tôi nghĩ Việt-Nam mặc dầu có đổi cái giá nào đó, nhưng sau cái giá đó mình có thể vượt lên, có thể tự cường và không bị ảnh hưởng, không bị ngoại quốc khống chế hoặc áp đặt những chính sách của họ lên trên đất nước mình. BBC: Xin hỏi ông một câu có liên quan đến sở thích hay những cái tại sao ông lại quan tâm nghiên cứu nhân vật Nguyễn Trường Tộ ? BÙI KHA: Thưa, trước đó tôi có viết bài để góp ý với giáo-sư Chương Thâu về Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ. Bài viết đó được rất nhiều độc giả thích cách đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu của tôi về chữ quốc ngữ và Linh-mục A. de Rhodes (Rốt). Sau đó có nhiều người đề nghị tôi viết về Nguyễn Trường Tộ. Tôi kiếm tài liệu để viết, và nếu tôi không lầm thì năm 1992, Trung tâm Hán-Nôm thuộc viện Khoa-Học Xã-Hội tại thành phố Hồ Chí Minh có tổ chức hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, qui tụ khoảng 5 hoặc 6 trăm người (nếu tôi không lầm con số). Một tập kỷ yếu được ra đời từ cuộc hội thảo gồm có 47 bài. Trong đó gần như hoàn toàn đều ca tụng Nguyễn Trường Tộ. Có người đề nghị tôi viết về Nguyễn Trường Tộ nhưng tôi không thể viết được. Vì nếu ca tụng thì tôi không thể ca tụng hơn người khác, mà nếu phản bác thì tôi không có sử liệu. Nhưng về sau một người bạn ở Việt Nam mua cho tôi cuốn Nguyễn Trường Tộ Con Người Và Di Thảo tác giả là tiến sĩ sử học Linh-mục Trương Bá Cần. Lúc đọc hết 58 bản Điều-trần của Nguyễn Trường Tộ in trong sách đó, tôi thấy hết sức mâu thuẩn và ngạc nhiên là không biết tại sao từ trước đến giờ ai cũng ca tụng ông ta. Từ đó tôi tò mò nghiên cứu và viết về Nguyễn Trường Tộ trong mấy tháng trời xong cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo in năm 1998 (như đã nói ở trên). Năm rồi có ông Hoàng Thanh Đạm viết phê bình cuốn sách của chúng tôi. Vì thế, chúng tôi nghiên cứu thêm để trả lời ông Hoàng Thanh Đạm cuốn sách mà anh đang có trong tay và phỏng vấn chúng tôi ngày hôm nay. Đó là lý do mà chúng tôi muốn rằng một số các nhân vật tại Việt-Nam được vinh danh hoặc bị chôn vùi cần được xét lại. Vì bây giờ nhiều tài liệu mật được mở cho quần chúng xem thì chúng ta cần nghiên cứu trở lại để vấn đề vinh danh hay hạ nhục người nào cho được công bằng. Đó là lý do mà chúng tôi muốn làm, và thấy rằng những cuốn sử Việt-Nam nên chỉnh đốn lại nhiều lắm nhất là những cuốn sử viết về thời Pháp thuộc. BBC: Đó là ông Bùi Kha trả lời phỏng vấn của Nguyễn Giang. Tuần tới mời quí vị nghe Nguyễn Giang hỏi ông về những nhân vật như Alexandre de Rhodes hay Trương Vĩnh Ký mà ông (Bùi Kha) cho là cần được làm rõ ràng hơn trong việc vinh danh hay lên án. Trên đây là phần đầu của cuộc phỏng vấn được phát thanh về Việt-Nam lúc 6 giờ 30 tối thứ Bảy, ngày 26.10.2002. Phần thứ hai được phát thanh về Việt-Nam cũng vào giờ nầy tối thứ Bảy, ngày 2. 11. 2002. 2. BBC: Thưa quí vị, phần 2 và cũng là phần cuối của cuộc trò chuyện với ông Bùi Kha từ Hoa Kỳ đồng tác giả một cuốn sách phê phán Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Giang, ban Việt-Ngữ đài BBC Luân-Đôn, hỏi vì sao ông không chấp nhận chuyện một số nhân vật lịch sử như Nguyễn Trường Tộ, và Trương Vĩnh Ký được vinh danh trong nước. Mời quí vị đón nghe. BBC: Một trong những quan điểm hiện nay rất phổ biến tại Việt-Nam là có rất nhiều cuốn sách cũng như những nhân vật như Trương Vĩnh Ký cũng được trong nước người ta nhìn nhận lại, vậy thì ông và nhóm những người cọng sự của ông nghĩ thế nào về những nhân vật đã từng làm việc cho Pháp nhưng vẫn có những đóng góp cho văn hóa Việt-Nam trong việc canh tân ngôn ngữ cũng như khoa học kỹ thuật ? BÙI KHA: Thưa anh, những người họ làm vịêc cho Pháp hay cho ngoại quốc nhưng nếu có đầu óc canh tân xứ sở như là phát triển văn hoá dân tộc thì cần được ca tụng cả. Khi anh nhắc đến tên Trương Vĩnh Ký thì tôi nhớ có viết bài về ông ta. Về tư tưởng chính trị của Trương Vĩnh Ký thì hầu như đến lúc nầy không ai dám bàn cãi nữa. Vì ông là người phản quốc theo Pháp rồi chẳng cần nói thêm. Nhưng về phương diện văn hóa, có người châm chế cho Trương Vĩnh Ký và nói rằng ông có soạn thảo, dịch thuật và biên chép trên 100 đầu sách, và những sách đó là giúp ích cho nền văn hoá nước nhà thì tôi nghĩ vấn đề đó cần được đặt lại. Vì trong những bài viết và thư mà Trương Vĩnh Ký gởi cho Pháp có một bức thư nói như thế nầy: Tất cả những tác phẩm mà tôi biên soạn từ trước đến giờ, tôi không đi ra ngoài mục đích chính yếu đã được đặt ra. Mục đích đó là nhằm biến đổi và đồng hoá dân tộc An-nam. Cho nên những cuốn sách như biên soạn tự điển, dịch truyện Kiều hoặc những cuốn sách khác của Trương Vĩnh Ký không nhằm để nâng cao dân trí người Việt-Nam nhưng nhằm để đồng hoá dân tộc ta. Do đó, lúc nói rằng Trương Vĩnh Ký có công với nền văn hóa Việt-Nam hoặc có công với dân Việt-Nam thì vấn đề nên được đặt lại. Vì mục đích những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký là như ông ta đã nói. Còn khi chúng ta dùng những tác phẩm đó để mở mang và phát triển văn hóa thì cũng giống như lúc có tên tướng cướp vào nhà. Nó dùng khí giới để đồng hóa và dụ dỗ những người trong đó. Nhưng có người trong nhà đã xử dụng loại khí giới của nó để đánh đuổi tên tướng cướp ra. Thì thử hỏi ai là kẻ có công và người nào là có tội?* Do đó, tôi nghĩ rằng lịch sử cần nên xem xét lại cho được công bằng. Nhất là hiện nay các thư khố và văn khố được giải mật của Pháp và của Vatican, nhà nước Việt Nam, nhất là Viện Sử Học, nên có những công trình đi nghiên cứu và photocopy đem về tất cả những tư liệu viết về Việt Nam, lọc lại những cái nào dùng được, xét những cuốn sử nào từ trước đến nay viết sai lầm, và người nào trong lịch sử được vinh danh nhầm cần đặt lại, và người nào không được vinh danh hoặc đánh giá sai hoặc hạ nhục họ cần được phục hồi danh dự. Tôi nghĩ như thế lịch sử mới được công bằng. Vấn đề ông Trương Vĩnh Ký, ông Nguyễn Trường Tộ, ông (Linh-mục) Trần Lục cần phải được đặt lại cả. BBC: Vậy thì ông nghĩ thế nào về những nhân vật ở nước ngoài như là Alexandre de Rhodes mà bây giờ trong nước người ta còn thậm chí dựng tượng đài nho nhỏ ở thư viện (Hà-Nội) để vinh danh cho việc ông đóng góp vào việc phát triển chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ mặc dầu ai cũng biết rằng ông là một nhân vật Công Giáo vào Việt Nam với mục tiêu là đồng hóa dân Việt-Nam ? (Câu hỏi nầy được lấy từ Internet âm thanh có hơi khác so với câu hỏi nguyên thủy, BK). BÙI KHA: Về ông Alexandre de Rhodes thì anh nên hiểu rõ như thế nầy: có nhiều người từ trước đến giờ viết về Alexandre de Rhodes (Đờ Rốt) thường gán cho rằng ông là người đầu tiên sáng chế chữ quốc ngữ. Nhưng thực sự chính ông Rốt không nói điều đó. Trong cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La, lời nói đầu, Rốt viết rất rõ là tôi đã học chữ Việt với người dân bản xứ và học với các ông cha trong hội dòng đi trước tôi. Điều đó cho thấy rằng ông Rốt không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, mà ông được học từ người dân bản xứ và các ông cha trong các hội dòng. Ông còn nói rằng cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La mà quí vị đang cầm trong tay là do ông Amaral làm cuốn Tự-Điển Việt-Bồ và ông Barbosa làm cuốn Tự-Điển Bồ-Việt còn tôi chỉ thêm phần La-Tinh vào mà thôi. Cho nên gán cho ông Rốt là người sáng chế chữ quốc ngữ và là tác giả cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La là hoàn toàn sai lầm. Việc thứ hai là chúng tôi thấy rằng chính phủ Việt-Nam tái vinh danh bằng cách đặt tên đường và làm tượng đài kỷ niệm ông Rốt là hoàn toàn sai lầm. Vì trong cuốn Hành-Trình Và Truyền Giáo ông Rốt nói rất rõ: Tôi nghĩ nước Pháp là nước ngoan đạo sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh lính để chinh phục cõi Phương-Đông và tại đó tôi sẽ kiếm được nhiều ông cha trong các nhà thờ mới. Với ý nghĩ đó tôi hôn chân giáo hoàng trước lúc rời La-Mã đi Pháp. Và khi đi ngang qua Lyon, ông viết rằng Tôi nghiệm thấy có Thiên Chúa quan phòng và tôi nghĩ làm thế nào để đưa tôi lọt vào Triều-đình Pháp. Tôi rất may mắn là gặp được Giám-mục Henry de Maupa, ngài cũng là Tuyên-uý của đức hoàng hậu, ngài đã giúp cho tôi rất nhiều trong cuộc hành trình nhỏ bé nầy. Cho nên ông Rốt về phương diện tư tưởng chính trị thì chính ông đã vào trong triều-đình vua Louis thứ 14 để vận động Pháp đánh chiếm Việt Nam. Nhưng lúc đó Pháp chưa sẵn sàng, và 200 năm sau thì kế hoạch, ý kiến của ông Rốt đã được Pháp thực hiện tại Việt-Nam vào năm 1858, lúc đánh Đà-Nẵng lần đầu tiên. Cho nên việc đặt tên đường cho ông Rốt tại thành phố Hồ Chí Minh và làm tượng đài kỷ niệm ngoài Hà-Nội là điều nhục quốc thể, nếu người ngoại quốc đến mà thấy như vậy, nhất là người Pháp. Dân Việt-Nam có 4 ngàn năm văn hiến, giờ đây một kẻ tội đồ của dân tộc lại được vinh danh. Tôi nghĩ nhà nước Việt-nam, nhất là Bộ Văn Hóa, Bộ Giáo-Dục cần nghiên cứu trở lại nhân vật Alexandre de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký để lịch sử cho được công bằng. BBC: Qúy vị đang nghe trên mục phỏng vấn hàng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha. Xin thưa với ông Bùi Kha là cái quan điểm phê phán những người nào có một chút dính đến Phương Tây, hay thậm chí theo Phương-Tây theo thực dân Pháp rõ ràng, hay thực sự giúp đỡ Pháp vào đánh chiếm Việt-Nam, quan điểm phê phán nặng nề mà không nhìn thấy những đóng góp của họ thì phải chăng đó là cái quan điểm tại miền Bắc Việt Nam vào các thập niên 60 & 70 khi mà phong trào giải phóng dân tộc đang lên cao, chứ bây giờ các nhà văn hóa đang nhìn lại những điểm đóng góp của họ. Ai cũng biết ông Rốt không phải là một người dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam mà còn có khi ngược lại những đóng góp của ông, đúng là ông không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ, nhưng ông là người phổ biến và có công cải biên nâng nó lên thành một tầng khác thì tại sao không dám dũng cảm mà nhận những gì mà người ta đem đến cho mình ? BÙI KHA: Thưa anh nói như vậy là đúng. Do đó chúng tôi mới nói rằng Bộ Văn Hóa và Viện Sử Học Việt Nam nên nghiên cứu lại là một đề nghị đúng. Nếu nói rằng ông Rốt có công trong vấn đề phát triển chữ quốc ngữ dựa trên mẫu tự La Tinh thì đúng nhưng cho rằng ông là người sáng chế chữ quốc ngữ là sai, và cái tội của ông là vận động Pháp đánh chiếm Việt-Nam. Do đó trong cuốn sách chúng tôi có nói rõ nên liệt kê những cái nào có công thì vinh danh, và cái nào có tội thì nên nói rõ. Chứ ông (Linh-Mục) Rốt trên phương diện đóng góp vào việc phát triển chữ quốc ngữ ông có công. Nhưng bên cạnh đó cũng phải nói rõ rằng ông có cái tội là vận động Pháp vào đánh chiếm Việt-Nam.* BBC: Xin tiếp tục hỏi ông một câu là trong tất cả các bài viết của ông và các cọng sự phần nhiều tôi để ý thấy một cái giòng quan điểm phê phán Công Giáo, phê phán Thiên Chúa Giáo La Mã cũng như Tòa Thánh hay là phê phán những cái gọi là âm mưu Phương Tây vào Việt Nam từ trước đến nay. Điều đó có đúng không hả? BÙI KHA: Thưa anh gán cho chúng tôi rằng phê phán Công Giáo, hay có người nói nặng hơn đó là công kích hay nói xấu Công Giáo, nói xấu Vatican. Chúng tôi nghĩ nói như vậy hơi quá đáng. Chúng tôi chỉ viết theo lịch sử mà thôi. Nếu như Vatican hay Công Giáo có những điều tốt thì chúng tôi cũng nói tốt, có những điều xấu chúng tôi cũng nói đó là xấu. Thật sự, người Công Giáo Việt Nam nhất là con chiên Việt Nam họ rất tội nghiệp. Họ nguyên là người Việt Nam yêu nước, là người chất phát thật thà, là những người đạo đức. Nhưng lúc trở thành con chiên, trở thành tín đồ của Vatican rồi thì họ có khuynh hướng chống lại đất nước mà điều đó chính các đô đốc người Pháp cũng nói rõ: Khi một người trong một vùng hay một làng nào đó trở thành người Công-giáo thì họ từ chối không chịu đóng thuế cho triều đình, họ chống lại không theo pháp luật của nhà nước... BBC: Trước khi đi vào... xin lỗi ông là ngắt lời ông, trước khi đi vào chuyện đó thì xin trở lại cái giai đoạn khi mà Công Giáo đi vào Việt Nam tại sao không nhìn vấn đề những người Việt Nam nghèo khổ, những người thậm chí một số trong giới quí tộc trong phủ chúa Trịnh có những bà chúa nọ khác có những người đi theo Công-Giáo phải chăng tại sao chúng ta không nhìn, các ông không nhìn theo quan điểm tự do tín ngưỡng thí dụ họ muốn thờ ai đấy là quyền của họ, tại sao lại bắt họ phục vụ cho một cái triều đình nhiều khi tham nhũng thối nát thậm chí đàn áp họ, tại sao họ không được quyền theo người Pháp? BÙI KHA: Tôi nghĩ câu hỏi của anh như vậy có cái đúng, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Như anh vừa nói có một số bà chúa, một số công chúa, một số hoàng tộc theo đạo, nhưng khi theo đạo rồi họ chỉ theo đạo và vẫn phụng sự tổ quốc và giữ gìn phong tục và nếp sống tốt đẹp của Việt Nam thì không sao cả, nhưng đã có một số người, nhiều người, khi theo đạo rồi họ bỏ vấn đề thờ cúng tổ tiên, họ sấp lưng đối với triều đình, sấp lưng đối với quốc gia. Đó mới có chuyện xẩy ra. Anh hẳn cũng đã thấy, có một số tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, khi người trở thành tín đồ các tôn giáo nầy họ không sấp lưng đối với tổ quốc của họ, họ không chống lại triều đình. Cho nên có thể nói rằng cái lỗi là ở phía khi mà người Việt Nam trở thành tín đồ Công-Giáo, họ có cái tư tưởng coi trọng Vatican hơn là chính tổ quốc của mình. Chính điều đó, chính điểm đó cần phải được đặt thành vấn đề, cần phải phải được bàn thảo. BBC: Trong giai đoạn đất nước có nhiều cái biến chuyển, tại sao ông lại yêu cầu những người chẳng hạn như Công Giáo hay những người thuộc tôn giáo khác phải đặt quyền lợi của một triều đình, mà triều đình đó rõ ràng là hủ bại, rõ ràng là thất bại trong chuyện canh tân đất nước. Ở cái giai đoạn đó tại sao họ không được quyền hướng đến Vatican, hướng đến Paris, hay những người sau nầy hướng đến Mạc-tư-khoa là quyền của họ tại sao họ lại phải theo quan điểm rất là hạn hẹp tức là phải ủng hộ triều đình nhà Nguyễn hồi đó? BÙI KHA: Trước tiên, nếu đặt vấn đề như vậy thì mình phải hiểu rằng cái chính sách của ngoại quốc đối với đất nước mình nó nguy hiểm hơn hay tốt đẹp hơn chính sách của triều-đình đối với đất nước. Đó là chuyện thứ nhất. Hai chuyện đó rất rõ. Tôi muốn nhấn mạnh lại là chính sách của ngoại bang hay nói rõ hơn đó là chính sách của Pháp thời bấy giờ, nếu đô hộ Việt-Nam thì tôi nghĩ chính sách của Pháp tai hại hơn là chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với đất nước Việt Nam, trên mặt đối với tổ quốc là chuyện thứ nhất. Vấn đề thứ hai là thay vì phụ lực hay ủng hộ người Pháp để đô hộ Việt Nam, người Công-Giáo nên chống thẳng với triều đình, nói điều nầy là cổ hủ điều kia cần phải cải cách, nếu người Công Giáo làm như vậy thì họ là kẻ có công đối với đất nước. Anh cũng như tôi, tất cả những người Việt Nam nếu ai có lòng yêu nước thì đều không thể chấp nhận hành động của kẻ chạy theo giặc. BBC: Và thưa ông là ông Nguyễn Trường Tộ hồi đó với tư cách là một người công giáo mà bây giờ trong nước gọi là công giáo yêu nước. Chính ông đã đưa lên 58 bản điều trần nhưng mà triều đình thực hiện được một ít hay không thực hiện được bao nhiêu là do hoàn cảnh mà chính các nhà nghiên cứu trong nước đều biết rằng thời đó Việt Nam có muốn thực hiện cải tổ cũng hơi khó vì Pháp và những nước Phương Tây khác họ không cho phép, họ tìm cách phá. Những người Công Giáo như vậy, đưa lên những bản điều trần như vậy thì tại sao ông lại phê phán họ? BÙI KHA: Nếu tách rời một số những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ thì có thể áp dụng được. Nhưng ông Nguyễn Trường Tộ nói như vậy (canh tân) nhưng mục đích của ông là nói chuyện khác. Cho nên trong bản liệt kê Công và Tội của Nguyễn Trường Tộ tôi có liệt kê là ông có công xây được 2 nhà thờ, công chỉ huy đào Thiết Cảng, viết được một số bản điều trần (mà trong đó có vài điều) có thể áp dụng được. Nhưng cái tội của ông là như thế nầy, thế nầy... 1.- Ngày 16. 10. 1858 ông ra cửa Mành-sơn Đà-nẵng để cùng làm áp lực quân Pháp đánh Huế. 2.- Năm 1861 làm thông dịch cho Tổng Hành Dinh của Pháp để mở rộng vòng chiếm đóng tại Sai-Gòn. 3.- Cùng với tên Giám Mục gián điệp Gauthier viết 58 bản chiêu dụ để dối gạt dân Việt Nam và dối gạt triều đình vua Tự Đức nhằm giúp Pháp và Vatican. 4.- Cố ý nhận định sai tình hình để gỡ rối cho Pháp. 5.- Dối trá trong việc mở trường Kỹ Thuật ở Huế. 6.- Âm mưu bày việc đào kênh từ Hải Dương vào Huế để toàn dân nỗi loạn. 7.- Đề nghị thương hiếu với giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công Giáo hoá Việt-Nam. 8.- Đề nghị dùng các tên linh-mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ để tên tình báo Gauthier bổ nhiệm các giáo sĩ coi sóc nhằm tạo một cuộc nỗi dậy toàn cõi Việt Nam do các giáo sĩ lãnh đạo. 9.- Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp đòi lại 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. 10.- Thay vì phải đánh gấp lúc thời cơ cho phép vào cuối năm 1870 để đuổi thực dân Pháp về nước, Tộ khuyên nên đợi 2 năm sau. Xin xem thêm cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?. Do đó chúng tôi rất công minh trong vấn đề. Nói lại là nếu lựa lọc ra một số rất ít các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ thì có thể thực hiện được và rất hay. Nhưng rất tiếc hậu ý của Nguyễn Trường Tộ là không phải vấn đề đó. Đây tôi nói hậu ý. ... BBC: Vừa rồi là trên mục phỏng vấn hằng tuần với Nguyễn Giang và ông Bùi Kha, trước khi kết thúc chương trình, Nguyễn Hoàng xin được điểm lại vài hàng tin chính ... 3. Trên đây là hai lần phát thanh về Việt Nam của đài BBC Luân Đôn, ông Nguyễn Giang phỏng vấn ông Bùi Kha. Thứ Sáu, ngày 15.11.2002, ông nguyễn Giang và ông Nguyễn Hoàng trong ban Việt-Ngữ của đài để lại lời nhắn trong máy muốn phỏng vấn tôi về vấn đề dân miền Thượng Đê-Ga tại Việt-nam. Nhưng rất tiếc tôi không có ở nhà. Nhân tiện đây tôi kính lời cảm ơn sự hảo ý của hai ông. Vì kiếm không có tôi nên đài trích một đọan trong lần phỏng vấn trước (ngày 22. 10. 2002) để phát thanh về Việt nam vào tối Chủ Nhật, ngày 17. 11. 2002. Xin mời quí vị theo dỏi: BBC: Ông Bùi Kha, một người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ, viết nhiều sách về lịch sử Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn của Nguyễn Giang đài BBC, thì có một phần nỗi bật trong cuốn sách của ông nói rằng Phương-Tây xử dụng tôn giáo như là một công cụ có lợi cho họ ? BÙI KHA: Chúng tôi thấy như vậy, Phương Tây dùng tôn giáo đi trước chính trị đi sau. Đó là điều hết sức rõ. Chính những ông linh mục người Pháp cũng đã nói nếu muốn Việt-Nam trở thành nước Pháp thì trước tiên phải biến đổi người dân Việt Nam trở thành người Công Giáo trước. Điều đó quá rõ, mà chúng tôi viết là chỉ chép lại và sưu tầm những quan điểm và những lời của người ta nói ra chứ không phải là chúng tôi đặt để và gán cho nó như thế. BBC: Và ông nghĩ thế nào về chẳng hạn như quan điểm của một số người trong nước, trong giới nghiên cứu cũng như là giới truyền thông trong nước nói rằng là sự kiện những người Thượng vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam gọi là người Thượng theo đạo Tin Lành Đê-Ga, họ bị những nhân vật bên ngoài xúi dục thì ông nhìn vấn đề nầy như thế nào? Đây là một vấn đề rất hiện đại, rất đang nóng bỏng ở Việt Nam? BÙI KHA: Thưa vấn đề nói như vậy là có lý và có phần lớn đúng. Lúc viết về Nguyễn Trường Tộ chúng tôi có dẫn chứng ông Nicholas Tapp* là người nghiên cứu phong tục dân miền Thượng, ông (và số giáo sĩ) đề nghị rằng nếu tất cả dân miền Thượng, dân tộc thiểu số, đổi thành đạo Kitô tức là đổi thành Công Giáo và Tin Lành hết thì họ sẽ vận động cho độc lập tự trị và sẽ giàu có như Mỹ. Khi một người đến đất nước khác (hoặc một nhóm đang sống trong đó) mà muốn biến đổi một thành phần nào trong bộ phận của dân tộc để tạo những quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn thì không ai chấp nhận được. Tôi nghĩ nếu anh Giang hoặc tôi mà điều hành chính phủ thì có lẽ mình cũng không chấp nhận quan điểm đó. Nước bị chia năm xẻ bảy, một quốc gia mà bị biến thành nhiều quốc gia. Cho nên nói vấn đề tự do tôn giáo chúng ta nên tôn trọng, nhưng có lẽ chúng ta không chấp nhận những người nào có âm mưu dùng chiêu bài tôn giáo để làm hại đất nước khác. Đối với hoàn cảnh Việt Nam có một số người như ông Nicholas Tapp (và số giáo-sĩ) mà tôi vừa dẫn chứng là muốn biến những người dân miền Thượng thành quốc gia độc lập tự trị (và hứa hẹn) sẽ giàu có như Mỹ. Phi-luật-tân ở gần Việt-Nam, 80 phần trăm là Công-giáo, có giàu có hơn Việt Nam đâu? Trên 4 triệu cô gái Phi có bằng cử nhân và cao học mà đi làm những nghề không mấy trong sạch và không được xã hội chấp nhận mà họ vẫn làm, (còn Châu Mỹ La-Tinh và Phi Châu hầu như hoàn toàn Công-Giáo và Tin-Lành nhưng là những nước nghèo nhất thế giới. Còn Nhật Bản có 1% Tin Lành, Công Giáo không đáng kể, số còn lại là Phật Giáo và một ít Thần-Đạo là nước giàu thứ nhì trên thế giới. Đoạn nầy sót, không có trong Internet). BBC: Ông nghĩ thế nào về quan điểm của chính một số các nhân vật trong chính các nhóm người Thượng tại Hoa Kỳ, họ nói rằng người Việt lên chiếm đất của họ và hiện nay họ có quyền tự do tôn giáo, họ có quyền chọn tôn giáo để theo cũng như có quyền chọn những nhân vật nước ngoài, những tổ chức nước ngoài giúp đỡ họ để phát triển cái quyền tự do tôn giáo hay bảo vệ cái bản sắc dân tộc của họ? BÙI KHA: Tôi nghĩ nếu chính phủ Việt Nam có những điều bất công hoặc lấn át những người dân miền Thượng hoặc chiếm đất của họ, và nếu vấn đề đó có thực, thì chính phủ Việt-Nam nên trả lại đất đai cho dân miền Thượng, điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, là người dân miền Thượng cũng như bất cứ một người dân Việt Nam nào, thời đại nầy là thời đại của tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Mình có quyền theo tôn giáo nào mà mình thích, nhưng có điều nên nhớ rằng dẫu theo tôn giáo nào đi nữa thì mình sống trên đất nước nào, ăn cây nào rào cây ấy, mình nên theo tôn giáo vẫn thờ Chúa, vẫn đọc kinh, vẫn sùng kính đạo. Nhưng sống trên đất nước nào thì mình cũng phải có bổn phận của người công dân và làm tốt cho đất nước mà mình đang sinh sống. Còn mình tôn thờ Chúa hay theo tôn giáo nào không thành vấn đề miễn là mình đừng có tinh thần vọng ngoại, đừng có tinh thần như trước đây Chẳng thà mất nước không thà mất Chúa chỉ có vậy mà thôi. Một số người miền Thượng sống tại Hoa Kỳ đưa ra quan điểm nầy hay quan điểm khác tôi nghĩ họ cũng nên xét lại rằng sống trên đất nước Hoa-Kỳ thì họ cũng phải trung thành và tôn trọng luật pháp ở đây. Trên đây là bài viết từ băng cassette lấy trong Internet âm thanh thu lại 3 buổi phát thanh về Việt Nam của đài BBC Luân-Đôn. Bùi Kha trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Giang theo trí nhớ. Muốn được rõ hơn về ngày tháng và những trích dẫn xin độc giả tìm đọc thêm các cuốn sách về chủ đề nầy: 1.-Alexandre de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt-Nam Và Chữ Quốc Ngữ, 9 tác giả, Giao Điễm xuất bản năm 1998 tại Hoa Kỳ. 2.- Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm, Hoa-Kỳ, 1998. 3.- Linh Mục Trần Lục Thực Chất Con Người & Sự Nghiệp, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm 1999. 4.- Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm 2002. 5.- Petrus Trương Vĩnh Ký Nhìn Từ Những Khía Cạnh Và Nhận Thức Khác Nhau, 7 tác giả, Giao-Điểm 2002. Phụ lục Ca tụng và chống đối cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc Nguyễn Trường Tộ: thập thò sau Bức Màn Canh Tân để làm lợi cho ngoại bang (hình lấy trong báo Tuổi Trẻ 2001) Một Khám Phá Bất Ngờ Về Nguyễn Trường Tộ - Nguyễn Xuân Phong Nguyễn Trường Tộ Hôm Qua Và Hôm Nay - Thuý Nga (Báo Tuổi Trẻ) Cuốn sách viết về một con người độc đáo, một người không phải anh hùng, không là văn nhân, không từng đỗ đạt lớn, ông chỉ là một trí tuệ bị lãng quên, nhưng là một trí tuệ sáng ngời, vượt lên trên tầm thời đại VN thế kỷ 19. Một người mà phải đến năm 1908, cụ Phan Bội Châu đã nhìn thấy nơi ông vai trò của một người gieo mầm khai hóa đầu tiên ở nước ta. Một người giáo dân yêu nước mà năm 1946, Hồ Chí Minh đã lấy làm tiếc cho triều đình nhà Nguyễn khi không biết lắng nghe những sớ tấu của ông bàn việc tu chỉnh võ bị và canh tân đất nước. Con người đã chịu nhiều tiếng khen chê khi còn sống và cả khi đã chết ấy một lần nữa lại được hậu thế luận bàn. Nguyễn Trường Tộ - thời thế và tư duy cách tân (*) là tâm huyết 20 năm nghiên cứu của nhà sử học Hoàng Thanh Đạm. Từ những vấn đề nghiên cứu Nguyễn Tường Tộ trong lịch sử, tác giả đã có riêng hẳn một phần để hệ thống tư duy cách tân của nhân vật lịch sử này. Qua 58 bản di thảo, tư duy kinh tế - văn hóa - ngoại giao - quân sự - triết học đã được phân tích một cách cặn kẽ. Làm nổi bật những suy tư nóng bỏng về thời thế, những điều trần mới mẻ để dân giàu nước mạnh, những lời xin khuyến khích (cải tạo nhà ở đô thị, khuyến khích việc học tiếng nước ngoài...), những điều xin khen thưởng (cho người chế tạo đồ dùng kiểu mới tiện lợi và rẻ, cho người ra nước ngoài học hỏi giúp nước, cho người lập hội xây cầu cống, đường sá thay cho công việc nhà nước...). Mở cửa để giữ nước; Học tập bồi dưỡng nhân tài là con đường rộng lớn đi đến giàu mạnh; Học cái thực tế thì sẽ có thực dụng, học cái vụn vặt thì chỉ được cái vụn vặt; Bỏ phí một người tức là phí một phần của đất nước... đều là những câu chữ không chỉ cần cho hôm qua. Trong lời tựa mang tên Một con người của thế giới hiện đại, giáo sư Phan Ngọc nói đến một nhân cách cần thiết cho người VN ở thế kỷ 21. Nhân cách ấy hiểu rõ ý nghĩa của học vấn, học để thay đổi đất nước chứ không phải để làm quan. Nhân cách ấy có một tinh thần phê phán những cổ hủ và lạc hậu, dám nói và dám làm. Mượn tiếng tốt để làm việc xấu là người ngu. Chịu tiếng xấu để làm việc tốt là người khôn. Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ - sản phẩm của thời thế (1830-1871) đã chịu không ít tiếng xấu như thế khi đi trước thời đại của mình. Nhưng ông vẫn là người khôn trong cách nghĩ của ông. THUÝ NGA (Báo Tuổi Trẻ 18. 5. 2001) Đánh giá lại Nguyễn Trường Tộ là một trong những vấn đế lớn và sôi nỗi hiện nay. Để việc tranh biện được minh bạch và độc giả có sẵn tư liệu đối chiếu giá trị nghiên cứu của ông Hoàng Thanh Đạm và ông Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi xin được in lại bản phóng ảnh nguyên xi chương sách dưới đây của ông Hòang Thanh Đạm như là một tài liệu dẫn chứng. Kính mong tác giả thông cảm. Ghi Chú: Lúc lay out, nên bỏ bài của ông Hoàng Thanh Đạm dưới đây, thay vào đó là bản phóng anh nguyên xi sẽ cung cấp sau). Một cuốn sách ngược dòng công kích NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HOÀNG THANH ĐẠM Cuốn sách này do hai bạn Việt Kiều ở Mỹ là Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc viết với nhan đề Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo, được nhóm Giao Điểm ở Mỹ xuất bản tháng 4 năm 1998. Sách dày 261 trang, gồm có hai luận văn dài: - Luận văn thứ nhất của Nguyễn Kha Nguyễn Trường Tộ trong chiêu bài canh tân (đề ngày 31-1-1998) dài 188 trang. - Luận văn thứ hai của Trần Chung Ngọc Nguyễn Trường Tộ từ huyền thoại đến thực chất, dài 70 trang. Luận văn của Nguyễn Kha có mở đầu bằng một thái độ tỏ ra khiêm tốn. Anh viết: Có nhiều điều khó khăn cho tôi khi viết về N.T.Tộ (để công kích ông). Khó khăn là do: Từ nhỏ N. Kha đã được thầy học giảng dạy rằng N.T.Tộ là một nhà cách tân lớn nhưng triều đình Tự Đức hẹp hòi, cố chấp, không áp dụng các đề nghị sáng suốt của ông. Thế mà 125 năm qua chưa có ai thanh minh cho triều đình Tự Đức. Hơn thế nữa đã từng có 60 tác giả viết hàng trăm bài ca ngợi nhiều hơn là phê phán N.T. Tộ, trong đó có nhiều tác giả tầm cỡ bậc thầy của anh. Mặt khác N. T.Tộ lại được Linh mục Tiến Sĩ Trương Bá Cần sưu khảo thật đầy đủ, công phu đến tận chi tiết; và gần đây cuộc hội thảo về chủ đề "Nguyễn Trường Tộ - nhà cải cách lớn của dân tộc" do viện khoa học xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức, tập hợp 47 bài "là một công trình nghiên cứu tập thể gồm nhiều vị giáo sư và nhiều học giả lỗi lạc (...) Việc đánh giá cao Nguyễn Trường Tộ được xuất phát từ tinh thần khoa học khách quan, không bị vướng mắc bởi tình cảm tôn giáo (Xem sách N.T.Tộ thực chất con người và di thảo - viết tắt là thực chất, trang 6) Tuy thấy rõ khó khăn như trên, nhưng N. Kha vẫn nói: vì gần đây có người yêu cầu anh viết sách (với tinh thần phê phán N.T.Tộ để đối đáp với số đông học giả trong nước đang ca ngợi N.T.Tộ); do đó anh phải đọc hết 58 bản điều trần N.T.Tộ và vận dụng nhiều tài liệu mật của thực dân Pháp và của Giáo hội để tìm ra luận cứ phê phán. 1. Trọng tâm phê phán của N. Kha và T. C. Ngọc đối với N. T. Tộ tập trung nhất vào vấn đề tôn giáo. N. Kha kể rằng khi người ta yêu cầu anh viết sách công kích N.T.Tộ thì ông bạn còn nói thêm rằng: N.T.Tộ là một tên Việt gian vì ông ta là người Gia Tô; nhưng anh quan niệm rằng nghiên cứu một nhân vật hay một sự kiện lịch sử thì nên vượt ra ngoài tình cảm tôn giáo... (Thực chất... tr. 7). Tuy anh thanh minh như vậy, nhưng người đọc qua hai bài luận văn trong sách Thực chất... thấy rằng Nguyễn Kha dùng tới 77 trang trong 188 trang của luận văn N.T.Tô. trong chiêu bai canh tân và Trần Chung Ngọc dành 48 trang trong 70 trang của luận văn N.T.Tộ từ huyền thoại đến thực chất để nói về các vần đề tôn giáo nhằm phê phán N.T.Tộ. Tất cả những ý kiến phê phán tôn giáo trong sách Thực chất... nhằm ba vấn đề: một là vạch ra những sai lầm về lý thuyết của đạo Gia tô; hai là vạch rõ mưu đồ của các thừa sai Gia tô muốn biến Việt Nam thành nước Chúa, tích cực giúp quân viễn chinh Pháp thôn tính Việt Nam; ba là N.T.Tộ là tín đồ Công giáo, tay chân của Giám mục Gauthier, một tên gián điệp lợi hại của xâm lược Pháp. a) Nói về sai lầm lý thuyết kinh thánh, hai tác giả nhấn vào mấy điểm: - Kinh thánh nói rằng quả đất và loài người do Thượng đế tạo dựng cách đây từ 6000 đến 10.000 năm. Nhưng khoa học chứng minh rằng quả đất có hàng triệu năm về trước, Thái dương hệ gồm Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất... xuất hiện cách đây 5 tỷ năm. (Tr. Ch. Ngọc nói là 15 tỷ năm) (như trên, trang 48 và 225) - Kinh thánh nói nước đá có được nhờ hơi thở của Chúa Trời, Ngài chứa nước trong mây và giăng bủa các tia chớp... (Nt, trang 48) - Sách Dân số kỷ (Numbers) kể chuyện Moise cướp được nhiều bò, dê, lừa và 32 ngàn cô gái trinh, chia cho binh lính 50 phần trăm còn Đức Chúa Trời hưởng 50 phần trăm. Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đã trực tiếp ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm, rồi chính Chúa Trời cũng đòi hưởng gái trinh nữa (N, trên, tr. 5). - Kinh thánh nói ai không tôn thờ đức Chúa Trời thì phải giết sạch. Tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Kitô. Những kẻ ngoại đạo không có quyền hưởng sở hữu một mảnh đất nào (Nt. Trang 147-149) Tr. Ch. Ngọc phân tích: Tại sao một tôn giáo đen tối như đạo Gia tô mà vẫn có thể tồn tại và phát triển, và anh giải thích: Có nhiều nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân chính là phương cách đào tạo, trang bị giới giáo sĩ bằng loại kiến thức hạn hẹp, một chiều, nặng về phục tùng để có một địa vị, không dùng để suy luận, và nghệ thuật nắm đầu óc tín đồ bằng mọi cách, kể cả gian dối và độc tài của Giáo hội (Nt. Trang 205). Anh dùng trên 20 trang sách vạch ra nhiều sự kiện, chứng cứ, nhất là chuyện các giáo sĩ Gia tô có đầu óc suy nghĩ độc lập đã phải công phẫn, chống lại Giáo hội (Nt. Trang 189-221) và anh kết luận chính sách truyền đạo của Ca tô Rôma tuyệt đối không có mục đích huấn luyện nhân dân bản xứ thành những người yêu nước (tr.222) B) Nói về dã tâm của các thừa sai Gia tô giáo sang Việt Nam, hai tác giả có nhiều dẫn chứng trích từ các tài liệu mật của Giáo hội Gia tô, kể rõ hoạt động, ý đồ từ Alêc-xăng đờ Rốt trong thế kỷ XVIII đến các giám mục thừa sai trong thể kỷ XIX đều nhằm mục đích đồng hóa Việt Nam theo đạo Gia Tô. Để thực hiện mục đích tôn giáo, họ đã kết liên với quân xâm lược Pháp, cung cấp cho chúng bản đồ, tin tức, và được quân viễn chính Pháp che chở, hỏi ý kiến, sử dụng vào việc này việc nọ. Trong các giám mục, Gauthier là người thầy, người đỡ đầu N.T.Tộ từ năm 27 tuổi đến năm cuối đời của ông. c) Tất cả các cứ liệu phê phán giáo lý, phê phán các thừa sai Gia tô đều nhằm mục đích vạch tội N.T.Tộ. Dưới con mắt hai anh, N.T.Tộ chẳng qua là đầy tớ của Gauthier, một tên gián điệp lợi hại nhất của quân Pháp. Trần Chung Ngọc viết: Đọc những bản điều trần của N.T.Tộ tôi thấy rằng phần lớn kiến thức của ông là một loại kiến thức đặc thù Gia tô (Tr. 223). Nguyễn Kha viết: N.T.Tộ khéo léo tài tình lồng tư tưởng kinh thánh vào hầu hết di thảo, để một mặt thì hăm dọa rằng tạo vật đã định như vậy, làm sao cưỡng được, mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận (tr.100) Anh viết thêm: Tư tưởng Gia tô giáo là chẳng thà mất nước không thà mất Vaticăng. Vì thế chúng ta mới hiểu rõ hậu ý mà N.T.tộ đề nghị Triều đình dùng giám mục vào việc canh tân (...) Tội nghiệp cho vua quan nhà Nguyễn không có cơ quan tình báo gì cả, nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con (tr. 129) Lại viết May mà triều đình nhà Nguyễn ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của N.T.Tộ, còn không thì con vi trùng trong thịt sư tử đã ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lầu rồi. (tr.176) Với những lời phê phán gán ghép suy diễn như trên, hai anh khái quát mưu đồ phản quốc của N.T.Tộ vào một câu rất hiện đại: Với giọng văn diêu luyện, sắc sảo, chúng ta thấy N.T.Tộ đã sử dụng hai luận điểm chính để thuyết phục nhân dân Việt nam và nhất là triều đình Tự Đức. Hai luận điểm có tính chiến lược đó có thể đặt tên là củ cà rốt và cục xương (in chữ to). Chiến thuật củ cà rốt là đưa ra miếng mồi béo bở như khai thác hầm mỏ, xử dụng tài nguyên thiên nhiên để làm cho dân giàu nước mạnh. Muốn đạt được mục đích đó thì phải làm gì? Trả lời: phải hợp tác với Pháp, phải cầu khẩn Giáo hoàng La Mã giúp sức(...) Chiến thuật cục xương là đưa ra một số đề nghị không thể thực hiện được như chỉnh trang võ bị, đào kênh từ Hải Dương đến Huế v.v... để qua đó bắt triều đình nhà Nguyễn phải mất thì giờ gặm nhắm cục xương để không thể làm gì khác thêm (N.tr. trang 9-10) Các học giả yêu kính N.T.Tộ chắc không quan tâm nhiều về các lý lẽ của N.Kha và Tr.Ch.Ngọc công kích đạo lý Gia tô và chỉ vạch ý đồ xấu của các giám mục Pháp. Trong lịch sử, các tôn giáo khác nhau công kích nhau thậm tệ là chuyện bình thuờng. Có khi họ còn chém giết nhau nữa. Còn như ý đồ xấu của các giám mục Pháp ủng hộ quân viễn chinh Pháp hồi thế kỷ XIX là chuyện có thật. Có điều là hai tác giả không hiểu nổi cái nghịch cảnh của N.T.Tộ: Là một giáo dân, sống trong cảnh đạo giáo của mình bị bài xích, giáo hữu và cha cố mình bị triều đình truy bức, mà N.T.Tộ không một lời oán trách triều đình; trái lại ông nhận mình là bề tôi nước Đại Nam; một lòng một dạ bàn với triều đình tìm cách thoát khỏi thế bí trước một kẻ thù đang áp đảo mình về thế và lực. N.T.Tộ tin ở đạo giáo của mình, nhưng ông đã vượt ra ngoài sự mê lú, cuồng tín để có được tư duy khoa học. Trong bài tựa sách Đàm thiên luận ông viết: Phàm nhà khoa học thì bụng phải bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần chu du tận cõi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ y huyền. Như thế mới suy xét mà tâm đắc được những gì sách vở không thể truyền hết, ý hội được những gì người xưa không thể nói hết (...) Trời tuy cao, đất tuy xa, nhưng đều có sự thực mà không chìm vào hư vô (...) Kẻ cao minh muốn nghiên cứu khoa học phải rộng lòng khảo cứu, dẹp bỏ hết những thành kiến tập quán cũ, không phân biệt giới vực, vận dụng hết thần trí, ôm vũ trụ vào lòng, nhắm mắt lại mà như thấy rõ ràng trước mắt (Xem Trương Bá Cần - sách đã dẫn - tr. 417). Nhà thiên văn học Copernic (1473-1543) từng bị Giáo hội Rôma khép tội vì phát kiến Trái Đất xoay quanh Mặt Trời, thì N.T.Tộ lại ca ngợi: có thể nói khoa học phương Tây đặt đến chỗ tinh vi là do ông mở đầu mà ra (Tr. Bá Cần - sách đã dẫn - trang 418). Ông khuyên những ai có chí với dân tộc hãy nên tìm tòi nghiên cứu trong môn khoa học (thiên văn) này để hiểu được đại cương những bí mật của Trời Đất (Tr. B. Cần, như trên, trang 422). N.T.Tộ tuy được giám mục Gôchiê đỡ đầu, nhưng phần lớn các bản điều trần của ông đều là ý kiến độc lập, và các hoạt động của ông cũng độc lập với giám mục. Ông nói rõ với triều đình giám mục có thể giúp việc gì và không thể giúp việc gì. Nhất là khi ông bàn các mưu kế đối phó với quân xâm lược thì ông dặn triều đình không thể cho giám mục biết. Như trường hợp tháng 8 - 1866 N.T.tộ nảy ra sáng kiến liên hệ với một số quan binh Pháp vốn có mâu thuẫn với Tây soái De La Grandière là kẻ đang có âm mưu lập công thôn tính thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Ông đề nghị với triều đình để ông cùng với Nguyễn Hoàng gấp rút vào Sài Gòn vận động họ viết thư gửi cho các Đại Học sĩ ở Tây triều gây dư luận ủng hộ ta, cương quyết không can thiệp vào nước ta. Về việc này ông này ông đã dặn triều đình dừng để cho giám mục Gauthier biết. (Xem Tr. B. Cần, sách đã dẫn, trang 189) Là một tín đồ công giáo, N.T.Tộ thành tâm nghĩ rằng có thể cùng giám mục vào việc giúp ta canh tân đất nước, như lập trường kỹ thuật, mở viện dục anh. Nhưng thâm tâm ông vẫn không muốn việc đạo giáo Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào các giám mục Tây. Cho nên hồi 1866, khi chuẩn bị sang Pháp lo toan việc chuẩn bị mở trường kỹ thuật, ông đã trao đổi ý kiến riêng với Trần Tiễn Thành và Phạm Phú Thứ rằng Các giáo sĩ Tây tuy vốn vô tâm với thế sự, nhưng trong đó cũng có một hai người không yên phần lo việc đạo giáo, chỉ mưu đồ lợi riêng, nên ông muốn nhân lúc đi Tây mà xin với Giáo hoàng hãy rút giáo sĩ Pháp về, chỉ giao cho giáo sĩ nước ta trông nom hoàn toàn việc đạo giáo (...) Như thế không phải là phản đạo mà chính là bảo vệ đạo (Tr.B.Cần, s.