hoangnt

Hội viên
  • Số nội dung

    1.909
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    6

Everything posted by hoangnt

  1. Trong nền văn hóa Lương Chử, bao gồm cổ vật ngọc khí và đồ gốm cùng các loại đồ đá, tổng số cổ vật ước tính trên 80.000 cổ vật ở Trung Quốc và khắp nơi trên thế giới. Những cổ vật này sẽ giúp cho chúng ta có những sự phân tích mối tương quan về lịch sử, văn hóa, tôn giáo giữa chúng một cách hợp lý: - Giai đoạn Ngọc Khí Lương Chử và kể cả các vùng văn hóa phía Bắc Dương Tử, Hoàng Hà mà các nhà nghiên cứu cho rằng đó là thời Đá Mới, điều này là không hợp lý bởi chúng được dùng trong tế tự và biểu trưng tôn giáo, thần thánh, hiện nay niên đại khoảng 3200-2200 Trước Dương lịch. Tử Long ngọc - văn hóa Hồng Sơn - Giai đoạn này cũng đã thuộc về thời Hạ Vũ (khoảng hơn 2200 Trước Dương lịch), đây là nền văn hóa hạ lưu Nam Dương Tử, vùng Chiết Giang. Biểu trưng văn hóa ngọc khí Lương Chử bao gồm 3 món ngọc khí: ống tông, đĩa bích và rìu Việt. Theo nhận xét của Tạ Đức trong Nguồn gốc người Việt người Mường: ống tông: tượng trưng cho tổ tiên, đĩa bích cho trời, rìu Việt cho người, dân tộc Việt là chính xác. Trong đó, ống tông cũng biểu tượng cho Đất. Truyền thuyết về Hạ Vũ nổi trội vùng Chiết Giang, Giang Tô, An Huy và các ngôi mộ vùng An Huy đều có chứng tích truyền thuyết này, đặc biệt trong mộ có rất nhiều rìu Việt. Ống tông, đĩa bích, rìu Việt - Thời kỳ này, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã được trình bày trên cổ ngọc rồi, các ngọc khí vùng An Huy tức thuộc châu Kinh, Dương nhà Hạ. Mộ vùng An Huy với rìu Việt - Truyền thuyết nổi trội về Hạ Vũ tại tỉnh An Huy là Hạ Vũ với con kỵ vật là con lợn thần, thể hiện ý nghĩa ông đã trị được mọi thú tính trong con người và "hóa thần" tức đắc đạo, thời kỳ này Đạo giáo nổi trội nhất. Lợn ngọc 58kg vùng An Huy - Sự ảnh hưởng văn hóa ngọc khí với 3 biểu tượng ống tông, đĩa bích, rìu Việt lên toàn bộ nền văn hóa Bắc Dương Tử sau đó là không thể bàn cãi, chúng kéo dài cho tới thời Đông Chu, điều này đã chứng tỏ văn hóa Lương Chử đã thống trị Bắc Dương Tử dựa trên nền tảng chế độ chính trị của người Việt, đấy chính là thời Hạ Vũ thay Ngu Thuấn tại Trung Quốc, cha Hạ Vũ là ông Cổn tất nhiên là người Chiết Giang, làm quan thời Ngu Thuấn. Do vậy, 3 ngọc khí biểu tượng đại diện cho nền văn hóa Việt bao trùm Bắc Dương Tử không thể quá 2200 Trước Dương lịch. - Tầm ảnh hưởng của các biểu tượng trên về phía Nam Dương Tử còn lại là không đáng kể, điều này lại chứng tỏ một lần nữa tầm ảnh hưởng chính trị và văn hóa Lương Chử ở trên là hợp lý. - Liên quan ngọc khí nổi trội vùng Hoàng Hà trước thời nhà Hạ đó là ngọc khí Hồng Sơn, chúng có những đặc trưng riêng biệt khác với ngọc khí Lương Chử nhưng về mặt tôn giáo, thần thánh, ý nghĩa biểu tượng đều tương tự nhau. Trước thời Hạ đó là thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và các chút chít của Hoàng Đế. Như vậy, bắt buộc phải tìm cho ra mối quan hệ giữa ngọc khí Long Sơn, Hồng Sơn và đồ gốm trước đó nữa. - Các ngôi mộ Lương Chử thời kỳ này chưa có văn hóa đồng thau, tương tự như thế với Bắc Dương Tử. Khu mộ Lương Chử với ngọc khí chứng tỏ đây là vùng của vương triều Việt, dòng hoàng tộc, bao gồm có thể cả các quan quyền hay thầy tư tế Lương Chử nữa. - Do vậy, văn hóa nhà Hạ - Nhị Lý Đầu thời Hạ Vũ vùng Nam Hoàng Hà (trung tâm Erlitou vùng sông Lạc với truyền thuyết Hạ Vũ được Lạc và Hồng Phạm Cửu Trù ) bao trùm toàn bộ Trung Quốc, sau đó cũng trong thời nhà Hạ sau này mới phát triển đồ đồng, nởi trội là đồ đồng khảm đá và các loại cốc rựu cao chân có cổ bằng đồng, đỉnh đồng, sau này đồ đồng Thương phát triển từ văn hóa Nhị Lý Đầu mà ra. Giáp đồng khảm đá hình chiếc xẻng văn hóa Nhị Lý Đầu, hoa văn thao thiết "con rắn" Rìu Việt đồng khảm đá văn hóa Nhị Lý Đầu, 12 hoa văn chữ + bên ngoài là 12 tháng, 6 chữ + bên trong biểu tượng cho "Ngũ vận Lục khí" - Việc Hạ Vũ lấy vợ Đồ Sơn Thị là vùng Đồ Sơn, Hải Phòng mà các sách sau viết là hợp lý, việc giúp cho phương pháp trị thủy và Hồng Phạm Cửu Trù chính là từ Văn Lang, đất tổ Việt Chiết Giang chứ từ đâu. - Trước đó, có một sự kiện Văn Lang giao hảo với thời vua Nghiêu (2357-2258 TDL) bằng rùa thần trên lưng khắc chữ Khoa đẩu, đây là thời kỳ xa nhất có trong chính sử Trung Quốc tại cuốn Kinh Thư. - Sau này, thời Thiên Ất nhà Thương đã tấn công Văn Lang lấy được 3 tỉnh Hồ Nam, Chiết Giang, Giang Tây và cổ vật còn lại tại Văn Lang sau trận chiến là nha chương đá Phùng Nguyên và Xóm Rền, riêng chứng tính vũ khí đồng Thương cần xác định thêm, bao hàm toàn bộ vùng Nam Dương Tử. Nha chương Xóm Rền Nha chương Phùng Nguyên - Nha chương đã đi theo các pháp sư (Đạo giáo) trong đội quân Thương tấn công Văn Lang, mục đích là dùng trong tế tự chiến tranh, tử sĩ trong các trận chiến và chiêm bốc, nha chương xuất hiện trong những ngôi mộ giàu có thời Phùng Nguyên đã chứng tỏ đây là các ngôi mộ của các thủ lĩnh Văn Lang, và nha chương cùng bộ đồ tế lễ là chiến lợi phẩm của chiến thắng. Tuy nhiên, sau chiến tranh các nha chương cũng có thể thuộc về các pháp sư người Việt trong vương triều, còn vua quan vương triều không giữ chúng. - Mặc dù vậy, vùng Chiết Giang thời kỳ này vẫn là một bộ của nước Văn Lang, tức Ư (U) Việt, vì vậy phải tồn tại nền văn hóa bao trùm đó là văn Hóa Văn Lang và Hùng Vương, thời Hạ Vũ tương ứng với đời đầu Hùng Vương Thứ IV: "Chính là biểu tượng rìu Việt". Rìu Việt - Yue (Rìu là chữ "Hoàng" giáp cốt văn, còn chữ "Đế" là cho cả Văn Lang và Trung Quốc), mũ chiếc rìu Việt dưới đây thể hiện viền: ngắn - dài - ngắn tương ứng quái Ly, phương Nam, trên Hậu Thiên Bát Quái. - Theo truyền thuyết thì sau khi Hạ Vũ chia "thiên hạ" thành chín châu (cửu châu), lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh (cửu đỉnh), khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi Cửu Đỉnh tượng trưng cho một châu, toàn bộ cất giữ tại kinh đô nhà Hạ. Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói "Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ". Tất nhiên, thời Hạ Vũ chưa đúc đồ đồng, cho nên Cửu Đỉnh này thuộc về gần cuối nhà Hạ, lúc này đồ đồng đã phát triển rồi. Đỉnh thời Hạ, văn hóa Nhị Lý Đầu Truyền thuyết, 1 đỉnh bị rơi xuống sông Tứ Thủy thời Tần và sau đó các triều đại đi tìm. Tìm kéo được chiếc đỉnh bị mất dưới đáy sông Tứ Thủy, 6 người kéo đỉnh là chòm sao Nam Đẩu Cửu Đỉnh 九鼎 Bảo vật truyền quốc cổ đại, dùng làm tượng trưng cho chính quyền một nước Theo sách " Tả Truyện 左傳 " thì vua nhà Hạ ra lệnh cho châu mục của " Cửu Châu 九州 " đem cống hiến đồng để đúc cửu đỉnh, sau khi làm xong, thi ghi lên thân đỉnh hình vẽ sông núi, sơn xuyên, và những vật lạ kỳ của khắp mọi nơi, sau đó đem cửu đỉnh bầy ở ngoài cửa cung, để tiện cho người ta biết được nơi nào, chỗ nào là chỗ thần linh hay ma quỷ, để mà tránh điều hung, lựa điều cát. Tương truyền rằng việc làm của vua nhà Hạ được " thiên đế 天 帝 " tán đông và phù hộ. Cửu đỉnh ra đời đã mang sẵn ngay một sắc thái thần bí. Nhà Hạ dùng đồng của cửu châu để đúc cửu đỉnh, chẳng những nhằm tượng trưng cho cửu châu, đồng thời biểu thị là nhà Hạ là chủ nhân của cửu châu, thực hiện được sự thống nhất thiên hạ. Sau đó, cửu đỉnh được coi là tượng trưng của quyền lực, và trở thành vật " truyền quốc chi bảo 傳國 之 寶 " của nước Tầu. Khi nhà Hạ bị tiêu diệt, cửu đỉnh truyền vào tay nhà Thương. Nhà Thương mất, cửu đỉnh sang tay nhà Chu. Chu Thành Vương đem cửu đỉnh bầy ở ấp Gíap Nhục (nay thuộc Lạc Dương tỉnh Hà Nam), để cho người ta biết rằng " mệnh trời " qui về nhà Chu. Cho nên trong ngôn ngữ, người Tầu có từ ngữ " vấn đỉnh 問鼎 ", để chỉ sự tranh đoạt quyền lực, và từ "định đỉnh 定鼎 " chỉ sự thiết lập chính quyền. Còn thời tam quốc thì gọi là " tam phân đỉnh túc 三 分 鼎 足 ". Còn vấn đề hịên nay cửu đỉnh đó nay ở đâu' thì do lịch sử ghi không thống nhất, có thuyết cho rằng Tần Chiêu Vương đem cửu đỉnh về nước Tần, nên khi nước Tần bị diệt vong, thi cửu đỉnh thất tung. Còn có thuyết cho rằng khi Tần Chiêu Vương đem cửu đỉnh về nước Tần, thì một chiếc bị rơi xuống sông Tứ Thuỷ, còn lại tám chiếc mới mang vào Tần. Một thuyết khác nữa cho là dưới thời vua Chu Hiển Vương, cửu đỉnh bị chìm ở sông Tứ Thuỷ ở Bành Thành, nên khi Tần Thuỷ Hoàng năm 219 t CN' trên đường qua Bành Thành, cho hơn một ngàn người xuống mò tìm ở sông Tứ Thuỷ nhưng không thấy. Tạ Đức với Nguồn gốc người Việt người Mường là có tầm nhìn bao quát và rộng lớn, tuy nhiên ông cũng đã có một sai sót trầm trọng, làm sai lạc toàn bộ nhận định sau này của ông đó chính là chấp nhận thời Hùng Vương bắt đầu từ thế kỷ VII Trước Dương lịch của các tác giả trước đó. Tất nhiên, nguồn gốc người Việt từ Thiểm Tây là sai một cách đơn giản rồi, muốn giải vấn đề này phải có dữ liệu toàn thế giới và hiểu thuyết Âm Dương Ngũ Hành nữa.
  2. Tôi trích dưới đây thêm một số bài viết về văn hóa Lương Chử và liên quan. Văn hóa Lương Chử và Motif Thao thiết thời nhà Thương (I) 李學勤 Lý Học Cần Người dịch: Hà Hữu Nga Ai cũng biết 饕餮 Thao thiết là một loại motif phổ biến trên đồ đồng Thương Chu, đặc biệt là những người quan tâm đến nghệ thuật đồ đồng cổ thì lại càng rõ điều đó. Cho đến nay nhiều học giả lớn đã bàn luận về bản chất và ý nghĩa của nó và bày tỏ nhiều ý kiến ​​khác nhau, nhưng vẫn chưa có được sự đồng thuận rõ ràng. Không nghi ngờ gì nữa, các motif Thao thiết là một trong những bí ẩn lớn nhất trong khảo cổ học và lịch sử nghệ thuật Trung Quốc. Văn bản sớm đề cập đến cái tên Thao thiết vào cuối Chiến Quốc là 呂氏春秋Lã thị Xuân thu. Trong Tiên thức thiên có nói rằng, “Cái đỉnh nhà Chu được khắc hình Thao thiết, chỉ có cái đầu nhưng lại không có cơ thể” *. Trên cơ sở hồ sơ này, tài liệu về đồ đồng của thời kỳ Bắc Tống gọi cách bài trí với một cái đầu thú được chạm hoặc đắp nổi trên chiếc đỉnh là Thao thiết. Ví dụ, 呂大臨 Lữ Đại Lâm [1044-1093] mô tả vật trang trí trên 癸鼎 Quý đỉnh, nói “trên đó có một khuôn mặt thú, đó là tượng trưng của Thao thiết” **. Trong hơn chín trăm năm kể từ thời Lữ Đại Lâm, các nghiên cứu về đồ đồng cổ vẫn sử dụng thuật ngữ này. Chỉ trong thời kỳ hiện đại, các học giả mới chủ trương loại bỏ nó. Đặc biệt là ở Trung Quốc, sự thay đổi đó là khá muộn. Ví dụ, trong những năm 1950, 陳夢家 Trần Mộng Gia*** sử dụng thuật ngữ “thú diện” thay vì Thao thiết trong bài viết của mình về phân kỳ đồ đồng Tây Chu, công bố trong Khảo cổ học báo năm 1955-1956; còn Lý Tế**** thì sử dụng thuật ngữ 動物面 “động vật diện” ngay từ khi ông bắt đầu công bố các nghiên cứu khác nhau về đồ đồng Ân Khư. Những thuật ngữ này tương đương với thuật ngữ “mặt nạ động vật” - “animal mask” trong tiếng Anh, nhưng việc sử dụng chữ 獸 “thú” hiện nay có nghĩa hẹp hơn 動物 “động vật”, còn chữ 面 diện có nghĩa là “mặt” chứ không phải mặt nạ. Theo hiểu biết của tôi thì sự phản đối quyết liệt gần đây nhất về thuật ngữ Thao thiết là TS. Paul Singer, người chủ trương sử dụng thuật ngữ “mặt nạ động vật” hoặc một thuật ngữ nào đó tương tự [Paul Singer, ‘A bone mask’, Archives of Asian .411, XXX“. 1955. pp. 884]. Bản thân tôi cũng tránh dùng thuật ngữ Thao thiết trong các công trình khảo cổ học vì nó không rõ ràng, tuy nhiên ở đây tôi vẫn sử dụng vì lý do thuận tiện. Lập luận về thuật ngữ phù hợp cho motif này liên quan đến cách diễn giải của chúng tôi về bản chất và ý nghĩa của nó. Vì motif Thao thiết được sử dụng trong một khoảng thời gian dài và những thay đổi liên quan đến thuật ngữ này đặc biệt phức tạp, nếu chúng ta phát hiện ra bản chất và ý nghĩa của nó thì chúng ta phải phân tích một khối lượng lớn tư liệu một cách hệ thống và tìm lại dạng nguyên gốc của motif này. Trần Công Nhu & Trương Trường Thọ [《殷周青銅容器上獸面紋的斷代研究》《考古學報》1990 年2 期): “Ân Chu thanh đồng khí thượng dung khí thượng thú diện văn đích đoạn đại nghiên cứu” “Khảo cổ học báo” 1990 niên 2 kì) - Nghiên cứu phân kỳ motif hoa văn mặt thú trên đồ đồng Ân Chu], có đề cập đến các nghiên cứu của các học giả đi trước như: 1. 容庚,《金文編》1372頁,中華書局1988年版 Dung Canh, Kim văn biên, 1372 hiệt, Trung Hoa Thư cục 1988 niên bản; 容庚:《商周彝器通考》(1941)上冊頁49、93圖53;Dung Canh: “Thương Chu di khí thông khảo” 1941, thượng sách hiệt 49,93 đồ 53; 2. Bernhard Karlgren “Yin and Chou in Chinese Bronzes,” Bulletin of the ..... surface décoration motifs (masks and animal-bodies in profile); 3. 李濟萬家保:《殷墟出土青銅鼎形器之研究》,《中國考古報告集新編》古器研究專刊第 4 本,台北,1970年; Lý Tế Vạn Gia Bảo: “Ân Khư xuất thổ thanh đồng đỉnh hình khí chi nghiên cứu”, “Trung Quốc Khảo cổ Báo cáo Tập tân biên”, Cổ khí Nghiên cứu Chuyên san đệ 4 bản, Đài Bắc, 1970 niên; 4. 張光直,《商周青銅器與銘文的綜合研究》(台北:中央研究院歷史語這研究所,1971)。Trương Quang Trực, “Thương Chu thanh đồng khí dữ minh văn đích tống hợp nghiên cứu” (Đài Bắc: Trung ương Nghiên cứu viện Lịch sử Ngữ giá Nghiên cứu sở, 1971); 5. 馬承源主編《商周青銅器銘文選》,上海博物館商周青銅器銘文選編寫組編,北京市:文物出版社,1986.Mã Thừa Nguyên, chủ biên “Thương Chu thanh đồng khí minh văn tuyển”, Thượng Hải bác vật quán Thương Chu thanh đồng khí minh văn tuyển biên tả tổ biên, Bắc Kinh thị: Văn vật Xuất bản xã, 1986; và 6. 林巳奈夫:《殷周時代青銅器の研究》(198)爵224,頁184 Lâm Tị Nại Phu: “Ân Chu thời đại thanh đồng khí đích nghiên cứu” (1984) tước 224, hiệt 184.  Các tác giả đã khai quật một cách khoa học các đồ đồng với tư cách là nguồn tư liệu sơ cấp, tận dụng những thành tựu nghiên cứu phân kỳ, và áp dụng phương pháp loại hình học để phân biệt các dạng thức hoa văn mặt động vật và từ đó tìm kiếm thức phát triển và biến đổi. Trần Công Nhu - Trương Trường Thọ tin rằng nguồn gốc của các motif xuất hiện trên đồ đồng Thương Chu có thể được tìm thấy trong văn hóa 二里頭 Nhị Lý Đầu (khoảng thế kỷ 21 - 17 TCN) và họ đã lấy đồ gốm và đồ đồng của nền văn hóa đó làm bằng chứng. Các đồ đồng có trang trí các họa tiết Thao thiết của văn hóa Nhị Lý Đầu hiện nay đã được khai quật khảo cổ học. Các hiện vật tương tự cũng có thể được tìm thấy trong các bộ sưu tập công cộng và tư nhân ở nước ngoài, ví dụ, tại Bảo tàng Fogg, Đại học Harvard và các bộ sưu tập của Singer. Các vật trang trí trên những đồ đồng này được làm từ ngọc lam khảm. Chúng khác nhau về cấu trúc và khá phức tạp, vì vậy chúng vẫn không thể đại diện cho loại hình gốc của các họa tiết Thao thiết. Vì vậy chúng ta phải tìm kiếm nguồn gốc của Thao thiết trong nghệ thuật thời tiền sử của Trung Quốc. Một số học giả đã sớm nhận thấy rằng một motif tương tự như Thao thiết đã xuất hiện trên các đồ ngọc bích thuộc văn hóa Lương Chử. Vào năm 1917, nhà cổ tự học 王崇烈 Vương Sùng Liệt, trong bình luận về loại 玉璜 ngọc hoàng của văn hóa này, coi nó như là một motif trang trí Thao thiết trước thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) và so sánh nó với các motif đồng. Vào cuối những năm bảy mươi, các nhà khảo cổ học tỉnh Chiết Giang trong thảo luận về các họa tiết ngọc của văn hóa Lương Chử, tuyên bố rằng “Thao thiết, Lôi văn và văn xoắn ốc, tất cả đều là những motif quan trọng vẫn thường được tìm thấy trên đồ đồng Thương Chu”. Tuy nhiên, các học giả khác đã bày tỏ một mức độ hoài nghi nhất định về việc liệu đã có đầy đủ bằng chứng để kết nối các motif trang trí từ các nền văn hóa đồ đá mới Lương Chử ở phía đông nam với các nền văn hóa Thương và Chu ở vùng đồng bằng Trung Nguyên chưa. Phải thừa nhận rằng thái độ hoài nghi này là hợp lý bởi vì mặc dù niên đại carbon-14 của văn hóa Lương Chử khoảng 5300-2100 trước Công nguyên, thì niên đại muộn nhất liền kề với niên đại truyền thống khởi đầu của nhà Hạ, một khu vực địa lý cách rất xa văn hóa Lương Chử. Trong những năm gần đây, các hiện vật ngọc bích có trang trí thậm chí tinh xảo hơn so với những hiện vật đã biết trước đây, đã được khai quật tiếp từ các di chỉ, chẳng hạn như 草鞋山Thảo Hài Sơn, và 张陵山 Trương Lăng Sơn ở 吴县 Ngô huyện, 寺墩 Tự Đôn ở 武进 Vũ Tiến, tỉnh Giang Tô; 福泉山 Phúc Tuyền Sơn tại quận 青浦 Thanh Phố, Thượng Hải; 反山 Phản Sơn và 瑤山 Dao Sơn tỉnh Giang Tô. Phần quan trọng nhất đã được công bố trong 《良渚文化玉器》, 北京, 1990. Lương Chử Văn hóa Ngọc Khí, do đó chúng tôi có một quan điểm mới để nghiên cứu các motif Thao thiết trong văn hóa Lương Chử. Trong phần dưới đây, tôi sẽ phân tích các motif trên đồ ngọc Lương Chử, sau đó so sánh nó với các motif Thao thiết trên đồ đồng thời Thương, bằng cách chỉ ra những điểm tương đồng giữa hai nhóm hiện vật, và theo đó cung cấp manh mối về bản chất và ý nghĩa của motif Thao thiết. Việc phát hiện ra hình thức đầy đủ và phức tạp nhất của motif Thao thiết xuất hiện trên đồ ngọc Lương Chử là một khám phá quan trọng trong các cuộc khai quật tại Phản Sơn và Dao Sơn. Họa tiết trên một ống “tông” 反山 Phản Sơn (M12: 98) và chiếc rìu bằng ngọc (M12: 100) là những ví dụ điển hình của hình mẫu này. Phiến ngọc P1 là một họa tiết vẽ trên ống tông. Các motif mô tả theo mẫu này, có thể hiểu theo ba cấp độ: (1) Nếu chúng ta coi mẫu họa tiết này như một toàn thể, thì đó là một hình người với hai khuôn mặt. Ở phía trên có một đầu đội lông vũ dưới đó là một đôi cánh tay mở rộng chống nạnh bên trái và bên phải, còn cơ thể thì có mắt và miệng; ở phía dưới là hai chân cong. Như tôi đã thảo luận trước đó, cũng có những mẫu họa tiết trên hiện vật thời nhà Thương có hai khuôn mặt, một trên đầu và một trên cơ thể, ví dụ, một hiện vật xương hình trụ từ ngôi mộ 1001, 西北岗 Tây Bắc Cương, 侯家庄 Hầu Gia Trang, và trống đồng trong Bộ sưu tập Sumitomo. Họa tiết hai mặt cũng xuất hiện trong thần thoại Trung Quốc cổ đại. Theo 山 海经 Sơn Hải Kinh, 刑天與帝爭神,帝斷其首,葬之常羊之山,乃以乳為目,以臍為口,操干戚以舞。Hình Thiên dữ đế tranh thần, đế đoạn kì thủ, táng chi thường dương chi san, nãi dĩ nhũ vi mục, dĩ tề vi khẩu, thao can thích dĩ vũ. Hình Thiên và [Hoàng] Đế tranh làm chúa tể. Đế cắt đầu của Hình Thiên, và chôn ở núi Thường Dương. Nhưng Hình Thiên, lấy ngực làm mắt, lấy rốn làm miệng, vẫn tiếp tục chiến đấu bằng chiếc rìu và chiếc khiên của mình]. Trong chương 《地形》Địa Hình của sách 淮南子 Hoài Nam Tử, nhân vật này được gọi là 刑乹, Hình Càn (có thể 天 thiên và 乹 càn tương tự về âm vị học). Sách Hoài Nam tử viết “Ở phía tây, có xác chết của Hình Càn”, và 高誘 Cao Dụ bình sách Hoài Nam Tử nói [高诱注: “一説曰: 形残之尸,于是以两乳为目,腹脐为口,操干戚以舞,天神断其手,… 天与帝至此争神, 帝断其首,葬之常羊之山,乃以乳为目,以脐为口,操干戚以舞。Cao Dụ chú: “nhất thuyết viết: hình tàn chi thi, vu thị dĩ lưỡng nhũ vi mục, phúc tề vi khẩu, thao can thích dĩ vũ, thiên thần đoạn kì thủ,…thiên dữ đế chí thử tranh thần, đế đoạn kì thủ, táng chi thường dương chi san”.] “Xác chết của Hình Càn, ngay sau đó dùng hai núm vú làm đôi mắt và lỗ rốn làm miệng, nắm mộc vung rìu . Thiên thần cắt tay ông… Thiên và Đế chí tử tranh làm chúa tể, Đế chặt đứt đầu Thiên, táng tại núi Thường Dương”. Theo Sơn Hải Kinh, Hình Thiên lần đầu tiên bị chặt đầu và ngay lập tức đã dùng núm vú mình làm mắt, rốn mình làm miệng. Theo bình luận của 高誘 Cao Dụ về sách Hoài Nam Tử, lần đầu tiên Hình Thiên dùng vú làm mắt và rốn làm miệng, cho dù tay và đầu đã bị cắt cụt, nhưng motif cơ bản là nói về một nhân vật có hai khuôn mặt, một trên đầu và một dưới thân. (2) Các họa tiết ấy có thể được xem là có hai phần, trên và dưới, đã được nối với nhau. Phần trên là nửa trên của cơ thể con người và bao gồm một đầu đội lông vũ và một đôi cánh tay; phần dưới gồm có một mặt động vật với đôi mắt hình bầu dục và một cái miệng với những chiếc răng nanh nhô ra và núp vào chân trước. Ranh giới giữa phần trên và dưới là rất rõ ràng. Nếu chúng ta xem xét nó theo cách này, thì động vật ở phần dưới rất có thể là một con rồng của thời kỳ đó. Nếu chúng ta xem xét những con rồng trên thanh ngọc hình rồng của văn hóa Hồng Sơn ở tây Liêu Ninh (khoảng 4500-5000 năm TCN) một cách trực diện và mở rộng ra khuôn mặt (pl.2), thì khuôn mặt nó rất giống với mặt động vật đã nói ở trên, đúng như Ma Chengyuan đã quan sát thấy. Các con rồng được mô tả trên ngọc Hồng Sơn có một số khác biệt với những con rồng sau: chúng không có sừng, đôi mắt của chúng hình bầu dục và răng nanh thì dài. Tôi cần phải nói rõ là theo truyền thống sau này, thì Thao thiết ban đầu là một con rồng “rất thích ăn uống, chính vì vậy mà nó được chạm trên nắp đỉnh”. Điều này có thể cần phải kiểm chứng thêm. Năm 1988, đã phát hiện được một bức vẽ trên mai rùa một người đàn ông cưỡi rồng từ văn hóa Ngưỡng Thiều, được tìm thấy tại Bộc Dương, tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên, vì hình người trong họa tiết ngọc Lương Chử không có vẻ gì là đang cưỡi rồng, cho nên ví dụ này dường như không hề được sử dụng trong bất kỳ một giải thích nào về motif ngọc bích Lương Chử. (3) Các khuôn mặt động vật có thể được xem như là yếu tố chính trong việc thiết kế họa tiết và nhân vật trên như là một phần phụ cho nó. Khuôn mặt hình nêm của hình người với vành ngoài của một đầu đội lông vũ rất khác biệt đó chính là hình dạng tương tự của một loại họa tiết trang trí mũ ngọc bích rất phổ biến trong văn hóa Lương Chử. Theo báo cáo khai quật, tại Phản Sơn “ngoại trừ một ngôi mộ, các ngôi mộ khác đều có một hình dạng như vậy... Chúng tôi đã gọi đó là “họa tiết trang trí hình mũ” vì vị trí của chúng trong mộ và vì hình dạng của hiện vật đều tương tự với loại hình ấy của chiếc mũ thần linh [có nghĩa là, họa tiết hình người]. Trong mọi trường hợp, vị trí hiện vật được khai quật đều nằm ở một bên của hộp sọ. Các hiện vật này thường phẳng và hình thang, lớn hơn ở phía trên và nhỏ hơn ở phía dưới. Rìa trên có dạng chóp mũ còn phía dưới là một mộng ngắn đã được cắt ra. Hai đến năm lỗ đã chám vào mộng và có một khoảng hở dọc theo nó, để có thể được chèn vào một cái gì đó và hơn nữa, cố định vững chắc tại chỗ. Ban đầu, nó phải được đặt vào cạnh trên của một số loại vật liệu gỗ. Bên dưới họa tiết trang trí hình chiếc mũ , thường phát hiện được những mảnh ngọc màu son và kích thước nhỏ, khảm thành dải”. Mưu Vĩnh Kháng, tỉnh Chiết Giang, trong một tiểu luận về các lễ thức tôn giáo và ngọc Lương Chử, suy luận rằng “các vật trang trí hình mũ là một chiếc nắp đặt trên đỉnh đầu của một tượng thần” và hơn nữa liên kết nó với các hiện vật hình bướm khai quật được ở Dư Diêu Hà Mẫu Độ. Vì vậy, chúng tôi cho là hợp lý khi coi hình người trên mặt động vật trong họa tiết này là để miêu tả loại họa tiết trang trí hình mũ và đó là một biểu tượng của một nhân vật thiêng liêng [牟永抗, "良渚文化 玉器" 文物 出版社, 兩 木 出版社 浙江省 文物 考古 研究所 編. 1989 年 12 月. Mưu Vĩnh Kháng, “Lương Chử văn hóa ngọc khí” Văn vật Xuất bản xã, Lưỡng mộc Xuất bản xã Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ Nghiên cứu sở biên, 1989 niên 12 nguyệt.] ____________________________________________ Tác giả: Lý Học Cần 1933-nay: sinh tại Bắc Kinh trong một gia đình trí thức, nghiên cứu lịch sử, triết học, văn hóa, cổ địa lý, ngữ văn Trung Quốc, công tác tại Đại học Thanh Hoa. 1951-1952 nghiên cứu Khoa Triết học, Đại học Thanh Hoa, năm 1954 về Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc; năm 2004, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu cao cấp, Đại học Thanh Hoa, giáo sư nghệ thuật. Nguồn: Li Xueqin 1993. Liangzhu Culture and the Shang Dynasty Taotie Motif. Roderick Whitfield, ed. The Problem of Meaning in Early Chinese Ritual Bronzes, Colloquies on Art and Archaeology in Asia, no. 15. London: School of Oriental and African Studies, 1993: 56-65. Translated from the Chinese by Sarah Allan. Người dịch tiếng Việt có tham khảo 李學勤:〈良渚文化玉器與饕餮紋的演變〉,頁92-95.Lý Học Cần: Lương Chử Văn hóa ngọc khí dữ Thao thiết văn đích diễn biến, hiệt 92-  95. Ghi chú *, **,***,**** [Người dịch chú]: 呂氏春秋: 先識覽: 周鼎著饕餮,有首無身,食人未咽,害及其身,以言報更也。 為不善亦然。白圭之中山,中山之王欲留之,白圭固辭,乘輿而去;又之齊,齊王欲留之仕,又辭而去。人問其故。曰:「之二國者皆將亡。所學有五盡。何謂五 盡?曰:莫之必則信盡矣,莫之譽則名盡矣,莫之愛則親盡矣,行者無糧、居者無食則財盡矣,不能用人、又不能自用則功盡矣 。國有此五者,無幸必亡。中山、齊 皆當此。」若使中山之王與齊王,聞五盡而更之,則必不亡矣。其患不聞,雖聞之又不信。然則人主之務,在乎善聽而已矣。夫五割而與趙,悉起而距軍乎濟上,未 有益也。是棄其所以存,而造其所以亡也。 Lã thị Xuân thu: Tiên thức lãm: Chu đỉnh trứ Thao thiết, hữu thủ vô thân, thực nhân vị yến, hại cập kì thân, dĩ ngôn báo canh dã. Vi bất thiện diệc nhiên. Bạch Khuê chi Trung Sơn, Trung Sơn chi vương dục lưu chi, Bạch Khuê cố từ, thừa dư nhi khứ; hựu chi Tề, Tề vương dục lưu chi sĩ, hựu từ nhi khứ. Nhân vấn kì cố. Viết: “chi nhị quốc giả giai tương vong. Sở học hữu ngũ tận. Hà vị ngũ tận? Viết: mạc chi tất tắc tín tận hĩ, mạc chi dự tắc danh tận hĩ, mạc chi ái tắc thân tận hĩ, hành giả vô lương, cư giả vô thực tắc tài tận hĩ, bất năng dụng nhân, hựu bất năng tự dụng tắc công tận hĩ. Quốc hữu thử ngũ giả, vô hạnh tất vong. Trung Sơn, Tề giai đương thử”. Nhược sử Trung Sơn chi vương dữ Tề vương, văn ngũ tận nhi canh chi, tắc tất bất vong hĩ. Kì hoạn bất văn, tuy văn chi hựu bất tín. Nhiên tắc nhân chủ chi vụ, tại hồ thiện thính nhi dĩ hĩ. Phù ngũ cát nhi dữ Triệu, tất khởi nhi cự quân hồ tế thượng, vị hữu ích dã. Thị khí kì sở dĩ tồn, nhi tạo kì sở dĩ vong dã. Chiếc đỉnh nhà Chu có hình tượng Thao thiết, có đầu không thân, ăn người không nuốt được, tự làm hại mình, lấy lời đền lại vậy; chẳng qua cũng là việc bất thiện. Bạch Khuê người Trung Sơn; vua Trung Sơn muốn dùng ông, Bạch Khuê một mực từ chối, nhân có xe nên bỏ đi; lại đến nước Tề, Tề vương muốn lưu lại phong quan tước, vì thế lại bỏ đi. Có kẻ hỏi việc đó, bèn đáp: Hai nước đó sẽ cùng bị diệt mà thôi; Sở học có năm cái tận. Sao lại nói về năm cái tận đó? Vì: 1. Niềm tin nào rồi cũng tận; 2. Danh tiếng đến đâu rồi cũng tận; 3. Thân cận đến mấy rồi cũng tận; 4. Đi không lương, ở không bổng thì tài năng rồi cũng tận; 5. Không biết dùng người, không tự dùng được mình thì sự nghiệp rồi cũng tận. Nước cũng có năm cái tận ấy vậy; vô hạnh chắc chắn sẽ tận diệt. Trung Sơn và Tề, hai nước hiện đều như vậy. Nếu khiến cho Trung Sơn vương và Tề vương biết rõ năm cái tận diệt ấy mà cải đổi thì chắc chắn sẽ không tận diệt, nhược bằng họa hoạn nhường ấy mà không biết, hoặc có biết mà không tin thì đó là lỗi của kẻ quốc chủ vậy, sao còn nói là không được nghe điều phải. Còn năm điều lành sẽ đến với Triệu, nước ấy tất khởi đại binh mà thành đại nghiệp, thật hữu ích thay. Bỏ qua cái hiện tồn thì chính là làm cho tận vong mau đến vậy. ** 呂大臨“考古圖”記癸鼎說:中有獸面,蓋饕餮之象. Lữ Đại Lâm “Khảo cổ đồ” kí quý đỉnh thuyết: “trung hữu thú diện, cái thao thiết chi tượng” - Trong “Khảo cổ đồ”, Lữ Đại Lâm nói về Quý đỉnh: “Ở giữa có một khuôn mặt thú, đó là hình tượng Thao thiết vậy”. *** 陳夢家:“西周銅器斷代”(1955-1956)上冊頁63,爵33. Trần Mộng Gia: “Tây Chu đồng khí đoạn đại” (1955-1956) Thượng sách hiệt 63, tước 33. **** 李濟萬家保:《殷墟出土青銅鼎形器之研究》,《中國考古報告集新編》古器研究專刊第 4 本,台北,1970年; Lý Tế Vạn Gia Bảo: “Ân Khư xuất thổ thanh đồng đỉnh hình khí chi nghiên cứu”, “Trung Quốc Khảo cổ Báo cáo Tập tân biên”, Cổ khí Nghiên cứu Chuyên san đệ 4 bản, Đài Bắc, 1970 niên. Vén bức màn bí ẩn của đĩa Bích: Mô hình Dọi xe sợi (I) Jean M. Green Người dịch: Hà Hữu Nga Các báo cáo khảo cổ học của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đặc biệt kể từ cuối Cách mạng Văn hóa vào đầu những năm 1970, tiết lộ loại đĩa ngọc Bích với hình thức cổ điển của chúng trong các ngôi mộ hậu kỳ đá mới và cung cấp cơ sở cho một khảo sát mới về nguồn gốc của đĩa Bích. (1) Đĩa Bích là một loại đĩa ngọc (2) có chức năng nghi lễ hoặc trang trí có dáng phẳng và một lỗ nhỏ ở giữa (PIs. I, II). Kích cỡ khẩu độ của loại đĩa này cho thấy rằng hình thức ban đầu của nó đã có một công dụng (có nghĩa là, hình dạng phù hợp với một phần của một công cụ cổ xưa) vì các hiện vật ngọc nghi lễ khác của Trung Quốc, rõ ràng là được tái tạo từ các vật dụng, như rìu, cuốc, và bôn, có lỗ tra cán gỗ. Một hiện vật thông dụng khác thời đồ đá mới là một loại đĩa phẳng có một lỗ ở giữa, chính là chiếc dọi xe sợi có hình đĩa. Chiếc dọi xe sợi ấy chính là một bánh đà trên trục của một con suốt xe sợi được thiết kế để duy trì một xung lượng xoắn cho sợi chỉ được rút ra từ một búi sợi. Do đó con suốt tay chính là một thiết bị đơn giản gồm một cây gậy và một quả trọng lực, là chiếc con lăn cọc sợi (PI. III). Giả thuyết được đưa ra ở đây là loại hiện vật được biết đến như một chiếc dọi xe sợi hình đĩa và cái đĩa Bích ấy được liên kết về mặt hình thức, về phương diện lịch sử, và mang tính ngữ cảnh. Giả thuyết này không phải là hoàn toàn mới (Robert Poor, thông tin cá nhân, 1991). Ngay từ năm 1948, 郭寶崑 Quách Bảo Côn cho rằng đĩa Bích có nguồn gốc từ chiếc dọi xe sợi (紡輪 phưởng luân) hoặc chiếc rìu tròn (1948: 4-5). 周南泉Chu Nam Tuyền lặp lại ý kiến ​​của Quách và đề cập đến sự giống nhau của đĩa Bích với chiếc dọi xe sợi bằng ngọc (1985: 82). Dọi xe sợi ngọc được khai quật trong điều kiện có kiểm soát tại các di chỉ Phúc Tuyền Sơn thuộc văn hóa Lương Chử (PI IV.) khiến cho 趙慶芳 Triệu Khánh Phương, một cán bộ của Bảo tàng Nam Kinh, cho rằng “Một đầu mối về nguồn gốc của các đĩa Bích từ chiếc dọi xe sợi có thể được làm sáng tỏ bằng cách xem xét kỹ lưỡng hơn về tính tương đồng hình dạng của chúng” (1989: 82). Bài viết này cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đó. Giả thuyết liên quan đến sự biến đổi của chiếc dọi xe sợi thành đĩa Bích nói chung không được các học giả chấp nhận. Quan niệm do Quách nêu ra đã không được đưa vào các thảo luận của William Willetts (1958: 94, 1965: 46) về vấn đề này, trong khi những người khác hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nguyên mẫu công cụ như vậy đối với đĩa Bích. Ví dụ, James Watt, quản thủ cao cấp nghệ thuật châu Á của Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm ở New York, khẳng định rằng ngọc Bích và ngọc Tông “đại diện cho các hiện vật của Trung Quốc được biết đến sớm nhất có các hình dạng hoàn toàn khác biệt với bất kỳ vật dụng, trang trí hay thực dụng nào” (1990: 11). Nguồn gốc của chiếc ống nghi lễ phức tạp, ngọc Tông, nằm ngoài phạm vi của bài viết này, nhưng cả ngọc Bích lẫn ngọc Tông có thể đều phát triển trong Văn hóa Lương Chử (Fig. 1), và phát triển mạnh ở vùng hạ lưu sông Trường Giang (Dương Tử ), đặc biệt là ở bắc Chiết Giang và nam Giang Tô, từ 3300 - 2200 năm TCN. (3) Bài viết này tập trung vào văn hóa Lương Chử; mặc dù các di chỉ văn hóa đồ đá mới khác cũng có đĩa Bích, (4) nhưng các đĩa này không có tính nhất quán, sự lặp lại, và tính thống nhất về hình dạng đặc trưng cho phiên bản Lương Chử. Mới đây Huang (1992: 78) cho biết, “Trong số hơn 200 ... vòng ngọc Bích được khai quật khảo cổ học, thì chỉ có dưới... 20 đĩa Bích được phát hiện từ các nền văn hóa đồ đá mới khác”. Đĩa Bích Lương Chử lớn hơn nhiều so với những đĩa Bích từ các khu vực khác (Huang 1992: 78), và người thợ thủ công Lương Chử luôn gắn liền với loại đĩa Bích rộng mỏng, một loại hình đã trở thành cổ điển. Trong những năm gần đây một số di chỉ Lương Chử chủ yếu, bao gồm cả phần còn lại của các nền văn hóa trước, đã được khai quật trong các điều kiện có kiểm soát và được xây dựng hồ sơ tài liệu đầy đủ (Fig. 2). Các địa điểm chính được thảo luận ở đây là: Thảo Hài Sơn (Nam Kinh, 博物院 Bác vật viện 1980) ở Ngô Huyện, Giang Tô; Phúc Tuyền Sơn (上海市文物保管委员会选编《上海史料丛编》“Thượng Hải thị Văn vật Bảo quản Ủy viên hội Tuyển biên “Thượng Hải Sử liệu Tùng biên” 1986; 上海市文物管理委員會工作,1990年 “Thượng Hải thị Văn vật Bảo quản Ủy viên hội, Thượng Hải”); Tự Đôn (Nam Kinh 博物院 Bác vật viện 1981, 1984) ở quận Vũ Tiến, thành phố Thường Châu, Giang Tô; Dao Sơn và Phản Sơn ở Chiết Giang, gần Hàng Châu (浙江省文物考古研究所編 Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ Nghiên cứu Sở biên, 1988; 浙江省文物考古研究所編反山考古隊 Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ Nghiên cứu Phản Sơn khảo cổ đội 1988). Các hiện vật ngọc từ nghĩa địa Dao Sơn và Phản Sơn là đặc biệt quan trọng và thể hiện một chuỗi phát triển từ dọi xe sợi đến đĩa Bích. Quan hệ chính thức giữa đĩa Bích và dọi xe sợi hình đĩa Hình dạng của đĩa Bích: Vào khoảng hai thiên niên kỷ sau khi kết thúc văn hóa Lương Chử, các tác giả của sách 耳雅 Nhĩ nhã, đã cố gắng phân biệt đĩa Bích khỏi các loại đĩa ngọc bích khác. Theo Nhĩ Nhã, một đĩa Bích có một lỗ khoan kích cỡ bằng một nửa chiều rộng của nó, trong khi một ngọc Hoàn có kích cỡ lỗ khoan tương tự, còn ngọc Viện thì có lỗ khoan gấp hai lần chiều rộng của nó (Anon 1929-1936:. 4).[《爾雅•釋器》載:“肉(器體)倍好(穿孔)謂之璧,好倍肉謂之瑗,肉好若一謂之環。”根據中央孔徑的大小把這種片狀圓形玉器分為玉璧、玉瑗、玉環三 種。“Nhĩ nhã, Thích khí” tái: “nhục (khí thể) bội hảo (xuyên khổng) vị chi bích, hảo bội nhục vị chi viện, nhục hảo nhược nhất vị chi hoàn”. Căn cứ trung ương khổng kính đích đại tiểu bả giá chủng phiến trạng viên hình ngọc khí phân vi ngọc bích, ngọc viện, ngọc hoàn tam chủng] - Sách Nhĩ Nhã chú giải đồ ngọc, viết: “kích thước vành đĩa ngọc lớn hơn lỗ khoan ở giữa thì chính là Bích; lỗ khoan lớn hơn vành đĩa thì đó là ngọc Viện; nếu kích thước vành đĩa bằng kích thước lỗ khoan thì đó là ngọc Hoàn vậy”. Căn cứ vào kích cỡ to nhỏ của thân và lỗ khoan của đồ ngọc mà phân thành ba loại ngọc Bích, ngọc Viện, ngọc Hoàn vậy- HHN]. Mối quan hệ giữa ngọc Bích và dọi xe sợi - Hình dáng của ngọc Bích Na Chí Lương làm rõ Nhĩ nhã bằng cách xác định chính xác hình dáng khi miêu tả ngọc Bích. Ông viết: “Khi hiện vật có lỗ khoan nhỏ hoặc khi đường kính của lỗ khoan nhỏ hơn so với khoảng cách từ mép của lỗ đến rìa cạnh của hiện vật (肉 nhục), thì gọi nó là Bích” (那志良,古玉鑑裁 Na Chí Lương 1980, Cổ ngọc Giám tài: 74-75). Hạ Nãi lưu ý rằng “trong số các hiện vật khai quật các ... tỷ lệ này không đồng nhất” (1986: 212) và gọi tính cứng nhắc của sách Nhĩ nhã là “phỉnh gạt và chẻ sợi tóc làm tư” (1986: 212). Tuy nhiên Hạ Nãi lại cho rằng “Những hiện vật có thể tạng mảnh mai và các lỗ khoan có đường kính lớn hơn một nửa của cả hiện vật đó, đặc biệt có thể gọi là ngọc Hoàn” (1986: 213). Ở bài viết khác, Hạ Nãi (1983: 25) xác định ngọc Bích như sau “những hiện vật có đường kính lỗ khoan và chiều rộng cùng kích thước, hoặc có lỗ khoan nhỏ hơn so với chiều rộng của hiện vật…Những hiện vật có thể tạng nhỏ, tinh tế nhưng lỗ khoan lớn hơn chiều rộng, thì tôi gọi là vòng ngọc bích…” (1983:25). Tôi sẽ sử dụng cách xác định của Hạ Nãi như một định nghĩa để làm việc. Ngọc Bích Lương Chử đáp ứng được các tiêu chí này. [夏鼐:《商代玉器的分類,定名和用途》(《考古》1983 年5期)一文提出:"好"是指當中的孔,'肉'是指周圍的邊。而出土玉璧,與《爾雅》所說不符。認為"'瑗'字在古玉名稱中今後似可放棄不用。 ... 瑗"玉"古籍中有明文規定,且戰國中山王墓出土玉環,瑗上,墨書文​​字寫名,也與《爾雅·釋器》一致。Hạ Nãi: “Thương đại ngọc khí đích phân loại, định danh hòa dụng đồ” (“Khảo cổ”) 1983 niên 5 kì) nhất văn đề xuất: “hảo” thị chỉ đương trung đích khổng, “nhục” thị chỉ chu vi đích biên. Nhi xuất thổ ngọc bích, dữ “Nhĩ nhã” sở thuyết bất phù. Nhận vi “Viện” tự tại cổ ngọc danh xưng trung kim hậu tự khả phóng khí bất dụng. … “viện ngọc” cổ tịch trung hữu minh văn quy định, thả Chiến quốc Trung San vương mộ xuất thổ ngọc hoàn, viện thượng, mặc thư văn tự tả danh, dã dữ “Nhĩ nhã - Thích khí”nhất trí - Dịch ý: Hạ Nãi “Phân loại, xác định tên gọi và cách dùng” (Khảo cổ, 1983, kỳ 5), Bài viết nêu rõ: “hảo” chính là lỗ khoan ở giữa hiện vật, “nhục” là chu vi biên của hiện vật. Nhưng ngọc Bích đã được khai quật, mà cách chú giải của Nhĩ Nhã thì lại không phù hợp. Cho rằng “Viện” là tên gọi ngọc cổ sau có thể bỏ đi không dung… “Ngọc” Viện trong thư tịch cổ có quy định rõ, hơn nữa khi khai quật mộ Trung Sơn vương thời Chiến quốc đã phát hiện được ngọc Hoàn, ngọc Viện ở trên, bút mực đã viết rõ tên, vậy nên cũng nương theo “Nhĩ nhã - Thích khí” mà đồng ý. HHN]. Việc tiêu chuẩn hóa hình dạng ngọc Bích thấy trong các ngôi mộ ở Phản Sơn và Tự Đôn (PI. V, VI) đã chứng tỏ rằng những đĩa có lỗ nhỏ là một đối tượng có thể nhận dạng. Những đĩa Bích lớn có một cấu hình khá nhất quán: một dạng bánh đà lớn. Các quy luật cơ học khẳng định rằng hình dạng này có thể làm công việc quay sợi dễ dàng hơn cái gọi là ngọc Viện đục lỗ lớn có cùng một đường kính ngoài, độ dày, và chất liệu. Hình dạng phổ biến của ngọc Bích Phản Sơn và Tự Đôn cho thấy những đĩa Bích này chính thức liên quan đến một công cụ làm việc, đó là cái dọi xe sợi hình đĩa. Các quả dọi của con suốt xe sợi trong thời đồ đá mới Trung Quốc có nhiều hình dáng khác nhau, chẳng hạn như loại hình nón cụt, hình quả cân, hoặc các dạng hình cầu. Tuy nhiên, Dieter Kuhn trong tuyển tập công trình của mình về công nghệ dệt may Trung Quốc đã viết, các hình dạng phổ biến nhất đối với một quả dọi suốt xe sợi chính là một đĩa phẳng với một lỗ ở giữa (1988: 152). Trọng lượng của quả dọi thay đổi trực tiếp liên quan đến sức nặng của loại sợi được xe, do đó kích thước đường kính ngoài của các dọi xe sợi thường từ khoảng 2,6-11,2 cm (Kuhn 1988: 151). Như thể hiện trong Fig. 3, các quả dọi có kích thước trùng với kích thước đường kính của đĩa Bích nhỏ hơn. Dữ liệu khảo cổ và văn bản đều ủng hộ tiên đề cho rằng loại hiện vật mà các nhà khảo cổ Trung Quốc gọi là dọi xe sợi thực sự đã được sử dụng cho hoạt động quay sợi với thiết kế rất phù hợp của nó [5]. Các mảnh vải Trung Quốc được định niên đại từ thời kỳ đồ đá mới đều có chứa những sợi vải đã được xe. Điều đó có nghĩa là người ta đã sử dụng loại con suốt cầm tay, vì bánh xe quay chưa có ở Trung Quốc cho đến giai đoạn nhà Chu (khoảng 1100-256 năm TCN) (Kuhn 1988: 142). Giáp cốt văn, trong đó mô tả việc bện hoặc xe hai hoặc ba sợi tơ thành một sợi bằng một con suốt quay tay, đã cung cấp bằng chứng văn bản cho chức năng quay của nó (Kuhn 1988: 89-90). Những mẩu tơ lụa sớm nhất (2850-2650 năm TCN) được phát hiện cho đến nay đều có chứa những sợi tơ được xe và có nguồn gốc từ văn hóa Lương Chử. (6) Một mảnh “có số lượng sợi là 72:64 sợi dọc - sợi ngang/mỗi cm” (Kuhn 1988: 273), thể hiện thực chất tiên tiến của nghề thủ công này vào thiên niên kỷ thứ ba TCN. Con suốt quay tay có thể thực hiện nhanh chóng, hiệu quả việc tạo ra các sợi làm một khổ vải với kết cấu sợi đan quyện vào nhau chặt đến nỗi người ta không thể sổ lỏng ra được. Người xe sợi có thể chủ đích thay đổi chất lượng, độ đàn hồi, hoặc độ bền của các sợi tơ (Kuhn 1988: 70). Kuhn cho rằng “Không có vấn đề là con suốt quay tay nên được coi là phát minh quan trọng nhất từng được thực hiện trong lĩnh vực công nghệ xe sợi. Nó đã đạt đến một thành tựu xuất sắc về công nghệ và văn hóa của thời kỳ đồ đá mới, một “cuộc cách mạng” trong dệt may, một thay đổi hoàn toàn trong việc sản xuất sợi” (1988: 70). ______________________________________ Nguồn: Jean M. Green 1993. Unraveling the Enigma of the Bi: The Spindle Whorl as the Model of the Ritual Disk. Asian Perspectives, Vol. 32, no. I, © 1993 by University of Hawaii Press. All rights reserved. Tác giả: Jean M. Green là một nhà nghiên cứu độc lập, 809 W. 52nd Terrace, Kansas City, Missouri. Ghi chú 1. Phiên âm, phương pháp latinh hóa chữ viết của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được sử dụng ngoại trừ các đoạn trích dẫn, trong đó lối viết của các tác giả xưa vẫn được giữ lại. Trong các văn bản và trích dẫn, họ được đặt trước tên riêng cho tất cả các tên người Trung Quốc. Trong Phụ lục A và trong các ghi chú tên Trung Quốc được viết bằng cách sử dụng tên riêng. Trong các tài liệu tham khảo tên họ của mỗi tác giả được viết sau dấu phẩy và trước tên riêng. Nếu không phải trường hợp tác giả Trung Quốc thì tên riêng được đặt trước họ cho tất cả các tài liệu tham khảo. 2. Từ ngọc bích được sử dụng rộng rãi trong bài viết này bao gồm khoáng chất khác nhau được tìm thấy gần Thái Hồ, như serpentin, actinolit, tremolite, mã não, và chrysotile. Nephrite, “một hình thức cô đặc của tremolite hoặc, nếu sắt có mặt với một hàm lượng đáng kể, thuộc actinolit”, thì chỉ được sử dụng một cách không thường xuyên (Yang Jianfang 1987: 186). 3. Đối với các nền văn hóa đồ đá mới Trung Quốc tôi đã chọn sử dụng các niên đại do An Chí Mẫn (1988: 756), Phó giám đốc Viện Khảo cổ học, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cung cấp. Việc thảo luận về các niên đại mà các cơ quan khác sử dụng được đưa vào Phụ lục A. 4. Các văn hóa đồ đá mới khác được báo cáo có ngọc Bích là Hồng Sơn, Đại Văn Khẩu, Đại Khê, Long Sơn, Mã Gia Diêu, Kỳ Giai, (Huang 1992: 80). Một đĩa Bích màu xanh lá cây cũng đã được báo cáo ở Văn hóa Miếu Đệ Câu ở Nội Mông (Nei Menggu Wenwu Kaogu yanjiusuo 1989: 29-30), và tôi thảo luận về báo cáo một đĩa Bích ở Songze. 