danchu

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    3
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

1 Neutral

About danchu

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. <H1 class=cssDefaultTitle>Tận nhân lực, tri thiên mệnh</H1> http://chungta.com/Desktop.aspx/KinhDoanh-...tri_thien_menh/ Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần 09:20' AM - Thứ năm, 12/02/2009Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch InvestConsult Group, thường được nhắc đến như người sáng lập ra công ty tư vấn đầu tiên ở Việt Nam. Có lẽ ông cũng là một trong không nhiều người mạnh dạn rời bỏ môi trường nhà nước từ trước Đổi mới. Ở tuổi 63, người đàn ông này vẫn rất khang kiện, vẫn làm việc miệt mài. Cùng một tác giả: » Chúng ta buộc phải sắc sảo » Giao lưu với sinh viên Khoa quản lý đào tạo Quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân » Cải cách giáo dục Việt Nam » Thêm một số suy nghĩ về cải cách giáo dục » Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội, thách thức: Giao lưu với sinh viên Trường Đại học Luật » Phẩm hạnh là giá trị quan trọng nhất của nhân lực » Sự hình thành trong im lặng của văn hóa (Trả lời phỏng vấn VTV1) Đang ngồi ghế quyền chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải, đâu là lý do khiến ông rời bỏ môi trường nhà nước vào năm 1984 - thời điểm trước khi đất nước tiến hành đổi mới? - Sai lầm lớn nhất của chúng ta là không có môi trường bên ngoài Nhà nước. Nói một cách chữ nghĩa là không có xã hội dân sự. Khi nào mà ánh sáng của Nhà nước phủ lên mọi ngõ ngách của đời sống thì xã hội không thể phát triển một cách bình thản được. Cần phải có những khu vực không có sự hiện diện của Nhà nước. Nhà nước luôn luôn phải tự vấn rằng liệu sự có mặt của mình tại một khu vực nào đó, vào một thời điểm nào đó có cần thiết hay không. Nhận ra lúc mình không cần thiết là một biểu hiện của sự thông thái. Cũng giống như một người cha thấy con trai mình đang ôm bạn gái thì phải biết tránh đi. Có thể nói, từ một nhà nghiên cứu khoa học cầu đường dân sự, rồi chuyển sang kinh doanh là vì tôi không muốn chịu khổ nhưng lại không có khả năng tham nhũng. Để tham nhũng được cũng cần phải có những điều kiện? - Khi rời khỏi khu vực công, tôi là một quan chức tương đương cấp vụ. Nếu ở lại, tiếp tục phấn đấu thì có thể tôi cũng sẽ có điều kiện nào đó để làm quan chẳng hạn. Tôi nghĩ rằng khi làm quan chức, nếu không biết tận dụng lợi thế của mình thì sẽ rất nghèo. Cũng bởi cái nghèo mà tôi đã mất con gái đầu lòng. Con gái tôi bị bệnh bạch cầu. Giá một ca phẫu thuật ở nước ngoài lúc đó khoảng 30 ngàn USD - một khoản tiền mà có nằm mơ tôi cũng không nghĩ đến. Tôi không cam chịu nghèo nên tôi phải tìm ra bên ngoài để làm kinh doanh. Nhưng với tư cách là một người đã từng làm khoa học, tôi không muốn làm kinh doanh thông thường như mua đi bán lại, mua đắt bán rẻ vì nó không phải là ưu thế mà tôi có, nên tôi kinh doanh các dịch vụ có chất lượng khoa học, đó là nghiên cứu về vấn đề chuyển giao công nghệ, cung cấp các dịch vụ luật sư đảm bảo chất lượng hợp lý cho các hành vi kinh doanh. Tất cả những dịch vụ ấy, trong một chừng mực nào đó đều đòi hỏi vốn hiểu biết và sự nghiên cứu. Tôi đã bắt đầu nghiên cứu xây dựng loại hình công ty như thế từ năm 1984 và đến năm 1987 khi đất nước mở cửa, đổi mới thì tôi lập công ty Investip, thuộc Bộ Khoa học Công nghệ. Tuy nhiên, vì muốn hoạt động tư nhân và muốn rành mạch trong quan hệ với nhà nước nên năm 1991, tôi tách ra và thành lập InvestConsult Group. Năm 1987, chúng ta chưa có Luật Doanh nghiệp. Việc ông lập công ty phải chăng là một sự mạo hiểm? - Trước khi mở công ty, tôi đã dành ra khoảng mười năm để nghiên cứu về nó. Việc mở công ty bây giờ là chuyện bình thường, nhưng vào thời điểm những năm 1980, công ty là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người Việt. Vào những năm ấy, những giáo trình về kinh tế học phi xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam rất hiếm, không được lưu hành phổ biến, công khai. Ví dụ giáo trình Kinh tế học của giáo sư Paul Adam Samuelson, được cơ quan kinh tế của Bộ Ngoại giao dịch và chỉ được lưu hành trong một vài cơ quan và trường đại học có liên quan đến kinh tế. Các bạn biết rằng, truyền bá những kiến thức kinh tế học phi xã hội chủ nghĩa vào thời điểm ấy đòi hỏi phải có một sự dũng cảm ghê gớm và nó cũng vượt quá khả năng hiểu biết của người Việt vào thời điểm ấy. Dám tiếp cận những tài liệu đó cũng có thể được xem là một sự dũng cảm? - Tôi chỉ là người điếc không sợ súng. Khi tôi mở công ty, cậu em tôi đang là trưởng phòng trong một công ty của Ban Tài chính Quản trị TP. Hồ Chí Minh và đang phấn đấu để lên phó giám đốc. Tôi nói với cậu ấy rằng hãy từ bỏ vị trí đó, đi theo tôi. Cậu ấy hỏi: Theo anh rồi làm gì? Tôi trả lời: làm gì thì chưa biết nhưng chắc chắn không chết được. Đến bây giờ thì cậu ấy cũng đã có một số thành tựu trong cuộc đời của cậu ấy và một tương lai tốt. Để rủ được những người khác theo mình vào giai đoạn đầu tiên như vậy, buộc phải có nhân cách. Nhân cách không chỉ là một phẩm hạnh mà còn là vốn liếng của những người muốn có sự nghiệp. Những người nào muốn có sự nghiệp mà sự nghiệp ấy không bị tương lai đem ra chế giễu thì người đó buộc phải bắt đầu nó bằng nhân cách, bằng phẩm hạnh. Nguyễn Trần Bạt (1946) - Sáng lập kiêm chủ tịch và Tổng Giám đốc InvestConsult Group. - Cử nhân luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và bằng kỹ sư xây dựng dân dụng của Đại học xây dựng Hà Nội. Ông Bạt được coi là người đầu tiên xây dựng một công ty Việt Nam tư vấn chuyên nghiệp về đầu tư và kinh doanh ngay sau khi Việt Nam ban hành chính sách “Đổi mới” năm 1987 mở cửa nền kinh tế Việt Nam cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Ông Bạt là tác giả của rất nhiều bài báo, sách và các công trình nghiên cứu tập trung vào nội dung làm thế nào Việt Nam phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá. Ông Bạt được nêu danh trong cuốn