đ.d. trang 325). 2. Theo N. Kha và Tr.C.Ngọc thì tội lớn nhất của N.T.Tộ là tội bán nước. Hai anh vận dụng nhiều tài liệu mật trong các báo cáo của tướng soái thực dân xâm lược gửi về Pháp kêu ca nhiều nỗi khó khăn chúng gặp phải do cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam hồi 1858-1862 để xin thêm quân tiếp viện. Với những cứ liệu này N.Kha kết tội N.T.Tộ đề cao sức mạnh quân xâm lược để hù dọa triều đình và nhân dân ta, hòng thuyết phục triều đình hãy sớm đầu hàng quân Pháp (xem Thực chất... - trang 21-25). Anh còn phê phán N.T.Tộ vận dụng học thuyết Kinh Dịch: Khí đất là từ Bắc xuống Nam, mà thủy ở phương Bắc, hỏa ở phương Nam, cho nên thủy trị được hỏa. Còn vận trời là từ tây sang Đông, mà kim ở phương Tây, mộc ở phương Đông, cho nên kim diệt được mộc. Như thế mà suy ra lẽ trời thì Tàu diệt Việt, Pháp diệt Đông Dương (xem Thực chất... trang 18). Và N.Kha lên án: Theo N.T.Tộ, thuận với đạo trời thì nên dâng Tổ quốc cho Pháp, chống làm chi cho thêm họa (Như trên, trang 28). Nói về những sử liệu mật của Ng.Kha có được, chúng ta không vội nghi ngờ độ tin cậy của những câu trích dẫn được dịch ra tiếng Việt lại còn đăng tải cả nguyên văn tiếng Pháp. Nhưng theo phương pháp luận khoa học lịch sử thì không nhất thiết trích dẫn được nhiều sử liệu liệu là phản ánh đúng sự thật lịch sử. Lênin từng nói: Các hiện tượng trong đời sống xã hội là cực kỳ phức tạp, nên người ta luôn luôn có thể tìm được, muốn bao nhiêu cũng có những ví dụ hoặc tài liệu lẻ tẻ để chứng minh cho bất cứ luận điểm nào (Xem Lênin tuyển tập Q. I - nxb Sự Thật 1959, trang 410). Ở đây, muốn kết tội N.T.Tộ, Ng. Kha chỉ trích dẫn những đoạn văn tướng soái Pháp kêu ca khó khăn để xin viện trợ. Nhưng chắc chắn là các báo cáo quân sự của tướng soái Pháp phải nói nhiều về những thắng lợi chúng thu được khi đánh Đà Nẵng, chiếm thành Gia Định, phá chiến lũy Chí Hòa, chiếm các tỉnh lỵ Biên Hòa, Định tường v.v.. với lực lượng quân sự áp đảo của chúng. Vả lại những khó khăn mà tướng soái Pháp nêu lên là ở thời điểm 1858-1862, trong đoạn khởi đầu xâm lược, còn điều mà N.T.Tộ nói trong Thiên hạ đại thế luận về thế áp đảo của Pháp là ở thời điểm 1863, khi mà quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, đào kênh đắp lũy, trù tính kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển (xem Tr.B.Cần, s. đ. đ. Trang 108). Điều mà N.T.Tộ nói về sức mạnh của Pháp, sự yếu kém của ta, tuy lời lẽ có đôi chỗ có thể nói khéo hơn, nhưng đó chính là sự thật tổng quát mà lịch sử đã chứng minh. Lại bàn về quan điểm N.T.Tộ theo Kinh Dịch kim khắc mộc, thủy trị hỏa, có thể cho đó là duy tâm, là một lập luận sai lầm của ông; nhưng khách quan mà xét nghĩa lý kinh dịch thì kim khắc mộc, thủy trị hỏa, Bắc xuống Nam, Tây sang Đông là hiện tượng đã từng có và đang tồn tại. Thật ra, trong tập kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tác đất nước, nhiều độc giả trong nước đã nhận thấy điều bất cập của N.T.Tộ là chưa nhìn rõ mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp, muốn thôn tính toàn bộ Việt Nam. Ông cũng chưa nhìn rõ khả năng kháng chiến của ta, chưa nghĩ đến việc phát động toàn dân kháng chiến, và cũng không có thái dộ đúng đắn đối với những cuộc nổi dậy kháng chiến của nhân dân ta lúc bấy giờ. Nhưng mọi người đều thấy rằng N.T.Tộ chỉ bàn chuyện hòa với Pháp là thượng sách chứ không hề nói chuyện đầu hàng. Qua 58 bản di thảo của N.T.Tộ, không hề có một từ, một ý nào khuyên triều đình đầu hàng. Chữ hòa của N.T.Tộ trong Thiên hạ đại thế luận chỉ có nghĩa là tạm hòa, xuất phát từ tình hình thực tế trên chiến trường là sức ta quá yếu so với quân địch. Trong lịch sử chiến tranh, khi kẻ địch đang ở thế áp đảo mà ta phải tạm hòa là điều thông thường, dễ hiểu. Với N.T.Tộ, tạm hòa là để về sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài mới biết lượng sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỷ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động...(Xem Tr. B. Cần, s.đ.đ tr. III). Đọc kỹ các bản di thảo, chúng ta chỉ thấy N.T.Tộ lo lắng cho đất nước, ngày đêm tính toán chuyện làm thế nào để triều đình giữ được thế làm chủ , đặt quân Pháp ở thế làm khách mà thương lượng với chúng, có nhượng bộ nhưng là để tìm ra phương sách làm cho dân giàu nước mạnh về sau. Với N.T.Tộ, dân giàu nước mạnh mới là kế sách hàng đầu để giữ nước. Qua tất cả các bản điều trần mà N.T.Tộ bàn về thời thế và sách lược đối phó với quân Pháp, chúng ta thấy rõ tinh thần yêu nước của ông có một quá trình biến chuyển ngày càng tích cực: a) Năm 1861 N.T.Tộ trao bài 'Hoa từ cho Nguyễn Bá Nghi bàn chuyện tạm hòa, ông chỉ nói ba điều: Một là khéo ngăn chặn, đừng để họ tìm cớ sinh sự làm lan rộng ra. Hai là hãy thong thả sắp đặt đợi lúc họ sơ hở. Ba là để dân thư thái củng cố sức lực - Đến năm 1862, khi Phan Thanh Gản vào Sài Gòn đàm phán, ông trao cho sứ thần họ Phan hai câu thơ: Khói lửa trời Nam rồi sẽ dứt, Phương Tây binh giáp tạm hùng thôi; tỏ ý khuyên đừng sợ hãi trước uy thế quân thù (Tr.B.Cần - sđd, tr. 123) B) Tháng 5 - 1863, viết Trần tình khải, ông thanh minh rõ thái độ của mình trước quân thù xâm lược: Đối với những hạng người cho quân Pháp là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt mà bảo như thế là làm tăng trưởng nhuệ khí của người ta mà tự diệt uy phong của mình. Đối với hạng người cho chúng là giàu thì tôi mắng nhiếc rằng bọn chúng chỉ là thứ ăn mày đến cửa nhà ai cũng chúc tụng. Tôi lại đem lợi hại của phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Xin cứ hỏi nhữngngười xung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không (...) Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể, dự tính được trong tương lai (Nt. Tr 123). Như vậy là từ năm 1861 đến 1863 ý niệm về chữ hòa trong đầu óc N.T.Tộ ngày càng rõ nét, hòa có đấu tranh, không hề có ý gì là đầu hàng. c) Từ 1864 kế sách tạm hòa của N.T.Tộ được bổ sung phong phú hơn: Tháng 3 năm đó ông được người Anh mời sang nước Anh dự Đại hội cách trí. Ông coi đây là một cơ hội tốt để tố cáo quân Pháp xâm lược, gỡ thế bí cho đất nước. Trong bản điều trần Kế hoạch duy trì hòa ước mới ông viết: Họ dòm ngó đất ta, cầu thành công trong vòng vài mươi năm, thì ta muốn trấn áp họ cũng phải biết xử khéo đừng để cho họ lan rộng ra (...) Muốn thế thì phải tìm được ngoại viện để phá mưu của họ... (Nt. Tr. 131) d) Khoảng tháng 6, tháng 7 năm 1864 N.T.tộ viết bài Lục lợi từ nêu lên 6 điều khuyên triều đình vận dụng sách lược ngoại giao với các nước như Anh, Nga v.v... để ngăn chặn, cô lập, ly gián, đề phòng, áp chế, tiến tới đánh lại quân xâm lược Pháp (N. tr. Tr 145 - 149). Đối với ý kiến này của N.T.Tộ, tác giả Ng. Kha cho là vô nghĩa, vì Anh đang có nhiều thuộc địa chưa khai thác hết, cần gì phải xen vào Việt Nam để đổ máu vô ích với Pháp (xem Thực chất tr. 83). Công bằng mà xét, N.T.Tộ đã nói lên sự thật về mâu thuẫn tiềm tàng Anh - Pháp có từ đầu thế kỷ XIX khi Anh cầm tù vua Na-pô-lê-ông Bônapác, và ngay giữa thế kỷ XIX Anh - Pháp vẫn có mâu thuẫn ở thị trường Ấn Độ, và Canada. Lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc thì thời nào cũng là thông minh. Kiến nghị của N.T.Tộ là đầy thiện chí. đ) Đến tháng 10-1866, N.T.Tộ phát hiện tình hình mới: Một mặt xâm lược Pháp đang lúng túng với phong trào kháng chiến ở Cămpuchia do Hoàng thân Xivôtha và Pucămbô phát động nhân dân đánh đuổi vua Nôrôđôm đầu hàng quân Pháp; mặt khác nội bộ bọn quan binh Pháp và bọn quan cai trị người Pháp ở Gia Định có mâu thuẫn; còn bọn người Pháp sang Sài Gòn buôn bán, kinh doanh thì đang thua lỗ: Ở Gia Định mọi việc đều bế tắc (xem Tr. B. Cần sđđ. Tr. 201) Do đó ông phản ảnh ngay với triều đình và bàn đến Khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông (di thảo sôá 20). Cũng trong tháng 10 - 1866 N.T.Tộ viết Kế hoạch vận động Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây (di thảo 21). Ông báo cho triều đình biết ý đồ của Tây soái De La Grandière muốn chiếm luôn cả ba tỉnh miền Tây Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Do đó ông bàn với triều đình nên tìm cách liên lạc thẳng với Chính phủ Pháp, khai thác mâu thuẩn giữa nhân dân Pháp, dư luận các nhân sĩ Pháp với bọn thực dân xâm lược Pháp ở Việt Nam, mặt khác tranh thủ đặt quan hệ với Aubaret, một viên quan Pháp có mâu thuẫn với De La Grandière để phá âm mưu bành trướng của Tây soái. e) Thế rồi kế hoạch nói trên được thực hiện hay không thực hiện, tháng 6 - 1867 quân Pháp tiến lên chiếm trọn cả ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Thời gian này N.T.Tộ đang có mặt ở Pháp, lo toan việc mời thầy thuê thợ, mua sắm dụng cụ, sách vở để mở trường kỹ thuật cho đất nước. Ông thấy rõ tình thế đã rất nghiêm trọng, nên tháng 11 - 1857 ông bàn với triều đình Xin gấp rút sữa đổi việc võ bị (Tr. B. Cần - sđd. Tr. 230 - 239). Đây là điều kiến nghị thứ nhất trong bản điều trần lớn Bát điều tế cấp, Nếu như trước kia ông chỉ nghĩ đến kế sách ngoại giao để giữ nước, thì giờ đây ông đã nghĩ đến việc tăng cường võ bị, phải lo toan Chế tạo vũ khí mới lạ, phải trích trữ vật liệu v.v... (Nt. Tr. 237) g) Sau khi đã mất cả 6 tỉnh Nam Kỳ, triều đình cuống quýt lo toan cử người sang Pháp xin chuộc lại, thì N.T.Tộ, trong di thảo số 36 ngày 7-4-1868, bàn với triều đình nên bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp (Nt. Tr 303), ông khuyên nên tính kế lâu dài dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp, để đợi khi họ có loạn thì mới gây khó cho họ, mà khiến họ không dám muốn làm gì thì làm (Nt. Tr 307). h) Thế rồi thời thế chuyển biến: năm 1870 nổ ra chiến tranh Pháp - Phổ. Pháp thua to, vua Pháp Louis Bonaparte bị bắt làm tù binh tháng 9-1870, rồi nổ ra cách mạng Công xã Paris tháng 3-1871. N.T.Tộ thấy rõ đây là một cơ hội rất tốt, phù hợp với điều ông dự đoán cơ hợi khôi phục phải sau 10 năm (N. tr. Tr. 316). Từ tháng 2 đến tháng 5-1871 ông liên tục viết 7 bản điều trần liên quan đến kế sách khôi phục: Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ (di thảo 39) ngày 1-2-1871 Bổ túc kế hoạch đánh úp thành Gia định (di thảo 40) ngày 9-2-1871 Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lấy 6 tỉnh (di thảo 42) ngày 5-4-1871 Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (di thảo 44) ngày 10-4-1871 Tình hình chính trị nước Pháp với công xã Pari (di thảo 49) tháng 5-1871 Cần nắm vững tình hình chính trị nước Pháp (di thảo 50) cuối tháng 5-1871 Chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (di thảo 51) ngày 19-6-1871 Những kế hoạch N.T.Tộ đề ra trong 7 bản điều trần kể trên cũng vẫn còn có một đôi điều bất cập, nhưng rất chân thành. Ông vẫn chưa bàn đến việc phát động toàn dân kháng chiến, nhưng rõ ràng là ông đã chuyển từ khuynh hướng chủ hòa sang chủ chiến ở mức độ thấp, kết hợp thủ đoạn đánh úp với các hoạt động kinh tế, ngoại giao. Cũng không phải mọi kiến nghị của ông đều hoàn toàn sáng suốt cả. Ví dụ như kế hoạch sai người đi Hồng kông gặp các khách buôn giàu xin họ cho vay tiền để mua một số đại pháo, mà lại hứa với họ ngày sau sẽ cho bán nha phiến trong cả nước không đánh thuế (N.trang 317). Vay tiền mua súng là tốt, nhưng để cho họ bán ma túy tự do lại rất nguy hiểm. Ví dụ như chủ trương đánh úp thành Gia định mà chỉ bàn chuyện khổ nhục kế, dương đông kích tây, phao tin này nọ chứ không biết thúc đẩy các cuộc nổi dậy thực sự của dân chúng để bao vây quân thù trong một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn. Điều sáng suốt này N.T.Tộ chưa có được, cũng như các vị anh hùng chủ chiến đương thời đều chưa có được thật đầy đủ. Chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh dân tộc ta mới có được trí tuệ hoàn chỉnh: toàn dân, toàn diện, trường kỷ kháng chiến. Tuy chưa có được sự sáng suốt toàn diện, nhưng cái tâm của N.T.Tộ là luôn luôn lo toan việc khôi phục một cách vô tư, với tinh thần tiếp cận khoa học. Chúng ta có thể phê bình điều hạn chế lịch sử của ông mà không thể phủ nhận lòng yêu nước chân thành, lao tâm khổ tứ của ông. 1. Đối với các kiến nghị dân giàu nước mạnh của N.T.Tộ thì hai anh Ng.Kha, Tr.Ch.Ngọc cũng có lời kết tội thiếu khách quan: a) Khi N.T.Tộ nói đến bốn nguồn lợi của đất nước về biển, về rừng, về đất đai và khoáng sản, thì Ng.Kha phán: Ai mà chẳng biết biển thì có cá, rừng có gỗ, đất trồng được dâu để nuôi tằm... Anh thất vọng vì N.T.Tộ đã không đề ra được một phương pháp cụ thể để có được nhiều cá, nhiều muối, nhiều gỗ quý v.v... (xem thực chất...trang 68). Đây chỉ là một lời bắt bẻ vụn vặt. Làm sao trong một bản điều trần Dụ tài tế cấp chỉ mấy trang giấy mà nói được hết phương pháp cụ thể. Ai đã đọc các bản điều trần Khai hoang từ (di thảo số 8) và bàn về chính sách nông nghiệp (di thảo số 53) thì đều thấy rõ kế sách của N.T.Tộ rất cụ thể, phát kiến của ông rất lỗi lạc. B) Khi N.T.Tộ bàn về kế sách quân sự thì Ng. Kha đối chiếu các câu văn trong Tôn Ngô binh pháp và phê phán Hầu như N.T.Tộ lấy ý trong sách này, đã vậy ý của N.T.Tộ còn kém xa (thực chất... trang 95). Tr. Ch. Ngọc cũng viết: Những đề nghị của N.T.Tộ về quân sự không có gì đặc biệt, tựu trung chỉ là những hiểu biết sơ đẳng (N.Tr. trang 257) Nếu đọc kỹ N.T.Tộ, chúng ta sẽ thấy ông đã trình bày vấn đề quân sự rất xác đáng. Chẳng những vận dụng kiến thức trong các sách binh thư xưa, mà còn bàn nhiều chuyện ngoài binh thư, thiết thực với hoàn cảnh trận địa nước nhà thời bấy giờ. Nguyên một ý lớn của ông khuyên triều đình không nên trọng văn khinh võ đã là một điều sáng tạo lớn. Ông kiến nghị hãy đem các sách binh thư xưa và nay ra xét lại, chỗ nào nghĩa lý không xác đáng, khí giới lỗi thời, kỹ thuật không hiệu quả, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp (...) thì bỏ bớt, chỉ lựa lấy những cái hợp với ngày nay, liên quan đến tình thế nước ta, đưa ra thực nghiệm và soạn thành sách đưa ra học tập (Tr.B.Cần, sđd. Trang 233). Ông đề nghị việc xây dựng lực lượng vũ trang phải coi trọng người lính, quan tâm đào tạo cán bộ chỉ huy chuyên nghiệp v.v... Trong lịch sử Việt nam đã từng có ai bàn vấn đề quân sự thấu triệt như N.T.Tộ chưa? c) N.T.tộ kiến nghị triều đình quan tâm việc đào kênh nhằm mục đích cho ghe thuyền đi lại, giúp nhân dân đỡ tốn kém (...) dẫn nước tưới ruộng phòng hạn (N.tr.tr. 256). Bàn về địa thế Bắc kỳ, ông khuyên nên đào nhiều kênh trong các tỉnh Hải dương, Hưng Yên, Nam định, Hà nội, Ninh bình v.v... để phân tán thế nước, đề phòng lũ lụt... (N.tr.tr. 263). Ông còn đề ra một sáng kiến lớn, xuất phát từ mối lo nước ta đường biển không an toàn vì nạn cướp biển và thường bị bão.... Nhất là việc vận chuyển lương thực từ Bắc Kỳ vào Kinh đô Huế là rất thiết yếu lại rất tốn kém: Một thạch lương thực đưa được đến kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu, đó là chưa nói đến nhiều vụ bị chìm ghe, bị đánh cướp. Do đó ông đề nghị Xin xem xét kỹ địa thế từ Hải dương đến kinh đô, đào một con kênh lớn có thể lưu thông được cả ghe lớn ghe nhỏ thuyền quan, thuyền dân. (Nt. Tr. 280) Kiến nghị táo bạo này bị Ng.Kha phê phán là hết sức không tưởng và tai hại. Anh dẫn chứng về mọi sự tốn kém, không thể làm được vào thời điểm 130 năm trước đây và suy luận thêm: Chưa nói đến tình trạng loạn Chày vôi, chỉ mới đào hào để làm lăng tẩm cho vua mà dân chúng Kinh thành đã nổi loạn thành xây xương lính, hào đào máu dân. Nếu đào kênh như N.T.Tộ chắc chắn dân chúng cả nước sẽ nổi lên chống triều đình (Thực chất... Tr. 109). Yêu thì cái gì cũng tốt. Ghét thì cái gì cũng xấu. Đó là chuyện người đời. Trong lịch sử có bao nhiêu sáng kiến táo bạo đã từng bị phê phán. Cũng có loại sáng kiến táo bạo không thực hiện được, nhưng tư tưởng của người đề xuất thì đời sau vẫn ngợi ca. Nếu có được thái độ công bằng, chắc chắn rằng bạn Ng. Kha sẽ thấy rõ N.T.Tộ thực tâm nghĩ đến lợi ích đất nước, và có đủ trình độ để chỉ đạo việc đào kênh, như ông đã hướng dẫn đào Kênh Sắt ở Nghệ An năm 1866. Vả lại cũng cần phân biệt việc Đoàn Trưng phát động khởi nghĩa chống vua Tự Đức làm Khiêm lăng, không đồng dạng với cuộc nổi dậy chống đào kênh mà anh tưởng tượng ra. Xưa nay dân Việt Nam ta có bao giờ chống việc thủy lợi, đào kênh đắp đập lo toan đời sống con người đâu. d) N T.Tộ kiến nghị lập viện dục anh và viện tế bần thì Ng. Kha phản bác: Hoặc vô tình, hoặc cố ý, nhà thông thái N.T.Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do giám mục tình bào Gauthier cử ngưởi điều khiển là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm, không những tạo thế hợp tác cho các giám mục nước ngoài mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc cho Pháp và Vatican dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta (thực chất... tr. 134). Trần Ch. Ngọc cũng phụ họa: Đặt giáo dục, cứu tế xã hội vào tay các giám mục là những đề nghị nguy hiểm, nếu thi hành thì Việt nam sẽ mất hẳn nền văn hóa đặc thù của mình (N. Tr. Trang 257). Nếu ta nghiên cứu lại toàn văn điều kiến nghị thứ 8 trong Bát điều tế cấp: Lập viện dục anh và trại tế bần thì sẽ thấy nhà đại trí họ Nguyễn đặt vấn đề này trên cơ sở phê phán một tình trạng lạc hậu của đất nước: Hiện nay ở Trung Quốc cũng như nước ta thường kêu gọi quyên góp lập đàn công tế, hoặc đúc tượng Phật, hoặc lập bài vị thần, hoặc đúc chuông, sửa chùa, hoặc hội họp văn chương, hoặc làm đình làm mộ (...) ai quyên góp được nhiều thì bảo là háo thiện. Những việc ấy có gì là háo thiện? Chỉ háo danh mà thôi! Ngoài đường có người đói xin miếng cơm thừa canh cặn mà còn nhẫn tâm không cho. Gần nhà có trẻ mồ côi ngồi khóc bên vách mà nỡ nhắm mắt bỏ đi (...). Tôi thấy hiện nay triều đình xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ, nhưng vì thừa hành không làm hết nhiệm vụ nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được giúp đỡ bao nhiêu (...) Không bằng phương Tây Hội Thánh thâu hết những người nghèo về nuôi, chữa bệnh. Người tàn tật thì có công việc tàn tật, không ai ở không (...) Nhà nước cấm tuyệt không cho ai đi ăn xin, hễ gặp là bắt ngay, sung vào công dịch. Làm được thế người nghèo có nơi nương tựa mà bọn côn đồ bất lương khó đường trốn tránh. Còn việc nuôi trẻ rất khó kiếm người, chỉ có những phụ nữ phương Tây tình nguyện vào ở trong viện với trẻ mới làm được việc và chắc chắn có hiệu quả tốt (...) Nếu triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ có kết quả ngay (Tr.B.cần, sđd, trang 257 - 276). Một kiến nghị thực tâm và thiện chí như thế bị anh Ng Kha thêm vào mấy chữ do giám mục tình báo Gauthier cử người điều khiển lập tức biến thành một âm mưu hại nước. Còn anh Ngọc thì sợ mất đặc thù văn hóa dân tộc Phải chăng đặc thù văn hóa Việt nam là không cần chăm sóc người nghèo và trẻ mồ côi? Ngày nay nước ta đang lập ra những làng SOS để chăm sóc các em bé không nơi nương tựa, trong đó có một số bà xơ nữ tu công giáo tham gia, phải chăng đó là điều có hại? đ) N.T.Tộ được vua Tự Đức cử sang Pháp thu xếp việc mở trường kỹ thuật, nhưng khi đã được vua cho chọn đất làm trường thì đành bỏ dở. Đọc tiểu sử N.T.Tộ đến đoạn này ai cũng lấy làm mừng, rồi lấy làm tiếc. Tiếc cho ông. Tiếc cho đất nước. Giá mà ngày ấy lập được truờng kỹ thuật thì hay biết mấy! Nhưng Ng. Kha viết: Triều đình Tự Đức quá tin tưởng giám mục Gauthier và N.T.Tộ, trái lại hai vị này lừa dối triều đình có hậu ý (...) vì thầy giáo thì không có khả năng, giám mục lại là gián điệp (Thực chất... trang 115 và 117) Anh chứng minh việc thầy giáo không có khả năng là: một ông thi đậu cử nhân văn chương mà nói là biết phép toán học, bản đồ và điện khí, một ông thì mới gia nhập Hội truyền giáo, đi học khóa kiến trúc một năm mà nói là thạo về môn đồ bản và biết làm cột thu lôi... Tất cả những chuyện này Trương Bá Cần đều viết rõ trong tác phẩm N.T.Tộ con người và di thảo, và Ng. Kha đều sử dụng tư liệu của Tr.B.Cần, nhưng anh đã lờ đi đoạn văn quan trọng của Trương Bá Cần: Triều đình Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam Kỳ đã mất vào tay Pháp. Việc dự án mở trường ở Huế không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong triều đình cũng như ở các tỉnh tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ Pháp (...) Những ngày tháng 4-1868 có một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người công giáo (Tr.B.Cần, sđd. Trang 51-53). Rõ ràng việc mở trường ở Huế không thành là do nguyên nhân thời thế chứ không phải do giám mục Gôchiê và N.T.Tộ là người đã cất công đi lo toan việc này trở mặt đánh lừa nhà vua bằng cách chọn thầy dạy học thiếu năng lực. Vả lại có ai cấm một cử nhân văn học mà có thêm hiểu biết về kỹ thuật, một linh mục học về kiến trúc một năm mà có được khả năng dạy vẽ đồ bản và cách làm cột thu lôi. Lời buộc tội của hai bạn Ng. Kha và Tr. Ch. Ngọc thật là gượng ép. Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt Kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng để ra khẩu hiệu Bình Tây sát tả, và từng kiến nghị triều đình xử tử N.T.Tộ. Cuốn sách của hai bạn không phải vô tình mà là cố ý chôn vùi một danh nhân đất nước trong khi hầu hết các học giả trong nước đều tôn vinh ông, nhất là trong thời đại ngày nay, yêu cầu đổi mới đất nước đang là một yêu cầu nóng bỏng để đưa dân tộc ta tiến kịp đà văn minh thế giới hiện đại. Thật ra T. Ch. Ngọc còn có vài câu vớt vát cho N.T.Tộ như: Không có thể phủ nhận sự hiểu biết của ông N.T.Tộ rộng rãi và tiến bộ hơn sự hiểu biết của người dân và đa số sĩ phu trong nước thời ấy (Thực chất..., trang 196). Qua một số kiến nghị chính xác liên quan đến xã hội và nền giáo dục nước nhà, nếu áp dụng thì cũng có lợi ích trong việc phát triển đất nước, thí dụ như bỏ lối học từ chương, khuyến khích khoa học kỹ thuật, cải thiện nông nghiệp, khai thác tài nguyên v.v... (N.Tr. trang 253) Nhưng Tr. Ch. Ngọc khen để rồi chê: Thực chất những hiểu biết của ông có lợi hay có hại cho đất nước, có phải là mới mẻ đặc biệt hay không? (N.Tr. trang 196), và Nhưng đây là những chương trình lâu dài không thể áp dụng để đối phó lật ngược tình trạng sôi bỏng của đất nước thời bấy giờ (N.Tr. trang 253) Còn như số đông học giả trong nước đối với các đề nghị cách tân của N.T.Tộ thì khen thật sự, khen mà khâm phục chứ không phải khen để rồi chê. Khen ở chỗ những kế sách của ông đem ra thực hành trăn năm cũng chưa hết (...) thực ra là ông nói cho chúng ta (...) đó là một lời dự báo (tham luận của Nguyễn Văn Hồng - Xem Kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước trang 181). Ngay như Thai Hồng, người phê phán đường lối chính trị của N.T.Tộ một cách sâu sắc nhất trong hội thảo 1991 cũng phải thừa nhận rằng: N.T.Tộ là một nhà yêu nước, người đã đề xuất những cải cách lớn hồi thế kỷ trước. Khát vọng của ông là khát vọng bảo vệ nền độc lập nước nhà, làm cho dân giàu nước mạnh. Khát vọng đó cũng là khát vọng muôn đời của nhân dân, của dân tộc. Ông lại cũng là người đã vượt qua được hoàn cảnh riêng của mình để cùng đi với dân tộc trong bước khó khăn đen tối. Do đó hình tượng của ông là hình tượng của một người có nghị lực phi thường, đã đấu tranh đến hơi thở cuối cùng cho tư tưởng độc lập và thịnh vượng của nước, của dân. Bao nhiêu đó đã khiến ông trở thành người Việt nam đáng kính, đáng trọng, một danh nhân văn hóa Việt nam. (xem kỷ yếu trang 269) Theo phương pháp luận khoa lịch sử thì đánh giá một nhân vật lịch sử cần xem xét những tiêu chí khác nhau: - Về chính trị, nhân vật đó có đề xuất được một đường lối chính trị phù hợp với yêu cầu lịch sử trong thời đại của mình hay không? có chính kiến gì sáng suốt hơn đời không? Nếu chính kiến của nhân vật lịch sử không phù hợp với thời thế đương đại thì nó có dự báo một điều gì cho tương lai không. - Về trí tuệ và văn hóa, nhân vật đó so với người trước và người đương thời có vượt lên cao hơn hay không. Tư tưởng và tác phẩm của người đó có tác dụng nâng cao nền văn hóa chung của đất nước hay của nhân loại không? Nếu đương thời quan điểm văn hóa của nhân vật đó chưa phù hợp thì nó có tác dụng tích cực cho tương lai không? - Về nhân cách, nhân vật đó có gì nổi bật, đáng làm gương cho đời? Có đặc điểm gì khác đời đáng coi là một điển hình lịch sử? Đối với nhân vật lịch sử Nguyễn Trường Tộ, các học giả trong nước nói chung có cách nhìn đúng đắn. Về mặt chính trị, nhiều người nhìn rõ điều bất cập của ông trong tinh thần chủ hòa, cho nên ít người ca ngợi ông về đường lối chính trị. Người ta chỉ có thể xét đến hoàn cảnh thực tại của ông, sống trong lịch lý. Nghịch lý tôn giáo, nghịch lý đất nước, nghịch lý thời đại. N.T.Tộ đã không đề xuất được một đường lối tạm hòa với những suy tư day dứt và một tấm lòng yên nước chân thành. Nhưng về mặt văn hóa, trí tuệ và nhân cách thì không ai phủ nhận N.T.Tộ đã đề lại một ấn tượng rất đẹp, ấn tượng của một trí tuệ vượt lên trên tầm thời đại của đất nước Việt nam giữa thế kỷ XIX. Ấn tượng về một tám lòng ái quốc trung quân. Sống trong cảnh bị nghi ngờ, bị gạt bỏ mà không một lời oán trách, lại còn lo toan cho đất nước vươn lên giàu mạnh để đối phó với quân thù xâm lược. Tư tưởng cách tân xã hội, phê bình xã hội của ông được đánh giá cao như mở đầu một giòng chảy tư tưởng canh tân cho đất nước. Có thể nói rằng thái độ bài xích của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc đối với N.T.Tộ là có thể hiểu được nhưng thực sự có thiên lệch, hoặc là quá nghiêm khắc, khi hai anh đứng trên một lập trường chủ chiến có phần cực đoan, tuyệt đối không chấp nhận bất cứ phương sách chủ hòa nào. Học giả Chương Thâu thường nhắc lại tinh thần mạn đàm giữa nhà hiền triết Cao Xuân Huy với Giáo sư Trần Văn Giàu hồi những năm 1960. Cả hai vị đều nhận định về một nghịch lý của thời Tự Đức trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp: Thời ấy chủ chiến là đúng, nhưng các anh hùng chủ chiến nói chung đều nằm trong hệ tư tưởng Khổng giáo đã trở nên lạc hậu, bảo thủ, không tiếp thu nổi cái mới, không có được một đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, không biết nhìn bao quát thời thế trong toàn thế giới. Thời ấy chủ hòa là hữu khuynh. Trong những người chủ hòa không ít tư tưởng đầu hàng, tự ti dân tộc, nhưng lại có được một nhân vật chủ hòa mang tư tưởng canh tân hợp với bước tiến của thời đại. Đó là Nguyễn Trường Tộ. Vì thế mà N.T.Tộ tuy thất bại trước thời cuộc nhưng các kế hoạch canh tân của ông là sáng suốt, còn lưu lại cho đời sau và được đời sau chiêm ngưỡng. Còn các nho sĩ chủ chiến như Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn v.v... tuy thất bại nhưng tấm gương yêu nước, quyết chiến của các vị đó để lại ấn tượng sâu xa trong sự tôn vinh của nhân dân đương thời và đời sau. Một cách nhìn như vậy có thể coi là công bằng, chính xác, hợp với phương pháp luận khoa học lịch sử. Số đông học giả trong nước ngày nay tin rằng thái độ tôn vinh đối với N.T.Tộ là đúng đắn. Chẳng những ngày nay chúng ta tôn vinh danh nhân văn hóa N.T.Tộ trong không khí đổi mới tư duy, trong thời đại của nền văn minh tin học, văn minh trí tuệ; mà hơn nửa thế kỷ trước, chính Phan Bội Châu, người căm thù giặc Pháp hơn ai hết vẫn ca ngợi N.T.Tộ là người trồng mầm văn hóa đầu tiên ở nước ta (xem Việt nam quốc sử khảo - nxb KHXH 1982, tr. 214). Và cả Hồ Chủ Tịch nữa, trong những ngày chuẩn bị ráo riết chống xâm lược Pháp đầu năm 1946, Bác vẫn nhắc đến những đề nghị canh tân của N.T.Tộ và tiếc cho triều đình Tự Đức không biết tiếp thu. Trong con mắt của Bác, N.T.Tộ làmột điển hình giáo dân kính chúa và yêu nước. Viết những dòng này sau khi đọc kỹ cuốn sách của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, chúng tôi bâng khuâng chưa rõ hai bạn mạt sát N.T.Tộ đến mức đó để làm gì? Phải chăng là để biểu thị mình có cách nhìn khác đời, khác với khuynh hướng chung của thời đại, để thành người nổi tiếng như anh chàng Erostrate đốt đền thờ thần Artemis ở Hy lạp 556 năm trước Công nguyên? Hay là hai bạn ra sức công kích N.T.Tộ để thỏa mãn yêu cầu của người đặt bài đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới? Hay là các bạn có một nhu cầu nội tâm thể hiện mối hận của những con em Phật tử ở miền Nam trước đây đã chịu nhiều đau thương dưới thời Ngô đình Diệm, một chính quyền Công giáo rất kỳ thị với Phật giáo. Điều khác nhau giữa số đông học giả trong nước với hai bạn là ở cái tâm, ở cách nhìn, ở thái độ đối với vấn đề văn hóa và cách tân. Giữa thời đại ngày nay, thời đại của hòa hợp dân tộc, đất nước vươn lên, một thái độ coi trọng trí tuệ, coi trọng nhân tài, một thái độ dung hòa, khoan dung, tiếp cận giữa các quan điểm đối lập là nên có, nên giữ, để cùng nhìn về tương lai, cùng vun đắp một cái gì chung cho văn hóa đất nước và văn hóa nhân lọai. Ở Huế, căn nhà cũ của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn nằm trên đường mang tên ông này tức Nguyễn Trường Tộ, cũng con đường mang tên đó ở Hà Nội có một nhà xuất bản gì đó mà khi xuất bản phải hiện ra cái tên này trên bìa sách, việc đặt tên đều có kế hoạch chi tiết sâu xa nếu nhìn kỹ vào đấy. Đáng nhẽ con đường ở Huế mang tên Trịnh Công Sơn hay con đường ờ Hà Nội mang tên một danh nhân khác mới là thực sự xứng đáng. Đọc mấy bài viết lẻ của một số cá nhân, mỗi bài dăm trang giấy của vài tác giả mới thấy sự tâng bốc kinh hãi, cứ như tội Pháp đô hộ nước ta là do triều Nguyễn, nếu có ông này thì có lẽ Việt Nam có thể là Nhật Bản rồi, như vậy thì cho tới nay sự phát triền của Việt Nam cũng quá tệ chi là! nếu nhìn ra cái thiên tài đó thì đã khác rồi. Ghê thật, rất tinh vi.
-
Cũng vậy, trong cuốn Chu Dịch cũng thể hiện sự đối xứng trung tâm của quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn - thay vì Bát Thuần Tốn, sự chính vị cung Khôn, độ số 2, hành âm hỏa (tất nhiên, cần chứng minh). Cùng xem lại Thái Cực Đồ Thuyết: Cảo thơm lần giở, Liêm-Khê 濂 溪 tức Chu-Đôn-Di 周 敦 頤, tự Mậu-thúc 茂 叔 (1017-73) nói: "Vô-cực nhi Thái-cực无極而太極" (Vô-cực mà lại Thái-cực) và "Thái-cực bản Vô-cưc太極本无極" (Thái-cực gốc ở Vô-cực). Ông cũng nói: "Dương biến Âm hợp陽 變 陰 合" và “Vô-cực chi Chân, Nhị Ngũ chi tinh, diệu-hợp nhi ngưng 無 極 之 真 二 五 之 精 妙 合 而 凝” (Chân cuả Vô-cực và Tinh cuả Âm-Dương Ngũ-hành diệu-hợp mà ngưng-kết lại.) (Thái-cực Đồ-thuyết 太 極 圖 說 có đăng trọn bài trong Tống-Nguyên Học-án 宋 元 學 案, Tập Thượng, tr. 291-2). Đồ 5.09 lấy từ sách Hán Thượng Dịch-đồ cuả Chu Chấn (Tử-phát). Ông viết : "Trần Đoàn đem Thái-cực-đồ truyền cho Chủng-Phỏng, Phỏng truyền cho Mục-Tu, Tu truyền cho Chu Đôn-Thực tức Chu Đôn-Di (vì kỵ húy Tống Anh-Tông), Đôn-Thực truyền cho Nhị Trình Tiên-Sinh (Trình Hạo, Trình Di). Trong Hình 5.10, trích từ sách "Tính-lý Đại-toàn", Chu-tử viết: "Thái-cực-đồ là do Liêm-khê Tiên-sinh làm ra. Vòng tròn trên cùng diên-tả Vô-cực nhi Thái-cực. Kế đến, Hoàn-đồ nửa trắng, nửa đen mô-tả ý: Thái-cực động là dương, tĩnh là âm; vòng tròn nhỏ chính giữa là bản-thể cuả Thái-cực. Kế đến là Vô-cực chi Chân: cánh cung bên trái là dương-biến, cánh cung bên phải là âm-hợp; kế đến là ngũ-hành Kim, mộc, Thủy, Hoả, Thổ tương-liên : đó chính là nhị-ngũ diệu-hợp vô-gián cuả Vô-cực; bên dưới, vòng tròn lớn đầu tiên biểu-thị Kiền đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ (Thượng-Hệ, I/4); vòng tròn lớn thứ nhì biểu-thị vạn-vật hoá sinh (Hạ-Hệ, V/12). Ý muốn nói: nam nữ mỗi bên đều có Thái-cực riêng. Vạn-vật cũng vậy." Trương Huệ-Ngôn, trong "Dịch-đồ Điều-biện" bảo rằng : Hình 5.09 là nguyên-đồ cuả Chu Chấn, còn Hình 5.10 là do Chu-tử cải-định.