5. Sẽ là một sai lầm nếu tự ý phân biệt công cụ hiện đại với con người thời đồ đá mới. Một số dọi xe sợi cho thấy có vết mòn trên các rìa cạnh có thể đã gây ra bởi việc sử dụng theo cách nào đó chứ không chỉ là quay. Một công cụ như vậy cũng có thể được sử dụng như một cái rìu, cho các công cụ nông nghiệp, công cụ săn bắn, biểu tượng của quyền lực, đối tượng tôn giáo, vật trang trí, hoặc công cụ làm đồ da (Yun 1986: 535-546). Một số hiện vật không phải hình đĩa, chẳng hạn như hình nón, hình quả cân, và hình cầu, được các báo cáo xác định là dọi xe sợi, có thể ban đầu đã được thực hiện cho một số mục đích khác, chẳng hạn như làm chì lưới, làm con suốt dọc, hoặc con suốt ngang. Một số suốt dọc hoặc suốt ngang, được làm bằng hòn cuội có vết lõm nhẹ trên bề mặt để giữ sợi (Kent và Nelson năm 1976, 1977). Quả dọi, trên thực tế, là các ống suốt nặng hoặc các suốt sợi và không phải là hình đĩa. Tóm lại, mặc dù các quả dọi hình đĩa dẫn trong bài viết này có thể đã được sử dụng cho các mục đích khác, thiết kế này đặc biệt thích hợp cho một bánh đà và đặc biệt phù hợp với chức năng quay. 6. Mảnh lụa sớm nhất được tìm thấy ở Trung Quốc sử dụng các sợi, một số được quay theo hướng S và một số quay theo hướng Z. Các sợi là tơ tằm thuần, Bombyx mori. Các mảnh lụa đã được phát hiện trong một giỏ tre “tại di chỉ Chhien-shan-yang, [sic quận 1 Wu-hsing trong tỉnh Chekiang”. Lớp chứa hiện tượng này đã được định niên đại C14 từ 2850 - 2650 năm TCN. Các di chỉ này có lẽ hầu hết thuộc về văn hóa Lương Chử” (Kuhn: 1988: 272-273). Sợi libe, chẳng hạn như cây gai dầu (Cannabis sativa, tên Trung Quốc là zhuma, và đậu leo (Pueraria thunbergiana, tên Trung Quốc ge, hoặc kuzu là loại thực vật thấy ở Nhật Bản) cũng được xe thành sợi (Kuhn 1988: 23-39, 274). References An, Zhemin 1988. Archaeological research on Neolithic China. Current Anthropology 29/ 5: 753 - 759. Anonymous 1929-1936. Er ya. Vol. 2 of Sihu congkan. Shanghai: Hanfenlou. Chang, Kwang-chi 1986. The Archaeology of Ancient China, 4th ed. New Haven and London: Yale University Press. Childs-John, Elizabeth 1988. Dragons, masks, axes and blades from four newly documented jade-producing cultures of ancient China. Orientations 19/4:30-41. Chou, Nan-chuan 1985. Shilun Taihu diqu xinshiqi shidai yuqi (Some exploratory remarks on the jade objects of the Neolithic in the Lake Tai area). Kaogu yu wenwu 5:74-89. Hemudu Yizhi Kaogu Dui (The Hemudu Archaeological Team) 1980. Zhejiang Hemudu yizhi dierqi fajue de zhuyao shouhuo (Important results of the second season of excavation at the Hemudu site in Zhejiang Province). Wenwu 5:1-16. Huang, Tsui-Mei 1992. Liangzhu-A late Neolithic jade-yielding culture in southeastern coastal China. Antiquity 66:75-83. Keightley, David N. 1978. The religious commitment: Shang theology and the genesis of Chinese political culture. History of Religions 17:211-225. Kent, Kate P., and Sarah M. Nelson 1976. Net sinkers or weft weights. Current Anthropology 17(1):152. Kent, Kate P., and Sarah M. Nelson 1977. On warp weights: A correction. Current Anthropology 18(1):112. Kuhn, Dieter 1988. Textile technology: Spinning and reeling, in Science and Civilization in China: 5: pt. 9, sec. 31, ed. Joseph Needham. Cambridge: Cambridge University Press. Kuo, Pao-Chun 1948. Guyu xinquan (Notes on some old jade objects). Guoli zhongyang yenjiuyuan lishi yuyan yanjiusuo jikan 20 / 2: 1- 46. Na, Chih-Liang 1980. Guyu jiancai xu {Interpretation and Judgment of Ancient Jade Objects}. Taibei: Cathay Art Museum. Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1980. Jiangsu Wuxian Caoxieshan yizhi (Remains from Caoxieshan, Wu County, Jiangsu). Wenwu ziliao congkan 3:1-24. Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1981. Jiangsu Wujin Sidun yizhi de shijue (Excavations of remains at Sidun, Wujin County, jiangsu). Kaogu 3:193-200. Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1984. 1982 jiangsu Changzhou Wujin Sidun yizhi de fajue (The excavation of the site of Sidun, Wujin County in Changzhou, jiangsu in 1982). Kaogu 2:109-129. Nei Menggu Wenwu Kaogu Y Anjiusuo (Inner Monggolian Institute of Archaeology) 1989. Nei Menggu Chayuqianqi Miaozigou yizhi kaogujilue (Archaeological notes on the Miaozigou site in Chayuqianqi, Inner Mongolia). Wenwu 12:28-39. Organization Committee of The Exhibition of Archaeological Finds of the People’s Republic of China 1975. The Chinese Exhibition. Kansas City, Mo.: Nelson Gallery Foundation. Rawson, Jessica 1975. Chinese Jade throughout the Ages. Exhibition Organized by the Arts Council of Great Britain and the Oriental Ceramic Society. Shanghaishi Wenwu Baoguan Weiyuanhui (Shanghai City Cultural Relics Concervation Bureau) 1986. Shanghai Qingpu Fuquanshan Liangzhu wenhua mudi (Cemeteries of the Liangzhu Cultureat Fuquanshan in Qingpu County, Shanghai). Wenwu 10:1-26. Shanghaishi Wenwu Guanli Weiyuanhui (Shanghai City Cultural Relics Administration Committee) 1990. Qingpu Fuquanshan yizhi Songze wenhua yicun (Remains of the Songze Culture at Fuquanshan, Qingpu County). Kaogu Xuebao 3: 307 - 337. Shilong Guojiang Shuiku Zhi Hui Bu Wenwu Gongzuodui (The Archaeological Team of The Commanding Headquaters of Shilong Guojiang Reservoir) 1956. Hubei Jingshan Tianmen kaogu fajue jianbao (Archaeological report on the excavation at Tianmen, Jingshan County, Hubei). Kaogu tongxun 3:11-14. Wang, Xu 1990. Bajiaoxing wen yu shiqian zhiji (The eight-pointed motif and the prehistoric loom). Zhongguo wenhua 2:84-94. Wang, Yucheng 1992. Hanshan yugui ji yupian bajiaoxing laiyuan kao (The search for the ongm of the eightpointed motif on the jade plaque and the jade turtles from Hanshan). Kaogu 4:56-6l. Watt, James 1990. The arts of ancient China. Metropolitan Museum of Art Bulletin 48/1. Willetts, William 1958. Chinese Art. Baltimore: Penguin. Willetts, William 1965. Foundations of Chinese Art. New York: McGraw-Hill. Wu, Hung 1985. Bird motifs in eastern Yi art. Orientations 1611 0:30-41. 124 Xia, Nai 1983, 1986. Jade and Silk of Han China, trans. Chu-tsing Li. Lawrence, Kans.: H.F. Spencer Museum of Art. The classification, nomenclature, and usage of Shang Dynasty jades, in Studies of Sharlg Archaeology: 207-236, ed. Kwang-chih Chang. New Haven: Yale University Press. Xia Nai Ed. 1986. Zhongguo daibaike quanshu: kaoguxue (Chinese Encyclopedia of Archaeology). Beijing and Shanghai: Chinese Encyclopedia Publishers Press. Yang, Boda, Ed. 1986. Zhongguo meishu quanji gongyi meishu bian yuqi (The Collection of Chinese Arts: Crafts: Jade). Beijing: Wenwu Publishing House. Yang, Jianfang 1987. Zhongguo chutu guyu (Jade Carving in Chinese Archaeology). Hong Kong: Chinese University Press. Yun, Xiang 1986. Woguo faxian de huangren shiqiji xiangguan wenti (Peripherally edged stone tools found in China and some related problems). Kaogu 6:535-546. Zhang, Ming Hua, and Huiju Wang 1990. Taihu diqu xinshiqi shidai de taowen (On Neolithic pottery inscriptions from the Taihu area). Kaogu 10:903-908. Zhao, Qing Fang 1989. On Bi and Congo Orientations 20/5:78-82. Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Y Anjiusuo (Zhejiang Provincial Institute of Archaeology) 1988. Yuhang Yaoshan Liangzhu wenhuajitan yizhi fajuejianbao (Excavation of the altar remains of the Liangzhu Culture at Yaoshan in Yuhang County). Wenwu 1:32-52. Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Yanjisuo Fanshan Kaogudui (Zhejiang Provincial Institute of Archaeology) 1988. Zhejiang Yuhang Fanshan Liangzhu mudi fajue jianbao (Excavation of the Liangzhu tombs at Fanshan, Yuhang County, Zhejiang). Wenwu 1:1-32. Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Y Anjisuo (Zhejiang Provincial Institute of Archaeology), Shanghaishi Wenwu Baoguan Weiyuanhui (The Shanghai City Cultural Relics Conservation Bureau), and Nanjing Bowuyuan (The Nanjing Museum) 1989. Liangzhu wenhua yuqi (Liangzhu Culture Jade Objects). Hong Kong: Wenwu Liang Mu Publishers. Zhongguo Kexueyuan Kaogu Y Anjiusuo Jishushi (Archaeological Institute of The Chinese Academy of Sciences, Technical Section) 1972. Mancheng Hanmu jinlu yuyi de qinli he fuyuan (The cataloguing and reconstruction of the gold-threaded jade suits of the Han tombs at Mancheng). Kaogu 2:39-47. Chức năng Tôn giáo và Ý nghĩa của ngọc Tông và ngọc Bích trong Văn hóa Lương Chử (I) Elizabeth Childs-Johnson Người dịch: Hà Hữu Nga Người ta cho rằng 玉琮 ngọc Tông và 玉璧 ngọc Bích của văn hóa Lương Chử, niên đại hậu kỳ đá mới được sử dụng làm biểu tượng và nghi lễ. Cho đến nay đã có nhiều cách giải thích khác nhau về các hiện vật này, kể từ khi những ngôi mộ thuộc văn hóa Lương Chử lần đầu tiên được khảo cổ học phát quật trong vòng ba thập kỷ gần đây. Học giả 林巳奈夫Lâm Tỵ Nại Phu- Hayashi Minao quá cố, một chuyên gia xuất sắc về ngọc cho rằng ngọc Tông và ngọc Bích trước hết được sử dụng làm đồ tế tự biểu trưng cho quyền lực vũ trụ [Hayashi Minao 1992]. 陸建方Lục Kiến Phương [1996] gợi ý ngọc Tông và ngọc Bích tượng trưng cho vị thế xã hội và quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội Lương Chử. Trong những bài viết trước tôi đã giải thích ý nghĩa của chúng vừa là quyền lực vũ trụ vừa là biểu tượng xã hội (Childs-Johnson 2010: 338, 350). 古方Cổ Phương (thông tin cá nhân, 2011) tán thành các giả thuyết của các học giả đi trước, bao gồm 吳大成 Ngô Đại Thành (1889; rpt 1997), Berthold Laufer (1912, 1974), và S. Howard Hansford (1968), cho rằng theo một bằng chứng minh văn thì cả hai hiện vật ấy đều được sử dụng để thực hiện các lễ thức và thiên văn. Dựa trên bối cảnh táng thức cùng hai loại ngọc này, cũng như các đặc điểm nghệ thuật chính thức của chúng, và dữ liệu văn hóa có liên quan, mặc dù có những sự khác biệt trong quan điểm của các học giả, nhưng rõ ràng hình dáng độc đáo và khác biệt của hai loại ngọc này có chứa đựng cả ý nghĩa vũ trụ và xã hội. 1. Hình dáng của ngọc Tông và ngọc Bích Ngọc Bích, hoặc đĩa ngọc Bích được khoan lỗ ở giữa, có một hình dạng cổ điển trong giai đoạn văn hóa Lương Chử. Chúng luôn được tạo tác như những chiếc đĩa tròn và dẹt làm bằng chất liệu ngọc bích, hoặc các loại đá cứng khác, được khoan thủng ở giữa, cân xứng với hai bên. Các rìa cạnh bên ngoài thường được mài mỏng hơn so với rìa cạnh bên trong, do đó độ dày của đĩa ngọc có thể hơi chênh lệch đôi chút. Đường kính của lỗ bên trong và rìa bên ngoài đĩa được đặc trưng bởi một tỷ lệ tương quan chuẩn, thay đổi từ ¼ đến 1/6 giữa lỗ trong và rìa ngoài (xem chẳng hạn, colorpls. Nos. 4-01-15, pp. 70- 90). Mặc dù đường kính bên ngoài có thể thay đổi từ 4 3/4 đến 12 1/2, nhưng kích cỡ trung bình là 7¾ -12½. Thỉnh thoảng ngọc Bích được trang trí bằng biểu tượng chuẩn của một con chim nhìn nghiêng đậu trên đỉnh của một bệ thờ đứng được khắc thành nấc. Bệ thờ, có thể mô phỏng loại bệ được giới tinh hoa Lương Chử sử dụng tại các nghĩa địa có bệ thờ khắc nấc, có hình chữ nhật hơi thiên hình thoi, loe ra ở phía trên, với ba đường gờ tạo thành tầng bậc. Phần bệ thờ, thỉnh thoảng được khắc motif mô phỏng hình mặt trời, bởi các biểu tượng này có hình tròn dẹt tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng, hoặc bởi một biểu tượng hình đĩa có cánh tượng trưng cho con chim đang bay, và hai mắt trên hình mặt nạ. Trong thực tế, những con chim nhìn nghiêng trên bệ thờ chỉ liên quan tới hình ảnh của đĩa ngọc Bích; nó là thuộc tính phù hợp nhất trang trí cho loại đĩa tròn này. Ngọc Tông hoặc các ống hình lăng trụ, trái ngược với Ngọc Bích, có hình dạng phức tạp hơn: một hình trụ bên trong và bên ngoài là hình vuông. Hình trụ bên trong thường được đặc trưng bởi hai hình nón hợp tại ở giữa. Hình nón này được tạo ra từ lỗ khoan từ hai phía đối diện gặp nhau, thường ở cạnh tròn thô còn sót lại gờ khoan không được đánh bóng. Tuy nhiên dạng hình nón vẫn luôn luôn mở ra theo hình trụ nhiều hơn và ít khi còn lại dạng hình nón (xem ví dụ, Childs-Johnson 2001:. no.2, fig. 2A, p 60..). Ngọc Tông có kích thước cao, trung bình, và ngắn (xem Catalog. 1-2, 5-7). Những phiên bản ngắn hơn thường được đặc trưng bởi phần miệng rộng có trụ bên trong không phải là dạng hình nón, nhưng nhẵn bóng mà không còn sót lại các gờ khoan từ hai đầu ngược nhau (Childs-Johnson 2001: no. 2, trang 60-1.). Tỷ lệ lỗ bên trong và đường kính vuông bên ngoài do đó có sự khác biệt giữa các phiên bản cao và các phiên bản ngắn hơn. Hình vuông bên ngoài của ngọc Tông được hình thành bởi các góc tam giác hoặc các lăng kính hình xoắn ốc chủ yếu lồi ra ngoài tại các điểm cách đều. Các hình xoắn ốc này tạo thành bộ khung định vị thành các hình chữ nhật đơn, có kích thước tương tự nhau, tạo thành sườn bằng bốn băng dọc rõ ràng. Bốn lăng kính ở góc giống hình xoắn ốc ấy thường được trang trí hầu khắp bằng một hình ảnh tiêu chuẩn của hai loại có thể được lặp lại với một kích cỡ tương tự, theo các hàng lên và xuống. Hai loại hình ảnh đại diện cho phiên bản đơn giản với các nhân vật nửa người và động vật. Biểu tượng nửa người được xác định bởi đôi mắt tròn, thường có khe hở bên, miệng nhệch ra, và một cái mũ được tạo thành bởi ba dải ngang. Con vật được xác định bởi ổ mắt lớn, mắt và con ngươi tròn, một gờ mũi nổi cao và cái miệng nhệch ra, đôi khi khác nhau với một bộ răng nanh vểnh lên và quặp xuống. 2. Văn hóa Lương Chử và Ý nghĩa xã hội của ngọc Tông và ngọc Bích Văn hóa Lương Chử về mặt địa lý được xác định như là trung tâm trong khu vực Thái Hồ, mở rộng về phía bắc tới tận nam Giang Tô, về phía nam tới Hàng Châu ở tỉnh Chiết Giang, phía tây tới phía đông tỉnh An Huy, phía đông tới Thượng Hải và bờ biển. Văn hóa này về phương diện niên đại trùng với hai nền văn hóa chế tác ngọc bích khác, đó là văn hóa Hồng Sơn sớm hơn ở vùng đông bắc và duyên hải Trung Quốc, và văn hóa Long Sơn muộn hơn (bao gồm Long Sơn ở Sơn Đông và các văn hóa Long Sơn khác) lan truyền khắp vùng trung nguyên phía bắc Trung Quốc, cho đến tận nam Liêu Ninh, phía tây đến tận tỉnh Cam Túc, phía đông đến Thượng Hải, và phía nam đến tận tỉnh Hồ Bắc. Về niên đại, văn hóa Lương Chử bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn sớm, giai đoạn giữa và giai đoạn muộn, có niên đại từ 3200-2300 TCN. Giai đoạn muộn trải qua việc tạo dựng nơi cư trú quy mô lớn, với các nghĩa địa có đặt bệ thờ khắc thành nấc và sản xuất các loại ngọc Lương Chử điển hình. Về phương diện xã hội văn hóa Lương Chử được đặc trưng bởi một loạt các thành bang hoặc thủ lĩnh địa lớn và nhỏ, cai trị bởi những người có quyền lực được biểu thị chủ yếu bởi các hiện vật bằng ngọc mang ý nghĩa biểu trưng, ​​khác nhau về kiểu loại từ các loại vũ khí, công cụ, phục sức cơ thể đến vật dụng nghi lễ. Về chính trị, các thành bang được tổ chức theo hình tháp. Di chỉ lớn nhất và trung tâm Lương Chử, 模角山 Mô Giác Sơn ở Chiết Giang có hào và tường với diện tích được ước tính khoảng 2.900.000 mét vuông, trong khi khu di chỉ lớn thứ hai, 寺墩 Tự Đôn ở Giang Tô với diện tích ước đạt 900.000 m vuông. Vùng Tự Đôn được dự tính xây dựng một thành phố tráng lệ, có quy mô lớn có hình dạng mô phỏng một chiếc ngọc Tông, một hình tròn bao quanh bởi một hình vuông. Đồ ngọc giai đoạn Lương Chử hiếm khi được tìm thấy ở các khu dân cư. Chúng thường xuất hiện trong các ngôi mộ của tầng lớp tinh hoa (xem nhận xét của Childs-Johnson, 2010 pp. 310-53). Mộ táng của tầng lớp tinh hoa được xác định xuất phát từ các khu nghĩa địa, do con người tạo ra, với quy mô lớn, có phân cấp, hoặc được gọi là 祭坛墓地 tế đàn mộ địa, hoặc nghĩa địa có bàn thờ và các 土筑金字塔 thổ trúc kim tự tháp địa phương, hay các ngôi miếu xây bằng đất. Các gò mộ trung tâm thường nâng lên thành ba cấp hình chữ nhật với kích thước giảm dần. Chúng được phân biệt về màu sắc của vật liệu xây dựng (pp. 317-19, 326). Trong mỗi gò mộ của giới tinh hoa thường xuất hiện các hàng mộ, hoặc những nơi chuyên biệt liên quan đến trung tâm của gò mộ (xem figs.10-11, pp. 314-16). Các mộ khác, có địa vị thấp hơn được đặt ​​trong nghĩa địa không có gò mộ hoặc trong khu dân cư (xem ví dụ, 13 fig:. E, p 320.). Đầu người chết thường được đặt hướng về phía bắc, chân hướng về phía nam. Các bộ đồ ngọc từ các mộ thuộc giới tinh hoa bao gồm ba loại: ngọc trang sức, bao gồm cả những vật trang sức ở đầu và thân; vũ khí ngọc, chủ yếu là rìu ngọc; và các đồ ngọc nghi lễ, Tông và Bích, hình lăng trụ và đĩa ngọc có khoan lỗ. Một số đồ sơn mài tinh xảo và đồ gốm chôn theo đồ ngọc cùng với thi thể, nhưng các vật dụng đó có số lượng ít so với đồ ngọc. Ngọc là loại vật chất tuyệt hảo giúp xác định tầng lớp tinh hoa thống trị. Các tầng lớp tinh hoa và thủ lĩnh liên quan được trang sức bằng ngọc từ đầu đến chân. Đồ ngọc, trái ngược với bất kỳ hiện vật hoặc vật liệu nào khác, là biểu trưng tuyệt hảo cho xã hội thượng lưu trong thời Lương Chử; điều đó thể hiện rõ ràng trong việc phân bố đồ ngọc trong các ngôi mộ thuộc giới tinh hoa và không thấy đồ ngọc xuất hiện trong các ngôi mộ có địa vị thấp hơn (Bảng 3, tr. 311 -12, vả. 13, bảng 4, pp. 327-38). Số lượng lớn nhất của đồ ngọc tính theo mỗi ngôi mộ đã được khai quật tính đến thời điểm này, thuộc về các thủ lĩnh nam được chôn tại mộ M12 ở Phản Sơn (Bảng 4, trang 330) và mộ M3 ở Tự Đôn (fig. 13C, p 322;.. Bảng 4 , p. 333). Mặc dù mộ M12 bị bọn đào trộm mộ cướp phá hoàn toàn, nhưng hiện vật ngọc Tông lớn nhất và nặng nhất của ngôi mộ này và số lượng ngọc Tông và ngọc Bích lớn nhất của mộ M3 tại Tự Đôn, còn lại tổng cộng lên đến 33 Tông và 24 Bích. Số ngọc Tông của mộ M12: 98 chiếc, cái gọi là “Vua ngọc Tông” có kích thước cao 3,5 inch và đường kính 1,9 inch, và cân nặng 9,9 pound, với độ dày của thành ngọc là 1,6 inch.... Các mộ khác thuộc giới tinh hoa từ các nghĩa địa có bệ thờ ấy thường có một số ít ngọc Tông và Bích, dao động từ 2 đến 6 hiện vật (xem bảng 4, pp. 327-38) . Theo đánh giá của 陸建方 Lục Kiến Phương, xã hội Lương Chử được xác định bởi một cấu trúc kim tự tháp với một thủ lĩnh chính thể vì các cộng đồng dân cư và các khu định cư lan rộng ra phía ngoài theo bốn hướng (Hình 11 và vả. 14, p. 326). Di chỉ 模角山 Mô Giác Sơn ở trung tâm và thuộc cấp trên cùng, bao gồm một người cai trị và giới tinh hoa cầm quyền liên quan. Ở bậc thấp hơn và lan rộng vượt ra ngoài trung tâm của Mô Giác Sơn là liên minh theo tổ tiên và dòng tộc mạnh, đặc trưng cho tầng thứ hai của thủ lĩnh địa hoặc của thành bang, như đã được xác định bằng các di chỉ khác, với các nghĩa địa phẳng, chẳng hạn như Tự Đôn và 福泉山 Phúc Tuyền Sơn gần Thượng Hải. Một tầng lớp thứ ba có thể được xác định bởi các di chỉ có nghĩa địa với các gò mộ nhỏ hơn, bao gồm cả 张陵山 Trương Lăng Sơn và 草鞋山 Thảo Hài Sơn; và tầng lớp thứ tư ít hơn là các di chỉ khác không có nghĩa địa phẳng, có 陇南 Lũng Nam, trong đó các mộ táng có thể chỉ có 1-3 đồ ngọc hoặc không có gì cả. Tái dựng xã hội Lương Chử theo Lục Kiến Phương (fig.14, p.326); Lục giải thích về kích thước khác nhau, Tông cao và thấp, Tông có nhiều cấp hoặc các cấp hình tượng duy nhất, được phục dựng dựa trên một lý thuyết tương tự về than phận và quyền lực trong xã hội Lương Chử (fig.14, p 326 và Lục năm 1996, năm 2001:. 357-366). Trong giai đoạn hậu kỳ đá mới, Trung Quốc đã trải qua một “Thời đại Ngọc” đặc trưng bởi việc khai thác loại đá giá trị nhất, ngọc nephrite. Giới tinh hoa tại Phản Sơn và Dao Sơn, chẳng hạn, nếu được chôn với các rìu ngọc thì kèm theo chỉ có một đồ ngọc trang bị đầy đủ với các phụ kiện ngọc bích. Hình 12: rìu ngọc với các phụ kiện ngọc tìm thấy tại chỗ (theo fig.15, p 342) và lưỡi rìu, Catalogue số 17. Các rìu khác đi kèm trong các mộ của tầng lớp tinh hoa được chế tác bằng các loại đá cứng khác. Thứ hai, rõ ràng là ngọc Tông lớn nhất và nặng nhất thuộc về những ngôi mộ giàu nhất tại Phản Sơn và Dao Sơn, và số lượng nhiều nhất thuộc về ngôi mộ giàu nhất tại Tự Đôn. Hai di chỉ này được cai trị bởi các thủ lĩnh có phân cấp. Đối với Lục Kiến Phương : 32 ngọc Tông từ ngôi mộ 20 tuổi tại M3 ở Tự Đôn xác định 32 thị tộc - do người đàn ông 20 tuổi này cai trị: 32 thị tộc thuộc quyền kiểm soát của ông ta và bị ràng buộc như là đồng minh với một hệ thống tín ngưỡng chung. Ông đưa ra giả thuyết rằng tại thời điểm người này chết, các thị tộc này, theo một loại nghi lễ nào đó, có thể là đám tang, bàn giao cho thủ lĩnh “thành bang" biểu tượng thứ bậc của họ. Mỗi hình ảnh của ngọc Tông có ý nghĩa gắn liền với gia đình và thị tộc. Ví dụ, năm lớp hình tượng lên và xuống một ngọc Tông biểu thị độ tuổi của thị tộc; trong trường hợp này, nó đã tồn tại trong năm thế hệ. Tương tự như vậy, một ngọc Tông với 15 lớp hình tượng biểu thị cho 15 thế hệ của thị tộc. Như vậy, 32 thị tộc khác nhau đã thề trung thành với người chết trong mộ 3 tại Tự Đôn đã được công nhận bởi vị thế "thế hệ" của họ, đại diện trong số bậc cấp của hình tượng trên ngọc Tông. (p 339; Lu 2001:. 357-366). Các cấp bậc đại diện cho các thế hệ của từng thị tộc hoặc của các bộ lạc mà các thủ lĩnh cai trị và kiểm soát. Những chiếc ngọc Tông này có khắc cấp bậc được chôn theo vị thủ lĩnh (p. 339). Mặc dù lời giải thích của Lục Kiến Phương không nói rõ ý nghĩa của 24 chiếc ngọc Bích trong ngôi mộ đó, nhưng có thể nói ý kiến ​​cho rằng vị thế thế hệ được biểu thị bằng các lớp khắc trên ngọc dường như là lập luận thuyết phục nhất đã được các chuyên gia nghiên cứu văn hóa và thời đại này đưa ra tính đến nay. Lý thuyết về vị thế và quyền lực ấy như đã được thể hiện thông qua các cấp bậc của hình tượng ngọc Tông này cũng trùng khớp với những giải thích về ý nghĩa của những hình tượng thực tế trang trí ngọc Tông và các vật dụng biểu tượng có liên quan. ____________________________________ Nguồn: E. Childs-Johnson 2012. Speculations on the Religious Use and Significance of Jade Cong and Bi of the Liangzhu Culture. - echildsjohnson.files.wordpress.com. Tác giả: Elizabeth Childs-Johnson, Tiến sĩ, Viện Mỹ thuật, Đại học New York, một nhà lịch sử nghệ thuật và khảo cổ học, bà còn là một nhà Trung Quốc học chuyên về nghệ thuật và khảo cổ học từ thời đồ đá mới đến thời Đông Chu, và về minh văn triều Thương. Bà nghiên cứu giáp cốt văn với cố giáo sư 金祥恆 Kim Tường Hằng, Đại học Quốc gia Đài Loan, và chính GS. Kim đã hỗ trợ bà trong việc xác định ý nghĩa các hình tượng kim văn Thương. Các ấn phẩm của bà bao gồm Trung Quốc Thời đại Ngọc; Hệ thống Tín ngưỡng, văn tự và nghệ thuật nhà Thương; Chính sách và Luật di sản Văn hóa ở Trung Quốc hiện đại; và Khảo cổ học Tam Hiệp. Bà được nhận nhiều học bổng nghiên cứu khác nhau, gần đây nhất là của Hội đồng Học giả Mỹ và của Gallery Nghệ thuật Quốc gia, của Quỹ nghiên cứu J. Paul Getty. Các biểu hiện và Bản sắc của Quyền năng Tối cao trong thời đại Đá mới và Đồ đồng Trung Quốc (I) John C. Didier Người dịch: Hà Hữu Nga Chương 1: Mô thức nước Trời trong thời kỳ đá mới Trung Quốc Các mô tả hình tượng được tìm thấy trên ngọc bích, đất nung, và xương, cũng như các hiện vật bằng đồng sớm trong thời đá mới Trung Quốc sơ kỳ, có thể được sử dụng để mô tả một số mô thức ngôi sao nằm ở trung tâm của Thiên cầu bắc cổ đại, mặc dù không có bất kỳ văn bản hiện tồn nào từ những nền văn hóa tiền văn tự này, bất kỳ giải thích nào về các mô tả bằng hình tượng mà người ta tạo ra có thể chỉ còn mang tính suy đoán. Sợi chỉ xuyên suốt đan dệt hầu hết những gì có thể là các mô tả về Thiên cầu bắc chỉ là những dạng hình đơn giản nhất, hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong chương 1 và 2, chúng tôi sẽ xem xét các mô thức sản xuất của các nền văn hóa thuộc lưu vực sông Hoàng Hà và sông Dương Tử ở Trung Quốc vào khoảng 4500-1000 năm TCN, bao gồm các văn hóa Ngưỡng Thiều, Đại Văn Khẩu, Hồng Sơn, Hàn Sơn, 靜安 Tĩnh An, 青莲岗 Thanh Liên Cương, 唐家港 Đường Gia Cảng, 崧澤 Tung Trạch, Lương Chử, Long Sơn, 齊家Tề Gia, Nhị Lý Đầu, 二里岡 Nhị Lý Cương, và nền văn minh Thương. Trong các chương 3 đến 5 chúng tôi mở rộng phạm vi xem xét bằng chứng bao gồm văn bản hiện có về thời kỳ nhà Thương, như được mô tả trên cả kim văn lẫn giáp cốt văn, đồng thời chúng tôi cũng thu hẹp trọng tâm thời gian để xác định những gì mà cái hình tứ giác này có thể đã thể hiện về phương diện tôn giáo và chính trị trong nền văn minh Thương. Đó là trong thời Thương thì ý nghĩa của hình tứ giác dường như đã trở thành rõ ràng nhất, hoặc ít nhất là cũng thể hiện một cách rõ ràng nhất trong nhiều cách thức khác nhau. Chương 4 và 5, cố gắng đưa ra một hệ thống mới, nhằm diễn giải thực chất của thần linh tối thượng thời nhà Thương và cách thức hoạt động của nó trong bối cảnh thờ kính tổ tiên để tạo dựng trung tâm cấu trúc của hoàng cung Thương - và do đó tạo dựng nên tôn giáo chính thể-trung tâm. Năm 1987, việc phát hiện một ngôi mộ thuộc nền văn hóa Ngưỡng Thiều đã làm thay đổi đáng kể thiện ý của các học giả trong việc chấp nhận tính liên tục của các truyền thống từ thời đồ đá mới đến thời nhà Chu. Tuy nhiên, chính những gì mà các hiện vật được tìm thấy trong mộ M45 ở 濮阳 Bộc Dương, 西水泼 Tây Thủy Bát, tỉnh Hà Nam, có niên đại từ khoảng 4500 - 3000 năm TCN (1), có nghĩa là vẫn không chắc chắn. Trong khi không có gì đáng ngạc nhiên là Trương Quang Trực giải thích sự sắp xếp của mộ M45 để phản ánh thực tiễn Shaman giáo của người thời đồ đá mới đã tạo ra nó, lại không có bằng chứng cụ thể hỗ trợ hoặc gợi ý cho cách giải thích này. (2) Ngoài ra, 冯时 Phùng Thì và những người khác lại cho rằng cấu trúc mộ này thể hiện các chòm sao nào đó. (3) Trong thực tế, có vẻ như ngôi mộ này được chôn theo cách thức phản ánh một số chòm sao nào đó gần thiên cầu bắc và không gần thiên cầu. Bốn cơ thể người nằm trong ngôi mộ được định hình tổng thể giống như một chiếc yếm rùa, trong khi bộ xương ở giữa, của một người trai trẻ, lại thể hiện là “chủ” của ngôi mộ. Ít nhất một thi thể khác, trước khi được chôn trong ngôi mộ, đã bị hiến tế hoặc bị giết bằng một nhát cắt cổ họng. Đầu của người chủ mộ quay mặt về phía nam, còn đôi chân của ông ta quay về phía bắc, và ở hai bên mình ông có đặt một hình động vật, đầu hướng về phía bắc và nằm ở bàn chân của chủ mộ. Những hình động vật này được xếp bằng vỏ ốc tiền cowrie. Những hình tượng này có vẻ được dùng để bảo vệ cho chủ ngôi mộ. Đáng chú ý là các hình này thể hiện rất rõ ràng dáng vẻ của một con rồng và một con hổ. (Fig. 1) Người ta đều biết rằng trong và sau thời Chiến quốc, rồng và hổ đã trở thành người bảo vệ tinh thần / những tạo vật huyền thoại của hướng đông (rồng) và hướng tây (hổ). Thật vậy, ngay từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên vị trí và vai trò của chúng với tư cách là thần linh phù trợ (神) đã được xác lập: trên một chiếc rương đựng quần áo bằng sơn mài có niên đại đến 433 năm trước Công nguyên và được tìm thấy trong mộ của 曾侯乙 Tằng Hầu Ất tại tỉnh Hồ Bắc đã có hình tượng rồng và hổ cũng được sắp xếp chính xác tương tự xung quanh các ngôi sao Thiên cầu bắc như được thấy ở mộ M45 tại Bộc Dương. (4) Trong vũ trụ học thời Hán sau này, và do đó cũng như trong truyền thống giả kim thuật nội tại, rồng và hổ, cùng với con rùa / rắn (phía Bắc) và chim / phượng màu đỏ son (phía Nam), đã trở thành Tứ Thần (四 神) của bốn hướng. (5) Trong thực tế, vẫn có một trong số tứ thần khác về sau dường như nằm trong ngôi mộ M45, ở một vị trí thẳng hướng bắc của bàn chân chủ mộ. Nhân vật này, bao gồm đầu và thân, được tạo dựng bằng vỏ ốc tiền cowrie (đầu) được đặt tiếp xúc với hai than người lấy từ một bộ xương khác được chôn bên cạnh. (Hình 1) Phùng Thì đã đề xuất ý tưởng cho rằng nhân vật này đại diện cho sao Bắc Đẩu (北斗), ngôi sao này, như chúng ta biết, ở phía Tây, tạo nên cơ thể và cổ của chòm sao Đại Hùng. Kể từ khoảng 4500 - 3000 năm trước Công nguyên, Bắc Đẩu nằm rất gần với chòm sao Thiên cầu bắc, nên Phùng Thì tin rằng nhân vật này trong mộ đại diện cho Thiên cầu bắc như thể hiện trong chòm sao Bắc Đẩu. (6) Tuy nhiên, nhân vật này, được đặt một cách có mục đích ở chính phía bắc của bàn chân chủ ngôi mộ để truyền đạt ý nghĩa, có vẻ không hề giống như chòm Bắc Đẩu. Nó giống như hơn một cây lao và cái đầu của bông cải xanh, hoặc, bằng cách xem xét các truyền thống Tứ Thần liên quan đến rồng, hổ, rùa, và chim, bộ lông chim. Cái đầu hoặc bộ lông chim được hình thành từ chòm sao Ngự phu - Auriga phía Tây, trong khi thân lại gắn với chòm sao Gemini - Cung Song sinh phương Tây. Các cách thức sắp xếp ấy được thể hiện trong hình 3. Trong khi đó, trong ngôi mộ này cổ của con rồng mô phỏng chòm sao Bắc Đẩu hoặc Đại Hùng. Trong thực tế, con rồng ở mộ M45 mô phỏng gần chính xác cấu trúc của chòm Đại Hùng, ngoại trừ việc thay vì kết nối các ngôi sao hình thành mép của Bắc Đầu (Megrez và Dubhe, “M” và “D” trong Fig. 3) với một đường tưởng tượng, trong dự phóng của họ, người Trung Quốc thời đồ đá mới đã để mở không gian này và do đó đã thấy trong đường cong của Bắc Đẩu một chiếc cổ và vai con rắn hoặc con rồng. Hơn nữa, bạn đồng hành của con rồng nằm đối diện với cực thiên cầu, con hổ, rõ ràng được hình thành từ các bộ phận của các chòm sao Draco (Draconis - Rồng) và Ursa Minor (tức là chòm Tiểu Hùng, tại điểm cực tìm thấy ngôi sao thiên cực hiện tại, Polaris, hoặc “P” trong hình 3) của phương Tây. Chủ ngôi mộ nằm giữa những con linh thú ở một vị trí tương quan ở trên trời với một đường kinh tuyến rất rõ ràng. Kinh tuyến trên trời này, đã được đề cập trước trong Tuyển tập I, chương 2-4, được hình thành bởi các bộ phận của các chòm sao phương Tây là Đại Hùng, Draconis, và Hercules (chúng tôi đã lưu ý điều đó trước với tư cách là cái đuôi của Draconis và ngọn lao của Taiyi). Hãy lưu ý rằng Thuban (11 Draconis, "T" trong hình 3) và 10 Draconis ("10D" trong hình 3) rơi dọc theo kinh tuyến trên trời này và phần trung tâm chủ ngôi mộ, thân của ông ta, nằm ở một vị trí giữa các con thú và dọc theo kinh tuyến tương quan chính xác với vị trí ở trên trời của 4500-3000 năm TCN của thiên cầu bắc. Việc bố trí mộ có thể phản ánh các mô thức các chòm sao ở thiên cầu bắc vào khoảng 4500 - 3000 năm TCN rõ ràng là từ các mối tương quan bằng hình ảnh, nhưng thực tế là 3.000 - 4.000 năm sau, trong hoặc ngay trước năm 433 TCN, người ta đã mô tả trên chiếc rương của 曾侯乙Tằng Hầu Ất một con rồng và một con hổ đặc biệt liên quan đến thiên cầu bắc dường như đã xác nhận điều này. Giá trị chính của phát hiện này trong nghiên cứu của chúng tôi để chứng minh rằng những con người của nền văn hóa cổ Ngưỡng Thiều ở Bộc Dương này tỏ ra là đã quan sát kỹ bầu trời đêm để thiết lập một cảm giác an toàn, và trong các thiên niên kỷ 5th - 4th TCN, người cổ đại Trung Quốc dường như quan sát thiên cầu bắc và coi đó là trung tâm trong tôn giáo của họ. Đó có thể là cấu hình các chòm sao trên bầu trời đêm đặt ở trung tâm của thiên cầu được cho là đem đến cho người chết khả năng thông cảm, sự bảo vệ bằng hoặc hiệp thông với các năng lực tối thượng của các chòm sao trên thiên cầu. Hơn nữa, việc công nhận tôn giáo và sự mô phỏng năng lực cảm thông của họ với thiên cầu cũng sẽ cung cấp cho những người vẫn còn sống sự đảm bảo rằng một hình thức nào đó của cuộc sống vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chết, mặt khác người sống sẽ không phải mắc nợ khoản chi phí khổng lồ và được chăm sóc thỏa đáng như vậy khi chôn cất một người nào đó một cách quá công phu để phù hợp với các mô thức các vì tinh tú về đêm, đặc biệt là khi họ cho rằng việc họ đặt vào trung tâm cái xác của người quá cố chính ở nơi thiên cầu bắc sẽ liên quan đến chòm sao rồng và sao hổ.(7) Thật vậy, sự hiện diện của ba bộ xương khác nằm trong cùng ngôi mộ với chủ mộ, ít nhất là một người trong số đó có lẽ là một nạn nhân của nghi lễ hiến tế, và được đặt trong những cái hốc đặc biệt được khoét trên các vách mộ, cứ như trong các ngôi đền thờ các vị thần của các hướng đông, bắc, và tây, có vẻ để xác nhận rằng cách bố trí mộ như vậy không chỉ mô phỏng mà còn mang ý nghĩa tôn giáo. Như vậy, trong nền văn hóa đồ đá mới này của Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ 5 và thứ 4 trước Công nguyên, người chết, và do đó chắc chắn cả người sống nữa, dường như đã kết nối mật thiết vào những bí ẩn của vòng quay của bầu trời đêm, thiên cầu bắc. Mô thức các chòm sao do người Ngưỡng Thiều thiết kế Vào giữa thế kỷ trước các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện ra một di chỉ đồ đá mới quan trọng thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều, trên bờ sông Vị, tại làng Bán Pha, Tây An, Thiểm Tây. Giai đoạn Bán Pha của văn hóa Ngưỡng Thiều có niên đại khoảng 5000 - 3500 năm trước Công nguyên. Nổi bật nhất trong những phát hiện đó và tại các di chỉ Ngưỡng Thiều có liên quan - 仰韶 Khương Trại và 北首岭 Bắc Thủ Lĩnh là một số bát gốm tô màu dùng làm nắp đậy cho mộ vò của trẻ em. Trên những chiếc bát này người ta vẽ màu một khuôn mặt kết hợp các đặc điểm của một gương mặt con người và một loài cá nào đó. (Hình 4ab) Điểm chung cho gần như tất cả các khuôn mặt là một cặp motif phụ hình nón xuất hiện theo chiều ngang từ phần dưới của cái đầu hình tròn. Cả hình dạng và bề mặt răng cưa (những chiếc vảy?) làm cho chúng có vẻ là những con cá. Ngoài ra, thường có một hình nón thứ ba tương tự xuất hiện từ đỉnh đầu tròn và, hơn nữa, hai con cá hoặc ăng ten chạm vào hai bên đầu ở phần tai. Như Jessica Rawson đã chỉ ra, trong khi ý nghĩa tổng thể của motif này có khả năng tôn giáo, thì các cách giải thích đều không dễ. Cô cho rằng những hình cá đại diện cho tầm quan trọng của sinh vật đối với sinh kế của người dân ven sông Bán Pha, (8) hệt như chúng ta đã thấy các giải thích của Cha Heras và của Parpola về vòng họa tiết vòng-lặp-trong-hình vuông được tìm thấy trên các phiến đất nung Harappa. Một cách tổng quát, điều đó có thể giải thích nguồn gốc, đặc biệt là các họa tiết cá, nhưng motif tổng thể về khuôn mặt phức tạp trong đó có những con cá tham gia vẫn không chưa được giải thích, và bản than những hình ảnh cá cũng vậy, do đó dự định của người dân Bán Pha, cũng có thể mang ý nghĩa ẩn dụ. Các lý thuyết khác nhau về ý nghĩa đương đại sâu sắc hơn mà motif khuôn mặt này có thể chuyển tải tất nhiên cũng đã được đề xuất, bao gồm Marilyn Fu và gợi ý của Trương Quang Trực cho rằng đó là khuôn mặt của một pháp sư, con cá là vật thân thuộc của ông ta, nhưng không hề có bằng chứng cho thấy trong bất kỳ cách thực hành tôn giáo nào của cư dân Ngưỡng Thiều là Shaman giáo. (9) David Keightley cho rằng những chiếc nắp gốm vẽ màu có thể thuộc về những đứa trẻ khi còn sống và do đó các hiện vật này vẫn đi kèm với chúng ở trên đỉnh nắp chiếc vò đựng di cốt. Không có bằng chứng cụ thể là hỗ trợ ý kiến này, nhưng Keightley cũng cẩn thận chỉ ra là tất nhiên những chiếc nắp vò đồng thời có thể vừa là vật sở hữu của một đứa trẻ vừa là một biểu tượng tôn giáo hoặc một hiện vật. (10) Có lẽ gần gũi hơn là đề xuất cho rằng motif này là một cách thể hiện đầu tiên của thần mặt trời -, trên hết, các nắp đậy mộ vò được hướng về phía bầu trời (11). Tuy nhiên, lý thuyết này không giải thích bất cứ điều gì về các motif phức tạp vượt qua đường viền đơn giản của dạng hình cầu của chiếc đầu, và không có bằng chứng khác đặc biệt hỗ trợ cho cách giải thích này. Tuy nhiên, việc định hướng sự chú ý của chúng ta về phía bầu trời có thể là thích hợp, vì chúng ta đã thấy từ mộ M45 tại Bộc Dương ngay từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên, cư dân văn hóa Ngưỡng Thiều dường như đã tái tạo cách bố trí tang lễ của họ bằng mô thức các vì sao trên trái đất. Hệt như Tây Nam châu Á cổ đại, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, và các quan sát viên châu Âu sau này đã dự liệu tạo dựng các nhân vật trong các mô thức đơn giản mà họ thấy rõ trong các chòm sao, do đó, có vẻ là, chính người Trung Quốc cổ đại đã làm như vậy. Trong cả hai trường hợp chúng ta không nên mong đợi tìm thấy hình ảnh đại diện thực tế của các chòm sao trong các ngôi sao, mà chỉ là các gợi ý. Hệt như chúng tôi tự cho phép dành chỗ cho trí tưởng tượng trong việc xem xét sự chênh lệch rất lớn giữa các sao, tạo ra nét phác thảo một chòm sao và hình ảnh tưởng tượng hoàn toàn, vì vậy chúng ta nên xử lý các mô thức sao mà người Bán Pha của văn hóa Ngưỡng Thiều - cũng như những cư dân khác, để xử lý dưới đây - có thể đã phát triển các chòm sao như là những gì mang tính cơ bản và mang tính gợi ý. Hơn nữa, chúng ta không nên ngạc nhiên chút nào bởi tính chất huyền ảo hoặc kỳ lạ của các sinh vật và các hình dáng mà các dân tộc cổ đại phóng chiếu vào các ngôi sao. Hình 5, cho thấy cách thể hiện chòm sao Ma Kết -Capricornus, trong đó hình cá dê chứng tỏ cả hai đặc điểm ấy vào thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên. ________________________________ Nguồn: John C. Didier 2009, Representations and Identities of High Powers in Neolithic and Bronze China. “In and Outside the Square,” Sino-Platonic Papers, 192, vol. 2 (September, 2009). Ghi chú 1. Xem báo cáo của các nhà khảo cổ, “河南僕阳西水坡遗址发掘简报”文物 1988,3: 1-6. Trong các báo cáo đầu tiên về ngôi mộ này các hiện vật của nó có niên đại tới 4500 trước Công nguyên. Kể từ đó một số câu hỏi đã nảy sinh đối với tính đáng tin cậy đến mức nào của niên đại này cho các di tích người đi kèm với chủ mộ. Tuy nhiên, điều này dường như không để nghi ngờ niên đại của nhân vật trung tâm, tức là, chủ ngôi mộ, và các hình tượng động vật bằng vỏ ốc tiền xung quanh ông ta. Trong bất cứ trường hợp nào, thì hiện vật của ngôi cũng chắc chắn có niên đại từ 4500 - 3000 năm trước Công nguyên. Về sự gián đoạn sau mai táng rõ ràng của mộ M45, xem David N. Keightley, “Thời đại đá mới và triều Thương”, trong Tạp chí Asian Studies, 54.1 (tháng 2 năm 1995): 130. 2. Chang Kwang-chih, 濮陽三蹻與中國古代美術上的人獸母題, in Wenwu 文物 11 (1988): 36–39. 3. Feng Shi 冯时, 河南西水坡45号幕的天文学研究, in Wenwu 文物1990.3: 52–60. For similar interpretations see, for instance, Bo Shuren 薄树人, Zhongguo Tianwenxue shi 中國天文學史(Taibei: Wenjin Chubanshe, 1996): 9–10. For a quality photograph of the site, see Chen Meidong 陈美东, ed. Zhongguo guxingtu 中国古星图(Shenyang: Liaoning jiaoyu chubanshe, 1996): 2, Color Plate 1. 4. Zhongguo shehui kexueyuan kaogu yanjiusuo, ed, Zenghou yi mu 曾侯乙 墓. (Bắc Kinh: Wenwu, 1989): 356 (. Hình 216). Đó là các họa tiết trang hoàng cho chiếc rương thể hiện Thiên cầu bắc trên bầu trời đêm, chắc chắn từ thực tế là xung quanh các nhân vật ở mặt bên của chiếc rương là những chữ Trung Quốc ghi tên hai mươi tám cung Hoàng đạo mà Thiên văn học/Chiêm tinh học Trung Quốc sau này dùng để chia bầu trời. Sao Bắc Đẩu cũng xuất hiện gần trung tâm (cực) của sơ đồ. Sự khác biệt duy nhất giữa con rồng Bộc Dương và trên chiếc rương của Tằng hầu là con rồng trên chiếc dương khác biệt so với Bắc Đẩu, trong khi ở trong mộ Bộc Dương, con rồng được hình thành từ Bắc Đẩu (xem văn bản và hình 2 bên dưới). 5. Đối với một mô tả Tứ thần bốn hướng trong hình hài thú như cách hiểu trong thời Hán, xem Hoài Nam Tử (Zhang Shuangdie, ed., Huainanzi jiaoshi[beijing: Beijing daxue chubanshe, 1997]) 15: 1605. Vì sự phát triển sau này của Tứ thần (四 神) trong giáo lý giả kim thuật, trong đó chúng thường được gọi Tứ tượng (四象), xem Didier (1998): 681-688 (n 5.). 6. See Feng Shi (1990): 52–53. 7. Không rõ lý do tại sao ngôi mộ được xoay 180° ngược với trời như vậy mà cái đầu người chết lại quay về phía nam. Có lẽ những người Ngưỡng Thiều ở Bộc Dương coi sự tồn tại trên trần thế như là một sự phản ánh nghịch đảo, khi một khuôn mặt được soi trong nước hồ. 8.Jessica Rawson, ed., Mysteries of Ancient China, New Discoveries from the Early Dynasties(New York: George Brazilier, Inc., 1996): 34. 9. K. C. Chang (1983): 114. 10. Keightley (1998): 783. 11. Các học giả khác đã nhận thấy một thiên văn học khả thể - và đặc biệt là mặt trời - nguồn gốc ý nghĩa của các họa tiết được tìm thấy trên các hiện vật khác nhau ở Bán Pha, bao gồm (1) ZT Xu và YT Jiang, trong Nghiên cứu Cổ đại về các vết đen Mặt trời ở Trung Quốc và ứng dụng cho hiện đại (Nam Kinh: Nam Kinh UP, 1989), và (2) David Pankenier, ZT Xu, và YT Giang, trong Cổ Thiên văn Đông Á (Amsterdam: Overseas PublishersAssociation PublishersAssociation [Gordon and Breach Science Publisher Imprint], 2000), p. 1–2.