Barons Who's Who in Vietnam và Barons Who's Who in Asia Pacific như một luật sư và nhà tư vấn xuất sắc. Các sách đã xuất bản: 1. Văn hoá và Con người, NXB Hội nhà văn, 2005 2. Suy tưởng, NXB Hội nhà văn, 2005 3. Cải cách và sự phát triển, NXB Hội nhà văn, 2005 4. Cội nguồn cảm hứng, NXB Hội nhà văn, 2008 Trong số những người đi theo ông từ những ngày đầu, đã có những người ra đi, chẳng hạn như trường hợp chị Đàm Bích Thủy, Tổng Giám đốc Ngân hàng ANZ Việt Nam. Ông có tiếc không? - Chị Thủy có bay lên Sao Hỏa đâu. Sự thành đạt của các đồng nghiệp là những tấm huân chương gắn lên ngực áo nhà quản trị. Tôi có một may mắn là đến giờ này vẫn chưa có một quả thối nào rơi từ cành cây Nguyễn Trần Bạt. Chị Thuỷ tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, khoa Tiếng Anh và chị ấy hoàn thiện chương trình đại học của mình theo chế độ học thêm tại chức. Ngành học của chị ấy không hề liên quan gì đến tài chính, không hề liên quan gì đến luật pháp, không hề liên quan gì đến kinh doanh cả nhưng bây giờ chị ấy là người đứng đầu một tổ chức kinh doanh, một loại hình kinh doanh khó nhất trong các ngành kinh doanh là kinh doanh ngân hàng. Tôi không tạo ra khả năng của chị Thuỷ nhưng tôi khích lệ khả năng ấy. Tôi không dạy chị ấy được một chút kiến thức nào về chuyện ấy nhưng tôi thổi vào đời sống tinh thần của chị ấy cái khát vọng trở thành một người như thế và tôi tự hào về điều đó. Kinh tế suy thoái đang khiến cho rất nhiều các doanh nghiệp gặp khó khăn. Nhưng có vẻ như các công ty tư vấn vẫn đang “chạy” khá ổn bởi kinh tế lên hay xuống cũng đều tạo ra việc làm? - Nói một cách hình tượng thì ngày xưa, chỉ cần bắt một con ếch là đủ nấu một bữa cỗ. Bây giờ, kinh tế suy thoái, ếch gầy, để nấu được một bữa cỗ, chúng tôi phải bắt hai con. Công việc có vất vả hơn một chút nhưng công nghệ bắt ếch thì vẫn không thay đổi. Trong cuốn sách Văn hoá và Con người, ông có nói rằng “mỗi thế hệ phải làm cho thế hệ sau tốt hơn”. Khoảng cách giữa nói và làm cách nhau bao xa, thưa ông? - Tôi không nói to chuyện ấy ra một cách chủ động, nhưng khi tôi viết sách là khi tôi trả lời các câu hỏi của cuộc đời thì tôi nói. Tôi nghĩ rằng, tôi luôn luôn cố gắng làm đến mức cao nhất khả năng của mình những điều mình nói. Có những vấn đề tôi làm hơn những điều tôi nói, có những vấn đề tôi chưa làm được đến điều tôi nói nhưng tôi cố gắng làm. Tôi có một đồng nghiệp là em trai của một người bạn tôi. Cậu ấy học ở nước ngoài về nhưng vì chưa kiếm được việc làm nên người bạn mang đến gửi gắm cho tôi. Sau này, khi đã trở thành một người giàu có, cậu ấy mới nói với tôi rằng lúc đầu em đi theo anh chỉ vì mong muốn mua được một căn hộ để lấy vợ. Bây giờ thì cậu ấy có năm cái villa ở Sài Gòn. Tức là tôi làm được nhiều hơn cái mà người ta kỳ vọng ở tôi và cái mà tôi muốn. Tất nhiên tôi không phải là kẻ từ thiện, tôi chỉ hướng dẫn, cổ vũ, tập hợp để người ta làm thôi, còn những thành quả ấy vẫn là lao động của người ta. Tôi không chiếm dụng giá trị tinh thần lao động của người khác để nói cho mình, nhưng phải nói rằng những người tài hoa trong số họ đã đạt được những cái thậm chí lớn hơn cái động cơ ban đầu của họ khi họ hợp tác với tôi. Và ông cũng giàu có hơn? - Đương nhiên. Cái khó với tôi không phải là giàu có, mà là giữ được những giá trị của mình ngay cả khi đã trở nên giàu có. Tôi có thừa trí khôn để có thể kiếm được rất nhiều tiền từ thị trường chứng khoán, nhưng tôi không tham gia. Từ những năm 1989 tôi đã tổ chức hội thảo bàn về thị trường chứng khoán tại Sài Gòn. Lúc đó tôi bị ông Võ Văn Kiệt khiển trách. Có những người tỏ ra khó chịu về chuyện đó, xúi tôi làm chuyện nọ chuyện kia, nhưng tôi chỉ cười và nói: Ở đời, có mấy người được vua nện cho một gậy. Hơn thế, đó lại là vị vua mà mình yêu mến. Đó là một phép thắng lợi tinh thần? - Tôi là người không bao giờ để bụng. Không tự giam hãm mình vào sự thù hận là nguyên tắc số một của tôi. Lòng căm thù có thể là vũ khí tạo ra chiến thắng, nhưng không tạo ra hạnh phúc. Vậy thì, với ông, cái gì tạo ra hạnh phúc? - Tự do. Tự do với lịch sử của mình, với định kiến của mình, luôn luôn có những năng lực tự giải phóng mình ra khỏi những trạng thái mà ở đó mình không còn nguyên vẹn là một con người nhân hậu. Tự do với bản thân mình khó hơn nhiều so với tự do với Nhà nước. Chỉ cần đi khuất mắt công an là người ta có thể tìm thấy cảm giác tự do với Nhà nước, nhưng có thể ngay trong những giấc ngủ người ta cũng không tìm được tự do đối với bản thân mình, đối với lịch sử hình thành cá nhân mình. Ngoài việc điều hành kinh doanh, ông còn viết sách. Ông có nghĩ sách của mình khó bán? - Tôi không viết sách để kiếm tiền. Tôi muốn đóng góp kinh nghiệm của mình với đời sống, con người và đất nước. Ai nhặt được điều gì đó có ích trong những cuốn sách của tôi là quyền của họ. Viết lách là niềm ham thích của tôi, nó là lao động chủ yếu của tôi khi bắt đầu bước sang tuổi 55, sau khi hoàn tất việc cấu trúc công ty. Cho đến năm 2008, tôi đã viết được 8.500 trang. Tôi làm việc cật lực như một người xúc than. Số lượng không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với chất lượng? - Tôi không chép lại ý kiến của người khác. Tôi chỉ viết ra những điều tôi suy nghĩ. Sai - đúng, hay - dở, chưa biết. Tôi cũng không năn nỉ để được in sách. Tôi gửi bản thảo tới nhà xuất bản, nói với các anh ấy rằng khi nào có điều kiện thì in. Sách của tôi không dễ xin được giấy phép xuất bản. Cũng vì việc in sách mà tôi đã va chạm với Ban Tư tưởng Văn hóa, Hội đồng Lý luận Trung ương. Để được xuất bản, cuốn sách mới nhất của tôi phải được sự thông qua của Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Còn ông thì cải sửa thành “việc chính trị cốt ở yên dân”? - Nhân nghĩa là một khía cạnh của chính trị. Tôi nghĩ phải đặt thêm vào câu của Nguyễn Trãi những giá trị mang chất lượng thời đại. Thời của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là chính trị, còn thời của chúng ta, ngoài nhân nghĩa chính trị còn nhiều nội dung khác