-
Không hiểu sao, nước Việt toàn sử "lạ" - rất quái NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TRONG CHIÊU BÀI CANH TÂN Tác giả: Bùi Kha PHẦN HAI - Dựa vào các bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ và những sử liệu mà đa số là các tài liệu mật để nhận định tư tưởng chính trị và những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ qua ba bản Di Thảo quan trọng nhất nói trên. Chương 1 NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ VẤN ĐỀ CỘNG TÁC VỚI PHÁP. Một trong ba Di Thảo quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ là bài Thiên Hạ Dại Thế Luậnmà qua đó chúng ta sẽ thấy sự sai lầm và hậu ý của Nguyễn Trường Tộ lúc ông kêu gọi dân Việt nam nên hòa và hợp tác với Pháp. Nhận định bản Di Thảo số 1 Thiên Hạ Đại Thế Luận (Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ). Viết khoảng tháng 3-4-1863. Chúng ta biết rằng Đà Nẵng bị mất ngày 1-9-1858 vì cuộc viễn chinh xâm lăng của quân đội Pháp do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy. Ngày 21-6-1859 triều đình đành phải chấp nhận thương thuyết với Pháp. Tháng 3, 1860 Pháp rút khỏi Đà Nẵng và vào Sài Gòn để chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Với Hòa ước 1862 giữa Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam, Pháp được thỏa mãn tất cả những gì mà họ đòi hỏi như : nhường cho Pháp ba tỉnh phía đông Nam Bộ: Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, thừa nhận quyền tự do truyền đạo của các phái bộ Gia Tô (Công giáo)... Tình hình dân Việt Nam lúc bấy giờ chia làm hai phe: Quần chúng thì chủ chiến, còn triều đình thì chủ hòa mà đứng đầu và tích cực nhất của phe chủ hòa nầy là Phan Thanh Giản. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần số 1 Bàn Về Những Tình Thế Lớn Trong Thiên Hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận) gởi cho triều đình Tự Đức vào tháng 3-4 năm 1863. Lồng nội dung bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ vào tình hình chính trị và quân sự của đất nước lúc bấy giờ, chúng ta có thể đánh giá khá chính xác về tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong bài Điều Trần nầy. Nguyễn Trường Tộ viết: Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm. Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có Thế mà thôi. Chữ thế là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ thế thì không trái trời không mất thời, không hại người, không hỏng việc. Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ Châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được? Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi. Mới đây người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi". Nhận định về đoạn văn nêu trên của Nguyễn Trường Tộ. 1.- Tại sao Nguyễn Trường Tộ trốn ra nước ngoài? Nguyễn Trường Tộ đã phạm trọng tội gì đến nỗi phải trốn ra nước ngoài, trong lúc toàn dân đang cùng nhau nổi lên chống Pháp xâm lược để giữ gìn giang sơn? Nếu trả lời rằng vua quan nhà Nguyễn hẹp hòi, kỳ thị tôn giáo, giết người theo đạo Gia Tô thì phải tự hỏi tại sao tín đồ các tôn giáo khác ở Việt Nam thời bấy giờ, như tín đồ đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật, không bị giết mà chỉ có tín đồ đạo Gia Tô bị? Ngay cả tín đồ đạo Gia Tô thời đó, không phải ai cũng bị giết? Nếu không nói là chỉ có những người đạo Gia Tô làm Việt gian cho Pháp mới bị giết hay bị trừng phạt mà thôi, còn những người Gia Tô hiền lành vì dân vì nước đâu có bị nạn gì nguy hiểm mà phải trốn ra nước ngoài. Lịch sử đã cho thấy điều đó. Như thế Nguyễn Trường Tộ tự nhận là đã từng trốn ra nước ngoài ắt hẳn phải có lý do thật quan trọng mà chúng ta sẽ thấy trong bài viết nầy. 2.- Tàu diệt Việt, Pháp diệt Đông Dương Lúc viết Thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Theo nội dung và tư tưởng cũng như dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong bài Di Thảo nầy, chúng ta có thể đoán mà không sợ sai rằng Nguyễn Trường Tộ muốn ám chỉ: Trung Hoa (thủy, phương Bắc) diệt Việt Nam (hỏa, phương Nam), và Pháp (kim, phương Tây) diệt Đông Dương (mộc, phương Đông), trong Đông Dương có Việt Nam. Nguyễn Trường Tộ dùng một định luật ngũ hành của Đạo Học đã được công nhận như một tiền đề để biện minh cho một lý luận chính trị. Nhưng thực tế sai lầm qua một số dẫn chứng sau đây: Thật vậy, nước dập tắt được hỏa, nhưng lửa cũng làm cho nước bốc hơi khô cạn sông ngòi. Kim và mộc cũng thế. Vàng sợ gì củi nhưng củi đun nóng cũng làm cho vàng chảy hết. Trên cơ sở sử học cũng thế. Đọc sử Việt chúng ta đều thấy Ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu, nhưng nhân dân ta đã dũng mãnh nổi lên dành lại độc lập. Suốt thời Lý Trần, quân Nguyên Mông chiếm cứ cả thiên hạ, nhưng lúc qua Việt Nam họ không những thua trận một lần mà thua trận đến ba lần. Nhà học giả Phan Khôi nhận định nhận định: "... vào thuở nhà Lý nhà Trần đạo Phật tràn ngập cả nước. Chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như thời Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất là cái thời đại Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý, nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt (Dẫn theo Nguyễn Lang), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Lá Bối xuất bản, Paris, 1985, trang 29). Một cuộc chiến thắng phương Bắc (Trung Hoa) khác, trước thời Nguyễn Trường Tộ, là vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã đuổi 20 vạn quân Thanh về Tàu vào năm 1789. Đó là bằng chứng trong vô số chứng cớ qua lịch sử cho thấy làm gì có chuyện Tàu diệt Việt (Thủy diệt Hỏa) như Nguyễn Trường Tộ khẳng định. Và nếu Tàu diệt được Việt thì có lẽ không có được một Nguyễn Trường Tộ ra đời trên mảnh đất Việt để viết bài hù dọa đồng bào mình. Còn Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Á đông trong đó có Việt Nam, là thêm một nhận xét khác thiếu cơ sở sử học của Nguyễn Trường Tộ. Qua lịch sử, chúng ta hẳn còn nhớ, lúc Pháp chiếm Việt Nam có một số không ít chạy theo ngoại bang rước voi dày mả tổ, nhưng hầu hết đại bộ phận dân tộc đã kháng Pháp quyết liệt dưới mọi hình thức, mọi phương tiện Người có dao, giết giặc bằng dao, có gậy chống giặc bằng gậy.. Toàn dân vùng lên chống Pháp, và trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc chính sách thuộc địa gần 100 năm của Pháp, và thực dân đã phải đầu hàng để trả lại chủ quyền đất Việt cho người Việt. Rồi đến cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc mà cuối cùng Hoa Kỳ cũng phải rời bỏ Việt Nam tháng 4, 1975, dẫu sự rời bỏ nầy dưới tình thế nào. Qua một số sử liệu, trích dẫn dưới đây, ta thấy nếu năm 1858 Pháp đánh Đà Nẵng và lúc Pháp mới chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1860 nếu triều đình Tự Đức không giảng hòa với Pháp, và hô hào toàn dân kháng chiến thì Pháp đã thua trận và rút về nước ngay từ đầu. Như thế không những không có sự lý luận hoang đường Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Việt Nam mà trái lại, Mộc diệt Kimhay Việt nam diệt Pháp. Sau đây là dẫn chứng: a.- Ngày 4-1-1859 Đô đốc Rigault de Genouilly gởi cho viên Thượng-thư Bộ Hải Quân một văn thư bi thảm như sau: ... Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá Levêque, Đại úy Hải quân Virot, phó kỹ sư Delautel đều đã đi Ma-cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi ngày lại có nhiều người chết, và thời tiết xấu mà các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm dứt vào đầu tháng 12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không tưởng tượng nỗi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có thể đánh giá về các tin tức đang đến với tôi về mặt này và lòng tin tưởng của tôi đối những cuộc hành quân phải thực hiện. Dù thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng Thư, chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương cách để cải thiện tình trạng quân sĩ đều đã được sử dụng hết và không kết quả. Các y sĩ trước tình trạng bệnh tật đã kết luận là người Âu không nên làm việc gì trong khí hậu nầy, nhưng làm sao được khi ở đây, phải làm những việc cần thiết cho sự phòng vệ, xây cất bịnh viện, lều trại v.v... Đó là một cái vòng lẩn quẩn khiến chúng ta phải điên đầu. (Thư Khố Quốc Gia, tài sản Hải Quân, B 84769, dẫn theo luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần Christianisme et Colonialisme au Viet Nam 1857 - 1914 (Đạo Gia Tô và Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Tại VN, 1857-1914 Paris, France, 1968, bản ronéo, trang 108). Nguyên văn tiếng Pháp: ...Je dois en effet et bien malheureusement confirmer à Votre Excellence l'état déplorable de la santé générale. M. le Commandant Lévêque, M. le Lieutenant de Vaisseau Virot, M. le S. Ingénieur Delautel vont à Macao et devront être probablement renvoyés en France. Je ne sais plus comment faire face à tous ces vides. Chaque jour amène de nombreux décès et les mauvais temps, qui d'après les missionnaires, devaient finir avec le décembre, continuent avec une abondance de pluies qui dépasse toute idée. Par ce seul fait, Votre Excellence peut juger de la valeur des renseignements qui me viennent de ce côté, et de la foi que je puis leur accorder, pour les opérations à entreprendre avec la division. Mais quoiqu'il en soit, Monsieur le Ministre, nous descendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais alors comment s'y établir, pourvoir aux nécessités de la défense, des constructions d'hôpiteaux, de baraques etc... C'est un cercle vicieux contre lequel on viendrait se briser la tête. (Archives Nationales (Fonds marine) BB4769 CHT, SĐS. trang 108). b.- Trước tình hình nguy ngập như trên, ngày 8-4-1859 một chỉ thị khác của Bộ Hải Quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau: Vì thế Hoàng Thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên nền tảng kế hoạch 25-11-1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có. (Chỉ thị của Thượng thư Bộ Hải Quân và Thuộc Địa 8-4-1859, Thư Khố Quốc Gia, Tài Sản Hải Quân, BB4 1045. CHT, SĐD, trang 118 & 119). Nguyên văn tiếng Pháp: Sa Majesté s'en rapporte donc à votre expérience et à votre sagacité pour décider si avec les forces placées sous votre commandement, il convient de poursuivre l'établissement de notre protectorat sur l'Empire annamite; s'il est préférable de se borner à peser sur son gouvernement par l'occupation de Tourane et de tels autres points dont vous avez pu ou vous emparer, ainsi que par le blocus d'un ou de plusieurs ports de Cochinchine, pour arriver à conclure un traité sur les bases du projet du 25 Novembre 1857; ou enfin s'il faut nous résigner à abandonner les positions que nous occupons et à renoncer complètement à une entreprise, décidément hors de proportion avec les moyens d'action dont vous disposer”. (Instruction du Ministre de la Marine et des Colonies 8-4-1859, Archives Nationales, Fonds Marine, BB4 1045). c.- Sau khi Phan Thanh Giản và Lê Duy Hiệp đại diện triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với Pháp bị dân chúng lên án là hai kẻ phản quốc. Như thế triều đình Huế đã bỏ rơi phong trào kháng Pháp. Nhưng toàn dân Nam Kỳ đã kháng cự kịch liệt dưới sự điều khiển của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân v.v... và đã làm cho quân Pháp vô cùng khốn đốn. Sau đây là một đoạn trong bản báo cáo của Bonard đề ngày 18-12-1862 như sau: Các tàu tôi hiện có, trừ hai chiếc Forbin và Cosmao, đều không thể ra khơi... Đoàn quân viễn chinh bị bệnh tật, chết chóc, sự giảm quân làm cho yếu kém, đang bị sử dụng quá sức: Tôi hoàn toàn bị tê liệt về các phương tiện hành động; tàu bè thì thiếu và bị hư... Tình trạng thảm hại đó nếu không sửa chữa sẽ đưa thẳng chúng ta đến một tai họa không xa! Tôi thấy có bổn phận phải báo cho ngài biết... Thật là đau đớn, sau bao cố gắng quá sức con người mà tôi đã làm từ 15 tháng nay, bây giờ thì mọi thứ đều phải xem xét lại, do sự bỏ rơi các vấn đề của Nam Kỳ... các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không có phương tiện để lập một đoàn quân chỉ 200 người... Tôi yêu cầu Đô đốc Jaurès gửi ngay cho một số viện quân. Nếu lực lượng tăng viện đến ngay, tôi có thể làm chủ được tình hình, nếu không thì đành bất lực. (Thư khố Bộ Ngoại Giao Châu Á, kỷ yếu và tài liệu, tập 28 trang 221-224. Dẫn theo CHT, trang 170). Nguyên văn tiếng Pháp: Les vieux bâtiments dont je dispose sont, à l'exception du Forbin et du Cosmao, incapables de prendre la mer... Le personnel du corps expéditionnaire affaibli par les maladies, les morts et les congédiements, est surmené: Je suis complètement paralysé dans mes moyens d'action; mes navires sont insuffisants et en trop mauvais état... Cet état déplorable, si l'on n'y porte un prompt remède, nous mène droit à une catastrophe qu'il est de mon devoir de signaler à Votre Excellence comme imminente... Il est pénible, après les efforts surhumains que je fais depuis 15 mois, de voir tout remis en question, par suite de l'abandon dans lequel sont laissées les affaires de Cochinchine... L'insurrection a éclaté partout à la fois... Je suis réduit à la défensive, n'ayant pas les moyens de former une colonne de 200 hommes... Je demande à l'amiral Jaurès instamment de m'envoyer quelques renforts. Si ces renforts arrivent promptement, je pourrai me rendre maitre de la position, si non, non”. (Dépêche du 10, 12, 1862, Archives du Ministère des Affaires Étrangères Asie, Mémoires et Documents, vol. 28, fol. 221-224). d.- Ngày 27-1-1863 Bonard cũng than thở: Lực lượng chúng ta giảm dần vì chết, vì bệnh, vì rút quân, đang bị đuối sức từng ngày, rõ ràng không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế này. Chúng ta thiếu Bộ binh, thiếu Hải quân, thợ máy, phương tiện chuyên chở, tất cả trang bị Hải quân chúng ta hoàn toàn cũ mèm mà không có phương tiện sửa chữa; sự vận tải trên đất cũng thành vô hiệu, vì thiếu tài xế cho xe bộ binh, thiếu xe cứu thương, thiếu thực phẩm v.v... (Văn thư 27.1.1863 trang 295 và 318). Nguyên văn tiếng Pháp: Notre effectif réduit par les morts, les maladies, les évacuations est accablé de fatigue; chaque jour il diminue; il est matériellement impossible de continuer 6 mois une pareille campagne. Nous manquons d'hommes, de marins, de mécaniciens, de moyens de transport; tout notre matériel naval est complètement usé, et sans que nous ayons les moyens de pouvoir les réparer; les transports par terre sont aussi radicalement anéantis, faute de conducteurs pour le train d'artillerie, les ambulances, les vivres etc..." (Dépêche du 27-1-1863, fol. 295 et 318, CHT, SĐD, trang 170 & 171). Qua bốn chứng liệu của các viên chức cao cấp trong bộ Hải Quân và Thuộc Địa, chúng ta thấy rõ triều đình Huế đã không nắm vững tình hình của Pháp, bằng không, thì Pháp đã bị bại trận từ đầu. Trong lúc số phận của quân thực dân Pháp sắp cáo chung đến nơi, như chúng ta thấy ở trên, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết: Nay các nước phương Tây, đã bao chiếm từ Tây Nam cho đến Đông Bắc,... ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên,... Từ đó, Nguyễn Trường Tộ dõng dạc khuyên dân Việt Nam: Huống hồ nước Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được. Nói cách khác, theo Nguyễn Tr. Tộ, thuận với đạo trời (Thượng Đế, BK) thì nên dâng tổ quốc cho giặc Pháp, chống làm gì cho thêm họa. Nguyễn Trường Tộ còn viết tiếp: Con giao long (người Pháp, BK) khi thấy đầm vực (Việt Nam) thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi. Câu quả quyết chắc nịch nầy của ông có một giá trị nào không? Qua vài dẫn chứng ở trên và sau nầy, và qua trận Điện Biên Phủ, 1954, chúng ta đã thấy được câu trả lời rồi. 3.- Lính Việt Nam hèn nhát, chưa đánh đã chạy. Nguyễn Trường Tộ đánh giá quân đội Việt Nam rất thấp lúc viết: Quân ta mới nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi... ... Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa xáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi. Không biết Nguyễn Trường Tộ căn cứ vào đâu mà đánh giá quân đội ta một cách tồi tệ bi thảm hóa tình hình và quá sai lạc như thế. Sau đây là vài bằng chứng. Văn thư đề ngày 21-9-1859, Đô đốc R. de Genouilly viết: Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam, các bức màn càng vén lên, những lời khẳng định dối trá (của các giáo sĩ, BK) càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều... Nguyên văn tiếng Pháp: ... à mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire. (Trích trong Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine # BB4 769: Dẫn theo CHT, trang 117-118). Bonard cũng lo âu kêu cứu: Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta (Poyen - Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris 1893 - tr. 81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, SĐD, trang 263). Hai dẫn chứng vừa nêu, cho thấy sự đánh giá tệ mạt của Nguyễn Trường Tộ về tình hình chiến đấu của dân Việt Nam là hoàn toàn sai, và hình như có mục đích nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của quân đội Pháp. 4.- Giết giáo sĩ, xin một miếng đất, nếu thỏa mãn Pháp sẽ đi. Nguyễn Trường Tộ viết: Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản." Qua đoạn văn ấy chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ nêu ra mấy vấn đề: Vì sao giết giáo sĩ, sao không chịu giao thiệp, xin ta cắt cho một vài chỗ, họ không có ý đi cướp nước, nếu yêu sách thỏa mãn họ sẽ chấm dứt... Rồi Nguyễn Trường Tộ khuyên rằng, nay đã lỡ rồi, không nên cản ngăn cho sinh họa, nên buông vận mạng quốc gia cho Pháp: như nước chảy về sông về biển thì hết, ngăn lại thì úng núi ngập gò. Trước lúc đưa ra những dữ kiện để cho thấy cái sai lầm của Nguyễn Trường Tộ, tôi muốn dựa trên cái lý để nêu ra vài câu hỏi: Tại sao giáo sĩ bị giết? Quốc gia Việt Nam có hay không, quyền không giao thiệp, quyền không cắt nhượng giang sơn? Lồng các nhận định của Nguyễn Trường Tộ nêu trên vào khung cảnh nước nhà lúc bấy giờ, và trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bản Di Thảo nầy vào giữa năm 1863 các sử liệu sau đây cho thấy lý do tại sao giáo sĩ bị giết. 4.1.- Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) 1593-1660 đã có chương trình dẫn thực dân Pháp vào chiếm đất nước ta. Trong cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo", trang 263 & 264, phần Việt ngữ. Hồng Nhuệ dịch, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo xuất bản, TP Hồ Chí Minh 1994). Nguyên văn chính A. De Rhodes chứ không ai khác đã viết như sau: Tôi tưởng nước Pháp là nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng. Tôi đi qua Marxây và Lyon rồi tới Paris, theo tôi thì Paris là thu gồm hay đúng hơn là bản mẫu tất cả những gì đẹp nhất tôi đã thấy ở khắp trái đất nầy. "Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi. Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất. Tôi nhận được vô vàn thư của các cha dòng chúng tôi tự nguyện xung phong trong đoàn binh vinh quang. Tất cả năm tỉnh dòng ở Pháp đều có nhiều người quảng đại ghi tên. Các ngài viết thư về Rôma, các ngài cầu nguyện, các ngài thỉnh cầu bề trên và bề trên đã chọn hai mươi người để trẩy đi trong ít ngày sắp tới... Nguyên văn tiếng Pháp: J'ai cru que la France estant le plus pieux Royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conqueste de tout l'Orient, pour l'assujettir à Jésus-Christ, & particulièrement que j'y trouuerois moyen d'avoir des Euesques, qui fussent nos Pères, & nos Maistres en ces Églises, je suis sorti de Rome à ce dessein le vinziesme Septembre de l'année mil six cents cinquante deux après avoir baisé les pieds au Pape. Je suis venu par Marseille, & par Lyon jusques à Paris qui est, à mon aduis, l'abrégé ou plutost l'original de tout ce que j'ai veu de beau dans tout le reste du monde. C'est en ce chemin de Lyon jusques à Paris ó j'ai encore experimenté vne sset très particulier de la Prouidence qui m'a toujours seruy de guide, & de mère, il me falloit pour paroistre en France, auoir vn Ange tutelaire, qui me donnast vne entrée fauorable dans la Cour du plus grand Monarque de toute la terre .J'eus la rencontre à Roiiane du Puy de Monseigneur Henry de Maupas Euesques, Abbé de Saint Denys, premier Aumônier de la Reyne, il eut la bonté de me tenir en sa compagnie, pendant ce petit voyage, je vis en ce grand Prélat pendant onze jours tant de vertus, & tant de bonté, que je cheriray toute ma vie le souvenir de son mérite, & seray estat que cette rencontre est l'une des plus heureuses de tous mes voyages. Je n'eus pas plutost publié cette belle Croisade, contre tous les ennemis de la Foy qui sont dans le Japon, dans la Chine, dans le Tunkin, la Cochinchine, & la Perse, qu'aussit-tost vn grand nombre d'enfants de Saint Ignace, animez du mesme esprit, qui a porté Saint Francois Xauier en trois cens Royaumesse sót embrazés de désir, pour prendre la Croix de leur maistre, & l'aller arborer à ces extremites de la terre. J'ai reccu vn nombre infini de lettres de nos Pères, qui me demandoient d'etre enrollez en cette glorieuse milice, toutes nos cinq Prouinces de France ont suplies de ces genereus pretendants, ils ont escrit à Rome, prié Dieu, solicité nos Superieurs, ils en ont choisi vingt entre plusieurs qui vont partir dans peu de jours. (Đây là loại tiếng Pháp thế kỷ 17). Đó là một bằng chứng rõ ràng mà chính Linh mục Dòng Tên A. de Rhodes xác nhận là chính ông ta đã vận động triều đình Pháp đánh chiếm Việt Nam. Chỉ với một thí dụ trên thôi, chúng ta thấy chính Đắc Lộ và ngay cả Giáo hoàng La Mã (người mà Đắc Lộ hôn chân trước lúc đi Pháp) đã âm mưu vận động chính phủ Pháp Cướp nước (chữ Nguyễn Trường Tộ dùng) Việt Nam từ năm 1625, tức là hơn 200 năm trước lúc Nguyễn Trường Tộ ra đời. 4.2.- Lời phê bình của Đô đốc R. De Genouilly: Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đạo Gia Tô La Mã đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là kẻ tử đạo. "Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Gia Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”. (Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persécution. (Văn thư 29-1-1859, dẫn theo CHT, SĐD, trang 113). Đó là hai dữ kiện lịch sử cho chúng ta thấy Giáo hoàng và các giáo sĩ có âm mưu gây tang tóc cho dân tộc Việt Nam hay không? Và qua sự kiện đó chúng ta cũng thấy được nguyên nhân của các vụ trục xuất và đàn áp giáo sĩ cũng như con chiên. Thế mà Nguyễn Trường Tộ, một nhà thông thái, đã thực sự không biết, hay muốn xuyên tạc lịch sử để nói rằng: Lúc đầu họ không có ý cướp nước người. Nguyễn Trường Tộ nhận định thêm rằng Nếu những yêu sách... được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn. Để đánh giá lời phát biểu nầy, chúng ta nên biết qua một vài sử liệu dưới đây: 4.3.- Bản tường trình của Đô Đốc Bonard: Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông ở Nam Kỳ là: Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường, Việt Nam ký với Pháp Hòa-ước 1862, Đô đốc Bonard gởi cho chính phủ ông một bản tường trình bằng cách đặt bốn câu hỏi, mà câu hỏi thứ tư như sau: Bằng lòng với ba tỉnh đang chiếm được, tổ chức lại để đảm bảo an ninh và tự do buôn bán dưới ngọn cờ của nước Pháp ư? Đặt câu hỏi như thế, rồi chính Bonard tự trả lời câu hỏi ấy như sau: Giải pháp thứ tư, đòi hỏi phải có những hy sinh mới, nhưng có thể dẫn đến kết quả là tổ chức và xử dụng được cái xứ rộng lớn mà vũ khí đã may mắn đặt nó vào tay chúng ta. Những hy sinh nầy rất cần thiết để duy trì những ảnh hưởng tốt của chúng ta ở Viễn Đông, bằng không sẽ còn phải thêm bao nhiêu máu và tiền bạc, đổ ra nữa mà không có gì hy vọng trước mắt hoặc trong tương lai. Nguyên văn tiếng Pháp: "Se contenter des trois provinces acquises, les organiser, y assurer la sécurité commerciale sous le drapeau Francais?” “La quatrième combinaison exige de nouveaux sacrifices, mais elle peut amener à organiser et à utiliser le vaste pays que les chances de la guerre ont mis entre nos mains. Ces sacrifices sont indispensables pour maintenir très haut l'influence que nous avons conquise dans l'Extrême Orient, sous peine de voir tout les sang et l'argent dépensés venir s'ajouter à celui tout à fait perdu qu'il faufra pour subvenir aux demi-mesures, desquelles il n'y a rien à espérer ni dans le présent, ni dans l'avenir..”. (Trích trong “Correspondance de Cochinchine, Tom VI,pp. 130 à 147. Archives du ministère de la France - Outremer, Paris: Thư quan hệ giữa Nam Kỳ, tập 4, trang 130- 147. Lưu trử Bộ Ngoại giao Pháp, Paris. Dẫn theo Nguyễn Xuân Thọ trong cuốn Histoire de la Pénétration Francaise Au Vietnam" (1858-1897. Trung tâm văn hóa Linh Sơn xuất bản, Hawaii, 1993, trang 91-92). Qua ý kiến của Đô đốc Bonard như trên, chúng ta thấy Pháp thỏa mãn với Hòa Ước 1862 sau khi đã ký kết với triều đình vua Tự Đức, nhưng sau đó không lâu, tháng 6, 1867 Pháp chiếm trọn cả Nam Kỳ, Phan Thanh Giản tự tử. Đến ngày 20-11-1873, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết khoảng 2 năm, Pháp lại chiếm luôn Bắc Kỳ, anh hùng Nguyễn Tri Phương bị thương và sau đó cũng uống thuốc độc tự tử. Như thế, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ: Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn là một đề nghị chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. 5.- Chiến là đổ thêm dầu vào lửa, hòa là thượng sách Nguyễn Trường Tộ viết: Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa. Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Suy nghĩ về 2 đoạn trong bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ nêu trên, được gởi cho triều đình Tự Đức khoảng tháng 3-4,1863, và một tối hậu thư đề ngày 28-2-1863 của đại diện toàn quyền chính phủ Pháp và Tây Ban Nha gởi cho Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có những ý tứ và những chữ dùng trùng hợp nhau như sau: Nếu chấp thuận (phê chuẩn hiệp ước) thì dân chúng và vương quốc An Nam sẽ không còn những khốn khổ. Nếu không, thì Vương quốc ông sẽ không còn nữa, vì điều đó sẽ dẫn đến sự tham dự của những người nổi loạn miền Bắc và sự chiếm đóng tức thời ba tỉnh phía Nam. Như thế vương quốc của ông sẽ mất đi cùng lúc cả Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Nguyên văn tiếng Pháp: Oui, c'est la fin des malheurs du peuple et du royaume d'Annam. Non, c'est la ruine de ce royaume, car il entrainera nécessairement l'assistance aux insurgés du Tonkin et la prise immédiate des trois provinces du sud: Votre royaume perdra donc, du même coup le Nam Ky et Bac Ky. (Archives du Ministere des Affaires, Asie, Mémoires et Documents, Tome 28, pp.403 - 404: Trích trong CHT, SĐD, trang 171. Thư khố Bộ ngoại giao, Á Châu, kỷ yếu.) Sở dĩ có sự hăm dọa như trên vì vua Tự Đức một mặt kiếm cớ trì hoãn sự phê chuẩn hiệp ước, mặt khác vận động chuộc lại các tỉnh đã mất. Như thế, Nguyễn Trường Tộ có đi đêmvới Pháp hay không? Quí độc giả đọc lại lời Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình và những lời hăm dọa hỗn xược của thực dân, như đã nêu trên, rồi tự tìm cho mình câu trả lời. 6.- Nên nhường đất cho lính nghỉ, giáo sĩ chỉ mở rộng đạo không tranh giành đất. Nguyễn Trường Tộ viết: Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết... Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa... Việc cống nạp của Tống (nước Tống bên Tàu thời xưa nộp tiền và hàng hoá cho nước khác, BK), tất cả đều lấy việc không đánh là hơn... Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ ngày xưa cắt Quan Trung cho hạng Võ (*) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Còn như các giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả... Trong lúc Tổ-Quốc lâm nguy bị thực dân Pháp cướp nước, toàn dân nổi lên chống Pháp khắp nơi. Người có gậy đánh bằng gậy, người có dao chém kẻ thù bằng dao, người dân nghèo nàn đói khổ thì bỏ nhà ra đi bất hợp tác với quân xâm lăng, thế mà Nguyễn Trường Tộ khuyên quân lính nên nghỉ ngơi, không đánh, nhường đất để họ giữ bờ cõi cho mình... tôi xin nhường sự đánh giá này cho độc giả. Riêng phần tôi xin góp thêm hai ý kiến như sau: Một, qua các sử liệu mà chúng ta đã thấy, nếu triều đình vua Tự Đức biết được tình hình rối loạn của địch và thấy được thế mạnh của ta, thì quân xâm lược bị chôn xác xuống lòng đất ngay từ những tháng đầu của việc chiếm đóng. Hai, triều đình Vua Tự Đức muốn giảng hòa với Pháp khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã mất, nhưng vấn đề đó không thể thực hiện được một cách có lợi cho quốc gia Việt Nam, vì những kết quả tốt đẹp có được tại bàn hội nghị sẽ tùy thuộc vào những chiến thắng quân sự tại chiến trường. Còn không, thì Việt Nam là người đi xin mà Pháp là kẻ bố thí. Người xin chỉ được những gì mà người cho phế thải ra mà thôi. Thật vậy, trước lúc phái bộ Phan Thanh Giản vào Nam Kỳ để thương thuyết với Pháp, cuối buổi tiệc khoản đãi phái bộ trước khi lên đường, vua Tự Đức nói với các đình thần những lời cảm động như sau: Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó khăn; muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng và tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn luôn ghi nhớ: vấn đề nhường đất và vấn đề hành đạo Cơ Đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang sơn đang được giao phó vào tay các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh! Cầu mong cho các khanh được sớm trở về, đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho các khanh trước lúc lên đường. Nhưng: Ngày 7. 6. 1862, các sứ thần Việt Nam rời Sài Gòn trở về Huế tường trình về nhiệm vụ của sứ bộ: Kết quả đáng buồn, chẳng đáp ứng được bao nhiêu với những ước vọng của nhà vua. Đất nước bị cắt mất ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, người Pháp bắt một nước đã bị xơ xác vì bao nhiêu nạn chiến tranh và chiếm đóng, phải trả một số chiến phí quá nặng nề: 4 triệu đồng bạc tức khoảng 2.800.000 lượng bạc. Sau nữa, là chuẩn y mười hai điều khoản liên quan đến vấn đề hành đạo Ki Tô và mở cửa đất nước cho việc buôn bán đối ngoại. Dĩ nhiên là trong bữa tiệc tiễn đưa sứ đoàn, tuy có vẻ lạc quan bên ngoài, triều đình chẳng ai hy vọng họ sẽ về với những thắng lợi lớn. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng họ sẽ ký kết một hòa ước tai hại như vậy. Tự Đức khi đọc văn bản hòa ướùc ấy chỉ còn biết thở dài: Than ôi! Nào Trẫm có làm nên tội tình gì cho đến nỗi nhân dân phải chịu một số phận tàn khốc đau thương như vậy đổ xuống trên đầu? Còn các khanh, những sứ thần khốn khổ, các khanh đã làm gì? Các khanh đã hoàn thành nhiệm vụ của mình như vậy đó sao? Chao ơi! Các khanh không chỉ là những người mang trọng tội dưới triều đại của Trẫm mà các khanh sẽ phải chịu hậu quả nặng nề về tội lỗi của mình trước lịch sử muôn ngàn đời!. Nguyễn Xuân Thọ Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897), tác giả xuất bản, Hoa Kỳ, 1995, trang 66, 67, 68). Do đó, ý kiến của Nguyễn Trường Tộ: nên cho quân lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình, là một ý kiến nhằm có lợi cho Tây. Riêng câu nói Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả. Dưới đây tôi nêu ra hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy cái sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ. Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau: Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giá-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ. Nguyên văn tiếng Pháp: "Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins. (Trích trong Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88. Dẫn theo CHT, SĐD trang 150). Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau: Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ. (Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin. (CHT, SĐD, trang 152). Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ Công Giáo La Mã. Trên đây là vài nhận xét thuộc lãnh vực chính trị của Nguyễn Trường Tộ đối chiếu với các sử liệu chính xác không thể chối cãi. Những sai lầm nghiêm trọng, những lời khuyên, cố vấn và nhận xét hoàn toàn sai lạc về tình thế về lịch sử mà Nguyễn Trường Tộ viết trong bản Điều Trần, giả sử ông không có hậu ý giúp Pháp, thì ông cũng nên được lịch sử phê phán cho đúng mức vì đề nghị sai chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. Sau đây là nhận xét về chương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ trong lãnh vực có nhiều tính kinh tế qua một số bản Điều Trầnkhác. Đi từ nhận định rằng vai trò của kinh tế trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, và rằng lúc quốc gia đã mạnh thì có thể giải quyết được mọi vấn đề. Và từ cơ sở Việt Nam là một nước nghèo nàn. Bộ máy hành chánh có thể hoạt động được chỉ nhờ vào các khoản thuế mà nhân dân đóng góp chứ không biết khai thác các nguồn lợi thiên nhiên như hầm mỏ, cây rừng, canh tác nông nghiệp và xử dụng máy móc để phát triển kinh tế. Từ đó, Nguyễn Trường Tộ viết một số bản Điều Trần để đề nghị công cuộc cải cách kinh tế. Bản Điều Trần số 5 Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh(Dụ Tài Tế Cấp Bẫm Từ) và Di thảo 27 "Tám Việc Cần Làm Gấp (Tế Cấp Bát Điều). Chương 2 PHƯƠNG PHÁP LÀM CHO DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH VÀ CỌNG TÁC VỚI NGOẠI BANG. Bản Di Thảo số 5 sẽ cho chúng ta biết ý tưởng của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề làm cho dân giàu nưóc mạnh như thế nào. Nhận định bản Di Thảo số 5 Kế Hoạch làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh. Cũng gọi là Lục Lợi Từ viết ngày 18-7-1864. Nguyễn Trường Tộ bắt đầu bằng ngững lập luận có tính truyền giáo sau đây: 1.- Tạo Vật (Thượng Đế) sinh ra vạn vật cách đây 7.000 năm. Nguyễn Trường Tộ rất khôn khéo khi, dùng chữ Tạo Vật thay chữ Thượng Đế để tránh màu sắc đạo Gia Tô, hoặc cách đây 130 năm người Gia Tô (*) Việt Nam thay vì gọi Thượng Đế họ gọi là Tạo Vật chăng? Mở đầu bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ lồng sự hiểu biết của mình vào Kinh Thánh: "... Tạo Vật sinh ra muôn vật để cho con người sử dụng mà không tiếc một thứ gì... Kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7.000 năm (bảy ngàn năm).... Đây không phải là bài viết về tôn giáo, nhưng vì ông Nguyễn Trường Tộ đã tin theo những điều sai lầm trong Kinh Thánh lúc nói rằng kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7.000 năm... và những sai lầm khác mà chúng ta sẽ thấy trong các bài Điều Trần có tính tôn giáo. Vì thế, tôi sẽ trích dẫn một số sai lầm trong vô số những điều phản tiến hóa, phản khoa học của Kinh Thánh để độc giả rộng đường dư luận, và đồng thời để thấy cái kiến thức của ông Nguyễn Trường Tộ đến đâu mà ông tự khoe là cái gì cũng có học hết. 1.1.- Con người và vũ trụ: Nếu dựa vào Kinh Thánh thì quả đất và con người do Thượng Đế tạo dựng cách đây từ 6.000 - 10.000 năm. (6 - 10 ngàn năm). Nhưng khoa học chứng minh rằng quả đất có hằng triệu năm về trước. Thái dương hệ cũng như sinh vật hiện diện trên quả địa cầu nầy được tóm lược như sau: - Thái dương hệ, gồm mặt trăng, mặt trời và quả đất... xuất hiện cách đây hằng tỉ năm. - Các sinh vật dưới nước như cá tôm... xuất hiện cách đây 600 triệu năm. Như thế thì Thánh Kinh đúng hay Khoa Học đúng? 1.2.- Nước đá, sấm chớp và mây: Theo Kinh Thánh, cuốn Gióp (Job), chương 37, đoạn 10 và 18, Chúa Trời mô tả về quyền năng của ngài như sau: Nước đá có được bởi hơi thở của đức Chúa Trời... Job, chương 37, đoạn 10. Ngài chứa nước đá trong mây và ngài giăng bủa các tia chớp. Nhờ Đức Chúa Trời dắt dẫn nên mây bay khắp tứ phương (Gióp, chương 37, đoạn 10-12). Mây làm những gì mà Chúa Trời biểu phải làm cùng khắp mặt đất" (Gióp, chương 37, đoạn 10-12). Nguyên văn Anh ngữ: By the breath of God frost is given: And the breath of the water is straitened. Also by watering he wearieth the thick cloud: he scattered his bright cloud: And it is turned round about by his counsels: that they may do whatsoever he commandeth them upon the face of the world in the earth. (Job, 37:10-12). 1.3.- Quả Đất đứng yên, mặt Trời chuyển động vòng quanh (Quả Đất). Đời nầy trôi qua, đời khác lại đến, nhưng quả đất muôn đời đứng yên. Mặt trời mọc, và mặt trời lặn, và rồi mặt trời di chuyển về chỗ cũ" (Kinh Thánh: Cuốn Truyền Đạo, Chương 1, đoạn 4 và 5). Nguyên văn Anh ngữ: One generation passeth away, and another generation cometh:but the earth abideth for ever. The sun also ariseth, and the sun goes down, and hasteth to his place where he arose.(Eclesiastes; or, The Preacher, 1:4-5). Thánh Kinh mô tả: nước đá, sấm chớp, mây, mặt trời, quả đất... sai lầm và nhảm nhí đến như thế mà ông Nguyễn Trường Tộ lại tin rằng Tạo Vật sinh ra muôn vật để cho con người xử dụng. Sau khi thuyết giảng một vài điều trong Thánh kinh chứa đựng những kiến thức sai lầm về khoa học, Nguyễn Trường Tộ đưa ra nhiều sự kiện sai về lịch sử rất có lợi cho ngoại bang: 2.- Tân thế giới: Cũng Di Thảo số 5 Nguyễn Trường Tộ viết: Cho đến thời Minh, bước tiến Âu Tây ngày một lên cao vùn vụt, đến nỗi không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa. Do đó, họ chuyển dần về phía Tây, và bỗng nhiên tìm được Tây Châu (tức là Tân Thế Giới) và chiếm lấy làm đất của mình, khai thác vùng đất đai mấy ngàn năm hoang vu, cải tiến phong tục tập quán mấy ngàn năm hủ lậu. Lúc đầu người dân bản xứ còn xem họ như thù địch, dần dần đã chịu gần gũi và ngày càng trở nên thân thiết, những người dân ở đây đã học được hết những cái kỷ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình. Những nước phụ thuộc phương Tây xưa kia nay trở thành những nước thân phương Tây. Các nước ấy đã nhờ phương Tây mà thay đổi những tập quán cũ để trở thành giàu mạnh, người phương Tây cũng nhờ vào nguồn lợi ở đó để chu cấp cho mình. Xưa thì nghiến răng căm thù, nay đã thành tình nghĩa anh em tốt đẹp bền bỉ (TBC, SĐD, trang 136-137). Vì giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ được nhiều người ca tụng là một nhà thông thái nên tôi muốn có vài nhận định tổng quát về đoạn văn nêu trên. Tân Thế Giới mà Nguyễn Trường Tộ muốn nói, là Hoa Kỳ ngày nay. Nếu đúng như thế, thì sự cấu tạo dân Hoa Kỳ, cách đây hơn 200 năm, không phải như Nguyễn Trường Tộ mô tả. Tổng quát, chúng ta có thể nói rằng kể từ lúc Columbus (Kha Luân Bố) tìm ra Châu Mỹ năm 1492 * (Tân Thế giới = Hoa Kỳ = Hiệp Chủng Quốc) cách đây hơn 500 năm thì vùng đất nầy là của thổ dân người da đỏ, đất hoang vu, trù phú, có nhiều mỏ vàng, nhất là bang California (Golden State). Dân Hoa Kỳ được hợp thành bởi các đợt di dân như sau: a.- Thành phần đầu tiên là các thổ dân da đỏ, gọi là American Indians, đã sống từ lâu trên mảnh đất hoang vu và trù phú nầy. b.- Thứ hai, là thành phần phạm pháp ở các quốc gia khác bị chính phủ họ đuổi ra khỏi nước cho đỡ gánh nặng. Một số thì thất nghiệp, khổ cực ở các nước Âu Châu đến đây lập nghiệp. c.- Thành phần thứ ba, có đầu óc phiêu lưu, mạo hiểm và thích làm giàu, từ Âu châu đi tìm vàng và khai thác tài nguyên trù phú trên vùng đất mới. d.- Thành phần cuối, là những người bỏ xứ ra đi để tránh sự ngược đãi tôn giáo hoặc chính trị. Họ lo buôn bán, tạo lập sự nghiệp với mục đích thoát khỏi khuôn khổ cũ của xã hội mà họ đã sống trước đây. Với khoảng bốn triệu người mới, trên vùng đất lạ trù mật, họ phải chiến đấu với thiên nhiên và hoàn cảnh để tự sinh tồn. Lúc đầu trong những năm đói khát, họ được người bản địa cứu giúp. Vì vậy mà hằng năm người Hoa Kỳ tổ chức một ngày lễ long trọng vào tháng 11. Đó là ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving 27-11 hằng năm). Phải chinh phục thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Ra đi không lẽ trở về không. Vì thế, số người mới nầy rất tích cực giúp đỡ những ai có sáng kiến chế tạo được máy móc, hoặc có phương pháp để cải tiến cuộc sống của họ. Nhờ thế mà vùng Tân Thế Giới ngày càng có nhiều nhân tài qui tụ. Về mặt chính trị, số người mới trên vùng Tân Thế giới (Hoa Kỳ ngày nay) dần dần tách rời ra khỏi sự thống trị của người Anh. Sau những năm chiến tranh, người Hoa Kỳ nhờ sự giúp sức của Pháp và Hòa Lan, nên họ đã thắng Anh Quốc và tuyên bố độc lập vào ngày 4-7-1776 đến nay đúng 222 năm. (Xin xem thêm Nguyễn Hiến Lê, SĐD, trang 444-446). Qua đoạn sử rõ ràng nêu trên, chúng ta đã thấy không có trường hợp những người dân ở đây đã học được hết những cái kỷ xảo của người Phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi xứ mình. Mục đích của Nguyễn Trường Tộ dẫn sai lịch sử như thế, là với hậu ý khuyên triều đình Tự Đức và dân Việt hãy bỏ súng xuống, gần gũi và thân thiết với thực dân Pháp để học cái kỷ xảo của họ rồi cuối cùng đuổi họ về xứ. Nguyễn Trường Tộ đã lạc dẫn lịch sử và khuyên những điều hay thật là hay dễ như trở bàn tay! Độc giả đã thấy cái tai hại của một giải pháp thỏa hiệp với Pháp, để rồi Phan Thanh Giản biết mình lầm nên phải tự tử để tạ tội với quốc dân. Chúng ta cũng sẽ thấy cái tai hại của sự thỏa hiệp trong bài nầy ở phần Sáu Điều Lợi mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị. 3.- Năm miền Ấn Độ: Nhằm hậu ý thuyết phục dân Việt Nam cọng tác với Pháp, Nguyễn Trường Tộ cũng đã dẫn sai thêm sử liệu lúc viết rằng: năm miền Ấn Độ đã gần có dấu hiệu bắt đầu, sắp đánh bại phương Tây để đưa ra một nhận định sai lầm khác: Lấy cái lợi vô cùng chưa dùng của núi sông chúng ta mà đổi lấy cái trí của họ, thì họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả như các nước Tây Châu vậy. Nguyễn Trường Tộ nói như thật! Thực dân Pháp đâu có khờ đến nỗi họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả. Thật ra, chính sách thực dân của Pháp, cụ Phan Bội Châu, một nhà cách mạng lão thành đã nhận định rất đúng: Họ coi mình như trâu như chó, Họ coi mình như cỏ như rơm. Cỏ thì nhổ cỏ trâu làm thịt trâu. Chứ làm gì có được cái thiên đàng, họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả! Như tôi đã nhận định trong đoạn đầu. Những bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ luôn luôn đi song hành với tình hình chính trị của Pháp lúc bấy giờ. Thật vậy, Nguyễn Trường Tộ viết bài Điều Trần nầy vào tháng 6 năm 1864, là lúc mà dân Nam Kỳ xử dụng kế hoạch nhà không đồng vắng, không chịu hợp tác với Pháp. Còn triều đình thì sau khi ký hòa ước 1862 nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, nhưng vua Tự Đức cố trì hoãn không chịu phê chuẩn hiệp ước. Đoạn trích dẫn ở mục 5 (Chương 1) trước đây cho thấy Pháp muốn gì từ phía Việt Nam, và đoạn trích dẫn dưới đây sẽ cho thấy dân Việt đã tỏ thái độ như thế nào đối với Pháp. Từ đó chúng ta sẽ thấy lợi hay hại lúc Nguyễn Trường Tộ khuyên nên thỏa hiệp. Phải chăng đó là một sự đi đêm hay trúng kế thực dân? Chúng ta hãy đọc đoạn sử liệu dưới đây của Chesneaux trong cuốn Đóng Góp Vào Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam để thấy rõ tình hình ở Nam Kỳ rồi đối chiếu với lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ: Ngay khi vừa phê chuẩn, triều đình Huế đã cho biết, bằng những tư liệu rất chính xác, rằng triều đình không thừa nhận việc nhượng ba tỉnh Nam Kỳ là dứt khoát, vĩnh viễn. Còn dân chúng Việt Nam, họ cũng không có thái độ ôn hòa hơn sau khi hiệp ước được phê chuẩn, hoặc sau những lời hứa hoa mỹ của ông Đô đốc toàn quyền. Họ không chấp nhận chế độ thực dân. Với sự đồng ý ngầm ngày càng rõ rệt, mặc dầu lặng lẽ của triều đình Huế, những phong trào nổi dậy chống thực dân Pháp tại Nam Kỳ ngày càng phát triển. Nông dân vẫn thù địch với Bonard và những người thay chân ông. Phần lớn các quan lại từ chối hợp tác với chế độ mới. Họ bỏ ra đi dần, mặc dầu Bonard đã cố gắng nhiều để xoa dịu họ và giữ lại một phần lớn các phong tục tập quán địa phương, vì những cố gắng đó mà ông Đô đốc toàn quyền bị các tên thực dân và các giáo sĩ phê trách quyết liệt. Theo như nhà sử học Cultru nói, Tầng lớp có khả năng cai trị thì, hoặc vắng mặt, hoặc xấu bụng. Đó là cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền đông Nam kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do, ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến. Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các Đô đốc toàn quyền, muốn duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam kỳ, chỉ còn xử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới... Đề Đốc Rieunier, về sau, nói rằng "Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thử du thực". Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm, đại tá Bernard viết, Xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào... Người ta sẽ tuyển dụng, trong số họ, tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy, và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với dân tộc Việt nam...(4) Nhà sử học Cultru kết luận: Hoàn toàn hời hợt về cái gọi là giáo dục phương Tây mà họ đã được tiếp thu, những thanh niên Việt Nam này đã trở thành những ông thông, ông phán, ông ký, kiểm soát, phiên dịch... ấy, lập thành tại xứ sở thuộc địa một tầng lớp những người tha hóa, chuyên lợi dụng địa vị chính thức của chúng để, nhân danh chính phủ Pháp, lúc này không đủ biện pháp cai quản họ, để áp bức, đục khoét dân chúng buộc lòng phải nhờ đến sự trung gian của họ..." (5). "... Tại Nam Kỳ, chính là từ trong những người Công Giáo An Nam mà người ta tuyển chọn những kẻ giúp việc cho chính phủ Pháp, Phạm Quỳnh đã viết. Họ có tài cán gì?... Phần lớn chỉ là những tay dạy giáo lý Cơ đốc, vì hạnh kiểm kém mà bị các giáo chủ đuổi về, và dưới một cái tên Latin (bởi vì họ nói lõm bõm tiếng Latin), là đại diện sơ lược của thủ đoạn, của sự vô trách nhiệm, và sự thoái hóa của Châu Á (6). "Những phong trào cách mạng lớn tiếp tục, chú ý nhất là các phong trào Quản Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Lịch, Quản Thanh, không ngừng giương cao ngọn cờ kháng chiến, và gây nhiều khó khăn cho bọn chiếm đóng. Những sĩ phu và quan lại từ chối làm việc với Pháp, những nông dân rời bỏ vùng quê bị giặc chiếm; chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ở vùng tự do tất cả những người kháng chiến đó đều được nhân dân ủng hộ nhiệt tình. Đọc đến đây chắc hẳn độc giả đã thấy rõ rằng, Nguyễn Trường Tộ khuyên nên hợp tác với Pháp là đi ngược lại ý muốn của toàn dân Việt Nam từ triều đình đến quần chúng, và rất có lợi cho chương trình ổn định tình hình và kiện tòan guồng máy cai trị của kẻ xâm lăng. Nguyên văn tiếng Pháp: Dès la ratification, la Cour de Huế fit savoir, à l'aide de documents très nets, qu'elle ne considérait pas la cession des trois provinces comme définitive. Quant au peuple Vietnamien, il n'est pas mieux disposé après la ratification, ni après les belles promesses de l'amiral gouverneur, et n'admet pas sa colonisation. Avec le consentement de plus en plus net, quoique tacite, du gouvernement de Huê, les mouvements de révolte et d'insurrection contre les colonisateurs, dans le Sud, vont s'amplifiant. Les paysans restent hostiles à Bonard et à ses successeurs, les mandarin refusent massivement à se rallier au nouveau régime, ils disparaissent, en dépit des efforts de Bonard pour les amadouer et pour maintenir une partie des coutumes et traditions - efforts qui, par ailleurs, vaudront à l'amiral gouverneur les violents reproches des colonialistes et des missionnaires. Selon le mot de l'histoire Cultru, “la classe capable d'administrer était absente ou malveillante”. Cest l'exode en masse des lettrés et de la population, abandonnant les provinces de l'Est-Cochinchinois, occupées par les Francais, pour s'installer en zône libre, dans l'Ouest, et y organiser la résistance. L'attitude générale de non-coopération contraint les amiraux-gouverneurs, pour le fonctionnement de cette administration francaise en Cochinchine, à l'emploi d'un minimum de personnel Vietnamien (interprètes, secrétaires, ets...). Et seuls les éléments les moins recommandables de la population s'offrent de servir le nouveau maitre: “Nous n'avions avec nous”, déclarera plus tard l'amiral Rieunier, “que des chrétiens et des coquins...” (3) “Les vagabonds”, écrit le colonel Bernard, “chassés de leur village par la misère ou le crime, arrivaient, l'échine souple; pris de l'âpre désir de vivre, insoucieux de la lutte nationale, prêts à servir tous les maitres. C'est parmi eux que l'on recruta tout le personnel nécessaire à l'administration ou aux besognes domestiques: boys, coolies, plantons, et aussi des interprètes et des copistes, grossièrement formés dans les écoles de la mission. C'est au contact de ces misérables que les colons ou les fonctionnaires fraichement débarqués firent connaissance avec le peuple d'Annam...” (4) “Très vains du semblant d'éducation européenne qu'ils avaient recu”, conclut l'historien Cultru, “ces jeunes Annamites devenus secrétaires, lettrés d'inspection ou interprètes, constituaient dans la colonie une caste de déclassés, abusant de leur position officielle pour pressurer, au nom de l'autorité francaise, incapable de les surveiller, la population qui était obligée de recourir à leur intermédiaire...” (5) “... C'est parmi les Annamites chrétiens que se recrutèrent, en Cochinchine, les premiers auxiliaires de l'administration francaise, écrit Phạm Quỳnh, Que valaient-ils?... Ce n'étaient pour la plupart que des catéchistes renvoyés par leurs évêques pour inconduite, et qui, sous un nom latin (car ils parlaient vaguement latin), représentaient un abrégé de la ruse, de la prévarication et de la corruption de l'Asie...” (6) Les grands mouvements de révolte continuaient, notamment ceux de Quan Dinh, Thu khoa Huân, Thiên Hô Duong, Quan Lich, Quan Thanh, ne cessèrent de tenir haut le drapeau de la résistance, et de créer de nombreuses difficultés à l'occupant. Lettrés et mandarins qui refusent de servir la France, paysans qui quittent la région occupée, nul ne s'étonnera qu'en zône libre, tous ces résistants trouvent un appui considérable. (3, 4, 5, 6 cité par J. Chesneaux Contribution, à l'Histore de la Nation Vietnamienne, p.115 (NXT, SĐD, tr. 126 & 127). 