  3. Tôi (Lãn Miên) mới đọc qua, đoán là bốn khúc thơ buồn, không đủ trình độ để hiểu thâm ý của tác giả, hoặc hiểu sâu con chữ. Dịch tạm dưới đây không chính xác, nhất định là nhiều sai sót, tạm nêu lên vậy, để cầu cứu thức giả giúp chỉnh sửa. Cảm ơn. 1/ Mảnh thuyền nho nhỏ, xoa ngăn ngắn Lần mò kiếm sống chốn sóng xô Mãi buồn Thánh Chúa, tìm kiếm gấp Bất chấp dê cừu cứ nhởn nhơ. 2/ Gió nổi ban thờ nhang thành ngọc Trăng soi cửa sổ lộ ảnh vàng Một tiếng kêu tỉnh ngàn thu mộng Ngũ kinh phá nát nửa kiếp người (?). 3/ Nước xanh mau mắn nhiều lần đổi Hoa vàng ốm ốm đỡ ngọn roi Mấy độ sóng xô rồi sương ướt Vẫn một mưa xuân xới lết bùn. 4/ Bè gỗ mẩu cây kều khó nổi Củi rến ngắn dài bó chẳng đều Buông tiếng thở dài mưa độp lá Tháo giày lội bộ rớt khe sâu. Ngũ kinh phá nát nửa kiếp người (?): Có lẽ, câu này nói sống đến nửa đời người mới hiểu được thâm ý sâu xa nhất của Ngũ Kinh - Thánh Khổng Tử cũng chỉ quy về một chữ Tâm. Tất nhiên, tác giả vẫn hiểu Phật, Lão bởi khổ thơ trên có nói đến Thánh Chúa. Thánh Chúa này chỉ thấy trên hoành phi trong các đền miếu Việt: "Thánh chúa vạn tuế", "Thánh Chúa muôn năm", thông thường hiểu là chúc vị vua đang sống muôn năm, nhưng bản chất không phải như vậy. Trong đạo Tiên Việt - Đạo giáo (gồm có Choang ở Quảng Tây,..) có thờ vị Thánh Chúa với biểu hiệu "Cung nghênh Thánh Đế" và "Cung Nghênh Thánh Chúa", đây là một lãnh tụ vĩ đại trong đạo Tiên và thường được gọi là Nam Cực Trường Sinh Đại Đế. Tác giả là một người đang đi tìm Đạo, tức đi tìm an bình trong Tâm hay sâu xa là đi tìm bản chất cuộc đời và bồng lai tiên cảnh ở đảo Doanh Châu, trong khi cuộc đời nhân loại và cả cá nhân tác giả cảm thấy như trôi nổi không định hướng. Bài thơ này còn có nội dung tiên tri, phải có một nhát búa lay tỉnh giấc mộng Nam Kha: Gió nổi ban thờ hương thành ngọc Trăng soi cửa sổ lộ ảnh vàng Một tiếng kêu tỉnh ngàn thu mộng Ngũ kinh phá nát nửa kiếp người (?). Làm chúng ta chợt nhớ lại Tam Quốc Chí: Muốn đánh Tào Công Phải dùng hỏa công Muôn việc đủ cả Còn chờ gió Đông. Ẩn toàn bộ bài thơ là nỗi buồn mênh mang "ngàn thu mộng", nó có cái gì đấy giống như nội dung bài thơ Ngôn Hoài của thiền sư Nguyễn Minh Không: Trạch đắc long xà địa khả cư Dã tình chung nhật lạc vô dư Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Tạm dịch: Thế đất rồng rắn chọn được nơi Tình quê chan chứa suốt ngày vui Có khi chót vót đầu non quạnh Một tiếng cười vang lạnh cả trời!. "Rồng rắn" cũng là tên của một trò chơi dân gian trẻ em Việt trong dòng tranh Đông Hồ (Đông Tây - sinh tử): "Rồng rắn lên mây". Đoạn 4: Bè gỗ mẩu cây kều khó nổi Củi rến ngắn dài bó chẳng đều Buông tiếng thở dài mưa độp lá Tháo giày lội bộ rớt khe sâu. Cảm thán của tác giả về trình độ, điều kiện... của mọi người không đồng đều, để hiểu và thực hành Đạo hầu như cực kỳ khó khăn. Ngay Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng viết: "Ở đời vui đạo hãy tùy duyên" - dù có giảng cho hàng tỷ người thì chắc gì bao nhiêu người đã thành. Bậc thầy giác ngộ Krishnamurti cũng thốt lên thực sự mọi người đi tìm đạo tới ông cũng chỉ là thỏa mãn cái được cho là "thiếu" của họ mà thôi, tức "cái tôi" của riêng mình. Phải chăng chúng ta cũng đang trong tình trạng này!.
  4. Tôi trích lại bài viết của bác Lãn Miên như dưới đây: Hà Hữu Nga thì cố liều chết dịch ý hết cả bài như sau: 台峰拱炤水灣環 毓秀鐘靈在此閒 壇上翻瓢消旱魃 空中敲鼓走狂蠻 龜碑石篆經霜綠 鳳札金章炤日丹 今古迭更棋幾局 凛然正氣舊江山 Đài phong củng chiếu thủy loan hoàn Dục tú chung tinh tại thử gian Đàn thượng phiên biều tiêu hạn bạt Không trung xao cổ tẩu cuồng man Qui bi thạch triện kinh sương lục Phượng trát kim chương chiếu nhật đan Kim cổ điệt canh kỳ kỷ cục Lẫm nhiên chính khí cựu giang sơn. Thái sơn quần tụ soi đầm ngọc Anh linh chung đúc đất thiêng này Gáo trời gội sạch ngày nắng hạn Trống rung tan tác lũ cuồng man Kinh đá bia rùa sương khói biếc Chương vàng thẻ phượng rạng chiếu ban Kim cổ cuộc cờ luôn đắp đổi Lẫy lừng chính khí cựu giang san các bậc tiền bối đối với nền sử học Việt (và không có ý so sánh với bản chuyển ngữ xuất sắc của ông Hà Hữu Nga): Non Đài quay lại, nước bao vây, Chung đúc anh linh ở chốn này. Bầu giốc đàn trên mưa dưới khắp, Trống khua tầng thẳm giặc tan bay. Bia rùa truyện đá ngàn sương phủ, Trát phượng niêm vàng ánh nắng gay. Câm cổ cuộc cờ bao xóa đổi, Vẫn lừng chính khí nước non đây. Ngoài một vài chữ khác như tinh (靈), triện (篆), sương (霜)… so với bản dịch của Le Minh Khai, trong bản dịch của ông Trần Tuấn Khải có một chi tiết thú vị như sau. Câu thứ 7 của bài thơ Kim cổ điệt canh kỳ kỷ cục 今古迭更棋幾局, trong phần phiên âm lẫn phần tạm dịch Việt văn, ông Trần Tuấn Khải đều dùng chữ “câm” chứ không phải là “kim”; trong khi ở nguyên bản chữ Hán vẫn viết là 今. Có lẽ dịch giả chọn âm này cho đúng với cách đọc biên soạn sách của các sử quan có liên quan đến lệ kỵ húy của triều đình nhà Nguyễn chăng, bởi tên người sáng lập nhà Nguyễn là ông Nguyễn Kim chăng? Hết trích ] Phân tích: Khả Lao là chữ phiên âm cho từ Kẻ Lào. Lào là từ chung chỉ phía Tây, phía mặt trời “Lặn Vào” = Lào. Gió thổi từ phía Tây vẫn gọi là “gió lào” nên chữ “lào” này không phải viết hoa vì không phải là chỉ nước Lào. Đi lên rừng núi phía Tây để tìm lâm sản người ta vẫn gọi là “đi lào”. Đan Nê chẳng phải là từ của dân tộc thiểu số nào cả, nó là chữ nho ghi âm từ của tiếng Kinh là từ “Đồi Núi”, từ Đồi Núi được viết bằng chữ Đan Nê. Bởi nhấn “Núi Hề 兮!” = Nê. Đồi và Đàn đều là cái Nền đất nổi tự nhiên, viết chung bằng mượn chữ Đan 丹(cứ cái âm, chớ cứ cái nghĩa chữ Đan 丹 là màu đỏ). Nôi khái niệm: Nền = Non = Hòn = Cồn = Đồn = Đàn 壇 = Đài 臺, 台 = Đồi = Đột 凸, 土 = Đống = Đan 丹,坦 = Địa 地 = Đỉn (tiếng Thái) = Đất 坦 (chữ Nôm) = Tất (tiếng Mường). Chữ Kim tiền 金 錢 hay Kim thế今 世là hai chữ Kim đồng âm dị nghĩa, âm tiết “Kim” đều được người Thái vùng Thanh Nghệ đọc là “Căm”, giống như người Quảng Đông cũng đọc chữ Kim 金 là “Căm”, do vậy ông Trần Tuấn Khải phiên âm chữ Kim 今 là “Câm” là do phát âm của vùng đó, chứ không phải là ông ấy sợ húy gì cái âm “Kim”. Chữ Kim tiền là chỉ kim loại, thời đồ đồng người ta gọi kim loại đồng là Câm hay kim loại nói chung là “Của Ngậm” = Câm, hay “Của Im” = Kim金. Vì kim loại là do quặng nằm Im dưới đất chứ không phải là “vô khảo mà xưng”, mà phải Tìm mới thấy, và nó Ngậm một giá trị riêng. Cái tên gọi là Câm hay Kim là do tính cách của nó, như các thành ngữ đã chỉ rõ: “lạnh như đồng”, “ lạnh như tiền”, lạnh ở đây là “mặt lạnh” tức im lặng không nói gì; “ngậm miệng ăn tiền”, câu này nghĩa đen là kim loại ăn tiền hay tiền ăn tiền khi chủ ngữ là chính nó, nhưng thường dùng theo nghĩa bóng khi chủ ngữ là ẩn. Im = Âm, làm sao cho “Tỏ cái Im” = Tìm , hay “Tỏ cái Âm” = Tầm 尋 (kết quả là thấy, vật được tìm không reo lên thì người tìm được nó cũng reo lên thành tiếng). Trong tiếng Việt còn có nhiều kiểu đặt tên gọi: do màu sắc thành tên gọi như Bạc, Vàng; do chức năng thành tên gọi như Cuốc, Cày; do tiếng kêu thành tên gọi nhu “Kêu gâu Gâu” = Cẩu狗, “Kêu quà Qùa” = Qụa, “Tiếng Rống” = Trống; do chất liệu kèm chức năng thành tên gọi như “Mộc 木 Gõ” = Mõ, “Kim 金 lên Tiếng” = Kẻng; v.v. Khi gia công dát mỏng kim loại có tên gọi là đồng thành tấm mỏng gọi là lá đồng ,Lá = Ná (tiếng Tày) = Nạ (tiếng Lào)có nghĩa là Mặt, tức thành cái “Mặt Câm” = Mâm, là cái mâm đồng. Gõ vào mâm đồng thì được kết quả “Gõ Mâm” = Gầm, tiếng rất vang. Vật dụng bằng đồng là Câm = Mâm = Gầm = Gươm = Kiếm = Kim (cái kim nhọn), từ Kim này viết bằng chữ Châm, đồng âm với Câm. Nôi khái niệm vật nhọn trong tiếng Việt là: Gai = Gài = Găm = Cắm = Kim = Câm = Châm 針 = Đâm = =Điểm 點 = Tiêm 尖 = Chiếm = Chích = Chốt = Chủng 種, nên có từ đôi Tiêm Chủng 尖 種, Hán ngữ gọi động từ Tiêm bằng từ ghép Đả Châm 打 針, chính là phiên thiết từ Đâm của tiếng Việt. Trong bài thơ trên tôi chẳng thấy từ nào kì thị người dân tộc thiểu số cả. Chữ Man là chỉ màu ngũ hành của phương Bắc. Nôi khái niệm: Khảm = Khẳm = Đẳm (tiếng Thái, nghĩa là màu đen) = Đậm = Đen = Mèn = Mun = Man = Than = Thâm = Thủy. Nước = Nam (tiếng Thái Lan) = Nậm (tiếng Tày) = Lầm = Thâm = Than = Thủy, màu ngũ hành của nước là màu đen. Cuồng Man có nghĩa là giặc Man, tức là giặc phương Bắc. vì Man là “Màu Than” = Man tức màu đen, là màu ngũ hành của nước, (“Màu Đen” = Mèn, do màu sắc mà thành tên gọi con dế mèn là con dế màu đen tuyền), nên giặc man còn gọi là giặc nước. Trong bài thơ có từ Thử Nhàn 此 閒, 此 閑 (nghĩa là ở cảnh nhàn này) chứ không phải chữ Thử Gian 此 間 (nghĩa là ở giữa chốn này). Tôi dịch bài thơ là như sau: 1. Non cao soi vịnh nước tròn. 2. Chuông thiêng thánh thót cảnh nhàn đẹp sao. 3. Nghiêng trời, hạn gặp mưa rào. 4. Trống rền dội tiếng, giặc nào cũng tan. (Hoangnt góp ý: "rền" thành "thần" tức trống đồng, thần trống đồng, "cũng" thành "chẳng" mang ý nghĩa tự nhiên như vậy; chuông thiên đi với trống thần nữa) 5. Bia rùa đá khắc triện vàng. (Hoangnt góp ý: "đá khắc" thành "sách đá" theo nghĩa văn bia-sử sách, sách tức tinh hoa văn hóa, bia tức tú khí non sông của bậc hào kiệt) 6. Công huân rực rỡ phượng hoàng uy nghi. 7. Nghìn năm biết mấy cuộc kỳ. 8. Lẫy lừng chính khí vẫn thì Giang Sơn. Bài thơ có Tám câu. Câu 3 nói về công dụng thời bình của trống đồng là dùng thi lễ cầu mưa. Mặt trống đồng có Cóc, hay Ễnh - Ương (con Âm – Dương), là loài lưỡng cư, sống cần phải có Đất Nước (như Đất Nước VN, một nửa là Biển Đông, một nửa là Đất liền). “Con cóc là cậu ông trời” nên trống đồng mà Gõ = “Gõ Nói” = =Gọi = "Gọi Chớ!" = Gô 語 (tiếng Nhật) = "Gọi Chi 之!" = Gí 語 (tiếng Đài Loan) = “Gọi Chứ!” = Gừ = “Người Gừ” = Ngữ 語 ("Người Ồn 音" = Ngôn 言), thì trời phải nghiêng mà trút mưa xuống. Câu 4 nói về công dụng của trống đồng thời chiến là động viên chiến đấu bằng cái Cối Gõ = Cối Vỗ = Cổ Vũ 鼓 舞. Hình dáng cái trống đồng như cái Cối úp, chính tên gọi theo hình thể của nó là cái Cối Vỗ , hễ vỗ mặt nó là nó phát ra “Tiếng Rống” = Trống, “trống” chỉ là cái tiếng của nó, tiếng nó trống không vang lên không trung. Xưa viết từ Cối bằng chữ Cữu 臼 (cối gỗ) và bằng chữ Cổ 鼓 (cối đồng). Câu 8 là câu Tóm tắt, ý của câu này về sau đã trở thành câu kết trong lời của bài hát quốc ca do Văn Cao sáng tác là: “Nước non Việt Nam ta vững bền”. Sẽ mãi mãi vững bền muôn thủa khi vẫn giữ được cân bằng Âm/Dương là Nước/Non, còn nếu để cho tằm ăn dâu nó gặm lẹm mất dù là phần nhỏ nào của bên Nước hay bên Non thì đều làm chao đảo cái sự bền vững. Tác giả chọn cấu trúc bài thơ là 8 câu thất ngôn, cứ hai cái Thất thì được một cái Thật, vì “Thất+Thất” = Thật = 1+1=0. Tám cái Thất thì được bốn cái Thật. Bốn cái Thật chính là bốn nét của chữ Tâm 心. Bốn cái Thật lại là một cái Thật, vì “Thật+Thật” = Thất = 0+0=1, và “Thất+Thất” = Thật = 1+1=0. Cho nên bốn nét của chữ Tâm 心 là một cái Thật = 0 (tâm hoàn toàn rỗng, tức hoàn toàn trong sáng). Trong di chúc của Hồ Chí Minh có một câu dặn dò rất dài, trong câu đó có 4 chữ Thật (xem bài “Bốn chữ Thật trong di chúc Hồ Chí Minh” của ông Vũ Kỳ). Muốn tâm rỗng thì phải Thiền thật lâu tức đạt đến trạng thái “Thiền 禪 Thiền 禪” = Thiện 善, 1+1=0, “Thiền 禪 Thiền 禪” = Thiên 天, 1+1=0, ở trạng thái đó thì trí tuệ của Người sáng suốt như của Trời. Tương ứng các chữ Thiền 禪 – Thiện 善 – Thiên 天 mà bằng phát âm của Hán ngữ thì là: “Chán 禪” – “Shàn 善” – “Tian 天”, thì sẽ không đúng cách “thiết” (QT Lướt) , tức “Chán 禪 Chán 禪” // Shan 善, “Chán 禪 Chán 禪” // Tian 天 (dấu // nghĩa là khác, không bằng). Vậy phát âm chữ nho như Việt phát âm là đúng hay phát âm chữ nho như Hán phát âm lơ lớ là đúng? Chẳng trách mà hơn 2000 năm trước đã phải có sách Thuyết Văn Giải Tự 說 文 解 字 (< TVGT>) của Hứa Thận 許 慎 để hướng dẫn cách đọc chữ nho cho đúng âm Việt bằng cách “thiết 切”.
  5. Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy các nhân vật quan trọng trong tiến trình lịch sử Trung Hoa đều có liên hệ đến Văn Lang, hầu như đã ăn khớp về mặt thời gian 5.000 năm lịch sử. Đồng thời, đối chiếu tới các vùng văn hóa với cổ vật đã được khai quật cho tới nay ở Nam Dương Tử và trong mối quan hệ với Bắc Dương Tử không thể không nói đến nền văn hóa Lương Chử, theo các nhà nghiên cứu nó thuộc về văn hóa đá mới ở thời kỳ cuối, tuy nhiên đây là những cổ vật ngọc hay đá bán quý dùng trong lễ nghi, tế tự. Do vậy, chúng phải được phân tích ý nghĩa ở cấp độ chi tiết và chuyên môn trong dòng chảy lịch sử chứ chưa chắc là thuộc văn hóa Đá Mới. Ví dụ, về mặt thời gian văn hóa Lương Chử từ 3200-2200 trước Dương lịch, như vậy thời kỳ các vua Hùng đầu tiên cũng thuộc khoảng thời gian này, vậy mối quan hệ ra sao? Mặt khác, vùng văn hóa Lương Chử thuộc tỉnh Chiết Giang, đây là nơi đất gốc của vua Đại Vũ nhà Hạ và khoảng thời gian 3200-2200 TDL cũng nằm trong gian đoạn trị vì của ông, vấn đề này có môi liên hệ như thế nào? Cổ vật đặc trưng của Lương Chử là ống tông, đĩa bích và rìu Việt đều xuất hiện ở Bắc Dương Tử, vậy thì sự giao thoa văn hóa từ trung tâm Lương Chử phát ra hay từ Bắc Dương Tử tràn xuống? Chú ý, trong văn tự Lương Chử đã có biểu tượng cái "rìu" Yue tức Việt. Tham khảo cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường và các nguồn dữ liệu khác. Tôi trích dưới đây bài viết của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy và sẽ phân tích chi tiết cổ vật Lương Chử sau. DI CHỈ VĂN HÓA LƯƠNG CHỬ LÀ KINH ĐÔ NƯỚC XÍCH QUỶ? Hà Văn Thùy Trong tất cả những nền văn hóa tiền sử được phát hiện trên đất Trung Hoa, văn hóa Lương Chử có vai trò đặc biệt quan trọng. Là nền văn hóa có diện tích bao phủ lớn nhất, với lượng hiện vật lớn và tiến bộ nhất, với ký tự vào loại sớm nhất được phát hiện và đặc biệt là tòa thành lớn, được xây dựng vững chắc nhất… Lương Chử là di tích của kinh đô nhà nước cổ đại đầu tiên ở phương Đông. Do vậy, đó là nền văn hóa góp phần quyết định soi sáng lịch sử phương Đông. Trong bài này, cùng với việc giới thiệu những nét tiêu biểu của văn hóa Lương Chử, người viết lần đầu tiên đưa ra nhận định về vai trò của nó trong lịch sử. I. Giới thiệu văn hóa Lương Chử (1) Văn hóa Liangzhuđược phát hiện năm 1936 tại trấn Lương Chử, huyện Dư, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, là nền văn hóa khảo cổ Hậu kỳ Đá Mới, tồn tại từ 3300 tới 2200 năm TCN, do văn hóa Mã Gia Bang và văn hóa Tung Trạch phát triển lên. Văn hóa Liangzhu phân bố chủ yếu ở Thái Hồ, thuộc lưu vực sông Dương Tử, nơi người Việt cổ định cư, bao gồm Dư Hàng Liangzhu, Nam Gia Hưng, Đông Thượng Hải, Tô Châu, Thường Châu, Nam Kinh. Di chỉ còn được mở rộng ra phía tây đến An Huy, Giang Tây, phía bắc tới bắc Giang Tô, lan tỏa tới gần Sơn Đông. Văn hóa Lương Chử còn ảnh hưởng tới phía nam Sơn Tây. Vào thời điểm đó, sức mạnh của Liangzhu chiếm một nửa Hoa lục, nếu trình độ kinh tế và văn hóa không cao, thì không thể thực hiện được. Văn hóa ngọc Lương Chử đại diện cho làn sóng thứ hai của nền văn hóa ngọc bích thời tiền sử phương Đông (làn sóng đầu tiên là văn hóa ngọc Hồng Sơn, lưu vực sông Lao Hà, vùng Nội Mông). Ngọc bích có tông, việt, hoàng (ngọc bán nguyệt), ngọc hình vương miện, ngọc hình đinh ba, vòng tay, ngọc hình ống, Amanda, mặt dây chuyền, ngọc hình trụ, hình nón, nhẫn ngọc. Ngọc thờ cúng (tông, bi, rìu) được đề cao, sau này được các vương triều Trung Nguyên thừa kế. Công cụ bằng đá khai quật ở Liangzhu có đá hình lưỡi liềm, đầu mũi tên, dáo, rìu đục lỗ, dao đục lỗ, đặc biệt là cày đá và dụng cụ nhổ cỏ được sử dụng, cho thấy nông nghiệp bước vào giai đoạn dùng cày. Đồ gốm đánh bóng màu đen là đặc điểm của gốm Lương Chử.Trên gốm và ngọc bích xuất hiện một số lượng lớn các ký tự đơn hoặc nhóm mang chức năng văn bản, các học giả gọi là "văn bản gốc." “Văn bản gốc” cho thấy giai đoạn bắt đầu trưởng thành của ký tự tượng hình. Ký tự là dấu hiệu quan trọng của xã hội văn minh (2). Di tích thành phố cổ Liangzhu có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên", là cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, "bình minh của nền văn minh" phương Đông, là thánh địa của văn minh phương Đông, được xếp vào "Danh sách Di sản thế giới". Thành phố cổ ở phía bắc và phía nam thuộc về một nhánh của dẫy Thiên Mục Sơn. Các bức tường thành được dựng ở phía tây nam và đông bắc, vì vậy các chuyên gia kết luận rằng người xưa xây dựng thành phố về mặt địa lý một cách cẩn thận và có quy hoạch. Thành phố cổ có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng 1.800-1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao 4 mét, mặt cắt 40 mét bề mặt, đáy 60 mét (so sánh với bức tường thành phố cổ Tây An được xây dựng trong những năm Hồng Vũ nhà Minh, chân thành 18 mét mặt rộng 15 m) bằng đất hoàng thổ nguyên chất, đưa từ nơi khác tới, được đầm nén kỹ. Thành phía tây dài khoảng 1000 m, có mặt cắt từ 40 đến 60 mét, phía nam liền với Phượng Sơn, bắc tiếp Đông Thiều Hoát. Tiếp theo, bức tường phía nam, bức tường phía bắc và bức tường phía đông, ở dưới đáy đều có móng bằng đá, cùng khối lượng lớn hoàng thổ được đầm nén. So với bức tường phía tây, ba mặt kia của bức tường tương đối phức tạp hơn: rất nhiều nền đá được khai quật, những bức tường đá bên ngoài tương đối lớn, bên trong nhỏ hơn. Thành đắp bằng hoàng thổ, đôi khi thêm một lớp đất sét màu đen, tăng khả năng chống thấm. Các nhà khảo cổ cho rằng những dấu vết còn lại chứng tỏ bức thành phía tây được xây dựng đầu tiên, cho đến khi có kinh nghiệm xây dựng ba bức thành kia. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ Liangzhu được phát hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện, nhà vua và giới quý tộc sống, chính là kinh đô của thời kỳ Liangzhu. Các nhà khảo cổ tin rằng thành phố cổ đó thực sự là "nhà nước Liangzhu cổ đại." Việc phát hiện thành phố cổ Liangzhu khiến cho một số người nghĩ rằng thứ thế các triều đại của Trung Quốc nên được viết lại: hiện nay các triều đại Hạ, Thương, Chu được coi là sớm nhất, nhưng vai trò này cần được trả cho Liangzhu! Năm 1986 -1987, di chỉ Phản Sơn Liangzhu được phát hiện. 11 ngôi mộ lớn được khai quật, thu hơn 1200 miếng gốm, đá, ngà voi và ngọc khảm sơn mài. Trong những năm gần đây, di chỉ văn hóa Liangzhu được tìm thấy tăng từ 40 lên đến 135 địa điểm, với những làng, nghĩa trang, bàn thờ và các di tích khác. Một số lượng lớn vật tùy táng được khai quật từ các ngôi mộ, chiếm hơn 90% là ngọc bích, một biểu tượng của sự giàu có và quyền thế. Ngọc rìu là một biểu tượng của sức mạnh quân sự và cung cấp thông tin có giá trị. Đây là bộ sưu tập ngọc lớn nhất thế giới được tái xác định, đặt tên, vì vậy đã đính chính sự nhầm lẫn lúc đầu cho là thuộc thời Hán Vũ đế (thực sự là ngọc Liangzhu) đẩy lịch sử về phía trước 2000 năm. Năm 1994 cũng tìm thấy các cơ sở xây dựng siêu khổng lồ, có diện tích hơn 300.000 m2, xác nhận sự bồi đắp nhân tạo của hoàng thổ, dày tới 10,2 mét, kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại hiếm trên thế giới. Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy giai đoạn văn hóa Liangzhu, nông nghiệp đã bắt đầu tiến vào thời kỳ cày đất, thủ công mỹ nghệ trở nên chuyên nghiệp hơn, công nghiệp chế tác ngọc đặc biệt phát triển. Việc xuất hiện lượng lớn ngọc bích thờ cúng đã mở ra khúc dạo đầu nghi thức xã hội, sự phân biệt giữa lăng mộ lớn của quý tộc và mộ dân thường cho thấy sự gia tăng của phân tầng xã hội. Ý nghĩa của sự phân biệt giàu nghèo cho thấy là thông qua một số loại quyền lực xã hội đè lên xã hội gia tộc mà hình thành. Công trình xây dựng số lượng lớn các ngôi mộ lớn đòi hỏi một mức độ nhất định trật tự xã hội được đảm bảo, nếu không khó có thể thực hiện. Việc xây dựng một xã hội có sự khác biệt tầng lớp tạo ra được liên kết chặt chẽ. Có thể nói, trong giai đoạn văn hóa Liangzhu, gia tộc và bộ tộc đã nổi lên với các nhà lãnh đạo chính quyền tập trung, một số lượng lớn sức lao động được tổ chức, hình thành một cấu trúc xã hội quy mô lớn. Sự tồn tại của quyền lực xã hội cũng được phản ánh đầy đủ trong sản xuất ngọc bích. Chế tác ngọc là một quá trình lao động nhiều bước phức tạp, do đó, ngọc bích là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ chuyên nghiệp. Các đồ trang trí thủ công đẹp nhất, cho biết mỗi miếng ngọc bích thể hiện rất nhiều thành quả lao động, với trình độ cao. Điều này chứng tỏ sự phân công giữa lao động trí óc và chân tay đã hình thành. Trong văn hóa ngọc Liangzhu có một mô hình rất bí ẩn liên tục xuất hiện, một motipe đặc biệt khốc liệt của chiến trận, không thể không gợi nhớ tới chiến binh Si Vưu. Si Vưu là lịch sử cổ xưa của Đông Nam man huyền thoại, chiến đấu và chiến thắng lặp đi lặp lại, tôn kính như vị thần chiến tranh. Văn hóa rìu đá Liangzhu phát triển cao, cho thấy rằng người Liangzhu có vũ khí tinh nhuệ và dũng mãnh trong chiến trận. Sau khi Si Vưu bị vương triều Hoàng Đế đánh bại, văn hóa Liangzhu bước vào thời kỳ suy thoái. Truyền thuyết nói một vài bộ lạc liên minh với Si Vưu gồm nhóm Đông Di, Sơn Đông và các bộ lạc sống trong lưu vực sông Dương Tử. Tù trưởng bộ tộc Si Vưu có một liên minh bộ lạc lớn được gọi là Cửu Lê, phạm vi của nó bao gồm tất cả các nền văn hóa Liangzhu bản địa, người Lê Liangzhu mạnh mẽ nên đứng đầu Cửu Lê. Trong Cửu Lê có một chi gọi là Vũ nhân hoặc Vũ dân. Họ suy tôn chim, thú, làm tổ tiên, và do đức tin đó, thờ phượng chim, thú. Theo mô hình bí ẩn trên nền văn hóa ngọc bích Liangzhu, con chim con thú, là vật tổ của người Liangzhu. Vì vậy, rất có thể người Liangzhu là Vũ nhân hoặc Vũ dân.alt Trong các di chỉ lớn của nền văn minh tiền sử phương Đông, thì Liangzhu lớn nhất, mức phát triển cao nhất. Các nhà khảo cổ ngày 29 Tháng 11 năm 2007 tại Hàng Châu, thông báo rằng 5000 năm trước, thành phố cổ diện tích hơn 2.900.000 m2 đã được tìm thấy trong vùng lõi của di tích Liangzhu. Giáo sư Đại học Bắc Kinh Nghiêm Văn Minh và các nhà khảo cổ khác chỉ ra rằng đây là các di chỉ thành phố giai đoạn văn hóa Liangzhu lần đầu tiên được phát hiện ở khu vực sông Dương Tử, có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên." Thành phố cổ Liangzhu cho thấy nền văn hóa Liangzhu 5.000 năm trước đã bước vào một giai đoạn phát triển trưởng thành của nền văn minh thời tiền sử. Nằm trong lãnh thổ Dư huyện, "nhóm di chỉ Liangzhu" là trung tâm văn hóa Liangzhu. Ban Di sản Quốc gia cho biết: nhóm di sản Liangzhu sẽ trở thành đền thờ năm ngàn năm của nền văn minh Trung Quốc. II. Khảo cổ soi sáng lịch sử Từ những tri thức hiện có cho phép đưa ra nhận định sau: Cho tới 5000 năm trước, trên lục địa Đông Á, người Việt cổ đã xây dựng nền nông nghiệp phát triển. Do cày được đưa vào trồng trọt nên năng suất lao động tăng, lương thực dư thừa, kích thích hoạt động thủ công và thương mại. Một mạng lưới buôn bán ngọc bằng đường biển hình thành, đưa ngọc được khai thác từ các mỏ ở Đài Loan tới các quốc gia quanh Biển Đông. Do phải chung tay trị thủy hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử nên các bộ tộc nông nghiệp phải liên minh với nhau và nhà nước cổ đại hình thành từ rất sớm. Thời kỳ này các tộc du mục ở bờ bắc Hoàng Hà và phía tây tăng cường cướp phá khu vực dân cư nông nghiệp trù phú. Do yêu cầu chống xâm lăng nên sự liên minh giữa các bộ lạc người Việt, cùng huyết thống, cùng tiếng nói và văn hóa trở nên chặt chẽ hơn. Có thể lúc này hai nhà nước cổ ra đời: phia tây là nhà nước Ba Thục gồm vùng đất Ba Thục phía tây Trung Quốc và Thái Lan, Miền Điện do vị vua thần Can Công lãnh đạo. Ở phần còn lại của Hoa lục, cùng với Đông Dương là nhà nước do Thần Nông trị vì. Vương quốc của Thần Nông rất rộng lớn, gồm lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo tiến trình Bắc tiến của người Việt, lưu vực sông Dương Tử điều kiện tự nhiên thuận lợi và được khai thác sớm nên có sự phát triển trước, trở thành trung tâm lớn mạnh về kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự. Do vị trí đặc biệt của nó nên vùng Lương Chử của Thái Hồ trở thành kinh đô của các vương triều Thần Nông. Khoảng năm 4879, Đế Minh, hậu duệ của Thần Nông chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi cai quản lưu vực Hoàng Hà và Kinh Dương Vương cai quản lưu vực Dương Tử. Như trong truyền thuyết, Kinh Dương vương lập nước Xích Quỷ, địa giới phía bắc tới nam Dương Tử, phía đông là Biển Đông, phía Tây giáp Ba Thục và phía nam tới miền Trung Việt Nam. Trong thời kỳ này, các bộ lạc du mục phía bắc tăng cường cướp phá phía nam Hoàng Hà. Tình thế này buộc nhà nước của Đế Nghi và Kinh Dương Vương và sau này là Đế Lai và Lạc Long Quân tăng cường vũ trang và liên minh với nhau chống giặc. Khoảng năm 4698, liên quân của các bộ lạc Mông Cổ do họ Hiên Viên dẫn đầu mở cuốc tấn công lớn vào Trác Lộc bờ nam Hoàng Hà. Liên quân Việt của Đế Lai và Lạc Long Quân chống trả ngoan cường nhưng rồi thất bại. Đế Lai tử trận. Một kịch bản tôi từng đề xuất là, sau thất bại này, Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân Việt lên thuyền theo Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Nghệ An. Tại đây ông được người địa phương đón tiếp, sau đó tôn con trưởng của ông lên làm vua, gọi là Hùng Vương, lập kinh đô ở Việt Trì, đặt tên nước là Văn Lang. Dựa vào địa giới trùng nhau của Văn Lang và Xích Quỷ, có thể cho rằng, đây là việc dời đô và đổi quốc hiệu của triều đình Lạc Long Quân. Tại kinh đô Việt Trì, các triều đình của Hùng Vương tiếp tục lãnh đạo dân Văn Lang-Xích Quỷ xây dựng đất nước và chi viện cuộc kháng chiến trường kỳ của người dân lưu vực Hoàng Hà. Khoảng năm 4300, do cuộc xâm lăng của vương triều Hoàng Đế, nhà nước Hùng Vương không còn quản lý được vùng đất này, kinh đô Lương Chử bị bỏ phế. Văn hóa Lương Chử suy vong… Trên đây là sự đoán định của tôi về quá trình hình thành và tan rã của nhà nước đầu tiên ở phương Đông mà kinh đô là Lương Chử. Sự đoán định dựa trên cơ sở sau: 1. Về thời điểm: văn hóa Lương Chử nảy sinh, suy đồi trùng với thời gian truyền thuyết về việc xuất hiện vua Thần Nông rồi Đế Minh chia đất, phong vương cho Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ. Tiếp đó và việc hình thành nhà nước Văn Lang. 2. Về địa giới: văn hóa Lương Chử phân bố rộng trong địa giới của nhà nước Xích Qủy huyền thoại. 3. Truyền thuyết về nhà nước Xích Quỷ rất phổ biến trong các tộc người phương Đông. Điều này cho thấy, chỉ duy nhất nhà nước Xich Quỷ từng xuất hiện nơi đây trong quá khứ. 4. Hình trong ngọc Lương Chử thường khắc " thần nhân thú diện-神人獸面" để tôn thờ mà ngày nay các nhà nghiên cứu nghĩ rằng đây là Viêm Đế hoặc Si Vưu v v... Cái mà người ta gọi là " thú diện" thì đây chính là gương mặt của con rồng, từ thời Tần, Hán cho đến ngày nay người ta vẫn vẽ gương mặt của con rồng như vậy. Đây chính là dấu ấn "con Rồng cháu tiên" như truyền thuyết của người Việt. Học giả Trung Quốc gọi dân cư Lương Chử là “Vũ nhân hay Vũ dân.” Do vũ và bàng cùng thuộc về chim nên có thể hiểu người dân thờ chim này nhận mình là Hồng Bàng, như trong truyền thuyết về họ Hồng Bàng. 5. Dân cư Lương Chử là hai chủng người Việt cổ Indonesian và Melanesian. Đó cũng chính là hai chủng người Việt từ 40.000 năm trước đi lên khai phá Trung Hoa, đã mang công cụ đá mới Hòa Bình lên, rồi sáng tạo đồ gốm đầu tiên và cây lúa đầu tiên ở di chỉ Động Người Tiên phía Nam Dương Tử. 6. Qua nhiều ký tự được khắc trên ngọc Lương Chử cho thấy, vào thời Lương Chử, chữ của người Việt đã trưởng thành. Chữ Lương Chử thô sơ hơn Giáp Cốt văn Ân Khư và có trình độ tương đương với chữ khắc trên đá Cảm Tang, cho thấy, có sự thống nhất về văn hóa rộng lớn trong quốc gia Xích Quỷ ở phía nam Dương Tử. Chữ Lương Chử, Cảm Tang là tiền bối của Giáp Cốt văn Ân Khư. 7. Trong tài liệu Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh, bác sĩ Trần Đại Sĩ ghi cuộc điều tra điền dã của ông như sau: “Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang… Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: “Thiên-đài di sự lục. Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.” Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn. Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Dương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».(5) Tài liệu này là chứng cứ cho thấy truyền thuyết Đế Minh tuần thú phương Nam, tới núi Thiên Đài lập đàn tế cáo trời đất xuất hiện từ xa xưa và phổ biến ở vùng Giang Nam. Đó cũng là thêm bằng chứng về việc ra đời nước Xích Quỷ. 8. Thục Thư trong Tam Quốc Chí viết rằng, Hứa Tịnh là người phía bắc, tỵ nạn xuống miền nam, sau này làm quan viết sử cho Lưu Bị, lên tới chức Tư đồ (司徒). Trước trận Xích Bích, Tào Tháo sai người do thám hậu phương của Lưu Bị và Tôn Quyền. Vì nể tình quen biết với người của Tào Tháo đã cậy nhờ nên Hứa Tịnh viết thư vắn tắt cho Tào Tháo biết rằng: Ông đã đi từ Hội Kế (Cối Kê - Hàn Châu ngày nay), qua Giao Châu, Đông Âu, Mân Việt, cả vạn dặm mà không thấy đất Hán. [许靖给曹操的信说:从会稽“南至交州,经历东瓯、闽越之国,行经万里,不见汉地” – Từ Hội Kế nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa.] Bốn chữ bất kiến Hán địa (不见汉地 ) của Hứa Tịnh chứng tỏ rằng: Phía nam, dù đã nằm trong quốc gia Hán mấy trăm năm nhưng không phải là đất Hán mà thực tế vẫn là Việt! Đến cuối thời Hán, vùng Giang Nam vẫn là đất Việt thì hàng nghìn năm trước đây đã là đất Việt. Có thể kể thêm những điều nói lên sự tương đồng giữa vương quốc Lương Chử và nhà nước Xích Quỷ nhưng theo tôi, với những chuyện xảy ra 4000 – 5000 năm trước, có được chứng cứ như vậy đã là quá đủ! III. Kết luận Dù không ít hoài nghi. Dù bị sử gia triều Nguyễn cho là “ma trâu thần rắn” hoang đường. Dù bị coi là “sản phẩm của văn hóa Tàu”… thì từ bao đời nay, Hồng Bàng thị truyện vẫn như ngọn hải đăng tỏa ánh sáng và sức nóng, vừa chỉ đường, vừa tiếp sức cho dân tộc Việt trong cuộc gian truân bơi ngược dòng lịch sử tìm lại cội nguồn. Đến nay, rất may mắn, trí tuệ nhân loại giúp ta tìm được những bằng chứng vững chắc xác định hơn 5000 năm trước, nước Xích Quỷ là một thực thể tồn tại với bề rộng mênh mông, khối dân cư đông đảo, sức mạnh kinh tế lớn lao cùng nền văn hóa rực rỡ. Không chỉ kiến trúc thành trì đồ sộ, chế tác số lượng lớn đồ ngọc tinh xảo mà chữ viết đã trưởng thành. Phát hiện ra kinh đô Lương Chử để từ đó khẳng định Xích Quỷ - Văn Lang là nhà nước có thật từng tồn tại trong quá khứ là khám phá trọng đại nhất của tộc Việt. Hy vọng rằng, từ đây người Việt sẽ nhìn lại mình để sống xứng đáng với tổ tiên. Sài Gòn 20.10. 2014 Tài liệu tham khảo: 1. 良渚文化_互动百科 - www.baike.com/wiki/良渚文化 2. Liangzhu culture - http://en.wikipedia.org/wiki/Liangzhu_culture 3. 良渚文化甲骨文 4. 良渚文化玉器 - https://www.google.com.vn/search?q=%E8%89%AF%E6%B8%9A%E6%96%87%E5%8C%96%E7%8E%89%E5%99%A8&;biw=693&bih=572&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ei=eL9FVO-rJYStmAXijoLoBQ&ved=0CCUQ7Ak 5. Trần Đại Sĩ. Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. - http://www.vietnamvanhien.net/NuiNguLinh.pdf
  6. Việt, “Hán”, Man và Trống đồng Le Minh Khai Người dịch: Hà Hữu Nga Ở bài viết trước, khi nói về trống đồng không quan trọng đối với người Việt trong quá khứ, có một trường hợp trong đó trống đồng lại quan trọng, và đó là trường hợp liên quan đến một ngôi đền được gọi là Đồng Cổ Thần Từ 銅鼓神祠 trên núi Đan Nê [đúng ra là núi Đồng Cổ, còn gọi là núi Khả Lao sơn 可牢山, hay Tam Thái Sơn, làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định - HHN], còn gọi là núi Khả Lao thuộc tỉnh Thanh Hóa. Trong sách Đại Nam nhất thống chí 大南一統志 biên soạn vào thế kỷ XIX, có một đoạn nói về ngôi đền này. Đoạn đó có một chút khó hiểu vì ngoài ngôi đền trên núi Đan Nê, sau đó tại Kinh đô cũng có một đền thờ dành riêng cho vị thần này. Vì vậy, thông tin này cho thấy một vị thần được thờ ở hai địa điểm. Dưới đây tôi dịch đọan này và sau đó có một vài bình luận về đoạn đó. [17 hạ/5a] Đồng Cổ Thần từ 銅鼓神祠] trên núi Đan Nê (còn gọi là núi Khả Lao) thuộc huyện An Định. Ngày xưa, khi vua Hùng [17 hạ/5b] đi đánh quân Chiêm Thành 占城, đã từng đóng quân trên núi Khả Lao. Nửa đêm nhà vua mộng thấy thần nhân 神人 nói rằng “Thần sẽ đưa cho nhà vua một chiếc trống đồng và một dùi trống đặng giúp nhà vua chiến thắng”. Khi hai bên xung trận, tiếng trống đồng rền vang không trung, và đúng như thần nhân tiên báo, vua Hùng đã đại thắng. Sau này nhà vua phong cho thần nhân là Đồng Cổ Đại Vương 銅鼓大王. Khi còn là Thái tử, Lý Thái Tông vâng mệnh đi đánh Chiêm Thành. Nửa đêm nằm mộng thấy một người mặc áo giáp, tay cầm gươm báu tâu rằng: “Thần là thần Đồng Cổ, xin được theo đi đánh giặc lập công”. Sau khi dẹp yên Chiêm Thành, Lý Thái Tông đã cho dựng đền thờ cúng tế. Sau khi kế vị ngai vàng, nhà vua mộng thấy thần Đồng Cổ đem đến một bài thơ báo về việc ba vị vương công âm mưa làm phản. Hóa ra điều đó đã trở thành sự thật. Sau đó nhà vua gia phong cho thần là Thiên Hạ Minh Chủ 天下盟主, Thượng đẳng thần. Hàng năm đều cho lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ, bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất trung bất hiếu, thì xin thần minh làm tội". Đầu đời Lê Trung Hưng, quân Mạc vào xâm lấn các huyện Vĩnh Ninh (nay là Vĩnh Lộc) và Yên Định, nhà Lê đóng châu sư ở thượng lưu sông Mã. Nửa đêm nghe thấy ba tiếng trống nổi lên cách xa đến vài trăm dặm. Viên tướng nhà Lê cử người đi do thám mới hay rằng đó là tiếng trống đồng từ núi Khả Lao. Sáng hôm sau quan quân đuổi đánh quân Mạc, gặp được gió mạnh nước cường, châu sư thuận gió giương buồn, khí thế hăng hái gấp bội, quân Mạc phải thua. Đời Lê Hoằng Định, trong sắc phong cho thần có câu: [17 hạ/6a] “Giang thượng phong trào, đại trợ tam quân chí thắng”, nghĩa là: gió nước trên sông giúp sức lớn để tam quân thắng trận. Đời Cảnh Hưng thường có tàn vàng xuất hiện ở quán Triều Thiên 朝天館, ba ngày mới tan, quan địa phương bèn đến nơi tế lễ; lại một hôm, trời sắp tối trong miếu có mây mù bao bọc, tiếp đến gió lớn mưa to, người địa phương đứng xa trông thấy một con rồng đen từ trên không hiện xuống ngôi đền [thờ thần Đồng Cổ]. Đến sáng ra xem thì thấy dấu vảy rồng và móng rồng vẫn còn in ở mặt sân đền. Trải các đời Lý, Trần, Lê, hàng năm cứ đến mùa xuân, nhằm ngày xuất quân, tướng sĩ phải đến miếu hội thề, mong quỷ thần soi xét. Quan Thái phó triều Lê là Nguyễn Văn Khải nhân đó có làm một bài thơ. [Tôi [Le Minh Khai] chưa thấy bản dịch tiếng Việt nào của bài thơ này. Vì dịch thơ mất nhiều thời gian, nên tôi [Le Minh Khai] chỉ dịch hai dòng liên quan đến vấn đề được đề cập: [壇上翻瓢消旱魃 - Đàn thượng phiên biều tiêu hạn bạt: The overturned ladle on the alter eradicates the drought demon - Cái môi úp trên bàn thờ diệt trừ quỷ hạn hán, 空中敲鼓走狂蠻 - Không trung xao cổ tẩu cuồng man The sounding of the drum drives away the mad savages - Âm thanh của tiếng trống đuổi cổ những kẻ man rợ], [Còn tôi, Hà Hữu Nga thì cố liều chết dịch ý hết cả bài] như sau: 台峰拱炤水灣環 毓秀鐘靈在此閒 壇上翻瓢消旱魃 空中敲鼓走狂蠻 龜碑石篆經霜綠 鳳札金章炤日丹 今古迭更棋幾局 凛然正氣舊江山 Đài phong củng chiếu thủy loan hoàn Dục tú chung tinh tại thử gian Đàn thượng phiên biều tiêu hạn bạt Không trung xao cổ tẩu cuồng man Qui bi thạch triện kinh sương lục Phượng trát kim chương chiếu nhật đan Kim cổ điệt canh kỳ kỷ cục Lẫm nhiên chính khí cựu giang sơn. Thái sơn quần tụ soi đầm ngọc Anh linh chung đúc đất thiêng này Gáo trời gội sạch ngày nắng hạn Trống rung tan tác lũ cuồng man Kinh đá bia rùa sương khói biếc Chương vàng thẻ phượng rạng chiếu ban Kim cổ cuộc cờ luôn đắp đổi Lẫy lừng chính khí cựu giang san Trong đền có một trống đồng nặng khoảng 100 斤 cân; đường kính khoảng một xích và năm thốn, và cao hơn hai xích. Bên trong rỗng, và không có đáy. Rìa cạnh bị hư hại nhẹ. Trên mặt trống có chín vòng tròn đồng tâm. Eo trống được thắt [hay bọc bằng một thứ gì đó?] vì vậy bụng trống được che kín. Trên bốn cạnh được cột bằng dây thừng. Có hình chữ vạn [vạn tự 卍 字] viết bằng loại chữ khoa đẩu - hình con nòng nọc. Qua thời gian nó bị mòn đi và bây giờ không thể đọc được. Người ta nói rằng loại chữ này đã được làm ra trong thời đại của các vị vua Hùng. Vào cuối thời Lê, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã xâm phạm nơi đây và lấy mất [trống] đem về Phú Xuân. Sau đó, một người dân huyện Hậu Lộc [17 hạ/6b] đã tìm thấy một chiếc trống khác trên bờ sông, trình nộp lên quan trấn rồi đem về để trong đền. Đến nay vẫn còn. Đoạn văn trên bắt đầu bằng chuyện kể về một vị vua Hùng đi đánh quân Chiêm Thành. Trong khi tôi nghĩ rằng rõ ràng không có vị vua Hùng nào, thậm chí nếu chúng ta tin là đã có, thì đoạn này vẫn còn có vấn đề vì không hề có bất cứ ghi chép nào trong biên niên sử về điều này, và trong thời gian đó (thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên) Chiêm Thành vẫn chưa tồn tại. Sẽ không có vấn đề gì với ý tưởng chung cho rằng một vị vua đã mơ thấy một vị thần hiện về trợ giúp cho mình. Đây là một “ngụ ý” hoặc “chủ đề” mà chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều tích truyện khác từ quá khứ do các tầng lớp có học ở tất cả các vùng thuộc "thế giới Hoa hóa" tạo ra, kể từ đồng bằng sông Hồng đến bán đảo Triều Tiên. Một lần nữa, chúng ta lại thấy nó ở đây liên quan đến Lý Thái Tông. Vị thần này đã giúp nhà vua những gì? Hỗ trợ trong việc tấn công những kẻ khác với người Việt. Ở đây tôi thấy rất thú vị là vị trí đền thờ nằm ở Núi Đan Nê [thật ra là làng Đan Nê - HHN], hay núi Khả Lao. “Đan Nê” và “Khả Lao” không phải là tên Việt, và điều này cho thấy rằng những người, ít nhất ban đầu, sống ở đó là khác với người Việt. Trong khi đó, như tôi đã đề cập trong bài viết dưới đây, những người Việt có học trong quá khứ đều liên hệ trống đồng với những kẻ khác với họ. Vì vậy, những người sử dụng trống đồng là nhóm khác với người Việt, và người Việt tạo dựng một ngôi đền trên núi Đan Nê / Khả Lao (một nơi chí ít về nguồn gốc, cũng là quê hương của những người khác với người Việt) đã được dành riêng để thờ vị thần Đồng Cổ. Sau đó vị thần ấy đã giúp người Việt chiến đấu chống lại những người khác với họ - “Trống rung tan tác lũ cuồng man”. Đối với tôi, điều này có vẻ là người Việt đã nắm lấy một thứ đầy sức mạnh (tức là, trống đồng) từ những “nguời man” và sau đó cố gắng sử dụng nguồn sức mạnh kết hợp với vật đó để giúp họ đánh bại “người man”. Trong thế kỷ thứ nhất SCN, viên tướng “người Hán” Mã Viện được sử chép là đã cướp toàn bộ trống đồng khu vực này nung chảy đúc thành ngựa đồng. Hành động này có thể đã được thực hiện, một phần nhằm triệt bỏ sức mạnh từ các tầng lớp tinh hoa cầm quyền trong vùng mà Mã Viện coi là “man di”. Khoảng 1.000 năm sau, chúng ta lại thấy người Việt làm điều tương tự. Vậy thì, mối quan hệ giữa người man với trống đồng mà Mã Viện tấn công và những người man với đồng trống 1.000 năm sau mà người Việt tấn công là gì vậy? Và người Việt là ai tại thời điểm đó (khoảng 1100 SCN)? Tại sao họ lại quá giống với một tên tướng người “Hán” như Mã Viện, mà lại không hề giống với những người mà Mã Viện đã đánh bại? Tại sao họ lại coi những người có trống đồng là lũ “cuồng man”? _____________________________________________ Nguồn: Le Minh Khai, Vịêt, “Chinese,” Savages and Bronze Drums, bài viết được công bố trên trang mạng https://leminhkhai.wordpress.com/2013/09/15/viet-chinese-savages-and-bronze-drums/ Được đăng bởi Kattigara Echo vào lúc 09:02 Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest 4 nhận xét: David Huynh22:06 Ngày 11 tháng 07 năm 2015 Xung quanh về đền Trống Đồng ở Thanh Hóa (1) 1/ Các bản chuyển ngữ Bài viết của ông Le Minh Khai liên quan đến đề mục Từ Miếu 祠廟 thuộc tỉnh Thanh Hóa, tức quyển thứ VI trong bộ Đại Nam Nhất thống chí. Đến nay có ít nhất hai bản dịch Việt ngữ về sách Đại Nam Nhất Thống chí (từ đoạn này sẽ viết tắt là ĐNNTC): a/ Bản dịch của Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) liên kết với Viện Sử học, phát hành năm 1992, gồm 5 quyển. Bản dịch này nêu tên người phiên dịch là Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là Đào Duy Anh; căn cứ trên bản Hán văn chép tay có ký hiệu HV. 140 và A. 69. Bản dịch này tái bản lần thứ hai vào năm 2006. Trong phần ‘Lời nói đầu’, những người phụ trách biên tập thông báo là đã “bỏ bớt một số thơ văn không có nghĩa lý gì về mặt địa lý”; nhưng ở đây, không thấy các vị ấy đưa ra các tiêu chí nào khi làm công việc loại bỏ này. Dựa vào ngữ cảnh toàn bài ‘Lời nói đầu’, tôi hiểu những người thực hiện việc cắt-xén-không-ghi-chú này không phải là các ông Phạm Trọng Điềm và Đào Duy Anh. Như vậy là làm việc thiếu chuyên nghiệp, ắt gây nhiều nhầm lẫn cho người đọc. Trong bản dịch của Nxb Thuận Hóa (ĐNNTC 1992: 288–289), tôi không thấy chép bài thơ của ông Thái phó Nguyễn Văn Khải thuộc triều Lê. b/ Bản dịch của Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục (Sài Gòn), phụ trách phiên dịch tập Thượng và Hạ của địa bàn Nam Kỳ Lục Tỉnh là ông Nguyễn Tạo, phụ trách nhuận chính gồm ông Trần Tuấn Khải và nhiều người khác, xuất bản năm 1959. Phụ trách phiên dịch Tập Thượng và Hạ của địa bàn Thanh Hóa là ông Trần Tuấn Khải, xuất bản năm 1960. Bản dịch này không thấy các dịch giả nêu ra bản Hán văn gốc. Trong bản dịch của Nha Văn hóa (ĐNNTC 1960: 107–108), tôi thấy có chép bài thơ của ông Thái phó Nguyễn Văn Khải, kèm bản dịch thơ sang Việt ngữ của ông Trần Tuấn Nam. Tôi chép lại ở đây như một bằng chứng sống động về những nỗ lực đáng kính của các bậc tiền bối đối với nền sử học Việt (và không có ý so sánh với bản chuyển ngữ xuất sắc của ông Hà Hữu Nga): Non Đài quay lại, nước bao vây, Chung đúc anh linh ở chốn này. Bầu giốc đàn trên mưa dưới khắp, Trống khua tầng thẳm giặc tan bay. Bia rùa truyện đá ngàn sương phủ, Trát phượng niêm vàng ánh nắng gay. Câm cổ cuộc cờ bao xóa đổi, Vẫn lừng chính khí nước non đây. Ngoài một vài chữ khác như tinh (靈), triện (篆), sương (霜)… so với bản dịch của Le Minh Khai, trong bản dịch của ông Trần Tuấn Khải có một chi tiết thú vị như sau. Câu thứ 7 của bài thơ Kim cổ điệt canh kỳ kỷ cục 今古迭更棋幾局, trong phần phiên âm lẫn phần tạm dịch Việt văn, ông Trần Tuấn Khải đều dùng chữ “câm” chứ không phải là “kim”; trong khi ở nguyên bản chữ Hán vẫn viết là 今. Có lẽ dịch giả chọn âm này cho đúng với cách đọc biên soạn sách của các sử quan có liên quan đến lệ kỵ húy của triều đình nhà Nguyễn chăng, bởi tên người sáng lập nhà Nguyễn là ông Nguyễn Kim chăng? Xung quanh về đền Trống Đồng ở Thanh Hóa (2) 2/ Các địa danh 2.1/ Địa danh “Khả Lao”(可牢) Trong ĐNNTC chỉ nói thoáng qua tên núi Khả Lao, và chuyên chú vào địa danh Đồng Cổ (銅 皷) để chỉ núi này, với giải thích do “đền thờ nơi đây có cái trống bằng đồng nên lấy tên Trống Đồng đặt cho tên núi.” Từ lời giải thích này khiến nảy lên thắc mắc, vậy trước khi phát hiện ra trống đồng thì ngọn núi ở huyện Yên Định vốn có tên là gì? Ứng dụng quan điểm của ông Đào Duy Anh (2005: 31-33): địa danh “Khả Lũ” của thành Cổ Loa vốn là Kẻ Lũ, tôi cho rằng địa danh “Khả Lao” vốn là “Kẻ Lao”. Đồng thời chữ Lao 牢 còn có âm Nôm là “lao xao”. Vậy “Khả Lao” có thể hiểu vốn trong dân gian được gọi là Kẻ Lao xao – chỉ về một cộng đồng/một làng có nhiều cư dân. Sau đó, tên làng Kẻ Lao xao được dùng chỉ quả núi kế cận: núi Kẻ Lao/Khả Lao. Kẻ Lao ở hữu ngạn sông Mã thuộc huyện Yên Định xuất hiện cùng thời với địa danh một số làng khác thuộc tỉnh Thanh Hóa, như Kẻ Bôn (huyện Thiệu Hóa), Kẻ Nưa (huyện Nông Cống)… hay Kẻ Lũ (Khả Lũ/Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội). Vùng đồng bằng sông Mã còn bảo lưu được khoảng gần 120 làng có tên “Kẻ”, chiếm 24% trong tổng số 1,792 làng được điều tra (Lê Kim Lữ 1990). Ngoài ra núi Trống Đồng (Khả Lao) có 3 ngọn liền lạc trông giống hình 3 ngôi sao, nên còn gọi là Tam Thai (còn đọc là Đài) sơn (三台山) – chứ không phải là Tam Thái sơn (Đại Nam Nhất thống chí 1960: 60). 