nữa. Tôi muốn sửa câu ấy nhưng có cùng một mục tiêu là yên dân. Nếu không làm cho dân yên là phi chính trị và không nhân nghĩa. Theo ông, hiện giờ dân có yên không? - Không. Dân không yên vì sự vụng về, thiếu tỉnh táo, thiếu cân đối của chính trị. Nhiệm vụ của tôi khi viết sách là cung cấp một số kinh nghiệm để hiểu ý nghĩa của chính trị. Cụ thể là trình bày những cái thuật để người ta tiếp cận với chính trị toàn diện hơn và để đánh giá vai trò yên dân của đời sống chính trị. Tất nhiên, không thể đòi hỏi yên dân ngay. Sự yên dân, hay nghệ thuật yên dân của nhà chính trị gắn liền với những kinh nghiệm, thất bại của họ. Cần có thời gian để thể nghiệm và đo lường chất lượng của các chính sách. Nhà chính trị không mang tiếng là người xấu khi chưa có đủ kinh nghiệm. Nhưng khi có đủ kinh nghiệm để yên dân mà vẫn không xem yên dân là mục tiêu thì họ có lỗi. Lỗi ấy không phải là do học thuật, mà là lỗi đạo đức. Lúc bấy giờ mới quay trở về trạng thái đánh giá của Nguyễn Trãi là không nhân nghĩa. Cho nên câu của Nguyễn Trãi là viết cho một nhà chính trị, còn câu mà tôi bổ sung vào là viết cho một hệ thống chính trị. Tuy nhiên cũng phải nói cho rõ thêm, có những lúc, sự không yên dân là kết quả của sự vụng dại hoặc là sự thiếu đức hạnh của một vài nhà chính trị, nhưng cũng có những lúc, tình thế không tạo ra sự yên ổn của cả nhà chính trị lẫn người dân. Vậy thì chúng ta, khi đánh giá các nhà chính trị, chúng ta phải phân biệt được sự không yên dân nào là lỗi của nhà chính trị, sự không yên dân nào chủ yếu là kết quả của tình thế. Đấy chính là lẽ công bằng của khoa học. Từ kỹ sư cầu đường, chuyển qua kinh doanh, rồi viết sách. Viết lách có phải là cột mốc cuối cùng trong cuộc đời của ông? - Công việc sắp tới của tôi là thuyết phục các nhà lãnh đạo về những vấn đề sống còn của đất nước. Tôi không phải là người đối lập, nhưng đem những ý kiến của mình thuyết phục người khác thì tôi làm không mệt mỏi. Ông có tin rằng mình làm được? - Tôi chưa bao giờ làm những gì mà mình không tin. Người ta phải có lòng tin vào sự lương thiện của mục đích công việc của mình. Không tin vào chất lượng thiện chí của mình thì sống với ai? Được biết ông đã có nhiều buổi nói chuyện với sinh viên đại học. Tiếp xúc với đối tượng này, ông suy nghĩ như thế nào về họ? - Tôi nghĩ cần thực hiện một hoạt động có tính chất quy mô xã hội để giải độc hệ quả của một nền giáo dục mà chúng ta đã có. Tôi cũng là một người cha. Tôi nghĩ cần phải làm thế nào đó để thế hệ trẻ, thế hệ con tôi bước vào cuộc đời với tư cách những người tự do, những người không nhiễm độc, không định kiến, những người có tầm nhìn hình nan quạt chứ không phải cái nhìn trên một đường thẳng. Hiện nay ngành giáo dục đang dạy trẻ con sai. Con cháu chúng ta thi rất giỏi, nhưng làm thì rất kém. Có những người làm rất giỏi nhưng sống thì tồi. Xét cho cùng, mục tiêu của con người là sống chứ không phải làm việc. Dân gian nói rằng “nhân vô thập toàn”? - Không. Nhân vô thập toàn là lời than vãn của một dân tộc không có nhân thập toàn. Tôi không tin rằng ở một nước phát triển có câu “nhân vô thập toàn”. Họ có sự khác nhau chứ không phải “vô thập toàn”. Bản thân chữ “vô thập toàn” đã mang tính áp đặt. Vô thập toàn theo tiêu chuẩn nào, ai đặt ra và ai đánh giá sự thập toàn ấy. Tôi không tín nhiệm câu “nhân vô thập toàn”. Tùy thuộc vào năng lực cá nhân mà con người kỳ vọng, mơ đến một cuộc sống có kích thước phù hợp với khả năng của họ. Ham muốn của con người là một đại lượng phát triển, cho nên cái ham muốn của con người cũng biến thiên theo năng lực. Trong thời gian chờ đợi việc “giải độc cho thế hệ trẻ”, như cách nói của ông, là động cơ khiến ông đưa con trai của mình “di tản giáo dục”? - Tôi gửi con trai ra nước ngoài du học vì đó là một cơ hội. Bây giờ tôi còn khỏe mạnh, còn kiếm được tiền để lo cho con tôi. Chứ tôi không nghĩ đi du học nước ngoài thì sẽ tốt hơn. Cuộc sống cũng là một trường học. Có vẻ như cuộc sống dạy cho ông nhiều hơn giảng đường? - Không. Trút lên vai giảng đường trách nhiệm phải dạy tất cả những gì cuộc sống cần là sự áp đặt ngốc nghếch. Trường học không có nghĩa vụ dạy cho học trò tất cả mọi thứ. Trường học chỉ là nơi hướng dẫn phương pháp, cung cấp cho các em kiến thức để có thể hành nghề trong giai đoạn đầu vào đời. Chính vì hy vọng trường học là nơi cung cấp mọi thứ mà cuộc sống cần nên người ta mới nhồi nhét. Tôi nghĩ những người nào đến 40 tuổi mà vẫn sống bằng kiến thức ở trong trường học thì không có giá trị phát triển. Sự học được ở ngoài đời nhiều hơn ở trường học là một nguyên lý chứ không phải là một thực tế. Tôi biết có rất nhiều người vẫn không ra khỏi được chương trình giáo khoa trong quá khứ. Trong buổi nói chuyện với sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tôi có nói một câu như thế này: "Trở thành nô lệ tuyệt đối cho những điều mình học thì học tập là một quá trình tự tàn sát mình". Nhà trường phải dạy trẻ em cách ra khỏi sách giáo khoa. Thời gian còn làm việc ở Bộ Khoa học Công nghệ, tôi được giao nhiệm vụ phụ trách một công trình xây dựng. Do có một cải tiến buộc phải tranh luận trong thời gian thi công, người ta mời một người thầy đã từng dạy tôi 20 năm về trước đến thẩm định. Khi tôi bảo vệ ý kiến của mình, ông ấy nói: “Anh Bạt, hình như anh là học trò của tôi?”