4.- Phương pháp làm Hột nổ và Khai thác mỏ than. Bằng một hàng chữ lớn trong bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ viết: Xin Kê Ra Các Phương Pháp Làm Hột Nổ Và Đúc Súng, Đúc Kim Loại, Cùng Các Môn Quang Học, Cơ Học, Hóa Học, Khai Thác Mỏ Than. Với hàng chữ lớn như thế, người ta cảm thấy sung sướng vì hy vọng rằng sau khi đọc xong đoạn nầy (dài khoảng 1.800 chữ) là có thể biết được, ít ra là lý thuyết, về "phương pháp làm HỘT NỔ VÀ ĐÚC SÚNG... nhưng không, chẳng thu thập được gì qua sự trình bày các phương pháp nói trên của Nguyễn Trường Tộ. Chính ông cũng đã cho thấy điều đó lúc viết rằng: Việc học tập và sắm khí cụ phải thực hiện đồng thời, không thể thiếu một. Nếu đã được học qua loa như tôi mà không có khí cụ khi gặp khó khăn lại không có người chỉ vẽ thì cũng chỉ biết lý thuyết và công dụng mà thôi, và cũng khó đem ra thực hành được. Lúc xác nhận, chính mình cũng chỉ mới học qua loa* thế thì không nên trình bày làm gì cho phí phạm thì giờ vô ích. Thực ra, chúng ta không thể lấy kiến thức về khoa học của một người ngày hôm nay để so sánh với kiến thức khoa học của một người đồng dạng cách đây 130 năm. Nhưng điều tôi muốn nói là lúc đã hô hào nên theo lối học thực dụng thì chính người hô hào phải nắm vững vấn đề ít ra là trên lý thuyết, để sự trình bày được rõ ràng, dễ hiểu, có thể ứng dụng ngay, còn không, tốt hơn là không nên nói một điều gì mà mình không biết rõ về cái mà mình muốn nói: chính mình đã chưa hiểu làm sao trình bày cho người khác hiểu được. Do đó, đoạn văn Xin kê ra các phương pháp làm Hột Nổ..., dài 1.800 chữ chỉ là sáo ngữ vô ích. 5.- Việc làm cho Nước Nhà Giàu Có. Đoạn chính thứ hai trong bài Điều Trần nầy Nguyễn Trường Tộ viết: Sau đây tôi xin đưa ra một khoản về việc làm sao cho nước nhà giàu có để cứu giúp lúc khẩn cấp:" "Một là nguồn lợi về biển. Về biển thì không có nguồn lợi nào lớn bằng cá với muối. Hai là nguồn lợi về rừng. Rừng thì không có gì lớn bằng gỗ. Ba là nguồn lợi về đất đai. Đất đai thì không có gì lớn bằng tơ gai. Bốn là nguồn lợi về mỏ. Về mỏ thì không có gì lớn bằng đồng và thiếc. Bốn nguồn lợi ích ấy, ngoài việc tùy theo thổ nghi mà thu thuế ra, còn phải nghĩ những phương pháp hay như của Tây Âu để thu nhiều sản vật. Sau đó cho tàu bè nhà nước chở ra bán cho các nước, rồi lại chở về nước mình những hàng cần dùng mà nước mình không có. Cái lợi bán mua qua lại như thế thường được gấp ba." Đó là một nhận định sai. Vì Việt Nam là một nước nông nghiệp, đất để trồng lúa gạo cho đủ ăn là vấn đề chính, nếu gạo còn dư thừa thì xuất cảng. Còn tơ lụa là phụ chứ không thể chính được. Còn hầm mỏ thì nếu có được mỏ bạc, mỏ vàng chắc chắn sẽ quí hơn mỏ đồng, mỏ thiếc chứ không thể ngược lại. Còn lúc nói biển có cá, muối, rừng có gỗ, đất trồng dâu nuôi tằm có tơ lụa, đất có quặng mỏ ai lại không biết các điều đó. Tuy nhiên, điều mà chúng ta bị thất vọng là, Nguyễn Trường Tộ đã không đưa ra một phương pháp nào để có được nhiều cá, nhiều muối, vừa dùng vừa bán. Làm thế nào để có nhiều gỗ quí để dùng và sản xuất? Làm thế nào để khai thác được hầm mỏ mà không bị ngoại bang chi phối trong một hoàn cảnh đất nước đang bị Pháp xâm lăng đô hộ? Trái lại, Nguyễn Trường Tộ đã xử dụng ba trang trong 16 trang của bài Điều Trần nầy để phát biểu những lời nói thiếu lịch sự, thuyết minh về tạo vật (Chúa Trời) và cuối cùng là nịnh triều đình vài câu rồi khuyên nên theo Pháp chống lại phong trào kháng chiến. Nguyễn Trường Tộ viết: ... Những nhà nho câu nệ không khéo biến hóa, thường hay uốn lưỡi múa mồm, sau khi sự thành bại đã rõ như gương chiếu rồi mới bàn luận anh hùng. ... Cho nên Tạo Vật khi chưa sinh ra người đã sinh ra muôn vật... Bởi vì Tạo vật yêu người nên thầm dạy những việc cấp thiết trước... Những cái mà tạo vật làm ra đó đều khiến vua nắm quyền để mở mang sắp đặt. Vì rằng, tạo vật quí trọng sự sống vô cùng, đã cho ta địa lợi tốt, lại cho ta nhân vật tốt, ắt sẽ giúp ta thịnh vượng để hợp thành ra sự đẹp tốt lớn trong vũ trụ. Vậy ta nên thuận theo Chúa tạo vật đã mở đường chỉ lối mà biết lo lắng để chuyển tai họa thành hạnh phúc, chuyển thất bại thành thành công, đem hết cái trí khôn trời cho để khai thông mọi cái bí mật trên trời dưới đất. Kẻ hủ Nho sao không biết thời thế biến chuyển, cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi rằng: Triều đình mở cửa ngõ đón kẻ cướp vào. Sao không biết rằng: Lúc thời thế đã đến, không thể ngăn được, lúc thời thế đã đi, không thể chận được. Tạo vật đã sắp đặt như vậy sao ta không biết liệu cách tạm thời lưu thông với họ, để tự phấn đấu cho hợp với ý của Tạo vật? Cửa bể của khắp các nước phương Đông Tạo vật đã khai thông cả thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được? Huống chi, việc lợi ích của một nước, quyền lực hành vi do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ mọi sự vui buồn. Mà trên đã có tạo vật thầm sai khiến, vua chỉ cần theo ý trời để làm mọi việc. Những việc lớn như lấy đi hay là cấp cho, biết đâu chẳng phải do Tạo vật ngấm ngầm sắp đặt. Tạo vật đã nhân ái đối với vua để từ đó mở rộng đến muôn dân. Thế mà trước mắt, hơi thấy việc bất bình thì kẻ hủ nho biết gì mà dám chê bai trách cứ? (Di Thảo số 5, TBC, SĐD trang 142-144). Xin nhường sự phán xét trên cho độc giả, nhất là cái tư tưởng nhảm nhí của Nguyễn Trường Tộ cho rằng, Tạo Vật đã sắp đặt như vậy, sao không lưu thông với họ! Tạo Vật nhân ái! Còn ý kiến của tôi thì quí vị đã thấy trong đoạn trước (Phần B Lục Lợi Từ) và sẽ thấy trong Phần Hai: Nhận định về Tôn Giáo và Phần Tổng Luận. 6.- Sáu Điều Lợi Lớn Cần Làm Gấp: Như quí độc giả đã thấy, bài Điều Trần số 5 này có tên là Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh cũng gọi là Dụ Tài Tế Cấp Bẫm Từ hay là Lục Lợi Từ (sáu điều lợi) viết ngày 18-7-1864. Sở dĩ tôi nhắc lại tháng năm Nguyễn Trường Tộ viết bài nầy, vì thời gian rất quan trọng. Bối cảnh chính trị của thế giới trong giai đoạn nầy sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng mức Sáu Điều Lợi Lớn mà Nguyễn Trường Tộ khuyên nên áp dụng. Sáu điều lợi đó là: 6.1.- Nhờ nước Anh để ngăn chận Pháp: Anh và Pháp xưa nay vốn thù hằn nhau. Vì: - Anh đày vua bác của Pháp ra tận đảo xa xôi. - Pháp giúp Hợp Chủng Quốc làm cho Anh bại trận. Do đó nên nhờ Anh giúp và qua Anh nhờ thông báo với Nga và Áo để nhờ các nước giải quyết giúp ta. 6.2.- Xúi Anh gây sự với Pháp: Nước ta phải dùng lời lẽ thật từ tốn và tiền bạc thật hậu sang nước Anh, nói hết những điều sai trái của Pháp... Nay người Anh đến giúp chúng tôi một tay khôi phục lại, chúng tôi sẽ vui lòng nhường quí quốc một thương cảng lớn, ký thác vĩnh viễn và sống như anh em với nhau... 6.3.- Nhờ Anh để ly gián Pháp: Anh và Pháp xưa nay vẫn ghen ghét nghi ngờ nhau, tuy tạm thời cọng tác nhưng Anh vẫn giành phần hơn. Pháp hay đa nghi Nay nếu ta năng đi lại với người Anh, hoặc thăm viếng hoặc mua bán... thì người Anh cũng sẽ đối xử với ta một cách xứng đáng... Pháp thấy vậy ắt sinh nghi..."mà xa lìa người Anh. Ta sẽ lợi dụng tình trạng đó, mà xoay trở công việc. 6.4.- Nhờ các nước và Giáo-hoàng lấy danh nghĩa mà áp chế Pháp: Ngày nay nếu ta biết qua lại giao thiệp với các nước lớn phương Tây, gây được mối tình cảm, rồi dùng cái xảo kế để ly nước nầy, hợp với nước kia. Người Pháp dù muốn thừa cơ hội nhưng nếu các nước chịu tuyên bố giúp ta một lời thì người Pháp cũng sẽ lo sợ... Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng... Nếu Giáo hoàng cho việc giúp ta là phải, thì mọi người đều vui lòng thực hiện, ta không lo người Pháp không nghe... 6.5.- Nhờ Anh và Nga đề phòng nước Pháp: Nếu ngày nay ta biết giao hảo với người Anh trước để đề phòng đường biển, sau sẽ thông thương với nước Nga để đề phòng đường bộ. Cho dẫu sau nầy tình thế biến đổi thì trước kia người Anh đã lấy cái việc người Pháp tìm cớ cướp nước ta cho là trái lẽ, mà nay lại thủ tiêu tình bạn bè để cướp nước ta mà cho là phải hay sao?. Đối với nước Nga cũng thế. 6.6.- Dùng số người Anh lưu vong ở hải ngoại để đánh Pháp: ...Chiêu mộ những người Anh sống lưu vong ở hải ngoại, cho họ tiền của, cư xử tốt để được lòng họ, rồi nhờ họ huấn luyện binh lính quân ngũ cho ta. Binh Pháp của người Anh rất giỏi. Những người này không suy nghĩ gì viễn vông cả, hễ được thỏa thích là họ xông lên, không như quân ta sợ trước ngó sau. Nguyễn Trường Tộ kết luận: Đã thực hiện được sáu điều lợi rồi, dần dần có cơ hội, tôi xin đem các điều ngấm ngầm làm tổn hại địch trong bài TẾ CẤP LUẬN ra thực hiện dần dần thì sẽ như lấy trăm kim mà chích làm cho họ nằm ngồi không yên. Sau đó bồi cho một nhát dao thì thế nào cũng chết. Nguyễn Trường Tộ viết tiếp: Vậy muốn áp dụng kế nầy phải gấp rút khai thác các nguồn lợi và nhờ người khác giúp sức... Còn như sẽ làm theo đường lối nào và sử dụng ngôn ngữ gì thì tôi sẽ cùng với ông Nguyễn Hoằng (Linh Mục, BK) xin hết sức làm để giúp muôn một. (Điều Trần số 5, TBC, SĐD, trang 145-151). Đọc Sáu Điều Lợi của Nguyễn Trường Tộ đề nghị trên, nếu không lồng chúng vào trong bối cảnh lịch sử của các phong trào đi chiếm thuộc địa, và không thấy được hoàn cảnh của nước Việt Nam thời bấy giờ, người đọc sẽ có những nhận định sai lạc, ngay cả có thể kết luận rằng Nguyễn Trường Tộ là một chiến lược gia, một người có lòng yêu nước thực sự. Nhưng nếu đem sáu đề nghị nầy đối chiếu với tình thế lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy sáu đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không những là vô ích mà còn tai hại nữa. 7.- Nhận định sáu điều lợi: Chúng ta nên tìm hiểu tình hình các phong trào đi chiếm thuộc địa để thấy cái sai của Nguyễn Trường Tộ. Vùng Phi Châu. Như chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 19, Phi Châu là một vùng hầu như bí mật chưa ai để ý tới vì rừng quá già, khí hậu quá nóng. Sa mạc rộng, người Âu Châu chỉ biết một giải đất nằm theo Địa Trung Hải tức là vùng Maroc, Algerie, Tunisie, Lybie, Ai Cập và vùng trên bờ Đại Tây Dương. Một số người Âu Châu nặng tình với khoa học và tôn giáo, nên cố gắng tìm tòi vùng đất bí mật nói trên. Năm 1840, Livingstone tới Phi Châu để nghiên cứu y học thám hiểm cả một vùng mênh mông từ Congo tới Mũi Hảo Vọng. Pháp, Đức cũng sai người thám hiểm như thế. Dần dần họ vẽ các bản đồ sơ sài trên vùng đất nầy, và căn cứ vào bản đồ đó mà chia nhau đất. Như Anh bàn với Pháp lấy con sông nầy, dãy núi nọ làm ranh giới. Pháp đồng ý nên đem binh vào đánh thổ dân. Thổ dân chưa từng nghe tiếng súng bao giờ, cứ tưởng là sấm sét đua nhau chạy tán loạn. Do đó, vùng Phi Châu trở thành thuộc địa của Anh và Pháp một cách nhanh chóng và dễ dàng. (Lịch Sử Thế Giới, Nguyễn Hiến Lê, Văn Nghệ xuất bản, Hoa Kỳ, 1994, trang 610). Trái lại, lúc chiếm thuộc địa ở Á Châu thì khó khăn hơn nhiều và bị đổ máu. Người Âu theo Gia Tô giáo và quá cuồng tín. Họ nghĩ rằng đất là của Chúa Trời tạo ra, là của chung không thuộc vào túi một ai, và nghĩ rằng họ có bổn phận đi khai hóa các vùng khác để truyền tín ngưỡng cho các xứ đó. (NHL, SĐD, trang 611 & 612). Từ ý nghĩ cuồng tín và sai lầm nầy mà chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ cũng diễn dịch như thế ở một đoạn trước. Thực ra, phong trào chiếm thuộc địa đi song hành với việc truyền đạo Gia Tô và xử dụng tín ngưỡng như là một khí cụ sắc bén tiên khởi. Tại Ấn Độ: Công ty Ấn không phải là của dân chúng Anh hoặc của chính Phủ Anh quốc, mà chỉ do một số người phiêu lưu xảo quyệt lập công ty Ấn. Họ dần dà dùng vũ lực chiếm hết Ấn độ, một quốc gia có số dân gấp 10 lần Anh quốc. Để bảo vệ quyền lợi, công ty nầy đã dùng quân đội và ngoại giao dồn người Pháp vào năm thành phố: Pondichéry, Chandernagor, Yamon, Karikal và Mahé, rồi cướp hết quyền hành của vua Ấn, bắt dân Ấn đi lính, đóng thuế và tự ý gởi đại sứ qua các nước Á Châu, Công ty tổ chức chính phủ nhưng không chịu mệnh lệnh của Anh hoàng. Năm 1857, vì sự vụng về của quân nhân Anh đã đưa cho lính Ấn những gắp đạn có thoa mỡ bò. Lính Ấn cho rằng đó là một sự nhục mạ họ vì người Ấn thờ bò. Vì vậy, lính Ấn nổi lên chống. Sau hai năm tàn sát đẫm máu, chính quyền Anh mới nhảy vào dẹp được loạn rồi tước quyền của công ty Ấn. Từ đó, Ấn Độ là thuộc địa của Anh hoàng Victoria, quyền cai trị giao cho một phó vương người Anh. Chính sách của Anh là dùng người Ấn để cai trị người Ấn và xúi người Ấn theo đạo Hồi chống lại người Ấn theo đạo Bà La Môn. Tổng số dân Ấn lúc bấy giờ là 300 * triệu. Ấn là thuộc địa quí nhất của Anh. Để bảo vệ, Anh chiếm các xứ xung quanh. Tuy nhiên, phía Tây họ chỉ chiếm được Bélontchista, mà không lấn được A Phú Hãn vì sợ đụng độ với Nga. Phía Bắc, Anh chiếm một phần Tây Tạng, còn phần kia thì chia quyền lợi với Trung Hoa. Phía Đông, Anh chiếm Miến Điện (NHL, SĐD, trang 614). Sau khi bị hất ra khỏi Ấn, Pháp tìm cách chiếm Việt Nam (năm 1862), Cao Miên và Lào, làm chủ cả bán đảo Đông Dương. Còn Xiêm (Thái Lan) trở thành vùng trái độn chịu ảnh hưởng của Pháp lẫn Anh (NHL, SĐD, trang 615). Phi Luật Tân: Nguyên là thuộc địa của Y Pha Nho (Spain) từ năm 1527. Chữ Philippines (tiếng Pháp) có nghĩa là những hòn đảo của vua Philippe nước Y Pha Nho. Người Phi bị cưỡng bức theo đạo Gia Tô như người Y Pha Nho (NHL, SĐD, trang 620). Nói về thế trận và phân chia ranh giới lúc bấy giờ, chúng ta nên để ý thêm một chi tiết khác về Nga, Pháp và Anh: ... Nga chỉ lăm le xâu xé Thổ để kiếm đường thông ra biển. Coi bản đồ Châu Âu, ta sẽ hiểu chính sách của Nga. Bắc Băng Dương suốt năm đầy băng và tuyết, hoàn toàn vô dụng rồi. Trên biển Baltique có hạm đội của Đức, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan; Nga khó mà len ra được, dẫu có được thì tới Bắc Hải cũng đụng đầu với Hải quân Anh mạnh nhất thế giới. Vậy Nga như bị vây hãm, chỉ có hai đường thoát ra ngoài: Một là tiến qua Đông, chiếm trọn Tây Bá Lợi Á, vươn tới Thái Bình Dương, đường đó đã xa mà lại chạm trán với Nhật; hai là do Hắc Hải mà thông ra Địa Trung Hải, đường này tiện nhất, nhưng cửa ngõ Hắc Hải là Constantinople do Thổ gác, nên Nga nhất định phải diệt Thổ. Anh không chịu vậy, vì nếu Nga chiếm Constantinople thì hạm đội Nga tung hoành trên Địa Trung Hải mà con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy. Vì thế Anh tìm cách kéo Pháp về phe mình để chống Nga và bênh Thổ, chẳng thà để Constantinople cho Thổ vì Thổ yếu không làm hại mình được, chứ không chịu để cho Nga. Nã Phá Luân đệ tam (Pháp) thích chiến tranh, hoan nghênh ý của Anh, vua Sardaigne hùa theo và cả ba nước tuyên chiến với Nga. Hai bên chém giết nhau ghê gớm trong hai năm (1854-1856) trên bán đảo Crimée. Nga hùng dũng chống cự kịch liệt, nhưng sau thua và Thổ vẫn làm chủ Constantinople.(NHL,SĐD, tr. 626 & 627). Tình Hình Trung Hoa Và Hồng Kông: Năm 1838, triều vua Đạo Quang, Tổng Đốc Lâm Tắc Từ, chém một số người nghiện thuốc phiện và đem đổ xuống biển tất cả các thuốc phiện tịch thu được của các thương gia ngoại quốc như Bồ, Pháp, Hòa Lan. Qua vụ nầy, Anh Quốc chống lại Trung Hoa, Năm 1840, quân Anh tấn công Chiết Giang, tiến lên Trực Lệ rồi thẳng vào Thiên Tân, quân Lâm Tắc Từ thua. Triều đình Trung Hoa hoảng sợ, cách chức Lâm Tắc Từ để nghị hòa với Anh, ký hiệp ước Nam Kinh, chịu bồi thường số nha phiến bị tiêu hủy, mở năm cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải cho người Anh và cắt đứt Hương Cảng (Hồng Kông) tặng cho Anh (NHL, SĐD trang 641). Sau hòa ước Nam Kinh, đảng Thái Bình Thiên Quốc lập ở Quảng Đông, người cầm đầu là Hồng Tú Toàn, một người Gia Tô. Ông tự xưng là con thứ của Thượng Đế, còn Giê Su là con trưởng, dân nghèo theo rất đông. Năm 1850, Tú Toàn dấy binh chiếm được vài huyện, quân sĩ tôn ông làm Thái Bình Vương. Ông dựng nước, gọi là Thái Bình Thiên Quốc, được nhiều tướng tài giúp sức, tiến lên Hồ Nam, Hồ Bắc, chiếm Nam Kinh để dựng đô rồi công hãm Tô Châu, Hàng Châu, sau cùng phái binh lên đánh phương Bắc, song thất bại. ... Hồng Tú Toàn bài xích Khổng, Phật, gây ác cảm trong giới tu sĩ. Tăng Quốc Phiên người chỉ huy quân Thanh lợi dụng ngay chỗ yếu đó, truyền hịch khắp nước, tố cáo tội khi lễ nghĩa, nhân luân của Hồng, nào là điển tắc mấy ngàn năm của Trung Quốc đương bị giày đạp, nào là miếu từ của Khổng Tử, Quan Võ, Nhạc Phi sắp bị đốt phá. Gây nên một luồng oán giận, căm hờn Tú Toàn trong quần chúng. Lại thêm, nội bộ Thái Bình lủng củng, nên quân Thanh đến đâu thắng đó. Biết thế nguy, Hồng uống thuốc độc tự tử. (NHL, SĐD, trang 642 & 643). Vừa dẹp xong loạn Thái Bình Thiên Quốc, nhà Thanh phải đương đầu với Âu Châu trong một trận chiến tranh nha phiến thứ nhì (1856-1860). Sau khi ký điều ước Nam Kinh: "... Anh lại càng chở nhiều thuốc phiện vào Trung Hoa, bắt buộc nhà Thanh cho phép bán nha phiến công khai, mở thêm hải cảng để thông thương và tiếp đãi sứ thần Châu Âu tại Bắc Kinh. Nhà Thanh không chịu. Nhân ở Quảng Đông, nhà cầm quyền bắt thuyền buôn của người Trung Hoa có treo cờ Anh, và ở Quảng Tây nhiều giáo sĩ Pháp bị hại, Anh Pháp tổ chức liên quân, tấn công Quảng Châu, Thiên Tân, vào tận Bắc Kinh đốt phá." "Thanh đình bối rối, Nga đứng ra điều đình. Trung Hoa phải ký điều ước Bắc Kinh, mở thêm bảy thương khẩu, cho phép các giáo sĩ và thương nhân Châu Âu tự do lưu thông khắp nơi, cho thuốc phiện được bán công khai và cho Âu Mỹ hưởng quyền lãnh sự tài phán, nghĩa là kiều dân Âu Mỹ ở Trung Hoa không chịu pháp luật Trung Hoa chi phối, mà chỉ do lãnh sự nước mình phân xử theo pháp luật nước mình. "Nga sở dĩ đứng ra điều giải, chẳng phải yêu gì Trung Hoa mà chính là để kể công với Trung Hoa rồi rút rỉa của Trung Hoa. (NHL, SĐD, trang 644). "Khi thấy nhà Thanh suy, Nga thừa cơ chiếm Hắc Long Giang, cho binh kéo vào đóng ở bắc ngạn sông đó. Thanh đình phản kháng nhưng vô hiệu, đành chịu ép, vạch lại ranh giới, nhường hết bắc ngạn Hắc Long Giang cho Nga. Từ đó, Nga một mặt kinh doanh ở Mãn Châu, một mặt theo đuôi Anh, Pháp, hễ Anh Pháp cướp được quyền lợi gì ở Trung Hoa thì Nga cũng đòi quyền lợi đó. ... Nhật Bản lúc đó đã bắt đầu duy tân, đứng bên nhìn người Âu chia nhau miếng mồi mà thèm thuồng, cũng nhảy vào đòi cắt. Trong đời Quang Tự, Nhật Chiếm Lưu Cầu, Pháp nuốt Việt Nam, Anh chia Miến Điện, rồi Nhật lại đòi Đài Loan, Triều Tiên, Đức nắm Giao Châu Loan, Nga thuê Lữ Thuận, Anh thuê Uy Hải Vệ, Pháp thuê Quảng Châu. ... Duy có Ý chậm chân tới sau, đòi mượn một nơi ở Phước Kiến, không được, bẽn lẽn rút lui. Họ thuê đất mà còn bắt chủ đất ký giao kèo không cho nước khác thuê những miếng bên cạnh. Chẳng hạn, khi thuê Quảng Châu Loan, người Pháp yêu cầu nhà Thanh không được đem đảo Hải Nam và các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam nhường cho nước nào khác. Anh cũng xin không được nhường các tỉnh hai bờ sông Dương Tử cho ai. Tóm lại họ chiếm căn cứ địa để cắt xẻ Trung Hoa thành nhiều phạm vi thế lực, như Mãn Châu thuộc phạm vi Nga, Sơn Đông thuộc Đức, Phúc Kiến thuộc Nhật, lưu vực Dương Tử của Anh, Hoa Nam của Pháp. Trong mỗi phạm vi, họ đòi đủ quyền lợi; khai mỏ, đặt đường xe lửa... Trong lịch sử, chưa từng thấy vụ nào mà các cường quốc đồng lõa với nhau để hút máu, rút xương nước khác một cách trân tráo và có tổ chức như vậy! Hoa Kỳ đứng ngoài nhìn thị trường mênh mông đó lọt vào tay người cũng nóng ruột, tự nghĩ nếu nhẩy vào đòi chia thì chắc sẽ bị đẩy ra như Ý, bèn khôn khéo, phát biểu bản tuyên ngôn chủ trương bỏ chính sách chia phạm vi thế lực, để mỗi nước được bình đẳng về công thương trên đất Trung Hoa, một mặt duy trì chủ quyền Trung Hoa trong phạm vi các nước đã chia. Tóm lại Hoa Kỳ bảo các cường quốc: Các anh phải ngưng lại đi, không được mở mang thêm phạm vi nữa mà cũng không cướp thêm quyền của nhà Thanh nữa. Các cường quốc ôm đã quá nhiều, lo khai thác xong khu vực của mình cũng đủ mệt, không muốn bành trướng thêm nữa, e sẽ xung đột nhau, bèn gật đầu tán thành. (NHL, SĐD, trang 644,645, 646 & 647). Qua đoạn tóm lược tình hình chiếm thuộc địa của các nước Âu Châu như trên, cho chúng ta vài nhận xét sau đây: a.- Anh quốc đã thỏa mãn những gì họ muốn nhờ cuộc chiến tranh Nha phiến thứ nhất (1839), sau đó lại tạo chiến tranh Nha phiến thứ 2 (1856-1860). Các cường quốc đua nhau chia phần để xâm lấn Trung Hoa nhưng không đụng độ nhau bằng vũ lực. Trung Hoa đi từ nhượng bộ nầy đến nhượng bộ khác và hầu như không bao giờ thỏa mãn lòng tham không đáy của các nước đi chiếm thuộc địa. Do đó bất cứ một giải pháp thỏa hiệp nào bất cứ ở đâu, xem ra cũng không thực tế. b.- Trong các quốc gia đi chiếm thuộc địa, Anh Quốc kiếm được nhiều nhất: Từ Phi Châu, đến Ấn Độ, Tây Tạng, Miến Điện, Hồng Kông và nhiều phần đất quan trọng của Trung Quốc. Do đó, người ta có lý để nói rằng Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh. c.- Với số thuộc địa quá rộng lớn như thế, Anh Quốc chưa đủ thì giờ để khai thác, cần gì phải xen vào Việt Nam để phải đổ máu vô ích với Pháp. Do đó, bốn điều Nguyễn Trường Tộ viết trong bản Điều Trần: Nhờ Anh để ngăn chận Pháp. Nhờ Anh gây sự với Pháp. Nhờ Anh để ly gián Pháp. Nhờ Anh và Nga để đề phòng Pháp. Là những đề nghị không thực tế, không hiểu và không đúng với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Đó là chưa nói đến tình trạng nếu Anh bằng lòng giúp thì Việt Nam sẽ gặp phải cảnh "đuổi chó sói ra đàng trước, rước cọp vào ngã sau. Còn kế hoạch thứ 6: Dùng người Anh lưu vong ở hải ngoại để huấn luyện quân đội Việt Nam đánh Pháp cũng là một giải pháp ngây thơ khác. Thực vậy, thuộc địa của Anh quá tràn ngập quá béo bở, dân Anh hưởng thụ dư thừa, dại gì phải đi giúp một nước Việt Nam đã bị Pháp chiếm để mang họa vào thân? Vả lại người Anh lưu vong ở hải ngoại cũng phải chịu sự chi phối điều hành của chính phủ họ, ngoại trừ thành phần người Anh trong các băng đảng, trong các nhóm loạn trí, ăn xin. Chẳng lẽ Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình Tự Đức dùng loại người Anh nầy chăng? Còn nước Nga thì quá xa xôi đối với Việt Nam, hơn nữa, chúng ta cũng đã thấy cách đối xử của họ với Trung Hoa qua đoạn trích dẫn trên: rất khắng khít với nhau để chia quyền lợi. 8.- Thông hiếu với Giáo Hoàng: Đây là chủ đích chính trong bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt trống ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình bang giao với Vatican để thực hiện sách lược Gia Tô hóa Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là làm cho Pháp dễ cai trị nếu tất cả người Việt đều trở thành Gia Tô. Đây là kế sách thâm độc giống như khuyên cha mẹ gởi con cho cọp. Sau đây là một số dẫn chứng : Một người thông minh như Nguyễn Trường Tộ chắc chắn đã biết rõ việc Pháp chiếm Việt Nam là do Giáo Đoàn Hải Ngoại Pháp và Y Pha Nho, mà chỉ thị hoặc ít ra là đã được Giáo- hoàng khuyến khích và đồng ý, vài dẫn chứng sau đây sẽ cho thấy điều đó. a.- Như độc giả đã thấy ở phần trước, giáo sĩ A. de Rhodes (tên Việt Nam là Đắc Lộ). Sau khi hôn chân Giáo hoàng và từ giã Roma ngày 11-9-1652 để đi Pháp vận động chính phủ Pháp chiếm Việt Nam. Chúng ta nên để ý rằng giáo hội Gia Tô (Công giáo) là một tổ chức theo đẳng cấp tuyệt đối. Giáo Hoàng là người đại diện Chúa ở trần gian, ông có quyền cách chức, bổ nhiệm, cấm đoán hoặc cho phép các Hồng y, Giám mục, Linh mục, con chiên thi hành các công tác đức tin và công tác trần thế. Do đó, chúng ta hiểu rằng A. de Rhodes đã được Giáo hoàng đồng ý và cho phép qua Pháp vận động triều đình đánh chiếm Việt Nam. Một linh mục, giám mục không làm điều gì khác nếu không được Giáo hoàng chấp thuận. Như thế, việc vận động một thế lực chính trị ngoài Vatican để xâm chiếm Việt Nam đã có từ 1652 do Giáo hoàng chỉ thị cho ông A. de Rhodes (xin xem thêm bài Góp ý với giáo sư Chương Thâu về Linh mục A. De Rhodes và chữ quốc ngữ trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. (Văn Hóa Cali xuất bản, Hoa kỳ, 1996). b.- Gần hơn, cùng thời với Nguyễn Trường Tộ, chúng ta có thêm chi tiết sau đây: "Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với các đại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này. Nhưng đây là các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vật quan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ." Nguyên văn tiếng Pháp: En 1855, de Courcy, secrétaire de la légation de France en Chine, sur l'ordre de l'empereur qui voulait réunir des documents sur les missions d'Indochine, s'était mis en rapport avec les vicaires apostoliques de Siam, du Viet Nam et du Cambodge; c'est d'après les renseignements fournis par ceux-ci que le gouvernement francais avait décidé d'envoyer Montigny en mission dans ces régions. Mai ce sont ldescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais adescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dadescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais alors ns ce climat aucun travail, mais alors lors es démarches appuyées par l'intervention de personnages importants comme l'archevêque de Rouen, Mgr de Bonnechose (2), et par l'impératrice elle-même, qui avait romani convaincre l'empereur, bien qu'il n'eut à ce moment, aucun plan Colonial établi. Ces démarches avaient été entreprises par deux missionnaires: le Père Huc, membre de la Congrégation de Saint Lazare, ancien missionaire apostolique en Chine, auteur du Christianisme en Chine, en Tartarie et au Thibet et d'autre ouvrages sur la Chine, et Mgr Pellerin, vicaire apostolique de la Cochinchine septentrionale (Theo CHT, SĐD, trang 65 & 66.) c.- Linh Mục Huc và đặc biệt là Giám mục Pellerin vận động ráo riết với triều đình Pháp, ông trình bày với ủy ban thuộc địa, và sau ngày 21-5-1857, ông được vua Napoléon tiếp kiến. Đến tháng 11-1857 ông đi Rôma và được Giáo Hoàng Pie IX tán thành đường lối của ông. Dưới đây là sử liệu về vấn đề nầy: Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy ban và ngày 21-5 trao cho họ một bản trần tình chi tiết trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Giám mục đã cho chúng ta thấy vài chỉ dẫn đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền giáo tại Tây Tạng: Nhà vua đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những điều tôi xin. Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện Thượng Đế giữ lại người của Chúa ở lại trên ngôi. Các phái bộ của Ngài, ở Cao Ly, Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ đứng vững tại các xứ đó và rồi sẽ không còn có sự đàn áp nữa. Nhưng sự việc hình như cứ kéo dài mãi, giám mục sốt ruột thấy là nên nhắc lại vấn đề với Napoléon III. Xin Chúa thượng, người ta đọc trong thư đề ngày 30-8-1857 của ông. Cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở nước An Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ người ta vẫn không làm gì cho bọn thần cả, e rằng đạo Thiên Chúa bị tận diệt ở tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và nền văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc cuả Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ... Kế đến tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôma, Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động để giúp đỡ cho các phái bộ truyền giáo." Nguyên văn tiếng Pháp: Arrivé en France au début de mai, il fut entendu le 16 mai par la commission et lui remit un mémoire détaillé le 21 mai, avant d'être recu par Napoléon III. L'évêque nous donne quelques indications intéressantes sur cette entrevue dans une de ses lettres à un missionnaire du Thibet: “L'empereurs m'a très bien accueilli et m'a accordé plus même que je n'avais demandé. Sa Majesté est parfaitement disposé pour les Missions, et son intention est que les missionnaires francais soient libres partout; il faut prier Dieu de conserver sur le trône l'homme de la providence. Vos Missions, celles de la Corée, du Japon seront aussi bientôt libres, il faut l'espérer. La France va s'établir solidement dans ces pays, et alors il n'y aura plus de persécution possible”. (1) Mais l'affaire semblait trainer. L'évêque, impatient, crut devoir rappeler la question à Napoléon III. “Je prie votre Majesté, lit-on dans sa lettre du 30 aout 1857, de me permettre de lui parler encore de nos pauvres néophytes de la Cochinchine et des missionnaires francais qui sont dans le royaume d'Annam; leur sang coule à l'heure qu'il est et leur condition est devenue encore plus horrible depuis la dernière démarche tentée par le France. Si maintenant on ne refait rien pour nous, il est à craindre que le christianisme ne soit anéanti dans ces contrées qui semblent cependant si disposées a recevoir les bienfaits de la religion chrétienne et de la civilisation... Je viens supplier Votre Majesté de ne pas nous abandonner. Ce qu'elle fera pour nous attirer sur Elle et sur son auguste Dynastie les bénédictions de Dieu... (2) Mgr. Pellerin se rendit ensuite à Rome, en Novembre, où le pape Pie IX lui donna son approbation pour les démarches entreprises en faveur des Missions. (1) Archives Missions Entrangères - lettre à Mgr Thonuire - Desmazures, 30-7-1858, cité par Franchini, Ouv. cité. (2) Archives du ministère des Affaires Étrangère Vol. 27 (CHT, SĐD, trang 67 & 68). Qua một tài liệu khác, chúng ta cũng thấy vai trò quan trọng của Giám mục Pellerin trong việc vận động Pháp xâm lăng nước ta. Và đã được Giáo hoàng La Mã Pie IX chấp thuận: Lợi dụng lý do truyền giáo, cấm đạo tại Việt Nam, thực dân Pháp qua trung gian Giám mục Pellerin đã đệ trình đề án kế hoạch xâm lược Việt Nam lên Giáo hoàng Pie IX và đã được La Mã chấp thuận. (Xem A. Delvaux, Mgr. Pellerin, Nazattreth, Hồng Kông, 1937, tr. 54, nguyên văn Une des facteurs qui influèrent favorablement sur la mise en campagne de l'expédition de Cochinchine fut l'avis favorable de Pie IX qui avait approuvé pleinement les démarches de Mgr Pellerin lors de son voyage à Rome (Phần tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, trích trong cuốn Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam, tác giả Nguyễn Sinh Duy, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, trang 17). Đến đây, có lẽ không ai có thể phủ bác được vai trò của nhiều Giáo Hoàng La Mã trong việc tán thành và hỗ trợ các vận động để Pháp xâm lăng Việt Nam ngay từ thời Linh mục A-lê-xăng-đờ-rốt, 1652. Thế mà nhà thông thái giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ lại viết bản Điều Trần khuyên triều đình vua Tự Đức qua La Mã vận động Giáo Hoàng giúp. Do đó, tôi nói khuyên gởi con cho cọp có lẽ không sai ? Với nhận định và chứng minh bằng những sử liệu chính xác như trên, chúng ta có thể nói rằng bản Điều Trần Lục Lợi Từ của Nguyễn Trường Tộ nên đổi thành Lục Hại Từ mới đúng? Phần tiếp theo kính mời độc giả tìm hiểu một bản Điều Trần quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ. Đó là Di Thảo số 27 Tám Việc Cần Làm Gấp, được viết ngày 15-11-1867; 56 trang, dài nhất trong tất cả 58 bản Điều Trần. Chương 3 NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VỚI VIỆC MỞ TRƯỜNG KỶ THUẬT VÀ HỌC THỰC DỤNG Bản Điều Trần số 27 dưới đây sẽ cho thấy phần lớn cái chiêu bài canh tân của Nguyễn Trường Tộ: Nhận định bản Điều Trần số 27 Tám Việc Cần Làm Gấp (Tế Cấp Bát Điều). Tổng quát, đây là một trong ba bản Điều Trần có tầm vóc. Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số bệnh trạng của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà. Để đánh giá bản Điều Trần nầy được chính xác, chúng ta nên lồng nó vào bối cảnh lịch sử nước nhà và vào thời kỳ mà giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần này vào tháng 11, 1867. Để dễ theo dõi, tôi chia bản Điều Trần làm nhiều đoạn. 1.- Phần mở đầu - gồm 6 trang mô tả tình hình chung của các nước lúc bấy giờ. Phần nầy chúng ta cũng thấy Nguyễn Trường Tộ đưa ra nhiều nhận xét chí lý chí tình như: Vận hội trong thiên hạ cũng thế. Những việc làm thời xưa chỉ đủ đem lại những nhu cầu cần thiết cho nhân loại, nhưng chưa đủ tập họp để làm nên công dụng hay ho gì. Những việc sửa sang giúp đời trị thế, cũng chẳng qua thời thế lúc bấy giờ phải như vậy, mới đủ dùng được như vậy mà thôi. Nhưng đến đời sau xem lại, những việc làm ấy không khác nào trò nghịch đất khi còn bé (Tế Cấp Bát Điều, TBC, SĐD, trang 225). Hoặc: Chỉ vì nay ta không thể phát huy vũ lực ra các nước xung quanh, nên mới bị các nước mang binh đến ta. Dù ta không chủ tâm đánh ai, nhưng cũng phải sửa sang biên thùy, siết chặt hàng ngũ trong nước, để có một lực lượng có thể đánh được người ta, nhưng chỉ chờ ai đến thì đánh mà thôi. Như vậy mới khỏi hoạn nạn. (Bản Di Thảo đã dẫn, TBC, trang 226). Đọc đoạn mở đầu nầy, độc giả sẽ tìm thấy những ý tưởng hay và những thích thú khác mà tôi chỉ đơn cử hai thí dụ. Tuy nhiên, về phương diện tình thế và sử liệu có rất nhiều chỗ sai, mặc dầu có lẽ không quan trọng lắm cho bài Điều Trần nầy, nhưng tôi vẫn nêu ra vài điểm để độc giả rõ thêm và tránh những dẫn chứng sai lầm nếu ai có xử dụng đến. Thí dụ 1: Nguyễn Trường Tộ đặt nghi vấn: "Người Anh đã xin nhà Thanh cho lập một quân cảng ở Quỳnh Châu là ý muốn gì?" Chúng ta nhớ rằng Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần nầy vào năm 1867, nghĩa là 27 năm sau khi quân Anh tấn công Chiết Giang (năm 1840) lên Trực Lệ rồi thẳng vào Thiên Tân, quân Trung Hoa thua phải ký hòa ước Nam Kinh... mở năm cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, cắt đứt Hương Cảng tặng cho Anh. Xin xem lại đoạn Tình hình Trung Hoa và Hồng Kông trong phần nhận định Di Thảo số 5 Lục Lợi Từ. Và sau chiến tranh Nha phiến thứ II (1856-1860), Trung Hoa thua, nhà Thanh mở thêm bảy thương khẩu khác cho Anh và Pháp (đã trình bày trong Tình Hình Trung Hoa và Hồng Kông). Do đó, câu hỏi của Nguyễn Trường Tộ nêu ra ở trên không cần thiết và không đúng. Thí dụ 2: Nguyễn Trường Tộ viết: Người Pháp đang còn tính ngược sông Cửu Long chiếm Tây Tạng rồi sau đó phía đông sẽ xuôi dòng Kim Sa xuống Tứ Xuyên vào giữa lòng Trung Quốc... (TBC, SĐD, trang 227). Sai, như đoạn trước về Tình Hình Trung Hoa và Hồng Kông mà chúng ta đã biết, chiến tranh Nha phiến II (1856-1860), Anh và Pháp hợp tác với nhau để đánh Trung Hoa, nhà Thanh thua phải mở thêm 7 cửa khẩu. Còn Tây Tạng ở giữa Ấn và Trung, là một quốc gia bị tuyết phủ, hầu như quanh năm, Pháp chiếm Tây Tạng làm gì? Chỉ có Trung Hoa nhất là Anh chiếm Tây Tạng để tránh sự dòm ngó của các nước vào thuộc địa Ấn Độ của Anh. Tôi chỉ nêu hai trong nhiều điểm mà Nguyễn Trường Tộ đã lạc dẫn lịch sử. 2.- "Tám điều cần phải làm gấp" của Nguyễn Trường Tộ đề nghị: 2.1.- Điều thứ nhất: "Xin gấp rút việc sửa đổi võ bị". Cũng như đoạn mở đầu bản Điều Trần, Nguyễn Trường Tộ dường như có nhiều ý kiến hay. Nhưng nếu đọc cuốn "Tôn Ngô Binh Pháp, chúng ta thấy hầu như Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn sách nầy. Đã vậy, ý của Nguyễn Trường Tộ so ra còn kém xa. Sau đây là một số dẫn chứng. a.- Nguyễn Trường Tộ viết: "Cái khó của môn học nầy là người học võ học các sách binh thư đồ trận. Học sách xong phải thể nghiệm tập tành. Học cái gì tập luyện cái đó. Óc sáng suốt, cái nhìn nhanh như thần mới nắm được cốt cách mau lẹ..." Tôn Ngô Binh Pháp: Việc binh, lấy trá mà thành. Lấy lợi mà động. Lấy hợp tan làm biến hóa. Nhanh như gió. Thong thả như rừng. Lấn cướp như lửa. Bất động như núi. Khó biết như mây. ("Tôn Ngô Binh Pháp", Ngô Văn Triện dịch, trang 121& 122). b. Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ học các phép động tĩnh đánh đấm đúng chân truyền mới không sai khi ứng dụng..." Tôn Ngô Binh Pháp: Tính giỏi thì biết cái thế đắc thất. Tác động để biết cái động tĩnh. Nghiên cứu địa hình để biết sống chết. So đọ để biết chỗ thiếu thừa (TNBP, trang 108 &109). c.- Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ đối với những nơi hiểm yếu có tính cách sinh tử, những hình thể có tính cách quyết định thắng bại, phải giả tạo hiện địa, lập trận đồ đích thân luyện tập (Binh pháp phương Tây như thế) mới thể nhận được rõ ràng..." Tôn Ngô Binh Pháp: Ứng biến về địa thế: "Tránh chỗ bằng, đón chỗ nghẽn, lấy một đánh mười đâu bằng chỗ nghẽn, lấy mười đánh trăm đâu bằng chỗ hiểm, lấy trăm đánh nghìn đâu bằng chỗ ngẵng" (TNBP, trang 281). d.- Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ quan sát đồn bót xem mặt nào có thể đánh được giữ được, hướng nào có thể ra được vào được, phải chính mắt xem xét rõ ràng hình thế địa lý và ghi nhớ trong lòng (Võ quan phương Tây như thế). Tôn Ngô Binh Pháp: "Người giỏi đánh quân địch không biết đâu mà giữ, người giỏi giữ quân địch không biết đâu mà đánh" (TNBP, trang 89). e.- Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ khi ra trận tên đạn trước mặt, gươm giáo sau lưng, tiến lên thì chết vào tay giặc, thoái lui thì luật nước không cho. Lệnh xuất quân đã ban thì quên nhà, trống thúc quân đã giục thì quên mình..." Tôn Ngô Binh Pháp: Ra đến cửa như thấy quân địch, khi lâm trận không nghĩ đến sự sống, phá được quân địch mới tính chuyện ra về (TNBP, trang 278). g.- Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ biết bắc cầu đắp đường, dựng đồn lập lũy. Công việc của họ làm thiên biến vạn hóa. Nương theo địch mà tìm cách thắng địch, tùy theo địa thế mà lập cách phục binh, xuất quỉ nhập thần không theo một phương thức sẵn có hay một khuôn khổ nhất định. Cho nên cái kỳ diệu của nhà binh không thể báo trước được." Tôn Ngô Binh Pháp: Việc dụng binh hễ được thế thì mạnh mất thế thì yếu. Mạnh thì hăm hở, yếu thì rụt rè (TNBP, trang 89). Dọa phía Đông, đánh phía Tây, nhử phía trước đánh úp đằng sau, biến hóa không cùng. (TNBP, trang 98). Tiến mà họ không chống được bởi ta xông vào chỗ thực, lui mà họ không đuổi kịp vì ta nhanh chóng mà họ không thể theo (TNBP, trang 100). Tránh lúc địch hung hăng, đánh úp lúc chúng trễ biếng. "Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi nhọc, lấy no đợi đói." (TNBP, trang 128 & 129). Mồi nhử chớ ăn, giặc cùng chớ bách (trang 133 & 134). Sáu đoạn so sánh trên có lẽ đã cho chúng ta biết ý kiến về võ bị của Nguyễn Trường Tộ phát xuất từ đâu. Vậy mà ông luôn luôn cổ võ theo lối học thực dụng, tổ chức theo kiểu Tây. Hai trong sáu thí dụ nêu trên Nguyễn Trường Tộ còn chú thích "binh Pháp Tây phương như thế" (mục c) và quan võ phương Tây như thế" (mục d). Theo tôi Nguyễn Trường Tộ không đọc được tiếng ngoại ngữ thông thạo ngoại trừ chữ Nho. Do đó, lúc nói rằng "phương Tây như thế" là nói cho oai, chứ thực tế cũng cần xét lại. Thay vì đề nghị thiếu chuyên môn và không có gì mới về việc chỉnh trang võ bị như trên, Nguyễn Trường Tộ nên đề ra một phương pháp kháng chiến mới: đánh theo lối du kích như thế nào? Cướp khí giới Pháp để dùng làm kiểu mẫu đúc súng mới, toàn dân bất hợp tác, con chiên không nên hỗ trợ giặc Pháp v.v... Nếu Nguyễn Trường Tộ có tâm hồn vì dân vì nước, nhất là hơn ai hết, Nguyễn Trường Tộ là người ít ra am hiểu tình hình và chương trình đồng hóa của Pháp, vì ông là người thông minh, du lịch nhiều, ở Pháp nhiều năm, và gần gũi các linh mục, giám mục, nhất là Giám mục Ngô Gia Hậu, (Gauthier) là một tên gián điệp, mà quí vị sẽ thấy ở đoạn kế tiếp. Còn đoạn đề nghị sau đây của Nguyễn Trường Tộ chúng ta nên dè dặt: Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam Kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa. (Di Thảo số 27, TBC, SĐD, trang 239). Lý do cần dè dặt vì, sau khi chiếm Nam Kỳ, hầu hết dân chúng tại đó không chịu ra hợp tác với Pháp, người thì theo kháng chiến, kẻ theo chiến dịch Đồng không nhà trống làm cho chính quyền Bonard bối rối (xin xem đoạn cuối, phần trước). Vậy, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ như trên xem ra vô tình hay cố ý trúng kế và làm lợi cho Pháp. 2.2.- Điều hai: Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh. Chúng ta không có dữ kiện về số dân trong mỗi tỉnh, huyện thời bấy giờ để nên hợp hai hoặc ba tỉnh làm một nhằm giảm bớt số quan lại và nhân viên làm việc. Hoặc, nếu có tỉnh, huyện dân số quá đông, thì nên chia ra để công việc hành chánh được thực hiện nhanh chóng khỏi bắt dân phải đợi chờ phiền toái. Do đó, không nhất thiết phải hợp tỉnh, huyện mà có nơi phải phân chia. 2.3.- Điều ba: Gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ. Điều thứ 5: Điều chỉnh thuế ruộng đất. Điều thứ 6: sửa sang lại cương giới. Điều thứ 7: Nắm rõ dân số. Các đề nghị trong điều thứ 3, 5, 6 và 7 nói trên, tôi thấy rất cần thiết, và bất kỳ ở hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện được. Những đề nghị đó không những thích hợp cho thời xưa mà còn cho ngày nay nếu các chính phủ, nhất là trong các quốc gia còn lạc hậu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng nhìn vào bốn đề nghị vừa nêu trên của Nguyễn Trường Tộ để nghĩ rằng, lúc bấy giờ và các triều đại trước đó không qui định các thứ thuế, không đo đạc ruộng đất và không kiểm kê dân số. Thật vậy, theo cụ Trần Trọng Kim trong "Việt Nam Sử Lược quyển 2, Bộ giáo dục, Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1971. Đại Nam, Hoa Kỳ in lại, từ trang 173-177 cho chúng ta một vài chi tiết về thời Gia Long như sau: a.- Việc tài chánh: Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng. Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền Mân tiền 1 tiền Cước mễ 2 bát 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên mỗi suất đinh đồng niên phải chịu thuế Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải ghi vào sổ. Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chi phải thưa cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần để vào bộ đóng dấu kiểm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến, còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiếu, còn một bản giao trả dân xã lưu thủ. Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn phòng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người người tìm được. Năm Gia Long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng và được tha việc binh lính. Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật. Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp. Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai thác để đánh thuế. Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước. Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng một mặt khắc 7 chữ Gia Long cửu niên thu bát nguyệt, một mặt khắc 10 chữ ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo. Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ Gia Long cửu niên thu bát nguyệt, một mặt khắc 12 chữ ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo. b.- Công vụ: Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi. Đường quan lộ: Đường sá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ, bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo. Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào phía Nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy. Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận; chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân. Vì là một cuốn sử lược, nên không cho chúng ta biết thêm một số chi tiết cần thiết khác về các vấn đề thuế, dân số, biên cương. Có lẽ trong bộ Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, đầy đủ hơn, nhưng hoàn cảnh của tôi không thể có được lúc viết bài nầy. Về quốc phòng cũng thế, Bộ Quân Sử Việt Nam, từ thời đại phong kiến đến 1968 do TTM/QLVNCH soạn, sẽ giúp chúng ta đối chiếu một số điểm về võ bị mà ông Nguyễn Trường Tộ có nêu như đã bàn ở phần trên. Một điểm khác, cần thảo luận thêm là, các thứ xa xỉ phẩm cách đây 131 (1998-1867 =131 năm) sẽ không có nhiều như ngày nay. Lúc đó không có thuốc ba số 5, thuốc Dunn Hill, rượu Henessy Cognac, dầu thơm Lancôme Pháp, áo bằng da, bằng lông cừu v.v... Về thuế du hí như xem hát mà Nguyễn Trường Tộ có vẻ cay cú lúc viết Trong dân gian có người bỏ ra hàng chục hằng trăm quan tiền để xem hát, nhất là dân thành thị. Vì vậy những phường vô lại du đảng không chịu chăm lo làm ăn chuyên dựa vào nghề nầy để kiếm tiền, ế ẩm thì sinh trộm cướp vì không có nghề nào nuôi sống (TBC, SĐD, trang 246). Nhận xét như thế, tôi nghĩ không đúng, vì cầm, kỳ, thi, họa (Ca hát, xướng họa, thi phú) cũng là những môn giải trí lành mạnh. Hát bội, hát chèo, hò, vè ngày xưa không những là môn giải trí lành mạnh cho tinh thần mà còn là những mãng văn hóa cần thiết của xã hội. Việc tế thần, cúng thần v.v... cũng thế, nghĩa là đừng thái quá để sa vào vòng cuồng tín, mê tín dị đoan. Nhưng đừng quên rằng tín ngưỡng dân gian cũng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề làm cho con người tránh bớt phạm pháp. Thí dụ: Một bà mẹ vùng quê cảnh cáo con rằng Mầy ở ác, coi chừng thần hoàng vặn cổ mầy. Phải chăng câu nói ấy, có một tác dụng tâm lý quan trọng trong cách xử thế của người con? Do đó, không nên nhìn tín ngưỡng dân gian dưới nhãn quan Gia Tô giáo. Và chính cái nhãn quan ấy mới cuồng tín và sai lầm. 2.4. Điều bốn - Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng." Nguyễn Trường Tộ chỉ trích một cách đúng đắn khi cho rằng xưa nay chúng ta chú trọng đến loại tầm chương trích cú, học những chuyện xưa của Tàu, không ích gì cho đời nay. Ông đề nghị nên có bốn khoa học thiết thực như: a.- Khoa nông chính: nghiên cứu các loại đất, khí hậu, giống, phương pháp canh tác để thu hoạch nhiều hoa lợi. b.- Khoa thiên văn và khoa địa lý: gấp rút duyệt lại khoa thiên văn địa lý từ trước đến nay, chọn những gì hợp với thiên thời địa thế nước ta. Tham khảo các khoa thiên văn địa lý Tây phương để rút tỉa những điều hay của họ. c.- Khoa công kỹ nghệ: Tìm trong sách Nho cũng như sách Tây thu thập những gì cần thiết hằng ngày như nguồn lợi khoáng sản v.v... d.- Khoa luật học: bất cứ dân hay quan cũng đều học luật nước nhà để dân thì biết luật mà giữ, quan thì biết luật mà theo. c.- Dùng quốc âm: lấy chữ Hán đọc ra quốc âm thì khi đọc lên ai cũng hiểu có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không? Nguyễn Trường Tộ rất thẳng thắn để nói một cách cương trực rằng: Còn văn sách thì cứ nói mãi những chuyện Hán tự tạp bá, Đường trị vi thuần. Tạp bá, vi thuần của người ta mặc kệ người ta. Mình hãy nói chuyện trị nước của mình ngày nay ra sao thôi. Nước chưa giàu, sao không đặt kế hoạch để giàu? Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh? Dân chưa khôn sao không đem đạo lý ra giáo dục? Nhân dân đói khổ sao không lập kế mưu sinh để cứu? v.v... (TBC, SĐD, trang 254). Đó là những lời phê bình thẳng thừng không vị nể, để mang cái học thực tế vào áp dụng cho tình thế hôm nay. Đây là những chỉ trích ích lợi, cần thiết để xây dựng một nền học thuật mới mẻ cho nước nhà. Có thể nói, những đề nghị nầy của Nguyễn Trường Tộ rất đáng được ca tụng. Tuy nhiên tôi muốn nêu một vài thắc mắc để cùng thảo luận với độc giả như sau: Nguyễn Trường Tộ hô hào nên học thực dụng, nhưng chúng ta không thấy tác giả đã thực hiện được điều thực dụng nào trong suốt cuộc đời của ông như, dịch vài cuốn sách khoa học, kỹ thuật phương Tây để dân ta tìm hiểu, hoặc tổ chức một lớp học hay một khóa hội thảo về kỹ thuật để cho tuổi trẻ Việt Nam được mở mang kiến thức khoa học tân tiến. Trong cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chúng ta thấy ông thực hiện được một số việc như sau: 2.4.1.- Viết được 58 bản Điều Trần, mà một số bài quan trọng chúng ta đã và đang tìm hiểu. Qua các bản Điều Trần nầy, như sự phân tích trên cho thấy, hầu hết đều lạc dẫn, không tưởng. Ngay có nhiều đề nghị nếu áp dụng, sẽ tạo ra tai họa không thể lường được như đã phân tích trong Di Thảo số 1 Thiên Hạ Đại Thế Luận; Di Thảo số 5 Lục Lợi Từ; Di Thảo số 27 Tế Cấp Bát Điều. Ngay trong Di Thảo Tế Cấp Bát Điều nầy chúng ta cũng thấy Nguyễn Trường Tộ đưa ra một đề nghị khác hết sức không tưởng và tai hại. Đó là đào một con kênh từ Hải Dương, gần Hải Phòng, đến kinh đô Huế, dài khoảng 8-9 trăm km. Với khí cụ tối tân ngày nay, chúng ta quả quyết rằng không thể làm được huống hồ là 130 năm trước đây, dụng cụ chỉ là tay chân và mấy cái cuốc cán bằng tre. Với kỹ thuật của cuối thế kỷ thứ 20 và dường như có sự tài trợ hoặc cho vay tiền của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), để làm một đoạn đường quốc lộ 1 từ Vinh vào Đông Hà (Quảng Trị) khoảng 300 km. Dự án đã có nhiều năm qua mà vẫn chưa thực hiện được. Đó là con đường đã có sẵn bằng đất và đá, chỉ làm cho rộng và hiện đại thêm mà đã khó lòng. Dân số Việt Nam ngày nay gần 80 triệu, có nguyên liệu để xuất cảng như lúa gạo, hải sản v.v..., và nền kinh tế thị trường mà chưa làm được. Huống hồ 130 năm về trước, dân số gần 20 triệu *, nền kinh tế nông nghiệp. Đào kênh lại phí tổn gấp cả trăm lần so với làm đường bộ. Thật là một đề nghị hết sức phi lý. Đó là chưa nói đến tình trạng loạn chày vôi, chỉ mới đào hào để làm lăng tẩm cho nhà vua mà dân chúng kinh thành đã nổi loạn, không biết Nguyễn Trường Tộ có nghe hai câu vè: Vạn niên là vạn niên nào, Thành xây xương lính hào đào máu dân. Nếu đào kênh như đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, chắc chắn dân chúng cả nước đều nổi lên chống triều đình. Cảnh thù trong: dân chúng nổi loạn, giặc ngoài: Pháp thừa cơ hội tấn công và chiếm toàn lãnh thổ một cách nhanh chóng hơn. 2.4.2.- Xây nhà thờ: Nguyễn Trường Tộ xây được hai cái nhà thờ. Một là xây Nhà Chung Xã Đoài. Hai, xây tu viện Phao Lồ ở Sài Gòn. Lúc nầy có phần khác, nhưng thời buổi Pháp chiếm Việt Nam, có thể nói đây là hai nơi trú ẩn cho bọn gián điệp để xâm lăng Việt Nam. Một trong những người trú ngụ tại Nhà Chung Xã Đoài do Nguyễn Trường Tộ xây cất là Giám Mục Ngô Gia Hậu tức là Gauthier (người Pháp), thầy của Nguyễn Trường Tộ, là người luôn luôn sát cánh với Nguyễn Trường Tộ trong tất cả các việc làm, ngay cả có thể (?) sát cánh trong việc viết 58 Di Thảo nầy. Chúng ta có thể khẳng định rằng Giám mục Gauthier (tên Việt Nam: Ngô Gia Hậu) là một tên gián điệp qua phần thảo luận và dẫn chứng sau đây. 2.4.3.- Trường kỹ thuật: Theo tờ trình của Giám mục Gauthier đề tháng 3, 1868 nạp cho triều đình Tự Đức chúng ta thấy có nhiều máy dụng cụ, sách, tự điển v.v... cũng như phí tổn các thứ ấy mua từ Pháp về do phái bộ Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ thực hiện để mở trường kỹ thuật. Tờ tấu của Cơ Mật Viện ngày 4-3-1868, gồm có 7 đại thần đề nghị nhà vua nên ban thưởng cho cả phái bộ và 4 thầy dạy học mà Gauthier và Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức nhờ đi mướn từ Pháp về. Trong 4 thầy có 3 vị là linh mục người Pháp. Bảy đại thần nói trên gồm có: Nguyễn Tri Phương, Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình, Trần Tiển Thành, Nguyễn Văn Phong, Phan Huy Vịnh và Phạm Phú Thứ. Vua Tự Đức đồng ý lời đề nghị của các đại thần, sai ban thưởng rất hậu. Điều đó chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn rất muốn canh tân. Nhưng công việc không thành mà chúng ta sẽ thấy lý do ở đoạn sau. Tóm lược các máy móc và dụng cụ mua từ Pháp và lộc vua ban thưởng: a.- Máy và dụng cụ: Sách nói về quặng sắt, về địa chất, về mỏ than, về bách nghệ cơ xảo, về quặng đồng, thước tam giác, bản đồ địa lý, địa chất, hai bộ thủy thư, một bộ kỷ hạn nghi (dùng đo vĩ độ...). Sách thiên văn, sách về chính trị nước Pháp, nhiều loại thước và tự điển tiếng Pháp. Cọng chung tốn hết 1.266 quan. Tiền mua một số dụng cụ khác chưa đem về được. Phí tổn: 1.055 quan. Tiền ăn ở của hai phái viên của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier cọng với tiền chuyên chở khuân vác và đóng thùng: 2.799,148 quan. Tổng cọng cả ba khoản trên là: 5.120,148 quan. (Lược trích trong TBC, SĐD, trang 467 & 468). b.- Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức. Kê khai: - Xin xét cấp cho Ngô Gia Hậu các vật hạng như sau: Một tấm Ngũ phúc kim tiền nặng 5 đồng cân (có tua). Mười tấm Ngân tiền (Hạng Song Long: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Triệu dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, Tam thọ mỗi thứ một tấm), cọng lại nặng ba lượng, năm đồng cân, năm phân. Một cuộn tố đoạn bằng năm loại tơ màu đen để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa bóng màu lục để lót trong). Một xấp huyền lương sa Bửu lam nam hoa. Một xấp sa có vân Nam tố tuyết bạch Một xấp lụa Tuyết bạch. - Xin xét cấp cho Nguyễn Trường Tộ các vật hạng như sau: Một tấm Tứ mỹ kim tiền nặng bốn đồng cân (có tua). Năm tấm ngân tiền (Hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm), cọng lại nặng một lượng năm đồng cân năm phân. Một cuộn tơ lông màu lam để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa màu xanh để lót trong). Một xấp lương sa Bửu lam nam tố. Một xấp trừu Tuyết bạch nam hoa. Một xấp lụa Tuyết bạch. - Xin xét cấp cho ba tên: Đạo trưởng tên Điều, đạo đồ tên Hoằng và tên Vị như sau: Nhị thắng kim tiền mỗi tên một tấm, mỗi tấm nặng hai đồng cân (có tua). Ngân tiền mỗi tên bốn tấm (hạng sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm, hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm) mỗi phần cọng lại nặng một lượng ba đồng cân năm phân. Nam tố lương sa màu đen, mỗi tên một xấp. Tơ lông màu lam (Châu phê: Hoặc màu đen huyền cũng được) mỗi tên một đoạn (thành một cái áo tay chật, có một đoạn lụa xanh lót trong). Lụa Bạch tuyết mỗi tên một xấp. Một xấp vải tây dày mịn Bạch tuyết hạng nhì (Chia làm ba mỗi tên một đoạn). - Xin xét cấp cho ba tên linh mục giáo sĩ: Tam thọ kim tiền mỗi tên một tấm (Châu phê: Cấp cho tên Ca Xanh ba tấm ngân tiền nầy. Châu phê: Cấp cho ba người ngân tiền hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm) mỗi tấm nặng ba đồng cân (có tua). - Xin xét cấp cho bọn tùy tùng của Ngô Gia Hậu bốn tên, mỗi tên một tấm Long văn ngân tiền hạng nhỏ (mỗi tấm nặng ba đồng cân). (Tờ tấu của Cơ Mật Viện triều Tự Đức ngày 4-3-1868, TBC, SĐD, trang 459-460). Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài dòng để thấy, triều đình Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và tòa Giám mục Huế, theo thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868 (TBC, SĐD, trang 50). Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (SĐD trang 52) ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier gởi thư cho bộ truyền giáo có đoạn như sau: Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ nầy... Trong các quan thượng thư có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua. Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận vì thế mà trường không mở được. Theo tôi lý do nầy không đúng. Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4-3-1868 mà chúng ta đã thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị nầy có ý cản trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy. Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho bộ truyền giáo, đề ngày 31-3-1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng cho phái bộ Gauthier.... Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình. Hơn nữa Trần Tiển Thành mới là nhân vật chính trong Triều (chức phụ chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng Bình. Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn thư gởi cho bộ truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói. Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai ông nầy thì lừa dối triều đình có hậu ý: kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số bằng chứng. a.- Thầy giáo không có khả năng: Trong việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23-2-1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị nầy không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn: Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - LM. Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại. - Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng. (TBC, SĐD, trang 49 & 50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý. b.- Giám mục tình báo: Giám mục Sohier, nhất là Giám mục Gauthier, thầy đỡ đầu và sát cánh với Nguyễn Trường Tộ là một tên gián điệp phục vụ cho quyền lợi của Pháp chứ đâu có tấm lòng muốn giúp triều đình Tự Đức mở trường để canh tân xứ sở, mà bảo giám mục không lừa dối triều đình. Thật vậy, nếu kể theo thứ tự thời gian, chúng ta thấy rằng Giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ đến chào mừng quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858. Và năm 1861, theo lời yêu cầu của phó Đô đốc Charner, thầy trò Gauthier về Sài Gòn, để mở rộng vùng chiếm đóng. Quý độc giả sẽ thấy sử liệu ở Chương 2, bản Điều Trần số 17 Dùng Giám Mục, Linh Mục Vào Việc Canh Tân(trang 163). Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Trong chiều hướng nầy, một người Gia Tô cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15-1-1864. Theo hiệp ước nầy, ba tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh nầy, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, ba hải cảng Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam... Theo hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Việt Nam đâu (CHT. SĐD, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước. b1.- Gauthier theo phe Aubaret: Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách nầy hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại ba tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn ba tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham Mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vở hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài gòn. Nguyên văn tiếng Pháp: Le traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans, mais au vrai point de vue politique et dans les intérêts de notre Mission, la reddition des trois provinces pour de l'argent était une absurdité révoltante... Il s'agit maintenant de prendre les trois autres provinces méridionales: c'est l'intention du gouvernement et de tout notre État-Major, mais il faudrait pour cela une raison plausible, car il faut bien observer la justice et ne sais si, depuis le traité conclu avec M. Bonard, les Annamites ont donné lieu obstensiblement à une rupture du traité; car il n'est pas évident que la Cour de Huế n'en ait pas observé les conditions, malgré beaucoup d'infractions locales, qu'elle peut rejecter sur les populations et les mandarins, naturellement peu disposés à accepter aucun traité avec une puissance étrangère, surtout au Tonkin. Vous avez du voir Mgr. Sohier, qui s'est fait aussi le partisan de M. Aubaret, mais dans un autre ordre d'idées que moi. M. Aubaret est retourné à Siam, tout confus de son échec diplomatique, que je lui avais fait entrevois lors de son passage à Saigòn”. (Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27-9-1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal. (Dẫn theo CHT, SĐD, trang 181). b2. Gauthier được mời họp mật: Năm 1872 tàu Bouragne chở trung tá hải quân Senez ra Bắc kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez nầy: ... Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo. Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi Vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không. Nguyên văn tiếng Pháp: ... Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village. Nous passâmes la journée au milieu de cette population chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers 4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer avec nous. Il confirme ce que nous avions déjà appris le matin par l'indiscrétion des envoyés du Département: c'est que l'insurrection s'étendait de plus en plus et que des provinces de Lạng Sơn, Cao Bang, Thai Nguyen, Tuyen Quang, elle avait gagné celles de Sơn Tay, Bac Ninh, Quang Yen, Hai Dương et que les insurgés, rebelles ou pirates commettaient les plus grande atrocitées. Le curé de Phat Diem confirma ces renseignements à l'exception cependant de la légitimité du prétendant et de sa religion, sur lesquelles circulent des versions contradictoires. Mais le fait certain est qu'à la tête de cette insurrection existe un prétendant légitime ou illégitime à la couronne du Tonkin...” (Rapport sur le voyage du Bourayne de Saigon au Nord du Tonquin, par le Commandant Senez, 16-2-1872, Archives du ministère de la Marine, BB4. 964 CHT, SĐD, trang 242-243). b3.- Giám mục Gauthier viết: triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi. Trong thư đề ngày 12-2-1873, 19-2-1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết: Cuộc chiến nầy làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc(dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác. (Tức là Giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc kỳ mà phải chiếm nhanh, BK). Nguyên văn tiếng Pháp: Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de la population, écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de la cour de Huế et de ses madarins - que ces gens n'entendront jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout le reste. (Mgr. Gauthier à Dupré, 12-2-1873, et 19-2-1873, CHT, SĐD, trang 250). b4.- Gauthier muốn có một chính phủ Gia Tô tại Bắc Kỳ. Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh. Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nỗi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó. Nguyên văn tiếng Pháp: Par ces exagérations, les missionnaires s'efforcaient d'entrainer les chefs militaires francais dans des expéditions, convaincus qu'une fois que les hostilités recommencaient, les Francais seraient fatalement pris dans l'engrenage de la guerre. “Mrg. Gauthier et Mgr Puginier, celui-ci surtout, je le crois, ne peureusement supporter l'idée d'une solution pacifique de la question: cette solution est la ruine des espérances qu'ils nourrissaient de voir créer au Tonkin un gouvernement particulier, lequel serait un gouvernement catholique. Les chrétiens exagèrent encore ces idées et poussent leurs prêtres et leurs pasteurs pour amener une nouvelle rupture entre les deux gouvernements... Toute la journée, nous recevons rapports sur rapports et demandes d'expédition dans ces provinces”. (Philastre à Dupré, dépêche du 15-1-1874 précitée. CHT, SĐD, trang 306). b5.- Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Gia Tô tại Bắc Kỳ? Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Gia Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Gia Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta: Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳø trở thành Gia Tô, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ... Giám mục Puginier viết tiếp: Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Gia Tô, nghĩa là trở thành người Pháp hết. Nguyên văn tiếng Pháp: J'affirme que du moment où le Tonkin deviendra chrétien, il deviendra aussi la petite France de l'Extrême-Orient, absolument comme les iles Philippines sont une petite Espagne...”. “Si le gouvernement comprenant les intérêts de la France, à leur vrai point de vue, nous favorisait d'une facon réelle quoique un peu voilée pour éviter de choquer l'opinion, j'affirme que dans ma mission nous pourrions, chaque année, gagner à la France environ vingt mille amis en les faisant chrétiens sans la moindre pression. Cette proportion irait certainement en augmentant tous les ans, et il y a fortes raisons d'espérer que d'ici à trente ans, à peu près tout le Tonkin serait chrétien, c'est-à- dire Francais. (Lettre de Mgr. Puginier au ministre de la Marine et des Colonies, 6-5-1887. Archives du ministère de la F.O.M., AOO (30) ou N.F.541, CHT, SĐD, p. 421 & 422). Tất cả các giám mục linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, Giám mục Puginier được xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế. Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (Từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ. Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương nầy cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa ngày 30-12- 1874 cho chúng ta thấy điều đó: Dupré viết: Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo rằng hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An -Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn nầy để lại mà chúng ta phải gánh chịu. Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến: Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục nầy. Nguyên văn tiếng Pháp: Mgr. Puginier avait beau venir en personne à Saigon pour discuter directement avec Dupré, celui-ci restait ferme dans sa position de non-ingérence dans les affaires intérieures du Tonkin. “Les conversations que j'ai eues avec ce prélat avant son départ de Saigon, écrivait Dupré à son ministre, n'ont pas modifié ma conviction: Je maintiens donc les observations que je me suis permis de vous présenter, quelque pénible qu'il soit de conseiller l'abandon d'une cause qui éveille en France nombreuses sympathies, et l'adoption d'une ligne de conduite que condamneront ceux pour lesquels M. Garnier est un héros, et qui ignorent les difficultés la situation que nous a léguée ce malheureux officier”. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 30-12-1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT. SĐD, trang 366). Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré: Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26-7-1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, SĐD, trang 367). Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi Mở Trường Kỹ Thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Do đó, nên nói: Việc Mở Trường Kỹ Thuật không bao giờ có chứ không phải vì thế mà thất bại. Giả sử triều vua Tự Đức, hoặc ai đó, có điều kiện để Mở Trường Kỹ Thuật nhằm Canh Tân Xứ Sở cho dân giàu nước mạnh thì chính Gauthier và Nguyễn Trường Tộ là hai người sẽ đập phá trước hết vì nếu Việt Nam được giàu mạnh thì kế hoạch muốn đồng hóa và biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ để dễ cai trị của Gauthier bị thất bại sao? Tôi hy vọng Linh mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học và độc giả sẽ đồng ý sự nhận xét của tôi qua các sử liệu chính xác đã trích dẫn? Và qua đó chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không thà mất Vatican của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Thương lượng với Giám mục Croc v.v... Vài ý kiến ngắn gọn: * Tội nghiệp cho vua quan nhà Nguyễn, không có cơ quan tình báo gì cả. Nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con. * Giám mục Gauthier, người mà Nguyễn Trường Tộ đã mang ơn dìu dắt, việc đi đứng nằm ngồi, ăn ở bên cạnh nhau hơn mười năm. Có thật Nguyễn Trường Tộ không biết kế hoạch hỗ trợ cuộc xâm lăng Việt Nam của thầy mình? Ít nhất là trước lúc Nguyễn Truờng Tộ chết. Kế hoạch mở trường dĩ nhiên là không thể xảy ra, và đó cũng là một điều tốt để thầy trò Nguyễn Trường Tộ ít có cơ hội tới lui triều đình vua Tự Đức với mục đích thu thập tin tức cho quân đội viễn chinh Pháp. 2.5.- Điều thứ tám trong 8 điều Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải làm gấp là lập Viện Dục Anh và Trại Tế Bần. Nguyễn Trường Tộ dẫn điển tích vua Nghiêu vua Thuấn nhờ giúp đỡ hạng người nghèo khổ, người cô độc nên được thiên hạ ca tụng là người đạo đức. Cách trình bày của Nguyễn Trường Tộ rất hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi. Nhưng cái dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong đề nghị nầy là gì? Trả lời: Nếu triều đình cho rằng việc nầy nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. (Tế Cấp Bát Điều, TBC, SĐD, trang 276). Kết quả được những gì? Xin mời độc giả xem phần Nhận Xét dưới đây: Nếu đứng ở vị trí lịch sử đất nước Việt Nam ngày nay để xét, thì các hội từ thiện có người phương Tây nhúng tay vào không có nhiều âm mưu (trồng người) như thời Nguyễn Trường Tộ, vì thời đó Việt Nam bị Pháp đô hộ, không có chủ quyền. Người nước ngoài ngay cả thường dân họ cũng được Trị ngoại pháp quyền, chính phủ Việt Nam không có quyền xét xử, lúc họ vi phạm luật pháp. Còn các linh mục giám mục lại có quyền đặc biệt hơn nữa. Nhất là núp dưới chiếc áo chùng thâm và viện dẫn lý do tôn giáo để bắt chẹt triều đình vua Việt Nam, mà chúng ta đã thấy các linh mục giám mục ngoại quốc đến Việt Nam với các nhiệm vụ tình báo, và muốn biến Việt Nam trở thành một nước Pháp với linh hồn Vatican như đã trình bày ở đoạn trước. Ngay cả Linh mục Việt Nam như Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trương Vĩnh Ký cũng là những kẻ bồi Tây mà lịch sử đã cho thấy. Do đó, nếu mỗi tỉnh có một Viện Dục Anh do các giám mục người Tây phương điều khiển (hay cử người điều khiển cũng thế) sẽ tạo nên một màng lưới gián điệp toàn cõi Việt Nam. Và lúc đó thì kế hoạch đồng hóa của Puginier và của Gauthier thầy của Nguyễn Trường Tộ rất dễ đạt được kết quả, và vấn đề Pháp hóa người Việt cũng sẽ được rút ngắn thời gian. Đó là chưa kể tình trạng các linh mục giám mục hay bà sơ điều khiển các Viện Dục Anh (viện mồ côi, nhà giữ trẻ) nầy dựa vào thế lực của Pháp để phản loạn qua hai dẫn chứng dưới đây: Thí dụ 1: Vụ Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh mục và dựa thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân Hòa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng đang tranh chấp. Vài ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật lại lúa hiện đang chứa ở đình; bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (Xin xem luận án của Cao Huy Thuần, bản dịch tiếng Việt Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam. Hương Quê xuất bản, Hoa Kỳ, 1988, trang 325). Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi hoặc bằng gậy vì có lỗi nhưng ông được sự che chở của Pháp. Do đó: Sự vụ kéo dài ba năm. Cuối cùng được kết thúc bằng sự nhượng bộ triều đình Huế do áp lực của các văn thư hăm dọa của soái phủ Saigòn cương quyết đòi Một linh mục không bao giờ có thể bị đánh bằng gậy, dù như là phương pháp tra hỏi, hoặc như hình phạt chính hay phụ. (CHT, SĐD, trang 330). Thí dụ 2: Thiên Tân giáo án Năm 1869 một số bà sơ người Pháp lập một Cô Nhi Viện cạnh nhà thờ tại Thiên Tân Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi giao cho Cô Nhi Viện của người nước ngoài. Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho những ai đem trẻ em đến. Hành động nầy làm cho dân chúng nghi là có việc mua bán trẻ con. Ngày 21-6-1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến Cô Nhi Viện để đối chất cho rõ sự tình. Sự việc chỉ có thế, nhưng viên lãnh sự Pháp tại Thiên Tân là Henri Fontanier cùng với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại thần Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng dọa nạt và hạch sách Sùng Hậu. Trên đường về, bọn Fontanier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một người tùy tùng của viên tri huyện chết. Đám quần chúng uất hận không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp. Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên hiệp với nhau đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đình nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi thường tiền cho nước Pháp, cách chức và giáng viên tri phủ và tri huyện Thiên Tân xuống làm lính, đồng thời phạt 20 người và phải xử tử 20 người Hoa khác để làm vừa lòng Pháp và các nước. (Theo The New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973 - 1974. Cuốn 7, trang 770. Đây là cuốn Bách Khoa Đại Tự Điển bằng chữ Nho, nên tôi chỉ nhờ người quen lược dịch nhưng không viết nguyên văn vào đây được. Trong cuốn Tăng Quốc Phiên Trí Mưu Toàn Thư, quyển hạ, chương Thanh Sử Cảo, Quyển 40, Quốc Phiên Truyện, trang 1016 cũng tường thuật vụ Thiên Tân nói trên, nhưng số người bị xử tử là 17 người thay vì 20 như trong cuốn Bách Khoa Đại Tự Điển. Vụ Cô Nhi Viện Thiên Tân chỉ có giản dị như thế, quan địa phương Trung Hoa có quyền đến Cô Nhi Viện để điều tra cho rõ thực hư về tin đồn mua bán trẻ con, là một việc làm cần thiết không có gì sai trái cả. Còn việc quần chúng uất hận đánh chết người là ngoài ý muốn chứ không phải triều đình nhà Thanh chủ trương. Nhưng qua đó, chúng ta thấy số phận của một quốc gia mất chủ quyền, và cũng thấy thế của kẻ mạnh lúc nào cũng đúng cả! Hai dẫn chứng cho thấy, hoặc vô tình hay cố ý, nhà thông thái Nguyễn Trường Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do Giám Mục tình báo Gauthier cử người điều khiển, là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm. Không những tạo thế hợp pháp cho các giáo sĩ nước ngoài, mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc để cho Pháp và Vatican dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta. Song song với sự tai hại trên, các nhà nuôi trẻ cũng là kế hoạch trồng người, một mặt thì cải đạo con người từ nhỏ và mặt khác là để chọn người tu. Hậu ý của Nguyễn Trường Tộ sau bức màn của bản Điều Trần nầy là gì? Ông đi vòng vo tam quốc giả vờ đề nghị chỉnh trang cái nầy, cải cách cái nọ, giọng văn nhiều chỗ trông có vẻ thành khẩn giống như có lòng yêu Tổ Quốc thực sự. Nhưng chủ tâm không phải cái đó, mà thâm ý là đề nghị triều đình mời hoặc bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục, để thực hiện chương trình Gia Tô Giáo và Pháp hóa đất Việt theo kế hoạch của Puginier và của Gauthier (thầy và cố vấn của Nguyễn Trường Tộ). Kế hoạch nầy núp dưới chiêu bài Viện Dục Anh và Trại Tế Bần. Nguyễn Trường Tộ lại bồi thêm một nhát dao chí tử khác vào cơn bệnh trầm kha của triều đình bằng cách, đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương vào kinh đô Huế để phu dân phục vụ khổ cực thì sẽ có một Loạn Chày Vôi khác chống lại triều đình. Kế hoạch ba mặt giáp công vua quan Việt Nam làm sao chống đỡ nổi: Bên ngoài Pháp đánh vào, bên trong phu đào kênh đánh ra. Tại các tỉnh, linh mục giám mục hô hào con chiên nổi dậy chiếm các công sở, xử dụng khí giới tối tân của thực dân mặc sức tha hồ cướp của giết người. Đây là trọng tâm chính của bản Điều Trần Tám Điều Lợi Cần Làm Gấp của Nguyễn Trường Tộ. Tóm lược vài điểm chính của Phần Hai qua ba bản Điều Trần quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ. 1.- Nguyễn Trường Tộ trốn ra nước ngoài: vì sợ triều đình vua Việt Nam trị tội. Lý do là ông cùng nhiều giám mục, linh mục ngoại quốc đến ủng hộ cuộc đổ bộ của Pháp chiếm Đà Nẵng. Quí độc giả sẽ thấy rõ thêm chi tiết trong phần sau của bài nầy. 2.- Qua sử liệu chúng ta đã thấy ngay từ đầu, nếu quân dân Việt Nam đánh mạnh, thì không những Pháp rút khỏi Đà Nẵng mà ngay cả ba tỉnh bị chiếm tại Nam Kỳ.* Trong lúc đó Nguyễn Trường Tộ viết Điều Trần khuyên quân dân Việt Nam Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa... Huống hồ nước Việt Nam là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời. Là một đề nghị để quân Pháp có thì giờ dưỡng sức mà chiếm các tỉnh khác. 3.- Năm 1863 Nguyễn Trường Tộ viết, người Pháp chỉ xin ta cắt cho một vài chỗ, họ không có ý đi cướp nước, nếu yêu sách thoả mãn họ sẽ chấm dứt. Mặc dầu vua Tự Đức đã thỏa mãn những gì Pháp đòi hỏi, nhưng năm 1867 Pháp cướp trọn cả xứ Nam Kỳ và năm 1873 cướp luôn Bắc Kỳ. 4.- Nguyễn Trường Tộ nêu câu hỏi tại sao giết giáo sĩ. Chúng ta đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy, các giáo sĩ nướùc ngoài đến Việt Nam đã được Giáo Hoàng La Mã khuyến khích và đồng ý với các kế hoạch hỗ trợ chính phủ Pháp xâm chiếm và đồng hóa dân tộc ta. Đến nỗi Đô đốc Genouilly cũng lên án rằng không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Gia Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự và quân sự không được và không phải thuộc quyền hạn của các giáo sĩ. 5.- Trong bản Điều Trần Lục Lợi Từ (Sáu Điều Lợi cần làm), Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng sai sử liệu với hậu ý là khuyên người Việt Nam hợp tác với Pháp và nhờ Giáo hoàng La Mã giúp đỡ. Nhưng qua sử liệu chúng ta đã chứng minh rằng một giải pháp hợp tác chỉ có lợi cho Pháp và nhờ Giáo hoàng La Mã giúp thì cũng giống như khuyên cha mẹ gởi con vào chuồng cọp mà thôi. Do đó, Sáu Điều Lợi của Nguyễn Trường Tộ đề nghị sẽ trở thành Sáu Điều Hại rất nguy hiểm cho quốc gia. 6.- Bản Điều Trần Tế Cấp Bát Điều (Tám điều cần phải làm gấp). Nguyễn Trường Tộ cổ vỏ cải đổi võ bị, thu hợp các tỉnh nhỏ, điều chỉnh các thứ thuế, đo đạc ruộng đất, thống kê dân số, học thực dụng, âu hóa khoa học kỹ thuật và mở Viện Dục Anh ở mỗi tỉnh. a.- Nhưng về binh pháp thì Nguyễn Trường Tộ không có sáng kiến gì mới, không có gì gọi là âu hóa mà hầu hết là lấy ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Các vấn đề thuế, đo lại ruộng đất và kiểm kê dân số, thì thời Gia Long (từ năm 1802) đã làm rồi. b.- Nguyễn Trường Tộ, Giám mục Sohier (địa phận Huế) và Giám mục Gauthier (địa phận Bùi Chu Phát Diệm) đã dối gạt vua quan triều Tự Đức trong việc mở trường kỹ thuật và huấn nghệ tại Huế, năm 1868. Chúng ta cũng đã thấy những chứng liệu không chối cãi được rằng, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, là một tên tình báo nguy hiểm. c.- Nguyễn Trường Tộ đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế là một việc làm rất tai hại vì toàn dân sẽ nổi loạn chống triều đình, và Pháp sẽ thừa cơ hội để chiếm toàn cõi Việt Nam cho chóng dứt điểm. d.- Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị mỗi tỉnh lập một Viện Dục Anh và Trại Tế Bần do giám mục chỉ định người coi sóc. Chương trình nầy sẽ giúp cho Gia Tô hóa và Pháp hóa đất nước một cách nhanh hơn. Ngắn gọn, ba bản Điều Trần mà chúng ta vừa nhận xét, là cốt tủy tư tưởng chính của Nguyễn Trường Tộ và rất được nhiều người trích dẫn từng đoạn nhỏ rồi ráp lại với nhau: mà ca tụng ông ta là Một nhà canh tân vĩ đại của đất nước vào hậu bán thế kỷ thứ 19. Nhưng nếu lồng các đề nghị của ông vào bối cảnh lịch sử quốc tế, quốc nội thời bấy giờ chúng ta đã thấy: Ông và các bản Điều Trần của ông chỉ là công cụ của một chiến lược xâm lăng, nhằm hỗ trợ cho Pháp và Vatican dễ dàng xâm chiếm nước ta. Một trong những kẻ Lưng mềm dễ uốn, chạy theo chủ mới là Nguyễn Trường Tộ, lúc đầu ông làm phiên dịch cho Tây Soái sau đó ông viết những bản Điều Trần, đưa ra những nhận định sai lầm về lịch sử cùng những đề nghị hoặc không tưởng hoặc có lợi cho Pháp và Vatican trong kế hoạch sớm kết thúc cuộc chiếm đóng, và thực hiện nhanh chương trình đồng hóa dân tộc ta . Phần tiếp theo sẽ bàn về ý kiến của Nguyễn Trường Tộ trong lãnh vực tôn giáo.
-
Tuvilyso.com khác với Diễn đàn Lý học Đông phương, và các thành viên cũng rất khác nhau! Cho nên, với suy nghĩ các nhân, hãy cứ để mọi người tham gia là một sự hợp lý và thỏa mãn các vấn đề. Trân trọng.
- 13 trả lời
-
Tử vi là bộ môn khái quát hóa mọi thứ trong cuộc đời của 1 người trải qua các giai đoạn sống, tương tác của bộ môn này vượt ra khỏi hệ mặt trời, xác xuất chính xác rất cao. Tuy nhiên, nó cũng chính là các dữ liệu để chuyển hóa định mệnh nếu biết sử dụng, tất nhiên khi chuyển hóa thì dùng thêm các bộ môn khác như phong thủy, đông y, khí công, Phật pháp... Nếu xét trận động đất ở Nepal vừa qua có trên 7.000 người chết với trên 7.000 lá số khác nhau thì sao? Hay 2.000.000 người chết đói năm 1945 tại Việt Nam thì thế nào? Đây là tương tác rất lớn từ vũ trụ ảnh hưởng đến một vùng, quốc gia và thậm chí cả trái đất, không còn thuộc phạm vi cá nhân nữa. Do vậy, còn tùy cấp độ ảnh hưởng chứ không đơn thuần tự cho là quyết định của mỗi cá nhân. Chẳng hạn, khi thấy chiến tranh quốc gia xảy ra thì biết rằng tương tác xấu rất lớn đang tới!
- 13 trả lời
-
Thật lạ lùng. Trong Đông y có một bài phú về Hậu Thiên Bát Quái - Lạc thư có nói về cung Khôn độ số 2, cung Tốn độ số 4 liên quan đến Bát huyệt chính yếu trong Linh quy bát pháp như sau: Khảm nhất liên Thân mạch Chiếu hải Khôn nhị, ngũ Chấn tam thuộc Ngoại quan Tốn tứ Lâm chú số Kiền lục thị Công tôn Đoài thất Hậu khê phủ (Ly chứ không phải Đoài) Cấn bát hệ Nội quan Ly cửu Liệt khuyết chủ (Đoài chứ không phải Ly) Nếu sử dụng Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ và đổi một số tên cung như trên mới chính vị.
-
Ngoài phương pháp xác định trái đất có sự sống là duy nhất ở trên thì còn một phương pháp khác nằm ngoài giới hạn nhận biết trực quan của loài người, đó là đạt trạng thái "chí tịnh" như nội dung dẫn giải ở trên: Đàn HÀ THANH Tuất thời 10.06.AL.86 TRU TIÊN TRẬN – TIÊN KỴ THÚ HÀ THANH CHƯỞNG GIÁO Lúc này, các bậc thầy đắc đạo sẽ nhận biết được sự tồn tại của sự sống ở bất kỳ nơi nào trong vũ trụ. Điều này có thể hiểu một ví dụ như là hai tấm gương đối diện nhau, một bông hoa ở giữa hai tấm gương sẽ phản chiếu thành trùng trùng hình ảnh của bông hoa đó, cho dù chỉ có một mình nó mà thôi. Chứ không phải: "trời trong xanh, mây quang đãng, tầm nhìn xa trên 10km...". Hoa sen như là một biểu tượng của vũ trụ
-
Mặc dù việc nhận biết con người là phức tạp nhất trong các sự vật hiện tượng trong vũ trụ, tuy nhiên do đặc tính vô cùng vô tận mà chúng ta chưa thể xác định trước đó đã có một quả đất khác hay ngay sau quả đất của chúng ta thì sự sống đã có từ một nơi nào đó tương tự. Khi hồng hạc bay về Để giải bài toán vô cùng vô tận này cần sử dụng hai ý và áp dụng toán học cao cấp: - Trái đất hay hệ mặt trời là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành. Vũ trụ được cấu trúc từ nhiều tổ hợp chồng chất lên nhau. - Từ trên, xác định mức độ điều kiện nảy sinh ra sự sống trên trái đất hay trong một hệ mặt trời. Dùng bài toán giới hạn toán học cao cấp về điều kiện tồn tại của sự sống trong các tổ hợp thì kết quả sẽ tiệm cận "0". Do vậy: - Sự sống trên trái đất là duy nhất. - Vũ trụ đang trong giai đoạn phân rã.
-
Đàn HÀ THANH Tuất thời 10.06.AL.86 TRU TIÊN TRẬN – TIÊN KỴ THÚ HÀ THANH CHƯỞNG GIÁO Thầy mừng các con – Thầy miễn phép, các con an tọa. THI Lòng quyết dặn lòng lo giải thoát Chớ nên chậm bước trễ con đò Kỳ Tam Ân Xá con ôi ráng! Trễ Hội nguyên này khó nỗi lo… Hồng trần cõi tạm - sanh ký tử quy Người trí mau thức tỉnh trần mê Tìm Chánh Đạo quay về vị cũ Nhứt thất nhơn thân nan tái phục Một kiếp làm người khó lắm thay! Kỳ Ba Ân Xá Ai kẻ hữu duyên Gặp Đạo Chánh Truyền Thức Tánh Tầm Nguyên Nương Bát Nhã Thuyền Phản Hồi Cựu Vị Biết được Đạo rồi phải toan phấn chí, nỗ lực bình sanh mà hạ thủ công phu, chớ khá chần chờ! Ráng một kiếp này cho đoạt kỳ công quả Tiên Thiên trở lại Ngọc Bảng Danh Đề, thoát khỏi sông mê mà trở về cùng Mẹ – Cha sum vầy hội hiệp. Muốn biết Vũ Trụ trước phải biết mình, bởi Nhơn Thể chính là Thiên Cơ, là bộ máy Trời nho nhỏ thu gọn nơi mình, tất cả huyền bí đều ẩn chứa bên trong. Hồi Quan Phản Chiếu Tâm Mình sẽ thấy rõ Bản Nguyên Hoàn Vũ. Người có đủ tất cả cũng như Trời, thân ta là một Pho Kinh đủ đầy tất cả. Muôn Kinh ngàn quyển đều tự nơi Tâm Thiên Bang Vạn Pháp đều bởi nơi Tâm Hiểu được cái Tâm là Suốt Thông Vạn Lý Quy Vạn Pháp trở về Nhất Pháp. Khoa học cũng là Đạo Pháp, Đạo sanh ra Pháp, Pháp là Khoa học, là trình độ tư duy, là sự phát minh của con người. Khoa học đã hiểu Vũ Trụ một phần nào, nhưng chỉ hiểu qua phần tướng thể, là cái thế giới hiện tượng bên ngoài, cũng chưa thấu rõ nguyên lai của Vũ Trụ do đâu mà có. Sự cấu tạo hình thành các hiện tượng cũng như kiếp tử sanh của con người là bởi do đâu? Tại sao Thành rồi Hoại, Hiệp rồi Tan?! Khoa học đã đạt đến trình độ cao, những tưởng là mình đã chinh phục được Vũ Trụ, làm chủ Không Gian, nhưng nào đã chinh phục được gì, hiểu được bao xa? Tầm kiến thức ấy cũng chỉ là hạn hẹp, khoa học chưa hiểu nổi Hồn là gì? Sự sống bởi đâu? Tai họa là ở chỗ sự tiến bộ về mặt Tâm Linh Đạo Đức của Nhân Loại không theo kịp đà phát triển của Khoa học vật chất, nó đã lôi kéo con người vào những cuộc chạy đua tranh tài cao thấp. Sự xuất hiện của Vũ Khí Nguyên Tử là một dấu hiệu sắp đưa con người vào vực thẳm, đến chỗ diệt vong. Đó là báo hiệu cái điềm Tận Diệt của thế gian mà con người rồi đây không phương tránh khỏi. Nhưng may mắn thay! Trong nẻo Chết Đức Thượng Đế Phụ Hoàng lại mở khai Sinh Lộ, gieo mối Đạo Vàng tại cõi Trời Nam Linh San Phúc Địa, được hưởng Chân Chủng Bồ Đề, cứu vớt một số Linh Căn, lập lại đời Thượng Đức. Các môn đồ đệ tử một khi đã liễu ngộ tâm nguyện, đã đạt được thần thông chí diệu, đã rõ các pháp nhiệm của Vô Cực Đồ thì sẽ không còn bi quan nữa, bởi vì Đạo Pháp là Vô Cùng, Pháp Môn là Vô Thượng, Đạo là trên tất cả. Khoa học đã tính được vận tốc của ánh sáng là 300.000 km/s, và không còn vận tốc nào cao hơn nữa. Nhưng Khoa học không biết là vận tốc Chơn Tịnh Điển còn cao siêu hơn nữa. Chơn Tịnh Điển là Điển trong Vô Cực, cũng như Chơn Tịnh Quang là ánh sáng của Đạo Quang, là cái sáng Vô Cực, vận tốc ấy là Huyền Đồng Vũ Trụ, cũng như Chơn Tịnh Điển là không lệ thuộc thời gian, không gian mà là Nhứt Khắc, Nhứt Cảm, Nhứt Ứng. Cái Thần Thông của Tiên Phật ở trong Vô Cực là Huyền Nhiệm như thế. Người tu đạt đến chỗ thần thông chí diệu rồi thì không còn gì ngăn ngại, ngờ vực, thắc mắc. Một khi Tâm Linh Giới đã được khai thông, đã Huyền Đồng cùng Vô Cực thì những cái tiến của Khoa Học chỉ là cái tiến của Rùa bò, không đáng là gì cả. Rồi đây ở đời Thượng Đức sẽ có những nhà bác học xuất thân từ cửa Đạo, suốt thông Đạo Pháp, sẽ làm cho thế giới biết rõ Đạo mầu. Chừng đó Khoa Học của thế gian sẽ phải cúi đầu mà chịu phép. Thầy giảng về sợi dây phép “ Khổn Tiên Thằng”. Đời thường nói: “ Thê Thằng Tử Phược”, ấy là sợi dây tình ái mới là “ Khổn Tiên Thằng”, sợi dây ấy mới trói được Tiên, làm cho Tiên phải khốn đốn. Kìa như Khương Tử Nha là bực Đại La Thiên Tiên có Sắc Chỉ Ngọc Hư Cung phò tá Võ Vương Hưng Châu Phạt Trụ, có sứ mạng thay quyền Giáo Chủ chấp chưởng Phong Thần, nhưng vì còn vướng nghiệp trần nên một lúc bị Khổn Tiên Thằng trói ngã. Khổn Tiên Thằng là sợi dây oan trái buộc ràng người thế cũng như kẻ tu hành, nếu không có Chí Đại Hùng không phương thoát khỏi, không có Gươm Trí Huệ thì không đoạn dứt được sợi dây oan nghiệt. Dây Khổn Tiên đã trói ai rồi thì sức phàm không phương tháo gỡ, vì không thấy được đầu mối của nó thì làm sao gỡ cho ra! Chỉ có bực Giáo Chủ mới có đủ thần thông để giải tỏa. Theo Thầy thì sợi dây ấy là Tà Pháp, là Yêu Pháp chứ chẳng phải Bửu Pháp của Ngọc Hư Cung. Các trẻ tu hành coi chừng mà tránh dây ấy, đừng để nó trói buộc thì không phương vùng vẫy. Ôi! Khó lắm thay! Ai mở được dây này? Thầy lấy làm lo cho đệ tử! Ngày xưa Khương Thượng bị trói thì Nguyên Thỉ Chưởng Giáo sai Kim Hà Đồng Tử lãnh Linh Phù xuống mở cho Khương Thượng. Còn các con ngày nay nếu bị dây ấy trói thì Thầy muốn cứu cũng khó, vì phải do nơi đệ tử. Nếu lòng các con Nhứt Tâm Giải Thoát mà rủi bị trói bất ngờ thì Thầy có thể chiếu Điển Thần mà giải tỏa. Còn nếu con không đủ nghị lực tháo gở, lòng trần chưa dứt thì Thầy cũng không cứu gở đặng. Kìa như Đức Thích Ca khi còn là Thái Tử, đã bị dây phép này trói một lúc, nhưng Ngài là Bực Đại Giác, có Chí Đại Hùng, có Gươm Trí Huệ đoạn dứt dây oan, ấy bởi Chí Đại Hùng mà làm nên được. Vậy các con muốn khỏi bị dây phép trói trở, phải quyết Tâm tu hành, một lòng Tinh Tấn, không luyến trần hồng, thì dây ấy mới không trói buộc được. Nhược bằng lòng chưa sạch, ý chưa thanh thì không thể nào tu hành tinh tấn. Phải đủ Hùng Tâm, Hùng Lực, tự mình giải phá, tháo gở triền miên thì mới khỏi dây ấy buộc trói. Phải Nhứt Tâm, Nhứt Đức như Đường Tăng, lúc nào cũng niệm Tâm Kinh hồi hướng Lôi Âm, một lòng tưởng Phật, dầu cho Yêu Tinh trước mặt, Quỷ dữ ngăn đường, lòng vẫn chí quyết thì Ngộ Không mới cứu được Thầy thoát nạn. Bởi vì Ngộ Không Tâm là cái Tâm Chơn Chánh chỉ bảo vệ Thầy vì Thầy đã giữ được Hằng Tâm. Nếu như Tam Tạng Tâm trần còn vọng, còn luyến trần tình, thì Ngộ Không dầu có tài phép thế nào cũng khó mà phò tá Thầy được tới Tây Phương Phật Cảnh. Lại còn mấy phép mà kẻ Hành Giả Chơn Tu phải tránh, phải sợ đó là 4 cây Gươm của Thông Thiên Giáo Chủ với Tru Tiên Trận. Trận này là trận dữ nhất. Bốn Gươm ấy là: Tru Tiên Kiếm - Lục Tiên Kiếm - Hãm Tiên Kiếm - Tuyệt Tiêm Kiếm. Bốn gươm tượng trưng cho nạn lớn sẽ đến với những người nào tu không có Chánh Tâm. Trận dữ với 4 Gươm Linh treo 4 cửa, bực Đại Tiên là 12 đệ tử của Ngọc Hư Cung không ai dám vào vì không đủ thần thông phá trận. Bốn Gươm Linh ấy là : Sắc – Tài – Tửu – Khí là bốn thứ độc hại đối với người tu. Sắc là Tru Tiên Kiếm Tửu là Lục Tiên Kiếm Tài là Hãm Tiên Kiếm Khí là Tuyệt Tiên Kiếm. Chỉ cần bị một trong bốn gươm ấy cũng đã nguy rồi. Gươm nào cũng giết hại Tiên, làm khốn Tiên. Chỉ có Bực Giáo Chủ mới đủ thần thông phá trận. Còn các môn đồ dù đến bực Đại Tiên cũng không dám tới. Bực Giáo Chủ là Hoa Khai Đảnh Thông, Linh Đài Chiếu Sáng, thì Yêu pháp mới không làm tổn hại Đạo. Thế nên các môn đồ đệ tử phải đề phòng, đừng lấp lửng khinh thường mà phải Táng Thân Hại Mạng. Tuy nhiên, người phước đức cũng có thể tránh được nó, nhưng cũng phải bằng nghị lực của chính mình. Phải tránh chớ chẳng đương đầu được với nó, phải sợ mà tránh chớ không nên tìm nó. Nay các con đang ở trong trận ấy, đã biết được Bốn Gươm Linh lợi hại như thế nào rồi. Nếu chủ được Tâm mình thì không bị Gươm sát hại. Nếu luyện được Hằng Tâm thì không sợ gì nữa, nhược bằng chưa có Chủ Tâm thì coi chừng bỏ mạng. Về Trận Vạn Tiên bắt hàng Tiên Thú, các con hiểu thế nào về Tiên Kỵ Thú ( Tiên Cỡi Thú ). Trong cuộc thư hùng Xiển – Triệt ngày trước có chuyện vị Đại Sĩ - Đại Đệ Tử của Ngọc Hư Cung hàng phục Tiên Thú như sau: a. Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn bắt được Thanh Mao Sư Tử. b. Từ Hàng Đạo Nhơn bắt được Kim Mao Hẩu tức là Kim Quang Tiên. - Phổ Hiền Chơn Nhơn bắt được Bạch Tượng tức là Linh Nha Tiên. Cuộc đấu tranh Xiển – Triệt thuở ấy là có, chuyện Phong Thần là có thật, nhưng đây nói về phần Đạo nên người chép sử chẳng thông nên không ghi rõ. Bởi đây thuộc về Huyền Sử có tính cách huyền thoại, nhưng là chuyện có thật. Tiên Kỵ Thú có nghĩa là mình đã chủ đặng cái Tâm mà chế phục được cá tính, hàng phục được chúng sanh trong nội bản thể. Bắt Yêu Tinh quy hàng Phật Tánh, đó là Tiên Kỵ Thú. Thú là thú tánh, chúng sanh tánh, là dục vọng. Tu là Chủ Tâm để chế ngự dục vọng của lòng. Đó là mình cỡi lên con thú của lòng mình vậy. Cỡi được nó là Thành Đạo, không thâu phục được nó là Đạo chưa thành. Cũng như Đường Tam Tạng nhờ có 4 trò giúp đỡ, nhờ có Long Mã mà đến được Tây Phương. Thôi đêm nay Thầy dạy đã tạm đủ, Thầy giả từ các con. Thăng
-
Căn cứ vào Duy Thức học của Bồ Tát Di Lạc thì "Tâm" là nơi tàng chứa mọi chủng tử từ quá khứ vô thủy tới hiện tại - tức tại thời điểm hiện tại của mỗi cá nhân, nếu hiểu tổng quát thì có vẻ nó mang ý nghĩa nguồn gốc của định mệnh, tuy nhiên với sự phân tích trong các bài viết ở trên dựa trên các yếu tố: - Sự phức tạp nhất của một sự vật hiện tượng trong vũ trụ là thời điểm nhảy vọt từ vượn người sang người nguyên thủy. - Sự tích tụ khí ở trên tất nhiên liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành. - Sự phát triển trí tuệ của con người nguyên thủy cho tới nay chỉ là sự trao đổi một cách cân bằng các trạng thái tương tác trong não bộ mà thôi (trong quan hệ với cơ thể vật lý và vũ trụ). - Nguyên lý nhân quả của cá nhân: do chu kỳ sống của một cá nhân và trong quan hệ huyết thống có chu kỳ rất nhỏ 100 năm, 5 đời khoảng 220 năm, cho nên tốc độ nhận tương tác đối ứng là rất nhanh "đời cha ăn mặn đời con khát nước" và tùy vào trạng thái tương tác bao trùm từ các hệ thiên văn lớn, nếu trong trạng thái "tụ" thì nhân quả chậm còn trong trại thái "tán" thì nhân quả nhanh. Cho nên, nếu nhận định về Duy Thức học như là "định mệnh" ở trên là sai. Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế thì không giảng sâu về Duy thức học, và Ngài cũng có nói rằng sợ chúng sinh "chấp" vào nó như "định mệnh đã an bài" nên rất khó tinh tấn trong tu tập giải thoát. Phá giải ý nghĩa "định mệnh" là tối quan trọng trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bất kỳ một tôn giáo hay khoa học nào khác.
-
Như vậy, muốn thay đổi số mệnh cá nhân phải tạo một bước nhảy lượng tử, điều này hàm nghĩa có mối "đại hòa" về phân lớp Âm Dương Ngũ Hành của cơ thể, trí não thông qua "Khí" nhằm tạo mối liên kết tổng thể tới trái đất và các tầng thứ phân lớp Âm Dương Ngũ Hành ở những cấp lớn hơn trong vũ trụ. Điều này rất khó hiểu, nếu chu kỳ cá nhân nhỏ 100 năm - thô thì khi liên kết thì chu kỳ chẳng hạn 25.920 năm thì sẽ khác - nhẹ, vi tế hơn -> giống như chúng ta làm cho bánh răng 100 năm đi chậm lại rất nhiều thông qua các điều chỉnh Khí. Nội dung ở trên có thể được hiểu là con người rơi vào một hệ quy chiếc lớn hơn, chẳng hạn 1 năm trong hệ mặt trời sẽ tương đương 25.920 năm, lúc này thời gian sẽ trôi nhanh hơn và tương đương 1/25.920 lần nếu chúng ta kinh nghiệm về một năm trên trái đất, cảm nhận theo giác quan sẽ thấy rất nhanh tức mắt thấy chu kỳ mặt trời mọc và lặn trôi qua vùn vụt. Trong truyền thuyết Việt Nam đó là chuyện Từ Thức gặp tiên. Về định mệnh thông qua môn Tử vi, thì chỉ xét đến giai đoạn sống vật lý và toàn không xét đến giai đoạn sống vô hình tức linh hồn, chu kỳ sống 100 năm trong vũ trụ giống như bong bóng nước mưa vậy (kinh Kim Cương), chỉ có linh hồn là dài tương đương với vũ trụ, vậy thì cuộc chơi nào thực sự là vĩ đại? Và con người đang đi tìm cái gì trong ván cờ vũ trụ này? Như đã phân tích, để thay đổi trạng thái vật lý tức định mệnh thì phải tay đổi hệ thống tương tác, hệ thống tương tác liên quan đến 1 con người được xác định qua cấu trúc bộ môn Tử Vi (chưa nói đến sự thay đổi triệt để về mặt trí tuệ), bước thay đổi tương tác tất nhiên theo thứ tự ưu tiên như dưới đây: - (1) Tương tác từ hệ thống Âm Dương Ngũ Hành thuộc các tầng lớp của vũ trụ. - (2) Tương tác từ trái đất. - (3) Tương tác nội tại cá nhân thông qua trí tuệ và hành động & các pháp môn chẳng hạn yoga, thiền, khí công. (3) là dương so với (4). - (4) Tương tác từ gia đình (dương) so với xã hội (âm). Muốn thay đổi tương tác của linh hồn chỉ thực sự về mặt trí huệ là cực đại mà thôi, "giải thoát" chính là cái đích vĩ đại nhất của một con người trong chu kỳ đồng hành với vũ trụ. (Sự cân bằng trí tuệ trong chu kỳ vũ trụ: từ nguyên lý nhân quả này có thể phân tích sự liên quan đến bộ môn Tử vi và quy định trai gái được lấy nhau sau 5 đời chăng?).