2.2/ Địa danh “Đan Nê”: Giải thích một cách đơn giản về địa danh này, đã có ý kiến cho rằng: để giải thích ý nghĩa về “bùn đỏ”, người ta có thể tìm thấy đất màu đỏ ở những khu vực gần làng Đan Nê hiện nay. Tuy nhiên tôi không tán thành ý kiến này. “Đan Nê” có lẽ xuất phát từ một địa danh có nguồn gốc xưa hơn, đó là Đản Nải 但 乃. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Kỷ nhà Lê, trang 16b, có chép một sự kiện xảy ra vào năm 983 (Quý Mùi): 帝 征 占 時 歷 銅 皷 山 至 婆 和 江 山 路 險 難 人 馬 困 憊 海 道 波 濤 又 難 往 來 乃 使 人 開 港 . Đế chinh Chiêm thời, lịch Đồng Cổ sơn, chí Bà Hoà giang, sơn lộ hiểm nan, nhân mã khốn bị, hải đạo ba đào hựu nan vãng lai, nãi sử nhân khai cảng. 至 是 成 舟 楫 所 至 皆 得 其 便 . Chí thị thành, chu tiếp sở chí giai đắc kì tiện. Khi vua đi đánh Chiêm Thành, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hoà, đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai người đào kênh. Đến đây đào xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Thái tông Hoàng Đế, trang 19b, có chép một sự kiện xảy ra vào năm 1029 (Kỷ Tỵ): 州 但 乃 甲 叛 . Châu Đản Nãi Giáp phản. 夏 四 月 朔 帝 親 征 但 乃 甲 以 東 宫 太 子 監 國 . Hạ, tứ nguyệt, sóc, Đế thân chinh Đản Nãi Giáp, dĩ Đông cung Thái tử giám quốc. 但 乃 甲 既 扳 遣 中 使 督 但 乃 人 開 但 乃 港 至 自 但 乃 . Đản Nãi Giáp ký ban, khiển Trung sứ đốc Đản Nãi nhân khai Đản Nãi cảng, chí tự Đản Nãi. Giáp Đản Nãi ở châu Ái làm phản. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Kênh Đản Nãi 但 乃 còn được viết như các ông (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000), (Hà Mạnh Khoa, 2004) là sông Đan Nãi. Kênh Đan Nãi là sông mà Lê Hoàn đã khơi đào xong năm 983, bắt đầu từ núi Đồng Cổ đi qua địa phận huyện Yên Định và Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. (Hà Mạnh Khoa, 2004). Trên cùng một vùng đất được đặt tên nhiều địa danh là một hiện tượng bình thường. Trong trường hợp này, tôi cho rằng địa danh Kẻ Lao/Khả Lao (hay làng Lao xao) thuần Việt cổ có trước địa danh Đản Nãi/Đan Nê xuất hiện khoảng thế kỷ X - XI. Trong đoạn viết ngắn này, tôi muốn giới hạn vấn đề trong việc đề cập đến những địa danh xưa hơn của các vùng đất có đền thờ thần Đồng Cổ. Qua ý kiến cho rằng: “Đan Nê” và “Khả Lao” không phải là tên Việt”, tôi hiểu tác giả Le Minh Khai muốn đề cập đến những địa danh Việt thuần túy dân giã – hơn là xác định một địa danh dân giã Việt được viết bằng chữ Hán. Bởi nếu chỉ thừa nhận là các địa danh thuần Việt thì mới thừa nhận là tên Việt trong các thư tịch cổ (viết bằng chữ Hán) thì sẽ là một yêu cầu không khả thi. Tôi không cho rằng “những người sử dụng trống đồng là nhóm khác với người Việt”, đồng thời không nên vội vàng kết luận Khả Lao xưa là vùng đất chỉ có cư dân Việt - hiểu theo nghĩa là người Kinh thuần túy, một khi chưa đưa ra được những bằng chứng xác đáng hơn. Bởi cũng có ý kiến cho rằng địa danh xuất phát từ tộc danh, trong trường hợp này là tộc danh Đản Nãi lưu thành tên sông Đản Nãi và địa danh Đan Nê (Tạ Đức 2013); ông Tạ Đức đã đưa ra quan điểm Đản Nãi là một tộc người xưa thuộc nhóm Đan Lai ngày nay, có gốc Lê Quảng Đông hay Hải Nam. Thời Bắc thuộc, khi các cuộc khởi nghĩa dành độc lập thất bại, bị đàn áp, các lực lượng khởi nghĩa thuộc đại tộc Lạc Việt từ Bắc bộ và đảo Hải Nam đã di tản tới vùng Thanh-Nghệ. Và ông Tạ Đức cũng dẫn chứng người tộc Đản vốn biết thổi khèn bầu, đánh trống đồng. Tài liệu trích dẫn 1. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán 1960, Đại Nam nhất thống chí 大南一統志. Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, (Bản tiếng Việt của Trần Tuấn Khải). 2. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán 1992, 2006, Đại Nam nhất thống chí 大南一統志. Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế), Viện Sử học. Bản tiếng Việt của Phạm Trọng Điềm (phiên dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính). 3. Đào Duy Anh 2005. Đất nước Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu Địa lý học lịch sử Việt Nam. Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội. 4. Hà Mạnh Khoa 2004. Quá trình phát triển sông đào ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ hai. Thành phố HCM 14-16 tháng 7 năm 2004. 5. Tạ Đức 2013. Nguồn gốc người Việt - người Mường. Nxb. Tri thức. Hà Nội.
  7. Gửi Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh - Keith Weller Taylor Là Ai? Nguyễn Đình Vân Tiên 23-Apr-2015 LTS: Ngày 24-3 vừa qua, Quỹ văn hoá Phan Châu Trinh (QVHPCT - một loại NGO *, tổ chức phi chính phủ) trao giải thưởng cho Keith Weller Taylor (và một vài người khác), và chủ trương dựng ngôi đền Tinh Hoa Văn Hoá Việt Nam (lúc đầu thờ 3 người, bắt đầu là Petrus Ký **). Hai hành động trên đây của QVHPCT (mà người chủ chốt là Nguyên Ngọc, trưởng ban vận động thành lập Văn đoàn Việt Nam Độc lập) bị các thiện tri thức phản đối. Tạp chí HỒN VIỆT trong số mới nhất (số 92, tháng 5-2015) đăng 3 bài phê phán 3 đối tượng: Nguyên Ngọc, Keith Weller Taylor, và Petrus Ký. Việc "tôn vinh" cùng một lúc Pestrus Ký và Keith Weller Taylor khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới một "liên minh" giữa hai thế lực đen tối, đang vận động biện minh cho chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, phân biệt để chia rẽ những nhóm người Việt, tô điểm lại để biện minh chế độ miền Nam,.... Đó là một nước cờ xâm lược văn hóa có tính toán rõ rệt, chứ không phải chỉ là một chuyện tình cờ. "Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà" (cụ Đồ Chiểu) Vân Tiên, tên nhân vật chính trong cuốn truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, người có tinh thần: "Giữa đường thấy chuyện bất bình, chẳng tha!" Đó cũng chính là tinh thần của bài viết dưới đây của Nguyễn Đình Vân Tiên, hậu duệ Cụ Đồ Chiểu. Để tìm hiểu quan điểm của Keith lật ngược sự thật về chiến tranh Việt Nam như thế nào, xin mời bạn đọc cùng xem và ủng hộ quan điểm chận đứng những hành động vinh danh những người thuộc thế lực đen tối. (SH) xem "Ngắn Gọn Về Thầy Thông Ngôn Trương Vĩnh Ký Ảnh của KWT, http://lrc.cornell.edu Tối 24/3/2015, tại khách sạn Caravelle ở TP. Hồ Chí Minh, Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh (QVHPCT) tổ chức trao giải thưởng năm 2015 cho một số người, trong đó có Keith Weller Taylor (KWT). Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, Nguyên Ngọc (NN) thay mặt QVHPCT ca tụng KWL hết lời: "Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam, cả ở nước ngoài"(1). NN nói tâng bốc thế thôi, chứ ở Việt Nam có bao lăm người biết KWT là ai. Hãy nghe ông ta tự bạch (2): Tháng 5 - 1968, KWT tốt nghiệp đại học. Lúc đó, do tác động của cuộc tổng tiến công của quân dân miền Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ không cho sinh viên tiếp tục hoãn dịch rộng rãi như trước. KWT phải vào lính, hoặc "bị bắt quân dịch và bị gửi đi bất cứ nơi nào để làm bất cứ một phận sự gì", hoặc "chọn cho mình một nhiệm vụ trong quân đội". KWT chọn hướng thứ hai : ông ta xin gia nhập ngành quân báo để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với hy vọng "may ra chiến tranh sẽ kết thúc trước khi năm học được hoàn tất". Hy vọng đó không thành sự thật, KWT bị gửi sang chiến trường Việt Nam năm 1970 với cấp bậc trung sĩ. KWT kể: "Tôi nhận thấy một vấn đề ở Việt Nam: quân đội Mỹ đang trong chiều hướng bị mất tinh thần. Sau khi công luận [ở Mỹ] quay lưng lại với cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến thâm nhập vào quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tất cả các vấn nạn thường thấy trong cuộc chiến như xì-ke, xung đột sắc tộc, bạo hành, giết hại nhau và bất phục tùng đều là bằng chứng đã ảnh hưởng đến tinh thần tác chiến của quân đội [Mỹ ở Việt Nam] và, ít ra theo hiểu biết của tôi, chúng có liên quan đến sự kiện: do hệ quả của sự lãnh đạo tồi, [nhân dân] nước Mỹ không còn ủng hộ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn đang được kỳ vọng phải tiếp tục chiến đấu. Các nhà lãnh đạo trong quân đội, cả quân nhân lẫn dân sự, nhận ra sự cần thiết phải "tái phối trí" quân đội ra khỏi Việt Nam [rút dần quân Mỹ về nước theo chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh] càng nhanh càng tốt để ngăn chặn tinh thần bất mãn lan rộng sang các chiến tuyến khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi đã được yêu cầu thử thời vận của mình như là "người tử trận cuối cùng ở Việt Nam" (…) Rõ ràng tôi đã bị ảnh hưởng bởi não trạng bất mãn này. Đối với tôi, dường như cuộc chiến đang bị thua (the war was being lost) và chúng tôi, chỉ đơn giản là một hậu vệ có thể bị hy sinh. Tôi không thích điều đó. Tôi trở nên nghi ngờ cấp trên của tôi, cảm nhận rằng sự thất trận (the debacle) mà chúng tôi đang tham gia ít nhất đã giúp cho sự nghiệp của họ cơ hội để thăng tiến, trong khi đối với những phần tử còn lại trong chúng tôi chỉ còn một băn khoăn giữa sự sống hay cái chết". May cho KWT, ông ta không chết ở Việt Nam mà chỉ bị thương, được giải ngũ và trở về Mỹ giữa năm 1971 với tâm trạng "choáng váng và mất phương hướng"(dazed and disoriented). Ông viết: "Tôi đã giận dữ vì đã phải hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự vô dụng của người già". Vì vậy, "trong hơn hai thập kỷ, tôi cưỡng lại tư tưởng của bản thân rằng mình là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi muốn được trở về với cuộc sống và không được mô tả bởi câu chuyện đau buồn đó. Tôi không thích Đài tưởng niệm ở Washington, D.C với tên của tất cả những người tử vong được khắc trên một bức tường đá. Đó là đài tưởng niệm cho người chết, nhưng tôi là một người sống sót và bức tường này không có liên hệ gì với tôi". Để "trở về với cuộc sống", tháng 1 - 1972, KWT đã ghi danh làm nghiên cứu sinh tại Đại học Michigan. Vì đã được học tiếng Việt trước đó, KWT chọn lịch sử Việt Nam cổ đại (từ khi lập quốc đến giữa thế kỷ X) làm đề tài luận án, xem đó là "một lối thoát an lành cho kinh nghiệm rối ren của cá nhân tôi đối với cuộc chiến Việt Nam". Luận án được bảo vệ năm 1976, được sửa sang lại thành sách, xuất bản năm 1983 dưới nhan đề "The Birth of Vietnam" (Sự ra đời của Việt Nam). KWT tránh chọn đề tài liên quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại vì không muốn đụng tới cuộc chiến tranh mà ông ta đã tham dự ở Việt Nam. Lâu nay, hầu hết người Mỹ tự hào đất nước họ là siêu cường số 1 thế giới, đánh đâu thắng đó, nên họ không thể nuốt trôi thất bại thảm hại trước quân và dân một nước nhỏ bé chưa phát triển như Việt Nam. Bên cạnh nỗi buồn chiến bại đó là mặc cảm tội lỗi vì nước Mỹ đã ném bom, rải hóa chất độc, thảm sát, tra tấn, … gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam của nhiều đời tổng thống Mỹ suốt 30 năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945 - 1975). Sau một thời gian im lặng, Robert McNamara, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là "kiến trúc sư của chiến tranh Việt Nam" đã lên tiếng thừa nhận: "Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp" (We were wrong, terribly wrong) (3). Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, nhưng vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên lương tâm người Mỹ. Tâm trạng đó được gọi là "hội chứng Việt Nam" (Vietnam Syndrome). Từng tham chiến ở Việt Nam, KWT bị "hội chứng" ấy dày vò. Ông ta tâm sự: "Rất nhiều năm, kinh nghiệm chiến trường của tôi giống như một cục bướu lớn không tiêu hóa nổi vẫn nằm sâu trong tâm thức". Nếu thỉnh thoảng bị yêu cầu nói về chiến tranh Việt Nam, ông ta thừa nhận: "Tôi luôn ngán ngẩm khi phải làm điều đó, bởi vì nói chuyện trước công chúng về cuộc chiến thường mang lại cho tôi cảm giác buồn nôn". Một số người Mỹ hiếu chiến không muốn nước Mỹ đắm chìm lâu dài trong "hội chứng Việt Nam », sợ nó ảnh hưởng đến vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Ronald Reagan lên tiếng kêu gọi: "Chúng ta đã sống với "hội chứng Việt Nam" trong thời gian quá lâu… Năm tháng trôi qua, người ta nói với chúng ta rằng hòa bình sẽ đến nếu chúng ta ngưng can thiệp [vào các nước khác] và trở về nước [Mỹ]. Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng sự nghiệp của chúng ta [ở Việt Nam] là cao quý… Chúng ta sẽ làm ô danh việc tưởng nhớ 50.000 thanh niên Mỹ đã chết trong sự nghiệp ấy nếu chúng ta cứ cảm thấy phạm tội như thể chúng ta làm một điều gì đó xấu hổ và chúng ta bủn xỉn trong việc đối xử với người [lính từ Việt Nam] trở về"(4). Sau lời hô hào của R. Reagan, khuynh hướng "xét lại chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Revisionism) xuất hiện trong giới nghiên cứu lịch sử ở Mỹ nhằm biện hộ cho sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. KWT đã tìm đến khuynh hướng này để mong "vứt bỏ cảm giác tội lỗi sai lầm về cuộc chiến tranh mà [ông ta] đã cưu mang khoảng một phần tư thế kỷ". Năm 1998, ông ta viết bài "Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX" (Regional Conflicts among the Viêt Peoples between the 13th and 19th Centuries)(5). Ngày 26/6/2003, trả lời phỏng vấn của đài BBC nước Anh, ông ta muốn đưa ra "một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam"(6). Mùa thu năm sau, trên tạp chí Michigan Quarterly Review, KWT giải thích "đã bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào". Cách nay hai năm, KWT cho xuất bản cuốn Một lịch sử của người Việt Nam (A History of the Vietnamese) (7). Trong cuốn sách này cũng như các bài viết vừa kể, KWT tự phủ nhận những gì bản thân ông đã viết trong cuốn sách đầu tiên The Birth of Vietnam. <=> Không khó để chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng trong kiến thức và nhận thức của KWT. Một số nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài đã có bài phê bình. Chẳng hạn giáo sư Norman G. Owen đã đưa ra một số nhận xét về cuốn A History of the Vietnamese như sau: “Về việc Mỹ dính líu [ở Việt Nam], Taylor để lộ ra sự mâu thuẫn lớn trong suy nghĩ, và chương trọng yếu cuối cùng (“Từ hai nước trở thành một nước” từ trang 561 đến trang 619) có lẽ là chương gây tranh cãi nhiều nhất. Ông ta xuất hiện như người cuối cùng (…) bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa chống lại cả những người Cộng sản (…) lẫn những người Mỹ (…). Ông ta không biết hay tránh né việc những người tả khuynh phê phán Mỹ phá hoại Hội nghị Genève năm 1954, khiêu khích hay ngụy tạo các sự kiện ở vịnh Bắc Bộ năm 1964 (để có cớ mở rộng chiến tranh [ra miền Bắc]), phá hoại cuộc đàm phán ở Paris năm 1968, “bí mật” ném bom Căm-pu-chia năm 1969 và tiến hành vụ ném bom Hà Nội vào dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1972 mà không có lý do rõ ràng. Thay vào đó, ông ta lại phẫn nộ với Averell Harriman và nhóm của ông này tại Bộ Ngoại giao [Mỹ] đã xúi giục việc lật đổ Ngô Đình Diệm [mà Taylor gọi là] “thành tích gây tai họa nhất của Kennedy ở Việt Nam” (tr. 589) và với những người có trách nhiệm trong việc rút lại sự ủng hộ của Mỹ [cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu] năm 1975 để cho [Việt Nam] Cộng hòa phải “tử thương bởi một đồng minh lật lọng” (tr. 626) (…). Ông ta xem những cuộc đột nhập [của quân Mỹ và quân Thiệu] vào Căm-pu-chia và Lào là tích cực trong việc tạo ra thời gian để Việt Nam hóa chiến tranh và như vậy giúp chế độ Sài Gòn “thành công trong việc ổn định miền Nam Việt Nam” (tr. 606 – 607) ít ra là cho tới khi Mỹ bán đứng chế độ Sài Gòn bằng Hiệp định hòa bình Paris năm 1973, “vứt bỏ chủ quyền của Đệ nhị Cộng hòa” (tr. 612 – 613)”. Vẫn theo giáo sư N. G. Owen, trong cuốn sách trên, Taylor cũng “đánh giá lại một vài lãnh tụ bị nhiều tiếng xấu ở miền Nam. Mặc dù thừa nhận họ có nhiều thiếu sót sai lầm, ông ta miêu tả Ngô Đình Nhu là người có nhiều ý định dân chủ (tr. 581; Taylor khẳng định Nhu bị ghét vì ông duy trì an ninh có hiệu quả và chống lại sự giám hộ của Mỹ, tr. 577), Nguyễn Cao Kỳ tỏ ra “không có tỳ vết tham nhũng nào” (tr. 593) và Nguyễn Văn Thiệu – được [Taylor] ca tụng một cách yếu ớt hơn - được biết là không “tham nhũng thái quá hay lạm quyền quá đáng” (tr. 607) v.v và v.v…(8) Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định kể ra tất cả những sai lầm trong cuốn sách và các bài viết của KWT, mà chỉ muốn tìm hiểu cái mà ông ta gọi là “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam” gồm hai điểm sau đây: 1. Việt Nam không phải là một dân tộc thống nhất sống trên một lãnh thổ thống nhất Đất nước Việt Nam trải dài trên 15 vĩ độ, từ đỉnh Lũng Cú (23°22’59 Bắc đến mũi Cà Mau (8°30’ Bắc). Mặt khác, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng dần về phía Nam. Do đó, việc hình thành những vùng miền là điều tự nhiên. Nhưng dù ở đâu và được ghi vào bản đồ Việt Nam lúc nào, các vùng miền đó đều là những bộ phận hợp thành của một Tổ quốc Việt Nam duy nhất và thống nhất. Cường điệu một số điểm dị biệt giữa các vùng miền, KWT chia nước Việt Nam thành ít nhất 5 vùng miền: Đông Kinh (tức vùng đồng bằng sông Hồng, lấy Hà Nội làm trung tâm), Thanh Nghệ Tĩnh (gồm ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh), Thuận Quảng (gồm bốn tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Bình Định và Nam Bộ. Điều đáng nói là KWT buộc các vùng miền này phải thường xuyên mâu thuẫn, đối kháng với nhau, thường xuyên xung đột với nhau: “Trong những năm mà tôi đề cập, không có giai đoạn nào mà những người nói tiếng Việt không đánh lẫn nhau hoặc giao chiến với các nước láng giềng”. Ứng dụng thuyết “xung đột vùng miền”, KWT xem cuộc tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong thế kỷ XVI như cuộc xung đột giữa Đông Kinh với Thanh Nghệ: “Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ XVI và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này”. KWT nhận định: “Cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam… Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh”. Tương tự như vậy, KWT giải thích sự phân tranh giữa họ Trịnh và họ Nguyễn là cuộc xung đột giữa Đông Kinh và Thuận Quảng , cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là “sự phản ứng của vùng Bình Định trước những yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này”. Vùng Bình Định “sản sinh ra một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông”. Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, “Nguyễn Ánh cuối cùng đã xây dựng nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ đây đã đi chinh phục toàn bộ các vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ XIX mà trước đó chưa bao giờ tồn tại”. Không chỉ người đọc Việt Nam cảm thấy chối tai trước những từ “xung đột”, “chính phục” cứ bị lặp đi lặp lại … mà người đọc nước ngoài cũng thấy không chịu được. Chẳng hạn giáo sư N. G. Owen (đã nói ở trên) nhận xét: trong cuốn A History of the Vietnamese, “các tiêu đề lớn nhỏ - về “Chiến tranh 70 năm”, “Chiến tranh 50 năm”, “Chiến tranh 30 năm” – gợi lên ý nghĩ về các cuộc xung đột nồi da nấu thịt đẫm máu và liên miên, nhưng không nói đến nhiều cuộc chiến tranh với nước ngoài và vô số những cuộc nổi dậy. Kết quả là một bức tranh chắp vá về mặt chính trị và văn hóa”(9). Thuyết “xung đột vùng miền” của KWT xây dựng trên những kiến thức và quan điểm sai lầm, nên không khó để bác bỏ. Thật ra, những cuộc nội chiến nói trên xảy ra giữa hai thế lực chính trị - quân sự có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, chiến tranh Nam triều – Bắc triều nổ ra giữa nhà Mạc (lật đổ nhà Lê) và nhà Lê trung hưng (tìm cách lập lại ngai vàng của dòng họ mình); Trịnh – Nguyễn phân tranh xảy ra giữa con cháu của Nguyễn Kim (người đầu tiên khởi xướng việc trung hưng nhà Lê) và con cháu của Trịnh Kiểm (người bị xem là đã giết con trai của Nguyễn Kim) v.v… Những thế lực này hoàn toàn không đại diện cho quyền lợi của một vùng miền nào và chưa hẳn đã nhận được sự ủng hộ của người dân trong vùng miền đó. Thái độ chính trị của một người không phụ thuộc vào việc người đó ở một vùng miền nào. Không hiếm những người thay đổi thái độ chính trị như cha con Nguyễn Thiến. Thiến làm thượng thư nhà Mạc, hai con là Quyện và Miễn làm tướng của nhà Mạc, nhiều lần cầm quân đánh nhau với nhà Lê. Do mâu thuẫn trong nội bộ nhà Mạc, ba cha con dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê (1550). Năm sau, Quyện theo quân nhà Lê ra đánh nhà Mạc. Năm 1557, sau khi cha qua đời, Quyện và Miễn bỏ nhà Lê, trở về với nhà Mạc, lập nhiều chiến công. Năm 1592, Quyện và Miễn bị nhà Lê bắt, sau bị giết. Thử hỏi KWT xếp ba cha con của Thiến vào vùng miền nào? Thuyết “xung đột vùng miền” trở nên nguy hiểm khi KWT biến những cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài thành nội chiến, phủ nhận các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Chẳng hạn, nhà Minh xâm lược Việt Nam đầu thế kỷ XV. KWT quả quyết: “Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu ở Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này (…) đã trung thành phục vụ quân Minh (…). Hiệu lực sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương”. Theo KWT, “người Đông Kinh nhìn Lê Lợi như một kẻ nổi loạn nhà quê”. “Không khó để đọc cái gọi là phong trào giải phóng dân tộc của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ [Đông Kinh] chống sự quê kệch của các tỉnh phía Nam”. Tương tự như thế, vào giữa thế kỷ XIX, “khi vấn đề bảo hộ của Pháp xuất hiện, giới tinh hoa Thuận Quảng ủng hộ việc hòa hoãn và hợp tác [với thực dân Pháp] để cứu chế độ quân chủ, trong khi các lãnh đạo Thanh Nghệ ủng hộ cuộc kháng chiến [chống Pháp]… Chính sự chủ động của người Thanh Nghệ đã dẫn đến việc đưa hoàng gia thoát khỏi Huế và kêu gọi “Cần vương” năm 1885… trong lúc các lãnh đạo Thuận Quảng nhanh chóng hòa hoãn với Pháp chống lại các đối thủ Thanh Nghệ của họ”. Trong khi cường điệu sự xung đột vùng miền (không có thật) giữa Đông Kinh - Thanh Nghệ hay giữa Thanh Nghệ - Thuận Quảng, KWT cố tình che giấu tội ác xâm lược của nhà Minh hay của thực dân Pháp. Thuyết “xung đột vùng miền” không dừng lại ở đó. Trong bài điểm sách A History of the Vietnamese, Liam C. Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) viết: “Qua cuốn sách dài hơi này, Taylor nhiều lần lôi kéo sự chú ý của người đọc vào những kích thước vùng miền của lịch sử Việt Nam. Đó là những căng thẳng giữa Thanh Hoá và Thăng Long trong những thế kỷ trước hay giữa Sài Gòn và Hà Nội trong thời gian gần đây hơn, chủ nghĩa địa phương đã là một nét đặc trưng lâu dài trong trải nghiệm lịch sử của những người nói tiếng Việt…”(10). Lời bình luận của L. C. Kelley để lộ thâm ý của KWT: ông ta muốn dẫn dắt người đọc đi đến kết luận: chiến tranh trong hai thập kỷ qua tại Việt Nam chỉ là “xung đột vùng miền” giữa miền Bắc và miền Nam; miền Bắc kháng chiến chống Mỹ, còn miền Nam là đồng minh của Mỹ; chứ không phải là chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam! 2. Việt Nam không có lịch sử và văn hóa thống nhất, phát triển liên tục Theo KWT, “những người quyết tâm cai trị toàn bộ các dân tộc Việt sẽ nhấn mạnh về một lịch sử và văn hóa Việt Nam đơn nhất, với một cội nguồn duy nhất và một xung lực duy nhất xuyên suốt thời gian và không gian. Nhưng những giấc mơ về tính độc nhất này là sự thể hiện niềm tin chính trị, chứ không phải là điều nghiễm nhiên”. Ngược lại, KWT chủ trương “chia lịch sử và văn hóa Việt Nam thành từng khu vực” và cho rằng “lịch sử của mỗi vùng cũng đứt đoạn”, cũng “mang tính chất giai đoạn, chứ không tiến triển liên tục”. KWT không thừa nhận có một dân tộc Việt Nam thống nhất và tồn tại liên tục hằng ngàn năm nay. Do đó, KWT dùng khái niệm “những người nói tiếng Việt” (people who speak Vietnamese) cùng sống trên mảnh đất hình chữ S. Những người nói tiếng Việt không nhất thiết hợp thành một dân tộc Việt duy nhất, cũng như những người nói tiếng Anh ở Mỹ, Anh, Canada, Australia, New Zealand… thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khái niệm “những người nói tiếng Việt” gợi cho chúng ta nhớ lại mồ ma Thierry d’Argenlieu. Trong thông tư số 215/CP.Cab ngày 15/1/1947, viên cao ủy Pháp tại Đông Dương này cấm dùng từ “Việt Nam” trong các tài liệu chính thức, trên báo chí cũng như khi trò chuyện; thay vào đó, ông ta bắt dùng cụm từ “ba xứ nói tiếng An-nam” (trois pays de langue annamite – ba xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ)(11). KWT không thể chối bỏ một thực tế hiển nhiên là người Việt từ đỉnh Lũng Cú đến mũi Cà Mau “đều nói một ngôn ngữ mà tất cả đều hiểu”, nhưng vẫn gượng gạo đưa ra nhận xét: “Cái “ngôn ngữ chung” đó là một lớp âm thanh, từ vựng và cú pháp tương đối hời hợt [?!] mà ẩn bên dưới đó là những lớp sâu sắc hơn của những mô hình ngôn ngữ vùng”, “bên dưới lớp âm thanh, ngữ âm, lời nói chung, hay bất kỳ cách tưởng tưởng nào của chúng ta về hiện tượng ngôn ngữ con người, là những con người khác biệt mà cái nhìn của họ về bản thân và người khác dựa vào địa hình vùng họ sống và dựa vào những trao đổi văn hóa có được tại vùng đó”. Không chĩ khác biệt trong không gian, người Việt còn khác biệt trong thờii gian : “Người Việt thế kỷ 13, 15, 17 không giống người Việt thế kỷ 20” ! Như thế, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ! Vì Việt Nam, theo KWT, không phải là một dân tộc thống nhất và phát triển liên tục nên ông ta phủ nhận việc Việt Nam có một lịch sử chung: “Ý tưởng về một “lịch sử chung” là một điều được tưởng tượng và tranh luận, chứ không phải là một vấn đề hiển nhiên; nó không phải là một di sản rõ rệt, mà đúng hơn, nó được nghĩ ra, dạy dỗ và học từ thế hệ này sang thế hệ khác: nó là vấn đề truyền thụ. Một “lịch sử chung của người Việt” là chuyện ý thức hệ và chính trị, không phải là học thuật (…). Việc xây dựng một “lịch sử chung” nằm trong địa hạt thần thoại”. KWT cũng phủ nhận việc Việt Nam có một bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đây, các nhà viết sử thường nhận định “người Việt Nam trở thành một loại người riêng biệt là nhờ một phản ứng chung hay thống nhất trước mối đe dọa can thiệp của nước ngoài”. KWT bác bỏ điều đó, cho đó “đơn giản là sự kiêu ngạo của cách viết sử [theo khuynh hướng] dân tộc chủ nghĩa đã biến “tinh thần chống ngoại xâm” thành tố chất vĩnh cửu trong “bản sắc Việt Nam”. Song song với việc phủ nhận truyền thống “đánh giặc, giữ nước” của dân tộc Việt Nam, KWT công khai bảo vệ chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã tiến hành nhiều nơi trên thế giới (trong đó có Việt Nam). Trong khi “đối với một số học giả đồng nghiệp, lên án Hoa Kỳ là một đế quốc, bạo quyền phát-xít rất hợp thời trang”, thì KWT “không còn cảm thấy bị đe dọa bởi những khẳng định vô căn cứ như vậy”. KWT “chấp nhận tiền đề rằng Hoa Kỳ có một vai trò chính đáng, thậm chí không thể tránh được, trong thế giới ngày nay”, “tin rằng quyền lực toàn cầu trong tay của Hòa Kỳ nên được coi như là một trách nhiệm, chứ không phải là một điều mà chúng ta cần phải xin lỗi”. Áp dụng tiền đề đó vào trường hợp Việt Nam, KWT tuyên bố: “Tôi không thể chấp nhận định lý rằng Hoa Kỳ không có lý do chính đáng để được can thiệp vào Việt Nam”. Theo KWT, “yếu tố dẫn đến thất bại của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam [tức chế độ Diệm – Thiệu] không phải là thiếu ý chí và quyết tâm, mà là một loạt các quyết định sai lầm trong chính quyền Kennedy và Johnson đã kéo dài cuộc chiến đưa đến bế tắc, làm cạn kiệt sự kiên nhẫn của người dân Mỹ”. Tóm lại, “bi kịch của Việt Nam không phải là nước Mỹ đã can thiệp [vào Việt Nam] khi họ không nên can thiệp, mà đúng hơn là sự can thiệp đã quá vụng về”. KWT thường bác bỏ quan điểm sử học của Việt Nam (trước kia cũng như hiện nay), cho đó là sử học dân tộc chủ nghĩa, sử học chính trị hóa. Thực ra, KWT dưới lớp áo “sử gia”, đã sử dụng sử học để phục vụ những quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, biện minh cho chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Thế nhưng, trong diễn văn ngày 24/3/2015 nói trên, Nguyên Ngọc thay mặt cho Quỹ văn hóa PCT, ca ngợi KWT là “một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu nó tận cùng như hiểu chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống thật đàng hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay” và “cảm ơn KWT vì tình yêu chân chính và nỗ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam”(12). Nguyên Ngọc có biết ai là những người đã gây ra khổ đau cho đất nước này không? Thật là mỉa mai khi Nguyên Ngọc tâng bốc KWT là “người thật sự yêu đất nước này”. Phải chăng KWT yêu theo kiểu Nguyên Ngọc đang yêu? Cụ Phan Châu Trinh là chí sĩ hy sinh trọn đời mình cho dân cho nước. Không ai có thể lợi dụng tên tuổi cụ để làm chuyện phản quốc ! Nguyễn Đình Vân Tiên
  8. Chỉ cần một ý niệm khởi lên trong đầu là cả đất trời đều biết, huống hồ giấy má để lại nặng như một cục gạch vậy! Nên tham khảo bản gốc. Phép Giảng Tám Ngày - Hạt Giống Chia Rẽ Lương Giáo Alexandre De Rhodes http://sachhiem.net/TONGIAO/ADRhodes/8Ngay.php 30-Jun-2015 Tác giả Alexandre De Rhodes, đã mất hơn 100 năm trước, nên tác phẩm này thuộc lãnh vực công cộng, mọi người có quyền được biết. Nhưng chúng ta cần phải cám ơn những người đã có công chụp lại từng trang bản gốc một cách chuyên nghiệp để chúng ta có thể đọc được mà không cần phải bay đến nơi lưu giữ quyển sách "rất hiếm" này. Chúng tôi xin mạn phép đi tắt vào Ngày Thứ Bốn, nơi có bằng chứng rõ rệt xứng đáng với tựa bài ở trên: hạt giống chia rẽ lương giáo. Nơi đó tập trung nhiều ngôn ngữ ngạo mạn, trịch thượng, bất kính đối với các giáo chủ đạo khác, tóm lại là vô văn hóa. Có 9 lần nói đên "Thíc ca", 3 lần dùng chữ "rợ mọi" đối với đạo Bụt, 20 lần nói đến "đạo bụt" với tính cách miệt thị, dạy con chiên gọi những người thờ bụt là "giáo ngoài" (sau này các con chiên gọi người khác đạo là "ngoại giáo").
  9. -Bắt đầu viết chuyện "Tây Du Ký", mở đầu với núi "Ngũ Hành Sơn" ở Đà nẵng và kết thúc chuyện ở chùa "Tây Phương" tại Quảng Ninh. Nên kiểm tra lại, còn có chùa Lôi Âm.
  10. Từ Tam Hoàng Ngũ Đế ở trên khác với một số sách sử Trung Hoa ghi chép về Tam Hoàng, thông thường là Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế... và Ngũ Đế tổ hợp các Đế trong đó có cả Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Đế Vũ. Chúng ta cần biết cấu trúc gốc Tam Hoàng là sau Ngũ Đế tức hậu duệ của Ngũ Đế. Vậy, thì trong Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa: Đế Nghi - Đế Lai - Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí ở trên thì ai là Hoàng Đế? Hoàng Đế ở đây chính là Đế Lai, tượng trưng cho hành thổ trung ương còn Đế Nghi tượng trưng cho hành hỏa, phương nam. Còn Hoàng Đế trong cấu trúc Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế là cấu trúc của mảnh đất tổ tông, đất gốc Văn Lang, tức bộ Phong Châu (bộ Gió) với đô thành Bạch Long tức Hà Nội này nay. Tranh vẽ miêu tả Hoàng Đế Liên quan đến Hoàng Đế, có các câu truyện và sử sách: - Lấy tên Hoàng đặt cho tên sông gần kinh đô Trung Hoa tức Đại Hòa cổ đại. Vấn đề này là chính xác, vì sông Dương Tử là tượng trưng cho Lạc Long Quân, sông Ngân Hà trên bầu trời tượng trưng cho Kinh Dương Vương và con sông Đà tượng trưng cho Đế Minh (cần xác định lại!). Kiểu động vật hai đầu sau này thấy ở quai treo chuông phổ biến thời Chu... nay. - Biểu tượng của Hoàng Đế là "Hoàng" tức con rắn hai đầu tượng trưng cho cầu vồng và đoạn uốn khúc sông Hoàng Hà, bích ngọc thời Hạ, Thương, Chu. "Hoàng" bằng ngọc bích (1/3 hình tròn) Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải - Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai, thời kỳ này đã chia đôi nước từ Đế Minh và do vậy phải xây kinh đô Trung Hoa mới, nam Hoàng Hà và có lẽ chính là kinh đô thời nhà Hạ đã từng được khám phá. - Thời gian trị vì của Hoàng Đế được xem là khởi đầu Trung Hoa: 2697 TCN - 2598 TDL, đã là quá muộn so với thời gian Đế Lai trị vì, không ăn khớp lịch sử về mặt thời gian. - Đế Lai có qua Văn Lang thăm con gái Âu Cơ, tu tập và sau đó trở về lại Trung Hoa. - Vùng đất tổ Văn Lang không có mộ Đế Lai, chỉ có mộ Đế Nghi. Như vậy, từ Đế Lai cho tới sau này đều chôn ở Trung Hoa. Lăng mộ tổ Hoàng Đế mà nhân dân Trung Hoa thường tế hàng năm đó chính là của Đế Lai. Ngoài ra còn có mộ của Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Nghiêu,Thuấn, Vũ. Đế Nghi là cha Đế Lai, Đế Lai là cha Đế Chuyên Húc (anh hoặc em trai của mẫu Âu Cơ: cần phải xác định chính xác!), Đế Chuyên Húc là cha Đế Cốc, Đế Cốc là cha Đế Chí, từ đó truyên ngôi kéo dài khoảng 530 năm tới Đế Nghiêu. - Truyền thuyết Hoàng Đế chiến Si Vưu tại trận Trác Lộc: nguyên do không gì khác hơn do sự tập quyền bởi sự kiện dựng thêm trung tâm kinh đô mới. Truyền thuyết trong trận chiến Hoàng Đế được sự giúp sức của Cửu Thiên Huyền Nữ - chính thất của Đế Minh với bộ sách Độn Giáp, như vậy đã được sự giúp sức của Xích Quỷ thời Kinh Dương Vương. - Hoàng Đế nội kinh tố vấn và các cuốn Đông y khác liên quan đến kinh mạch, huyệt vị. - Hoàng Đế trong bộ Tam Hoàng Ngũ Đế đất gốc Văn Lang. - Truyện Bá Nha Tử Kỳ đọc ngược lại là Kỳ Bá - Tử Nha (Khương): trong gia phả Việt thì Khương Tử Nha cũng mật hiệu của Đế Minh, khác với Khương Tử Nha thời Tây Chu (mật ngữ Đông y). Tiên tri 5.000 năm của Khương Tử Nha là thời Tây Chu. Sau này, thời hiện đại, Khương Tử Nha thời Tây Chu được Thiên phong từ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát là "Tổ thứ ba trong Cuộc Chuyển Thế thời mạt pháp của Thần đạo" trong cấu trúc thờ tự Cao Đài Đại Đạo. - Hoàng Đế còn có tên Hiên Viên, họ Hữu Hùng. Hùng cũng là têu hiệu các đời vua nước Sở, khả năng nước Sở trợ lực cho kinh đô mới Trung Hoa. Phả chép Đế Nghi (hay cha của Đế Minh, Đế Nghi) là ông tổ của nước Sở, bắc Dương Tử. Nay còn vùng Sở ở ngoại thành Hà Nội, vùng Hà Tây. Tỉnh Hồ Bắc thuộc châu Kinh và châu Dương trong Thượng Thư, cũng chính là từ cái tên "Kinh Dương Vương". - Trên bản đồ thiên văn cổ Đông phương có chòm sao Hiên Viên, không phải trong những chòm sao chủ chốt bầu trời tương ứng với 36 Thiên Cương. Tranh khắc đá hình tượng Si Vưu thời Hán Hoàng Đế trong kinh sách Đông y là Đế Minh, nếu đọc lại kinh A Di Đà có nói đến lục thông tức 6 phép thần thông của con người, chính nhờ các phép thần thông và am tường học thuyết Âm Dương Ngũ Hành mới "thấy" được hệ kinh mạch và huyệt vị trong cơ thể con người, để từ đó xây dựng nên bản đồ huyệt vị và kinh mạch trong Đông y (tất nhiên cũng nhờ các bậc thầy vô hình theo thời gian nữa). Máy móc hiện đại ngày nay cũng không rõ, chưa kể các nhà ngoại cảm có công năng mắt thần cũng không nhận thức được chúng. Như vậy, có hai Hoàng Đế: một là Đế Minh trong Tam Hoàng Ngũ Đế gốc ứng với kinh sách Đông y, và một trong Tam Hoàng Ngũ Đế Trung Hoa tức Đế Lai ứng truyền thuyết Trung Hoa như trận chiếc Trác Lộc... Lăng mộ Hoàng Đế nằm trên núi Qiao là lăng mộ nổi tiếng nhất của Trung Quốc.