. Tôi trả lời: “Thưa anh, đúng. Tôi đã từng là học trò của anh. Những người dạy học trò mà hai mươi năm sau vẫn nghĩ rằng mình là thầy của những người học trò ấy thì đấy là những người thầy tồi”. Hạnh phúc của những người thầy là có những người học trò mà mình có thể ngưỡng mộ được. Không có một người nào lại tự hào rằng mình cao hơn cái cây mình trồng. Cái cây phải cao hơn người trồng và sự chênh lệch về chiều cao này càng lớn thì người trồng càng hạnh phúc. Chúng ta có ít những người thầy tự hào về điều ấy và đó chính là nỗi bất hạnh của nền giáo dục chúng ta. Ông có đi dạy không? - Tôi không đi dạy một cách chính thức. Hồi ở viện, tôi có tham gia một số chương trình đào tạo của những trường đại học có ngành liên quan, hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp… nói chung là cũng có chút liên quan với việc dạy. Vậy ông đã có học trò nào mà mình ngưỡng mộ chưa? - Tôi rất thận trọng khi xếp mình vào vị trí của người thầy. Để làm thầy, con người ta phải có một sự cố gắng vô cùng lớn lao. Tôi không may mắn có học trò. Tôi không nhận ai là học trò của tôi cả. Đó là một cách nói? - Không phải. Đó là một cách nghĩ. Tôi cho rằng người thầy là người tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ của người học trò. Nếu chỉ dạy những điều trong sách giáo khoa, trong những quyến sách mình đã đọc thì chưa phải là thầy. Tại sao ở phương Tây, phần lớn các viện nghiên cứu đều nằm trong các trường đại học? Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của người đi dạy. Qua nghiên cứu người thầy mới tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ của mình và từ đó mới có khả năng tạo ra giá trị gia tăng của trí tuệ học trò của mình. Một bài giảng năm nay cũng giống như năm ngoái nghĩa là không tạo ra giá trị gia tăng, và như thế là rao giảng chứ không phải đi dạy. Tôi không dám nghĩ mình là thầy của bất kỳ ai. Tôi chỉ là đồng nghiệp của những người yêu khoa học. Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này. Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần Số lượt đọc: 202 - Cập nhật lần cuối: 12/02/2009 12:38:28 PM Về trang trước Bản in Gửi email Về đầu trang http://' target="_blank">
  2. Khách quan khoa học trong phê phán phản biện Hà Yên 11:34' AM - Thứ tư, 01/10/2008 Mở đầu Sự phát hiện những công năng bí ẩn, những hiện tượng dị thường ở con người, được thông tin khá nhiều trong những năm gần đây, không còn là sự đồn đoán, mà là một thực tại đang hiện hữu không chỉ có ở nước ta. Dư luận xã hội phản ứng với hai thái cực : một bên cho rằng đó là một thực tại khoa học, mà lý thuyết khoa học, Vật lý học, hiện nay chưa thể vươn tới, Cần tổ chức khảo sát, trắc nghiệm khách quan và khuyến khích phát triển. Một bên thì coi đó là biến tướng của mê tín dị đoan, đòi phủ định tất cả. Đây là hai thái độ phê phán đối lập trước một hiện tượng, mà tiêu chí xem xét của mỗi bên với tư duy lịch sử khoa học khác nhau: Khoa học hiện đại là cuộc cách mạng nhận thức chân lý ngày càng sâu sắc, tính trừu tượng ngày càng cao; Còn bên kia, coi khoa học (và cả Triết học duy vật) đã đến tuyệt đích chân lý. Hiện tượng nào Khoa học cũng có thể soi rọi được. Và rằng, thực chứng và thực nghiệm là tiêu chí cao nhất của chân lý Khoa học. Thông điệp của Newton từ thế kỷ 19, vẫn còn đúng, chẳng những trong thế kỷ 21 này, mà còn rất lâu nữa, rằng : bí mật của Thế giới Tự nhiên, mà Khoa học chưa khai mở được, vẫn là một đại dương không bờ bến. Các nhà khoa học, cùng với những khám phá vĩ đai nhất hiện nay, cũng giống như là “Những cậu bé con reo mừng khi nhặt được chiếc vỏ ốc, vỏ sò trên bãi biển”. Những gì từ chiếc vỏ ốc, vỏ sò kia làm sao có thể soi sáng được bí ẩn trong lòng đại dương, nếu chỉ dựa vào những thông tin trên chiếc vỏ ốc, vỏ sò ấy. Thế mà, để phản biện sự hiện hữu của hiện tượng dị thường, một vài học giả thường “đại ngôn” với câu: “Ngày nay, với những thành tựu rực rỡ của Khoa học…”. Để hàm ý : Khoa học đã đạt đến “Chân lý tuyệt đối”. Tuy vậy, thông tin mà lời “đại ngôn” đó mang, không phải là không xác thực. Nhưng tính xác thực ấy, chỉ đảm bảo tính khách quan khoa học, khi để chứng minh rằng: Một cỗ máy biết đi lại, biết nói năng giao tiếp, biết ứng xử, biết biểu lộ cảm xúc với con người là có thật và đang hiện hữu. Hoặc rằng, từ một chút xíu Tế bào phôi, nhà Sinh học có thể chế tạo ra cả một con cừu! Vì đó đúng là những thành tựu Khoa học rực rỡ, mà thế hệ hiện nay chúng ta đang hưởng thụ. Công lao đó thuộc về sự phát triển có tính cách mạng của Khoa học kỹ thuật, mà nòng cốt là Khoa học Công nghệ, trong những thập kỷ gần đây. Còn giải mã những bí ẩn khoa học (như Công năng dị thường ở người chẳng hạn) thì không phải đối tượng nghiên cứu của Khoa học công nghệ mà phải xây dựng một lý thuyết Khoa học mới. Có thể là một sự tích hợp giữa Vật lý Sinh học và Huyền học, như đã có một số nhà Vật lý đề cập. Nhưng đó là lĩnh vực của Khoa học Cơ bản, nó bao giờ cũng gắn liền với mô hình Toán học nhất quán, có tính tiên đoán cao. Tuy thuần túy Lôgic, nhưng đó là một phương pháp luận khoa học, khách quan và nghiêm túc. Vì là vai trò dẫn đường, cho nên lý thuyết bao giờ cũng đi trước thực nghiệm kiểm chứng (hàng chục, thậm chí hàng trăm năm). Do trừu tượng Toán học ngày càng cao, là thử thách quá khó cho khối óc của thế hệ các nhà khoa học hiện tại, nên Khoa học Cơ bản không thể phát triển vũ bão như Khoa học Công nghệ trong một thời gian ngắn dăm ba chục năm. Vậy, cho nên việc hòa lẫn lịch sử hai chuyên ngành Khoa học này, đã hàm chứa một sự thiếu khách quan khoa học trong tư duy phê phán rồi. Với cách nhìn trên, thì hiện tượng đặc dị công năng, phát tác từ con người, khoa học hiện nay chưa thể làm sáng tỏ là điều có thể hiểu được. Và đó cũng là trọng trách đặt lên đôi vai của thế hệ các Nhà khoa học kế cận, phải tỉnh táo, khách quan, chắt lọc mà nhận lấy, chứ không phải chối bỏ vì quá tin vào “Quyết định luận”, mà không nỡ “phụ tình” những khuôn mẫu tư duy đã định hình trong quá khứ. Huyền học, bao gồm trong nó các hiện tượng Tâm linh, Do định kiến đói lập với Khoa học,bởi Tâm linh, ít nhiều, có dây dưa với thần thánh, với lừa lọc mê tín dị đoan, nên nó bị các học giả nhân danh Khoa học bác bỏ khi coi Tâm linh như một cặp “đối xứng” với Khoa học. Hiện tượng Dị thường, mà người ta muốn gán hoàn toàn cho sinh học, cho Tâm linh huyền bí, bằng những thuật ngữ như : Viễn di sinh học, Thấu thị, Ngoại cảm xuất thần…đã làm cho hướng tiếp cận vấn đề, vốn đã dị thường, càng trở nên huyền bí, và bị rơi vào liên tưởng “Tâm linh Tôn giáo” một cách oan uổng. Đứng trước những hiện tương dị thường, phát tích từ con Người, cũng có không ít những học giả mang máng thấy rằng, con Người, dù ở nấc thang