-
Nếu chúng ta phân tích định mệnh dựa trên một số các quy tắc dưới đây: - Vũ trụ thống nhất hay vạn vật có liên quan đến nhau ngay tức thời. - Vạn vật đồng nhất thể: "Nhất thể tán vạn thù, vạn thù quy nhất bổn". - Nguyên lý "đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu". - Sự phân lớp hay tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành của vạn vật và vũ trụ. - Sự hoạt động của mỗi cá nhân cũng thuộc cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành. - Linh hồn và thể xác trong mối tương quan lẫn nhau. - Năng lượng nguyên tử của khoa học hiện đại và bước nhảy lượng tử. - Sự hòa hợp Âm Dương trong sự phát triển và tiến hóa của vạn vật, chẳng hạn hành Mộc trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành. - Khả năng vật chất hóa bởi thần lực hay sự tập trung tư tưởng cao độ. Chúng ta sẽ thấy rằng, mọi trạng thái vận động của một cá nhân mang "năng lượng" rất nhỏ so với tương tác có quy luật từ vũ trụ, hiểu là từ các hệ thiên văn lớn hơn hệ mặt trời. Do vậy, họ không vượt thoát được những áp đặt thuộc tính theo chu kỳ thời gian từ những tương tác trên. Tuy nhiên, những đặt tính của cá nhân trong cơ thể vật lý là rất thô, thậm chí thô nhất nhất vũ trụ bởi con người là sự vật hiện tượng phức tạp nhất trong vũ trụ. Vậy thì, làm sao thoát ra những áp lực vũ trụ này về mặt tư tưởng và vật chất (quyền, tiền, phụ nữ, danh vọng...) trong cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành? Phải dùng những trạng thái nhảy vọt hay bước nhảy đột phá trong tương tác của cá nhân (tư tưởng tới hành động) nhằm giải phóng năng lượng "nguyên tử" nhằm thay đổi cấu trúc vật lý (trí tuệ và cơ thể) -> tạo những tương tác Âm Dương Ngũ Hành một cách tê vi nhất thông qua "sự cân bằng Âm Dương" của dịch chuyển dòng "Khí" tương tác nội tại chính cá nhân đó. Thông thường, trạng thái này gọi là "bùng nổ" hay "đại ngộ" về mặt nhận thức đối với tự nhiên và con người. Do vậy, không có ai cho mà chẳng ai có gì để cho chúng ta lên "Thiên đường" cả, tất cả chỉ là sáo rỗng mà thôi, tự thân nỗ lực theo học thuyết và pháp môn đúng. Việc đạt được các ước nguyện mô tả ở trên, chẳng hạn tiền là vật chất thô nhất trong khi giác ngộ hay thay đổi tư tưởng là vi tế nhất, chúng đối lập nhau trong một trạng thái vật chất -> tuy nhiên con người vẫn có thể đạt được trạng thái cân bằng của hai trạng thái tưởng như đối lập này, một đặc tính của hành Thổ trung ương trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Như vậy, muốn thay đổi số mệnh cá nhân phải tạo một bước nhảy lượng tử, điều này hàm nghĩa có mối "đại hòa" về phân lớp Âm Dương Ngũ Hành của cơ thể, trí não thông qua "Khí" nhằm tạo mối liên kết tổng thể tới trái đất và các tầng thứ phân lớp Âm Dương Ngũ Hành ở những cấp lớn hơn trong vũ trụ. Điều này rất khó hiểu, nếu chu kỳ cá nhân nhỏ 100 năm - thô thì khi liên kết thì chu kỳ chẳng hạn 25.920 năm thì sẽ khác - nhẹ, vi tế hơn -> giống như chúng ta làm cho bánh răng 100 năm đi chậm lại rất nhiều thông qua các điều chỉnh Khí. Như đã viết ở trên, sự tiến hóa tư tưởng hay sáng tạo vẫn trong trạng thái cân bằng vật chất hay trong vòng tuần hoàn vật chất của con người, điều này có thể hiểu là sự đại ngộ cũng phải nằm trong trạng thái cân bằng như vậy, nhưng chính nó làm thay đổi cấu trúc tư tương của ta "đối với những các mong ước" - chính tự thân cá nhân đó điều chỉnh mọi thứ liên quan đến nó, hay có thể hiểu là khi kết nối tới cái tổng thể càng lớn tức sự đổi thay định mệnh càng lớn (chu kỳ hệ thiên văn lớn là rất lớn, chẳng hạn một Nguyên 129.600 năm trong khi cuộc đời là rất ngắn 100 năm). Tất cả sự nhận biết này không nằm ngoài trí tuệ, tất nhiên có cả cái vượt ra khỏi mọi trí tuệ của cá nhân đó khi đạt trạng thái "đại hòa" với toàn thể vũ trụ. Đại ngộ triệt để (大悟徹底), là một cụm từ chỉ trạng thái tu tập được dùng trong Thiền tông Phật giáo và cũng được gọi là "đốn ngộ". Đại ngộ triệt để chỉ trạng thái ngộ đạo tận cùng, đối lập với các trạng thái ngộ đạo chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc hoặc trong một giai đoạn thời gian giới hạn, còn gọi là tiểu ngộ.[1] Theo thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền viết trong bộ Thiền luận Chính pháp nhãn tạng (Shōbōgenzō, 正法眼蔵?, bản dịch tiếng Anh "Treasury of the True Dharma Eye") một khi các thiền nhân đạt tới trạng thái đại ngộ sẽ vượt lên trên cả sự phân biệt giữa trạng thái ngộ và chưa ngộ. Nó là sự giải thoát hoàn toàn các ý niệm, các ràng buộc hiện tại, nó cũng là sự giải thoát triệt để.[2] BẢN CHẤT VÀ CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ TRONG ĐẠO PHẬT Thích Nữ Huệ Liên I. TỔNG QUÁT VỀ GIÁC NGỘ Nếu hiểu theo tâm lý học và nhận thức luận thì giác ngộ là một quá trình chuyển hóa. Trước hết là sự chuyển hóa về tri thức: ngu muội được thay thế bằng tuệ giác. . . Thứ hai là sự chuyển hóa tình cảm: thái độ sợ hãi và lo âu được thay thế bằng sự an tịnh và vô uý; đau khổ bằng hạnh phúc . . . Thứ ba là sự chuyển hóa trong thái độ: chấp thủ được thay thế bằng ly tham . . . Thứ tư là sự chuyển hóa trong cách cư xử: sự tước đoạt được thay thế bằng sự ban cho; lười biếng bằng năng động; sự phá hoại bằng sự tạo ra. . . Phật giáo, bắt đầu bằng kinh nghiệm giác ngộ của đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Sakyamuni Buddha), là con đường hay phương pháp (magga) để đạt đến sự giác ngộ thành Phật. Phật (Buddha) có nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức hoàn toàn khỏi các ràng buộc và chấp thủ của thế gian; và sự giác ngộ (bodhi) là sự tỉnh thức về các hiện hữu và đời sống bằng nhãn quan của lý nhân duyên. Là một người tỉnh thức, những pháp môn hay lời dạy của Ngài đều hướng đến sự giác ngộ (bodhi) hoặc sự tỉnh thức viên mãn (sambodhi), không có gì có thể xem là ngang bằng. Bằng những nỗ lực chân chánh của bản thân thông qua con đường thiền định và quán chiếu, Đức Phật đã trở thành một bậc giác ngộ tối thượng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sau khi tự mình thực chứng con đường giác ngộ, đức Phật đã hướng dẫn chúng sanh một cách thiện xảo và vi tế những kinh nghiệm giác ngộ của Ngài và con đường đã đưa Ngài đến mục đích đó. Giáo lý của đức Phật do đó được xem là giáo lý giác ngộ hay con đường đưa đến giác ngộ. II. NỘI DUNG CỦA GIÁC NGỘ Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật bao gồm nhiều nghĩa tuỳ theo ngữ cảnh mà nó xuất hiện. Trong bài viết này, người viết xin trình bày sơ lược một số nội dung quan trọng về bản chất giác ngộ trong Phật giáo, thông qua kinh nghiệm hay con đường giác ngộ của đức Phật được phản ánh trong kinh điển Pàli. 1. GIÁC NGỘ LÀ SỰ ĐẠT ĐƯỢC BA MINH Con đường tuệ giác trong Phật giáo được thể hiện bằng kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật. Theo kinh điển Pàli, kinh nghiệm chứng đắc của đức Phật được ghi nhận bằng sự ngộ nhập bốn thiền sắc giới (rùpajjhànàni), kế đến Ba Minh (tevijjà) trong ba canh liên tiếp của một đêm (Trung Bộ Kinh I, 41ff, 521; II, 817ff). Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh I, 93ff) hàm ngụ ý rằng sự đạt được Ba Minh là kết quả cuối cùng của đời sống phạm hạnh. Nhiều bài kinh trong Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh cũng lập lại quan điểm này. Sự nghiên cứu về nội dung của các kinh này cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng quá trình giác ngộ tối thượng (sambodhi) của Phật cũng như những giai đoạn cuối cùng của quá trình đưa đến quả A-la-hán được hiểu đồng nhất với sự đạt được Ba Minh. Kinh nghiệm đạt được mỗi minh này được kinh mô tả như sau: "vô minh lần lần bị tiêu diệt hết, minh hay ánh sáng tuệ giác phát sanh" (Trung Bộ Kinh I, 54-57). Ba minh bao gồm: (i) Túc mạng minh (pubbe nivàsànussati ~nà.na): là tuệ giác hay trí nhớ đến nhiều đời sống quá khứ của bản thân từ những nét đại cương cho đến chi tiết. (ii) Thiên-nhãn-minh (dibbacakkhu hay sattàna.m cutùpapàta~nà.na): trí tuệ nhận biết được sự sống và chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. (iii) Lậu-tận-trí (àsavakkhaya~nà.na): trí tuệ thấy rõ về hiện thực của khổ và lậu hoặc, nguyên nhân sanh khởi của chúng, trạng thái an lạc do vắng mặt chúng, và con đường dẫn đến sự chấm dứt chúng. Đây là loại tuệ giác cao nhất mang lại sự giải thoát hoàn toàn cho hành giả. Dòng kinh nghiệm thực chứng tuyệt vời này được diễn tả trong kinh như sau: "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, ta dẫn tâm hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Đây là khổ," thắng tri như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ," thắng tri như thật: "Đây là khổ diệt," thắng tri như thật: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt," thắng tri như thật: "Đây là những lậu hoặc," thắng tri như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc," thắng tri như thật: "Đây là các lậu hoặc diệt," thắng tri như thật: "Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt." Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa." (M. I. 23, 249; MLS. I, 29, 303; Trung Bộ Kinh I, 57, 543). Minh đầu tiên mà đức Phật chứng ngộ là sự tuệ tri về chuỗi tái sanh hay những đời sống quá khứ của chính Ngài trong ba cõi. Nói cách khác, tái sinh là một khía cạnh của luân hồi (sa.msàra). Sự hiện hữu của các chúng sanh ở hiện tại là một phần của một sợi chuỗi chưa bị bẻ gãy của sanh già chết và tái sanh mà chúng đang tiếp diễn từ vô lượng kiếp trong quá khứ. Sự hiện hữu này cần phải được nhận thức bằng trí tuệ để không chấp thủ có thể khởi lên trong tương lai. Nhờ vậy con đường giải thoát luân hồi được chấm dứt. Minh thứ hai là sự khám phá ra những tác dụng về luật của nghiệp (P. kamma ; S. karma), vốn chi phối đời sống của chúng sanh xuyên suốt quá khứ hiện tại và vị lai. Đây cũng là một khía cạnh bổ xung khác của thuyết luân hồi. Nói cách khác nhờ sự chấm dứt các hoạt động tạo nghiệp, hành giả từng bước tiến đến sự chứng đắc Niết-bàn. Minh thứ ba xuất hiện cuối cùng, như là hệ quả tự nhiên của hai minh trước. Sự xuất hiện của nó rất chắc chắn và mạnh mẽ để phá vỡ những cơ sở cuối cùng của luân hồi. Nó được giải thích như là sự hiểu biết về thực tại liên quan đến Bốn Chân Lý Cao Thượng hay Tứ Thánh Đế (Tương Ưng Bộ Kinh V, 613). Kinh nghiệm thực chứng ba minh của đức Phật được Ngài tuyên bố bằng một bài thi kệ rất ấn tượng và cô đọng: Lang thang bao kiếp sống Ta tìm nhưng chẳng gặp, Người xây dựng nhà này, Khổ thay, phải tái sanh. Ôi! Người làm nhà kia (tham ái) Nay ta đã thấy ngươi! Người không làm nhà nữa. Đòn tay (thân) ngươi bị gãy, Kèo cột (phiền não) ngươi bị tan Tâm ta đạt tịch diệt, Tham ái thảy tiêu vong. (Kinh Pháp Cú, kệ 153, 154) Như vậy, sự giác ngộ của đức Phật là sự nhận ra bản chất về sự hiện hữu của con người, sự hiểu biết về nhân và quả của con người và thế giới. Mục đích của sự giác ngộ là sự giải thoát khỏi những nỗi đau khổ trong sinh tử luân hồi và sự đạt được hạnh phúc hoàn toàn, Niết-bàn. 2. GIÁC NGỘ LÀ TUỆ TRI VỀ TỨ DIỆU ĐẾ Nhìn từ một góc độ khác, sự giác-ngộ có thể được xem là sự tuệ tri về Bốn Chân Lý Thánh hay Tứ Diệu Đế (P. Cattàri Ariya Saccàni; S. Catvàri Àrya-Satyàni) [Tương Ưng Bộ Kinh V, 614]. Tứ Diệu Đế bao gồm thực trạng đau khổ của mọi hiện hữu hay khổ đế (dukkha ariya sacca), nguyên nhân gây ra các đau khổ của hiện hữu hay tập đế (dukkha samudaya ariya sacca), trạng thái vắng mặt toàn bộ khối đau khổ hay diệt đế (dukkha nirodha ariya sacca) và con đường thánh đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ hay đạo đế (dukkha nirodha gàmini-pa.tipadà ariya sacca). Tuệ tri về bốn chân lý cao thượng là thấu rõ bằng trí tuệ rằng (i) sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, cầu không được là khổ; nói chung, năm thủ uẩn là khổ; (ii) tuệ tri được nguyên nhân của khổ là tham ái, yếu tố dẫn đến tái sanh; (iii) tuệ tri được trạng thái vắng mặt toàn bộ tham ái và đau khổ (Niết-bàn), và (iv) tuệ tri được con đường Thánh Đạo Tám Ngành là con đường giải thoát đau khổ (ariya-a.t.thangika-magga) [Trung Bộ Kinh I, 115-116]. Kinh điển ghi chép rằng tiến trình giải thoát của đức Phật được khởi đi bằng sự tuệ tri về bản chất đau khổ của đời sống thế tục; kế đến là tâm hạnh kiên quyết muốn thoát khỏi tình trạng thế tục của cuộc sống đau khổ đó, và sau cùng là sự chứng đạt Niết-bàn bằng con đường thiền định về bốn chân lý thánh (Trung Bộ Kinh I, 366f; Tương Ưng Bộ Kinh II, 185f; Tăng Chi Bộ Kinh I, 260f). Sau một quá trình dài tu tập đầy những thử thách, cuối cùng đức Phật đã thành công: tuệ tri trọn vẹn nguyên nhân của tất cả khổ (Khổ-tập) và con đường đưa đến sự diệt khổ (Khổ-diệt-đạo), và chứng đạt Niết-bàn (Pàli: nibbàna; Sanskrit: nirvà.na). Sự tuệ tri đó được kinh điển định nghĩa là sự giác ngộ (bodhi) (Trung Bộ Kinh I, 373f). Đức Phật tuyên bố: "Chính trong cái thân dài một tầm có tưởng có ý này, Ta tuyên bố thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn diệt thế giới và con đường đưa đến sự đoạn diệt thế giới (Tương Ưng Bộ Kinh, I. 145-146). Thế giới ở đây không chỉ đơn thuần là thế giới ngoại tại, mà được dùng để chỉ cho tất cả những gì chịu sự biến hoại (Tương Ưng Bộ Kinh IV, 96). Thật rõ ràng để thấy rằng Tứ Diệu Đế biểu thị một phương pháp thực nghiệm tâm linh hay khảo sát một đối tượng như chúng thật sự là: thấy một đối tượng, xác định nguồn gốc của nó, biết chắc tình trạng vắng mặt của nó như thế nào, và các phương pháp để đạt được trạng thái đó. Tứ Diệu Đế còn được sánh ví với tiến trình của y học trước một căn bệnh: chứng bệnh, nguyên nhân gây bệnh, trạng thái lành bệnh, và những phương thuốc chữa trị. Cũng vậy, Đức Phật như một vị lương y về sự tu tập tinh thần (Tăng Chi Bộ Kinh II, 692; IV, 49) đã chỉ rõ cho chúng ta thấy về bốn giai đoạn của một quá trình thực nghiệm tâm linh, vượt thoát khỏi mọi đau khổ: nhận chân rõ bản chất khổ của những sự vật ở đời, xác định nguyên nhân phát sinh những sự khổ ấy, trạng thái vắng mặt đau khổ, và những phương pháp diệt trừ đau khổ. Bốn sự kiện trên là những sự thật muôn đời mà tất cả nhân loại và các loài hữu tình trên hành tinh này và các hành tinh khác phải công nhận. Do vì tính không thể bị phủ định đó mà bốn sự kiện này được gọi là bốn chân lý thánh hay cao thượng (ariya sacca). Cả bốn sự kiện trên nên được xem quan trọng như nhau trong một sự nối tiếp hợp với logic. Nghĩa là sự chứng đạt Niết-bàn sẽ không thể thành tựu nếu con đường Niết-bàn không có mặt. Tương tự nếu không nhận ra nguyên nhân của đau khổ thì sự vắng mặt của khổ không thể có được. Nếu khổ chưa diệt trừ thì Niết-bàn không thể chứng đạt được. Nhưng vì trên thực tế, đau khổ là một hiện thực không thể phủ định. Nguyên nhân của chúng phát xuất từ nhận thức và hành động thiếu khôn ngoan của con người. Niết-bàn là trạng thái vắng mặt toàn bộ đau khổ và Bát chánh đạo là con đường đưa ta thoát khổ. Do đó, đức Phật dạy rằng Tứ thánh đế cần được nhận thức như sau: thực tại đau khổ cần phải liễu tri (pari~n~neyya), nguyên nhân gây ra đau khổ cần phải được diệt trừ (pahàtabba), trạng thái vắng mặt hoàn toàn đau khổ cần phải chứng ngộ (sacchikàtabba), và con đường thoát khổ cần phải được tu tập (bhàvetabba) (S. V, 420; Tương Ưng Bộ Kinh V, 612-613). Không chỉ có giá trị hạn cuộc trong tiến trình thực nghiệm tâm linh, hướng đến giải thoát, nguyên lý nhận thức của Tứ Diệu Đế này còn được xem là công thức áp dụng chung cho tất cả mọi vật được nhận thức (Tương Ưng Bộ Kinh II, 33-34). Nghiên cứu mọi sự vật theo phương pháp này, hành giả sẽ có thể trừ diệt được những mê lầm của mình và thấy sự vật một cách chân thật. Sự thấy biết như thật đó được gọi là chánh tri kiến (sammàdi.t.thi) hay minh kiến (vijja). Trong Phật giáo, sự chứng đắc được tri kiến này cũng được xem là đạt được mục đích tối thượng, giải thoát mọi đau khổ tức là Niết-bàn (Tương Ưng Bộ Kinh II, 34). Lại nữa, Tứ Diệu Đế cần phải được tuệ tri với ba chuyển (tipariva.t.tam) và mười hai hành tướng (dvàdasàkàram). Ba chuyển là ba tri kiến tương ứng liên hệ đến mỗi Đế của Tứ Thánh Đế, tạo nên tất cả mười hai hành tướng. Tri kiến đầu tiên là nhận ra mỗi Đế như nó là (sacca~nà.na, thị chuyển). Tri kiến thứ hai là nhận ra cái gì nên được làm về mỗi Đế (kicca~nà.na, khuyến chuyển): sự thật về hiện trạng đau khổ cần phải hiểu rõ, nguyên nhân gây ra đau khổ cần phải được tiêu trừ, trạng thái vắng mặt toàn bộ đau khổ cần phải được chứng ngộ, và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ cần phải được tu tập. Tri kiến thứ ba là nhận ra sự hoàn thành của cái gì nên được làm (kata~nà.na, chứng chuyển). Đức Phật tuyên bố về điều này như sau: Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỷ-kheo, cho đến khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không đã chứng tri được vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri rằng ta đã đạt được vô thượng Chánh Đẳng Giác. (Tương Ưng Bộ Kinh V, 613-614) Nói cách khác, sự giác ngộ là chánh tri kiến về Tứ Diệu Đế. 3. GIÁC NGỘ LÀ TUỆ TRI LÝ NHÂN QUẢ Trong Câu-xá Sớ Giải (Ko’savyàkhyà, VI, 4), Tứ Diệu Đế được đặt dưới hai đầu đề: nhân và quả, hay thế gian và xuất thế gian (luân hồi và Niết-bàn). Chân lý thứ nhứt và thứ hai như là thực trạng đau khổ và nguyên nhân gây ra đau khổ. Chúng tiêu biểu cho hệ nhân quả thuộc phạm vi luân hồi (sa.msàra) hay thuộc về thế gian (loka). Chân lý thứ ba và thứ tư như là trạng thái vắng mặt toàn bộ đau khổ và con đường dẫn đến tình trạng thoát khổ tiêu biểu cho hệ nhân quả của Niết-bàn (nibbàna, nirvà.na), thuộc xuất thế gian (paraloka). Hai chân lý đầu tiên được xem như là đặc tính hóa của luân hồi (sa.msàra) vốn chứa đầy những lậu hoặc (P. àsava ; S. à’srava), và hai chân lý cuối cùng như đối lập với hai chân lý đầu không còn lậu hoặc (P. anàsava ; S. anà’srava) hay giải thoát khỏi lậu hoặc. Tóm lại, Tứ Diệu Đế nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: 1. Nhân của luân hồi là gì? Đ Xin trả lời là tham ái (ta"nhà), phiền não (P. kilesa; S. kle’sa) và vô minh (avijja). 2. Quả của luân hồi là gì? Đ Xin trả lời là đau khổ hay không toại nguyện (dukkha). 3. Nhân của Niết bàn là gì? Đ Xin trả lời là sự tu tập con đường chân chánh (magga) 4. Quả của Niết bàn là gì?Đ Xin trả lời là sự chấm dứt của tham ái, phiền não và vô minh. Nói cách khác, giác ngộ là Tri Kiến về Lý Nhân Quả. Đó là tuệ tri được bất thiện, căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và căn bổn thiện (Trung Bộ Kinh I, 112). Mười ác nghiệp là bất thiện, tham sân si là căn bổn bất thiện. Mười thiện nghiệp là thiện, không tham sân si là căn bổn thiện. 4. GIÁC NGỘ LÀ TRI KIẾN LÝ DUYÊN KHỞI Trong Tứ Thánh Đế, Thánh đế thứ nhất và thứ hai là thuộc về Lý Duyên Khởi (Paticcasamuppàda) (Tăng Chi Bộ Kinh I, 318). Lý duyên khởi được hiểu như sự hoạt động trên tất cả sáu hình thái của chúng sanh còn trong vòng luân hồi (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la và trời) và trong ba cõi: dục giới (kàmadhàtu), sắc giới (rùpadhàtu) và vô sắc giới (arùpadhàtu). Lý Duyên Khởi này được Đức Phật tuệ tri ngay sau khi Ngài chứng đạt được giác ngộ vô thượng (Kinh Phật Tự Thuyết 1 & 2). Lý Duyên Khởi (P. paticca-samuppàda, S. pratìtya-samutpàda) là nguyên lý tương thuộc tương đối của tất cả mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này, từ vật hữu hình cho đến vô hình, từ vật chất đến tâm lý. Tính cách tương thuộc của hiện hữu được mô tả bằng tính điều kiện tương đối như sau: Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này diệt, cái kia diệt. (Tương Ưng Bộ Kinh II, 55-56, 119, 171; Trung Bộ Kinh II, 453; III 222). Trong mối liên hệ với hiện hữu luân hồi của các chúng sanh trong ba cõi sáu đường, lý duyên khởi được hiểu là mười hai mắc xích nhân duyên (nidàna), liên hệ một cách tương thuộc với nhau trong cách sau đây: Do vô minh (P. avijjà, S. avidyà) có mặt nên hành (sankhàra, sa.mskàra) có mặt; do hành có mặt nên thức (vi~n~nàna, vij~nàna) có mặt; do thức có mặt nên danh sắc (nàmarùpa) có mặt; do danh sắc có mặt nên lục nhập (salàyatana, .sa.dàyatana) có mặt; do lục nhập có mặt nên xúc (phassa, spar’sa) có mặt; do xúc có mặt nên thọ (vedanà, vendanà) có mặt; do thọ có mặt nên ái (ta"nhà, t.r.s.nà) có mặt; do ái có mặt nên thủ (upàdàna) có mặt; do thủ có mặt nên hữu (bhava) có mặt; do hữu có mặt nên sanh (jàti) có mặt; do sanh có mặt nên già và chết (jaràmara.na) có mặt. Do già chết có mặt nên vô minh có mặt (Tương Ưng Bộ Kinh II, 10; Tăng Chi Bộ Kinh I, 318). Và như vậy, cái duyên khởi trở lại từ đầu. Cứ như vậy mà luân chuyển bất tận trong luân hồi từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Trong tiến trình thực nghiệm tâm linh, hướng đến giải thoát, đức Phật nhấn mạnh đến ba duyên, đó là, sự khắc phục vô minh, ái và thủ. Loại bỏ được ba nhân duyên này hành giả tu tập sẽ chắc chắn bẻ gãy cái vòng mắc xích luân hồi và nếm được quả vị giải thoát của Niết-bàn. Tưởng cũng nên lưu ý rằng vì là tính duyên khởi có điều kiện, khái niệm vòng chuyền luân hồi không có nghĩa cho rằng vô minh là mắc xích đầu tiên của sinh tử. Bởi lẽ, đạo Phật không thừa nhận có một nguyên nhân đầu tiên sanh ra các nguyên nhân còn lại. Do đó, vô minh không phải là không có nhân, cũng không phải là nguyên nhân thứ nhất. Vô minh do các lậu hoặc (àsava) làm nhân. Kinh nói rằng: "Từ tập khởi của lậu hoặc, có tập khởi của vô minh, từ đoạn diệt của lậu hoặc có đoạn diệt của vô minh." (Trung Bộ Kinh I, 127). Nói cách khác, tính tương thuộc của mười hai mắc xích có thể bắt đầu bằng mắc xích tham ái (ta.nhà), hay thậm chí bằng đồ ăn (àhàra). Có bốn loại đồ ăn: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. (Xem Tương Ưng Bộ Kinh II, 27-29, 180-185). Những mắc xích nhân duyên này di chuyển trong một cái vòng không có sự bắt đầu tuyệt đối, và không có liên quan đến thời gian hay không gian. Do vậy chúng ta thấy Lý Duyên Khởi của Phật giáo không giải thích nguồn gốc thế giới mà chỉ là để xác nhận sự vật ở đời do nhân duyên mà sanh ra. Công thức Lý Duyên Khởi này cũng được dùng để chứng minh rằng thế giới vì hiện hữu một cách tương đối nên không có vật nào có một thật thể bất biến. Nói cách khác, theo Phật giáo nếu thế giới và mọi vật có một thật thể thì thực thể đó chính là nguyên lý duyên khởi tương thuộc hay còn gọi là "y tha duyên khởi tánh" (Idapaccayatà Paticcasamuppada) (Trung Bộ Kinh I, 375). Có nghĩa là những sự vật của thế giới hiện hữu đều phụ thuộc nhau. Do vậy, nguyên lý duyên khởi được xem là chìa khóa đưa đến chân lý. Nói khác hơn, khi nào hành giả chứng ngộ được sự thật của chân lý này thì vị ấy thấy được "sự thật" của mọi hiện hữu trên đời. Với lý do trên, Đức Phật đã đồng hóa sự tuệ tri về duyên khởi với thấy được Phật và chánh pháp: "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi. (Trung Bộ Kinh I, 422). Chính công thức này trả lời vấn đề đời sống con người (Tương Ưng Bộ Kinh II, 46) và thế giới, vốn được chúng sanh chấp thủ hoặc là có (atthità) hoặc là không có (natthità) như là hai cực đoan đối lập nhau (Tương Ưng Bộ Kinh II, 37, 140). Đức Phật không chỉ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã khám phá ra sự vận hành của mắc xích mười hai nhơn duyên này mà Ngài còn là người đầu tiên đã làm chủ được chúng trong đôi tay của Ngài và Ngài đã chặt đứt chúng thành từng mắc xích rời rạc để chúng sẽ không bao giờ có thể trói buộc Ngài vào cảnh khổ đau trong ba cõi sáu đường nữa. Do vậy Ngài đã được giác ngộ, và sự giác ngộ của Ngài là giác ngộ về nguyên lý duyên khởi của các pháp. Tóm lại, giác ngộ là tri kiến về Lý Duyên Khởi xuyên qua Tứ Thánh Đế. Tuệ tri mười hai nhân duyên, về sự tập khởi của mười hai nhân duyên (do cái này khởi nên cái kia khởi), về sự đoạn diệt của mười hai nhân duyên (do cái này diệt nên cái kia diệt), và về con đường đưa đến đoạn diệt của mười hai nhân duyên (con đường Thánh Đạo Tám Ngành) (Trung Bộ Kinh I, 117-128). 5. GIÁC NGỘ LÀ THẤY RÕ BA PHÁP ẤN Với tuệ tri về Tứ Diệu Đế cũng như tuệ tri về Lý Duyên Khởi, người tu tập sẽ thấy rõ ba chân lý nền tảng (Tilakkhana) của mọi hiện hữu đó là vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anatta). Chúng sanh và những đối tượng của thế giới chỉ là hiện hữu tương quan và vì vậy chúng là vô thường sanh diệt và nguồn gốc của khổ. Ngoại trừ sự giác ngộ và Niết-bàn, không có gì mà không bắt nguồn bằng chuỗi nguyên nhân và điều kiện. Cái gì là khổ đều là trống rỗng, vô ngã, không ngã, không ngã sở hữu, không thể làm theo ý ta muốn (Trung Bộ Kinh III, 100; Tương Ưng Bộ Kinh IV, 97). Sau khi thấy như vậy, nhàm chán (nibbada) khởi lên trong tâm của hành giả. Do nhàm chán nên ly tham (viràga) xuất hiện. Do có thái độ ly tham nên hành giả được giải thoát (vimutti). Đỉnh cao của tiến trình tu tập này là giải thoát tri kiến (vimutti~nà.nadassana) hay sự giác ngộ hoàn toàn (sambodhi). (Tương Ưng Bộ Kinh III, 155) 6. GIÁC NGỘ LÀ THẤY ĐƯỢC LÝ VÔ NGÃ Như kết quả tất yếu của Lý Duyên Khởi, Đức Phật tuyên bố rằng, không thể có một thực thể thường hằng và không thay đổi kể cả ngã, và tất cả hoặc bất cứ cái gì thuộc về những thành phần của con người hay ngoài con người, vật chất, tinh thần hay hiện tượng, không thể được xác định với cái ngã thường hằng, vì, trong trường hợp đó, nó do duyên hợp và cũng sẽ chịu sự biến hoại. Những thành phần của con người chỉ là một hiện hữu tạm thời, do đó con người không nên chấp thủ chúng và không nghĩ về chúng bằng thái độ "cái này là của tôi" (eta.m mama), "cái này là tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản ngã của tôi" (eso me attà) [S. IV. 2ff; Tương Ưng Bộ Kinh IV, 82]. Đức Phật nhận ra rằng yêu thương ngã là nguyên nhân chính của khổ đau trần thế, và cách tốt nhất để loại bỏ chấp ngã này là tri kiến rằng không có cái ngã thường hằng. Quan điểm về cái tôi là nguồn gốc của mọi đau khổ của kiếp nhân sinh. Đi ngược lại khuynh hướng tôn trọng bản ngã của thế gian, giáo lý của đức Phật cho rằng mọi sự vật kể cả chúng sanh là vô ngã và mọi thành phần của một con người vốn tuỳ thuộc vào luật duyên khởi. Không có bất cứ một vật gì trong con người hay ngoài con người mà không chịu luật phổ biến này. 7. GIÁC NGỘ LÀ TUỆ TRI CÁC PHÁP LÀ KHÔNG Khái niệm "không" (P. su~n~natà, S. sùnyatà) trong Phật giáo hoàn toàn không phải là cái không trống rỗng. Nó là một thuật ngữ được dùng chỉ sự vắng mặt của ngã (Tương Ưng Bộ Kinh IV, 97; Trung Bộ Kinh III, 100). Từ định Lý Duyên Khởi, mọi sự vật hiện tượng xuất hiện, tồn tại và hoại diệt rồi trở thành cái khác v.v. . . đều được hình thành bằng chuỗi các điều kiện tương duyên. Nghĩa là chúng chỉ là hiện hữu trong mối tương quan do duyên sanh. Chúng dường như chỉ "thật" trên mặt "hiện tượng" nhưng "không thực" ở "cứu cánh." Khi nhận thức được các pháp là vô ngã, hành giả sẽ nhận ra được tánh không của các pháp. Không (sùnyatà) là đứng hay vượt lên "trên" hai phương diện khẳng định và phủ định, hiện hữu và không hiện hữu, tồn tại hay hoại diệt. 8. GIÁC NGỘ LÀ TRI KIẾN NHƯ THẬT Từ một cách tiếp cận khác, giác ngộ trong Phật giáo còn có nghĩa là sự tuệ tri về bản chất "như thị" của mọi sự vật (P. yathàbhùta-~nà.nadassana, S. yathàbhùta.m-j~nànadar’sana). Nghĩa là nhìn sự vật đúng như bản chất của chúng là, mà không hề có thêm vào bất kỳ mọi áp đặt, thuộc tính nào lên bản thân chúng. Kinh điển Đại thừa, nhất là kinh Pháp Hoa đã triển khai một cách rốt ráo thái độ nhận thức đúng với bản chất của sự vật thành nguyên lý "thập như thị" đó là: (i) như thị tánh, (ii) như thị tướng, (iii) như thị thể, (iv) như thị lực, (v) như thị tác, (vi) như thị nhân, (vii) như thị duyên, (viii) như thị quả, (ix) như thị báo, (x) như thị bổn mạt cứu cánh. Giá trị đạo đức của cách nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng là, nằm ở chỗ nó giúp cho hành giả không chấp thủ vào thế giới ngoại tại và thế giới cảm xúc và phản ứng của chúng. Nhờ vậy hành giả có thể sống ung dung tự tại trong đời, vượt thoát khỏi mọi trói buộc. Một khi trói buộc không còn, tâm hành giả sẽ giải thoát và sự giải thoát đó được thực hiện bằng trí tuệ. 9. GIÁC NGỘ LÀ HÀNG PHỤC MA QUÂN THAM, SÂN, SI Theo đức Phật, sáu căn của chúng ta và những đối tượng của chúng là đang rực cháy với ba ngọn lửa của tham (lobha), sân (dosa) và si (moha). Mục đích của con đường thực nghiệm tâm linh trong Phật giáo là làm thế nào để蠤ập tắt những ngọn lửa đó. Học thuyết về ba ngọn lửa được đề cập đầu tiên trong bài pháp thứ ba của đức Phật, The Adittapariyàya Sutta (Dictionary of Pàli Proper Names, trang 247) hay Kinh Bị Bốc Cháy (Aditta Sutta trong Tương Ưng Bộ Kinh IV, 33-40). Thuật ngữ màra được dùng trong văn học Pàli với nghĩa bóng hơn là nghĩa đen của từ này. Ma ở đây không có nghĩa là ma quỷ hay ác ma như trong các kinh Jataka đã huyền thoại hoá, mà nhằm ám chỉ cho "sự chết" (Tương Ưng Bộ Kinh I, 283; Kinh Pháp Cú, kệ 46, 47, 48, 287; Kinh Tập, kệ 357, 587 v.v…) và quan trọng hơn là các phiền não (kilesa) (Kinh Tập, kệ 166; Pháp Cú, kệ 37, 276, 350). Trong ngữ cảnh đó, khái niệm giác ngộ ở đây cũng không có nghĩa là chiến thắng ngoại ma, bọn ma quân bên ngoài, mà là chiến thắng các tên giặc lậu hoặc và phiền não trong tâm (Trung Bộ Kinh I, 360; Kinh Tập, kệ 425-449). Kinh điển Pàli đã liệt kê ra mười đội quân ma quan trọng mà mọi hành giả tìm kiếm giác ngộ phải kiên cường đấu tranh để tiêu diệt chúng. Đội quân thứ nhất là dục, thứ hai là bất lạc, thứ ba là đói và khát, thứ tư là tham ái, thứ năm là hôn trầm thùy miên, thứ sáu là sợ hãi, thứ bảy là nghi ngờ, thứ tám là dèm pha ngoan cố, thứ chín là lợi danh cung kính danh vọng, và thứ mười là tự đề cao mình, hủy báng kẻ khác (Kinh Tập, kệ 436-439). Những đội quân ma này cư trú trong tâm của con người, ngăn chặn sự giác ngộ của hành giả. Sự xuất hiện của Ma quân trước giờ phút Đức Phật đạt được sự giác ngộ vô thượng chính là sự xuất hiện của mười tên giặc phiền não vừa nêu mà đức Phật đã chiến thắng nhờ thiền định. Khúc khải hoàn đó được đức Phật và các vị A-la-hán phát biểu trong minh thứ ba đó là tri kiến về sự chấm dứt toàn bộ các lậu hoặc (lậu tận trí). Do đó, đấu tranh với ma quân là sự nhiếp phục tâm tư, chế ngự các phiền não (kilesa), dẹp trừ các chướng ngại tâm (nìvara.na) vốn ngăn chặn con đường đến giải thoát. Kinh điển mô tả rằng đức Phật đã chiến thắng được những đội quân ma này bằng gươm trí tuệ (Kinh Tập, kệ 443; Pháp Cú, kệ 40). Như vậy có thể nói sự giác ngộ chính là hàng phục ma quân trong tâm, dập tắt lửa tham sân si, đoạn tận các kiết sử, giải thoát sanh y (những nguyên nhân đưa đến tái sanh), nhận ra Niết-bàn an tịnh. III. CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN SỰ GIÁC NGỘ Nếu Đức Phật là một con người giác ngộ, không phải là Thượng đế hay đấng tạo hoá, thì những gì Ngài giác ngộ được và thực hiện được, dĩ nhiên những người khác cũng có thể đạt được và làm được. Nhưng đạt được bằng cách nào? Câu trả lời đơn giản là hãy mạnh dạn đặt từng bước chân vững chắc lên con đường xa xưa mà đức Phật đã đi qua. Đó là con đường: nhận chân đau khổ như một thực tại, truy ra nguồn gốc của đau khổ, cảm nhận trạng thái vắng mặt đau khổ và thực hiện con đường thoát khổ đó. Đó là con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ, từ thế giới của sự sanh đến thế giới vô sanh, từ mê mờ đến tỉnh thức. Kinh điển chép rằng sau khi từ bỏ hai cực đoan: sự đắm say trong các dục (kàmasukhallikànuyoga) và sự tự hành khổ mình (attakilamthànuyoga), đức Phật đã kiên quyết đi theo con đường Trung Đạo (majjhimà pa.tipadà), đó là con đường thánh gồm tám ngành (Tương Ưng Bộ Kinh V, 611). Con đường này được tóm gọn trong ba đặc tính: giới (sìla), định (samàdhi) và tuệ (pa~n~nà) [Trung Bộ Kinh I, 660). Con đường thánh tám ngành bao gồm chánh kiến (sammà di.t.thi), chánh tư duy (sammà sankappa), chánh ngữ (sammà vàcà), chánh nghiệp (sammà kammanta), chánh mạng (sammà àjìva), chánh tinh tấn (sammà vàyàma), chánh niệm (sammà sati), và chánh định (sammà samàdhi) (Tương Ưng Bộ Kinh V, 612 và nhiều kinh khác). Những phương pháp tu hành này được chia thành ba nhóm thanh tịnh (tisikkhà), đó là: (i) tuệ học (pa~n~nà) tức gồm chánh kiến và chánh tư duy, (ii) giới học (sìla) tức gồm chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, và (iii) định học (samàdhi) tức gồm chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định (Trung Bộ Kinh I, 660). Con đường giác ngộ của một bậc hữu học gồm có tám chi phần như vừa nêu, trong khi đó, con đường của bậc A-la-hán gồm có mười chi phần vốn gồm tám chi phần trên cộng với hai chi phần mới là chánh trí (sammà ~nà.na) và chánh giải thoát (sammà vimutti) (Trung Bộ Kinh III, 245; Tăng Chi Bộ Kinh IV, 563). Do vậy, ba vô lậu học trở thành bốn vô lậu học bằng sự thêm vào của giải thoát học (vimutti) (Tăng Chi Bộ Kinh I, 550-551, 703; II, 271), hay có thể trở thành năm vô lậu học bằng sự thêm vào của giải thoát tri kiến (vimutti ~nà.nadassana) (Tăng Chi Bộ Kinh II, 747). Chánh Kiến là yếu tố quan trọng nhất trong Phật giáo (Trung Bộ Kinh III, 238). Về phương diện lịch sử, Phật giáo đã bắt nguồn từ sự giác ngộ tối thượng của đức Phật dưới cây bồ-đề tại Bodhgaya. Về phương diện nhân quả, có thể nói rằng Phật giáo bắt đầu có hình dạng khi hoàng tử Siddhattha, vị Phật tương lai, chứng kiến ba hiện tượng của đời sống: một người già, một người bệnh, và một người chết. Xuyên qua cảnh trạng này Ngài nhận ra chân lý của khổ (dukkha), chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Đế, và sự nhận ra này không gì ngoài Chánh Kiến hay là quan điểm chân chánh (Sammà di.t.thi), bước đầu tiên của con đường Bát Thánh Đạo. Chính chánh kiến hay là nhận thức chân chánh (Sammàdi.t.thi) này đã thúc giục Ngài sớm từ bỏ đời sống thế tục, để tìm kiếm ba chân lý còn lại, đó là nguyên nhân của khổ, Niết-bàn và con đường thoát khổ. Sau sáu năm tu tập với nhiều thử thách, cuối cùng Ngài đã đạt được giải thoát tri kiến (Vimutti~nà.nadassana). Quá trình giác ngộ tối thượng, vì vậy, bắt đầu với chánh tri kiến (Sammàdi.t.thi) và chấm dứt với giải thoát tri kiến (Vimutti~nà.nadassana). Giải thoát tri kiến cũng còn hiểu đồng nghĩa vơi sự giác ngộ hoàn toàn (Sammàsambodhi), mức độ tuệ giác cao nhất mà một hành giả có thể chứng đạt được. Sau khi thực hiện thành công con đường cứu khổ độ mê, đức Phật đã tuyên bố rằng: "Xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ." (Trung Bộ Kinh I, 318). Và Ngài cũng tuyên bố rằng học thuyết của Ngài chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. (Ud.p. 56; Kinh Phật Tự Thuyết, trang 352) Chánh tri kiến (sammàdi.t.thi), nhận thức giác ngộ đầu tiên, cần phải được tu tập và tích tụ bằng sự giúp đỡ từ bên ngoài cũng như trí tuệ của vị ấy (Trung Bộ Kinh I, 644). Quan điểm giác ngộ này là nền tảng chủ yếu cho người đệ tử thu thập và phát triển để giải thoát chính mình ra khỏi vòng luân hồi. Nó là sự nhận chân được ba bản chất hay đặc tánh của đời sống (tilakkha.na) đó là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta) (Trung Bộ Kinh I, 313-315, 510-511). Sự biết này làm giảm đi các thái độ ngã mạn "tôi là" các thái độ chấp thủ (abhijjà) "của tôi là" cũng như sự hiềm hận (vyàpàda). Trong con đường thánh tám ngành, chánh kiến đưa đến chánh tư duy và theo cách ấy đưa đến chánh ngữ,蠣hánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Những thành tựu tâm linh chẳng hạn như sự an tịnh của tâm có thể giúp vị hành giả thoát ra khỏi sự chi phối của thế gian, hướng đến thái độ sống ly tham và giải thoát (Trung Bộ Kinh I, 316). Sự giác ngộ hay tri kiến đưa đến giải thoát tối hậu là biểu hiện về sự chứng đạt cao nhất của đời sống phạm hạnh. Đó là chánh trí (~nà.na) hay thánh tuệ (pa~n~nà). Trong luân hồi (sa.msàra) nó tạm không hiện hữu, do vô minh (avijjà) hay sự vắng mặt của tri kiến đúng đắn. Nhờ có nó mà chúng sanh tìm ra được sự giải thoát. Nói cách khác, nhờ vào sự hiện hữu của trí tuệ mà quá trình luân hồi của một cá nhân thông qua sự vận hành của các lậu hoặc (àsava) bị chặt đứt hay tiêu diệt hoàn toàn (Trung Bộ Kinh II, 300). Đến đây, vị thánh đệ tử đã hoàn thành con đường giải thoát gồm mười chi phần. Tuy nhiên, có một số kinh cũng đề cập đến sự giác ngộ như là kết quả tất yếu của các pháp môn khác ngoài Tám chánh đạo. Chẳng hạn Tương Ưng Bộ Kinh chép rằng nhờ sự tu tập về Tứ Như Ý Túc (iddhi-pàda) mà Như Lai được gọi là vị A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác (Tương Ưng Bộ Kinh V, 423). Cũng trong kinh Tương Ưng, ở một đoạn khác, đức Phật khẳng định nhờ vào sự phát triển Năm Căn (pa~ncindriyàni) (Tương Ưng Bộ Kinh V, 312, 361) hoặc tu tập Thất Bồ-đề Phần (satta bojjha"ngà) mà chúng sanh phàm phu trở thành bậc giác ngộ (Tương Ưng Bộ Kinh V, 201-202). Về sau, số lượng pháp môn được tăng lên thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo (sattati.msà bodhipakkhiyà dhammà) (Trường Bộ Kinh I, 614). Với sự phát triển của Phật giáo Đại thừa, các Ba-la-mật (pàramità) và các Địa (bhùmi) cũng được xem như những con đường dẫn đến giác ngộ (Xem Phẩm Thập Địa trong Kinh Hoa Nghiêm). Rồi dần dà, con đường giác ngộ được nhân lên thành tám vạn bốn ngàn pháp môn, một con số tượng trưng cho số lượng lớn không thể tính đếm được. Nghĩa là theo đạo Phật Đại thừa, con đường giác ngộ không có giới hạn, sẵn sàng đón nhận tất cả chúng sanh có tấm lòng tầm cầu giải thoát khỏi đau khổ của nhà lửa ba cõi. VI. KẾT LUẬN Nếu hiểu theo tâm lý học và nhận thức luận thì giác ngộ là một quá trình chuyển hóa. Sự chuyển hoá có thể diễn ra ở bốn phương diện, đó là tri thức, tình cảm, thái độ và cách cư xử. Trước hết là sự chuyển hóa về tri thức: ngu muội (avijjà) được thay thế bằng tuệ giác (vijjà = pa~n~nà). Thứ hai là sự chuyển hóa tình cảm: thái độ sợ hãi và lo âu được thay thế bằng sự an tịnh và vô uý; đau khổ bằng hạnh phúc; tham lam, keo kiệt được thay thế bằng sự độ lượng, sẵn lòng giúp đỡ tha nhân; vị kỷ hay ích kỷ được thay thế bằng tấm lòng vị tha vô ngã, v.v… Thứ ba là sự chuyển hóa trong thái độ: chấp thủ được thay thế bằng ly tham; hận thù bằng tình hữu nghị; ác tâm bằng lòng thương. Thứ tư là sự chuyển hóa trong cách cư xử: sự tước đoạt được thay thế bằng sự ban cho; lười biếng bằng năng động; sự phá hoại bằng sự tạo ra. . . Bốn phương diện chuyển hoá trên vốn phụ thuộc lẫn nhau như Lý Duyên Khởi (pa.ticcasamuppàda). Nghĩa là sự chuyển hóa về tri thức sẽ có thể dẫn đến sự chuyển hóa về tình cảm, từ đó đưa đến sự thay đổi về thái độ, và về cách cư xử, để có được một đời sống trong sạch và an tịnh trong ý nghĩ, lời nói và hành động. Người Phật tử tu tập con đường giác ngộ là để làm cho chính mình được hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho người khác ngay trong hiện tại. Tùy theo mức độ tuệ tri mà kết quả hạnh phúc đạt được nhiều hay ít. Đức Phật dạy: "Người chỉ hành trì một phần, thì thành tựu cũng chỉ một phần; người hành trì toàn phần, thì thành tựu được toàn phần." (Tăng Chi Bộ Kinh I, 422). Tương tự, Tương Ưng Bộ Kinh V, 315 ghi: "Ai làm viên mãn, được quả viên mãn; ai làm từng phần, được quả từng phần." Tóm lại, khác với và vượt lên trên sự cứu rỗi trong các tôn giáo khác, sự giác ngộ trong Phật giáo không phải là một cái gì huyền bí hay siêu nhiên. Nó chỉ là sự chuyển hóa toàn diện về tri thức, tình cảm, thái độ và cách cư xử. Giác ngộ do đó có thể đạt được hay chứng nghiệm ngay trong đời sống này khi các nỗ lực chân chánh của cá nhân được đầu tư và thực hiện đúng mức. Vì quả vị giác ngộ được thực hiện ngay trong đời sống đau khổ này, tại giây phút hiện tại này, người đạt được giác ngộ vẫn sống trong thế giới như mọi người, có những nhu cầu cần thiết hằng ngày, thực hiện bổn phận, nhưng có điều, vị ấy không giống như người thế tục, ở chỗ, vị ấy hoàn toàn không còn các chấp thủ cá nhân, tính hẹp hòi, ích kỷ; trái lại vị ấy sống với lòng vị tha, không vướng mắc mọi thứ ở đời (Tăng Chi Bộ Kinh IV, 444). Tâm hành của vị ấy do vậy được kinh mô tả như cánh chim bay lượn trên bầu trời xanh bao la không để lại dấu vết ! (Pháp Cú, kệ 92-93). GHI CHÚ - Các tham khảo về kinh điển Pàli và bản dịch tiếng Anh trong bài viết này đều dựa trên ấn bản của Hội Thánh Điển Pàli (PTS). Các bản dịch tiếng Việt về kinh điển Pàli đều của HT. Thích Minh Châu, ấn bản Đại Tạng Kinh Việt Nam, do Viện Nghiên Cứu Việt Nam ấn hành. - Chữ P và chữ S trong dấu ngoặc đơn là viết tắt của các chữ Pàli và Sanskrit.