  11. Lịch sử Trung Hoa và Việt Nam (gồm cả Hàn, Nhật, Đông Nam Á...) không thể không nhắc đến cuốn Kinh Thư (Thượng Thư) ghi chép sử thượng cổ từ Nghiêu, Thuấn, Vũ và Hạ, Thương, Tây Chu. Sự kiên kết dữ kiện trong Kinh Thư và cổ vật khai quật được tại Trung Hoa - Bắc Dương Tử và Văn Lang - Nam Dương Tử đều có quan hệ chặt chẽ. Những dòng đầu Kinh thư viết "Việt nhược kê cổ" tức "Người Việt kể lại tích xưa", và đây có lẽ chính là ý nghĩa mà triết gia Kim Định cho rằng chữ nòng nọc là chữ Tây Chu ở trên. Tại Trung Hoa, tiên sinh Hồ Thích không hiểu vì lý do gì cho rằng Kinh Thư là ngụy thư nên bỏ khỏi sử Trung Hoa, nếu như vậy thì cổ vật thời Hạ, Thương, Chu được giải thích như thế nào? Ông cũng thực sự không hiểu ý nghĩa của Hà đồ và Lạc thư mà từ đó cho rằng nó quái dị, cần bỏ đi. Cả hai ý kiến này của tiên sinh Hồ Thích đã cắt phăng lịch sử Trung Hoa và toàn bộ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành ra làm đôi mà không hiểu vì lý do gì hơn nữa (Trung Quốc triết học sử đại cương, Hồ Thích). Trong các cuốn triết học của triết gia Kim Định cũng đã có những phân tích về Hà đồ và Lạc thư cùng các vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nhưng bản chất của chúng thực sự là không rõ ràng nhưng xuất hiện nhiều ý nghĩa quan trọng, chẳng hạn Thái Hòa - chữ này thường đặt tên trong kinh đô Đông phương là điện Thái Hòa... Tranh Phục Sinh thụ kinh đồ của Vương Duy Giữa Kinh Thư và Gia phả Hùng Vương có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ về mặt thời gian của các triều đại Trung Hoa và Văn Lang, bởi cả hai hình thành từ một nhà nước do Đế Minh quản lý và sau đó phân chia cho Đế Nghi và Lộc Tục cai quản, bởi vậy Kinh Thư mới viết: "Người Việt kể lại tích xưa". Trong Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam của Bình Nguyên Lộc, có ghi chép sự kiện tận cùng bắc Trung Hoa người người đều nói tiếng Việt. Tam Hoàng Ngũ Đế bao gồm có hai phân lớp: một cho đất gốc tức Văn Lang, trung tâm của quốc gia thời Đế Minh và hai - cho kinh đô Trung Hoa thời Đế Nghi, vì vậy lịch sử nếu không rõ sẽ hoàn toàn lẫn lộn. Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa bao gồm: - Ngũ Đế: Đế Nghi - Đế Lai - Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí (từ Đế Chí truyền ngôi, kéo dài triều đại khoảng 530 năm sau và vẫn giữ lại tên nước thời Đế Nghi hay Đế Minh: Đại Hòa). - Tam Hoàng: Nghiêu - Thuấn - Vũ. Nghiêu là đời cuối cùng trong chi Đế Chí và sau đó truyền cho Thuấn. Thời kỳ này, Văn Lang thời cuối chi Hùng Vương III có giao hảo với triều vua Nghiêu bằng cống rùa thần trên lưng có chữ Khoa đẩu, ghi chép từ khi trời đất mở mang... Thuấn truyền cho Vũ, không phải con cháu mà cho người tài giỏi, vấn đề này rất vô cùng sâu sắc về mặt học thuyết Âm Dương Ngũ Hành vì ngài đã nhận ra trường khí vũ trụ đang thay đổi lớn dịch chuyển về Nam Dương Tử. Sau này, chúng ta lại thấy Hùng Duệ Vương truyền ngôi cho An Dương Vương, rồi An Dương Vương truyền ngôi cho Triệu Vũ Đế - người nước Triệu thuộc Bắc Dương Tử. Đế Nghi (em trai sinh đôi với Đế Minh), Đế Lai (cha của mẫu Âu Cơ) là giao điểm kết nối lịch sử giữa Văn Lang và Trung Hoa, tối quan trọng. Thời kỳ này, Đế Lai có qua Văn Lang thăm con gái Âu Cơ, tu luyện đạo pháp tại đây rồi về lại Trung Hoa. Kinh Thư chép lại bản đồ thời Tây Chu, lúc này phần đất Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang đã thuộc Chu (phần bắc Ngũ Lĩnh). Đây là vấn đề đã viết ở trên, trận chiến Thương - Văn Lang thời Thiên Ất, khoảng năm 1600 năm trước Dương lịch (trận chiến lần thứ hai nhằm mở rộng lãnh thổ của nhà Ân thời Vũ Đinh sau thời Thiên Ất khoảng 400 năm về phía Quý Châu nhưng thất bại tương đương đời Hùng Vương IX - Hùng Định vương 1331 - 1252 Trước Dương lịch). Thời Hạ, Thương, Chu trong Kinh Thư thì thiên văn, lịch pháp đã chuẩn mực rồi. riêng Hạ Vũ, người thuộc vùng Chiết Giang tức thuộc Văn Lang, nay đất tổ thờ cúng ở vùng Cối Kê, Chiết Giang. Tại Hồ Nam còn có một bản chữ cổ, chưa ai đọc được, tương truyền là của Hạ Vũ (sau này, cuốn 100 nhân vật làm thay đổi lịch sử Trung Hoa đã xuyên tạc gốc tổ của vua Hạ Vũ là ở Thiểm Tây). Sự kiện Hạ Vũ trị thủy chính là nhờ các bậc thầy của Văn Lang giúp cách thức, phương pháp, sau Hạ Vũ lấy vợ Việt, vùng Đồ Sơn, Hải Phòng, tất nhiên là khuê nữ hoặc công chúa dòng hoàng tộc, trong cuốn Bát Tiên đắc đạo khuyết danh vào thời Lý, Việt Nam có ghi rõ vấn đề này. Tây du ký cũng có nói. Trị thủy nhập điền ở đây, còn có một ý nghĩa khác đó là "trị nước" tức Hạ Vũ được Cửu Trù Hồng Phạm tại Văn Lang hay 9 phạm trù lớn trong việc trị nước đã có từ thời Hùng Vương IV - Sơn Tinh thắng Thủy Tinh để cưới công chúa Mỵ Nương qua biểu tượng: "voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao". Sách Lĩnh Nam Dật sử chép thời Trần chép: "Lối chữ cổ của vua Đại Vũ viết trên tấm bia chôn ở núi Cú Lũ (tên cổ là hang rùa) là bảng chữ Việt”. Kinh Thư cũng chép về phương vị các vùng, bản đồ Trung Hoa thuộc Bắc Dương Tử đặt phương bắc ở trên; còn Văn Lang thuộc Nam Dương Tử nên đặt Nam ở trên, rất độc đáo. Do vậy, Nam Man của Trung Hoa định hình vùng nước Sở... đây là đặc trưng riêng cho bản đồ Trung Hoa thời thượng cổ. Dạng quy ước này giống như cách cài áo trái phải cho hai bên, như đã viết. Dưới đây là minh chứng bản đồ định vị các Đại Thánh tích ở Việt Nam: Tam Đảo - Sóc Sơn ứng Thánh Gióng thuộc Tây và Tản Viên ứng Tản Viên Sơn Thánh thuộc Đông, Việt Trì - Phú Thọ - Đền Hùng thuộc Nam và Thăng Long thuộc Bắc. Đây chính là mật ngữ bản đồ địa hình Văn Lang với phương Nam ở trên giống như Hà đồ - Lạc thư. Do vậy, sách cổ định vị Hà đồ và Lạc thư chuẩn theo kim chỉ nam của Văn Lang, còn Trung Hoa thì ngược lại. Bản đồ Đại Thánh tích Tuy nhiên, Thăng Long Tứ Trấn bao quanh kinh đô Bạch Long lại được bài trí đảo lại, tức Bắc ở trên nhằm thể hiện nguyên lý "Dương trong Âm ngoài" và vì vậy, Thăng Long thành thời Lý bài trí theo quy ước chuẩn của chòm Đại Hùng tức Bắc Đẩu là "Bắc trên Nam dưới". Lúc này, kim chỉ Nam sẽ chỉ thẳng người đang xem bản đồ thiên văn, địa lý tức chỉ thẳng "lòng" hay chính nội tâm của con người (Đạo Đức). Sử sách chép: Đền Bạch Mã có trước khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long thành. Tứ trấn vòng ngoài sẽ cổ hơn rất nhiều, thời Lý Nam Đế đã đóng đô ở đây. Thời An Dương Vương quân Tần phá hủy kinh thành, tất nhiên chúng không phá hủy toàn bộ mà còn các di chỉ thờ tự, đình, đền, miếu, đạo quán... Về mặt địa lý, địa hình thì một phần đất nước Indonesia, Philippine đã vượt qua ranh giới xích đạo, thuộc Nam bán cầu, mà sau này trong câu truyện Bạch trĩ của Lĩnh Nam chích quái có nói về sự kiện Chu Công cho sứ giả Việt Thường xe gắn kim chỉ nam dẫn hướng về, sau khi giao hảo tặng chim trĩ trắng, với quan niệm ở đây theo bản đồ Văn Lang với phương Nam ở trên, cho nên sứ giả mới từ vùng biển bắc - Phù Nam về lại kinh đô ở phương nam - tức Thăng Long ngày nay. Trong tiến trình lịch sử thời thượng cổ của nước Văn Lang, có 5 Đạo giáo ứng với Ngũ hành bao gồm đạo Tổ Tông, đạo Mẫu, đạo Nho, Thần đạo và Tiên đạo là rất quan trọng, sau này Thần đạo chuyển thành Phật giáo. Thần đạo và pháp môn Yoga của đạo Tiên được truyền bá ra khắp thế giới, bởi vậy Chu Công đã từng nói: "Giao Chỉ là nơi không thể đánh". Do vậy, đã có thời hơn 1.000 năm tranh cãi về cuốn sách Lão Tử hóa Hồ kinh. Sử sách cũng ghi nhận Sở Trang Vương nhà Chu (696 - 682 trước Dương lịch) có sang tu luyện Phật pháp lại núi Hương Tích, Nghệ An, có trước cả thời Phật Thích Ca Mâu Ni. Sự kiện này cần liên hợp tới biểu tượng chùy kim cương khắc họa trên trống đồng Đông Sơn, chùy kim cương là một biểu tượng của Mật giáo Tây Tạng sau này và trong Thần đạo các nước trên thế giới. Nó cũng phải được cân nhắc về mặt biểu tượng chiến thắng (cú giáng sấm sét) liên quan đến trận chiến Ân - Văn Lang thời Vũ Đinh (trận chiến Thương - Văn Lang thời Thiên Ất với anh hùng Thánh Gióng). Nếu là như vậy, thì trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ... phải có trước đó, như nhận định từ thời Hùng Vương VII, Lang Liêu, sau trận chiến với nhà Thương thời Thiên Ất. Hai chùy kim cương tại vành chim bay trên mặt trống đồng
  12. Trong một bài viết về trống đồng dưới đây có một bài thơ cổ (được làm dấu màu xanh da trời), tác giả chỉ mới dịch được hai khổ thơ, tôi tra cứu rất nhiều sách và cả trên mạng thì thấy bài thơ này chưa từng xuất hiện, do vậy cũng nhờ bạn hữu diễn đàn, bác Lãn Miên, anh Quang Nhật trợ giúp. Việt, “Hoa”, người mọi và trống đồng By Le Minh Khai Người dịch: Hoa Quốc Văn Như đã nói ở bài viết trước về việc trống đồng không quan trọng như thế nào với người Việt trong quá khứ, đã từng có một trường hợp mà ở đó chúng quan trọng, và đó là trong sự liên hệ với một ngôi đền được biết đến với cái tên đền thần Đồng Cổ (Đồng Cổ Thần Từ 銅鼓神祠)), nằm ở khu vực thuộc tỉnh Thanh Hóa, trên một ngọn núi có tên Núi Đan Nê, cũng được biết đến với cái tên Núi Khả Lao (可牢山). Image Có một đoạn văn viết về đền này trong một văn bản địa dư ở thế kỉ XIX, bộ Đại Nam nhất thống chí 大南一統志 . Đoạn văn đó có một chút gây bối rối ở chỗ, để phụ thêm cho ngôi đền trên núi Đan Nê, một nơi thờ tự dành cho vị thần này sau đó cũng được dựng ở kinh đô. Vậy là, thông tin này nói về một vị thần được thờ phượng ở cả hai nơi. Tôi sẽ dịch đoạn văn này ở đây rồi bình luận về nó phía dưới. Image [17 hạ.5a] Đền thần Đồng Cổ, nằm trên núi Đan Nê (cũng gọi là núi Khả Lao) ở huyện Yên Định. Thời xưa, khi Hùng vương [17ha/\5b] đi đánh Chiêm Thành, ông đã đóng quân ở núi Khả Lao. Ban đêm ông năm mơ thấy một vị thần [thần nhân 神人] đến bảo rằng “ta sẽ lấy cho ông một chiếc trống đồng và dùi để giúp ông giành được thắng lợi trên chiến trường”. Khi cả hai bên giáp mặt nhau, tiếng của một chiếc trống kim loại vang vọng trong không gian, và đúng như đã được dự báo, [Hùng vương] giành được thắng lợi trọn vẹn. [Hùng vương] phong cho [vị thần] tước hiệu Đồng Cổ Đại Vương [Đồng Cổ Đại Vương 銅鼓大王]. Khi Lý Thái Tông còn là Hoàng thái tử, ông nhận được lệnh đi đánh Champa. Ban đêm ông nằm mơ thấy một người mặc áo chiến và cầm một thanh bảo kiếm đến nói thẳng rằng: Ta là thần Đồng Cổ. Hãy để ta theo ông và lập công”. Khi vùng đất đã được bình định, Lý Thái Tông dựng một ngôi đền để thờ vị thần ấy. Sau đó, sau khi vị Hoàng đế lên ngôi, ông mơ thấy vị thần đó đến đem theo một bài thơ trong đó ngụ ý rằng có ba vị hoàng tử đang mưu lật đổ ông. Điều đó quả nhiên trở thành sự thật. Hoàng đế liền sắc phong cho vị thần thêm hiệu là “Thiên Hạ Minh Chủ 天下盟主” và thăng lên hàng thượng đẳng thần. Hàng năm, một đàn tế được lập trước ngôi đền và các quan lại được lệnh đọc một bài văn thề rằng: “Đạo của bề tôi là phục tùng cương thường. Nếu ai đó là con mà không hiếu kính và là bề tôi mà không trung thành, thì thần sẽ lặng lẽ soi xét và sẽ tru diệt cả nhà ông ta”. Trong những năm đầu thời Lê Trung hưng, quân Mạc đã quấy nhiễu các huyện Vĩnh Ninh (nay là Vĩnh Lộc) và An Định. Thủy quân của nhà Lê đóng trên thượng lưu của sông Mã. Ban đêm, họ nghe thấy ba tiếng trống từ cách đó hàng trăm dặm. Tướng nhà Lê sai quân ra xem xét thì thấy rằng tiếng trống đó đến từ Núi Khả Lao. Sáng hôm sau, họ lên đường truy đuổi quân Mạc. Khi họ lâm trận, gió bắt đầu dữ dội và mực nước dâng lên. Thủy quân [nhà Lê] dong thuyền và lợi dụng gió thổi. Sự gan dạ của họ tăng lên gấp trăm lần. Quân nhà mạc đại bại. Trong niên hiệu Hoằng Định, [thần] được sắc phong [mĩ hiệu mới] [17 hạ/6a]. Có một bài thơ trong đó có câu: “Gió và sóng trên sông trợ giúp rất nhiều cho đội quân chiếc thắng”. Là nói về việc này vậy. Trong niên hiệu Cảnh Hưng, người ta thường thấy có một cái lọng màu vàng hiện ra ở Triều Thiên Quán. Chỉ sau ba ngày thì nó biến mất. Rồi một ngày khi hoàng hôn buông xuống, mây đen kéo đến từ bốn phía, và mây và gió nổi lên dữ dội. Nhìn từ xa, người ta thấy có một con rồng đen cưỡi gió từ trên trời bay xuống ngôi đền [thần Đồng Cổ]. Khi tảng sáng, họ đến và tìm thấy những dấu vết sót lại. Sức mạnh linh ứng là như thế. Từ triều Lý đến triều Lê, vào mỗi mùa xuân khi binh tướng ra quân, các tướng lĩnh và binh lính lại đến tuyên thệ, và kính mời thần về chứng giám. Ông Thiếu phó triều Lê là Nguyễn Văn Khải(1) có một bài thơ như sau [bài thơ này không xuất hiện trong bản dịch văn bản sang tiếng Việt mà tôi được thấy này. Dịch thơ rất mất thời gian.Vì vậy bây giờ tôi chỉ dịch hai dòng có liên quan đến luận điểm mà tôi mong chỉ ra từ đoạn văn này]: 台峰拱炤水灣環 毓秀鐘靈在此閒 壇上翻瓢消旱魃 Cái gáo lật lại trên đàn triệt hết bọn quỷ khát. 空中敲鼓走狂蠻 Tiếng trống đánh xua đuổi đám mọi cuồng 龜碑石篆經霜綠 鳳札金章炤日丹 今古迭更棋幾局 凛然正氣舊江山 Trong đền có một chiếc trồng đồng nặng 100 cân. Nó có đường kính khoảng 1 xích 5 thốn, và cao 2 xích. Trong lòng rỗng, là nó không có đáy. Viền trống bị sứt một chút. Mặt trống có 9 vòng tròn đồng tâm. Eo [trống] được buộc (hoặc quấn bằng cái gì đó) vì thế bụng trống bị che đi. Bốn phía trống được buộc bằng đây thừng. Nó có chữ vạn [vạn tự 卍字] được viết như con nòng nọc. Trải qua thời gian nó bị mòn đi và giờ không thể đọc chữ được nữa. Nghe nói đây là cái trống được làm ở thời Hùng vương. Cuối thời Lê, quân phản nghịch Tây [sơn] phạm tới đây và đem trống về Phú Xuân. Sau đó, một người đàn ông ở huyện Hậu Lộc [17 hạ/6b] đã tìm thấy nó ở bờ sông. [Đầu mục] của tỉnh tuyên bố rằng nó cần phải được đem trở lại ngôi đền. Và ngày nay nó vẫn còn ở đó”. Image Đoạn văn trên bắt đầu bằng viết nói về một vua Hùng trong cuộc hành quân chinh phạt Champa [Chiêm Thành]. Trong khi tôi nghĩ rằng rõ ràng là không có các vua Hùng, thậm chí nếu chúng ta tin là có, thì đoạn văn này vẫn đầy vấn đề khi không có ghi chép gì ở về niên đại lịch sử, và Champa không tồn tại ở thời đại như đã được ghi chép ở đây (thiên niên kỉ thứ nhất trước Công lịch). Điều không có mấy vấn đề là ở cái ý tưởng chung chung về một vị vua đã nằm mơ thấy có một vị thần tự xưng và đề nghị giúp đỡ vua. Đây là một “phép tu từ” hay một “đề tài” mà chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều câu chuyện khác trong quá khứ được sáng tác bởi giới tinh hoa có học khắp cả “thế giới Hán hoá”, từ Đồng bằng sông Hồng cho đến Bán đảo Triều Tiên. Chúng ta lại gặp nó một lần nữa trong đoạn nói về Lý Thái Tông. Dạng hỗ trợ nào mà vị thần đề xuất? Đó là, giúp tấn công những người khác với người Việt. Ở đây tôi thấy một điều thú vị là địa điểm toạ lạc của đền có tên là núi Đan Nê hay Núi Khả Lao. “Đan Nê” và “Khả Lao” không phải là những cái tên Việt, và điều đó gợi ý rằng những người, ít nhất là về gốc gác, sống ở đó không giống với người Việt. Trong khi đó, như tôi đã đề cập ở bài post trước, người Việt có học vấn trong quá khứ đã gắn trống đồng với nhóm dân khác với họ. Vậy thì những người [thường] sử dụng trống đồng là những người khác người Việt, và người Việt tạo ra ngôi đền ở Núi Đan Nê/Khả Lao (một nơi, ít nhất về gốc gác, là nhà của những người không giống với người Việt) để dâng cho thần Đồng Cổ. Vị thần này sau đó giúp người Việt khi họ đánh lại những người khác với họ – “Tiếng đánh trống xua đuổi đám mọi cuồng”. Image Với tôi tình hình có vẻ như là người Việt đã lấy cái gì đó đầy quyền năng (tức là trống đồng) của “người mọi” rồi sau đó cố gắng dùng quyền năng gắn với vật thể đó để giúp họ đánh bại “người mọi”. Ở thế kỉ đầu sau Công lịch, vị tướng “Trung Hoa” là Mã Viện, được cho là đã thu lấy trống đồng ở khu vực này, nấu chảy chúng ra, và đúc thành những con ngựa đồng. Điều này dường như phần nào đó đã tước đi quyền lực của giới tinh hoa nắm quyền ở khu vực này, những người mà Mã Viện coi là “người mọi”. Khoảng 1000 năm sau, chúng ta thấy người Việt đã làm cái việc tương tự. Vậy mối quan hệ giữa những người mọi có trống đồng bị Mã Viện tấn công và những những người mọi có trống đồng bị người Việt tấn công ở 1000 năm sau đó là gì? Và ai là người Việt lúc bấy giờ (tức khoảng những năm 1000 sau Công Lịch)? Tại sao họ lại giống với một vị tướng “Trung Hoa” như Mã Viện, và khá là khác với những người mà Mã Viện đánh bại? Tại sao họ lại xem những người sở hữu trống đồng là “người mọi”?
  13. Định vị những điểm then chốt về mặt thời gian của lịch sử Trong tiến trình nghiên cứu các mốc thời gian cổ đại trong sử Văn Lang, đặc biệt nổi trội là trận chiến ác liệt giữa Văn Lang và nhà Thương thời Hùng Vương VI, vị Đại Thánh, một trong Tứ Bất Tử, anh hùng dân tộc Thánh Gióng đã được ghi chép trong truyền thuyết và xây dựng nơi thờ tự mãi từ đó tới nay, và cũng có nhiều truyền thuyết liên quan đến Thánh Gióng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lịch sử thực sự vẫn đang còn nghi ngờ về lịch sử thời kỳ này, vì nó quá xa so với thời dựng nước theo xác định hiện nay là thế kỷ thứ VII Trước Dương lịch, trong khi đó thời kỳ Ân Thương khoảng từ năm 1766-1122 Trước Dương lịch. Một số khác lại cho rằng đây là hư cấu, không có thực, bởi kinh đô của nhà Ân Thương mãi tận gần cực bắc Trung Hoa sao lại đánh được tới tận Việt Nam ngày nay?. Để minh định lại, cần phải xem xét với chứng tích và thư tịch cổ còn lại về trận chiến này, đó chính là những nhân vật lịch sử thời kỳ cùng với Thánh Gióng, còn rất nhiều tại vùng Bắc Việt Nam ngày nay, chẳng hạn một ví dụ về Hùng Linh Tướng Công: ... Diệt quốc cừu, điện quốc cơ, trùng tiêu quốc xí Đương ư sóc phong liệt tướng Thành sở vị: giang nam nhất nhân, giang bắc nhất nhân,... dịch nghĩa: ... Diệt giặc nước, xây móng nền, dựng cờ tổ quốc cùng trang liệt tiếng Sóc Sơn thành truyền thuyết: phía Nam sông tướng giỏi, phía Bắc sông người tài (tức là phía Nam sông Cầu có tướng giỏi là Thánh Gióng, phía Bắc sông Cầu có người tài là Hùng Linh Công). Điều đó đã chứng tỏ một cách đơn giản và dễ hiểu rằng, trận chiến đã tới kinh đô Văn Lang nay là Bắc Việt Nam. Mặt khác, chiếu theo gia phả Hùng Vương thì thời Hùng Vương VI vào khoảng năm 1600 Trước Dương lịch, tương tương với thời kỳ nhà Thương, đời vua Thiên Ất. Trong bộ tranh dân gian Đông Hồ còn lưu giữ lại mật ngữ này qua bộ tranh Thiên Ất - Vũ Đinh, và tất nhiên Văn Lang thời kỳ này không phải là dưới mức ở trần, đóng khố vì cách xa thế kỷ VII Trước Dương lịch tới gần 1.000 năm. Thiên Ất - Vũ Đinh Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Tuy nhiên, tại sao lịch sử ghi nhận trận chiến giữa Ân - Văn Lang thay vì Thương - Văn Lang thời Thiên Ất? Để giải quyết vấn đề này, cũng phải quay lại ghi nhận truyền thuyết và dã sử Việt Nam, đó là lễ hội Thánh Gióng, với việc khắc họa lại trận tấn công và tiêu diệt 28 nữ tướng Ân. Tra cứu lịch sử Trung Hoa, thời kỳ Vũ Đinh có vợ là nữ tướng Phụ Hảo, rất giỏi võ nghệ và chinh chiến, đây là thời kỳ đồ đồng Thương rực rỡ nhất, thời kỳ này có tổ chức chiến tranh mở rộng phía tây nam, đó là tấn công vào Quý Châu (GuiZhou - Xích Quỷ), Quý Châu là một bộ vùng cực bắc của Văn Lang (còn chiếu theo bản đồ như Hà đồ - Lạc thư thì phương nam ở trên, cho nên Quý Châu còn có tên Xích Quỷ tức Quỷ Đỏ). Nếu giả thuyết chỉ có một trận chiến thời Vũ Đinh (cách thời Thiên Ất khoảng 400 năm - sau 400 năm nhà Ân Thương không dám ra quân) thì rõ ràng, trước đó tại các vùng Hồ Nam, Giang Tây, Triết Giang vẫn tồn tại cổ vật đồ đồng, đá... theo văn hóa Việt, chẳng hạn cổ vật đồ đồng có trước cả trống đồng, tuy nhiên thực sự đã không như vậy. Sau trận chiến thời Thiên Ất, Hùng Vương VI không lấy lại các vùng Nam Dương Tử đã mất vào Thương là Hồ Nam, Giang Tây và Triết Giang, do vậy nhà Ân mới có cơ sở làm bàn đạp tiếp tục mở rộng nhưng một lần nữa hoàn toàn đã thất bại. Bộ tranh dân gian Đông Hồ ở trên có hình Vũ Đinh là vì vậy, Thiên Ất và Vũ Đinh ở trên chỉ được xem là hai ông "canh cổng phía Bắc" cho Văn Lang mà thôi, ẩn đằng sau bức tranh này chính là hai nhân vật lỗi lạc được xem như hai vị hộ pháp đó là Thái Tử Trọng Thủy (vị trí bên phải nhìn từ trong bộ tranh nhị bình này ra) và Cao Nỗ Tướng Quân trong lịch sử Âu Lạc và Nam Việt sau này (sẽ chỉ ra sau). Đánh giặc lên ba hiềm đã muộn, Cưỡi chín tầng mây giận chửa cao. (Cao Bá Quát) Đặc biệt, Kinh Dịch và Kinh Thi cùng Trúc thư niên kỷ cũng đề cập trận chiến thời Vũ Đinh ở trên, Kinh Dịch được bổ túc muộn nhất vào thời Tây Chu và Đông Chu, giáp cốt văn cũng nói đến trận chiến của Phụ Hảo và người Việt. Việc tấn công tới tận Bắc Việt Nam chính là phải chinh phục được kinh đô của đối thủ thì là chiến thắng, cho nên kinh đô Văn Lang là ở Bắc Việt Nam, toàn bộ mồ tổ Hùng Vương cũng nằm ở đây. Kinh đô phải chăng vùng Phú Thọ ngày nay? Không phải, chính là Thăng Long hay Hà Nội ngày nay, nó bị phá hủy trong trận chiến thất bại của quân Tần khi rút lui trước Âu Lạc do An Vương Vương tổ chức, phá hủy văn hóa là đặc tính của thời đại Tần Thủy Hoàng (sẽ chỉ ra sau). Tất nhiên, phải xem xét cả đến các mặt địa lý, địa hình vùng ngập nước của khu vực Hà Nội thời kỳ Lạc Long Quân với truyền thuyết Đầm xác cáo và truyền thuyết Hùng Quốc Vương chọn đất đóng đô tại đây. Chi tiết Thánh Gióng tấn công tới bộ Vũ Ninh và sau bay lên trời tại ngọn núi Sóc Sơn chưa phải là chính xác, bởi việc ghi nhận các bộ Hồ Nam, Giang Tây và Chiết Giang về nhà Thương thì Thánh Gióng phải tổ chức quân đội đánh tới đó chứ không phải tại Bắc Việt Nam. Tra cứu địa chí thì Vũ Ninh là cái tên một khu vực thuộc Giang Tây tiếp giáp vùng Ngũ Lĩnh. Vậy thì Vũ Ninh chính là tỉnh Giang Tây Trung Hoa ngày nay, nếu quân Ân Thương thua thì sẽ rút lui khỏi vùng Ngũ Lĩnh theo con đường này là nhanh nhất và an toàn nhất. Địa thế này cũng chính là nơi mà Tần Thủy Hoàng xua quân thuận tiện nhất tấn công Âu Lạc sau hơn 1.500 năm. Bản thần tích do tiến sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1527 viết: Thánh Gióng chém chết tướng giặc tại chân núi Ngũ Lĩnh. Các trận chiến tranh trong lịch sử Trung Hoa trước Tần phần lớn không phá hủy kinh đô, bởi chỉ cần lấy hết các đồ tế khí, ấn tín và thượng phương bảo kiếm biểu tượng vương triều là "xong", cũng không phá hủy miếu thờ các triều đại trước bởi họ cũng có công trong lịch sử dân tộc. Cho nên, cái trò hề cấm thờ cha mẹ, ông bà, tổ tông của mình và bắt buộc phải thờ người khác từ các quy định lố bịch kéo dài gần 400 năm của một tổ chức (sau Đạo giáo Văn Lang cả 3.000 năm) từ một nơi nào khác tới ngay trên chính quê hương của mình mà cũng phải cúi đầu chịu nhục là "đại chướng, chướng lắm", nhân văn thụt lùi bèo nhất cũng -3.200 năm. Họ nhân danh ai và vì cái gì? Ai chứng nhận sự nhân danh này? Hãy réo to lên đi chứ, tại sao phá hủy tổ tông, tôn giáo ông bà, hay là mục đích nhằm làm vong bản, để trở thành nô lệ tư tưởng cho nơi đó (thủ thuật trói não vô hình) - được xem như một quốc gia vô hình nằm trong lòng chính tổ quốc mình, quê hương mình? Dân gian Việt đã đúc kết lại một câu thành ngữ và "cười": "Mồ cha không khóc mà lại đi khóc đống mối". Chứng tích cổ vật của Hồ Nam, Giang Tây và chiết Giang hầu hết là thời nhà Thương Ân, rồi trở về sau, đây là những chứng tích quan trọng để xác định thời kỳ nổi trội giữa văn hóa Văn Lang - Thương Ân. Hầu như không thấy trống đồng và cổ vật đặc trưng thời Đông Sơn tại các tỉnh này, nếu có thực sự là rất ít, nhưng văn hóa phi vật thể lại tương đồng phần lớn. Bản đồ thời Thương Ân, Chu và Xuân Thu Chiến quốc thể hiện ba tỉnh trên đã thuộc Trung Hoa, sử ghi rõ nhà Chu dùng phân phong cho con cháu. Trên suốt chiều dài dòng sông Dương Tử, chúng ta sẽ phải quan tâm đến ba vùng văn hóa hai bên bờ sông, thượng du - Ba Thục và các dân tộc vùng cao cũng gọi là Âu Việt, trung du - chồng lấn nhưng thiên về Lạc Việt và hạ du - Lạc Việt. Cho nên vùng cao Quý Châu và Vân Nam vẫn tồn tại văn hóa Thục phổ biến. Dòng sông Dương tử chia đôi Trung Hoa và Văn Lang thời Đế Minh. Nam Dương Tử do Kinh Dương Vương quản lý, còn Bắc Dương Tử do Đế Nghi cai quản (Cần xem chứng tích do bác sĩ Trần Đại Sĩ đã thực chứng di tích trong những bài viết của ông). Sau này, Lưu Bị và Gia Cát Lượng dễ dàng thống nhất vùng thượng du Dương Tử thông qua văn hóa Ba Thục là vì vậy, thời An Dương Vương cũng với cái tên Thục Phán. An Dương Vương là bộ chủ bộ Vân Nam thời Hùng Duệ Vương (sẽ chỉ rõ sau). Trên bản đồ thời Tam Quốc, khởi nguồn sông Hồng Việt Nam và sông Dương Tử Trung Hoa ngày nay từ các dãy núi Tây Tạng. Shu = Thục Tương truyền ngôi mộ trên đỉnh Nghĩa Lĩnh là mộ Hùng Vương thứ VI, trước khi chết ngài có dặn rằng: "Hãy chôn ta trên núi Cả để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu". Xưa là mộ đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây lăng mộ, thời Khải Định năm thứ 2 (1922) được đại trùng tu như ngày nay. Mộ Hùng Vương Thứ VI Núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam Ngay sau thời Hùng Vương VI, Lang Liêu tức Hùng Vương thứ VII - người đã sáng tạo ra cặp bánh chưng bánh dầy dâng cúng tổ tiên đầy ý nghĩa nhân văn và chất chứa những huyền thoại bí ẩn siêu đẳng của Lý học Đông phương, ngài cũng chính là người đã tổ chức đúc trống đồng Đông Sơn, khoảng 1600 Trước Dương Lịch mà chúng ta thấy ngày nay (sẽ chỉ rõ sau). Công nghệ đúc đồng Văn Lang thời kỳ này vượt hẳn Thương và đúc đồ sắt sớm, hay gang (một số sách sử cũng đã phân tích và ghi nhận sự kiện này thông qua hình ảnh Thánh gióng phi ngựa sắt, gậy sắt, nón sắt...). Tại một di chỉ cổ ở Thái Lan phát hiện đồ sắt với thí nghiệm phóng xạ các bon C14 có niên đại trên 1000 Trước Dương lịch, Thái Lan là một bộ của Văn Lang và cho tới thời Âu Lạc vẫn còn chứng tích (sẽ chứng minh sau).
  14. CHUNG QUANH MỘT CUỘC TRANH LUẬN HÀO HỨNG Trần Chung Ngọc http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt042.php 24 tháng 11, 2009 Đầu tháng 10, 2009, 2500 người mua vé vào Đại sảnh Methodist ở Westminster, Luân Đôn, để nghe một cuộc tranh luận về chủ đề “Giáo hội Ca-tô có phải là một sức mạnh để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới không?” [is the Catholic Church a force for good in the World?] thuộc chương trình Intelligence Squared Debate, một diễn đàn tranh luận thiết lập ở Anh trước đây 6 năm. Điều khiển cuộc tranh luận là nữ ký giả Zeinab Badawi, tốt nghiệp đại học Oxford về chính trị, triết học và kinh tế. Có bốn thuyết trình viên thuộc hai phe. Phe ủng hộ [for], đồng ý với chủ đề trên gồm có hai nhân vật của Ca-tô giáo: Tổng giám mục John Onaiyekan ở Nigeria và bà Ann Widdecombe, một thành viên bảo thủ của quốc hội Anh. Phe chống [against] gồm có Christopher Hitchens thuộc Hiệp Hội Thế Tục Quốc Gia (National Secular Society), một hiệp hội được thành lập tại Anh từ năm 1866, và Stephen Fry, nhà văn, diễn viên, nhà đạo diễn phim ảnh v.. v… Christopher Hitchens nổi tiếng về những cuốn như “The Missionary Position”, vạch trần sự đạo đức giả và thực chất làm từ thiện của bà Teresa ở Ấn Độ mà mục đích chính là để truyền đạo và vơ vét tiền bạc của những người có hảo tâm, dấu kín trong ngân hàng cho giáo hội, và cuốn“God is not Great”, một cuốn sách gây nên sự phân hóa trong xã hội Mỹ. Stephen Fry cũng là tác giả của nhiều cuốn sách và phim ảnh. Cuộc tranh luận được quay phim và đài BBC trình chiếu ngày 7 và 8 tháng 11, 2009. Phim chia ra làm 5 đoạn, mỗi đoạn chỉ độ 9 phút. Khán giả dự thính được yêu cầu bỏ phiếu cho hai lập trường trên: “for” và “against”, trước và sau khi nghe tranh luận. Số phiếu trước và sau cuộc tranh luận cho chúng ta thấy cuộc tranh luận đã diễn tiến như thế nào. Quý độc giả có thể xem toàn bộ cuộc tranh luận trên tại URL: http://www.youtube.com/watch? có thể xem ở dưới bài Sau đây là kết quả cuộc bỏ phiếu trước và sau cuộc tranh luận: Trước cuộc tranh luận: Số phiếu “for”: 678 Số phiếu “against”: 1102 Số phiếu “không có ý kiến”: 346 Sau cuộc tranh luận: Số phiếu “for”: 268 (Giảm 410 phiếu) Số phiếu “against”: 1876 (Tăng 774 phiếu) Số phiếu “không có ý kiến”: 34 (Giảm 312 phiếu) Nếu nói đến chuyện thắng thua trong một cuộc tranh luận thì phe của TGM John Onaiyekan và bà Ann Widdecombe đã thua đậm. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ thắng thua, mà là “đức tin”, đồng nghĩa với mê tín, không bao giờ có thể thắng nổi “lý trí”, đồng nghĩa với sự hiểu biết chân thật. Hay nói cách khác, đức tin không thể che dấu được thực chất của Ca-tô giáo, mà qua những sự kiện lịch sử đã nói lên điều bất khả phủ bác: Giáo hội Ca-tô, qua suốt dòng lịch sử, chưa bao giờ, và có thể là không bao giờ, là một sức mạnh để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới. Và đây chính là nhận định kết luận bất khả phủ bác của cuộc tranh luận [The Catholic Church is not a force for good in the world: that was the overwhelming verdict after a heated debate] py Diễn giả đầu tiên: Diễn giả đầu tiên là TGM John Onaiyekan. Ông này đúng là một TGM Ca-tô vì không biết gì hơn là những luận điệu mà người Ca-tô thường viện ra để bênh vực cho Ca-tô Rô-maGiáo. Đại khái thì ông ta nói nếu Giáo hội Ca-tô không tốt đẹp thì ông ta đã không theo suốt cả cuộc đời. Ông ta còn viện là trong Giáo hội Ca-tô có đủ hạng người, từ bình dân cho đến các nhà trí thức, và có cả nguyên thủ quốc gia, làm như những lời đó có thể thuyết phục mọi người về cái tốt của Giáo hội. Ông ta còn đưa ra con số thống kê là Ca-tô giáo có tới 1.2 tỷ tín đồ mà quên mất một điều, 1.2 tỷ người tin vào một điều hoang đường nhảm nhí thì điều đó bản chất vẫn chỉ là một điều hoang đường nhảm nhí. Ông ta cũng viện lẽ là giáo hội đã chịu sự thử thách trong 2000 năm và vẫn tồn tại mà quên rằng tại sao giáo hội tồn tại lâu dài. Robert G. Ingersoll đã chẳng nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140): Ca-tô Rô-maGiáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt [cunning]. [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.] py Diễn giả thứ hai: Christopher HitchensDiễn giả thứ hai là Christopher Hitchens. Thực chất bài nói của Christopher Hitchens không phải là tranh luận hay thảo luận mà là một chuỗi những lời lên án Giáo hội Ca-tô về những tội ác của Giáo hội chống nhân loại [a devastating prosecution of the Catholic Church for crimes against humanity]. Chỉ trong ít phút đồng hồ, khán giả có thể thấy những sự xấu ác của Giáo hội Ca-tô thật là hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi được. Nhưng Hitchens không thể đưa ra tất cả những tội ác của Giáo hội Ca-tô mà chỉ đưa ra một số điển hình như: giáo điều “bao cao su có thể gây nên bệnh AIDS [p1]”; những sự tàn bạo trong lịch sử [p2]; ủng hộ các nhà độc tài [p3]; biện minh cho chế độ nô lệ [p4]; sự nô dịch hóa phái nữ [p5]; đàn áp những tư tưởng khai sáng tiến bộ [p6]; tra tấn và giết những khoa học gia lạc đạo; hiếp đáp và ghét những người đồng giống luyến ái [p7] v…v… Mở đầu, Hitchens nói với ông TGM John Onaiyekan là nếu ông muốn bảo vệ cho Giáo hội Ca-tô thì hãy nên đến đây, và nhân danh cái giáo hội ác ôn của ông ta để mà xin lỗi nhân loại chứ không phải để tranh luận[p8]. Hitchens cũng nhắc đến vụ Giáo hoàng John Paul II đã chính thức xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội đối với nhân loại ngày 12/3/2000 như sau: 1. Xưng thú “tội lỗi chung”. 2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý””. 3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”. 4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”. 5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”. 6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”. 7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”. Và Giáo hội cũng thú nhận là Galilei đã đúng và giáo hội đã sai. Hitchens cũng nêu lên những tội ác của giới linh mục và nữ tu (priests and nuns) đã bị xét xử ở Rwanda, xứ toàn tòng Ca-tô giáo ở Phi Châu. Về vụ giáo hội cấm dùng bao cao su (condom), Hitchens quy trách nhiệm cho giới chăn chiên về cái chết của hàng triệu anh chị em họ ở Phi Châu [the priests are responsible for the death of millions of their brothers and sisters in Africa]. Một điều đáng nói khác là Hitchens đã lên án chính sách giáo dục nhồi sọ trẻ con của giáo hội đại khái như sau: “Nếu anh là thành viên của giáo hội thì anh đã sinh ra trong tội lỗi. Nếu anh không đi lễ nhà thờ thì anh không lên được thiên đường [p9].” Hitchens cho rằng như vậy là giáo hội đã “lạm dụng trẻ con ngay trong nhà thờ của giáo hội [p10]” . Về thể chế hãm hiếp và tra tấn, ngược đãi trẻ con dưới sự chăm sóc của Giáo hội Ca-tô[p11], Hitchens trích dẫn một câu của Giáo hoàng Benedict XVI: “Đây là một sự khủng khoảng nghiêm trọng đòi hỏi chúng ta phải đối với những nạn nhân lòng ưu ái nhất của giới chăn chiên [p12]” Hitchens phê bình một câu rất ý nhị: “Thật vậy sao, tôi lấy làm tiếc rằng, những đứa trẻ đó đã có được sự ưu ái đó rồi [p13]” , ngụ ý là những đứa trẻ đó đã bị giới chăn chiên ưu ái qua sự cưỡng bách tình dục rồi. Câu phê bình trên cũng nói lên sự vô cùng đạo đức giả và vô liêm sỉ của Giáo hoàng, vì ai cũng biết, chính Giáo hoàng đã đưa ra chính sách bao che cho hơn 5000 linh mục can tội loạn dâm. Hitchens cũng nêu trường hợp Vatican không để cho Hồng Y Bernard Law, Tổng giám mục giáo phận Boston, trả lời cảnh sát tiểu bang Massachusetts về vai trò của ông ta trong xì-căng-đan về các linh mục loạn dâm [p14]. Hồng y Law đã thăng chức, bao che và bênh vực những linh mục can tội loạn dâm đối với trẻ con trong giáo phận. Để tránh bị truy tố, ông ta được Vatican gọi về Vatican, trao cho một chức vụ. Và hiện nay, có tin là giáo dân Ca-tô Việt Nam đang hồ hởi đón tiếp tưng bừng tên Hồng Y vô đạo đức này ở Việt Nam, đến làm chủ một thánh lễ gì đó ở Việt Nam. Thật là đẹp mặt cho Giáo hội Ca-tô ở Việt Nam. Hitchens cũng còn đưa ra một danh sách những sự ác ôn của giáo hội qua nhiều thế kỷ như các cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo và những kẻ lạc đạo, và sự tra tấn và giết hại khoa học gia và tín đồ Tin Lành. Và lẽ dĩ nhiên, Hitchens không bỏ qua sự kiện là Giáo hội đã vu cho người Do Thái tội giết Chúa cho đến năm 1964 (công đồng Vatican II) và phải có trách nhiệm về những lò sát sinh người Do Thái của Đức Quốc Xã [p15]. Đó là những sự kiện lịch sử mà không ai có thể chối cãi. py Diễn giả thứ ba: AnnWiddecombeDiễn giả thứ ba là Ann Widdecombe. Bà này quảng cáo nhiều cho các việc từ thiện của giáo hội trên khắp thế giới. Nhưng ngày nay, thế giới đã biết rõ bộ mặt từ thiện của Ca-Tô Rô-MaGiáo, và chỉ có những tín đồ u mê, không biết gì, mới còn ra công tô hồng đánh bóng cho những công việc từ thiện của Giáo hội. Một trong những sách lược tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội Ca-Tô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẫu (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ Ca-Tô đều như Mẹ Teresa cả. Nhưng thực chất việc làm từ thiện của bà Teresa đã bị phơi bày: Bà làm việc từ thiện không phải là do từ tâm mà mục đích chính là kiếm linh hồn cho Chúa và vơ vét tiền bạc của những người có hảo tâm. Tiền thu được nhiều triệu đô-la [khoảng 150 triệu đô-la], đáng lẽ để dùng giúp đỡ những kẻ xấu số, thì lại dấu kín trong các ngân hàng, để làm gì, ai mà biết được. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các việc làm từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của Ca-Tô giáo trong những thế kỷ qua. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Ca-Tô Giáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Linh mục Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Linh mục được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của Ca-Tô giáo không có ích lợi gì, chúng góp phần làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Ngày nay, những tài liệu về thực chất “từ thiện” của Ca-Tô Rô-MaGiáo không thiếu, cho nên bình phong “từ thiện” của Ca-Tô Rô-MaGiáo chỉ có thể lừa dối được những kẻ không biết gì. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25: Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô [p16] Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo. Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Ca-Tô Giáo mới làm việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác, tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương người vị tha. Chỉ có Ca-Tô giáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện: dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói đến cá nhân tín đồ Ca-Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác. Ai cũng biết Giáo hội Ca-Tô là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh theo ý Giáo hội về các công cuộc "từ thiện" mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở thế giới văn minh Âu Mỹ này thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi cái mặt trái của một chiếc mề đay cũng phải phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi. Thông điệp chính của bà Ann Widdecombe trong bài nói là “thông điệp về hi vọng và cứu rỗi”,một huyền thoại mà các tín đồ Ki Tô Giáo đã hi vọng từ 2000 năm nay mà chưa ai thấy thành tựu. Bà ta cho rằng mọi người trên thế giới đều cần đến cái thông điệp hi vọng và cứu rỗi của Giáo hội Ca-tô [p17]. Đây là thông điệp cho những người mê mẩn về một cái bánh vẽ trên trời, theo nhận định của Mục sư Ernie Bringas. Lẽ dĩ nhiên bà này chưa đọc bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi [p18]”của Linh mục James Kavanaugh, hay bài “Giê-su như là đấng cứu thế: một vai trò cần phải dẹp bỏ [p19]” của Giám Mục John Shelby Spong. Là một tín đồ Ca-Tô thuần thành, bà Ann Widdecombe còn cho rằng mười điều răn (the ten commandements) của Thiên Chúa là tiêu chuẩn đạo đức cho cả thế giới bất kể là, phân tích những điều răn này các học giả đã cho rằng chẳng có gì đặc biệt, vì các tôn giáo dân gian cũng đều dạy những điều tương tự trừ ba điều răn đầu mà Christopher Hitchens cho rằng chỉ có mục đích đe dọa để làm cho tín đồ phải sợ Gót [p20](God) . py Diễn giả thứ tư: StephenFryDiễn giả cuối cùng là Stephen Fry. Mở đầu, Fry khẳng định là ông ta không coi thường và có xích mích gì đối với các cá nhân tín đồ trong giáo hội. Đây là điều mà các tín đồ Ca-tô Việt Nam cần biết. Những bài viết thuộc loại đưa ra những sự thật về Ca-tô Rô-maGiáo trên giaodiemonline.com hay sachhiem.net thuộc loại nghiên cứu nghiêm chỉnh với đầy đủ tài liệu để mở mang kiến thức của quần chúng về Ca-tô Rô-maGiáo chứ không phải để chống các cá nhân tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo. Stephen Fry cho rằng tín ngưỡng tôn giáo là quyền thiêng liêng của con người. Nhưng ông ta nói: “Tôi cũng có những niềm tin của tôi, đó là sự khai sáng trong tư tưởng và khám phá ra thêm những chân lý trong thế giới, và Giáo hội Ca-tô không thích thú gì hơn là tấn công những niềm tin này [p21].” Stephen đưa ra một trường hợp điển hình về sự đạo đức giả của Giáo hội Ca-tô và thực chất các Thánh trong Ca-tô Rô-maGiáo. Đó là trường hợp của Thomas More người đã tra tấn và thiêu sống một số người vì đã dám phát tán và đọc cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh (those daring to own a Bible in their own language). Tìm hiểu sự kiện này tôi đọc được trên Internet đoạn sau đây về Thomas More, tôi xin để nguyên văn: In 1531, Richard Bayfield, a graduate of the University of Cambridge and formerBenedictine monk, was burned at Smithfield for distributing copies of Tyndale's English translation of the New Testament.[8] Further burnings followed at More's instigation, including that of the priest and writerJohn Frith in 1533. In The Confutation of Tyndale's Answer, yet another polemic, More took particular interest[citation needed] in the execution of Sir Thomas Hitton, describing him as "the devil's stinking martyr".[9] Rumours circulated during and after More's lifetime concerning his treatment of heretics;John Foxe (who "placed Protestant sufferings against the background of ... the Antichrist")[10] in his Book of Martyrs claimed that More had often used violence or torture while interrogating them. A more recent Evangelical author, Michael Farris, also used Foxe's book as a reference in writing that in April 1529 a heretic, John Tewkesbury, was taken by More to his house in Chelsea and so badly tortured on the rack that he was almost unable to walk. Tewkesbury was subsequently burned at the stake.[11] Stephen Fry đặt vấn đề: “Có thể tưởng tượng được không, vậy mà Thomas More về sau được Giáo Hoàng phong Thánh”. Và ngày nay chúng ta thấy trong Ca-tô Giáo có những cơ sở như Trường Trung Học Thomas More, Trường Đại Học Thomas More, Nhà Thương Thomas More v…v… Ca-tô Giáo ở đâu cũng vậy, ở Việt Nam có trường Trần Lục, trường Nguyễn Bá Tòng, trường Pétrus Ký v…v…, toàn là các trường mang tên Đại Việt Gian cả. Chưa kể là Ca-tô Việt Nam cũng có 117 thánh, hay á thánh, toàn là những kẻ cuồng tín phản bội gia đình, truyền thống dân tộc, và quốc gia cả. Hiện tượng thần thánh hóa những nhân vật mà một số người sùng tín, qua những thông tin sai lạc một chiều, vốn không phải là điều xa lạ trong lịch sử nhân loại. Trong Ca-Tô Rô-MaGiáo (Công Giáo) có rất nhiều Thánh, đếm không xuể. Có Thánh Abraham lấy em làm vợ, có Thánh David cướp vợ thuộc hạ, có Thánh Giu-se, ông thợ mộc được phong Thánh chỉ vì đã cay đắng chấp nhận làm cha của Giê-su mà cha thật của Giê-su không ai biết là ai trừ bà Mary nhưng bà lại không chịu nói ra, có Thánh Augustine dốt nát về vũ trụ và con người, kỳ thị phái nữ một cách điên cuồng, có cả Thánh André Phú Yên, một Việt gian tội đồ của dân tộc Việt Nam đi theo tên thừa sai gián điệp Alexandre de Rhodes từ ngày đầu v..v.. Stephen Fry cũng lên án chính sách giáo dục của Giáo hội Ca-tô là “Nhồi sọ trẻ con để chúng tin vào những tín lý của Giáo hội [p22]” . Vấn đề Stephen Fry tấn công giáo hội Ca-tô mạnh nhất là lập trường của giáo hội về vấn đề ngừa thai. Fry đưa ra sự kiện ngăn ngừa bệnh AIDS ở Uganda, thành công phần nào qua chính sách ABC [Abstinence – Be Faithful – Correct use of Condoms], nghĩa là tiết chế tình dục, giữ đức tin, và dùng bao cao su đúng cách. Nhưng Fry lên án Giáo hoàng đương thời là Benedict XVI đã nói láo là bao cao su làm tăng thêm bệnh AIDS. Như vậy là ông ta (giáo hoàng) cho rằng điều kiện để tránh bệnh AIDS là không dùng bao cao su (condoms) [p23]. Sự đau khổ, hậu quả của chính sách này thật là khủng khiếp Về chuyện Benedict XVI nói bậy này, chúng ta đã biết là Richard Dawkins, Giáo sư người Anh, khoa học gia, nhà sinh học và vô thần lỗi lạc, nổi tiếng, nói rằng bàn tay của Giáo hoàng Benedict XVI sẽ đẫm máu nếu những niềm tin của ông ta được các tín đồ trên thế giới tuân theo. Tại một đại học ở Tây Ban Nha, Giáo sư nói: “Tôi tự hỏi đặt trên căn bản nào mà một người nào đó có thể nói là bao cao su sẽ làm tăng bệnh AIDS. Giáo hoàng hoặc ngu, hoặc dốt hay đầu óc lờ mờ.” Nếu các tín đồ coi lời ông ta làm trọng thì ông ta sẽ chịu trách nhiệm về cái chết của hàng ngàn, ngay cả hàng triệu con người [p24]. Sau phần thuyết trình của các diễn giả là phần khán giả đặt câu hỏi. Và cuối cùng là các diễn giả nói vài lời sau cùng để kết thúc [p25]. Tôi đề nghị quý độc giả hãy xem toàn bộ cuộc tranh luận đã có trên Internet. Tất cả chưa tới 1 giờ đồng hồ. Tôi bảo đảm “closing statement” của Christopher Hitchens và Stephen Fry cũng rất là hào hứng. [p1][the teaching that condoms can cause AIDS] [p2][the historical atrocities] [p3][the endorsement of dictators] [p4][the justification of slavery]; >[p5][the subjugation of women] [p6][suppression of enlightenment thingking] [p7][the torture and murder of heretic scientists and the bullying and hatred of homosexuals] [p8][Hitchens suggested that the Archbishop should not have come here to debate, but to beg for forgiveness on behalf of his wicked organisation..] [p9] [if you are a member of the church you were born in sins. If you don’t go to church, you cannot go to heaven) [p10](abuse the children in their own church) [p11][On the institutionalisation of rape and torture, maltreatment of children under their care] [p12][‘It is a very serious crisis which demands us in the need for applying to the victims, the most loving pastoral care.’] [p13][Well, I’m sorry, they have already had that.”] [p14][Hitchens tore into the Vatican for its refusal to hand over Cardinal Bernard Law, the former Archbishop of Boston, to Massachusetts police for questioning about his role in the child abuse scandals.] [p15][He laid the responsibility for the Holocaust at the Church’s door, which he claims was made possible by role in inciting hatred of Jews over the centuries: “That the church taught that the Jewish people were collectively responsible for the death of Christ until 1964, twenty years after the Nuremberg trials, may or may not have had something to do with the availability of a reservoir of hate to tap into in Germany, Poland, Austria, Spain, Italy and elsewhere.”] [p16] (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics) [p17][The church is about hope and salvation. And it is intellectual arrogance to say people around the world can simply live without that. People are trying their hardest to live by Christ’s message; by the commandments, by the interpretation of those commandments.] [p18][The salvation Myth [p19][Jesus as a rescuer: An Image That Has to Go] [p20][just to terrify people to fear God] [p21][it is important as I also happen to have my own beliefs, in the the Enlightenment thinking, and trying to discover more truth in the world. It is an empirical fight that began with, and there is nothing the Catholic Church likes to do more, than attack it.] [p22][The children were endoctrinated to believe in the dogma of the Church] [p23][“I don’t deny abstinence is a good way of not getting AIDS. It really works. But so do condoms!" he thundered. "(The Pope) spreads the lie that condoms increase the incidence of aids. He actually makes sure that aids is conditional on saying no to condoms. The pain and suffering you see as a result is appalling.”] [p24] [british Professor scientist Richard Dawkins, the prominent biologist and atheist, said that Benedict XVI would have blood on his hands if his beliefs were followed by Catholics around the continent. Speaking at a university in Spain, he said: "I wonder on what basis anyone can say condoms make Aids worse. The Pope is either stupid, ignorant or dim. "If people take his words seriously he will be responsible for the deaths of thousands, perhaps millions of people."] Nguồn: http://www.telegraph.co.uk/news/news...is-stupid.html [p25][closing statement] Nếu xương cốt người chết hóa thạch trở lại thì các toà thánh, giáo đường sẽ được chất đầy, nơi đấy chả có gì mà tìm cả, toàn máu xương và âm mưu.