tiến hóa tuyệt đỉnh, thì cũng chỉ là sự sắp xếp từ những Nguyên tử nhỏ xíu, với sự dẫn dắt của Cơ học Lượng tử, mà tiến hóa thành. Vậy thì rất nên tiếp tục tin rằng: Hệ Sinh học, xét về bản chất, cũng là một hệ Vật lý, vì cả hai đều tuân theo một mệnh lệnh vận động vật chất như nhau. Dù rằng những hiện tượng dị thường chưa có bằng chứng thực nghiệm kiểm chứng. Nhưng, như Giáo sư Thiên văn vật lý Trịnh Xuân Thuận đã viết một câu rất hay rằng : “Sự không có bằng chứng không phải là bằng chứng của sự không có.” Nhà triết học Pháp Pascal, thế kỷ 17, đã viết :”Con người muốn hiểu biết Thế giới, không chỉ dựa vào nhận thức duy lý, mà còn phải dựa vào luận thức duy cảm.” Huyền học là lĩnh vực khó áp dụng phương pháp thực chứng, cho nên phải biết áp dụng lập luận lôgic và sử dụng các sự kiện gián tiếp, sắp xếp các hiện tượng một cách Khoa học, mang tính hệ thống cao, để từ đó đưa ra một giả thuyết, có khả năng luận giải hợp lý vấn đề, thì xem như đã hoàn thành được một nửa công việc. Phần một: Thử tiếp cận cơ chế phát sinh công năng dị thường theo con đường vật lý Chỉ bằng đôi mắt nhìn chăm chú vào một đôi tượng xác định nào đó, có thể gây ra một sự xê dịch (chiếc cốc trên bàn), hoặc làm biến dạng ( bẻ cong một chiếc thìa kim loại) như một lực tác dụng trực tiếp hoặc phát nhiệt làm nóng đối tượng ( nướng cá bằng ý nghĩ : Một nông dân Trung quốc tên là He Tieheng thể hiện công năng đặc dị của mình trước ống kính phóng viên – VnExpress đưa tin 03 / 2008). Chúng ta biết rằng, bất kỳ dạng vật chất nào cũng có Nội năng. Sự thay đổi Nội năng trong vật chất vô sinh là do bên ngoài tác động. Sự thay đổi Nội năng trong con người (Huyền học gọi là Tâm năng) là do chuyển hóa nội tại và được kiểm soát bỡi cái mà ta gọi là Ý chí. Từ thực tiễn đời sống con người, cũng như từ những triết lý thường nhật, như: “Hãy lấy Ý chí để vượt lên số phận !” ; “ Lấy Ý chí mà chiến thắng bệnh tật !”; “Hãy rèn luyện Ý chí để đứng vững trước mọi thử thách, cám dỗ !” v.v.. Sẽ có thể cho phép chúng ta đi đến một khái quát lớn: Nội năng toàn phần trong mỗi con Người có thể là hòa hợp của hai trạng thái. Thứ nhất: chiếm giữ trạng thái “Trật tự” và đượcTạo hóa ban phát đều cho từng cá thể, ngay từ giai đoạn phôi thai và tăng dần theo thể trọng (khối lượng) của cơ thể. Trạng thái Nội năng này giữ vai trò duy trì sức sống - cái mà y học tâm thần gọi là “Sức khỏe nội tâm”. Biểu hiện bên ngoài là cái mà người ta gọi là “Thần sắc”. Nội năng chỉ vơi đi theo tuổi tác, làm cho “Thần sắc” cũng lững lờ vàng úa theo, với một tốc độ nào đó, mà Ý chí có thể kiểm soát được bằng sự rèn luyện trong quá trình giác ngộ và tự ý thức. Rèn luyện khuấy động tính trơ ỳ của “Trật tự”, làm nó luôn năng động và nhạy cảm. Thứ hai là trạng thái “Hỗn độn”. Hỗn độn là một thực tai Vật lý phổ quát, là bản chất cố hữu của Vũ trụ và của giới Tự nhiên. Hỗn độn mở đường cho sáng tạo và phát triển, do nhà Toán học Pháp Poincaré khám phá vào cuối thế kỷ 19. “Nội năng Hỗn độn” chỉ được hấp thụ và hình thành một cách đột biến trong giai đoạn cơ thể từ hình thành tới trưởng thành, không may gặp phải biến cố, dẫn đến sự phá vỡ cục bộ cấu trúc mạng Neuron: Cái tất định đã bị biến dạng. Sự tự tổ chức lại, được “Tạo hóa” chấp nhận, buộc phải tuân theo một Nguyên lý Vật lý, gọi là Nguyên lý bất định : Một trong những Nguyên lý trụ cột của Cơ học lượng tử, hiện hữu trong thế giới Tự nhiên. Ở đây, nếu không gian cấu trúc không xác định thì năng lượng được giải phóng, do phá vỡ cấu trúc đó, chuyển thành Nội năng Hỗn độn, sẽ hoàn toàn xác định. Do vậy, dù ở trạng thái chìm lẫn trong Nội năng toàn phần, thì “Nội năng Hỗn độn” vẫn được kích hoạt riêng phần một cách mãnh liệt. Đó là nguồn động lực kích phát ra hiên tượng dị thường, xuất chúng. Khoa học về Hỗn độn chứng minh rằng, Hỗn độn không phải là hỗn loạn vì nó được kiểm soát. Ở người, phần Hỗn độn của Nội năng được Ý chí kiểm soát một cách hiệu quả. Mặt khác, cơ năng toàn phần dù chỉ có mỗi phần “Trật tự”, thì với cường độ khổ luyện đạt tới ngưỡng nào đó, đủ để kích hoạt trạng thái trật tự chuyển dần sang trạng thái Hỗn độn, có thể đạt đến sự mãnh liệt. Điều này giống như sóng biển, khi thì cuộn trào ồ ạt, dâng cao; cũng có khi trời yên sóng lặng , nhưng mực nước biển thì vẫn thế : Vẫn bình yên trong tật tự ! Ý chí càng cao, sự tu luyện càng miệt mài, đạt đến chính quả, thì sự phi phàm càng tuyệt đỉnh. Đó là những gì đang diễn ra ở các lò võ, và cao hơn, ở thủ đô Tâm linh - Tây tạng, mà các Thiền sư ở đó đang thực hiện. Vì dạng thức Hỗn độn là dạng xung, nên Xung năng của nó có thể phát tác ra ngoài với mật độ rất lớn, khi đượcÝ chí điều khiển. Hiện tượng này cũng giống như trong Vật lý : Khi có dòng điện biến thiên chạy trong cuộn dây, đạt tới tần số nào đó, nó sẽ bức xạ năng lượng ra không gian, dưới dạng sóng điện từ. Cũng cần ghi nhận rằng, nguồn dinh dưỡng từ thức ăn là nguồn năng lượng bổ sung từ bên ngoài để bù lại phần năng lượng tiêu tán trong hoạt động sống hàng ngày, với ý nghĩa : “cơ thể là một hệ nhiệt động”, chứ không quyết định qui mô tồn tại của Nội năng : Giống như đoàn tàu chuyển động đều trên đường ray, năng lượng mà nó nhận được từ nhiên liệu, cung cấp liên tục cho nó, chỉ để biến thành công triệt tiêu mọi lực cản chuyển động, chứ không làm biến đỏi cơ năng toàn phần của đoàn tàu đang chuyển động. Từ những luận giải trên đây, có thể coi Ý chí quyêt định công năng phát lực tương tác, nhưng ý chí không thuộc phạm trù Sinh học. Nó chỉ có thể thuộc phạm trù Tâm linh. Đối tượng chịu lực tác dụng ở đây là Vật chất (chiếc cốc, cái thìa, con người – trong trường hợp thôi miên), nghĩa là Tâm linh tương tác được với Vật chất. Hành trạng này chứng tỏ Tâm linh và Vật chất,tồn tại trong cùng một hệ thống tương hỗ với nhau. Bí ẩn, chắc chắn, nằm ở cơ chế chuyển tiếp từ Thế giới Tâm linh sang Thế giới Vật chất và ngược lại. Có thể đây là vùng giáp ranh, vùng xảy ra sự “chuyển pha” giữa hai Thế giới. Nó hoàn toàn giống với bí ẩn chứa trong miền