-
Nhà tiên tri nổi tiếng người Mỹ Edgar Cayce tiên đoán về thế kỷ XXI Tác giả: Nguyên Tuyền chỉnh lý “Nhà tiên tri ngủ gật” Edgar Cayce (1877-1945) rất nổi tiếng ở phương Tây, lời tiên tri của ông bao hàm nhiều lĩnh vực, độ chuẩn xác cực cao, đề cập đến các cá nhân, đoàn thể, quốc gia, tình thế thế giới, và cả hướng đi trong tương lai của nhân loại. Giống như ông có thể “thấy tận mắt” trọn đường đời của một người nào đó kể cả các chi tiết tỉ mỉ, có thể nói ra công việc trong tương lai của đứa bé còn trong tã lót. Ông còn tiên đoán chính xác về hai lần thế chiến, khủng hoảng kinh tế năm 1929, việc giành độc lập của Ấn Độ, Israel lập quốc, cùng các vấn đề hỗn loạn do chủng tộc ở nước Mỹ, Tổng thống nước Mỹ qua đời trong nhiệm kỳ, những lời tiên đoán này của ông hết thảy đều đã được nghiệm chứng. Người ta còn thành lập “Quỹ Cayce” để tiến hành tổng hợp và kiểm tra tất cả những lời tiên đoán của ông, kết quả thống kê đưa ra xác suất chuẩn xác khiến mọi người sợ hãi thán phục. Cayce có niềm yêu thích đặc biệt đối với nền văn minh tiền sử Atlantis đã chìm trong Đại Tây Dương, cả đời ông đã từng đề cập vấn đề này mấy trăm lần, không chỉ tường thuật lại chi tiết, tỉ mỉ đặc trưng, mà còn tiên đoán Atlantis vào năm 1968 mới được con người phát hiện. Năm 1968, người ta quả nhiên phát hiện dưới đáy biển Bimini ở Đại Tây Dương có một con đường hình vuông bằng đá lớn, đây chính là vùng biển Atlantis mà Cayce đã miêu tả. Nhưng Cayce lại không cho mình là có siêu năng lực, ông nói rằng những năng lực này là bản năng bẩm sinh của bất kỳ ai; chỉ có người đã loại bỏ đi chấp trước vào lợi ích cá nhân đến mức nhất định (detachment from self-interest) mới có thể có được năng lực này, và rằng khả năng của con người là vượt quá trí tưởng tượng của con người hiện đại. Cả đời ông để lại gần 15.000 lời tiên tri, trong đó tiên tri về hướng đi tương lai của nền văn minh chỉ chiếm một bộ phận rất nhỏ, nhưng gây rất nhiều hứng thú đối với rất nhiều người, dẫu cho có một ít nội dung cho đến nay vẫn không thể hoàn toàn giải mã. Thế chiến lần thứ II chính là đại nạn trong lịch sử của nhân loại, bởi vậy đối mặt với tương lai của thế giới đang đi về hướng mờ mịt, rất nhiều người đã đến xin sự chỉ dẫn của Cayce. Trước khi thế chiến thứ II bắt đầu, Cayce đã tiên đoán rằng có sự trỗi dậy của Hitler, Nhật Bản, thời gian chiến tranh kết thúc. Nhưng giống như ông đã nói rất nhiều lời tiên tri xuất phát từ sự gợi ý từ các sinh mệnh ở không gian cao tầng hơn, tầm mắt quan sát của Cayce cũng không bị giới hạn ở bề mặt vật chất, rất nhiều giống như “tường thuật trực quan” lại vô cùng chính xác một cách tinh diệu, ý vị sâu xa mà lại khiến người ta say mê. Khi giảng đến chiến tranh thế giới và cục diện thế giới thật ra đều liên quan đến ý thức và tội nghiệp của mọi người, Cayce đánh giá một cách sinh động tình huống của các quốc gia như sau: Như trùm tài chính, một hội kín cùng nước Đức-được xưng là “khoác lên mình tấm áo của Hội huynh đệ, trở thành quỷ hút máu của thế giới”, Italia là “vì một bát súp thịt mà bán rẻ chính mình”; Nhật Bản năm 1931 xâm nhập vào Trung Quốc là muốn “trở thành lực lượng chi phối”; đế quốc Anh già nua “mặt trời không bao giờ lặn” lại “một mực tự cho là có cách nghĩ cao minh hơn các quốc gia khác”, tội của nước Pháp là “phóng đại dục vọng thân thể”; tội của Ấn Độ là “ngoại trừ tìm kiếm trong nội tâm ra, có văn minh xán lạn nhưng lại khước từ thực hiện”; tội của nước Mỹ là “đã quên mất nguyên tắc Thượng Đế là đồng tại với chúng ta”. Những bình luận trực quan này khiến người ta cảm thấy thú vị, cũng rất sâu sắc. Tuy nhiên, những lời tiên đoán và đánh giá của Cayce đối với Trung Quốc mới là tường tận nhất. Ngày 24 tháng 1 năm 1925, trong trạng thái tiên tri Cayce đã chủ động kể ra sự tình sẽ phát sinh ở Trung Quốc: “Giữa năm 1931, Trung Quốc sẽ ở vào một giai đoạn đặc biệt, tại Mãn Châu sẽ xuất hiện tai hoạ đổ máu…”, đây chính là nói về sự kiện Nhật Bản xâm Hoa vào 6 năm sau. Ngày 30 tháng 7 năm 1927, ông tiếp tục đọc lên tình hình mà bản thân thấy được: “Một vài sự kiện đặc biệt phát sinh ở trên thân thể người Trung Quốc, ở trên thân thể người Nhật, một số lực lượng người ngoài hành tinh xâm lấn từ bên ngoài đã có được thế lực rồi…”, điều này có chút khiến người ta khó hiểu, bởi vì lúc đó mọi người không có bao nhiêu khái niệm về người ngoài hành tinh và sự can thiệp vào nền văn minh, nhưng Cayce cũng đã nói ra. Nhưng khiến người phương Tây kinh ngạc nhất chính là ông đã đưa ra lời tiên đoán cho một giai đoạn của Trung Quốc: “Trung Quốc thông qua sự phát triển chậm chạp mà bảo tồn nền văn minh của mình… Nàng có một ngày sẽ thức tỉnh, cắt đứt bím tóc! Bắt đầu suy nghĩ thực tế!” Cayce tuyên bố: “Có một ngày, nơi Trung Quốc ấy sẽ là cái nôi thai nghén ra Christianity (theo ngôn ngữ tiếng Anh hiện đại, nghĩa bề mặt là chỉ Cơ Đốc giáo), cũng áp dụng trong sinh hoạt của mọi người. Đúng vậy, sự kiện này đối với mọi người mà nói thì rất xa xôi, nhưng đối với Thần thì rất nhanh-rất nhanh, Trung Quốc sẽ tỉnh lại!” Đoạn câu sau khiến người ta khó lý giải, bởi vì Cơ Đốc giáo đã ra đời từ sớm, nhưng người ta vẫn trung thực ghi lại nguyên văn lời của ông: “Yea, there in China one day will be the cradle of Christianity, as applied in the lives of men. It is far off, as man counts tune, but only a day in the heart of God. For tomorrow China will awake.” Đối với điều này, các học giả phương Tây đã đưa ra một cách giải thích, tức là lời tiên đoán có thể chỉ về việc Trung Quốc sẽ xuất hiện một tín ngưỡng tương tự như Phật giáo, Cơ Đốc giáo, một tín ngưỡng và văn minh mới sẽ được sinh ra đời, đối với tương lai rất có ảnh hưởng, đây là lý giải không ở trên chữ nghĩa bề mặt đối với từ Christianity [1]. Cayce đối với biến hoá của tương lai cũng đề cập rất cụ thể: Ở thế kỷ 21, mọi người sẽ nhận ra trục trái đất đang di động; khí hậu biến đổi, toàn cầu sẽ ấm lên, vùng băng giá sẽ ấm áp; động đất phát sinh nhiều lần, nước biển dâng lên, một phần nước Mỹ sẽ bị ngập, phần lớn nước Nhật sẽ bị chìm; thế giới thiếu lương thực, miền Trung nước Mỹ, Argentina và Châu Phi sẽ trở thành vựa lúa của thế giới;… Mark Thueston là chuyên gia nghiên cứu các lời tiên tri của Cayce. Khi phát hiện ra tính chuẩn xác khiến người ta thán phục trong những lời tiên tri của Cayce, ông bắt đầu tiến hành biên soạn lại một cách chu đáo hơn 10.000 lời tiên đoán, đặt tên là “Lời tiên tri của Cayce về thế kỷ 21” (Cayce’s Prediction for the 21th Century), sau còn chỉnh lý thêm “Những lời tiên tri chưa trở thành hiện thực của Cayce trong thế kỷ 20″, cung cấp nghiệm chứng và tham khảo cho người đời sau, và dưới đây là chín lời tiên đoán quan trọng trong số đó: 1. Một phương pháp chữa bệnh mới sẽ xuất hiện - căn cứ vào sự lưu động và chuyển hoán trong hệ thống năng lượng của thân thể người và tâm linh; 2. Nguyên thần không chết, sự luân hồi của sinh mệnh sẽ được đại chúng phổ biến và tiếp nhận; 3. Khoa học và tâm linh chấm dứt tranh luận; 4. Bề mặt trái đất sẽ phát sinh biến đổi to lớn, kể cả sự thay đổi khí hậu; 5. Trọng tâm của thế giới sẽ chuyển về phương Đông, Trung Quốc Đại Lục sẽ chiếm vị trí trọng yếu; 6. Các phát hiện khảo cổ về văn minh tiền sử sẽ dần dần thay đổi nhận thức của nhân loại đối với lịch sử; 7. Trực giác và siêu năng lực sẽ xuất hiện rộng rãi, rất nhiều người có thể trực tiếp câu thông với không gian khác; 8. Nguyên tắc vũ trụ “Thái Nhất” [2] sẽ trở thành phép tuân thủ trong mọi hoạt động của nhân loại: một tín ngưỡng mới hoàn toàn sẽ xuất hiện, cũng chỉ đạo tất cả khoa học, chỉnh thể “Thái Nhất” của nhân loại sẽ trở thành hạch tâm cho tất cả hoạt động chính trị và kinh tế của thế giới xoay quanh, tín ngưỡng mới là ánh sáng của vũ trụ. 9. Chúa Cứu Thế sẽ đến. Thời điểm Cayce giảng thuật những lời tiên tri này, nhân loại vẫn chưa tiến vào thời đại điện tử, và thế chiến thứ II cũng chưa kết thúc; rất rõ ràng, Cayce có năng lực và trí tuệ vượt xa phạm vi hiểu biết của thời đại ông. “Các chòm sao và thiên tượng đang biến hoá, đến lúc đó, bản thân nhân loại sẽ bắt đầu thức tỉnh và thay đổi. Rất nhiều linh hồn vĩ đại trong lịch sử đã qua đời sẽ trở về, sinh ra ảnh hưởng cực lớn đến thế giới.” Cayce nói, đợi “khi thời gian Điều Chỉnh kết thúc”, “chính nghĩa sẽ tồn tại vĩnh viễn trên trái đất”. Chú thích: [1] Christianity: trong tiếng Anh hiện đại thông thường là chỉ về Cơ Đốc giáo; thật ra trong tiếng Anh nó có rất nhiều hàm nghĩa, tiếng Anh cổ điển của từ này ngụ ý chỉ về thánh tính và niềm tin thần thánh. Trong lời tiên tri, có thể Cayce đã dùng từ này như một ẩn dụ về một loại tín ngưỡng tinh thần tương tự Cơ Đốc giáo. Ngoài ra, tra từ nguyên, Christianity có từ căn là Christ (Cơ Đốc, Chúa Cứu Thế), xuất phát từ văn bản Do Thái là Masiah (Di Trại Á), ý tức là Chúa Cứu Thế; rất nhiều học giả cận đại đã khảo chứng và phát hiện Đấng Cứu Thế (Masiah) của tôn giáo phương Tây và Phật Di Lạc (Maitreya) trong chữ Phạn có sự liên hệ, ông Tiền Văn Trung (Qian Wenzhong) gần đây đã công khai đưa ra quan điểm học thuật “Phật Di Lạc tương lai trong Phật gia và Chúa Cứu Thế của Cơ Đốc giáo là cùng một người”. [2] Thái Nhất: là khái niệm mà các nhà triết học phương Đông đưa ra, thường chỉ về bản nguyên và cội nguồn của vạn vật trong vũ trụ.
-
Giải «Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi» Tác giả: Mộc Tử "Trăm năm đại sự hồn như mộng, Nam Triều phấn vàng thái bình xuân" “Thế vũ tam phân, Hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan, Long trương kỳ phục, Thiên địa phục minh, Xử trị vạn vật, Tứ hải âu ca, Ấm thụ kỳ phúc”. Giới thiệu: «Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi» do một vị cư sĩ Phật gia sống vào những năm Quang Tự triều Thanh vô tình tìm được tại chùa Sơn Bích ở Tây Sơn, Bắc Kinh. Tương truyền Bộ Hư nguyên là một Đại tướng triều Tùy, sau khi chứng kiến cảnh hủ bại loạn ly thời Tùy mạt đã xuất gia lánh nạn tại núi Thiên Đài. Dự ngôn này đối với ước chừng một thế kỷ thời cận đại đã giảng hết sức tỉ mỉ, kết thúc bằng một đoạn miêu tả thời thái bình thịnh thế, nhưng ngôn ngữ mơ hồ khó hiểu. * * * Sau đây là phần giải nghĩa: Giải: “Mây u ám” chỉ không có ánh quang, “sương ưu sầu” chỉ “sầu tự” (u sầu). “Thổ hầu” là Mậu Thân, chỉ Hoàng đế Quang Tự mất năm 1908 Mậu Thân, Tuyên Thống 3 tuổi làm Hoàng đế được 3 năm. “Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu”, ba điểm bộ Thủy (氵) cộng thêm “nguyệt” (月) rồi thêm “chủ” (主) hợp thành chữ “Thanh” (清), chỉ triều Thanh diệt vong (“nước không trôi”). “Nhất đán” ám chỉ nguyên đán năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc thành lập. — Đoạn thứ nhất — Vân ám ám, vụ sầu sầu, Long quy nê thổ tố mi hầu. Tam tuế hài đồng tam tái phúc, Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu, Vạn lý yên ba nhất đán thu. Tạm dịch: Mây u ám, sương ưu sầu. Rồng về đất thổ nặn khỉ hầu. Đứa trẻ ba tuổi ba năm phúc, Trăng dưới không chủ nước không trôi, Khói sóng vạn dặm một ngày thu. Giải: “Vua làm tổ” là chữ “Tôn” (孙), “chất nho nhã” là chữ “Văn” (文), chỉ Tôn Trung Sơn tổ chức khởi nghĩa Vũ Xương, sáng lập Trung Hoa Dân Quốc, lúc đầu lấy cờ ngũ sắc, đỏ vàng lam trắng đen, làm quốc kỳ. — Đoạn thứ hai — Quân tố tổ, chất bân bân, Vạn lý trường hồng phá lãng chinh. Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc địch, Bát phương tề xướng khải ca ngâm, Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân. Tạm dịch: Vua làm tổ, chất nho nhã, Cầu vồng vạn dặm phá sóng chinh. Giữa Hoàng Hạc Lâu thổi sáo ngọc, Tám phương cùng hát khúc khải hoàn, Cờ quạt ngũ sắc đổi mới mới. Giải: “Cát sĩ hoài nhu” (吉士怀柔) ám chỉ chữ Viên (袁); “tam thập niên biến”, tam thập niên là một thời đại, ám chỉ chữ “Thế” (世); “khởi phàm” (岂凡) hợp lại thành một chữ “Khải” (凯). Chỉ Viên Thế Khải làm Hoàng đế trong 100 ngày. “Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ đấu” chỉ cục diện quân phiệt hỗn chiến vào thời kỳ đầu Dân Quốc. 15 năm sau (=7+8), năm 1926, quân Quốc Dân Bắc phạt, sơ bộ thống nhất Trung Quốc. — Đoạn thứ ba — Cát sĩ hoài nhu, tam thập niên biến, Khởi phàm nhân tai, đàm hoa nhất hiện. Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ chiến, Thất bát số định, sơn xuyên thô điện. Tạm dịch: Kẻ may dụ dỗ, ba thập niên biến, Há phàm nhân ư, sớm nở tối tàn. Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ đấu, Bảy tám số định, núi sông sơ đặt. Giải: Chữ “thảo” (草) thêm chữ “tương” (将) thành chữ Tưởng (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch giành giật Trung Nguyên, thống nhất Trung Quốc. Mấy câu sau ý nói tụ hợp tại Nam Kinh, thành lập chính phủ Quốc Dân, thế nước hưng thịnh. — Đoạn thứ tư — Can qua khởi, trục lộc mang, Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn. Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ, Phong vân tụ hội đáo Giang Nam, Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang. Tạm dịch: Khởi can qua, bận giành giật, Anh hùng cỏ hoang sắp xuống núi. Bao nhiêu giáo mác kẻ hào kiệt, Mây gió tụ hội đến Giang Nam, Kim Lăng nhật nguyệt thấy ánh quang. Giải: “Hổ Doanh Châu, chở sói biển” chỉ Nhật Bản xâm Hoa. “Sấm xuân” chỉ bom nguyên tử, bom nguyên tử nổ là Nhật Bản đầu hàng. — Đoạn thứ năm — Doanh Châu hổ, độ hải lang, Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng. Mang mang Thần Châu thương phá toái, Thương sinh xứ xứ khốc gia nương, Xuân lôi sạ hưởng kiến tình dương. Tạm dịch: Hổ Doanh Châu, chở sói biển, Khắp trời hồng nhật thêm ảm đạm. Mênh mang Thần Châu thương nát tan, Trăm họ nơi nơi thương khóc mẹ, Sấm xuân đột vang thấy trời quang. Giải: “Doanh Tế Liễu” ở vùng phụ cận Tây An, “đôi sư vồ cầu” chỉ hai phe Quốc-cộng cùng nhau viết bài “kháng Nhật”, “cầu” chỉ Nhật Bản. Trương Học Lương, Dương Hổ Thành phát động binh biến, Tưởng Giới Thạch rơi vào bẫy của Trung Cộng, Tống Mỹ Linh đứng ra giải cứu. — Đoạn thứ sáu — Tế Liễu doanh trung, quần hùng hào ẩm. Nguyệt yểm Trung Thu, hàm thụy vị tỉnh. Song sư bác cầu, nhất trụy kỳ tỉnh. Hồng phấn giai nhân, diện diễm anh cảnh. Tạm dịch: Giữa doanh Tế Liễu, quần hùng hả hê. Trung Thu lấp trăng, ngủ ngon chưa tỉnh. Đôi sư vồ cầu, một rớt xuống giếng. Giai nhân phấn hồng, anh đào kiều diễm. Giải: Nước Mỹ thả bom nguyên tử, Nhật Bản đầu hàng, tin mừng thắng lợi truyền đến Nam Kinh, chính phủ Quốc Dân mở tiệc chỉnh trang non sông, nhưng ngày đẹp không lâu, Mao Trạch Đông lại phát động nội chiến. — Đoạn thứ bảy — Xuân lôi tạc, thụ bạch kỳ, Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề. Thạch đầu thành trung phi phù đáo, Tái khán trọng chỉnh Hán cung nghi, Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu. Tạm dịch: Sấm xuân nổ, dựng bạch kỳ, Nghìn vạn quỷ sống khóc dầm dề. Trong tòa thành đá bùa bay đến, Lại thấy vào đúng đồ Hán cung, Núi Đông lại có ánh lửa chiếu. Giải: “Hai bảy đan xen”, chữ “nhị” (二) đan với chữ “thất” (七) chính là chữ “Mao” (毛). Chỉ Mao Trạch Đông mặc áo đỏ máu, tổ chức hoạt động khủng bố, cả nước cắm cờ đỏ, làm đấu tố, đâu đâu cũng là mất mùa. — Đoạn thứ tám — Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hi, Nhị thất giao gia quải thái y. Dã nhân cử túc bách kim hổ, Biến địa hồng hoa biến địa cơ, Phú quý bần tiện vô cao đê. Tạm dịch: Nhật nguyệt mòn, ngũ tinh thưa, Hai bảy đan xen áo bị thương. Người hoang giơ chân bức hổ vàng, Khắp nơi hoa đỏ khắp nơi đói, Phú quý bần tiện không cao thấp. Giải: “Nhị thất tung hoành” vẫn là chữ “Mao” (毛), “nhất ngưu song vĩ”, chữ “ngưu” (牛) thêm hai đuôi chính là chữ “Chu” (朱), chỉ Mao Trạch Đông và Chu Đức thường xuyên không làm việc của người. “Ba ba vàng biển” chỉ Đài Loan kinh tế phát đạt, nhân dân giàu có, “áo đen luật lữ” chỉ kế thừa Hán phục, Hán khúc, tức văn hóa truyền thống Trung Hoa. “Chim sắt vút trời, Đông Nam hủy sạch” chỉ phi cơ chỉ có thể bay vào Đại Lục rải truyền đơn, đất Giang Nam bị Trung Cộng phá hủy. — Đoạn thứ chín — Nhị thất tung hoành, nhất ngưu song vĩ, Vô phục nhân hình, nhật hành hằng quỹ. Hải thượng kim miết, huyền phục luật lữ, Thiết điểu lăng không, Đông Nam tận hủy. Tạm dịch: Hai bảy tung hoành, một trâu hai đuôi, Không lại hình người, ngày đi đường mãi. Ba ba vàng biển, áo đen luật lữ, Chim sắt vút trời, Đông Nam hủy sạch. Giải: “Mây đỏ sáng, mây trắng bốc” chỉ Trung Cộng lan tràn, Dân Quốc rút về Đài Loan. Chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới giết người như ma. “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng” chỉ năm Thỏ 1951, Đại sư Lý Hồng Chí đến thế gian, quảng truyền Đại Pháp vũ trụ. “Tương tương”, lấy “Mộc” (木) ở chữ “tương” (相) ghép với “Tử” (子) ở chữ “tương” (将) được chữ “Lý” (李), chỉ họ Lý. — Đoạn thứ mười — Hồng hà úy, bạch vân chưng, Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình. Tứ hải thủy trung giai xích sắc, Bạch cốt như khâu mãn cương lăng, Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng. Tạm dịch: Mây đỏ sáng, mây trắng bốc, Nước chảy hoa trôi sao vô tình. Bốn biển trong nước đều sắc đỏ, Xương trắng như gò khắp mộ đồi, Vừa lúc Thỏ Ngọc chạy lên Đông. — Đoạn thứ mười một — Cái quan định, Công tội phân, Mang mang hải vũ kiến thừa bình. Bách niên đại sự hồn như mộng, Nam Triều kim phấn thái bình xuân, Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh. Tạm dịch: Nắp hòm đậy, công tội phân, Biển nhà mênh mông thấy thái bình. Trăm năm đại sự hồn như mộng, Nam Triều phấn vàng thái bình xuân, Non sông vạn dặm xứ xứ thanh. Giải: “Nắp hòm đậy, công tội phân”, chỉ ngày thẩm phán đối với những người theo Trung Cộng. “Biển nhà mênh mông thấy thái bình” giống “Quét sạch gió mây mới thấy thiên” trong «Thôi Bối Đồ», “Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ” trong «Mai Hoa Thi», “Nếu hỏi năm thái bình, Dựng cầu nghênh tân chủ” trong «Lưu Bá Ôn bia ký», chỉ cuộc bức hại Pháp Luân Công của Trung Cộng cuối cùng thất bại. “Trăm năm đại sự hồn như mộng, Nam Triều phấn vàng thái bình xuân”, chỉ năm 1912 triều Thanh vong, 100 năm sau vào mùa Xuân thiên hạ thái bình, giống “Số điểm hoa mai trời đất xuân” trong «Mai Hoa Thi». — Đoạn thứ mười hai — Thế vũ tam phân, hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan, long trương kỳ phục. Thiên địa phục minh, xử trị vạn vật, Tứ hải âu ca, ấm thụ kỳ phúc. Tạm dịch: Thế giới chia ba, có Thánh nhân xuất, Đội mũ huyền sắc, trang phục rồng bay. Trời đất sáng tỏ, sửa trị vạn vật, Bốn biển ngợi ca, đắm trong hạnh phúc. Giải: “Thế vũ tam phân” chỉ thiên hạ phân làm ba loại, cứu người, được cứu, và bị đào thải. “Hữu Thánh nhân xuất” là nói có Thánh nhân xuất thế. “Huyền sắc kỳ quan, long trương kỳ phục” ám chỉ “hắc long” (“huyền” là màu đen), tức năm 2012 Nhâm Thìn. Tới đây trời đất sáng tỏ, Thánh nhân sẽ sửa trị vạn vật, giáo hóa toàn nhân loại.
-
Định nghĩa định mệnh Tham khảo Internet Từ ngữ “định mệnh” có nghĩa là “số mệnh do một lực lượng huyền bí định sẵn”. Mặc dù đôi lúc người ta nghĩ rằng một lực ngẫu nhiên định đoạt tương lai bằng một cách mà không ai tránh được và giải thích nổi, nhưng phần lớn người ta lại nghĩ lực này là một thần thánh. Sử gia về tôn giáo Helmer Ringgren giải thích: “Khía cạnh chính trong quan niệm tôn giáo là ý nghĩ cho rằng vận mệnh con người không phải là vô nghĩa hay ngẫu nhiên, nhưng do một quyền lực gây ra; và ta có thể gán cho quyền lực này chủ tâm và ý định”. Mặc dù người ta thường nghĩ họ có thể làm chủ được phần nào, nhưng nhiều người xem con người như những quân tốt tương đối bất lực trong một trận đấu cờ ngoài vòng kiểm soát của họ. Vì thế họ ‘đành thủ phận’. Từ lâu, các nhà thần học và triết gia cố công giải thích định mệnh. Sách The Encyclopedia of Religion nói: “Khái niệm về định mệnh, dù dưới biến thể, ngôn từ, hay sắc thái nghĩa nào đi nữa, cũng luôn chứa đựng yếu tố huyền bí cơ bản của nó”. Tuy nhiên, những ý tưởng rắc rối này đều có chung một khái niệm cho rằng một quyền lực siêu nhân nào đó kiểm soát và hướng dẫn sự việc của con người. Người ta nghĩ rằng lực này định đoạt trước đời sống từng cá nhân và cả quốc gia, khiến không thể tránh được tương lai cũng như đã không tránh được quá khứ. Một yếu tố quyết định Việc bạn tin nơi định mệnh có quan trọng không? “Hoàn cảnh trong đời sống người ta quyết định phần nhiều triết lý của họ, nhưng ngược lại triết lý của họ quyết định phần nhiều hoàn cảnh của họ”, triết gia người Anh Bertrand Russell viết. Thật thế, niềm tin nơi định mệnh—dù thật sự có định mệnh hay không—có thể quyết định cách chúng ta hành động. Vì tin rằng định mệnh là ý muốn của thần thánh mà nhiều người thụ động cam chịu hoàn cảnh của mình—dù nó bất công hay áp bức đến đâu—như thể là số phận đời mình không thể thay đổi được. Như thế, niềm tin nơi định mệnh làm suy yếu đi khái niệm về trách nhiệm cá nhân. Mặt khác, niềm tin nơi vận mệnh thúc đẩy những người khác đi theo hướng ngược lại. Thí dụ, khi truy nguyên sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và cuộc cách mạng kỹ nghệ, các sử gia quy về một số yếu tố. Một trong số đó là niềm tin nơi sự tiền định. Một số tôn giáo Tin Lành dạy rằng Đức Chúa Trời định trước sự cứu rỗi cho người ta. Nhà xã hội học người Đức Max Weber nói: “Sớm muộn mọi tín đồ sẽ đặt câu hỏi: ‘Tôi có phải là một trong những người được chọn không?’ ” Người ta cố tìm xem họ có phước của Đức Chúa Trời không và nhờ thế mà được sự cứu rỗi tiền định. Weber biện luận rằng họ làm điều này qua “hoạt động thế tục”. Thành công trong thương mại và tích lũy của cải được xem là dấu hiệu ân huệ của Đức Chúa Trời. "Ta chọn con" sự tinh vi trong ngôn ngữ, sự giải phóng là do mỗi cá nhân bởi vì chính anh ta muốn thế, còn bậc thầy chỉ hướng dẫn thôi chứ làm sao "lôi" anh ta lên được. Rất tinh vi, làm cho cá nhân "cứ tưởng mình được chọn tức ok" sau một khoảng thời gian dài, đây là khía cạnh "điều kiện hóa tâm lý của trẻ nhỏ cho tới lớn rất tinh vi". Chỉ cần một quả bom nguyên tử ở Hirosima là đứt "100,000 người rồi", vậy Ai được chọn? Con số này cũng "muỗi" so với 2.000.000 người Việt Nam chết đói năm 1945, nếu không có Việt Minh thì sẽ tăng nhiều nữa, vậy Ai được chọn? không nên chấp vào bất kỳ ngôn từ nào. Niềm tin nơi định mệnh đẩy một số người đến những hành động cực đoan. Trong thế chiến thứ hai, phi công cảm tử người Nhật tin nơi kamikaze, hay “thần phong”. Ý niệm cho rằng các thần thánh có ý định và người ta có thể đóng một vai trò trong ý định này đã khiến cái chết khủng khiếp đó thêm màu tôn giáo. Trong thập kỷ vừa qua, báo chí thường đăng những hàng tít lớn về những người đánh bom cảm tử ở Trung Đông với những cuộc tấn công khủng khiếp của họ. Thuyết định mệnh đóng một vai trò quan trọng trong những “cuộc tấn công cảm tử do tôn giáo khích động”, một từ điển bách khoa lưu ý. Trường lực từ những quy luật của các tầng lớp vũ trụ tương tác tới con người quá lớn, vượt ra khỏi sự xoay chuyển cũng mang tính vật chất của cá nhân được xem như vô cùng bé?
-
Bàn về Mật giáo: Nhờ tỷ giáo lý luận trong phạm trù khoa học, ta thấy sự tương quan giữa vật chất và tâm linh chỉ là nhất quán. Các nhà triết học và khoa học đã đi đến một kết luận bất ngờ là: “Nếu sự vật gồm những đặc tính, và khi những đặc tính ấy chỉ có trong trí não, thì tất cả khách quan trong vũ trụ gồm: vật chất, năng lực, nguyên tử, ngôi sao đều không có thực tại mà chỉ là sự cấu tạo của ý thức hay là những biểu tượng tạo ra bởi giác quan của con người”. Nên nhà bác học lớn của Anh quốc là Bertrand Russell nói rằng: “Đạo Phật bắt đầu từ chỗ khoa học không thể tiến tới được nữa vì những giới hạn của phương tiện khoa học. Nhưng chinh phục của đạo Phật thuộc về tâm”. (Tôi ghi chú thêm: nhưng để hiểu được "tâm" thì phải hiểu cả quy luật tổng thể vũ trụ. Tất cả đều là thực tại được phản ánh bởi "Tâm" và bởi ngay cả chính bởi bất kỳ một thực tại "vật chất" nào). Nhà bác học vật lý nói về thuyết Tương đối của Mỹ là Albert Einstein lại ca tụng đạo Phật: "Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được yêu cầu của nền khoa học tân tiến, tôn giáo đó chính là Phật giáo....v.v...Cơ cấu thực tại của sự vật chỉ là một trong các lĩnh vực đã được Đức Phật nói đến cách đây hơn 2500 năm trong hệ tư tưởng của Phật giáo”. Thế cho nên sự chinh phục ngoại cảnh của người tu đạo Phật là tất yếu, vì hành giả phải làm cho tam nghiệp thân, miệng, ý được tương ưng gọi là tam mật tịnh viên. Phải sử dụng sự thông thái cao siêu để phá tan những đam mê và ảo tưởng. Tiếp tục sự thực hành đó chắc chắn thực hiện được Phật tánh. Ba thứ thuốc độc tham, sân, si gây ra đau khổ cho người bây giờ trở thành kỳ diệu, nó trở thành đại hấp lực nhiệm mầu của vũ trụ. Lại Mật giáo có Bồ Tát Bất Không Quán Tự Tại, tiếng Phạn (AmoghânKúsa), vị Bồ Tát này thệ nguyện đem tâm đại từ bi cứu khổ chúng sanh. Nên phụng triệu chư Phật Thánh Trí vào trong tâm của chúng sanh và cũng hay câu triệu được tất cả tâm tường của chúng sanh thâm nhập cảnh giới của chư phật. Do nguyện lực này được thành tựu quyết định bất không ( trích Phật Quang Đại từ điển, quyển 1, trang 978). Nhờ tỷ lượng so sánh có trí huệ (Tỷ giáo khoa học) nên ta biết rằng: Vật chất về phương diện động cơ máy móc khi tiến nhanh đến cao độ thì các linh kiện của nó phải tương xứng hợp thành, nên công dụng lắm kỳ ảo, thao tác rất vi diệu như máy tính siêu mạng truyền tin (internet) hiện đại. Cũng như vậy: "Người tu hành Mật giáo, khi quán trí hành giả được cao độ, thì các tâm sở Định Huệ rất ưu việt, khế hiệp với ý thức tâm vương rồi dần dần biến thành diệu quan sát trí, thể nhập cảnh giới bất khả tư nghì của Phật và Bồ Tát. Bởi thế, nhà bác học Bertrand Russell mới bảo: “Chinh phục của đạo Phật thuộc về tâm linh kỳ diệu”. Vì vậy, hành giả tu về Mật giáo nếu trì chú được nhất tâm an trú tam muội tương ưng (thân, miệng, ý thanh tịnh) thì được cảnh giới tâm linh huyền diệu vĩ đại. Về cảnh giới Thiên Long Thần Quỷ...... thì ta phải hiểu qua lời dạy của Phật: “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”. Nên chúng ta phải hiểu cảnh giới Trời Rồng Thần Quỷ...v.v...phải có, bởi cái cảnh giới loài người này, chúng ta đang có đây. Dĩ nhiên cảnh giới Thiên Long Thần Quỷ và các vật loại khác phải có vậy. Nhân đọc tờ báo An ninh Thế giới số 68 ra ngày 3/4/1998, trang 02: Giải mã khả năng của nhà ngoại cảm tìm mộ- Nguyễn Văn Liên. Trích những đoạn quan yếu sau đây: “Năm 1978, Tạp chí “các nghiên cứu lúc gần chết”-Mỹ, đăng ý kiến của một số giáo sư bàn về bản chất và những bí ẩn của sự sống và tâm trí cùng các lĩnh vực siêu hình như khả năng tồn tại sau cái chết, ngoại cảm tâm linh cùng các lĩnh vực ngoại tâm lý khác. Như đã nhận xét, trong điều kiện bình thường, cơ thể sống luôn phát bức xạ điện từ, kể cả vùng quang học. Một nhà ngoại cảm có thể bắt được bức xạ tàn dư đó giống như đầu máy video đọc băng từ, do đó, thu được một số thông tin về người đã khuất. (Tôi ghi chú thêm: Làm quái gì có cái bức xạ tàn dư nào, đây là "linh hồn" hay "nhân loại vô hình"). Ngoại cảm tri giác phi giác quan. Theo Bách khoa thư, “Các hiện tượng dị thường” xuất bản tại Mỹ năm 1966, ngoại cảm là khả năng tri giác không qua các kênh cảm giác thông thường, bao gồm: Thần giao cách cảm là khả năng đọc được ý nghĩ người khác. Thấu thị là cách cảm nhận đối tượng một cách trực tiếp kơn là đọc ý nghĩ người quan sát. Tiên tri là khả năng biết các sự kiện tương lai. Hậu tri là khả năng biết các sự việc đã xảy ra trong quá khứ. *khả năng nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (Hà Nội). -Theo ý kiến cá nhân, để thực hành ngoại cảm, có lẽ anh Liên kết hợp được các khả năng thần giao cách cảm, thấu thị và hậu tri (qua đọc bức xạ tàn dư). Muốn hiểu khả năng của anh: -Phân cách tìm mộ: Quá trình tìm mộ... -Dò sóng. Vì có vô số nguồn tín hiệu, nơi thân nhân, cần khai tên, tuổi,nhận dạng mối quan hệ người chết giúp anh Liên nhận chân nguồn tín hiệu. anh có thể biết đại khái vị trí ngôi mộ. Do đọc ý nghĩ người đang sống quanh vùng, anh có thể vẽ sơ đồ ngôi mộ mà độ chính xác tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan..v.v...Giúp anh Liên nhìn thấy mặt người chết “như xem truyền hình đen trắng”. Khuôn mặt người chết mờ tỏ không chỉ phụ thuộc vào sự thành tâm của thân nhân, mà còn phụ thuộc vào độ nét của ký ức. -HIỆU CHỈNH: Trong quá trình này, anh Liên đọc ý nghĩ những người đi tìm và những người sống quanh vùng, nên có thể biết một số thông tin như trời sắp mưa, sắp gặp một đoàn mấy người...v.v..khiến chúng ta thấy lạ như trong “tiểu thuyết viễn tưởng”. Cùng với thấu thị, anh có thể giúp tìm được hài cốt. Ở đây, ta không đi trọn vẹn vào chuyên đề nhà ngoại cảm tìm mộ Nguyễn Văn Liên, mà cốt chỉ trích ra đề tài ấy giúp thêm cho ta hiểu biết về Mật giáo. Khi người hành giả dụng công tận lực thì có hiệu năng hơn khả năng ngoại cảm của người đời. Vậy xin trích Mật tông trong quyển Phật học Từ điển quyển II trang 292 của Đoàn Trung Còn: “Mật tông tức là Chơn Ngôn Tông cũng gọi là Bí Tông. Tông này lấy bộ Đại Nhật kinh và bộ Kim Cang Đảnh Kinh làm căn bổn. Tín đồ giữ ba cái mật : thân, khẩu, ý, lại nương vào sức linh phù (Mantra), chơn ngôn (Dhârani) và pháp ấn (Múdha) để tương ứng với Phật. Trong khi hành lễ, họ thành ra bực Chánh giác, tức nhiên có đủ sức linh như Phật. Vì Vậy, nên phái đồ gọi Tông của mình là Mật tông, thuộc về Mật giáo; họ bảo rằng các Tông khác thuộc về Hiển giáo”. Trong bài “Nhà ngoại cảm tìm mộ Nguyễn Văn Liên”, trang 3 có đoạn viết: “Không thể có Tâm bên ngoài vật, đó là điều khoa học và triết học đã khẳng định suốt mấy thế kỷ nay”. Xin thưa rõ rằng: Đạo Phật đã đi trước vấn đề này hơn 2000 rồi. Trong giáo lý Phật dạy qua các khế kinh: “Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”. Vì vũ trụ, vạn hữu đều là duyên khởi, tức là duyên sinh như huyễn, thế cho nên chẳng có Thiệt Pháp mà cũng chẳng có Thiệt Ngã (Ta) (Le-non-moi), “nó chỉ là duyên sinh giả hợp mà thôi”. Có người hỏi: Nếu như không có ta , tại sao trong các kinh, Phật cũng xưng là Ta? Trả lời: Vì Đức Phật mượn danh từ giả tạm xưng là Ngã (Ta) để thuyết pháp độ sanh. Như có một đoạn trong kinh: Phật nắm một nắm lá trong tay hỏi ngài A Nan: -Này A Nan, lá trong nắm tay ta nhiều hay lá trong rừng nhiều? -Bạch Thế Tôn, lá trong rừng nhiều vô số kể so với nắm lá ít ỏi trong nắm tay của Thế Tôn. -Này ông A nan, những điều ta đã và đang nói với ông và đại chúng như nắm lá trong bàn tay của ta, còn những gì ta chưa nói tới thì như lá cây trong rừng kia. Thực vậy, những gì Phật không nói là vì trong giai đoạn ấy, trong bối cảnh ấy, nó chưa có, chẳng có. Có nói cũng vô ích. Nhưng Phật và các Bồ Tát lớn đều thấy, đều biết rõ ràng, nên không quái ngại. Vì tâm không quái ngại nên không sợ hãi, lìa được các điên đảo mộng tưởng “có-không”, rốt ráo tịch tịnh. Ba đời chư Phật nương vào trí tuệ cứu cánh mà chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Để chứng minh sự tồn tại của linh hồn hay thế giới vô hình là rất phức tạp, cần phối hợp Tam Giáo: Phật, Lão, Nho (Phật giáo là gốc rễ) và học thuyết Âm Dương Ngũ hành, đặc biệt phải thấu hiểu bản thể vũ trụ thì mới chứng minh được. Nếu chỉ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thôi thì bất khả. Những bộ kinh Phật chú ý: - Lăng Nghiêm (thời ngài Huyền Trang thỉnh kinh thì chưa thỉnh được bộ kinh này). - Bát Nhã, - Du già. - Hoa nghiêm. - Lăng già... Nếu dùng các bộ Thánh kinh...v.v... này nọ để chứng minh sự tồn tại của linh hồn thì chẳng khác nào bệnh nhân bị bệnh não lại chữa bằng nước uống pha dầu Nhị Thiên Đường. Điều này không hàm nghĩa khi một người nào đó "tách" được linh hồn khỏi thể xác thì sự phức tạp nhất của vũ trụ là đạt tới hạn.
-
Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn (Bỏ qua các ý liên quan đến chính trị) Tác giả: Mộc Tử "Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng". Giới thiệu: Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ 20 dưới mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh Tưởng Giới Thạch, và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Những văn tự này được viết theo hình thức thơ Trung Hoa, với những câu nói bóng gió dự báo trước những sự kiện sẽ xảy đến trong 500-600 năm sau triều Minh. * * * Sau đây là phần giải nghĩa: Chú thích của người dịch: Chữ in đậm trong dấu ngoặc kép “” là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ in nghiêng trong dấu ngoặc đơn ( ) là diễn nghĩa của người dịch, chỉ có tác dụng tham khảo. “Kim Lăng tháp, Kim Lăng tháp” (Tháp Kim Lăng, Tháp Kim Lăng) “Lưu Cơ kiến, Giới Thạch sách” (Lưu Cơ xây, Giới Thạch phá) Lưu Bá Ôn xây, Tưởng Giới Thạch phá. “Sách liễu Kim Lăng tháp, Quân dân tự kỷ sát” (Tháp Kim Lăng phá rồi, Quân dân tự giết hại lẫn nhau) Khi tháp Kim Lăng bị phá là bắt đầu nội chiến Quốc-cộng. “Thảo đầu tương đối thảo đầu nhân” (Đầu cỏ đối đầu với người đầu cỏ) “Thảo đầu” ở đây (草头) là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản; “thảo đầu nhân” (草头人) là chữ “Tưởng” (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch. “Đáo vĩ chỉ thị bán súc quy” (Đến đuôi chỉ là rùa co lại một nửa) Chữ “quy” (龟) co đuôi rùa lại một nửa chính là chữ “Mao” (毛). “Hồng thủy hoành lưu thành trạch quốc” (Dòng nước lớn chảy tràn thành ngập lụt) Ở đây có chữ “Trạch” (泽). “Lộ thượng hành nhân bối hướng Tây” (Người đi trên đường quay lưng về hướng Tây) Chính là chữ “Đông” (东). “Nhật xuất Đông, Nhật một Tây” (Mặt trời mọc phía Đông, Mặt trời lặn phía Tây) Nhật Bản xâm lược Trung Quốc. “Gia gia hộ hộ thụ thảm thê” (Mỗi nhà mỗi hộ đều chịu thảm thương) “Đức tiêu diêu, Ý tiêu diêu” Đức và Ý chiến bại đầu hàng trong chiến tranh thế giới thứ II. “Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu” (Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng) “Hồng đầu kỳ, Đại đầu tinh” (Cờ màu đỏ, Ngôi sao lớn) Cờ đỏ và sao năm cánh của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). “Gia gia hộ hộ điếu linh đình” (Mỗi nhà mỗi hộ đều không nơi nương tựa) “Tam sơn lập túc, Ngũ tử tề vinh thăng” (Ba ngọn núi khó đứng vững, Năm đứa con đều hưng thịnh) Văn hóa truyền thống (Nho, Thích, Đạo) bị lật nhào, thay vào đó là cung phụng chủ nghĩa Mác-Lê (Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao). “Tâm mang mang, Ý mang mang” (Tâm bận rộn, Ý bận rộn) “Thanh phong kiều sách tẩu như cuồng” (Phong cách thanh nhã bị hủy đi như cuồng) “Nhĩ nhất đảng thời ngã nhất đảng” (Ngươi có đảng thì ta cũng có đảng) Chỉ Quốc Dân Đảng và đảng cộng sản. “Tọa cao đường, Thực cao lương” (Ngồi nơi hội trường lớn, Ăn thức ăn cao cấp) “Toàn bất kế cập tha nhân tang” (Hoàn toàn không màng tới tính mạng người khác) “Niệm bát nhân, Phù chúng vọng” (Hai mươi tám người, Được quần chúng tín nhiệm) “Cư nhiên ương châm thắng đao thương” (Mặc nhiên gieo mầm mống thắng cả vũ khí) ĐCSTQ lừa dối giành tín nhiệm của nhân dân, mặc nhiên phát triển từ nhỏ thành lớn, cuối cùng đoạt chính quyền. “Niệm” (廿) và “bát” (八) hợp thành chữ “cộng” (共). “Tiểu tinh quang, Tế tinh quang” (Sao nhỏ tỏa sáng, Che lấp ánh sao) “Niệm tướng nhị nhân tẩu Bắc phương” (Hai mươi tướng và hai người đi về phương Bắc) ĐCSTQ thắng thế, quân Quốc Dân Đảng bại trận chạy về Đông Bắc (“Niệm” (廿) và “nhân” (人) hợp thành chữ “cộng” (共)). Chữ “tướng” (将) [jiàng] là hài âm của chữ “Tưởng” (蒋) [jiǎng]. “Khứ gia mộc, Lộ bàng hoàng” (Rời nhà gỗ, Đường bàng hoàng) “Đáo xứ bôn ba nhân giai báng” (Bôn ba khắp nơi đều bị người phỉ báng) Tưởng Giới Thạch bôn ba khắp nơi cứu nước nhưng bị ĐCSTQ gièm pha bôi nhọ. “Đại hải lạc môn soan, Hà quảng vị vi quảng” (Biển lớn bị chặn bởi then cửa, Sông rộng mà lại không thành rộng) Đây là ĐCSTQ bao vây eo biển Đài Loan. “Lương điền vạn khoảnh vô nam canh, Đại hảo tàm ti vô nữ phưởng” (Ruộng tốt vạn khoảnh không có đàn ông canh tác, Tơ tằm rất tốt không có đàn bà xe sợi) “Lệ nhân thiên ái tương, Nhĩ ngã hỗ tương bang” (Phụ nữ đẹp thì được thiên vị, Ngươi và ta cùng bang trợ lẫn nhau) Nước Mỹ trợ giúp Tưởng Giới Thạch. “Đẹp” chính là “Mỹ”. “Tứ thủy hạnh Mộc nhật, Tam hổ sính hào cường” (Bốn Thủy hạnh phúc ngày Mộc, Ba hổ khoe khoang ngang tàng) Chữ “hạnh” (幸) ghép với bộ Thủy (氵) thành chữ “Trạch” (泽), chữ “nhật” (日) ghép với bộ “Mộc” (木) thành chữ “Đông” (东); “tam hổ” (三虎) là chữ “Bưu” (彪). Đây là chỉ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. “Bạch nhân thành uy vũ, Nhân tâm hoa điểu hoảng” (Người da trắng thành lực lượng lớn, Nhân tâm hoảng sợ như tranh hoa và chim) Nước Mỹ đứng ra điều đình. “Trục thủy khứ Nam hãn, Ngoại nhi quy mẫu bang” (Đuổi nước về đất phía Nam, Con ở ngoài quy về mẫu quốc) Dân Quốc rút về phương Nam, trấn thủ Đài Loan (nguyên là Nhật chiếm giữ). “Doanh hư nguyên hữu số, Thịnh suy dã hữu vô” (Đầy hay trống nguyên đã có số phận, Thịnh suy cũng như là có hay không) “Linh Sơn tao hạo kiếp, Liệt hỏa đảo phù đào” (Linh Sơn gặp nạn lớn, Lửa cháy như sóng gầm) Văn hóa Thần truyền, truyền thống Trung Hoa bắt đầu bị thuyết vô thần phá hoại. “Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm đào bất thoát” (Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm chạy không thoát) “Đông phong xuy tống thảo mộc ai” (Gió Đông thổi đi cây cỏ bi ai) Mao Trạch Đông phát động cuộc vận động cộng sản tại Trung Quốc. “Hồng thủy thao thiên trục nhật lai” (Dòng nước lớn cuộn trời hàng ngày tới) Các phong trào vận động chính trị tại Trung Quốc. “Lục căn vị tịnh tùy ba khứ” (Sáu căn không tịnh thì tùy theo sóng cuốn trôi) “Chính quả năng tu vãng thiên đài” (Có thể tu thành chính quả thì lên đài trên trời) “Nhị tứ bát, Tam thất cửu” (Hai bốn tám, Ba bảy chín) Tháng 8 năm Dân Quốc thứ 24 (1935), ĐCSTQ ra “Tuyên ngôn Bát Nhất”, bắt đầu lợi dụng chiêu bài “kháng Nhật” để lừa dối tiến hành thống nhất chiến tuyến. Tháng 9 năm Dân Quốc thứ 37 (1948), ĐCSTQ phát động “chiến dịch Liêu Thẩm”, bắt đầu nội chiến toàn diện đại quy mô. “Họa nguyên chủng kỷ cửu” (Căn nguyên của tai họa là từ xa xưa) “Dân tam dân thập dân tam thất” (Dân ba dân mười dân ba bảy) Năm Dân Quốc thứ 3 (1914), Viên Thế Khải nhậm chức; năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ĐCSTQ thành lập; năm Dân Quốc thứ 37 (1948), Dân Quốc di tản sang Đài Loan. “Cẩm tú hà sơn hoán nhất sắc” (Giang sơn gấm vóc đổi một màu) Trung Quốc biến thành một màu đỏ. “Mã bất điểm đầu thạch trầm để” (Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy) “Mã” (马) ở đây là chỉ “Mã Khắc Tư”, tức Marx; “thạch” (石) là chỉ “Thạch Đạt Lâm”, Trung Quốc Đại Lục phiên thành “Tư Đại Lâm”, tức Stalin. Tranh luận học thuyết Marx khiến ĐCSTQ và Stalin bằng mặt mà không bằng lòng. “Hồng hoa khai tận hoàng hoa khai” (Hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở) Sau khi Stalin chết, thế lực cộng sản quốc tế giảm dần, còn ĐCSTQ dần ngẩng mặt lên. “Tử Kim Sơn thượng mỹ nhân lai” (Mỹ nhân đến nơi ngọn núi tía {Tử Kim Sơn là ngọn núi nổi tiếng ở Nam Kinh}) Mao Trạch Đông và nước Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao (“Mỹ nhân” ở đây chỉ người Mỹ). “Nhất tai hoán nhất tai, Nhất hại hoán nhất hại” (Tai họa này thay tai họa khác, Tai hại này thay tai hại khác) ĐCSTQ hại nước hại dân. “Thập cửu giai nhân ngũ ngũ tuế, Địa linh nhân kiệt sản tân quý” (19 giai nhân 55 tuổi, Đất linh sinh hào kiệt mới) “Ngũ ngũ tuế” (五五岁) ẩn chữ “Hồ” (胡), “thập cửu giai nhân” (十九佳人) ẩn chữ “Diệu” (耀), ám chỉ Hồ Diệu Bang 74 tuổi thì được giải oan. “Anh hùng bạt tận thạch trung mao, Huyết lưu tiêu can vạn nhân hào” (Anh hùng nhổ sạch lông trong đá, Máu chảy cọc tiêu vạn người gào) Vạn Lý và Kiều Thạch thay nhau nhượng quyền, Giang Trạch Dân dẫm lên hài cốt sinh viên trong cuộc thảm sát Thiên An Môn để lên ngôi. “Đầu sinh giác, Nhãn sinh quang; Thứ dân bất dụng hoảng” (Đầu mọc sừng, mắt phóng quang; Dân đen không cần hoảng sợ) Đây là chỉ con “thú” bảy đầu mười sừng đi lên từ biển (Thượng Hải) trong «Khải Huyền», tức Giang Trạch Dân. “Quốc vận hưng long thời nhật đáo, Tứ thời hạ chủng thái bình lương” (Ngày mà vận nước hưng vượng đã tới, Bốn mùa gieo hạt lương thực thái bình) Năm 1998 là năm Hổ, sản lượng lương thực Trung Quốc đạt mức cao nhất trong lịch sử, cũng như dự ngôn «Thối Bối Đồ» nói: “Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, Bạch mễ doanh thương bất trị tiền” (Người đầu hổ gặp năm đầu hổ, Kho dư gạo trắng chẳng đáng tiền) {Giang Trạch Dân cũng sinh năm Hổ}. “Nhất khí sát nhân thiên thiên vạn, Đại dương tàn bạo quá sài lang” (Một khí giết người nghìn nghìn vạn, Dê lớn tàn bạo hơn lang sói) Năm 2003 là năm con Dê, dịch bệnh SARS hoành hành khắp Trung Quốc. “Khinh khí động sơn nhạc, Nhất tuyến thiết nan đương” (Khí nhẹ chấn động cả núi cao, Một sợi dây sắt cũng khó mà chịu nổi) “Nhân phùng mãnh hổ nan hồi tị, Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang” (Người gặp hổ dữ thì khó mà tránh được, Người có phúc phận thì sống ở sơn trang) Đây là miêu tả tập đoàn Giang Trạch Dân (thuộc Hổ) mang đến bao tai nạn cho nhân dân. “Phồn hoa thị, Biến uông dương” (Đô thị phồn hoa chìm trong biển nước mênh mông) “Cao lâu các, Biến nê cương” (Nhà lầu cao trở thành đống đổ nát trong bùn lầy) “Phụ mẫu tử, Nan mai táng” (Phụ mẫu chết, Khó mai táng) “Đa nương tử, Nhân tôn giang” (Cha mẹ chết, Con cháu vác) “Vạn vật đồng tao kiếp, Trùng nghĩ diệc tao ương” (Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương) “Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ, Điểu phi dương tẩu phản gia bang” (May được hai cành gỗ lớn chống đỡ cho lâu đài, Dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà) “Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, Trạch cập quần sinh lạc thả khang” (May gặp Mộc Thỏ thì được thọ, Chúng sinh vui mừng mà khỏe mạnh) Đây là chỉ Thánh nhân xuất sinh vào năm Thỏ – Đại sư Lý Hồng Chí mang đến phúc âm cho chúng sinh (*). “Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, Phú quý vinh hoa bách thế xương” (Ai biết được ý tứ ở trong đó thì phú quý vinh hoa thịnh vượng trăm đời) “Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, Xa thủy mã long cánh tịch hiêu” (Nhà lầu chọc trời lớp lớp tới tận mây xanh, Giao thông nhộn nhịp càng ầm ĩ về đêm) “Thiển thủy lý ngư chung hữu nạn, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu” (Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng) Dân Quốc thành lập năm 1912, đến năm 2012 là tròn 100 năm. Đây là hồi kết. Ghi chú: (*) Trong thơ dự ngôn của Bộ Hư Đại sư triều Tùy tiên tri về Thánh nhân giáng thế thời mạt thế rằng: “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng“, còn dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc nói: “Mạt thế Thánh quân Mộc nhân, Hà Mộc thượng cú mưu kiến tự; Dục tri sinh mệnh xứ tâm giác, Kim cưu Mộc thỏ“. Ngoài ra, dự ngôn «Trịnh Giám Lục» của Hàn Quốc còn giảng minh xác hơn nữa: “Ký ngữ thế gian độc giác sĩ, Tu tùng bạch Thỏ tẩu thanh lâm“. “Thanh lâm” (rừng xanh) ở đây chính là đối ứng với “hai cành gỗ lớn” ở bên trên”; chữ “lâm” (林) do hai chữ “Mộc” (木) ghép thành, đều chỉ Đại Thánh nhân thuộc Mộc.