  15. LINH MỤC ĐẮC LỘ BIỆN CHÍNH VỚI ÔNG NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU nguồn http://giaodiemonline.com/2009/02/bienchinh.htm Bùi Kha 24 tháng 2, 2009 Sachhiem.net đính kèm ở đây: tài liệu dẫn: Loạt bài của ông Nguyễn Đình Đầu trong báo "Công Giáo và Dân Tộc" Alexendre de RhodesSau khi bài Alexandre de Rhodes – công và tội (http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha5.php) của tôi xuất hiện trên Tạp chí Hồn Việt số 17 (Tháng 11/2008) , ông Nguyễn Đình Đầu viết bài phản biện đăng trên tuần san Công giáo và Dân tộc với tựa đề Lại một bài báo vu khống cha Đắc Lộ (http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha3.php). Tôi rất thích những ý kiến phản biện để làm sáng rõ vấn đề nhưng bài viết phải nghiêm túc và có chứng liệu, không nên chụp mũ và nhất là phải khách quan vô tư không bị chi phối bởi tình cảm, nhất là tình cảm tôn giáo. Trước hết, xin cảm ơn ông Nguyễn Đình Đầu đã sửa cho một lỗi chính tả là vua Louis thứ 14 thay vì thứ 4. Điểm kế tiếp rất đáng được trân trọng là ông Nguyễn Đình Đầu, một trong những người bênh vực Lm Đắc Lộ hết mực, cũng phải công khai thừa nhận “không một ai (dĩ nhiên là bao gồm ông Nguyễn Đình Đầu, BK) trong hội thảo cho rằng Đắc Lộ “là người sáng nghĩ ra chữ Quốc ngữ”, mà chỉ là người học nói tiếng ta từ chính người Việt...”. Và nếu xác nhận như thế thì không có lý do gì để vinh danh ông linh mục này, và ông Nguyễn Đình Đầu cũng không cần phải nhọc công phản biện bài viết nghiêm túc của tôi về một vấn đề lịch sử bị hiểu nhầm qua nhiều thế hệ. Ngoài hai điểm vừa kể, bài viết của ông có nhiều điều bất cập, thiếu chứng liệu và chụp mũ. Dưới đây là một số chứng cớ: 1. XUYÊN TẠC TƯ LIỆU: Đoạn mở đầu, ông Nguyễn Đình Đầu cáo buộc tôi “đây là một bài báo xuyên tạc tư liệu lịch sử với ác ý vu khống kết tội cá nhân De Rhodes”. Kế tiếp, ông liệt kê một số tác giả mà ông cho là họ ca tụng Lm Đắc Lộ, nhưng không cho thấy tôi (Bùi Kha) đã xuyên tạc lịch sử như thế nào! Chẳng lẽ, ông muốn nói, có nhiều người nhất là nhiều linh mục và nhiều tờ báo đăng bài “ca tụng” Đắc Lộ tất nhiên phải là ĐÚNG hay sao, còn những ai, trong đó có Bùi Kha, viết theo đúng sử liệu thì tất nhiên phải là “xuyên tạc tư liệu lịch sử”? Chúng ta nghiên cứu lịch sử là cần dựa vào những sử liệu giá trị và những bài nghiên cứu nghiêm túc để kiểm chứng, đối chiếu phân tích nhằm đưa đến một kết luận khả dĩ chứ đâu phải dựa vào số đông để đánh giá một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử. 2. KIẾM ĐỒNG MINH VÀ CẮT XÉN CÂU VĂN CỦA NGƯỜI KHÁC: Và để kiếm thêm đồng minh, ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Cho nên, chúng tôi rất ngạc nhiên thấy tác giả Bùi Kha viết: “Vinh danh linh mục Đắc Lộ từ sự nhầm lẫn trong dịch thuật”. Ông lên giọng đánh giá giới khoa học bằng nhận định: Hầu hết các nhà nghiên cứu chưa đọc hết các tác phẩm của Đắc Lộ, đặc biệt là cuốn Hành trình và truyền giáo. Lời nói đầu cuốn Từ điển Việt Bồ La và cuốn Phép giảng tám ngày” [chữ đậm là của BK muốn nhấn mạnh]. Tôi viết “Chúng ta có cảm tưởng là hầu hết các nhà nghiên cứu…”. Ông Nguyễn Đình Đầu cắt xén dòng chữ “Chúng ta có cảm tưởng là” nên câu văn của tôi đổi nghĩa từ giả thiết đến khẳng định. Sở dĩ, tôi nghĩ như trên vì hai lý do: Một, Hội thảo lần thứ nhất là vào tháng 12/1992 và lần hai là tháng 3/1993 mà cuốn Phép giảng tám ngày mới in xong vào tháng 5/1993 còn cuốn Hành trình và truyền giáo chỉ mới được xuất bản năm 1994. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày của Lm Đắc Lộ không đáng để phê bình vì đó là tác phẩm “không đúng đắn”, không phải của một thừa sai trí thức. Còn cuốn Hành Trình và Truyền Giáo viết sai và xuyên tạc nhiều vấn đề. Xin đọc bài phê bình khá chi tiết của GS Trần Chung Ngọc đăng trên: http://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN50.php Hai, tôi nghĩ, những ai có đọc ba cuốn sách nói trên và nghiêm túc thì không thể chấp nhận: lối dịch thuật tùy tiện và đánh giá Lm Đắc Lộ theo kiểu của ông Nguyễn Đình Đầu như tôi đã trình bày khá rõ trong bài viết trước. Thiết tưởng tôi có lý do để nhận định như thế. Nhận định này có thể có chủ quan nhưng không phải “lên giọng” hạ thấp ai như ông Nguyễn Đình Đầu gán ép có hậu ý. Theo tôi, ông Nguyễn Đình Đầu dịch “plusieurs soldats” là “lính thừa sai”, đó là ngụy nghĩa, và dịch “La conquête de tout l’Orient” là “nước cha trị đến” là dịch tùy tiện vì không hiểu thế nào là “nước cha trị đến”. Còn Bùi Kha dịch “plusieurs soldats” là “lính chiến có súng để đánh giặc”, và “la conquête de tout l’Orient” là “chinh phục toàn cõi Phương đông” là dịch theo ý và sát nghĩa của tác giả Đắc Lộ. Tôi đã đưa ra 5 luận điểm, mà đúng ra là có nhiều hơn, để giải thích tại sao tôi dịch như thế. Còn ông Nguyễn Đình Đầu dịch nhưng ông đã không thể đưa ra một lý do nào. Do đó, tôi cho là một lối dịch đầy cảm tính để vinh danh sai lầm một người có nhiều oan trái với lịch sử nước ta. Nhân đây, tôi trích thêm một đoạn trong cuốn Hành trình và truyền giáo để xem Lm Đắc Lộ có muốn xin lính chiến (plusieurs soldats) hay không: “Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Ðàng Trong, ở Ðàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất.” (Sách Hành trình và truyền giáo, giữa tr. 264>). Để có thêm tư liệu so sánh xem Bùi Kha có vu khống cha Đắc Lộ hay không, mời ông Nguyễn Đình Đầu và độc giả tìm hiểu thêm Lm Đắc lộ, các vấn đề chính trị và tôn giáo trong thế kỷ XVII: a. Cao Huy Thuần trong Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 (Ðạo Công giáo và Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại Việt Nam 1857-1914). Đây là một luận án tiến sĩ quốc gia (docteur d’état) bảo vệ tại Pháp và đã được ban giám khảo đánh giá rất cao. ... Ðến Bắc Kỳ năm 1627, Linh mục de Rhodes nhận được ân huệ của Chúa Trịnh Tráng ngoài Bắc, .... Linh mục đã viết trong các báo cáo gởi về cấp trên như sau: “Vua xứ Bắc cho chúng tôi xây cất nhà cửa và nhà thờ gần hoàng cung. Tại đó, chúng tôi đã được giúp đỡ rất nhiều trong khi thi hành phận sự.”... Nhưng ở đây, cũng đã xảy ra những phản ứng như ở Trung Quốc và Nhật Bản. Chính phủ lo lắng khi thấy đạo mới tấn công thẳng vào các nguyên lý đạo đức và chính trị Nho giáo vốn là nền tảng của xã hội cổ truyền Việt Nam. Thật vậy, toàn thể cơ cấu chính trị và xã hội của nước Việt Nam xây dựng trên quan niệm đạo đức của Nho giáo: lòng hiếu thảo, sự thờ cúng ông bà, lòng trung với vua. Nhưng đạo mới từ Tây Phương đến lại muốn phế truất các quy luật tín ngưỡng cũ. Không những việc thờ cúng ông bà bị kết án quyết liệt mà lòng sùng đạo của con chiên phải đứng trên lòng hiếu thảo và lòng trung với vua.... “Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp một nhóm linh mục trẻ đang có quyết tâm biến việc đào tạo các linh mục này thành một công việc của Pháp. Ðó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Ðược Hoàng hậu Pháp và một vài nhân vật cao cấp ủng hộ, nhưng kế hoạch này bị Bồ Ðào Nha công kích mạnh mẽ, họ viện dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà Giáo hoàng Alexandre VI cho họ từ năm 1493. Alexandre de Rhodes chết năm 1660, khi chưa thấy được kế hoạch của mình thực hiện. Nhưng các cố gắng của ông đã thành tựu”. b. Stanley Karnow trong Việt Nam, A History. The First Complete Account of Việt Nam at War, (Việt Nam, Lịch sử. Mô tả đầu tiên đầy đủ về cuộc chiến Việt Nam) viết như sau: “Chẳng bao lâu Linh mục Alexandre de Rhodes nhận thấy rằng uy tín ngày càng phai nhạt nên Bồ Ðào Nha không còn ích lợi cho Gia Tô giáo ở Á Châu. Ông cũng toan tính rằng có thể chinh phục được “con tim và khối óc” con người một cách có hiệu quả bằng các giáo sĩ người Việt Nam hơn là người Âu Châu. Ông đến La Mã vận động xin hủy bỏ sắc lệnh của Giáo hoàng có từ thế kỷ 15 cho phép Bồ Ðào Nha độc quyền tại Á Châu. Nhưng ông gặp phải sự chống đối quyết liệt của người Bồ và khó lòng chinh phục được các giới chức ở La Mã, thế rồi ông trở về Pháp, quê hương ông, để xin giúp đỡ. Ðể thành công được chương trình dự định, ông thuyết phục các lãnh tụ tôn giáo và thương gia Pháp bằng một hình ảnh là nước Việt Nam đã đến giai đoạn chín muồi để dân chúng theo Công giáo, và là một quốc gia thần tiên với tài nguyên vô tận, ngay cả người đánh cá cũng dùng lưới làm bằng tơ lụa”. Ông NĐĐ có biết tại sao Giáo sĩ phải nói dối như thế? c. Avro Manhattan, trong Vietnam: Why Did We Go? The Shocking Story of the Catholic “Church’s” Role in Starting the Vietnam War (Việt Nam: Tại sao chúng ta đến đó. Chuyện chấn động về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam) viết như sau: “Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes đến Ðông Dương năm 1610. Một thập niên sau, ông gửi về cho Vatican và Pháp một bản phúc trình mô tả rất chính xác về tiềm năng thương mại, chính trị và chiến lược. Nhiều giáo sĩ Dòng Tên Pháp được tuyển mộ ngay và gửi sang giúp ông ta thực hiện hai công tác: đổi đạo theo Công giáo và bành trướng thương mại. La Mã và Ba Lê xem những hoạt động này như những bước khởi đầu không thể tách rời khỏi sự dẫn đến việc chiếm đóng về chính trị và quân sự trên các quốc gia này.” Đọc ba tài liệu trên trong vô số tài liệu của các sử gia nước ngoài, ông Nguyễn Đình Đầu nghĩ thế nào? 3. HÀI TỘI GIÁO HOÀNG ? : Ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Tác giả Bùi Kha tìm hết cách chứng minh Đắc Lộ luôn luôn vận động có nhiều lính chiến để chinh phục toàn cõi Đông Phương, kể cả những cách ngụy tạo hay xuyên tạc tài liệu lịch sử. Như khi ông khẳng định Giáo hoàng đã giao quyền “sinh sát”… thì một là ông nghĩ quá xa hai là ông có ác ý hài tội cho Giáo hoàng…”. Ðể tránh tình trạng có thể bị hiểu lầm hay “nhạy cảm” về tôn giáo, thay vì trích sắc lệnh của Giáo hoàng ở một sách khác, tôi trích từ sách Thập giá và lưỡi gươm của linh mục Trần Tam Tỉnh. Nguyên văn: “..., quyền lợi của Bồ Ðào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Romanus Pontifex” do (Giáo hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa thánh, Ðức Giáo hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Ðào Nha) “toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất, đô hộ và cướp tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn.” (Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Paris: Sudestasie, 1978, tr. 14-15). “Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Ðộ. Một nửa thế kỷ trước đó, thương thuyền Bồ Ðào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía Tây Châu Phi. Ít năm sau, năm 1497, Vasco de Gama, người Bồ Ðào Nha, đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Ðộ. “Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ “Inter caetera” (“giữa những điều khác”), Giáo hoàng Alexander VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân Phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một trăm dặm kể từ quần đảo Azores, còn Bồ Ðào Nha, tất cả các nước nằm ở mạn Ðông đường ranh đó (quần đảo Azores ở mạn giữa cắt đôi Ðại Tây Dương.” (Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14). Các Giáo hội Công giáo ở các quốc gia, dĩ nhiên, không ai dám phản đối các sắc lệnh của Giáo hoàng. Nhưng chính quyền các nước Âu châu ngay từ lúc có giáo lệnh của các Giáo hoàng, cho đến mãi về sau, đã không thừa nhận các giáo lệnh đó. Ngay cả nữ hoàng Elizabeth I (1533-1603) cũng phản đối. Năm 1540, vua Francis I của Pháp công khai chống đối ra mặt bằng câu mỉa mai: “Ai có thể chỉ cho ta thấy di chúc của ông tổ Adam giao tất cả thế giới cho Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha?” (“Who can show me the will of father Adam leaving all the world to Spain and Portugal?” trong This is America’s Story, của Howard B. Wider, Robert P. Ludlum & Harriett McCune Brown, do Houghton Mifflin Company, Atlanta, xuất bản năm 1975. trang 63). Tôi đã để hai chữ “sinh sát” vào ngoặc kép nhưng ông Nguyễn Đình Đầu hầu như muốn xách động và hướng vấn đề đến mục tiêu khác. Tuy nhiên, đọc đoạn trích dẫn trên chúng ta đã thấy Giáo hoàng không trao quyền sinh sát mà chỉ cho cướp của (chưa giết người) … và bắt làm nô lệ vĩnh viễn; về sau nạn nhân chết sống thế nào thì chưa ai biết được! Chẳng có ai “hài tội” Giáo hoàng vì lịch sử các Giáo hoàng nay đã không còn xa lạ đối với giới trí thức. Muốn biết các giáo hoàng ra sao, tôi khuyên ông Nguyễn Đình Đầu nên đọc một chút về lịch sử của một số giáo hoàng viết bởi Giáo sĩ Peter de Rosa trong cuốn “Vicars of Christ” hay của học giả Mỹ Lloyd M. Graham trong cuốn Deceptions & Myths of the Bible. Có bản tiếng Việt trên: www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php 4. LỜI THỀ CỦA DÒNG TÊN : Ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Không biết ông Bùi Kha đào đâu ra cái gọi là Lời thề Dòng Tên trên đây? Kẻ viết bài này thực tình run tay, hoa mắt khi phải nhắc lại đoạn văn vô nhân tính kinh tởm quá sức như vậy. Bất cứ cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng nào từ xưa đến nay hay ở nơi đâu đi nữa trên địa cầu lại có Lời thề dã man tương tự. Ông Bùi Kha trưng dẫn tư liệu (?). Ai cũng thấy Lời thề của ông Bùi Kha là không có thực”. Ông lại viết sai nữa. Lời Thề Dòng Tên là một văn kiện có thực. Tôi hoàn toàn thông cảm và chia sẻ tâm tình ông Nguyễn Đình Đầu, không tin được một văn kiện của Hội Thánh lại dã man như thế. Nhưng tài liệu về “Lời Thề Dòng Tên” đã được phổ biến rộng rãi trên Internet. Ông chỉ cần vào Internet, đánh ba chữ: “The Jesuit Oath” là ông có thể biết tất cả về Lời Thề Dòng Tên (hoặc theo mạng luới này: http://www.ianpaisley.org/article.asp?ArtKey=jesuit). 5. LÊN GIỌNG PHÊ PHÁN… : Ông Nguyễn Đình Đầu lại muốn kiếm thêm đồng minh rồi phịa ra điều mà tôi không hề viết: “Ông Bùi Kha lên giọng phê phán các thế hệ nghiên cứu học thuật, cả Viện sử học lẫn Hội sử học…”. Thực tế, tôi đã viết trong bài: “Là một người nghiên cứu sử, tôi xin mạn phép đề nghị với quý vị giáo sư sử học, nên có một dự án nghiên cứu đặc biệt về Lm Đắc Lộ để giá trị của ông được đánh giá đúng đắn…”. Mong ông NĐĐ nên thành thật; đừng thêm thắt và vu khống. Tôi nhận định vài người trong đó có ông Nguyễn Đình Đầu:“dịch thuật tùy tiện theo cảm tính… về hai cụm từ plusieurs soldats và La conquête de tout l’Orient”. Có thể đó là nhận định chủ quan, nhưng nên cho tôi có cái quyền nói lên điều đó. Ông Nguyễn Đình Đầu đã không đủ lý lẽ để phản biện, nên dùng phương pháp chụp mũ để áp đảo. 6. BÀI BÁO GÂY BẠO LOẠN… : Ông Nguyễn Đình Đầu cứ tiếp tục vu khống: “Tôi hết sức ngạc nhiên thấy một bài báo gây bạo loạn, chia rẽ dân tộc…”. Tôi chỉ viết bài biện chính cách dịch thuật nói trên chứ “chưa tuyên bố Thánh chiến”…, chưa đòi “chém Ông Thích Ca” như Lm Đắc Lộ thì bài báo của tôi gây bạo loạn chỗ nào? Và chia rẽ dân tộc chỗ nào? Nhận định về Giáo sĩ Đắc Lộ là chia rẽ dân tộc? Ông Nguyễn Đình Đầu hiểu nghĩa chữ dân tộc như thế nào? Một cá nhân, một giáo sĩ là dân tộc ư? Qua những công cuộc nghiên cứu, thì Giáo sĩ Đắc Lộ là một người có tội với dân tộc ta. Vậy phê bình để đồng bào ta biết rõ về ông làm sao có thể là gây bạo loạn hay chia rẽ dân tộc? Tóm lại, Chữ Quốc ngữ do hai giáo sĩ người Bồ là ông Amaral và Barbosa (chứ không phải do Lm Đắc Lộ như có một số người gán ép sai lầm hoặc có hậu ý). Chúng ta cũng biết rõ các giáo sĩ Bồ Đào Nha sáng tạo chữ Quốc ngữ từ mẫu tự La-tinh với mục đích duy nhất là để truyền đạo cho người Việt Nam; chứ không hề có hảo ý giúp người Việt dễ học và dễ đọc tiếng của nước họ bằng mẫu tự La-tinh. Về sau, thứ chữ này được sử dụng theo hai chiều hướng và hai mục đích khác nhau. Chiều THUẬN: Qua các thông tin văn hoá, nhất là Nam phong tạp chí và Đông Dương tạp chí, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… cũng góp phần sáng tạo và đại biểu xứng đáng trong quá trình hoàn chỉnh chữ viết tiếng Việt trong từng giai đoạn biến thiên của ngôn ngữ nước ta. Thời Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng loại chữ viết này để mở mang dân trí, xóa nạn mù chữ. Hướng NGHỊCH gồm có: - Linh Mục Đắc Lộ: Cuốn Phép giảng tám ngày viết bằng tiếng Việt và tiếng Pháp với mục đích để truyền đạo và bên cạnh đó ông đã sử dụng để công kích về Khổng, Lão và Phật giáo. Thật vậy, Khổng Tử được hầu hết người Trung Quốc xưng tụng là Vạn thế sư biểu, và nhiều học lý của Nho giáo vẫn còn giá trị đến ngày nay. Còn ông Phật Thích Ca được Liên hiệp quốc đánh giá là một vĩ nhân văn hóa của nhân loại. Thế nhưng, Lm Đắc Lộ đã sử dụng chữ Quốc ngữ để có những nhận định sai lạc: Ông phê bình Khổng Tử: “Chẳng phải hiền chẳng phải thánh mà độc dữ…” (Phép giảng tám ngày, trang 113). Và phê bình Nho, Lão, Phật:“Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống, ...” (Aleaxandre de Rhodes, Phép giảng tám ngày, trang 115 & 116, Tủ sách Ðại Kết, TP. HCM, 1993). Ông Nguyễn Đình Đầu trong phần cuối của bài phản biện đã bênh vực cho Lm Đắc Lộ như sau: “Ngày nay, chúng ta thấy Đắc Lộ phê phán Thích ca thực là điều đáng trách. Nhưng trên 350 năm trước đây, khi viết Phép giảng tám ngày, Đắc Lộ đã lựa chọn thái độ trọng Nho giáo (chữ đậm là của BK muốn nhấn mạnh) và chê Phật giáo…”. Ông Nguyễn Đình Đầu cứ viết mà không cần biết đúng hay sai! Đắc Lộ trọng Nho giáo chỗ nào qua đoạn văn vừa dẫn? - Giám mục Puginier: “…tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam (chữ Quốc ngữ, BK), rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Ðông”. - Trương Vĩnh Ký: Thư đề ngày 12/01/1882, từ Chợ Quán “Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa”, Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký viết rõ hơn về mục đích các tác phẩm của ông: “Thưa quí vị, Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn. Làm như vậy, ý định của tôi là để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam" (Nguyễn Sinh Duy, “Cuốn sổ bình sinh của Trương Vĩnh Ký”, NXB Nam Sơn, Sài gòn, tháng 3,1975). Do đó, một lần nữa, chúng ta nên nghiên cứu thêm để tránh việc vinh danh những kẻ nên lên án và lên án những người cần vinh danh. California, 8/12/2008 Lời thề của Dòng Tên The following is the text of the Jesuit Extreme Oath of Induction as recorded in the Journals of the 62nd Congress, 3rd Session, of the United States Congressional Record (House Calendar No. 397, Report No. 1523, 15 February, 1913, pp. 3215-3216), from which it was subsequently torn out. The Oath is also quoted by Charles Didier in his book Subterranean Rome (New York, 1843), translated from the French original. Dr. Alberto Rivera, who escaped from the Jesuit Order in 1967, confirms that the induction ceremony and the text of the Jesuit Oath which he took were identical to what we have cited below. Chúng tôi xin trích đăng bản Tuyên thệ cực đoan của Dòng Tên, nằm trong Biên bản chính thức của phiên thứ ba, Kỳ họp Quốc hội Liên Bang Hoa Kỳ lần thứ 62 (Dự luật được Nghị viện thông qua số 397, Bút lục số 1523, đề ngày 15 tháng 2 năm 1913, các trang 3215 đến trang 3216) (ngay sau đó đã bị loại ra). Bản tuyên thệ này cũng đã được Charles Didier trích dẫn trong cuốn “Subterranean Rome” (New York, 1843), dịch từ nguyên bản Pháp ngữ của Tiến sĩ Alberto Rivera, người đã xuất tu khỏi Dòng Tên vào năm 1967, khẳng định rằng nghi thức mở đầu và nội dung Bản tuyên thệ của Dòng Tên mà chúng tôi viện dẫn dưới đây chính là những gì ông đã từng trải nghiệm. … I furthermore promise and declare that I will, when opportunity present, make and wage relentless war, secretly or openly, against all heretics, Protestants and Liberals, as I am directed to do, to extirpate and exterminate them from the face of the whole earth; and that I will spare neither age, sex or condition; and that I will hang, waste, boil, flay, strangle and bury alive these infamous heretics, rip up the stomachs and wombs of their women and crush their infants' heads against the walls, in order to annihilate forever their execrable race… Tạm dịch: … Con xin tuyên hứa thêm rằng con sẽ, nếu có cơ hội, con sẽ gây ra và tham gia chiến tranh tàn nhẫn, bí mật hoặc công khai, chống mọi kẻ dị giáo, Tin Lành và Tự Do, như con được lệnh thi hành, tận diệt chúng khỏi mặt địa cầu; và con sẽ không chừa một ai, bất kể tuổi tác, nam hay nữ hay tình trạng xã hội; và con sẽ treo cổ, thiêu sống, luộc sống, mổ bụng, siết cổ và chôn sống những kẻ dị giáo ô nhục đó, phanh bụng moi bào thai của vợ chúng, và quật đầu con sơ sinh của chúng vào tường để tận diệt vĩnh viễn cái giống dân đáng ghét của chúng… Bùi Kha
  16. Hệ thống mã hóa lịch sử cho tất cả mọi mặt trong đời sống như văn hóa, tôn giáo, lễ nghi, kể cả các loại vũ khí chiến tranh...: Dựa trên học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng, kết hợp với các học thuyết và khái niệm trong tôn giáo cổ Văn Lang ở trên. Cấu trúc mã hóa dựa trên mức độ xa nhất của các nhân vật lịch sử tức tổ tiên của chúng ta, như đã phân tích chỉ cho tới người mẹ của Đế Hòa là kết thúc (gia phả không chép danh tính người cha). Lịch sử thời gian xa nhất ước khoảng 3100 trước Dương lịch, cách nay 5100 năm với sai số 50 năm. Còn trước đó nữa được gọi là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng. Năm 2897 trước Dương lịch là năm lên ngôi của Kinh Dương Vương, chắn chắn năm này được lấy làm mốc Âm Lịch mà các sử gia thời xưa đã không nói rõ, cho nên nó mới còn tồn tại cho đến Đại Việt sử ký toàn thư (trước đó là thời Lý Trần). Những cấu trúc mã hóa liên quan: - Thái cực - Lưỡng nghi - Tứ Tượng - Biến hóa vô cùng. - Nhất sinh Nhị - Nhị sinh Tam - Tam sinh vạn vật. - Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên. “Có một vật hỗn độn, sinh trước Trời Đất, yên lặng trống không, đứng một mình mà không thay đổi, đi khắp nơi mà không ngừng nghỉ. Có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, nên đặt tên nó là Đạo, gượng gọi tên nó là Đại - lớn...” (Lão Tử - Đạo Đức kinh). Liên hợp hai chữ lại thành tên Đại Đạo. - Chữ Đạo ở đây vượt ra khỏi Trời Đất hàm ý vượt ra khỏi khái niệm Âm Dương, Âm Dương vẫn thuộc đạo nhưng còn thiếu những lý tính đặc biệt, chúng được khái niệm ở trong Đạo giáo cổ Văn Lang. Đấy là lý do thuyết Âm Dương Ngũ Hành còn thiếu một số khái niệm khác nữa mới thành học thuyết thống nhất vũ trụ. Đạo tương đương Pháp Đại Uy Nỗ trên bộ tranh Ngũ Hổ Hàng Trống, nhưng còn phải mở hộp ấn nữa. Pháp Đại Uy Nỗ (Ngũ Hổ - liên hợp Hà đồ - Lạc thư) Tranh dân gian Hàng Trống - Cái khởi nguyên vũ trụ được khái niệm như là người mẹ, bào thai, cái trứng vũ trụ: Mẹ của vạn vật. - Vũ trụ vận độ tự thân do tiềm năng nội tại mang tính tự nhiên và ngay lập tức, quy ước "Dương trước Âm sau" do nhìn nhận từ kết quả hoạt động của vạn vật hữu tình trước hết. Cái trứng vũ trụ đã hoài thai ông Bàn Cổ, sau đến bà Nữ Oa và lý tính nguyên khởi "Thái cực biến" được gán cho Dương. - Tính chất cân bằng ban đầu của vũ trụ sao cho nó ở trạng thái hoàn toàn Tuyệt đối - khái niệm ngày nay hay /0/, bởi vì rằng đã có sự phân biệt "độ rỗng" (trạng thái hay đặc tính của không gian) giữa vật chất bản thể và ngay chính vật chất bản thể. - Cấu trúc Âm Dương Ngũ hành dựa trên sự hợp nhất của Hà đồ - Lạc thư. - Tiên thiên Bát quái và Hậu thiên Bát Quái. - Quy luật vạn vật trên trái đất vận động theo công thức: Hậu thiên Bát quái - Hà đồ (Lạc thư ẩn đi, chỉ thấy rõ trong Đông y). - Quy luật tương tác: Ngũ vận lục khí. - Quy luật tương tác: Thập thiên can và thập nhị địa chi, cho ra Lục thập hoa giáp (sau khi đổi chỗ Tốn Khôn). Điểm chí Dương và chí Âm của con người và động vật. - Khái niệm tối quan trọng: Khí. Khí nhẹ, trong bay lên thành trời; khí nặng, đục tụ xuống thành đất. Khí Âm Dương Ngũ Hành. Khí chính là vật chất bản thể trong trạng thái Thái cực và khi vũ trụ vận động. Đặc trưng thể hiện giai đoạn Hậu thiên là hình thể, lý tính và quy luật tương tác (giác quan con người và công cụ sử dụng bị giới hạn trong sự nhận biết đối tượng gọi là vô hình). Tương tác cũng là một hình thức vận động của khí quy ước chủ thể được nhận định trong mối tương quan giữa các khí Âm Dương Ngũ Hành, tương tác mức độ cực kỳ tế vi, tiệm cận "0" vẫn tồn tại hình ảnh, ánh sáng và âm thanh (sóng tế vi, rung động tế vi), đây chính là một trong những bí ẩn của công án thiền" Tiếng vỗ tay của một bàn tay". - Tổ hợp chu kỳ tương tác theo thời gian. Lịch Âm dựa trên tổ hợp thống nhất của các chu kỳ vận động tương ứng của trái đất, mặt trăng, mặt trời... các chòm sao Thiên cực Bắc. Ai về nhắn họ Hy Hòa, Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh. - Các chu kỳ sinh - vượng - mộ và sinh - lão - bệnh - tử của vạn vật hữu tình và thực vật. Đối với vũ trụ thì gọi là thành - trụ - hoại - không (Phật giáo). - Nguyên lý "Dương trước Âm sau", "Âm thuận tùng Dương", "Dương tịnh Âm động", "Dương trên Âm dưới", "Dương trái Âm phải", "Dương trong Âm ngoài": quy ước ngay sau khi Thái cực xuất hiện Lưỡng Nghi. - Hệ thống một tổ hợp Âm Dương Ngũ hành trong cùng một hệ quy chiếu và sự phân lớp tổ hợp Âm Dương Ngũ hành của toàn vũ trụ. - Quy tắc "đồng thanh tương ứng, đồng khí lương cầu". - Quy tắc phản chiếu của lăng kính (đây cũng là cái tên đầu đề của kinh Lăng Nghiêm và khi Lăng già tâm ấn trong Phật giáo). Các phương pháp ứng dụng cũng được mã hóa: - Chu dịch với các khái niệm quy ước lý tính cơ bản cho sự vật, hiện tượng theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành tương ứng với quy tắc bài trí theo công thức Hậu thiên Bát quái - Hà đồ. - Độn toán. - Tử vi. - Thái ất. - Huyền không phi tinh. - Độn giáp. - Các môn phong thủy cơ bản như Bát trạch để hình thành nên các môn sau đó. - Đông y: kinh, lạc, huyệt, khí Âm Dương Ngũ hành. - Yoga: kinh, lạc, huyệt và khí Tứ đại. Các công cụ không thể không có: - Cây nêu đo bóng mặt trời và sau hình tượng hóa thành cây nêu ngày Tết. - La bàn vô cùng quan trọng, xác định phương vị Bát Quái trên mặt đất và xác hai phương trên dưới trong không gian so với các chòm sao thiên văn. Đây là chứng tích quan trọng của văn minh Văn Lang, và sự sai khác của hai sao Thủy và sao Kim của hệ mặt trời và ngay chính hệ mặt trời trên toàn thế giới đã chứng tỏ nguồn gốc không phải từ các nền văn minh khác trên thế giới. Nền tảng quy ước bốn phương Đông, Tây, Nam và Bắc. Ngạn ngữ Đông Tây: "Mặt trời luôn mọc ở hướng Đông". - Quy ước bản đồ địa hình và thiên văn: đặt phương Nam lên trên theo cấu trúc Hà đồ - Lạc thư, thủ tục này ảnh hưởng cả văn minh Ả Rập, Chiêm Thành, Phù Nam... mà không hiểu tại sao khi định hướng la bàn qua phương Bắc. Quy ước thiên văn theo bốn phương: Long, Ly, Quy, Phượng và 6 chòm sao Thiên cực Bắc, cùng chòm sao Đại Hùng (Đại Hùng Bảo Điện trong chùa Phật) và chòm sao Nam Cực. Quy ước địa hình theo bốn phương: Long, Hổ, Quy, Phượng. Quy ước tượng "minh châu" trung tâm. - Chú ý con Kỳ Lân không phải con Nghê, không phải con Tỳ Hưu (mặc dù Trung Hoa biến hóa từ con Lân), cũng không phải là con Long Mã - "Long Mã phụ Hà đồ". - Con lắc cảm ứng: ứng dụng cảm xạ, đã thấy xa xưa trong văn minh Ai Cập và cổ vật Thương, Trung Hoa. - Quy ước cấu trúc Âm Dương Ngũ hành cho Hệ mặt trời, cái này thì cả thế giới bó tay chịu chết. - Thước Lỗ Ban: cái này thì thế giới hoàn toàn chịu thua. Mã hóa từ các khái niệm khác như: - Tâm - Hồn - Thần... - Vô cùng vô tận. - Vô hình và hữu hình. - Hữu hạn và vô hạn. - Trường cửu và không trường cửu. - Vạn vật đồng nhất thể. - Sự tương tác của toàn thể vũ trụ là ngay lập tức. - Cái nhỏ nhất và cái lớn nhất. - Sự tiến hóa của vạn vật và từ hầu nhân sang người như là khái niệm của "tiền thân con người". - Tính duy nhất của sự sống trên trái đất. - Tính lưỡng cực của sự sống như phân chia đơn bào. Mã hóa đặc biệt khác: - Đạo và Đức. - Chân lý và tự do. - Ánh sáng và bóng tối: Mặt trời ban ngày là chính Mặt trời, mặt trời ban đêm là Mặt trăng, mặt trời sự sống là Trái đất và mặt trời con người là Tâm linh. - Hồng phạm cửu trù và Nhân - trí - dũng. - Trống đồng biểu tượng cho vũ trụ quan và nhân sinh quan, còn cây Đa biểu tượng cho Cây đời, Cây sự sống mà từ đó sinh ra suối nguồn nước trường sinh, "nước bất tử". - Ý nghĩa của các cái tên người Việt Yue (một trong những ý nghĩa Bất Tử). Thông qua hệ thống: biểu tượng, ngôn ngữ và khái niệm.