giáp ranh giữa Thế giới vi mô, đầy bất định, lại có thể tạo ra Một Thế giới vĩ mô tất định, và nó cũng giống như bí ẩn trong “miền chuyển pha” giữa tỷ tỷ hạt vô tri lại có thể làm nên “khối”cơ thể có tri giác, có ý thức, có trí tuệ . Phải chăng đây là nguyên lý “Lượng đổi → Chất đổi”, một nguyên lý phổ quát, đơn giản, nhưng lại dẫn dắt cho sự tạo dựng nên những hệ thống cực kỳ phức tạp? Nhà Vật lý Lý thuyết người Anh Stephen Wolfram cũng đã phát biểu trong công trinh gây chấn đông giới Khoa học mới đây, rằng Tự nhiên và sự sống đầy phức tạp, lại tuân theo một mệnh lệnh đơn giản, đến nỗi có thể khái quát thành sơ đồ cho một trò chơi trí tuệ. Tất cả những cái đó, phải chăng là cơ sở tồn tại cho một hệ thống tương hỗ thống nhất như vậy. Robot Gordon. Ảnh: LiveScience. Một minh chứng Khoa học mới nhất với thí nghiệm robot, có tên là Gordon, được điều khiển bằng một mạng Neuron gồm 300.000 tế bào não chuột, do các nhà Khoa học Trường Đại Reading (Anh) thực hiện (VnExpress 21/8/2008 – theo Daily Mail). Hãy lấy robot truyền thống (Công nghệ cao, công nghệ tính toán) và robot Gordon để so sánh. Sự khác biệt giữa hai hệ thống điều khiển học này là, có và không có máy tính làm cơ quan điều khiển. Ở robot truyền thông, máy tính là “Bộ não” ứng biến tình huống để đưa ra mệnh lệnh đáp ứng thích hợp, truyền cho cơ cấu thừa hành, điều chỉnh hành vi robot. Nói là “Bộ não” nhưng thực ra nó chỉ thao tác các bước tính toán, được lập trình sẵn, theo một qui luật Toán học với các biến Lôgic đã được số hóa, với tốc độ cực cao. Ngành Toán học ấy là Lôgic Toán. Toán học là qui luật về tương quan định lượng của vận động Vật chất và Tư duy. Bản chất của Toán học là Trừu tượng. Máy tính không có khả năng trừu tượng. Chỉ có Bộ não sinh học mới được Tạo hóa ban cho khả năng ấy. Robot Gordon không có máy tính can thiệp vào quá trình điều khiển, tức là, không có thao tác tính toán, không lập trình. Trong trường hợp ấy, não chuột tự “suy nghĩ” và hình dung tình huống trên đường đi, nhờ bộ thu-phát sóng siêu âm (theo kiểu nhìn đêm của con dơi), để lập tức truyền thẳng lệnh điều khiển đến cơ cấu thừa hành. Có thể có sự phản bác rằng, quá trình tính toán đã xảy ra ở não chuột. Điều đó là không thể, bởi vì với 300.000 tế bào não chuột được cô lập ra, có thấm tháp gì so với hàng trăm tỷ tế bào não ở người, thế nhưng tốc độ tính toán của người còn thua rất xa máy tính. So sánh như vậy để thấy rằng, Tạo hóa “thiết kế” bộ não sinh học (đặc biệt bộ não người), không phải để làm cái việc tẻ nhạt, là tính toán, mà là để tư duy, trừu tượng và sáng tạo. Điều chắc chắn là robot Gordon đã sử dụng phương pháp truyền thống của não bộ là “Tư duy trực cảm” ( trình độ rất thô sơ so với Tư duy trừu tượng), tựa như phản xạ có điều kiện, để giải quyết tình huống “tại chỗ”, mà không cần thiết bị tính toán. Tập hợp các khái niệm : Trực cảm, Tư duy, Ý thức… là những khái niệm thuộc phạm trù Tâm linh. Vậy nên, thực chất thí nghiệm của các nhà khoa học Anh, tại Đại học Reading, một lần nữa xác nhận : Tâm linh và Vật chất tồn tại trong cùng một hệ thống thống nhất. Không có "Tà giáo dị đoan" nào dung nạp được trong một hệ Vật lý thông nhất như vậy. Gọi là “Hệ Vật lý” thì hơi cực đoan, chừng nào chưa có một Ngành khoa học mới tương xứng ra đời, nhưng tên gọi ấy vẫn có uy lực ngăn cấm một sự liên tưởng mập mờ, đậm màu tà thuật dị đoan, ngụy ẩn trong Thế giới quan Khoa học chân chính. Với thái độ khách quan ấy, tác giả bài tiểu luận này thực sự kính trọng và ngưỡng mộ các Nhà khoa học thuộc cơ quan Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng Việt nam, bằng Thế giới quan khoa học hiện đại và trước hết là sự tiên phong đầy dũng cảm đã thành lập một Tiểu ban đặc biệt, nghiên cứu ứng dụng những công năng đặc dị, rồi thành lập cả một Hội Đồng Khoa học Giám định và Đánh giá. Những thành quả mà Liên Hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng thu được trong hơn mười năm qua, chẳng những được Nhà nước đánh giá cao mà, quan trọng hơn, là đã tìm lại niềm an ủi, thỏa nguyện cho vạn vạn gia đình. Bất chấp hàng trăm trang viết phản biện, trong đó, hàm lượng Khoa học thì nghèo nàn mà hàm lượng “Tuyên giáo”thì thừa thãi. (Còn tiếp phần hai: "Tiếp cận một vài dị thường cụ thể") Theo Nguồn : chungta.com
  3. Nhân loại: Tổ chức và rèn luyện các nền dân chủ Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult 07:15' PM - Chủ nhật, 22/07/2007 I. Vấn đề chung của nhân loại : Tổ chức và rèn luyện các nền dân chủ Cùng với những nỗ lực phát triển để theo kịp thời đại, con người ngày càng nhận ra dân chủ là một khái niệm cực kỳ thiết thực đối với đời sống nhân loại. Bản chất của dân chủ là xác lập các quyền con người, các quyền của người dân đối với thể chế, đối với chính phủ, đối với đất nước của mình. Đó là thể chế duy nhất có khả năng đảm bảo cho các quyền con người được tôn trọng và thực thi. Nếu không có thể chế dân chủ thì con người không có cơ hội, không có cách thức hiện thực hóa tự do của mình. Do vậy, xây dựng nền dân chủ là giải pháp để kéo tự do xuống các tầng hàng ngày của đời sống, để tự do trở thành quyền phát triển của mỗi con người. Tổ chức và rèn luyện nền dân chủ luôn là vấn đề chung của con người ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tại sao dân chủ lại là khát vọng và cần phải là khát vọng không chỉ của riêng ai? Chúng ta biết rằng con người có những phần tự nhiên, có những phần được dạy dỗ. Vì thế quan điểm của Rousseau "Con người sinh ra đã có tự do" và quan điểm của tôi "Tự do sinh ra con người" là rất khác nhau. Sự phát triển của nhân loại cho thấy một thực tế là càng ngày con người càng ít tự nhiên hơn vì càng ngày con người càng chịu ảnh hưởng của giáo dục, của văn hóa, của những yếu tố nhân tạo nhiều hơn. Nói cách khác, tỷ lệ những yếu tố tự nhiên trong đời sống con người càng ngày càng giảm còn tỷ lệ những yếu tố nhân tạo càng ngày càng tăng. Con người ngày càng xa cách tự nhiên và đấy là sự kêu cứu có thật đối với các quyền tự