-
Cái gì là thứ phức tạp nhất thế giới? Một câu hỏi hóc búa, nhưng đối với khoa học tự nhiên thì câu trả lời thực ra lại rất đơn giản, đó là bộ não con người! Phải công nhận là nhìn bề ngoài thì não con người chẳng có gì ghế gớm cả. Nó chỉ nặng khoảng 1,5kg, có hình quả hồ đào phóng to và sờ vào như đậu phụ. Thế nhưng trong đó lại ẩn chứa kết cấu có lẽ là phức tạp nhất vũ trụ. Một trăm tỷ tế bào thần kinh nhấp nháy truyền tin với nửa triệu tỷ các liên kết. Đại khái nhiều như một sự so sánh quen thuộc: đúng bằng số lá cây của rừng nhiệt đới Amazon. ((Richard David Precht - Tôi là ai và nếu vậy thì bao nhiêu?) Nếu xét hệ mặt trời có sự sống và cô lập con người trên trái đất so với toàn thể cấu trúc vũ trụ: - Ý thức và sự tự ý thức về bản thân mình và vũ trụ: nhận thức được nguồn gốc vũ trụ và vạn vật, gốc rễ phát sinh giác quan như thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm... - Sự ý thức về mặt đạo đức và khả năng sáng tạo: sản phẩm con người trong hệ mặt trời, nếu so sánh tới vũ trụ nhận thấy được theo khoa học hiện nay 15 tỷ năm ánh sáng thì hoàn toàn khác biệt, chẳng hạn tàu vũ trụ đã bay ra khỏi hệ mặt trời dù rằng nó nhỏ bé vô cùng khi so với kích cỡ vũ trụ. - Thực hiện được quá trình sinh sản vô tính từ sự nghiên cứu và sáng tạo. Sự hình thành và tiến hóa thực động vật tới con người không tách rời tới quá trình tương tác, chính tương tác đã làm nảy sinh ra vạn vật, điều này nếu nhận thức sâu xa hơn nữa thì tại thời điểm "vượn người" rụng đuôi, rụng lông thành "con người nguyên thủy" và ngay khi con người nguyên thủy này sáng tạo ra công cụ sơ khởi đầu tiên thì là lúc tính phức tạp về mặt "vật lý của con người" đã "dừng" (không còn mang tính tích tụ vật lý nữa), sau này chỉ phát triển trí tuệ trong sự cân bằng tương tác với vũ trụ cho tới nay. Sự phát triển trí tuệ cũng thể hiện cái ý nghĩa phức tạp gia tăng ngay trong cấu trúc cơ thể con người, vậy nó phức tạp nhất tại thời điểm nào? Phải chăng tại thời điểm hiểu hết cấu trúc vũ trụ, xây dựng được học thuyết thống nhất vũ trụ và đặc biệt nhất, đó là tự thân đã hòa nhập vào toàn thể vũ trụ thông qua học thuyết và các pháp môn xây dựng từ học thuyết trên (hiện tượng phát triển trí tuệ không mang tính tích tụ vật lý nữa mà mang tính trao đổi cân bằng ngay trong bộ não với vô vàn tương tác liên quan đến vũ trụ). Vậy thì, cho đến một nhân vật con người nào đây đã thực hiện điều trên là lúc, sự phức tạp cuối cùng đã hoàn thành hay sự tiến hóa về mặt nhận thức đạt đến đỉnh cao (mọi tương tác đều ngay lập tức ảnh hưởng đến toàn bộ vũ trụ) -> trong kinh Phật, đó là cấp Phật (lục độ luân hồi, trí tuệ thoái hóa thành súc sinh, ma quỷ) và chiếu theo lịch sử thượng cổ nước Văn Lang đó là từ thời Đế Hòa - Đế Minh (thời đại Ánh Sáng) cách đây hơn 5.000 năm trước một chút (khi vũ trụ tan rã thì vạn vật trong vũ trụ chỉ còn mang tính cân bằng vật lý thay vì tích tụ năng lượng thành vật thể cấu trúc thô hơn nữa - dạng như một vòng tuần hoàn vũ trụ nếu con người là phức tạp nhất vũ trụ - chẳng hạn vòng tuần hoàn nước trên trái đất, cho dù bất kỳ một sự sáng tạo trong trí não mới hơn nữa của khoa học - điểm tới hạn). Vậy, rõ ràng một điều, nếu cô lập trái đất trong hệ mặt trời và vũ trụ nhận thấy được theo khoa học 15 tỷ năm ánh sáng thì, vũ trụ đã phân rã kể từ cách đây ước khoảng 5.000 năm hoặc tại thời điểm vượn người chuyển hóa thành người nguyên thủy và cũng cần xem xét lại một lần nữa tới sự tiến hóa như cây xanh, động vật đơn đa bào và khủng long thời tiền sử xa xưa. Tất nhiên, cho dù là khoa học ngày nay hay bất cứ ai sẽ không thể khẳng định là vũ trụ đang tan rã hay đang trong giai đoạn phát triển, chắn chắn như vậy bởi chưa có học thuyết nào mô tả được bản thể của vũ trụ và ý nghĩa của sự tương tác ngay tức thì giữa vạn vật trong toàn thể vũ trụ, điểm tới hạn trong quá trình phát triển của vũ trụ dựa vào cơ sở nào... Tiểu hành tinh tự phân rã Quá trình tự tan rã hiếm có của một tiểu hành tinh trong vũ trụ mới được các nhà nghiên cứu Mỹ phát hiện qua kính viễn vọng không gian. Quá trình phân rã của thiên thạch được quan sát từ tháng 9/2013 đến tháng 1/2014. Ảnh: NASA AFP cho hay, tiểu hành tinh có tên P/2013 R3, nằm cách Mặt Trời khoảng 480 triệu km. Quá trình tan rã của P/2013 R3 được phát hiện qua kính viễn vọng không gian Hubble từ tháng 9/2013. P/2013 R3 được cấu thành từ 10 mảnh, mỗi mảnh có đuôi bụi giống như sao chổi, 4 mảnh lớn nhất có chiều rộng khoảng 200 m. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học California, quá trình tự tan rã của tiểu hành tinh không bị gây ra bởi các vụ va chạm trong không gian hay do tiếp xúc gần với Mặt Trời. Thay vào đó, P/2013 R3 suy yếu dần theo thời gian và tách thành những mảnh nhỏ. Nhóm nghiên cứu cho rằng tác động của ánh sáng Mặt Trời có thể đã khiến tiểu hành tinh quay nhanh hơn và tạo ra lực ly tâm đủ lớn dẫn đến quá trình tự tan rã. Tốc độ di chuyển trong không gian của các mảnh vỡ vào khoảng 1,6 km/h. Sự tan rã của P/2013 R3 sẽ tạo ra một số lượng lớn thiên thạch nhỏ. Phần lớn trong số này sẽ lao về phía Trái Đất và có thể được quan sát dưới dạng sao băng. Các nhà thiên văn học từng chứng kiến nhiều trường hợp sao chổi tan rã khi tiếp xúc với Mặt Trời ở khoảng cách gần. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên họ quan sát quá trình tương tự ở một tiểu hành tinh. Thùy Linh
-
«Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác (Chỉ tham khảo, các ý của tác giả liên quan đến chính trị nên lược ra) Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. «Mai Hoa Thi» tổng cộng có 10 kỳ, dự ngôn những diễn biến lịch sử trọng đại của Trung Quốc sau khi ông qua đời. Vì vậy tất nhiên bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiên tri, rất ẩn ý, không dễ mà lý giải cho được. Có một bộ phận là dành cho người tu luyện, người bình thường đọc quả thực không hiểu chút gì. Ở đây chỉ xin giải sơ qua, các bậc trí giả và cao nhân nếu thấy có chỗ nào không ổn kính mong chỉ giáo. Toàn bộ phần diễn nghĩa là của người dịch, chỉ để tham khảo. Giải: (Một) Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về. Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn, Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa. Tạm dịch: (一) 荡荡天门万古开,几人归去几人来。 山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。 (Nhất) Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai. Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai. “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Cánh cổng trời vĩ đại từ vạn cổ tới nay mới khai mở lần đầu tiên. Biết bao nhiêu người tới nhân gian, biết bao nhiêu người có thể trở về? Ý nghĩa của hai câu này gắn kết chặt chẽ với chủ đề bài thơ, ngay lúc mở đầu đã dẫn xuất chủ đề tối hậu. Người tu luyện nhìn một cái là rõ ngay, còn người phổ thông xem không hiểu rõ được, ở đây không giải kỹ thêm nữa. “Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.” Thời nhà Tống là lúc mà triều đình nhu nhược bất tài. Toàn bộ xã hội từ trên xuống dưới đều như vậy, đam mê ca múa vui thái bình. Đặc biệt đến thời Nam Tống thì càng cẩu thả tạm bợ, ở nửa giang sơn vùng Giang Nam mà mê đắm trong tình sắc hoan ái, thể thơ Tống từ trở thành cách văn nhân bày tỏ tình cảm luyến ái. Rốt cuộc trong lịch sử Trung Quốc có “nỗi nhục Tịnh Khang” (Tịnh Khang là niên hiệu vua Khâm Tông thời Tống, năm 1126-1127 SCN), hoàng đế Bắc Tống, cung phi, hoàng thân, cho đến khắp đại thần trong triều ba ngàn người đều bị nước Kim bắt làm nô lệ. Đến nỗi cuối cùng hoàng đế Nam Tống phải nhảy xuống biển vùi thân. Do vậy, non sông tuy tươi đẹp mà không toàn vẹn là vậy. “Kim” là chỉ tộc Nữ Chân ở phương Bắc kiến lập nước Đại Kim. “Hoàng” là phủ Hoàng Long, kinh đô nước Kim (nay là huyện Nông An, tỉnh Cát Lâm. Trung Quốc). Ở đây tiên tri về sự kiện nhà Nam Tống sống tạm bợ trong một nửa giang sơn vùng Giang Nam và người Kim xâm nhập trong lịch sử. “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai” nói về nước Kim diệt Bắc Tống, xâm phạm Nam Tống. Giải: (Hai) Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả, Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay. Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày, Non xanh nước biếc than ôi còn đâu. Tạm dịch: (二) 湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。 三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。 (Nhị) Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi, Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi. Tam bách niên lai chung nhất nhật, Trường thiên bích thủy thán di di. “Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi”: Bởi rằng Nam Tống lập kinh đô Lâm An (nay là Hàng Châu) bên bờ Tây Hồ, hơn nữa hoàng đế Nam Tống cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, vậy mới nói “Hồ Sơn nhất mộng”. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, ở miền Bắc sinh “chân long thiên tử”, triều đại mới sinh ra ở phương Bắc. Khi binh nhà Nguyên xâm nhập Lâm An, hoàng đế bị bắt làm tù binh. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ Bắc Tống, Nam Tống trải qua ba trăm năm (từ năm 960 đến 1279 SCN) rồi cuối cùng diệt vong. “Trường thiên bích thủy thán di di”, chính là chỉ năm 1279 SCN, tàn quân nhà Tống chiến bại không còn lối thoát, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế Nam Tống Triệu Bính nhảy xuống biển mà chết, các tướng sĩ khác và hoàng phi đều gặp bão lớn rồi chìm dưới đáy đại dương. Giải: (Ba) Số nhân của Trời Đất đến một nguyên, Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên. Được tám tám năm thì càn khôn đổi, Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu. Tạm dịch: (三) 天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。 年华二八乾坤改,看尽残花总不言。 (Tam) Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên. Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn. “Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, là nói thời kỳ Thiên can Địa chi tương giao, trở lại ngọn nguồn, nhà Nguyên bắt đầu hưng thịnh. “Hốt” ở đây là chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, “hưng Nguyên” là chỉ nhà Nguyên được kiến lập. Hốt Tất Liệt năm 1260 SCN làm Đại Hãn, năm 1264 SCN (một giáp – Giáp tử) lên ngôi kiến lập triều Nguyên, lấy hiệu nước là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ vào kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý nghĩa “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. “Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn”, triều Nguyên từ Nguyên Thế Tổ truyền được 10 đời. Năm 1279 SCN, triều Tống diệt vong hoàn toàn, đến năm 1368 SCN, triều Nguyên bị diệt, tổng cộng là 88 năm, ứng với ý trong “Được tám tám năm càn khôn đổi”. Thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy. Giải: (Bốn) Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải, Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa. Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường, Nở tới hoa mận thì xuân đã qua. Tạm dịch: (四) 毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。 飞来燕子寻常事,开到李花春已非。 (Tứ) Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ. Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi. “Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ”, tả rõ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, tuy xuất thân bần tiện (bố y – áo vải), còn trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia khởi nghĩa nông dân hồng cân quân, cuối cùng thể hiện bản sắc anh hùng, từ một binh sĩ bình thường vọt lên làm thủ lĩnh, đến năm 1368 SCN xưng đế tại Nam Kinh. Chính “Chu môn – Lầu son” ấy không còn là nhà nông đất vàng (“cờ vàng”) ngày xưa nữa. “Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi” chỉ con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Yến vương Chu Đệ hùng cứ tại Yên Kinh, bị buộc phải phát động chiến dịch công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi Vua, đúng là “nhanh như chim én”. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhường ngôi cho Hoàng Thái Tôn cháu mình, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yến vương Chu Đệ thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế vì cứ khăng khăng tước bỏ Phiên vương, đòi miễn Yến vương, nên Yến vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yến vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yến vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. “Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi”, ứng với năm 1644 SCN, Sấm vương Lý Tự Thành (“Lý hoa”) dẫn quân khởi nghĩa công phá kinh thành, hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn, triều Minh diệt vong (“xuân đã qua”). Giải: (Năm) Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An, Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên. Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi, Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem. Tạm dịch: (五) 胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。 洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。 (Ngũ) Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An, Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan. Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán. “Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An”: Trung Quốc xưa nay vẫn nói “Bắc hồ Nam man”. Bởi thế ở đây là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh qua ải, thống nhất toàn cục thời Minh mạt. Năm 1644 lập đô tại Bắc Kinh, trờ thành đế quốc Đại Thanh. “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”: nhà Thanh ngày trước, thế nước hưng thịnh, văn trị võ công, cường thịnh phi thường, một trăm năm đầu tiên là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là hoàng đế Khang Hy, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, mở rộng bản đồ Trung Quốc ở mức chưa từng có. Ngoài ra, nhà Thanh bắt đầu tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác bến cảng, cũng chính là “hải cảnh khoan” vậy. “Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán”: Chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, mãi đến cuối cùng, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng thành đô đốc Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết trở thành Tổng thống, Vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Do đó, tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”) mà xem. Giải: (六) 汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。 吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。 (Lục) Hán thiên nhất bạch Hán giang thu, Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu. Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn, Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu. (Sáu) Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu, Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu. Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn, Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển. “Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” là nói nhà Thanh hủ bại suy vong, Trung Quốc cuối cùng lại có hy vọng mới (“Hán thiên nhất bạch”), tiến nhập thời đại mới (“Hán giang thu”), ngày 10 tháng 10 năm 1911 (mùa thu), khởi nghĩa Vũ Xương kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu”, cách mạng Dân Quốc tuy thành công nhưng nền móng rất thiếu ổn định, tựa như “tiều tụy hoàng hoa”, đầy ắp nguy cơ (“tổng đới sầu”). Cũng có thể là chỉ Viên Thế Khải khôi phục ngai vàng như “tiều tụy hoàng hoa”, sớm nở tối tàn, Viên Thế Khải cuối cùng buồn rầu hối hận mà bệnh chết. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn”: “Cát diệu” là chỉ cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Quốc Dân Đảng, “bán thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng, ở Trung Quốc quân phiệt cát cứ, nội chiến liên miên, không cách nào thực hiện bình định thống nhất, chỉ đến khi Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Bắc phạt thành công mới sơ bộ đặt địa vị cho Quốc Dân Đảng. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản ngấm ngầm phát triển. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu”: Thời cổ “Kim Ô” là tên gọi khác của Thái Dương (Mặt trời), ở đây ám chỉ Nhật Bản. Cả câu là chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II rồi cuối cùng chiến bại, đầu hàng. Giải: (七) 云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。 东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。 (Thất) Vân vụ thương mang các nhất thiên, Khả liên Tây Bắc khởi phong yên. Đông lai bạo khách Tây lai đạo, Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền. Tạm dịch: (Bảy) Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm, Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh. Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây, Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt. “Vân vụ thương mang các nhất thiên”, là nói cục diện Trung Quốc và Đài Loan phân chia đối lập nhau. Ba câu sau có thể chỉ sự việc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh. Thử giải như sau: “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” dường như chỉ giải phóng quân Trung Quốc bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập ở Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo”, có thể chỉ Bắc Triều Tiên ở phương Đông và Mỹ quốc có chiến tranh, đồng thời bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền”: nước Nga ở phương Bắc luôn trực tiếp uy hiếp Trung Quốc, Trung-Nga đã từng phát sinh chiến tranh, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ nơi biên giới trong cả chục năm. Giải: (Tám) Như ván cờ mới rơi vào thế tàn, Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn, Con báo chết còn lưu lại bộ da, Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An. Tạm dịch: (八) 如棋世事局初残,共济和衷却大难。 豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。 (Bát) Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn. Báo tử do lưu bì nhất tập, Tối giai Thu sắc tại Trường An. “Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”: Cục diện thế giới xưa nay tựa như bàn cờ, đây là chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với đảng cộng sản mà nói là lâm vào đại kiếp nạn vậy. “Báo tử do lưu bì nhất tập”: quốc gia đứng đầu các nước cộng sản là Liên Xô tan rã, hệ thống đảng cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cà những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An”: trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là chỉ kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được. Giải: (Chín) Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn, Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về, Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ, Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu. Tạm dịch: (九) 火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。 一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。 (Cửu) Hỏa long trập khởi Yên Môn thu, Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu. Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ, Liên tiêu phong vũ bất tu sầu. “Hỏa long trập khởi Yên Môn thu”: “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. Câu đầu tiên ẩn dụ về sự kiện “lục tứ” năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn sau đó chịu thảm sát tàn khốc. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu”: “Nguyên bích” ngầm chỉ lịch sử Trung Quốc liên tục trong 5.000 năm, phải chịu nạn này. “Triệu thị thu” là chỉ Triệu Tử Dương, vì sự kiện “lục tứ” mà bị đàn áp. Còn mấy câu dưới đây, nếu như không theo sát toàn bộ chủ đề bài thơ, không thông hiểu việc tu luyện, thì rất khó phá giải. Trên thực tế, mấy câu dưới đây rõ ràng là ứng hợp với chủ đề của toàn dự ngôn. Xem lại câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ. “Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ”: trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc đại lục, nơi đâu cũng có đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, nơi đâu cũng trông thấy đồ hình Pháp Luân, chính là “một vườn hoa đẹp kỳ diệu” vậy. “Xuân hữu chủ” là chỉ một năm nào đó, các đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính. “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu”: Trung Cộng đối với đệ tử Pháp Luân Công đã áp dụng thủ đoạn thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, tiến hành bức hại trên quy mô lớn, chính là “gió mưa suốt đêm” vậy. Tuy vậy Pháp Luân Công vẫn biểu hiện kiên cường phi thường, liên tục duy trì tinh thần phản bức hại, quả thực trong lịch sử xưa nay hiếm. Chỉ với loại tinh thần này, họ cuối cùng đã giành thắng lợi. Lấy nhãn quang lịch sử mà xét, vô luận tà ác có điên cuồng đến cỡ nào, mùa đông có giá rét lạnh lẽo ra sao, cuối cùng vẫn vượt qua, chính là “không cần phải lo sầu” vậy. Giải: (十) 数点梅花天地春,欲将剥复问前因。 寰中自有承平日,四海为家孰主宾。 (Thập) Số điểm Mai Hoa thiên địa Xuân, Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân. Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật, Tứ hải vi gia thục chủ tân. (Mười) Số điểm hoa mai trời đất là xuân, Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa. Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình, Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách. Tạm dịch: “Số điểm mai hoa thiên địa Xuân”: Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Pháp Chính Nhân Gian. Vạn vật nghênh Xuân, khắp nơi đều chính. Câu này với câu ở đầu “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” – “Hỏi mấy người đến mấy người trở về” là tương quan chặt chẽ với nhau, có bao nhiêu người có thể viên mãn mà sẽ đi đâu? “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân”: Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như bánh xe xoay chuyển (chuyển luân), có nhân trước tất có quả sau. Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp mà an bài. “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”: Đây chính là ngày mà vũ trụ rộng lớn không gì sánh được tự nhiên thừa hưởng thái bình. “Tứ hải vi gia thục chủ tân”: năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh xuất hiện truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân”, ẩn dụ ai là chủ, ai là khách; trong vũ đài lịch sử ai đóng vai phụ, ai đóng vai chính, đã sớm có số định trước. Văn minh nhân loại lần này đều là vì Đại Pháp mà khai sáng, nơi đây cũng chính là trung tâm Chính Pháp của toàn vũ trụ. Chánh kiến. Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/7/7/13024.html
-
KINH RÙA MÙ TÌM BỘNG CÂY Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở tại Trùng Các giảng đường bên hồ Di Hầu bảo các tỳ kheo: “Ví như quả đất sụp thành bể cả, có một con rùa mù sống vô lượng kiếp, một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Trong biển có bộng cây nổi chỉ có một cái lỗ, trôi giạt trên mặt biển theo gió sang Đông Tây, con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên tìm bộng cây, sẽ gặp được cái lỗ trên bộng cây này chăng?” A Nan bạch: “Không thể gặp, thưa Thế Tôn! Vì cớ sao? Vì con rùa này nếu đến bể Đông, bộng cây đã theo gió đến bể Tây, Nam, Bắc bốn phía, chung quanh cũng vậy, không thể gặp nhau.” Phật bảo A Nan: “Con rùa mù tìm bộng cây tuy sai lạc, nhưng có lúc gặp nhau, kẻ phàm phu ngu si trôi giạt trong ngũ thú tạm được thân người, rất khó hơn con rùa mù kia tìm bộng cây. Vì cớ sao ? Vì chúng sanh kia không hành nghĩa, không hành pháp, không hành thiện, không hành chơn thật, sát hại lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, tạo vô lượng tội ác. Thế nên, Tỳ Kheo! Đối Tứ Thánh Đế nếu chưa được vô gián đẳng, phải chuyên cần tìm phương tiện mong muốn tăng thượng, học vô gián đẳng.” Phật nói Kinh này rồi, chư Tỳ Kheo nghe Phật nói hoan hỉ phụng hành. Trong một đoạn kinh khác, Phật lại có ví dụ như sau: Một hôm Phật khơi một chút đất dính đầu móng tay đưa lên hỏi trong chúng hội: “Đất đầu móng tay nhiều hay đất quả địa cầu nhiều?” Trong chúng hội đều đáp: “Bạch Thế Tôn, đất quả địa cầu rất nhiều, so với đất đầu móng tay có thấm vào đâu!”. Phật kết luận: “Cũng thế, chúng sanh khi bỏ thân này rồi mà trở lại được thân người rất ít như đất đầu móng tay, còn đi vào các thú thì nhiều như đất quả địa cầu”. Cầu tìm Phật pháp khó như vũ trụ bay tới tâm Ngân Hà, một vị Phật xuất hiện cũng khó tương đương, cho nên mới thấy Phật Hoàng Trần Nhân Tông: một vị Phật, một vị Tiên, một vị vua, một vị tướng cùng nguyên soái Trần Hưng Đạo đã tổ chức quân dân 2 lần chiến thắng Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ - đã chiếm gần 1/2 thế giới, một nhà thơ, một họa sĩ, một nhà văn với một tác phẩm có thể xem là tuyệt tác cổ kim của nhân loại - đó là Tây Du Ký,... vĩ đại như thế nào. Ngài tu luyện theo hạnh nguyện của một Đầu Đà, và nếu đọc các quy tắc khắc nghiệt này mới thấy... thật là kinh dị!. Các quan lại, vua chúa Trung Hoa phải thốt lên kinh hãi: An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh, Ếch giếng xin đừng chế diễu ngoa. Hiểu tận cùng Phật pháp vẫn chưa nói lên điều gì cả đối với bản thân cá nhân đó, tại sao vậy? Bởi vì vẫn còn chịu tương tác như một dòng thác bất tận từ những quy luật Âm Dương Ngũ Hành (gần như vô cùng của thời gian, ai ai cũng phải chịu những tương tác đó) và đặc biệt, quan trọng nhất là do "tâm" hành giả vẫn chưa an trú được trong lòng "biển cả mênh mông". Bậc thầy chứng ngộ Krishnamurti - một trong những nhân vật lỗi lạc của hội Thông Thiên Học trong thế kỷ XX đã nói: "con đường Đạo bén ngót như một lưỡi dao cạo": làm sao đi chân không trên lưỡi dao cạo này.
-
Đấng Tạo Hóa : DỰ ĐOÁN CHO 2015 By Son Light Angel09:29 Đấng Tạo Hóa : DỰ ĐOÁN CHO 2015. ( Phần 1 ) Tôi rất vui khi nói chuyện với các bạn về những gì chúng ta đang và sẽ chứng kiến trong năm tới, sẽ xẩy ra trên bề mặt Trái đất. Đây là khoảng thời gian lịch sử thú vị cho tất cả các cấp bậc tinh thần trong Vũ trụ này. Terra, Gaia yêu quý của các bạn là trung tâm của tất cả. Trước tiên, cho tôi giải thích tôi là ai. Có một số nhầm lẫn trong cộng đồng các Lightworker và người truyền thông điệp về sự thật: Cha và Mẹ Thiên Chúa là ai, về mối quan hệ của tôi với bạn và về mối quan hệ giữa bạn với Một, với Nguồn. Tôi sẽ cho bạn biết. Tôi chủ yếu hoạt động ở trong hậu trường trong suốt nhiều năm vừa qua. Bởi vì chúng tôi muốn dần giới thiệu cho bạn trước tiên đến với các Minh sư đã Thăng lên, Các động vật tiến hóa cao, vương quốc các Thiên Thần và các anh chị em Galactic. Mục đích là để bạn có thời gian dần phát triển một kiến thức rộng lớn hơn về vị trí của bạn trong dòng chảy cuộc sống vĩ đại có sẵn trong vũ trụ xung quanh bạn. Gần đây bạn đã được giảng dạy bởi các Lightworkers, bao gồm cả kênh thông điệp yêu quý của chúng tôi, người đang truyền lời của tôi ngay bây giờ, rằng bạn là Minh sư của chính mình - Rằng bạn đang là một phần của quá trình chuyển đổi đang diễn ra, Rằng bạn đang tham dự vào Thăng thiên của hành tinh Trái đất. Tôi có một quan tâm rất lớn về hạnh phúc của bạn và về tăng trưởng của bạn trong khoảng thời gian này. Bởi vì tôi là một trong những Đấng Tạo Hóa của vũ trụ mà đã được gọi là Nebadiah, Một vũ trụ rộng lớn đang chứa tất cả. Đấng Tạo Hóa : DỰ ĐOÁN CHO 2015. ( Phần 2 ). ( Hình minh họa : Nebadon universe. ) Trong vũ trụ của bạn, có nhiều thiên hà và các hệ thống ngôi sao, đã được tạo ra bởi tôi và bởi Twin của tôi, Omara. Đồng sáng tạo với chúng tôi là các Minh Sư Vĩ Đại, họ cũng là những Đấng Sáng tạo trong phạm vi của họ. Ví dụ, Ra và Isis (còn gọi là Alcyone và Mẹ Sekhmet) là những Đấng sáng tạo của thiên hà Milky Way của bạn. Tất nhiên là với sự hợp tác và hỗ trợ của tôi. Chúng tôi và các Đại Minh sư có mối quan hệ rất yêu thương và gần gũi. Cũng bởi vì, họ là con cái đã trưởng thành và là một phần Linh hồn của chính tôi. Đôi khi họ đóng vai trò của Mẹ và Cha Thiên Chúa để nói chuyện với bạn. Đương nhiên là với với sự chấp thuận hoàn toàn của tôi - Họ đại diện cho tiếng nói của Thiên Chúa để nói chuyện với các bạn. Việc tạo ra các linh hồn, cũng như tạo ra các thiên hà, việc sáng tạo ra Nhân loại, cũng như tạo dựng nên hành tinh xinh đẹp Gaia này, đã mô tả phần nào công việc của chúng tôi. Trong các cõi giới cao, Tôi được biết đến và được gọi bằng cái tên là Ohara. Thú vị phải không bạn ? Đó cũng như là một cách gọi tên, một kiểu nickname trong thế giới của mạng máy tính. Tôi không phải Đấng Tạo hóa Nguyên thủy và Tối cao. Tôi chỉ là Đấng Tạo hóa ra Vũ trụ này thôi. Có nhiều vũ trụ khác nữa, nhưng chúng tôi là một trong những Đấng Sáng tạo của một Vũ trụ lâu đời nhất. Tôi cũng chỉ là một đứa con của Nguồn. Cũng như tất cả chúng ta đều là con cái của Nguồn, là con cái của Đấng Tạo Hóa Nguyên Thủy Vĩ Đại Tối Cao, và là Cha của tất cả chúng ta. Sau đây chúng ta sẽ nói chuyện về tầm nhìn vào tương lai gần, trong dòng thời gian hiện tại mà bạn đang sống. Dự đoán từ Đấng Tạo Hóa Ohara, Bây giờ tôi sẽ cung cấp cho bạn một số dự đoán về những gì có khả năng nhìn thấy trên hành tinh của bạn trong năm tới. Nhưng tôi muốn bao gồm cả những nguyên nhân trong những dự đoán, và bạn có thể sẽ đọc tất cả những điều này trước năm nay kết thúc. Sự thay đổi đáng kể đầu tiên trong phong cách sống trên trái đất, sẽ bắt đầu vào tháng Mười năm 2014 và sẽ tiếp tục thay đổi nhanh chóng để cải cách tất cả các lĩnh vực tổ chức xã hội, chính trị, giáo dục, y tế, khoa học hiện hành. Giai đoạn chuyển đổi đầu tiên sẽ liên quan đến sự ra đời của các Quỹ thịnh vương Mới nhiều tỷ đô la của Minh Sư St Germain. Số tiền này sẽ được sử dụng để thanh toán các khoản nợ chiến tranh cho tất cả các quốc gia trên hành tinh. Điều này sẽ tháo gỡ thế kẹt về tài chính, loại bỏ các gánh nặng tâm lý về các khoản vay nợ khổng lồ bởi các cuộc chiến, dẫn tới xóa bỏ các khoản thu lợi từ việc gây chiến tranh và bán vũ khí. Giai đoạn tiếp theo, với sự giúp đỡ từ các Quỹ Thình vượng Mới, sẽ giúp đỡ để trả toàn bộ nợ quốc gia của nước Mỹ. Cục thuế vụ liên bang IRS sẽ không còn cần thiết nữa và sẽ bị giải thể. Cục Dự trữ Liên bang FED sẽ bị tháo dỡ ra khỏi nước Mỹ và bán cho người Trung Quốc. Vì vậy tất cả các hệ thống kinh tế và pháp lý trong tương lai gần sẽ phát triển một cách tự nhiên và được gọi là hệ thống kinh tế mới NESARA. Tôi sẽ không dành nhiều thời gian để mô tả chi tiết những gì NESARA sẽ thực hiện, bởi vì bạn có thể tìm hiểu về NESARA trên nhiều trang web. Tôi đề nghị bạn tìm hiểu về lịch sử phát triển của hệ thống mới này, và tác động của nó sẽ thay đổi tất cả mọi thứ như thế nào, trong phạm vi nước Mỹ và sau đó trên khắp hành tinh. Gần hai trăm quốc gia đã ký kết đồng ý thông qua việc hình thành và vận hành các hệ thống mới này vào giữa tháng Mười vừa qua. Khi quá trình chuyển đổi từng bước được thực hiện, nhiều người sẽ ngạc nhiên bởi sự sụp đổ nhanh chóng của các Tổng công ty ở Mỹ và Hệ thống luật Pháp có nhân quyền, nhân ái thực sự sẽ xuất hiện như là có phép lạ. Tất nhiên, những sự kiện này đã được chuẩn bị từ nhiều năm trước đây ở đằng sau hậu trường. Cách nhóm làm việc chuyên môn, các Minh sư của Ánh sáng, các Lightworkers tiên phong đã chăm chỉ tích cực làm việc âm thầm trong nhiều năm qua. Thành quả việc làm của họ sẽ biểu hiện tất cả trong những tháng tới. Bạn có những người anh hùng đang sống chung trong các anh em, những người thân mến, và danh tính của họ khi được công bố sẽ làm bạn ngạc nhiên và hài lòng.
-
Cập nhật Sheldan Nidle: Một năm thiên hà mới đã bắt đầu By Celestial Light 03:31 Selamat Balik! Chúng tôi trở lại với nhiều điều để nói. Xã hội toàn cầu của bạn đang bắt đầu quá trình chuyển đổi theo chiều hướng được đã được hoạch định. Đó là xây dựng lại và làm mới tất cả các khía cạnh. Quản trị mới sẽ thúc đẩy một hệ thống tài chính mới. cụ thể là, ở Bắc Mỹ sẽ ban hành các sắc lệnh quy định của NESARA. Chính phủ mới ở đây sẽ hủy bỏ tất cả các khoản nợ và chấm dứt chế độ nô lệ nợ đói với các cư dân của phần lục địa này. Một mức độ hoàn toàn mới của tự do sẽ ra đời. Chính phủ Canada và Mỹ sẽ công bố và thực thi các quy định trong Điều lệ nhằm giải phóng tất cả các công dân, cho phép họ thực sự có chủ quyền. Sự thịnh vượng, mà bắt đầu bằng việc phân phối cho tất cả một cách phong phú, sẽ châm ngòi cho một sự phục hưng kinh tế. Đồng thời sẽ có các thiết bị và công nghệ nhanh chóng thực hiện việc dọn sạch tất cả các ô nhiễm môi trường và ngăn chặn việc ô nhiễm môi trường từ các phương tiện vận tải. Ngoài ra, công nghệ truyền thông sẽ có bước nhảy vọt rất lớn trong những tháng đầu của thời kỳ chuyển đổi sắp tới. Lớn hơn những tiến bộ trong hai thập kỷ qua! Những thay đổi này sẽ diễn ra trong thời gian chuẩn bị để tiếp xúc đầu tiên với chúng tôi. Còn khi chúng tôi hạ cánh hàng loạt, chúng tôi dự định cung cấp cho bạn với một loạt công nghệ hoàn toàn mới mà là để thiết lập lại nền khoa học và triết lý hiện tại trong thế giới của bạn! Tiếp xúc đầu tiên sẽ tạo nên một bước ngoặt lớn đối với thế giới của bạn. Hiện nay, có một niềm tin phổ biến trong xã hội của bạn: con người là duy nhất trong vũ trụ và trong chương trình của sự Sáng tạo.Với niềm tin hạn chế này, cũng giống như nhiều xã hội nguyên thủy, phủ nhận sự tồn tại phong phú các Sinh mệnh ở nhiều cấp độ của tri giác. Niềm tin hạn chế và sai lầm này sẽ được thay đổi ngay lập tức trên toàn bộ hành tinh của bạn bằng một thông báo chính thức của các chính phủ về sự hiện diện của chúng tôi. Sẽ không có cách nào để phủ nhận sự thật trong vấn đề này. Để thực hiện được điều quan trọng này, chúng tôi có sự hỗ trợ chính thức của các Minh Sư đã Thăng lên của bạn. Trong thực tế, sự hỗ trợ này được thực hiện từ vài thập kỷ trước đây. Ngoài ra, chúng tôi có sự ủng hộ đầy đủ của những người anh em Agarthan của bạn. Công việc cần làm bây giờ là phá vỡ hàng rào kiểm duyệt che giấu tin của hệ thống thông tin đại chúng của bạn, và đưa các chính phủ mới thành lập của bạn tham gia vào các cuộc thảo luận. Các chính phủ mới phải có đủ tính hợp pháp toàn cầu cần thiết để giảm bớt những lo lắng liên quan đến sinh vật ngoài Trái đất. Ngay sau khi chính phủ của bạn đã giới thiệu thành công về sự hiện diện nhân từ của chúng tôi, chính chúng tôi sẽ tiến hành giải thích rất nhiều thứ cho bạn. Phước lành thay, Hỡi những trái tim thân yêu! Chúng tôi là các Minh sư của bạn! Lĩnh vực của bạn đang thay đổi. Phước lành liên tục của Ánh sáng đang tràn ngập thế giới của bạn. Rất nhiều cứu trợ đã và đang được đưa đến thế giới này. Bầu không khí trên đang dần ổn định và di chuyển mạnh mẽ như là dòng chảy trong các đại dương. Các thay đổi lớn đang quét qua nhiều vùng trên thế giới của bạn. Gaia đã đạt đến một trạng thái cân bằng mới và cô đang chuẩn bị cho việc cấu hình lại môi trường của mình. Hành tinh của bạn là thiêng liêng và ngày dang dần trở nên tốt hơn. Vì vậy chúng tôi yêu cầu bạn chúc lành cho Trái đất mỗi ngày. Hãy tôn trọng Gaia và tất cả những việc cô ấy làm cho bạn. Như ý thức của bạn đang phát triển, bạn trở nên ý thức hơn về công việc khó nhọc hàng ngày của Gaia, cô đang cố gắng rất nhiều để duy trì bản thân. Chúng tôi kêu gọi bạn đến với nhau theo nhóm để chúc phúc cho Gaia, và mở rộng hoạt động này ra toàn thế giới. Khi các bạn làm như vậy sẽ giúp Gaia duy trì bản thân và nuôi dưỡng bạn tốt hơn. Gaia là một Sinh Mệnh thiêng liêng của ánh sáng, nhưng vẫn đang tiếp tục bị tàn phá bởi những âm mưu đen tối. Cô rất cần sự chúc lành của bạn cũng rất cần những hành đông kiên quyết của bạn để dừng những hành động đang làm tổn hại tới Cô. Chính bây giờ là thời gian để bắt đầu một cách tôn trọng hành tinh xinh đẹp và thiêng liêng của bạn. Chúng tôi luôn lắng nghe bạn, hỡi Trái tim thân yêu, nghe và thấu hiểu mỗi người, trong mọi thời điểm. Chúng tôi biết rõ là bạn đang gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực tối tăm này. Nhưng bây giờ đây là khoảng thời gian để mang lại cho cuộc sống mỗi bạn những điều tươi đẹp hơn và có thể làm giảm bớt những phiền não, bắt đầu xây dựng một thế giới mới của hòa bình, hợp tác và thịnh vượng. Các bước để thực hiện việc này đang được tiến hành. Một năm thiên hà mới đã bắt đầu. Chính vào lúc này là thời điển để chào đón giao thừa Thiên hà với những món quà thích hợp. Cùng bạn chuyển thế vào Thời đại mới, cùng với nhiều món quà tặng từ Thiên đường, đó là điều mà chúng tôi dự định thực hiện. Từ rất lâu nay trên hành tinh của bạn, giàu có và phong phú đã bị tách ra khỏi tầm tay của các bạn và cất giấu trong vòng bí mật. Những kho dự trữ cực lớn này được giữ gìn bảo vệ đặc biệt, chúng được cam kết sử dụng cho việc chính thức công bố tại một thời điểm thiêng liêng. Thời điểm Thiêng liêng gần như là ngay bây giờ. Các sự kiện đang xảy ra trên toàn cầu đều đảm bảo rằng phiên bản này của kế họach sẽ xảy ra theo đúng tiến độ. Bạn sẽ được may mắn trong rất nhiều cách ! Đó sẽ là rất nhiều sự ngạc nhiên tuyệt vời mà bạn đã chờ đợi từ rất lâu! Rất nhiều phước lành đã được báo trước cho một thời đại mới của nhân loại. Đó cũng là dấu hiệu tiết lộ chính thức về những người Anh chị em bên trong Trái đất của chúng ta và các gia đình không gian. Từ nhiều thiên niên kỷ trước, chúng tôi nhận thấy rằng lĩnh vực Agartha là một nơi trú ẩn an toàn khỏi tác động của bóng tối, từ bên trong Trái đất, chúng tôi có thể thực hiện nhiều dịch vụ thiêng liêng của mình. Thời gian này đang cho phép chúng tôi để dành thời gian nhiều hơn hoạt động trên bề mặt của Hành tinh. Chúng tôi mạnh mẽ hơn trong nhiệm vụ hỗ trợ liên kết thiêng liêng của mình và giúp đỡ nhân loại đi qua giai đoạn cuối cùng của đau khổ. Chúng tôi dự định dành nhiều thời gian hơn để hoàn thành những thay đổi cần thiết cho việc thể hiện các lĩnh vực mới trên bền mặt Hành tinh. Thời gian thực hiện các dự định là ngay bây giờ. Xin hãy chúc lành cho sự kiện thiêng liêng này! Hãy sẵn sàng để giúp đỡ người khác, hãy giải thích cho những người thân hiểu những gì đang xảy ra. Chúng tôi đến để hỗ trợ Hành tinh Trái đất và Nhân loại trong quá trình chuyển đổi, cũng như thực hiện các nhiệm vụ thiêng liêng của chúng tôi ở khắp thiên hà này. Với mục đích cụ thể là hỗ trợ cho những thay đổi các Lĩnh vực bề mặt Hành tinh của bạn đạt được tình trạng tốt hơn. Hãy để tất cả mọi thứ xảy ra theo đúng như mong muốn của Thiên đường. Chúng ta nói rằng: phần thắng thuộc về Ánh sáng, thuộc về Nhân loại : Hallelujah! Hallelujah! Hallelujah! Hôm nay, chúng tôi đã nói cho bạn một thông điệp về thế giới mới sắp tới của bạn. Nhiều điều đang xảy ra và nhiều bí mật sắp được tiết lộ hàng loạt ! Đêm của bóng tối hoang dại trong tình trạng lộn xộn đã kéo dài gần mười ba thiên niên kỷ trên bề mặt hành tinh bây giờ đã gần kết thúc. Chu kỳ này của những nỗi đau khổ là gần chắm dứt. Ánh sáng đang tăng và bình minh cuối cùng cũng sẽ ló dạng, phá vỡ đêm đen dài lâu ! Hãy Biết, những người thân yêu, đó là cung cấp vô số và không bao giờ kết thúc sự thịnh vượng của thiên đàng thực sự cho Em ! Vì vậy, Hãy Là Nó! Selamat Gajun! Selamat Ja! (Sirian Là Cho và Trong Đồng Nhất Thể ! Và Tới và ở Lãnh nhận !). - Gaia: Người Mẹ Trái Đất - biểu tượng của Phật Bà Quán Âm tức Bà Chúa Ba (Vũ Tiên). - Sirious: là chòm sao Chó Săn. - "Sirian Là Cho và Trong Đồng Nhất Thể ! Và Tới và ở Lãnh nhận": Tiên tri của bà Vanga nói về chỉ khi đất nước Sirya bị tiêu diệt thì một học thuyết cổ xưa sẽ quay lại với nhân loại hay có thể hiểu bản một dịch khác như: khi đất nước Sirya được khám phá và thông hiểu... - Mười ba thiên niên kỷ trên bề mặt hành tinh: 1/2 chu kỳ vũ trụ 25.920 năm. Tôi đã viết năm 2013 mới kết thúc chu kỳ chứ không phải năm 2012, nhận định này được đối chiếu âm Lịch tới bảng "Lục thập hoa giáp" và một số dữ liệu mang tính logic chứ không hàm nghĩa thực tế như kiểm tra sự di chuyển của trục Thiên cực bắc trái đất hay hiểu toàn bộ quy luật tương tác theo các chu kỳ lớn, một bài viết có thông tin từ vô hình cũng đã xác nhận đã 1 năm trong kỷ nguyên mới.