  17. Keith Weller Taylor: Hành trình của một sử gia Nhà sử học Keith Weller Taylor (Mỹ) Keith Weller Taylor được coi là một trong những nhà Việt Nam học ngoại quốc nổi tiếng nhất ở Việt Nam cũng như trong giới học thuật quốc tế. Thường thì, một học giả nghiên cứu về Việt Nam hoặc chỉ có thể thành danh trong nước, hoặc ngược lại, chỉ được học giới nước ngoài tán dương, bởi sự chênh lệch giữa các lề thói làm việc. Nhưng, K.W. Taylor lại được cả hai. Vậy lý do đó là gì? Theo tôi, cần nhìn nhận ông cũng như những gì ông viết từ góc độ thân phận con người. Taylor là cựu chiến binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Cái “hội chứng” mà ông mắc phải thời Hậu chiến, những câu hỏi rằng: vì sao ông và nước Mỹ của ông lại thất bại trong một cuộc chiến không cân sức? Những người đánh bại ông là ai, họ đến từ đâu trong lịch sử thăm thẳm của nhân loại?1 có lẽ đã thôi thúc Taylor trở thành người xông pha miệt mài trong lĩnh vực Việt Nam học trong suốt quãng đời của mình. Thành tựu mà ông đã công bố trong lý lịch khoa học cá nhân (được cập nhật lần cuối vào 4/11/2014), bao gồm: ba chuyên luận cá nhân, ba cuốn sách viết chung, và hàng chục bài nghiên cứu chủ yếu về lịch sử và văn hóa Việt Nam, được đăng tải trên các tạp chí như Journal of Vietnamese Studies, Journal of Asian Studies, Journal of Southeast Asian Studies Vietnam Review, Asia Journal... Phạm vi của các tiểu luận khoa học không chỉ tiếp cận những vấn đề “bếp núc” của sử liệu học và sử học trải dài từ cổ sử cho đến lịch sử hiện đại, mà còn hướng đến các vấn đề tôn giáo, triết học, văn học, dân tộc học, Tiếng Việt lịch sử,... Không nghi ngờ gì nữa, Taylor chính là chiếc cầu nối, để đưa ra những diễn giải về lịch sử và văn hóa Việt Nam đến với thế giới sử dụng Anh ngữ trong vòng 40 năm qua. Trong 40 năm ấy, Taylor xuất hiện như người nhạc trưởng của giới nghiên cứu Việt Nam học ở nước ngoài, những quan điểm và lý thuyết của ông đã gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu khác như Li Tana, Victor Lieberman, Choi Byung Wook,... Cũng trong 40 năm ấy, ông đã liên tục đào tạo nên nhiều thế hệ nhà Việt Nam học trẻ/ mới khác như C. Liam Kelley, Peter Zinoman, Duong John Phan, Claudine Ang, B. Zottoli,... để Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu về Việt Nam học. Chừng ấy thôi, cũng đã đủ thấy những công sức mà Taylor đóng góp cho giới học thuật. Bài viết này sẽ nhìn nhận K.W. Taylor như một thực thể của lịch sử qua hai mốc chính trong sự nghiệp nghiên cứu của ông: The Birth of Vietnam (1983) và A History of the Vietnamese (2013). Kẻ chiến bại hát theo giọng của người chiến thắng Đây có lẽ là một nhận xét sẽ khiến một số người giật mình. Nhưng theo tôi, chính “giọng hát” này là điều tạo nên sự thành công của Taylor ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây. Ngoài một số bài viết sắc sảo hoặc rất chuyên sâu bếp núc2, Taylor được biết đến chủ yếu qua chuyên luận nổi tiếng The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 10 SCN. Đó là một công trình tham khảo về quá trình đấu tranh cho sự tồn tại và độc lập của người Việt chống lại người láng giềng phương Bắc3. Nhưng chuyên luận này, theo tôi, chỉ có giá trị chủ yếu ở phương diện: nó là một kênh truyền tải tiếng nói của các nhận thức lịch sử ở trong nước [Việt Nam] đến với giới học thuật quốc tế thông qua lăng kính khúc xạ mang tên K.W. Taylor. Taylor có một lợi thế rất lớn khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: góc độ của người đứng bên ngoài, gần như không chịu áp chế của chính trị từ bên trong, nhưng ông đã nhanh chóng phá bỏ ranh giới ấy, nhìn lịch sử Việt Nam với con mắt của người Việt Nam (hoặc ít nhất bằng con mắt của một số sử gia Việt Nam). Ông đã nhìn như thế nào? Ông nhận thức được rằng, “chiến tranh Việt Nam” là một yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên cung cách viết sử ở Việt Nam. Ông hiểu rằng: ông là người ở bên kia chiến tuyến, và có lẽ vì thế, sau khi thất trận, ông đã thử nhập thân vào cách suy nghĩ của người bên này lằn đạn, để hiểu xem họ thực sự đang nghĩ gì. Nhưng dường như ông đã “nhập vai” hơi đạt quá, dùng lại những khái niệm mà sử gia Việt Nam và người dân Việt Nam đã và đang sử dụng. Nào là “truyền thống”, “bản sắc của người Việt”, “quốc gia”, “dân tộc”,... Tức là ông đã sử dụng những khái niệm mới hình thành trong thế kỷ XX (khi Việt Nam va đập với chủ nghĩa thực dân) để tư duy về những đối tượng lịch sử xuất hiện trước đó cả ngàn năm. Riêng khái niệm “Việt Nam” cũng đã phức tạp rồi! “Việt Nam thống nhất” của năm 1975 trở về sau khác với “Việt Nam chia tách” của thập niên 1960, Việt Nam thập niên 1960 lại cực kỳ khác so với nước “Đại Cồ Việt” (chỉ nằm ở đồng bằng sông Hồng đầy đầm lầy và lau sậy vào cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI), lại càng khác so với cái được gọi là “nhà nước Âu Lạc”,... Liệu chúng ta có thể đánh những dấu bằng an nhiên theo đẳng thức {Việt Nam = Đại Cồ Việt = Âu Lạc = Bách Việt} hay {văn hóa Bách Việt= văn hóa Âu Lạc = văn hóa Đại Cồ Việt= bản sắc văn hóa Việt Nam}? Chúng ta hãy xem ông lập luận: Đôi khi, người ta tưởng tượng rằng: “cốt cách bản địa Việt Nam tính” đã sống sót, không hề hấn gì dưới ngọn lửa cai trị của Trung Quốc. Ở một khía cạnh nào đó, điều này là đúng, ví như tiếng Việt đã sống sót, cũng như những huyền thoại của Việt Nam từ thời kỳ “tiền Trung Quốc” đã sống sót. Nhưng cả ngôn ngữ lẫn những truyền thống huyền thoại của Việt Nam cũng đã biến thể qua những giao tiếp với Trung Quốc.4 Khi ông phát ngôn như vậy, ông đã coi rằng đã có/ đã tồn tại một “cốt cách bản địa Việt Nam tính” trước khi người Hán xâm lược vào thế kỷ III TCN, ông đã coi rằng tiếng Việt và các huyền thoại bản địa thời Tiền Trung Quốc cũng tồn tại từ đó. Cốt cách đó/ bản sắc đó tồn tại dai dẳng hơn 12 thế kỷ cho đến khi người Hán chấm dứt vai trò cai trị ở mảnh đất này dù bản sắc đó đã ít nhiều bị Hán hóa. Dẫu ông biết rằng “người Việt Nam thế kỷ X rất khác so với tổ tiên của họ trước đó 12 thế kỷ”, nhưng ông đã thụt lùi, ít nhất khi so sánh với giới ngữ học trong nước như Nguyễn Tài Cẩn chẳng hạn5. Taylor có một lợi thế rất lớn khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: góc độ của người đứng bên ngoài, gần như không chịu áp chế của chính trị từ bên trong, nhưng ông đã nhanh chóng phá bỏ ranh giới ấy, nhìn lịch sử Việt Nam với con mắt của người Việt Nam (hoặc ít nhất bằng con mắt của một số sử gia Việt Nam). Ông cũng đã mặc nhiên cho rằng, các huyền thoại truyền miệng thời cổ về giai đoạn lịch sử cổ xưa là một loại tư liệu có tính sử liệu, nó tồn tại trước cả chữ viết. Điều đó có nghĩa là ông chưa thể tách bạch được hai chuyện: cái có thể nhận thức được và cái chưa bao giờ có thể xác định được là có thể nhận thức được hay không. Như thế, Taylor bỗng nhiên trở thành một biểu hiện di thực của chủ nghĩa dân tộc quốc gia ở nước ngoài. Ông bắt đầu viết lịch sử Việt Nam bằng chương 1 “Lạc hầu” với “những truyền thống thuở sơ khai”6 qua Lĩnh Nam trích quái - tác phẩm văn học thuộc thể loại “chí quái” [ghi chép về những chuyện quái dị], hay những cóp nhặt “huyền thoại” trong sử liệu của Việt sử lược hay Đại Việt sử ký toàn thư. Theo tôi, thay vì chú tâm bóc tách xem các huyền thoại có phần lõi sự thật lịch sử nào không, thì ông nên tìm hiểu vì sao những câu chuyện đó được sáng tạo ra, quá trình sáng tạo và biến đổi của chúng ra sao, chúng được sửa đổi với những động cơ gì, trong bối cảnh lịch sử - văn hóa nào... Tức là hãy nhìn các huyền thoại đó từ góc độ của lịch sử văn học, lịch sử văn hóa, chứ không phải lấy nội dung trong đó làm cứ liệu của ngành khoa học lịch sử. Như trên đã nói, việc dùng lại những khái niệm, cùng những thao tác của giới học giả bản địa, đã khiến cho Taylor bị mắc bẫy: “Những huyền tích này cũng biểu lộ sự thực tâm lý cơ bản của xã hội Việt Nam thời cổ: quyền tối cao của xứ sở đến từ biển khơi. Lạc Long Quân là vị thần biển. Chúng ta đã thấy có một số chi tiết trong những huyền tích Việt Nam cũng giống như những huyền tích của những xứ sở ở ven biển Đông Nam Á. Khái niệm về một vị thần biển như biểu tượng của quyền lực chính trị và tính chính thống, đi cùng với sự hình thành của dân tộc Việt Nam thời tiền sử, chính là dấu hiệu sớm nhất đã cho ta thấy rằng người Việt Nam là một dân tộc tự giác và đặc thù. Chính khái niệm này đã được biểu hiện qua nghệ thuật trống đồng Đông Sơn với những con chim biển và những động vật khác vây quanh những chiếc thuyền chở các chiến sĩ.”7 Đoạn văn trên cho thấy, tác giả đang chấp chới giữa việc nghiên cứu lịch sử với các lĩnh vực khác như: nghiên cứu văn hóa folklore hay văn học trung đại. Ông cho rằng huyền tích thể hiện biểu tượng, còn biểu tượng có khả năng có một cốt lõi lịch sử nào đó. Cái cốt lõi ấy lại được củng cố bằng các cứ liệu khảo cổ học, như trống đồng Đông Sơn. Dù có thể biết rằng, “trống đồng Đông Sơn” chỉ là tên gọi được hình thành trong đầu thế kỷ XX khi các hiện vật trống đào được tại làng Đông Sơn (Thanh Hóa), nhằm để định danh cho một cộng đồng người nào đó trong số vô số các chủ thể văn hóa đã tạo nên một bản đồ trống đồng dày đặc ở khắp địa bàn Nam Trung Hoa và Đông Nam Á ngày nay. Công thức {tài liệu văn học viết + văn học truyền khẩu + tài liệu khảo cổ học} đã ít nhiều có tác dụng. Chẳng những bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa quốc gia dân tộc, Taylor còn bị ám ảnh vô thức bởi sự cường điệu về sức mạnh của nông dân trong tư duy của người Việt Nam thế kỷ XX. Ví dụ, như khi ông viết về Đinh Bộ Lĩnh để khái quát hóa về “nghệ thuật sinh tồn” của người Việt: “Trải qua nhiều thế kỷ, quan niệm của người Việt Nam về vương quyền dần dà được vây bủa bằng lớp lý thuyết và những quy cách của Trung Quốc, nhưng ở nguồn gốc nó vẫn duy trì cái tính chất đặc biệt của người nông dân Việt bướng bỉnh và thông minh đã nắm vững được nghệ thuật sinh tồn. Người sáng lập nền quân chủ của nước Việt Nam độc lập ở thế kỷ thứ 10 không phải là người được uốn nắn bởi truyền thống đế quốc Trung Hoa, mà chỉ là một nông dân quê kệch, từng trải chiến trận để đạt được hai thành tích là thống nhất được người dân Việt và giữ vững được nền quốc phòng. Hai đức tính thiết yếu ấy đã soi đường cho mọi nền lãnh đạo chính trị của Việt Nam cho tới tận ngày nay”.8 Kết luận về bộ ba {“nông dân” + “từng trải chiến trận” + nghệ thuật sinh tồn} có lẽ là một kết luận xuất phát từ sự trải nghiệm của bản thân tác giả qua lần tham chiến vào đầu thập kỷ 1970. Và dường như ông đã muốn khái quát nó như một nét hằng xuyên trong lịch sử Việt Nam bằng ví dụ tương tự về Đinh Bộ Lĩnh - người được coi là thống nhất “12 sứ quân”, được coi là nguồn gốc nông dân (là trẻ chăn trâu). Nhưng có một sự thực khác, rằng Đinh Bộ Lĩnh có gốc gác quan lại quý tộc, bố ông là Đinh Công Trứ - Thứ sử Châu Hoan kiêm Ngự phiên Đô đốc9. Việc Taylor quá tin tưởng vào những huyền thoại được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư giống như nhiều người khác ở Việt Nam đã khiến cho kết luận của ông chỉ là sự minh họa cho một ý tưởng có trước. Nói chung, với cuốn The Birth of Vietnam (1983), Taylor đã mất gần 400 trang viết, để chứng minh cho một định đề có sẵn: truyền thống Việt Nam được xây dựng bởi một dân tộc thống nhất, một quốc gia thống nhất suốt từ giai đoạn thế kỷ X trở về trước cho đến thế kỷ X, và từ thế kỷ X đến thế kỷ XX. Và nếu, Taylor chỉ dừng lại ở đó, thì sẽ không có nhiều điều để bàn luận. Ông dần nhận ra rằng, cần phải đứng ra ngoài các phe phía để nhìn lại quá khứ. Một sử gia cần phải nói bằng giọng nói của chính mình, chứ không phải là hát lên bằng cổ họng của người khác. Cuốn A History of the Vietnamese được ra đời là vì thế! Khi sử gia tìm được giọng nói của chính mình Như trên đã nói, may thay, Taylor có lẽ đã hoài nghi với những gì mình viết vào năm 1983. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài BBC vào năm 2003, ông đã nói: “Quyển sách của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ... Cho nên, tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học”10. Nhận thức được điều đó, ông đã tự thanh tẩy toàn bộ/ hoặc phần lớn những tri thức của mình về lịch sử Việt Nam. Taylor đã dành hơn hai chục năm vừa rồi để viết lại những nhận thức KHÁC. Chính vì vậy, trong cuốn sách mới này, ông chỉ dành vỏn vẹn 30 trang, để xóa bỏ hết những gì đã viết trong gần 400 trang của cuốn The Birth of Vietnam. Ông lấy An Dương Vương làm vị vua khởi đầu của lịch sử11, và gần như đã không đề cập gì đến những huyền thoại Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân- Âu Cơ (bọc trăm trứng), Sơn Tinh- Thủy Tinh, Tản Viên, Chử Đồng Tử,... nữa. Cả khái niệm “Bách Việt” do người Hán sáng tạo để áp đặt/nô dịch tinh thần những cộng đồng dân cư khác Hán ở Phương Nam, đến đây cũng đã bị loại thải. Cái quan niệm của chủ nghĩa huyết thống tập thể, rằng “tất cả những người có cùng quốc tịch (bất kể thuộc về dân tộc nào) đều là những người cùng huyết thống, là cùng một bọc sinh ra, là đồng bào, anh em cốt nhục”..., đến đây, cũng đã được cho vào quên lãng. Ông viết rằng: “nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian... Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật”12. Ông cũng nói rõ rằng, những gì mà các sử thần thời Trần và Lê sơ đã làm khi biên soạn những bộ sử đầu tiên của người Việt là cắt dán, lắp ghép các nguồn tư liệu Hán văn cho phù hợp với sự tưởng tượng về quá khứ và tổ tiên của mình, nhằm tạo ra lịch sử của phương Nam trong thế đối chọi với lịch sử của phương Bắc. Sử Tàu dài bao nhiêu sử Việt nhiều từng ấy, họ có gì thì ta có đó. Với cách làm như vậy, phần lớn sử thần Nho gia thời trung đại đã mắc bẫy các sử thần Nho gia Trung Hoa, bằng cách kéo nhập lịch sử Việt Nam “đồng nguyên” [cùng một gốc] với lịch sử Trung Quốc. May thay, Taylor có lẽ đã hoài nghi với những gì mình viết vào năm 1983. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài BBC vào năm 2003, ông đã nói: “Quyển sách của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ... Cho nên, tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học”. Trở lại với vấn đề mà Taylor phát biểu: “ham muốn nhận thức về tổ tiên” với “nỗ lực học thuật để hiện thực hóa ham muốn ấy”, ông có hàm ý rằng, không phải bất cứ một hành vi nghiên cứu nào để thể hiện tình yêu dân tộc và đất nước cũng đều cho ra các thành tựu khoa học, có khi nó chỉ cho ra các kết quả có sẵn được nhiều người ưa thích, để cùng bình luận, tán thưởng trong không khí khải ca, chứ chưa chắc đó đã có ích gì cho nhận thức và quá trình cải tạo thực trạng cuộc sống. Tình yêu về đất nước con người không phải lúc nào cũng đồng hành tịnh tiến với nỗ lực học thuật, và ngược lại. Người Việt và các sử gia Việt cần phải duy lý hơn chăng!? Taylor phát biểu: “tôi tin rằng, công việc của giới sử học là nhìn vào những gì may mắn còn sót lại từ quá khứ trong mối quan hệ tương hỗ với sự tồn tại của những người đương thời, chứ không phải là bằng chứng về những người được coi là tổ tiên của người hôm nay.”13 y xem ông đã ngoảnh lại nhìn những đồng nghiệp trong nước như thế nào: “Các học giả Việt Nam đã/ đang nỗ lực triển khai dự án để đẩy bản sắc dân tộc trở ngược về quá khứ xa nhất có thể. Trong thời kỳ hiện đại, điều đó đã trở thành phổ thông/ phổ biến với người Việt khi họ xác nhận lịch sử quốc gia kéo dài 4.000 năm, cho đến tận thời điểm mà các niên đại và hiện vật khảo cổ học được tập hợp và phân loại trong nền văn hóa Phùng Nguyên... Nhiều học giả người Việt toan tính vạch đường “chỉ đỏ xuyên suốt” ở lĩnh vực văn hóa, thậm chí cả ở ngôn ngữ - dân tộc, [để chứng minh] sự phát triển nối liền từ thời Phùng Nguyên đến tận Việt Nam hiện đại.”14. Ông viết tiếp về cách thức trình bày, và biên soạn như sau: “Trong cuốn sách này, tôi kết hợp một tự sự chính trị theo tuyến tính lịch đại, với trình bày theo đề mục thuyết minh, và thảo luận về địa lý, giáo dục, tư tưởng, ngôn ngữ, văn học, tôn giáo, xã hội, chính quyền, kinh tế, và chiến tranh... Như một thám sát hoa tiêu, cuốn sách này cung cấp một điểm vào/ một lối vào lịch sử Việt Nam, và chưa thể phát quật hết khối sử liệu đã tạo nên những ý tưởng của tôi. Nó hy vọng sẽ cung cấp những phác thảo về quá khứ người Việt bằng việc sử dụng các thông tin về chính trị, hành chính, kinh tế, và văn hóa”.15 Như lối nói của Taylor, ông đang cố gắng viết lại lịch sử Việt Nam với tính đa diện, đa chiều của nó, lịch sử Việt Nam không phải chỉ là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm, lịch sử của chính trị với vua chúa và quan lại, mà còn là lịch sử của thơ ca, nghệ thuật, thương mại... Trong cuốn sách với bố cục 13 chương, tác giả có ý phân kỳ làm bốn giai đoạn chính: Giai đoạn đầu: trình bày về mảnh đất (nay gọi là Bắc bộ) là một khu vực địa lý hành chính của chính quyền Trung Hoa trong nhiều thế kỷ. (Chương 1) Giai đoạn hai: bốn thế kỷ của thời Lý- Trần, trong đó quý tộc Phật giáo xác lập quyền lực ở đồng bằng sông Hồng. (Chương 2 và 3). Giai đoạn ba: bốn thế kỷ đóng góp của triều Lê với những vị vua gốc xứ Thanh, Khổng giáo là tư tưởng chính thống, người Việt mở rộng về phía Nam, và giai đoạn dài chia cắt lãnh thổ bởi chiến tranh. (Chương 4, 5, 6, 7 và 8). Giai đoạn bốn: hai thế kỷ gần đây nhất, quốc gia Việt Nam hiện đại đã thành hình. (Chương 9, 10, 11, 12 và 13). Đọc cả cuốn sách, chúng ta thấy, Taylor “đang nỗ lực dấn vào một lối đi mới” bằng cách “tạo ra một tự sự về hơn 2000 năm của lịch sử Việt Nam”16. Để cuối cùng ông đi đến một vài nhận định cho người bản địa, rằng: quá khứ của Việt Nam là chuỗi dài của những thử nghiệm thất bại trong việc tổ chức và trị lý xã hội17, rằng bất cứ hành động nào muốn thay đổi chính trị ở Việt Nam đều liên đới đến chính giới Trung Quốc từ xưa đến nay. Còn nhiều nhận định khác nữa về căn tính văn hóa, về xung đột vùng miền, về tính thống nhất của lịch sử, tính nhất nguyên dân tộc ở Việt Nam,… trong cuốn sách này, sẽ gây ra nhiều thảo luận trái chiều, thậm chí gay gắt. Chưa bàn đến đúng/sai một cách chi tiết, nhưng việc người Việt luôn để các học giả nước ngoài “nghiên cứu hộ/suy nghĩ hộ” về chính mệnh vận của mình âu cũng là một việc bất đắc dĩ, bởi ngoài những bất cập về cơ chế, hạn hẹp về kinh tế,…người Việt hiện vẫn đang hãm mình trong những quán tính của quá khứ, của những tư duy hậu phong kiến và hậu thực dân! ------------------------------------------------------------------------- Chú thích: 1. Lời nói đầu Preface. The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), p.xv. 2. "Voices within and without: Tales from Stone and Paper about Do Anh Vu," (Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), pp. 59-80. 3. Kent Blaser. Review The Birth of Vietnam by Keith Weller Taylor. The History Teacher. Vol.18. No.1 (Nov., 1984). pp.152-153. 4. ibid. P.xv. 5. Với “hộ chiếu” do Stalin cấp cho giới ngôn ngữ học: ngôn ngữ không có tính giai cấp, Nguyễn Tài Cẩn đã kết luận rằng tiếng Việt chỉ có lịch sử 12 thế kỷ (từ thế kỷ 8 đến nay). Nguyễn Tài Cẩn. 1998. Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của Tiếng Việt. TC Ngôn ngữ, số 6/1988. Tb2001. Trong Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. P.401-411. 6. “Lac Lords”- “The Earliest Traditions”. Ibid. 1983. P.1-7. 7. Ibid. 1983. P. 6-7. 8. Ibid. 1983. P.vi. 9. Trần Trọng Dương. Đinh Bộ Lĩnh - loạn sứ quân: từ sử liệu đến sử thực. TC Nghiên cứu và Phát triển. Huế. Số 01/2012. Trần Trọng Dương. Loạn 12 sứ quân? TC Tia sáng số 14, 20 7/ 2013. tr.50-53. Trần Trọng Dương. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. TC Tia sáng số 16- 20.8.2013. tr.36-38. 10. Bài phỏng vấn BBC (London). 26-6-2003. Nguồn link: www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/.../030912_keithtaylor.shtml 11. Ibid. 2013: pp.14-17. 12. A History of the the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.3). 13. Ibid. Pp.3. 14. A History of the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.2-3). 15. A History of the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.6-7.) 16. C.L. Kelley. Review of “A History of the Vietnamese by Keith Weller Taylor”. (Điểm sách Lịch sử dân tộc Việt Nam của Keith Weller Taylor). Journal of Vietnamese Studies, Volume 9 (1) – Jan 1, 2014. 17. Ibid. 2013. Pp.620.
  18. Nhưng Đức Phật đã truyền giảng: Nghiệp quả có nghiệp lực rất mạnh. Và nếu Tử Vi là nghiệp quả của kiếp trước thì con người cũng phải trả quả xong đã. Do đó, nếu đi tu mà thay đổi được nghiệp quả - giả thiết được phản ánh trong Tử Vi - thì nghiệp lực không có tác dụng sao? Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó". Nghiệp lực vô cùng mạnh, tới lúc đó mỗi người đều trải qua, nếu quan sát thì hình như nó có vẻ... vô cùng khó thay đổi được dù, rất nhỏ (do vậy, cần nhìn nhận gốc rễ và phòng ngừa, chẳng hạn sử dụng phong thủy ở tầm tương tác phân lớp của vũ trụ). Có bài viết nói là "Chư Phật" chứ không phải "chư tăng". Ngày xá tội vong nhân 15 tháng Bảy âm lịch cũng chính là ngày mất của Phật Bà Quán Âm - tức Bà Chúa Ba, Phật Bà Chùa Hương.
  19. Nói đến cấu trúc dữ liệu Âm với một phần mà lại cực kỳ quan trọng đó chính là dữ liệu "thông linh" giữa thế giới vô hình - cõi Âm và cõi trần, chúng được lưu giữ theo thời gian và trong một chừng mực nào đó đã bị "phai mờ" đi, rồi sau này cứ tưởng là đã được xây dựng bởi những người đang sống. Chẳng hạn, bộ kinh Du già (yoga) địa sư luận của Di Lạc Bồ Tát - bộ kinh này do đại sĩ Vô Trước sống cách đây 1600 năm xuất hồn lên cõi trời Đâu suất và được Di Lạc Bồ Tát thuyết giảng và ông ghi lại nguyên văn. Bộ kinh này cực kỳ siêu việt, gồm 100 quyển dày đặc từ chuyên môn tâm lý, nói về toàn bộ biến chuyển tâm lý vô cùng tế vi của con người, dù là ở cõi nào và chỉ ra từng cấp tu chứng "địa" để đạt đạo quả. Nếu so nó với bộ môn tâm lý hiện đại có khác gì lấy biển cả so với giọt nước. Cho nên, một số sách cứ lấy ông chúa này, ông thánh nọ nói vài câu mà giải thích đủ mọi thứ thì khác gì một con ếch đã bị người ta nhốt cho chỉ bởi dăm lời nói, nằm trọn lỏn trong chiếc chai thủy tinh mà cứ kêu lên be be, có những câu lằng lặc cho là ông Chúa nói: "chiếm thành rồi sẽ giết hết chúng nó đi, chỉ để lại đàn bà con gái... để cho tao 300 con cừu béo, 40 gái còn trinh" - chả hiểu ra làm sao cả. Trước tiên, là không tin, phải đi tìm và được chứng nghiệm, ít nhất một phần. Có thể hiểu: có học thuyết, phương pháp ứng dụng, bậc thầy hướng dẫn, có người chứng thực và phản ảnh tiến trình và hệ quả, rồi cứ thế kiểm tra, điều chỉnh, sáng tạo... 84.000 pháp môn nảy sinh (phải xem lại tiến trình lịch sử nhất là thành quả đạt được). Trong Phật giáo và Đạo giáo: Xá lợi Phật Tiên là một ví dụ. Lịch sử Việt được tóm tắt theo các sách ngày nay: - Nước Văn Lang có 15 bộ, thuộc Bắc Bộ, bộ Phong Châu trung tâm là Phú Thọ và kinh đô Văn Lang đóng ở đây. - Biên giới có giới hạn phía Nam là nước Hồ Tôn và sử sách cho Hồ Tôn là nước Chiêm Thành (Chămpa): Nước Văn Lang Bắc tới hồ Động đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Nam hải. - Nước Văn Lang hình thành từ thế kỷ thứ VII trước Dương lịch: vẫn đang ở trần, đóng khố nhưng lại đúc được trống đồng mà ngay nay làm cũng không được âm thanh như vậy?. - Có 18 chi Hùng Vương trị vị đất nước, chưa rõ ràng tổng số đời vua. Cho tới thời Âu Lạc với An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (phải chăng là kinh đô hay thành chiến thời chiến tranh Âu Lạc - Tần?) nhưng cũng không rõ An Dương Vương là người ở đâu. Tiếp theo là nhà Triệu nước Nam Việt, đóng đô ở Quảng Đông, cũng đang trong mù mờ giữa mối quan hệ Âu Lạc và Nam Việt. - Tiếp theo là lịch sử hào hùng và bi tráng của Hai Bà Trưng thu phục lại giang sơn gấm vóc, lên ngôi vua, rồi sau đó thất thế hy sinh oanh oanh liệt liệt mà chẳng cần phải lên tiếng hỏi ai về cái chết này cả, vô cùng vĩ đại. Hai Bà Trưng là những người cùng thời với ngài Jesus, nên nhớ như vậy. Giai đoạn này cả Israel và Nam Việt đều cùng trong thời kỳ bị ngoại bang đô hộ, Israel thì bị La Mã còn Nam Việt thì bị Hán đô hộ. Tên nước thời Hai Bà? - Có rất nhiều dân tộc cùng nhau chung sống trên một diện tích rất nhỏ, gồm 54 dân tộc anh em (nước có sử, gia có phả, đạo có thần tích). Đây là điều đặc biệt nhất so với các quốc gia trên toàn thế giới, ngay cả với Trung Hoa. - Nền văn hóa nông nghiệp làm nền tảng với lúa nước, lúa nương và trồng dâu nuôi tằm 10 lứa, với các phong tục, tập quán mang tính phổ quát của xã hội: lễ hạ điền - thượng điền với tục chọi trâu, bò; dựng nêu ngày tết âm lịch, tục xăm mình vùng hải đảo, tục trầu câu lễ cưới hỏi và các ngày lễ khác, tục tang ma và thất tuần 49 ngày, tục trẻ em phải khoanh tay trước người trên (hình ảnh của chòm sao Orion X), tục cài áo bên trái, tục đầy tháng, năm, lễ thành nhân - vấn danh... - Biểu tượng trống đồng Đông Sơn (mô phỏng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và tôn giáo cổ đại thông qua các ngày lễ nghi nông nghiệp, với các thiên tượng, địa hình, nhân ý: biểu tượng học thuyết thống nhất vũ trụ, khi đánh trống thì tiếng trống vang lên như tiếng nổ bigbang, tiếng nổ khai thiên lập địa - ý nghĩa này nằm trong câu truyện Bàn Cổ khai thiên lập địa, còn trong Lý học không chỉ rõ bigbang trong chuỗi khái niệm: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng biến hóa vô cùng). - Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các ứng dụng, cùng các triết thuyết tôn giáo như Nho, Lão, Thần hay Phật sau này (sách sử không xác định vấn đề này). - Đạo chủ chốt: thờ ông bà tổ tiên và các vị tiên, thần, thánh (đều là nhân thần) và chúa (đạo Mẫu). - Chữ viết Khoa đẩu: chữ kiểu nòng nọc? Triết gia Kim Định cho rằng đó là chữ viết thời Tây Chu?. Còn nhà giáo Đỗ Văn Xuyền đã giải mã ra và gọi nó là kiểu chữ Hỏa tự? Vị trí hồ Động Đình trên bản đồ Bản đồ thể hiện hồ Động Đình và các con sông chính chảy vào nó Về mặt khảo cổ hiện nay, chúng ta chưa khai quật được những ngôi mộ của các vua Hùng gần nhất như Hùng Duệ Vương (đời gần cuối trong một chi) tức Hùng Vương thứ XVIII, An Dương Vương, cho tới Triệu Vũ Đế, Mỵ Châu, Trọng Thủy, vấn đề này rất đáng lưu ý bởi vì lăng mộ Triệu Văn Đế - cháu của Triệu Vũ Đế đã phát lộ ở tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa. Thực sự, nếu một trong những di tích này phát lộ thì mọi chuyện gần như đã an bài về mặt lịch sử. Chúng ta hãy chờ xem, các bậc thầy tâm linh trong cõi vô hình đã cho phép khai quật chưa!. Anh hùng phải được "nhìn nhận lại hết" mới ra Thái Bình!.
  20. Trao đổi ý kiến với tiến sĩ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ Hoàng Kỳ Thứ bảy, 03 Tháng 4 2010 10:16 Tạp chí Hồn Việt có đăng 2 bài báo của TS Bùi Kha (California):“Nguyễn Trường Tộ và vấn đề chủ hoà” số 30 (12-2009) trích dẫn một số báo cáo của các tướng viễn chinh Pháp gửi về nước phản ánh tình hình khó khăn bi đát của quân đội chúng để kết luận rằng đề nghị chủ hoà của NTT là sai lầm nghiêm trọng, những lời khuyên và nhận xét hoàn toàn sai lạc về tình thế về lịch sử mà NTT viết trong bản Điều trần, giả sử ông không có hậu ý giúp Pháp thì ông cũng nên được lịch sử phê phán cho đúng mức vì đề nghị sai chỉ có lợi cho Pháp mà thôi; bài “Nguyễn Trường Tộ và kế hoạch “làm cho dân giàu nước mạnh”” số 31(1-2010) phân tích những ý kiến đề xuất của NTT trong Lục lợi từ là sai nên chúng ta có thể đổi tên bản Điều trần Lục lợi từ của NTT thành Lục hại từ . Trước hết rất cảm ơn TS Bùi Kha đã có công phu sưu tầm tài liệu về NTT để giúp ta đánh giá đầy đủ hơn về nhân vật này. Song xin phép TS chúng tôi có vài ý kiến trao đổi thêm một số suy nghĩ của mình về sự đánh giá của TS. Trước hết phải thấy rằng NTT là một người công giáo gốc nên nặng tư tưởng về tôn giáo và ý thức về tôn giáo chi phối những suy nghĩ của NTT (như ý kiến của TS) là điều chắc chắn và đó là những hạn chế của ông. Nhưng cho rằng “NTT khéo léo lồng tư tưởng tôn giáo vào hầu hết những bản Di thảo (nên gọi là bản Điều trần, từ Di thảo là sau này ta gọi) để một mặt thì hăm doạ, mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận” như TS đã viết, là không thoả đáng! Tất nhiên với trình độ một người từ Hán học chuyển qua Tây học được thời gian có 3 năm (1858-1861) khi qua Singapore, Hồng Kông, Malaixia...,1 năm qua Pháp và ý (từ tháng 1-1867 đến tháng 2-1868) và chỉ là học mót chứ không qua trường lớp chính quy thì tất nhiên là sự hiểu biết còn nông cạn, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng không vì thế mà ta sổ toẹt tấm lòng ưu dân, ái quốc của NTT và thất bại của triều đình nhà Nguyễn không phải là do nghe lời của NTT vì những bản Điều trần lúc đầu của ông không hề được triều đình để ý gì, các bản về sau có được xem xét nhưng cũng chẳng ăn thua gì. NTT có chủ hoà trong thời gian đầu khi thấy so sánh lực lượng của quân đội triều đình với quân Pháp quá chênh lệch, với mục đích là để có thời gian củng cố lực lượng, xiết chặt hàng ngũ của ta trước một đội quân xâm lược có vũ khí tối tân hơn và ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị. Rất nhiều những bản điều trần về sau NTT đề xuất về việc tu chỉnh võ bị như: Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (Di thảo số 44);Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (Di thảo số 50). Hơn nữa lúc đầu ông hiểu nhầm là bọn Pháp chỉ yêu cầu được tự do giảng đạo, xin mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40). Do đó cho rằng NTT trước sau đều chủ hoà là không đúng. Về ý kiến: “NTT và kế hoạch “làm cho dân giàu nước mạnh”, TS có nhắc đến một mục trong bản điều trần là “Làm hột nổ và khai thác mỏ than”(Di thảo số 5) và chỉ trích “không hề thấy trong bài ông trình bày phương pháp nào cả!”. Tôi nghĩ: có sai là ở chỗ NTT nêu đề mục không phù hợp thôi, chứ một bản điều trần gửi lên triều đình ông chỉ nêu lên nguyên lý khái quát: “Điều cốt yếu để thực hiện các phương pháp trên, trước hết phải có khí cụ (...).Nói tổng quát thì phương pháp đúc súng đạn và chế hột nổ cần nhất ở cơ học, và có cả quang học giúp vào. Còn phép đúc kim loại và khai thác mỏ than thì cần nhất về cơ học và có hoá học giúp vào. Về phép lái tàu thì cốt ở quang học và có trắc lượng học, toán học giúp vào...”. Thiết nghĩ, đây không phải là giáo trình để dạy cho kỹ sư hay công nhân mà phải trình bày cách làm cụ thể đầy đủ như yêu cầu của TS. Ông chỉ nêu như thế để có thể đề nghị nhà vua cho mở các trường dạy kỹ thuật mà sau này ông đã trình. Còn về sáu điều lợi mà TS nêu ra trong bài thì có chỗ sai như sau: Điều thứ 5. Thông hiếu với giáo hoàng: “Ngày nay nếu ta biết qua lại giao thiệp với các nước lớn phương Tây...Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng...Nếu Giáo hoàng cho việc giúp ta là phải, thì mọi người đều vui lòng thực hiện, ta không lo người Pháp không nghe...”.Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bản Di thảo này(trang 135-151) ở trong cuốn NTT con người và Di thảo của Trương Bá Cần, thì thấy những dòng TS đã viết chỉ ở 6 dòng cuối Điều thứ 4: “Thứ tư là nhờ nước khác lấy danh nghĩa mà áp chế họ” dài 32 dòng. Sáu điều lợi NTT trình bày chính là chủ trương ngoại giao đa phương do NTT đề xuất, việc mà hiện nay đảng ta cũng chủ trương như vậy, chứ không phải như TS võ đoán là: “Bang giao với Vatican. Đây là một trong hai chủ đích chính trong bản Điều trần này của NTT, còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt rỗng ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình thoả hiệp với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách lược tôn giáo hoá Việt Nam(TS BK cho in đậm). Điều đó cũng có nghĩa là để cho Pháp dễ cai trị Việt Nam”. Đó là thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý! Xin lưu ý rằng một người bị triều đình và dân chúng thì nghi ngờ vì là người công giáo lại đã có thời gian làm việc cho Pháp nên dù có nhiều hiểu biết NTT cũng khó lòng bày tỏ được tấm lòng yêu nước của mình. Trước sau NTT đều thể hiện tâm sự lo lắng của một sĩ phu trước sự tồn vong của đất nước, theo lý tưởng của những tín đồ Khổng giáo: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Tâm sự đó ông đã nhiều lần bày tỏ, đặc biệt là trong bản Trần tình gửi cho triều đình (Di thảo số 3) ông đã từng gửi thư cho Phan Thanh Giản: Mặt trời cho dẫu không soi đến/ Hướng Dương xin vẫn nếp hoa quỳ. NTT đã nói rõ tấm lòng mình đối với đất nước khi do vì cách phân biệt đối xử của nhà vua đối với người công giáo, ông buộc lòng phải sống với người ngoại bang: Nguỵ Tào sống gửi: Từ Nguyên Trực/ Tần Lã không thờ: Lỗ Trọng Liên. Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân; có điều kiện để có thể “vinh thân phì gia” nếu sẵn sàng cộng tác với giặc, nhưng vẫn quyết từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà nhưng vẫn một lòng lo cho đất nước, vẫn vắt hết tâm can của mình suy nghĩ kế hoạch đề xuất với triều đình để làm cho dân giàu nước mạnh, chống được ngoại xâm; sẵn sàng giúp cho tổng đốc Nghệ An hoàn thành việc đào Kênh Sắt, công việc mà từ thời nhà Lê đã phải bỏ gián đoạn, giúp cho sau này phát huy tác dụng rất lớn trong công cuộc chống Mỹ cứu nước; nhiệt tình giúp cho dân xã Nghi Đồng (Nghi Lộc-Nghệ An) dời đến vùng đất khí hậu và đất tốt, tránh được hoạ diệt vong; tài giỏi trong việc giúp cho các họ đạo ở Sài Gòn, Xã Đoài xây dựng nhà thờ, nhà Chung...chỉ trong một thời gian ngắn (10 năm). Thử hỏi những người được đi du học chính quy, đầy đủ ngày nay đã mấy người đóng góp được như vây? Nếu NTT có ý hai lòng như TS viết thì vua quan Tự Đức đã xử ngay thời ấy rồi chứ không chờ đến nay phê phán. Nhân dân cả nước nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng, các học giả như các giáo sư Lê Thước, Nguyễn Lân..., nhà chí sĩ Phan Bội Châu chắc cũng không thể hiểu lầm được về con người NTT. Tôi nghĩ đến người phải từ giã cõi đời giữa lúc tuổi còn trẻ, còn nhiều hoài bão thiết tha giúp dân giúp nước, với tâm sự đau đớn “Nhất thất túc thành thiên cổ hận”(một lỡ bước đi muôn thuở hận) vì có thời gian sai lầm là làm việc cho Pháp (tuy mục đích của ông khi nhận làm cho chúng là để trung gian giúp cho triều đình trong việc thương lượng chuộc lại ba tỉnh) không thể có tâm địa như TS họ Bùi đã viết. Có thể có những đề nghị của NTT chưa đúng và đầy đủ do những hạn chế như đã nêu trên nhưng đại bộ phận đề nghị canh tân của ông về nông nghiệp, công nghiệp, tài chính, quốc phòng, giáo dục, văn hoá khoa học kỹ thuật...rất đáng trân trọng và có một tầm hiểu biết đi trước thời đại hàng trăm năm. Do đó đánh giá về NTT cần công bằng và thể tình, không nên có những nhận định quá quắt và ác ý. Hoàng Kỳ-Cựu giáo chức Thay mặt các giáo viên trường THPT Nguyễn Trường Tộ-TPVinh-Nghệ An
  21. Bàn lại lịch sử hình thành Kinh Dịch-2 Hà văn Thùy Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện tại Đông Phi khoảng 180.000 năm trước. Đó có thể do cuộc hôn phối của người đàn ông duy nhất với 3 người đàn bà, sinh ra 3 đại chủng: Europide (da trắng), Australoid (da đen) và Mongoloid (da vàng). Người tiền sử từ Đông Phi đi lên Trung Đông từ rất sớm nhưng do bức thành băng hà chắn phía bắc nên không thể đi tới châu Âu. Khoảng 90.000 năm trước, một đợt di cư lên vùng đất của Israel hiện nay nhưng bị tuyệt diệt. Đợt thứ hai là đi về hướng mặt trời mọc. Cuối năm 1998, Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc (Chinese Human Genome Diversity Project), cung cấp những dữ liệu cho thấy cuộc hành trình của người hiện đại sang phương Đông như sau: - Khoảng 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ Trung Đông theo ngả Nam Á tới Trung và Bắc Việt Nam. Tại đây hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng Indonesien, Melanesien tràn lan khắp lục địa Đông Nam Á. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á di cư tới châu Úc, sau đó là New Guinea và các đảo ngoài khơi. Khoảng 40.000 năm trước, do băng hà tan, khí hậu trở nên ấm áp, người từ Đông Nam Á đi lên khai thác lục địa Trung Hoa. Do sống theo từng nhóm riêng rẽ trong thời gian dài trên địa bàn rộng, người Đông Nam Á đã phân ly thành những bộ lạc khác nhau mà sau này lịch sử gọi bằng tên chung là Bách Việt. Ban đầu người Việt mang theo những công cụ đá mài mà tiêu biểu là loại búa đá lưỡi cong (gọi là phủ, việt) nên tên người Việt được viết với bộ Qua. Khoảng 15.000 năm cách nay, những lớp người tới sau mang theo giống lúa, khoai sọ và gà, chó từ Văn hoá Hoà Bình Việt Nam lên, phát triển nông nghiệp lúa nước trên lưu vực Dương Tử rồi Hoàng Hà. Lúc này tên người Việt được viết với bộ Mễ để ghi nhận chủ nhân của cây lúa nước. Cho đến thiên niên kỷ thứ IV TCN, người Bách Việt sống tại duyên hải Á Đông có nhân số chiếm tới 54% nhân loại, trong đó người Lạc Việt có khoảng 15-20%, giữ vai trò lãnh đạo về ngôn ngữ và xã hội. Người Bách Việt xây dựng nền văn minh nông nghiệp sớm và rực rỡ nhất thế giới và là người giỏi đi biển, có những con thuyền đủ sức làm chủ biển Đông.(10) Tại di chỉ Bán Pha 2 tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc, được định tuổi 12.000 năm trước, năm 2003 các nhà khảo cổ phát hiện chiếc bình gốm cổ đựng trà, trên đó có văn bản được khắc bằng chữ tượng hình cổ chứng tỏ rằng, vào thời đó người Việt đã có chữ viết. Tại di chỉ Giả Hồ với 9000 năm tuổi, cũng phát hiện những ký tự khắc trên mai rùa cùng những ống sáo làm bằng xương chim hạc, đó là những nhạc cụ xưa nhất của người hiện đại được khám phá. Chính ở đây cũng tìm thấy rượu được làm bằng gạo, mật ong và táo gai. Dựa vào trình độ văn minh của người Bách Việt, ta có thể đoán rằng, vào thời kỳ này, người Bách Việt đã có những hiểu biết cần thiết về thiên văn với sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao gần gũi. Kinh nghiệm dự báo thời tiết đã phong phú và biết làm lịch. Người Việt cũng khám phá ra Âm Dương, Ngũ hành. Có thể vào thời kỳ này công cụ bói toán là những quẻ bói ra đời. Những nghiên cứu di truyền học cũng cho thấy, khoảng 30.000 năm trước, một số nhóm Mongoloid từ Đông Nam Á theo con đường Ba, Thục lên định cư tại Tây Bắc Trung Quốc. Đó là tổ tiên của những bộ lạc Mông Cổ thiện chiến sống du mục trên các đồng cỏ Thiểm Tây, Cam Túc. Sau này, được khoa học định loại là chủng Mongoloid phương Bắc. Có thể hình dung bức tranh thời tiền sử trên lãnh thổ Trung Hoa như sau: Ít nhất vào khoảng 30.000 năm cách nay, người Bách Việt đã có mặt khắp 18 tỉnh của Trung Quốc. Ở vùng phía Bắc có tình trạng: sống cách nhau con sông Hoàng Hà nhưng giữa người Bách Việt và người Mông Cổ là hai thế giới khác biệt. Dù phải sống trên thảo nguyên khô lạnh và khắc nghiệt nhưng người Mông Cổ do phương thức sống du mục nên không thể lùa đàn gia súc qua sông Hoàng tới vùng đồng bằng lầy lội. Mãi sau này, khi thấy những người nhỏ bé, có sắc da đen, tóc xoăn, trồng lúa nước sống nhàn hạ và sung túc bên kia sông, người Mông Cổ nảy lòng tham, mưu toan chiếm đất của Bách Việt. Khoảng 2600 năm TCN, một số bộ tộc Mông Cổ du mục do họ Hiên Viên dẫn đầu, vượt sông Hoàng Hà, chiếm Thiểm Tây, Sơn Tây… Do người Bách Việt quá đông, chống cự kiên cường nên người Mông Cổ lâm vào trận chiến dai dẳng, ác liệt, chịu nhiều thiệt hại. Sau trận quyết chiến Trác Lộc, tuy diệt được thủ lĩnh Việt tộc là Đế Lai, chiếm được một phần đất đai nhưng người Mông Cổ vẫn thường xuyên bị tấn công trong một trận chiến du kích trường kỳ. Mặt trận càng mở rộng thì quân Mông Cổ càng phải dàn mỏng ra và lâm vào tình thế bất lợi. Từ thực tế chiến trận, kẻ xâm lược nhận ra: không thể toàn thắng người Việt bằng bạo lực. Mặt khác, từ thực tế cho thấy nguồn thức ăn dồi dào, đất đai rộng rãi, người đông đúc nên không bắt buộc phải tàn sát diệt chủng hoặc nô lệ hoá kẻ bại trận. Do vậy, ở những nơi chiếm được, người Mông Cổ thực thi chính sách mềm dẻo: dành cho người Mông làm quan cai trị, làm công nghiệp, thương nghiệp, để cho người Việt giữ nguyên quyền cày cấy trên đất của mình, đi lính, làm tạp dịch và đóng một mức thuế vừa phải. Nhận thấy người Việt hiền lành, ưa cuộc sống tự do, thích ca múa… nên các thủ lĩnh Mông Cổ tôn trọng nếp sống của người Miêu Việt, dùng âm nhạc, ca múa phủ dụ. Nhờ vậy, dần dần giữa người Mông và người Việt xây dựng được cuộc chung sống tương đối hoà thuận. Do sống chung đụng, đã có cuộc hoà huyết giữa người Bách Việt và người Mông Cổ, tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam. Việc hoà huyết này như phản ứng dây truyền tràn lan rất nhanh, chỉ vài ba thế hệ, phần lớn người Việt trong vùng bị chiếm cũng như người Mông Cổ chiếm đóng biến thành chủng Mongoloid phương Nam. Sắc dân này trở nên thành phần chủ thể của dân cư thời Đào Đường, nhà Hạ, Thương, Chu. Khi Lưu Bang lập nước Hán thì được gọi là người Hán. Trên thực tế, người Hán chỉ ra đời từ sau năm 2600 TCN, là con lai giữa người Mông Cổ phương Bắc và người Bách Việt. Do mang hai dòng máu của Viêm Đế và Hoàng Đế, người Trung Hoa sau thời Hoàng Đế đã tiếp thu hai nguồn văn hóa Bách Việt và Mông Cổ để xây dựng nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ, trong đó có việc hoàn thiện công cụ bói toán. Có thể công cụ bói toán mà sau này có tên là Dịch được ra đời như sau: Khám phá thiên nhiên huyền bí là khát vọng lớn lao của con người. Khát vọng lớn lao không kém nữa là dự đoán những may rủi, họa phúc đến với cộng đồng cũng như tới số mệnh của từng con người. Một công cụ để bói toán là điều bức xúc. Do quan sát thiên nhiên, dần dà con người biết được sự vận hành của mặt trăng, mặt trời, các vì sao cùng mối liên quan của chúng với Trái đất. Người ta cũng phát hiện ra hai yếu tố Âm, Dương cùng với Ngũ hành sinh khắc chi phối toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ. Tới một lúc nào đó, những trí tuệ sáng láng nhất trong cộng đồng hình dung ra Vũ trụ là Thái cực như một vòng tròn chứa nghi Âm và nghi Dương. Lưỡng nghi cọ xát thành Tứ tượng, Tứ tượng cọ xát thành Bát quái… Do quen với chữ Nòng Nọc nên lúc đầu người ta dùng Nòng 0-0 để ký hiệu nghi Âm và Nọc 0 ký hiệu nghi Dương. Tới lúc nào đó, hai ký hiệu toán nhị phân trên được cải tiến thành vạch đứt - - tượng trưng cho Âm, vạch liền – tượng trưng cho Dương. Chồng những tượng Âm, Dương lên nhau thành Tứ tượng rồi Bát quái, trùng quái là việc không mấy khó. Cái khó hơn, khiến đau đầu người xưa là làm cách nào bố trí hợp lý 8 quái trên hoành đồ rồi viên đồ. Càng khó hơn khi bố trí một thứ tự thỏa đáng cho 64 quẻ trong mối tương quan đa chiều giữa quẻ này và quẻ khác trên phương đồ, viên đồ… Bằng sự kiên trì của loài kiến, dần dần người xưa cũng tìm ra Bát quái khả dĩ phục vụ cho mục đích của mình: Tiên thiên Bát quái. Có thể Phục Hy là người sáng chế ra Bát quái Tiên thiên này mà cũng có thể Ngài đã tổng kết hàng nghìn Bát quái trong dân gian để thành Tiên thiên Bát quái. Rồi dùng Tiên thiên Bát quái như một la bàn, Phục Hy đã sắp xếp vị trí 64 quẻ theo trật tự hợp lý nhất, đó là Trùng quái Phục Hy. Trùng quái Phục Hy trở thành cuốn sách bói truyền đến Thần Nông dưới tên Liên Sơn, tới Hoàng Đế có những bổ sung cải tiến và được gọi là Quy Tàng. Hai công cụ bói toán này truyền qua thời Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương… Trong dân gian người ta cũng dần dần phát hiện ra những bất cập, những sai lệch của Liên Sơn, Quy Tàng. Vì vậy tự nhiên, không ít đề nghị cải tiến sách bói được đưa ra. Theo truyền thuyết, Văn Vương là thánh nhân đáp ứng được việc này. Có thể do chính Ngài phát minh ra, cũng có thể Ngài tổng hợp những phương án xuất hiện trong dân gian, thành Bát quái mới mà sau này được gọi là Hậu thiên Bát quái hay Bát quái Văn Vương. So với Bát quái của Phục Hy, Bát quát Văn Vương là thành tựu nổi bật vì là 1 trong 24 đồ hình đạt được 6 đối xứng (theo Trần Quang Bình). Dựa vào Hậu thiên Bát quái, Văn Vương bố trí lại 64 quẻ rồi trước tác quái từ, hào từ, đưa sách bói thành công cụ bói ưu việt và Dịch ra đời. Năm trăm năm sau Văn Vương, Khổng Tử san định Dịch, viết Thập dực, làm cho Dịch có diện mạo như hiện nay và được xếp vào Ngũ kinh. Dựa vào phát hiện những dấu vết Dịch trên gốm Phùng Nguyên, trên trống đồng Đông Sơn, việc tìm thấy bản Dịch tại Mã vương đôi miền Hồ Nam cùng những bản sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế bên sông Hoàng Hà, ta có thể nhận định rằng: Bát quái, trùng quái được người Bách Việt sáng tạo trên địa bàn rộng lớn từ bên sông Hồng sông Mã, tới Dương Tử, Hoàng Hà. Không phải ngẫu nhiên mà trên quốc kỳ của Đại Hàn dân quốc có đồ hình Thái cực và Bát quái. Họ chính là hậu duệ cùa dòng U Việt mà tổ tiên từ 3-4 nghìn năm TCN đã góp phần sáng tạo ra Dịch. Có thể có tình huống thế này: cũng như những chiếc búa đá mài được người Hòa Bình đưa lên Trung Nguyên, sau đó là giống lúa, giống gà, giống chó… Bát quái, trùng quái cũng được người Phùng Nguyên sáng tạo rồi theo chân người Việt di cư mang tới bên sông Dương Tử, Hoàng Hà. Việc sáng chế là một quá trình hàng ngàn năm, bắt đầu là Bát quái Tiên thiên rồi Bát quái Hậu thiên. Đến khi người Phùng Nguyên khám phá ra Bát quái chuẩn, là Bát quái Lạc Việt thì xảy ra sự cố người Mông Cổ xâm chiếm đất đai Bách Việt. Cuộc di cư lên phía bắc từ hàng vạn năm bị chặn đứng. Do không có người đi lên mà chỉ có người chạy loạn trở về nên nhiều yếu tố mới của văn hóa phương Nam, trong đó có Bát quái Lạc Việt không được đưa lên phương Bắc. Tíếp đó là những tao loạn thời Chiến Quốc càng làm khó con đường đi lên của người Việt. Tiếp theo là Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Vương rồi nhà Tần xâm lăng. Không còn cách nào khác, người Âu Lạc đành khắc Bát quái Lạc Việt lên trống đồng để cất giữ. Do người xưa ký thác một cách quá bí hiểm nên kẻ xâm lăng phương Bắc thủ đắc trống hơn 1000 năm cũng như con cháu sau này tuy có tìm thấy trống cũng không thể giải mã nổi. Đến ngày nay, nhờ cố công của nhiều thế hệ người Việt và nhờ vào phương tiện khoa học hiện đại, những tác giả như Đoàn Nam Sinh, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình tìm lại được đồ hình Bát quái Âu Lạc trên trống đồng, tranh Đàn Lợn của Làng Hồ, tranh Ngũ Hổ đình Hàng Trống… Cố nhiên những khám phá này cần được kiểm chứng công nhận sự chính xác. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng vô cùng biết ơn người Trung Hoa anh em có công cực kỳ lớn lao trong việc tiếp thu sách bói Liên Sơn, Quy Tàng từ tổ tiên Bách Việt rồi bỏ công sức, trí tuệ xây dựng nên kinh Dịch với diện mạo hiện nay, một đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. 2/ Khi đi tìm công cụ bói toán, người xưa buộc phải khám phá bản chất cùng sự vận hành của Vũ trụ. Không phải duy nhất một con đường đến La Mã thì cũng không phải chỉ một con đường duy nhất phát hiện bản chất vũ trụ là việc bói cỏ thi. Có thế là cùng với những quẻ Dịch, đã phát hiện ra hai công cụ bói toán khác là Hà đồ và Lạc thư dùng để bói rùa. Dựa vào việc bố trí những chấm Âm, Dương trên Đồ, Thư được vẽ trên mai rùa, khi nướng vỏ rùa, người ta căn cứ trên những vết nứt để định quẻ rồi giải đoán bằng Dịch. Như vậy là, dù được sáng tạo ra một cách độc lập nhưng Hà đồ, Lạc thư cùng phục vụ cho việc bói toán. Do cùng là những công cụ mã hóa bản chất và sự vận hành của Vũ trụ nên Đồ, Thư và Bát quái có những tương đồng do quy chiếu vào bản chất vũ trũ. Tới thời gian nào đó, Đồ và Thư được gộp chung vào Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch. Khi san định Chu Dịch, Khổng Tử thấy trước mắt mình tất cả Quái, Đồ, Thư nên Ngài mặc nhiên tin rằng cả 3 là thành phần bất khả phân ly của sách Dịch. Vì vậy Ngài cho rằng, thánh nhân (những vị tài giỏi sống rất lâu trước mình) nhận được Đồ, Thư từ sông Hà sông Lạc rồi theo đó vạch quẻ: “Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tắc chi.” Chính lời nói này khiến cho hậu thế nhầm theo là từ Hà đồ, Lạc thư mà làm ra Bát quái. Điều này không đúng với logic của tư duy: Quái đơn giản hơn Đồ, Thư nhiều nên theo tư duy logic thông thường, quái phải được làm ra trước Đồ, Thư. Hoặc giả cả ba cùng được tìm ra một cách riêng rẽ. Dầu sao mặc lòng thì cũng không thể từ Đồ, Thư mà làm ra Bát quái. Và quả như những chứng minh ở trên cho thấy, Đồ, Thư không liên quan tới Bát quái. Khổng Tử đã lầm nhưng cháu ông là Khổng An Quốc lại lầm hơn khi đưa ra những yếu tố dị đoan là con Long mã trên sông Hà, con Thần quy trên sông Lạc. Sự thêm thắt vô sở cứ này dẫn hậu nhân đến hoang đường lầm lạc và khiến cho hậu thế gọi ông là tội đồ của Dịch. III/KẾT LUẬN 1/Từ chứng minh ở trên, ta có thể tin được rằng, kinh Dịch nguyên là công cụ bói toán do người Bách Việt sống từ sông Hồng, sông Mã tới Dương Tử, Hoàng Hà sáng tạo. Khoảng 2800 TCN, Phục Hy đã từ những đồ hình Bát quái lưu hành trong dân gian, sáng tạo ra Tiên thiên Bát quái. Dựa vào cái la bàn này, Ngài đã sắp xếp một cách tương đối thỏa đáng các quẻ trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, trở thành sách bói toán hữu dụng. Văn Vương dựa vào những bát quái do dân gian phát hiện, đã sáng tạo nên Hậu thiên Bát quái rồi từ đây điều chỉnh vị trí các quẻ và sáng tác quái từ hào từ, đưa cuốn sách bói toán trở thành Chu Dịch. Bằng công trình san định của mình, Không Tử đã đưa Chu Dịch trở thành bộ kinh điển đứng hàng đầu trong kho tàng tri thức nhân loại. 2/Tuy nhiên tới nay cũng chưa thể nói kinh Dịch là tác phẩm hoàn chỉnh, không còn điều gì để bàn bạc sửa chữa. Đọc bộ Dịch do Chu Hy truyền lại, không thiếu những chỗ người đọc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng là chỉ dấu cho thấy điều này. Dịch vốn là công cụ bói toán, vậy mà gần hai ngàn năm nay, những nhân tài xuất chúng về bói toán chỉ đếm không hết trên đầu ngón tay, cho thấy bản thân công cụ bói toán có vấn đề. Vấn đề ở đây là do người Trung Hoa chỉ có thể đạt tới Bát quái Văn Vương với 6 đối xứng. Từ Bát quái bất toàn này đã dẫn đến những thiếu sót nghiêng lệch trong viếc sắp xếp các quẻ, khiến việc viết quái từ, hào từ, thập dực thiếu chính xác. Tôi cho rằng, Tiên thiên, Hậu thiên, rồi Trung thiên đồ chỉ phản ánh từng bước con người khám phá sự vận hành của vũ trụ. Do nhận ra đồ hình Bát quái của Phục Hy còn thiếu sót bất cập, trước thời Văn Vương, người xưa đã tìm ra một đồ hình khác. Khi đặt tên cho đồ hình mới này là “Hậu thiên”, thì đồng thời gọi đồ hình của Phục Hy là “Tiên thiên” để phân biệt. Về nguyên tắc, Tiên thiên Bát quái là vô nghĩa, vì lúc đó Vũ trụ chưa sinh, thì làm gì đã có những Càn, Khôn cùng sự vận hành? Một vũ trụ chưa có (tiên thiên) làm sao có thể tác động tới con người ở thời Hậu thiên? Nhưng trên thực tế, Tiên thiên đồ đã là công cụ bói toán hữu hiệu. Điều này chứng tỏ cái tên “tiên thiên” đặt cho đồ hình Phục Hy là không chuẩn. Ngày nay, khi nhận ra sự thiếu sót bất cập của Bát quái Văn Vương, con người cần phải tìm ra bát quái tiến bộ hơn. Tác giả Trần Quang Bình có công đã tìm ra Bát quái chuẩn (Bát quái Lạc Việt). Từ đây, công việc phải làm là xây dựng bộ Dịch mới theo chỉ đạo của Bát quái chuẩn: xếp lại đồ hình của 64 quẻ cho thật chính xác, từ đó chỉnh lại những chỗ chưa phù hợp của quái từ, hào từ, hệ từ… Cũng trong ý nghĩa trên, Trung thiên đồ là một bước trung gian tiến tới đồ hình chuẩn. Khi phát hiện ra đồ hình chuẩn, Trung thiên đồ không còn cần thiết nữa. 3/ Dịch là cuốn sách triết lý về Vũ trụ và nhân sinh nên sự chính xác của những luận đoán của nó phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí, tức tọa độ của người dùng Dịch, do sự chi phối của lực hút Trái đất cùng tác động của các thiên thể. Giữa Việt Nam và Trung Quốc có khoảng cách về địa lý, múi giờ khác nhau. Dịch do người Trung Hoa làm ra như hiện nay chưa thật chính xác đối với người Trung Hoa thì độ chính xác sẽ kém đi đối với người ở vĩ độ khác. Xin dẫn ra đây một thí dụ từ bài viết của Nguyễn Thiếu Dũng: “Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển: Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.” Vì vậy nên chăng, người Việt Nam nên dựa vào Bát quái Lạc Việt làm ra cuốn Dịch Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho nhân dân, đất nước mình? 4/Thoạt kỳ thủy, Dịch là sách bói. Có thời kỳ việc bói toán bành trướng làm Dịch bị suy đồi. Nay ta đang ở thái cực khác, coi bói toán là mê tín dị đoan nên trên phương diện chính thống, bị bài bác vùi dập. Đấy lại là một cực đoan. Cực đoan là tiêu cực. Nên chăng chúng ta ủng hộ cả hai cánh của Dịch học - triết lý và dự báo - để Dịch vừa phục vụ con người triết lý vừa phục vụ con người tâm linh? Dự báo tương lai với những cát hung họa phúc là khát vọng lớn của con người từ tuổi ấu thơ. Khát vọng đó ngày nay và có lẽ mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì vậy việc cần làm là biến Dịch thành môn khoa học dự báo tương lai đạt tới độ tin cậy cao chứ không phải như lạc đà vùi đầu trong cát để phủ nhận bói toán. Cần đưa Dịch thành môn học trong trường phổ thông để công dân tương lai không bị mù dịch, ngu ngơ trước quy luật vận hành của Vũ trụ, đứng ngoài thành tựu văn hóa của tổ tiên. Trong lĩnh vực này, cuốn Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người của nhà văn Xuân Cang dựa theo sách Học Năng vận dụng vào việc phác thảo chân dung các nhà văn là việc làm tích cực: từ 8 chữ trong ngày tháng năm sinh của một người, nhà bói Dịch vạch ra những quẻ cho ta biết những gì có thể xảy đến với ta theo từng năm tháng. Dựa vào đấy người ta có thể hạn chế những điều hung và phát huy những năm tháng thuận lợi trong cuộc đời, hạn chế bớt những bi kịch do thiếu hiểu biết. Đây mới là những thử nghiệm nhưng là thử nghiệm mang tính nhân văn cao nên cần khuyến khích. Sài Gòn cuối Đông Bính Tuất 1.Phùng Ỷ. Hậu Trai Dịch học. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán Thương Hải. Dịch tập chú, Kinh thượng thiên, quyển 1, trang 1. (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang 109) 2. Nguyễn Hữu Lương. Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông; Nha tuyên úy Phật giáo. Sài Gòn 1971, trang 421 3. Chu Hy- Châu Dịch bản nghĩa, Hệ từ Hạ, chương II 4. Nguyễn Hữu Lương, trang 536 5. Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Tìm về cội nguồn kinh Dịch www.tuvilyso.com 6. Nguyễn Thiếu Dũng: Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? và Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thủy của hào âm hào dương http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/4/4/80330.tno và http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/10/26/126878.tno 7.Trần Quang Bình: Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của văn hiến Âu Lạc vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/1.htm - 8. Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang 109 9. Kim Định: Việt lý tố nguyên. An Tiêm Sài Gòn trang 52 10. Hà Văn Thùy: Tìm lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hóa. talawas.org
  22. Từ nhận định trái đất là nơi duy nhất trong vũ trụ có sự sống, bây giờ thông qua học thuyết Âm Dương Ngũ hành chúng ta cần phải xác định được nơi nào trên trái đất xuất hiện con người đầu tiên, tức tiến hóa từ loài linh trưởng sang người. Xét về khảo cổ học, hầu như trên khắp các châu lục trên trái đất, nơi nào thuận tiện phát triển cho sự sống đều có công cụ đồ đá cũ, thời tiền sử, thông qua thí nghiệm phòng xạ các bon thì thời gian trong khoảng hơn 12.000 năm trước và kéo dài theo sau. Đồng thời, cũng xác định trận đại hồng thủy trong khoảng từ 8.500 - 12.500 trước, thời kỳ này nhân loại chết gần hết, chỉ còn một số sống sót và tất nhiên vẫn ở các châu lục. Tuy nhiên, giả sử rằng trước trận đại hồng thủy đã có một nền văn minh toàn cầu, nổi trội thì di sản của nó với hàng tỷ cổ vật phải tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tất cả là không. Đấy là chưa kể, số nhân loại còn sống sót vẫn thuộc về nền văn minh này sẽ có kế hoạch lưu trữ thành quả của tổ tiên để sau này con cháu còn nhận ra, điều này khẳng định sự tồn tại của các chứng tích văn minh đó phải tồn tại, nhưng đã không thấy. Ví dụ rõ ràng nhất là kim tự tháp Ai Cập, trong các lăng một và kim tự tháp đã tạc vào đá và ghi rõ niên đại các vị vua, thời gian trị vì và xây kim tự tháp, xưa nhất là kim tự tháp bậc thang Djozer khoảng 2640 trước Dương lịch. Cho nên, không vì thấy nó to quá và được xây dựng bởi hàng triệu viên đá mà cho rằng nó có từ nền văn minh toàn cầu trước đó.