nhiên của con người. Khi tỷ lệ yếu tố tự nhiên trong đời sống con người giảm sút thì con người suy thoái, bởi vì con người trước hết phải là sản phẩm của tự nhiên. Tự do chính là sự bù đắp vào việc con người bị tước đoạt mất tỷ lệ hợp lý mà tự nhiên vốn dĩ đem lại cho mình trong việc hình thành con người và nhân cách con người. Cho nên, con người không có tự do, con người sinh ra không phải là sản phẩm của tự do thì đấy là khuyết tật của con người. Khuyết tật lớn nhất của con người hiện đại chính là thiếu các mối liên lạc với tự nhiên trong quá trình hình thành ra nhân cách của mình. Nếu con người chủ quan, con người chống lại các tiến trình tự nhiên hoặc cưỡng bức các yếu tố tự nhiên để nhồi nhét những thứ được gọi là sáng tạo của mình thì con người sẽ phá hoại sự cân bằng, kể cả sự cân bằng tự nhiên lẫn cân bằng tinh thần. Khi tỷ lệ các yếu tố chủ quan trong đời sống tinh thần con người càng lớn bao nhiêu thì tính không khách quan của đời sống tinh thần con người càng lớn bấy nhiêu. Tính không khách quan của đời sống tinh thần con người là tiền đề của sự suy thoái nhân cách. Một trong những suy thoái quan trọng nhất của con người là không nhận ra tính hữu hạn của các khả năng của mình, hay tưởng rằng mình có năng lực vô hạn trong việc tác động vào đời sống. Suy thoái năng lực con người chính là tăng cường sự chủ quan của con người, con người thấy mình có quyền năng vô tận nên liều mạng trong hành động. Con người liều mạng hay hành động dựa vào sự thúc bách của tình huống thì con người dễ đánh mất sự chủ động. Con người không chủ động thì dù có cảm giác tự do, con người vẫn không có tự do trên thực tế. Vậy con người khai thác cái không gian tự do của mình, mở rộng cái không gian tự do vốn có bằng cách nào? Bằng cách ý thức rất rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Tự do là một không gian nhưng con người không đi lang thang trong đó được, con người đi theo các đòi hỏi. Con người hành động theo các đòi hỏi, không hành động theo các cảm giác. Khi con người hành động theo các đòi hỏi thì tạo ra một cảm giác yên tâm vì độ có ích của các hành động, và con người yên tâm rằng mình không lãng phí. Sự thúc bách của nghĩa vụ, sự thúc bách của đòi hỏi nội tại trong đời sống tâm hồn làm con người bắt đầu hành động. Con người hành động theo những đòi hỏi như vậy mà không bị ngăn cản và còn thu được thực lợi. Thực lợi của quá trình này có được từ sự thúc bách trong tâm hồn chính là động lực để con người khai thác hết không gian tự do. Không có gì thúc bách từ bên trong tức là không chủ động. Tự do được biểu hiện đầu tiên ở sự chủ động. Chủ động không phải là cái xuất hiện ngẫu nhiên và tự nhiên, chủ động xuất hiện từ sự thúc bách của cuộc sống, của việc thực hiện nghĩa vụ đối với cuộc sống. Do đó, toàn bộ sự phấn đấu của con người để rèn luyện nền dân chủ chính là khắc phục việc con người để cho ngẫu nhiên điều khiển hành vi của mình trong cuộc sống. Đối với các quốc gia chậm phát triển, xây dựng nền dân chủ là một nhiệm vụ sống còn. Việc xây dựng nền dân chủ ở những nơi đó không phải vì những đòi hỏi dân chủ thông thường mà là những đòi hỏi dân chủ vì sự phát triển. Vào những thời kỳ mà tốc độ phát triển còn chậm, các nguồn tài nguyên đem so với nhu cầu phát triển là dư thừa thì sự thiếu sức sáng tạo, thiếu năng lực cạnh tranh không ảnh hưởng một cách quyết liệt đến đời sống nhân loại. Nhưng trong thời đại toàn cầu hoá, các quốc gia buộc phải cạnh tranh với nhau bằng độ bùng nổ của các năng lực cá nhân, tức là bằng chính độ tự do của người dân. Chỉ có tự do mới có thể làm con người nở ra, con người có những năng lực, có cảm hứng để phát triển. Xét trên góc độ chính trị học, xây dựng nền dân chủ chính là cách thức quan trọng nhất để giải phóng năng lực con người. Nhưng cần phải thấy rằng, nền dân chủ không phải là kết quả của sự giải phóng đơn giản con người, nền dân chủ có được khó khăn hơn nhiều so với việc giải phóng đơn giản con người bằng việc phê chuẩn hiến pháp hoặc vài ba đạo luật trong đó thừa nhận một số quyền tự do của con người. Nền dân chủ không thể đến ngay lập tức theo ý chí chủ quan của bất kỳ ai mà nó chỉ có thể hình thành bằng một quá trình tổ chức và rèn luyện. Tổ chức và rèn luyện nền dân chủ là giải pháp chính trị có ý nghĩa thời đại đối với mọi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia chậm phát triển. Người ta vẫn cho rằng chỉ ở những nước lạc hậu con người mới bất hạnh vì thiếu tự do nhưng không phải như vậy. Trong thời đại ngày nay, ngay cả ở những vùng phát triển của thế giới như châu Âu con người cũng bắt đầu thiếu tự do. Ở châu Âu hiện nay khái niệm tự do ngày càng trở nên thấp hơn so với đòi hỏi của con người. Khái niệm tự do vẫn được định nghĩa bởi những tiêu chuẩn của những năm đầu của thế kỷ XX, của những cuộc cách mạng thế kỷ thứ XVIII, XIX… và bởi những tiêu chuẩn về quyền con người thông thường mà không được bổ sung bởi những đòi hỏi hiện tại của con người. Những diễn biến mới nhất của tình hình ở châu Âu liên quan đến việc trưng cầu dân ý về Hiến pháp châu Âu vừa qua cũng cho thấy đìều này. Qua sự phủ nhận của người Pháp, người Hà Lan và sự ủng hộ của người Croatia đối với Hiến pháp châu Âu, có thể thấy rằng tính tiên tiến của Hiến pháp châu Âu, tính lo toan, tính quán xuyến của Hiến pháp châu Âu chỉ thoả mãn trí tưởng tượng của người Croatia chứ không đủ để thoả mãn nỗi lo toan của người Hà Lan và người Pháp. Người dân châu Âu phản ứng trước việc các nhà chính trị tự động quyết định việc dùng đồng tiền chung châu Âu, tức là các quyền tự do chính trị đã bị vi phạm một cách tương đối phổ biến. Các nhà chính trị châu Âu đã chủ quan khi không tổ chức và rèn luyện cho người dân châu Âu có thái độ thích hợp với những trạng thái phát triển khác nhau của nền dân chủ. Họ quên mất rằng cần phải tổ chức và rèn luyện sự hiểu biết và thái độ của người Pháp, người Hà Lan, người Đức... đối với giá trị châu Âu. Họ chủ quan sử dụng những cơ cấu pháp lý khôn ngoan để thông qua hiệp