  23. Nguyễn Trường Tộ: Đối Luận Với TS, GM Nguyễn Thái Hợp Bùi Kha LTS: Ngày nay, không ai còn lạ gì những ý kiến bất đồng đến trái ngược giữa những người theo đạo Chúa ở Việt Nam và đại đa số quần chúng trong các quan niệm về những "anh hùng", những "vị thánh", và những người "yêu nước", hay những "kẻ tội đồ" của dân tộc, nhất là những nhân vật trong thời kỳ sau khi đạo Thiên Chúa du nhập vào Việt Nam. Lẽ dễ hiểu vì những gì có lợi cho Vatican, tức sáng danh "Chúa", đương nhiên đa phần là phải thiệt thòi cho dân tộc về mặt tinh thần lẫn vật chất. Cái họ gọi là mở mang dân trí hay khai sáng văn minh, thực ra là để mở mang nước Chúa, và lót đường cho thực dân xâm lược và cũng là để cho dân Chúa được tôn vinh. Ngược lại, các bậc anh hùng của nước ta chống lại sự xâm lăng của họ thì bị họ dèm pha, hạ bệ khi có thể. Những bài đối thoại về các nhân vật lịch sử mà chúng tôi cố gắng trình bày, đã có từ chục năm nay khi người ta được tiếp cận những tài liệu về giai đoạn thuộc địa đã qua, chứng minh ngược lại những gì mà Giáo Hội Công giáo Việt Nam muốn ngụy tạo lịch sử. Mỗi lần những kẻ chăn chiên hay các con chiên mở miệng ca ngợi một nhân vật lịch sử liên hệ đến giai đoạn này, thì gần như trăm lần như một, kẻ đó chắc chắn đã giúp ích không nhỏ cho con đường xâm chiếm Việt Nam của Vatican hay của Tây phương. Do đó ta nên tìm hiểu cho kỹ. Các tác phẩm của họ in ra đều luôn luôn "lén" pha trộn, nửa nạc nửa mở để vinh danh các "anh hùng đạo Chúa", biến kẻ đi giúp ngoại xâm thành người yêu nước, để đứng bên cạnh các anh hùng và các nhà yêu nước của ta. Việc này có một số tác giả đã lên tiếng. Xin nhiều người tiếp tục cảnh giác các tác phẩm của họ, nhất là trong giai đoạn mở cửa tự do ở bên nhà trong thập niên qua. (SH) Nguyễn Trường Tộ Tôi hơi ngại lúc viết bài đối luận với Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp vì tôi nguyên là một con chiên trong thời kỳ rất ấu thơ, nay thì không còn nữa. Nhưng vì đây là vấn đề sử nên, cần làm sáng tỏ để định vị cho đúng công hoặc tội của một số nhân vật lịch sử mà Nguyễn Trường Tộ là một. Bài của TS, GM Nguyễn Thái Hợp dưới hình thức phóng vấn có tựa đề “Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước một trăm phần trăm"do Vĩnh Khánh thực hiện, đăng ở web Văn Hóa Nghệ An, link http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/khach-moi-cua-tap-chi/3629-tien-si-nguyen-thai-hop-nguyen-truong-to-.html Dưới đây tôi tóm lược những ý chính trong phần trả lời của Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp và biện chính những tư duy sai sự thật để góp phần trả lại cho ông Nguyễn Trường Tộ những gì mà ông từng cưu mang. Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp (từ nay: Nguyễn Thái Hợp): Phần đóng góp xuất sắc nhất của Nguyễn Trường Tộ là những sáng kiến, những kế hoạch, những hoạt động cụ thể để bảo vệ và xây dựng đất nước, trong thời gian đế quốc Pháp vào xâm chiếm nước ta. ☞ Bùi Kha: Ngài trả lời như thế nhưng không cho độc giả, như tôi, biết ông Nguyễn Trường Tộ đã đóng góp những gì? Và xuất sắc ra sao? Trong các phần đối luận của tôi sẽ làm sáng tỏ nhận định sai lầm nầy của ngài. Nguyễn Thái Hợp: 58 bản điều trần nhằm giải phóng quê hương và canh tân xứ sở. Tất cả 58 điều trần của Nguyễn Trường Tộ đệ lên triều đình tạo thành một khối nhất thống nhằm mục đích duy nhất là giải phóng 3 tỉnh rồi cả 6 tỉnh Nam kỳ. ☞ - Bùi Kha: Cũng không thấy ngài cho chứng cớ? Để rộng đường dư luận, tôi muốn phụ ngài tóm lược 58 bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ: 58 bản Điều trần (Trương Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo”, nhà xb TP HCM, 1988) được sắp theo thứ tự thời gian, từ bài số 1: Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (Thiên hạ đại thế luận) viết vào khoảng tháng 3–4/1863, đến bài cuối cùng, thứ 58: Bài tựa sách Đàm thiên luận (viết gần cuối đời của ông). Nếu sắp 58 bản Điều trần theo thứ tự thời gian, chúng ta sẽ thấy tư duy của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo những biến chuyển của tình hình quân sự và tham vọng của Pháp tại Việt Nam lúc bấy giờ để, xoáy vào chủ điểm chính: Tại sao nên hợp tác với Pháp? Với giọng văn điêu luyện, sắc sảo, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ sử dụng hai luận điểm “Củ cà rốt và cục xương” để thuyết phục dân Việt Nam; không nên làm cho quân Pháp đổ máu. Chiến thuật “củ cà rốt” là đưa ra một miếng mồi béo bổ như phải canh tân, phải đổi mới, phải khai thác hầm mỏ, sử dụng tài nguyên thiên nhiên... để làm cho dân giàu nước mạnh. Muốn đạt được mục đích đó thì phải hợp tác với Pháp (Di thảo số 5). Chiến thuật “cục xương” là đưa ra một số đề nghị không thể thực hiện được như chỉnh trang võ bị, đào kênh từ Hải Dương đến Huế v.v... (Di thảo số 27) để qua đó muốn triều đình nhà Nguyễn phải mất thì giờ gặm xương. Nguyễn Trường Tộ khéo và tài tình lồng tư tưởng Kinh Thánh vào hầu hết những bản Di thảo để một mặt thì hăm dọa: “Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được” (Di thảo số 1), mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận... “Vì tạo vật đã an bài” (trong nhiều Di thảo khác). Một số Di thảo, thì đưa ra các dữ kiện sai lầm về sử liệu để bi thảm hóa tình hình quân ta, nhằm kêu gọi người Việt nên hòa với Pháp (Di thảo số 1), và để biện minh cho những đề nghị của mình (Di thảo số 5 và 27). Nguyễn Trường Tộ nhìn đất nước Việt Nam trong lăng kính tôn giáo, mang đầy tính cuồng tín, để từ đó dẫn đến hai hệ luận: * Thứ nhất, Việt Nam là một phần tử trong tổng thể của vạn vật mà tạo hóa đã sáng tạo, do đó “không có tự do làm theo ý muốn” (Di thảo số 2). Và vì là sản phẩm của tạo vật nên phải chịu số phận cần được khai hóa (Di thảo số 1). * Thứ hai, liên đới với hệ luận thứ nhất về mặt trần thế, do đó, Việt Nam nên “dùng giám mục và linh mục vào việc canh tân đất nước” (Di thảo số 17). * Có 3 trong số 58 Di thảo không có nhiều giá trị cho việc đề nghị “canh tân” cũng như văn chương, học thuật, nên không đáng được quan tâm nhiều như Di thảo số 6: Về việc mua đóng thuyền máy; Di thảo số 7: Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy”; Di thảo số 9: Về việc mua tàu London; Di thảo số 11: Tâm sự với Trần Tiển Thành; Di thảo số 16: Bài Bạt mừng đào xong thiết cảng; Di thảo số 28: Biểu tạ ơn vua, tháng 3/1868; Di thảo số 56: Bài Khải Quyên tiền sửa cầu; Di thảo số 58: Bài Tựa sách Đàm thiên luận (cộng chung có 17 tr., khổ 8x11). * Trái lại, có 3 Di thảo dù không liên quan nhiều đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương, lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây khoảng 135 năm. Đó là Di thảo số 10: Thảo thư gửi Tây Soái; Di thảo số 47: Về việc cải cách phong tục; Di thảo số 50: Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (3 Di thảo này gồm 18 tr.). * 4 Di thảo khác được viết trong bối cảnh bị triều đình Tự Đức nghi ngờ nên giọng văn và ý tưởng có vẻ nịnh bợ hoặc phân trần, hoặc viết để thăm dò ý của triều đình. Đó là Di thảo số 13: Ngôi vua là qúy; chức quan là trọng; Di thảo số 40: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định; Di thảo số 51: Cần nắm vững tình hình chính trị ở Pháp; Di thảo số 52: Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao (cộng chung có 18 tr.). * Có 3 Di Thảo dài nhất và gói ghém phần lớn tư duy của Nguyễn Trường Tộ. Đó là Di thảo số 1: “Thiên hạ đại thế luận” (gồm 6 tr.); Di thảo số 5: “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh” (17 tr.); Di thảo số 27: “Tám việc cần làm” (56 tr.). Như vậy, 3 bài chính chứa đựng phần lớn tư duy của Nguyễn Trường Tộ, tổng cộng khoảng 80 trang và hai Di thảo có tính tôn giáo. Về Kiến thức: Nguyễn Trường Tộ tự khoe về kiến thức của mình như sau: “Về việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ”(Di thảo số 3). Nhưng thực tế, tất cả 58 bản Di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được, Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng điển tích hầu hết là của Trung Hoa, không có bao nhiêu điển tích về Tây Âu, ngoại trừ về Tân Thế Giới (Hoa Kỳ), “Năm xứ Ấn Độ” (Thiên hạ đại thế luận), và tình hình giữa Anh và Pháp…, nhưng lại dẫn sai sự kiện lịch sử có hậu ý. Ngay cả về võ bị (Tế cấp bát điều, TBC, trang 225), Nguyễn Trường Tộ cũng không có những sáng kiến nào về cách bày binh bố trận theo lối hiện đại của phương Tây thời bấy giờ, mà toàn là lặp lại những mưu lược trong cuốn Tôn Ngô binh pháp (Xem Bùi Kha, Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân, Nhà xuất bản Văn học, 30.3.2011, tr.116-118). Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ không thể sử dụng một số điển tích Tây Âu vì tiếng Pháp của Nguyễn Trường Tộ chỉ đủ để làm từ hàn tức là thư ký - phiên dịch (Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ học ở đâu, học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167). Về sự nghiệp: Nguyễn Trường Tộ đồng lõa lừa dối triều đình vua Tự Đức trong việc mua máy, mời thầy giáo để mở trường kỹ thuật ở Huế, không có mặt trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam để kháng Pháp, trái lại cùng đi với Giám mục tình báo Gauthier, với Linh mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 4 người khác đến Đà Nẵng trước giờ Pháp đánh chiếm để chào mừng, và có mặt trong đám giáo sĩ người Pháp và cùng với những người này làm áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bị Đô đốc Genouilly đuổi đi Hồng Kông. Trong đám giám mục, linh mục bị đuổi có Nguyễn Trường Tộ. Năm 1861, vâng lời của phó Đô đốc Charner để cùng với Giám mục tình báo Gauthier về lại Việt Nam để phụ giúp việc mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn. Sau khi thôi làm việc thư ký này, Nguyễn Trường Tộ làm một công việc trọng đại hơn là tùy theo tình hình xâm lược của Pháp để viết các bản Điều trần, lộng giả thành chơn, lúc thì hăm dọa quân dân Việt Nam “Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa”, lúc thì đưa ra những đề nghị canh tân không tưởng, hoặc những đề nghị vô cùng tai họa cho quốc gia để có lợi cho Pháp, lúc thì nịnh bợ Triều đình để dễ bề chui sâu trèo cao như bài Ngôi vua là quý, chức quan là trọng, lúc thì làm như có vẻ yêu tổ quốc và chống Pháp như bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định viết năm 1871. Hô hào canh tân: Như chúng ta đã thấy có nhiều đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không thế áp dụng được, vì: Thứ nhất, xa vời với thực tế, sai sử liệu và nguy hiểm như trong bài Thiên hạ đại thế luận, Lục lợi từ, Tế cấp bát điều v.v... Thứ hai, hoàn cảnh đất nước không cho phép và quốc gia không có chủ quyền, như vụ mua tàu London bị lừa gạt, vụ tên lái buôn Dupuis ở Bắc Kỳ. Do đó, lúc đề nghị dùng “Hội nước ngoài để khai thác tài nguyên” là quá không tưởng. Thứ ba, thực ra, Nguyễn Trường Tộ viết những bản Điều trần theo sách lược củ cà rốt và cục xương và NÚP BÓNG dưới chiêu bài CANH TÂN để làm lợi cho Pháp. Mặc dầu một vài bản Điều trần trông có vẻ thành khẩn và thực tế như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh, “không nên cho giám mục biết tôi nói”...Nhưng hậu ý của Nguyễn Trường Tộ là cái khác chứ không phải cái đó. Thứ tư, một số đề nghị khác của Nguyễn Trường Tộ, nếu triều đình Tự Đức áp dụng thì Việt Nam trở thành một cổ ba tròng: Tròng thứ nhất, là thỏa hiệp với thực dân Pháp mà tôi đã chứng minh là hoàn toàn sai lầm: Mục đích của Nguyễn Trường Tộ là để cho Pháp có thì giờ Dưỡng binh súc nhuệ (chữ của Nguyễn Trường Tộ) để thực hiện kế hoạch tằm ăn dâu. Tròng thứ hai, là giao hảo với Giáo hoàng để cho các Giáo sĩ thực dân như Legrand, Pellerin, Retort, Huc... và các linh mục Việt Nam bản xứ được có đầy đủ Trị ngoại pháp quyền để dễ đồng hóa và Ki Tô hóa dân tộc ta, đem tổ quốc dâng hiến cho Pháp . Tròng thứ ba, là đề nghị một số giám mục, linh mục tình báo vào trong triều đình để dễ dàng đồng hóa biến người Việt Nam trở thành người Pháp và nước Việt Nguyễn Thái Hợp: Nguyễn Trường Tộ dâng điều trần “Bàn về tự do tôn giáo” (ngày 29.3.1863). ☞ – Bùi Kha: Đúng ngài là một Giám mục chứ không phải người nghiên cứu sử như chúng tôi. Hân hạnh được hầu ngài vài suy nghĩ của các Đô đốc người Pháp về tôn giáo. Nguyễn Trường Tộ viết: “Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu tiên, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại”(Giáo môn luận, TBC, Sđd, tr. 116). Mật thư đề ngày 24/7/1862, Đô đốc Bonard gửi cho Chasseloup Laubat cho ta thấy tình hình tôn giáo thời bấy giờ: “Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giá-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục này, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ”. Nguyên văn tiếng Pháp: “Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins”. (Trích trong Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88, CHT, Sđd, trang 150). Một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha: “Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: Hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn này phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập, dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ”. Nguyên văn tiếng Pháp: “Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin” (CHT, Sđd, p.152). Hai trong nhiều thí dự nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ. Nguyễn Thái Hợp: Nguyễn Trường Tộ đệ đạt nhiều kế hoạch giải phóng vùng bị xâm chiếm, kể cả mưu tính đánh úp Gia Định mà ông đóng vai chính. ☞Bùi Kha: Ngài Nguyễn Thái Hợp viết sử mà giống như phán cho con chiên nên không cần phải dẫn sử liệu. Mời Giám mục lướt qua một số sử liệu sau đây: Nguyễn Trường Tộ: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, viết ngày 9/2/1871. Tự sự: Năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc này và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng Nguyễn Trưởng Tộ viết bài chiêu dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn trung Trực v.v…, và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? Nguyễn Trường Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định để chỉ huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông Giám mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Nguyễn Trường Tộ viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (TBC, Sđd, tr. 330). Tại Gia Định, và cả miền Lục tỉnh lúc bấy giờ và ngay bây giờ, làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để Nguyễn Trương Tộ phá và thuyền sẽ bị chôn vùi? Nếu Nguyễn Trường Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: “Kế này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành”(TBC, Sđd, tr. 331). Thời gian hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông. Lý do: Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị sử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm, thì làm sao thắng được? Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đoạn sau tháng 9/1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19/7/1870, nhưng mãi tới ngày 5/8/1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho lục tỉnh Nam Kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25/9/ 1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, triều đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ Lỗ Sĩ, quan Pháp soái thương cho ta biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của triều đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam Kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thể chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam Kỳ” (Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Lửa thiêng xuất bản, Sài gòn 1970, tr. 66). Giả sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc này Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc Kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc Kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy: Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: Ở Bắc Kỳ, quan lại An Nam bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người yêu nước là thế đấy! “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” Nguyễn Trường Tộ viết ngày 01/02/1871, và “Kế hoạch đánh úp Gia Định” (9/02/1871), cách nhau chỉ có 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy. Tuy vậy, khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá đáng!(vì theo sử gia Nguyễn Thế Anh thì tình thế đã chín muồi, phải đánh). Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường “đi xin” chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ “Bổ túc ckế hoạch đánh úp Gia Định” nhằm nhận diện xem ai xuất hiện “đánh”, thì Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ trứng nước. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoãn binh, khuyên không nên đánh bây giờ mà phải hai năm sau, như đã phân tích ở trên! Nói gọn, thời vua Tự Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863 nhưng Nguyễn Trường Tộ khuyên cho lính nghỉ ngơi. Cơ hội thứ hai là khoảng 1870 lúc Pháp thua Phỗ, nhưng Nguyễn Trường Tộ lừa đảo và đề nghị hai năm sau mới đánh. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy, hầu hết 58 bài chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt. Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt Nam sử dụng võ lực đối với thực dân Pháp. Hai, sử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giáo sĩ lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm Công giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, Nguyễn Trương Tộ phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải sử dụng những danh từ hoa mỹ, canh tân, đổi mới, thưc dụng, phải bày ra chương trình này, kế hoạch nọ để đánh lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp mong muốn. Thật vậy, Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch... Nguyễn Trường Tộ được gán cho hai chữ canh tân và yêu nước, nhưng đọc tất cả 58 bản Điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông nhắc đến tên vài người Việt Nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc đánh úp mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau: De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 436-437). Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của ông Tộ. Nguyễn Thái Hợp: Cơ sở tư duy của ông luôn đậm đà bản sắc dân tộc tương tự như Võ Trường Toản hay La Sơn Phu Tử, và giàu kiến thức đông tây kim cổ khác nào Lê Quý Đôn. ☞ Bùi Kha: Không nên thấy người sang bắt quàng làm họ. Thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Nguyễn Thái Hợp: “Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước một trăm phần trăm và cũng là tín hữu Công giáo một trăm phần trăm”. ☞- Bùi Kha: “Nguyễn Trường Tộ là tín hữu Công giáo một trăm phần trăm”. Đúng thế. Nhưng có yêu nước 100% hay không, mời Giám mục Nguyễn Thái Hợp đọc vài thông tin trong sử liệu sau đây: *Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ ra cửa Mành sơn Đà Nẵng để chào mừng quân Pháp và cùng với đồng bọn là áp lực để Pháp đánh Huế. Sử liệu: “Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi” (xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC, Sđd, tr. 22). * Năm 1861 Nguyễn Trường Tộ cùng với ông tình báo Gauthier về Sài gòn để giúp Pháp mở rộng vùng chiếm đóng: Sử liệu: “Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn (TBC, Sđd, tr. 22). Để thấy rõ hơn về ông Nguyễn Trường Tộ, tôi tóm lược một số mâu thuẫn trong các bài chiêu dụ của ông và tình hình thực tế lúc bấy giờ: Giám Mục Jean Denis Gauthier (tên Việt Ngô Gia Hậu0 Giám Mục Jean Denis Gauthier, Nguyễn Trường Tộ liên hệ với ông tình báo nầy gần 20 năm, 6 tài liệu mật cho thấy điều đó (xem Bùi Kha, SĐD, tr.137-147). 1. Nguyễn Trường Tộ: “Ai hòa với họ là phúc, chống lại họ là họa... hòa với Pháp là thượng sách... nên cho lính nghỉ ngơi... để Pháp giữ bờ cõi cho mình như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Quân ta mới nghe thanh thế Pháp đã phách lạc hồn xiêu...”. Nhưng các tài liệu mật của Pháp cho thấy từ 1858 đến năm 1863, tình hình quân đội Pháp tại Việt Nam vô cùng nguy kịch. Họ có ý định rút về và bỏ hẳn mọi mưu toan đánh chiếm Việt Nam. 2. Nguyễn Trường Tộ: Tại sao giết giáo sĩ. Ý kiến của Đô đốc R. de Genouilly: “Không một nền cai trị nào, dẫu phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ...” 3. Nguyễn Trường Tộ: ... Giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống gian tà,... chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả. Nhưng Đô đốc Bonard (ngày 24/7/1862) cho biết: “Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ phủ nhận tính chính thống của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại, thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ... Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha, thường chiếm cứ miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn”. 4. Nguyễn Trường Tộ: “Lúc đầu dân bản xứ xem họ như thù địch, dần dần chịu gần gũi... những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình... Họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả!”. Nguyễn Trường Tộ viết như vậy để thuyết phục triều đình Việt Nam hợp tác với Pháp. Ông viết tiếp: “Xin kể ra các phương pháp làm hột nổ và đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ học, hóa học, khai thác mỏ than”. Nhưng đọc trong bài và kể cả các bài chiêu dụ khác chúng ta cũng không thấy ông nêu ra một phương pháp nào cả. 5. Nguyễn Trường Tộ: “Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng ... để nhờ giúp đỡ”. Nhưng kể từ Giáo hoàng Innocent X, năm 1652, đến những giáo hoàng kế tiếp, tất cả đều vận động để Pháp chiếm nước ta. 6. Nguyễn Trường Tộ: Gấp rút việc sửa đổi võ bị. Nhưng về chiến lược, thì ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô binh pháp. Về binh, ông khuyên nên cho lính nghỉ ngơi thay vì phải tổng động viên. 7. Nguyễn Trường Tộ: Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa (Di thảo số 27, TBC, Sđd, tr. 239). Dân Nam Kỳ lúc đó được sử gia sử gia Chesneaux mô tả: “Cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến… 8. Nguyễn Trường Tộ: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, viết ngày 9/2/1871. Nhưng chỉ để dối gạt dân chúng. 9. Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phan Thanh Giản... và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch... Nguyễn Trường Tộ được gán cho hai chữ canh tân và yêu nước, nhưng đọc tất cả 58 bản Điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông Tộ nhắc đến tên vài người Việt Nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc đánh úp mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau: De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 436-437). 10. Chúng ta nhớ rằng, Gauthier (thầy của Nguyễn Trường Tộ là một tên tình báo) là thuộc hạ của Puginier tại Việt Nam vào giai đoạn ấy. Đó là lý do để giải thích tại sao không bao giờ nhắc đến tên một sĩ phu nào ngoại trừ các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của Nguyễn Trương Tộ. Nhưng, bài này chỉ liệt kê 10 trường hợp tiêu biểu để đối luận với Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp vì ngài viết không có cái gì đúng! Bùi Kha* 30.11.2011 * Bùi Kha, “Nguyễn Trường Tộ & Vấn đề canh tân”, nhà xuất bản Văn học, 30.30.2011. Có bán tại các nhà sách, hoặc liên lạc Trung tâm nghiên cứu quốc học(84-8) 6290 7430. ĐC: 72 Trần Quốc Thảo, P.7, Q.3, TP HCM. Giá 75 ngàn, bìa cứng, in rất đẹp.
  24. Nguyễn Trường Tộ, biện chính với Gs Hoàng Kỳ Bùi Kha VHNA: Sau hai bài của tác giả Bùi Kha đăng trên t/c HồnViệt (NguyễnTrường Tộ và vấn đề chủ hòa - 12/2009, Nguyễn Trường Tộ và vấn đề làm cho dân giàu nước mạnh - 1/2010) có những nhận định, đánh giá khác, thậm chí trái ngược với các nhận định, đánh giá của giới nghiên cứu lâu nay về Nguyễn Trường Tộ, tác giả Hoàng Kỳ đã có bài trao đổi lại đăng trên t/c Văn hóa Nghệ An (4/2010). Tác giả BùiKha đã có bài trao đổi lại với tác giả Hoàng Kỳ theo quan điểm riêng của mình. Tôn trọng các ý kiến khác nhau trong nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới một nhận thức khách quan, trung thực, chính xác các hiện tượng, vấn đề thuộc về lịch sử, trên tinh thần tôn trọng học thuật, tôn trọng người đối thoại, chúng tôi đăng tải bài viết trao đổi của tác gỉa Bùi Kha và hy vọng sẽ có nhiều ý kiến khác cùng trao đổi, thảo luận để tiếp cận chân lý. Hôm qua, 30.9.2010, tình cờ có người gởi cho bài của Gs Hoàng Kỳ với tựa đề “Trao đổi ý kiến với tiến sỹ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ” đăng trên web “Văn hóa Nghệ An ngày 3.4.2010. Dưới đây tôi sẽ lần lượt làm sáng rõ những nhận định thiếu cơ sở của Gs Hoàng Kỳ. Gs Hoàng Kỳ viết: “…Tất nhiên với trình độ một người từ Hán học chuyển qua Tây học được thời gian có 3 năm (1858-1861) khi qua Singapore, Hồng Kông, Malaixia...,1 năm qua Pháp và ý (từ tháng 1-1867 đến tháng 2-1868) và chỉ là học mót chứ không qua trường lớp chính quy thì tất nhiên là sự hiểu biết còn nông cạn, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng không vì thế mà ta sổ toẹt tấm lòng ưu dân, ái quốc của NTT và thất bại của triều đình nhà Nguyễn không phải là do nghe lời của NTT vì những bản Điều trần lúc đầu của ông không hề được triều đình để ý gì, các bản về sau có được xem xét nhưng cũng chẳng ăn thua gì” -Bùi Kha: NTT chưa bao giờ có “tấm lòng ưu dân, ái quốc”như Gs Hoàng Kỳ nhầm. Chứng minh: Ngày 16/10/1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Gm tình báo Gauthier (Cố Hậu) đến cửa Mành Sơn, Đà Nẵng. Ở đó, đã có “Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài gòn. Do đó trước khi đem quân vào Sài gòn, Đô Đốc Rigault deGenouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859”. Năm 1861, từ Hồng Kông, NTTcùng với Gm. Gauthier và Phó Đô đốc Léonard Charner, về lại Việt Nam, ông được thuê làm thư ký cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng (theo Linh mục Trương Bá Cần trong cuốn Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, tr. 22,23 &24). Trong lúc đất nước lâm nguy, toàn dân nhất là trai tráng xông pha đánh giặc cứu nước thì hành động của Nguyễn Trường Tộ như thế mà được cho là có “tấm lòng ưu dân, ái quốc” sao? Ông biết chữ Nho nhưng tiếng Pháp kém, chỉ đủ để làm Từ hàn (thư ký thường) cho Pháp mà thôi (theo cụ Đào Duy Anh trong Tạp chí Tri Tân số 7, trang 167, xb. 1941.Vai kề vai lòng cạnh lòng với ông tình báo Gauthier gần 20 năm và, có thể, cùng với ông này, viết 58 bài Điều trần gửi đến triều vua Tự Đức đầy hậu ý. Tôi sẽ chứng minh thêm “tấm lòng” của NTT trong những đoạn sau. Trong tất cả các bài viết về NTT tôi chưa hề nói rằng Triều đình nhà Nguyễn nghe lời NTT mà còn cho thấy rằng may mà triều đình không nghe! 2. Gs Hoàng Kỳ: “NTT có chủ hoà trong thời gian đầu khi thấy so sánh lực lượng của quân đội triều đình với quân Pháp quá chênh lệch, với mục đích là để có thời gian củng cố lực lượng, xiết chặt hàng ngũ của ta trước một đội quân xâm lược có vũ khí tối tân hơn và ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị...” -Bùi Kha: Gs. Hoàng Kỳ sai, NTT chưa bao giờ nhằm “mục đích là để có thời gian cũng cố lực lượng…” Chứng minh. NTT viết: �“Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổngày xưa cắt Quan Trungcho hạng Võ (?) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới…”�(Thiên hạ đại thế luận, Trương Bá Cần, tr. 111). Vẫn biết về sau NTT có đề nghị chỉnh trang võ bị v.v. nhưng viết như thế để làm như mình có lòng yêu nước. Trong thực tế đã cho lính nghỉ ngơi tức là bỏ súng, đầu hàng, lính về nhà để Pháp giữ bờ cỏi cho mình thì lực lượng đâu còn nữa để củng cố, để chỉnh trang võ bị như Gs Hoàng Kỳ nghĩ tốt cho NTT điều mà ông ta không hề có ! 3. Gs Hoàng Kỳ: “Hơn nữa lúc đầu ông hiểu nhầm là bọn Pháp chỉ yêu cầu được tự do giảng đạo, xin mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và aBổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40)”. - Bùi Kha: NTT tự khoe các gì cũng biết từ cái cao của thiên văn…đến tạp hóa dị nghệ… ông đều học và biết rõ. Thế thì tại sao “ông hiểm nhầm”? Gs Hoàng Kỳ muốn bênh vực NTT và cho rằng ông ta “hiểu nhầm”. Mà “hiểu nhầm” đến mức dộ không thể chấp nhận được, nhưng NTT có bao giờ viết thư xin lỗi Triều đình và dân chúng không? Gs Hoàng Kỳ tiếp “…nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40). - Bùi Kha: Gs Hoàng Kỳ đã không đọc cẩn thận để biết hai Di thảo 39 và 40 nói gì, cũng như không biết bối cảnh lịch sử trong giai đoạn ấy như thế nào nên viết hoàn toàn sai. Chứng minh: Thật vậy, như đã nói trên, trước đó 7 năm (1863) ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng NTT viết bài chiêu dụ cản ngăn [Di thảo # 36: “Bải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp”]. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Di thảo số 39 (ngày 1.2.1871) NTT đề nghị dùng phương pháp ngoại giao, chứ không phải quân sự để xin lại các tỉnh bị Pháp chiếm. Sau đó 8 ngày ông lại đề nghị dùng giải pháp quân sự: Di thảo số 40 [“Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định”, viết ngày 9.2.1871). Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực v. v., và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? Vì giới hạn của bài viết nên tôi không phân tích lý do tại sao NTT đổi ý từ NGOẠI GIAO đến QUÂN SỰ chỉ trong vòng 8 ngày. Nguyễn Trường Tộ lại viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản nầy các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định, và cả miền Lục tỉnh, thời bấy giờ và ngay cả thời bây giờ, làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá và thuyền sẽ bị chôn vùi? Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: Kế nầy phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành (T.B. Cần, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông. Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta có nhiều cơ hội thắng mà Pháp chắc chắn thua. Đó là điều mà ông NTT, những người Việt gian và thực dân không bao giờ muốn! Cáo buộc Nguyễn Trường Tộ không muốn Việt Nam thắng Pháp có oan không, chứng minh? ● Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được? Hơn nữa thời bấy giờ muốn mộ binh từ Bắc và Trung vào Nam phải đi bộ hoặc đi xe ngựa mất khoảng 6 tháng, thời gian, lương thực đâu, làm sao thực hiện việc mộ binh kiểu đó? ● Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19. 7. 1870, nhưng mãi tới ngày 5 .8. 1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục-tỉnh Nam kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25. 9. 1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp soái thương cho ta biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam kỳ” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ, Sài gòn, Lữa thiêng 1970, tr. 66). Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng NTT khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế? Mấy hàng đầu của bài “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh (viết trước bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-định chỉ có 8 ngày) ông Tộ nói Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”. Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn không biết ngượng, thế mà một số người cứ cặm cụi ca tụng một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước! Giả sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của NTT, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy: Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: Ở Bắc kỳ, quan lại An nam mít bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ”, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người có tấm lòng ưu dân, ái quốc là thế đấy 4. Gs Hoàng Kỳ: “Sáu điều lợi NTT trình bày chính là chủ trương ngoại giao đa phương do NTT đề xuất, việc mà hiện nay đảng ta cũng chủ trương như vậy, chứ không phải như TS võ đoán là: “Bang giao với Vatican. Đây là một trong hai chủ đích chính trong bản Điều trần này của NTT, còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt rỗng ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình thoả hiệp với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách lược tôn giáo hoá Việt Nam (TS BK cho in đậm). Điều đó cũng có nghĩa là để cho Pháp dễ cai trị Việt Nam”. Đó là thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!” –Bùi Kha: Chính sách của nhà nước hiện nay là bang giao đa phương đa quốc chắc chắn không liên hệ gì đến việc NTT đề nghị triều Nguyễn bang giao với Vatican cả thế kỷ trước. Do đó, mong đừng so sánh lạc điệu như thế, không nên. Để xem tôi có ác ý với NTT hay không, vui lòng theo giỏi các chứng cứ qua sử liệu dưới đây: 4.1 Lm. Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) người đầu tiên trong lịch sử, vận động Pháp đánh chiếm nước ta và được Giáo Hoàng đồng ý. Ông viết: “Tôi tưởng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng. ........... "Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi. Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất...”� 4.2. Linh mục Huc và Giám mục Pellerin cũng thế: "Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với cácđại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này. Nhưng đây là các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vậtquan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn “Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng” cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ”. 4.3. Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy ban và ngày 21-5 trao cho họ một bảntrần tình chi tiết trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Giám mục đã cho chúng ta thấy vài chỉ dẫn đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền giáo tại Tây Tạng: Nhà vua đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những điều tôi xin. Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện Thượng Đế giữ lại người của Chúa ở lại trên ngôi. Các phái bộ của Ngài, ở Cao Ly, Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ đứng vững tại các xứ đó và rồi sẽ không còn có sự đàn áp nữa. Nhưng sự việc hình như cứ kéo dài mãi, giám mục sốt ruột thấy là nên nhắc lại vấn đề với Napoléon III. Xin Chúa thượng, người ta đọc trong thư đề ngày 30-8-1857 của ông. Cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở nước An Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ người ta vẫn không làm gì cho bọn thần cả, e rằng đạo Thiên Chúa bị tận diệt ở tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và nền văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc cuả Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ... 4.4. Kế đến tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôma, Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động để giúp đỡ cho các phái bộ truyền giáo." Nguyên văn tiếng Pháp: Arrivé en France au début de mai, il fut entendu le 16 mai par la commission et lui remit un mémoire détaillé le 21 mai, avant d'être recu par Napoléon III. L'évêque nous donne quelques indications intéressantes sur cette entrevue dans une de ses lettres à un missionnaire du Thibet: “L'empereurs m'a très bien accueilli et m'a accordé plus même que je n'avais demandé. Sa Majesté est parfaitement disposé pour les Missions, et son intention est que les missionnaires francais soient libres partout; il faut prier Dieu de conserver sur le trône l'homme de la providence. Vos Missions, celles de la Corée, du Japon seront aussi bientôt libres, il faut l'espérer. La France va s'établir solidement dans ces pays, et alors il n'y aura plus de persécution possible” (1)… (Để giảm số trang, tôi chỉ dẫn một đoạn tiếng Pháp tượng trưng). Archives Missions Entrangères - lettre à Mgr Thonuire - Desmazures, 30-7-1858, cité par Franchini, Ouv. cité. Archives du ministère des Affaires Étrangère Vol. 27 (Cao Huy Thuan Christianisme Et Colonialisme Au Vietnam 1857-1914, p. 67 & 68). Qua một tài liệu khác, chúng ta cũng thấy vai trò quan trọng của Giám mục Pellerin trong việc vận động Pháp xâm lăng nước ta. Và đã được Giáo hoàng La Mã Pie IX chấp thuận: 4.5. Lợi dụng lý do truyền giáo, cấm đạo tại Việt Nam, thực dân Pháp qua trung gian Giám mục Pellerin đã đệ trình đề án kế hoạch xâm lược Việt Nam lên Giáo hoàng Pie IX và đã được La Mã chấp thuận (Xem A. Delvaux, Mgr. Pellerin, Nazattreth, Hồng Kông, 1937, tr. 54, nguyên văn: �Une des facteurs qui influèrent favorablement sur la mise en campagne de l'expédition de Cochinchine fut l'avis favorable de Pie IX qui avait approuvé pleinement les démarches de Mgr Pellerin lors de son voyage à Rome� (Phần tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, trích trong cuốn Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam, tác giả Nguyễn Sinh Duy, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, trang 17). Qua năm trích dẫn trên, chúng ta thấy các Giáo Hoàng đã đi vào con đường chính trị, đã vận động và song hành với quân đội thực dân phương Tây để xâm chiếm nước ta. Thế mà NTT khuyên triều đình nên thông hiếu với Giáo Hoàng. Người chuyên nghề thuyết khách là thế! Dưới đây tôi nêu thêm hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy sự sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ. Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau. 4.6.“Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giám-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ.”� Nguyên văn tiếng Pháp: "Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins”. (Trích trong “Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents”, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88, CHT, SĐD trang 150). 4.7. Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau: 4.8. “Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ.” (Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin. (CHT, SĐD, p. 152). Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ. Chúng ta nên để ý rằng giáo hội Công giáo là một tổ chức theo đẳng cấp tuyệt đối. Giáo Hoàng là người đại diện Chúa ở trần gian, ông có quyền cách chức, bổ nhiệm, cấm đoán hoặc cho phép các Hồng y, Giám mục, Linh mục, con chiên thi hành các công tác đức tin và công tác trần thế. Do đó, chúng ta hiểu rằng A. de Rhodes đã được Giáo hoàng đồng ý và cho phép qua Pháp vận động triều đình đánh chiếm Việt Nam. Một linh mục, giám mục không làm điều gì khác nếu không được Giáo hoàng chấp thuận. Như thế, việc vận động một thế lực chính trị ngoài Vatican để xâm chiếm Việt Nam đã có từ 1652 do Giáo hoàng chỉ thị cho ông A. de Rhodes (xin xem thêm bài “Góp ý với giáo sư Chương Thâu về Linh mục A. De Rhodes và chữ quốc ngữ” trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại (Văn Hóa Cali. xuất bản, Hoa kỳ, 1996). Qua sử liệu không thể chối cải như thế, phải chăng ông Bùi Kha có “thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!” ? 5. Gs. Hoàng Kỳ viết: “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân; có điều kiện để có thể “vinh thân phì gia” nếu sẵn sàng cộng tác với giặc, nhưng vẫn quyết từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà.” - Bùi Kha: Ông NTT có về sống cực khổ ở quê nhà hay luôn luôn sống sát cánh với ông tình báo Gauthier gần 20 thì trong bài nầy tôi đả viết rỏ. Còn cho rằng NTT “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân”, có thật như vậy không? Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là “kẻ tử đạo". “Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”. (Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persecution (CHT, p. 113). Ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 cũng có những ý kiến tương tự: Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ: “Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Công giáo đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Óa! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Công giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?” Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn. Nguyên Văn tiếng Pháp: Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens. En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777.CHT, p. 128 & 129). Thực ra đó là hành động của một số con chiên không ít thời Pháp chiếm Việt Nam, nhưng ngày nay đã đổi khác. Chúng ta vô cùng trân quý những tâm tình đó. 6. Gs Hoàng Kỳ: “…đề nghị nhà vua cho mở các trường dạy kỹ thuật mà sau này ông đã trình”. Bùi Kha: Gs Hoàng Kỳ muốn nói đến trường kỹ thuật mà NTT và Gm Gauthier đề nghị mở ở Huế năm 1868. Đó là thêm một đề nghị không thành thật của NTT. Thật vậy, việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23-2-1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị nầy không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn: “Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - Linh mục Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại. - Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dung” (TBC, SĐD, tr. 49 & 50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý. Mong Gs Hoàng Kỳ nên cẩn thận lúc viết. Dưới đây là sáu sử liệu cho thấy Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, người cùng với NTT mà vua Tự Đức lầm nhờ đi mua dụng cụ và thuê thầy giáo về mở trường kỷ thuật ở Huế, là một tên tình báo: Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Trong chiều hướng nầy, một người Công giáo cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15-1-1864. Theo hiệp ước nầy, ba tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh nầy, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, ba hải cảng Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam... Theo hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Việt Nam đâu (CHT. SĐD, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước. 5.1.- Gauthier theo phe Aubaret: Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách nầy hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: “Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại ba tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn ba tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham Mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vở hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài gòn”. Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). (Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27-9-1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal (CHT, p. 181). 5.2.-Gauthier được mời họp mật: Năm 1872 tàu Bouragne chở trung tá hải quân Senez ra Bắc kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez nầy: “...Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi...Lúc 4 giờ chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo. Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi Vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không”. (Tôi bỏ phần tiếng Pháp để giảm số trang). 5.3.- Giám mục Gauthier viết: “Triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”. Trong thư đề ngày 12-2-1873, 19-2-1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết: “Cuộc chiến nầy làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác.” (Tức là Giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc kỳ mà phải chiếm nhanh, BK). Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ) 5.4.- Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ. “Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh. Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nỗi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Cônggiáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.� Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). 5.5.- Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Công giáo tại Bắc Kỳ? Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta: “Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ… Giám mục Puginier viết tiếp: Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Công giáo, nghĩa là trở thành người Pháp hết”.� Nguyên văn tiếng Pháp(bỏ) Tất cả các giám mục linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, GiámmụcPuginierđược xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế.Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (Từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ�. 5.6.- Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương nầy cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa ngày 30-12- 1874 cho chúng ta thấy điều đó: Dupré viết: “Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo rằng hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An -Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn nầy để lại mà chúng ta phải gánh chịu”. Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến: “Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục nầy”. Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). (Dupré au ministre de la Marine etdes Colonies, 30-12-1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT, p. 366). Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré: Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat”. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26-7-1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, p. 367). Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta mới biết rõ Gm Gauthier là một tên tình báo hạng nặng. Và chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi Mở Trường Kỹ Thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Và qua đó chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không thà mất ngoại bang của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình nên Thương hiếu với Giáo Hoàng, Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Thương lượng với Giám mục Croc” v.v... Và Nguyễn Trường Tộ gần suốt 20 năm đi đứng nằm ngồi ăn ở bên cạnh ông tình báo Gauthier chứ đâu có “từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà” như Gs Hoàng Kỳ bênh vực không có chứng cứ! Kết luận: Một cách công bằng chúng ta có thể kể một số công của Nguyễn Trường Tộ (như tôi đã đề cập trong nhiều bài viết trước đây), và bên cạnh đó cũng phải cho thấy cái tội của ông đối với đất nước. * Công: 1. Chỉ huy đào Thiết cảng, 2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấy giờ là chỗ để cho các giáo sĩ gián điệp và Việt gian cư trú, 3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, v.v. CÔNG thì như một giọt nước mà tội thì cả đại dương. Sau đây chỉ giản lược 10 tội: * Tội: 1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm, 2. Năm 1861 làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp tại Sài gòn để mở rộng vùng chiếm đóng, 3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier suốt gần 20 năm, cùng với tên nầy, thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình nhằm phục vụ cho ước vọng của ngoại bang, 4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để làm nhụt khio1 quân ta nhằm cứu vãn cảnh lâm nguy của quân đội Pháp từ năm 1858, 5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế, 6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải dương vào Huế để toàn dân nổi loạn, 7. Đề nghị thương hiếu với giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công giáo hóa Việt Nam. Có như thế Pháp mới dễ biến Bắc kỳ thành một nước Pháp nhỏ như Giám mục Puginier chủ trương. 8. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh mục và giám mục có mặt khắp nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt nam, 9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam kỳ, 10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N. T. Tộ khuyên phải dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau. Và chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận”! (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm). Tôi rất thông cảm Gs cũng như nhiều người viết sai về Nguyễn Trường Tộ mà lý do chình là thiếu sử liệu, cũng như không đọc kỷ các bài chiêu dụ của ông ta rồi đối chiếu với tình hình chính trị, quân sự và tôn giáo của ngoại bang thời bấy giờ, và đặc biệt là vì phát xuất từ lòng yêu nước nồng nàn nên không ngớt lời ca ngợi những ai có tinh thần yêu nước. Nhưng trường hợp Nguyễn Trường Tộ thì chúng ta bị lầm trên 150 năm qua. Chúc giáo sư an lạc. Bùi Kha, 1.10.2010
  25. Trong quá trình làm sáng tỏ lịch sử thời Hùng Vương, chúng ta nhận thấy cổ nhân đã mã hóa các nhân vật lịch sử như phật, tiên, thánh, thần... và các anh hùng, hào kiệt mỗi thời, các nền tảng của văn hóa và tôn giáo thông qua học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đồng thời, trong các nền văn minh khác trên thế giới nếu đi sâu vào bản chất cũng nhận thấy có những nét văn hóa tương tự, do vậy việc tách bạch nguồn gốc thuyết Âm Dương Ngũ Hành là một vấn đề hết sức quan trọng đối với sử Việt thời thượng cổ: - Nguồn gốc và mối liên quan của nó với văn minh Trung Hoa. - Mục đích và mục đích tối thượng. - Các nền văn hóa tương đương. - Giải quyết vấn đề định mệnh cá nhân là như thế nào? Tôi chỉ ghi nhận tóm tắt, hoàn toàn là ý kiến cá nhân.