định về đồng tiền chung, dẫn đến người dân bị tảng lờ các quyền cơ bản của mình. Các nhà chính trị châu Âu vẫn quan niệm một cách đơn giản về nền dân chủ. Phải thấy rằng tổ chức và rèn luyện nền dân chủ không chỉ dành cho những nước chậm phát triển mà đã trở thành một vấn đề mang tính phổ quát toàn cầu. Dân chủ là một loại mô hình thể chế đã được thực chứng và chúng ta phải xây dựng dân chủ dựa vào các tiêu chuẩn phổ quát của dân chủ chứ không phải dựa vào các định nghĩa chính trị cụ thể của từng đảng chính trị. Bất cứ sự cấy ghép nào đối với khái niệm dân chủ đều thể hiện sự thiếu tôn trọng con người. Con người cần phải được xem như là đối tượng cao nhất và quan trọng nhất. Mục tiêu của việc xây dựng nền dân chủ là vì hạnh phúc của con người chứ không phải vì nền dân chủ. Cho nên, chúng ta chỉ có thể tán thành nền dân chủ với những thực chứng lịch sử đầy đủ, với những bằng chứng phát triển đầy đủ, với những hạnh phúc có thực đối với đời sống của con người, với việc khẳng định đầy đủ các quyền con người. Xuất phát từ quan điểm cho rằng tự do không chỉ là quyền chính trị mà trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay nó đã trở thành quyền phát triển, tôi cho rằng cần phải xây dựng lý thuyết về tổ chức và rèn luyện nền dân chủ. Có thể nói, tổ chức và rèn luyện nền dân chủ chính là tổ chức tiếp cận với sự phát triển hay sự nới rộng một cách tự nhiên của khái niệm dân chủ, cho nên, đây là một công việc cần phải được tiến hành một cách thường xuyên. Để có được một nền dân chủ thực sự, quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển cần phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc thứ nhất là phải thừa nhận quy luật tất yếu của việc hình thành xã hội dân chủ, tức là không ai, không quốc gia nào có thể trốn tránh nhiệm vụ dân chủ hóa xã hội được. Nguyên tắc thứ hai là những người cầm quyền phải đưa ra lộ trình để tạo ra sự hiểu biết về quyền làm chủ của người dân, tức là phải giáo dục, phải tổ chức và rèn luyện các thói quen dân chủ, làm cho người dân ý thức về tự do, dân chủ. Để làm được điều này đòi hỏi phải phi chính trị hoá, tức là không được đưa vào nội dung giáo dục ấy những khía cạnh có tính chất chính trị hẹp hòi của các đảng chính trị. Nói cách khác là phải tổ chức và rèn luyện nền dân chủ dưới hình thức một nhà nước chứ không phải dưới hình thức một đảng chính trị. Nguyên tắc thứ ba là phải thừa nhận một số nguyên lý cơ bản của việc cấu tạo nhà nước hiện đại, thừa nhận các quyền con người và phổ biến nó. Nhân quyền đã được khẳng định trong công ước quốc tế nhưng nó phải được pháp chế hóa, dân quyền hóa thành những quyền cụ thể, và các nhà nước phải thừa nhận sự can thiệp để ngăn chặn các vi phạm nhân quyền ở bất kỳ quốc gia nào. II. Biến hiểu biết về quyền thành khát vọng làm chủ của người dân Chúng ta biết rằng trí tuệ con người có thể nâng cao năng lực khai thác các quyền, mở rộng các không gian tự do và những không gian tự do ấy đôi khi lớn hơn rất nhiều lần so với không gian được phép. Vì vậy, có thể khẳng định, tự do vừa là quyền, vừa là năng lực. Nếu như chúng ta không tổ chức và rèn luyện nền dân chủ thì cho dù có một không gian tự do đầy đủ, con người cũng không có đủ năng lực để khai thác hết. Cho nên, tổ chức và rèn luyện nền dân chủ chính là tạo cho con người khai thác hết không gian được phép, và do đó họ có khát vọng đòi hỏi những không gian lớn hơn. Tất nhiên, dân chủ hoá là bài toán khó, không phải cứ muốn là chúng ta có thể có ngay nền dân chủ, vấn đề là nó có hiệu lực, có tồn tại trên thực tế hay không. Nhiều quốc gia khi tiến hành quá trình dân chủ hoá cũng đặt ra những kế hoạch, những tiêu chí này khác để xây dựng thể chế dân chủ nhưng thực tế thì việc thực thi gặp phải nhiều khó khăn, cả khách quan lẫn chủ quan. Cần phải đặt vấn đề là tại sao nó không tồn tại trên thực tế được? Bởi vì người dân hay là xã hội không có năng lực làm chủ, không có các thói quen dân chủ. Do đó, bước đầu tiên, bước quan trọng nhất của quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ chính là tổ chức và rèn luyện năng lực làm chủ của người dân. Người dân ở đây bao gồm cả các nhà chính trị vì bất kỳ một người giữ một chức năng xã hội nào cũng đều có địa vị kép, họ là nhà chính trị khi tham gia cầm quyền nhưng địa vị cơ bản của họ vẫn là một công dân. Vậy rèn luyện năng lực làm chủ là gì? Chúng ta đều biết rằng để có năng lực làm chủ thì trước hết mỗi người phải biết mình có gì, mình làm chủ cái gì. Rèn luyện năng lực làm chủ của người dân ở mức cơ bản nhất là nâng cao hiểu biết về các quyền con người. Hiểu các quyền con người là hiểu con đường một cá nhân tạo ra giá trị của mình và đóng góp các giá trị ấy cho xã hội. Nếu người dân không biết một cách phổ biến về các quyền cơ bản của mình thì họ không thể có năng lực làm chủ. Tuy nhiên, nếu chỉ có hiểu biết về các quyền mà không có khát vọng làm chủ thì họ vẫn chưa làm chủ được. Mỗi người cần biến hiểu biết về các quyền của mình trở thành một khát vọng mang chất lượng bản năng. Rèn luyện năng lực làm chủ của người dân chính là nâng cao năng lực hiểu các quyền cơ bản và biến các quyền cơ bản không chỉ trở thành kiến thức mà còn trở thành khát vọng của mình. Trước sức ép của toàn cầu hóa, nhiều quốc gia lạc hậu đã buộc phải mở cửa và đổi mới. Phải nói rằng đó là những thay đổi rất lớn. Người dân đã có một bước tiến khổng lồ về năng lực làm chủ vì họ đã bắt đầu làm chủ nhiều thứ của chính mình. Năng lực làm chủ có ở từng người và trên từng khía cạnh của cuộc sống. Nhân dân đã bắt đầu thấy rằng cần phải có nhà của mình, có tài sản, có phương tiện làm ăn sinh sống của mình, có đầu tư của mình... Tức là con người đã bắt đầu làm chủ trên những khía cạnh đơn giản của cuộc sống. Chất vấn chính phủ về các vấn đề hàng ngày của cuộc sống, chất vấn về sự minh bạch của các cơ quan chính phủ liên quan đến các vụ tham nhũng... là những dấu hiệu của sự bắt đầu quá trình làm chủ của nhân dân.Tất cả những thứ đó xác nhận một điều rằng nhân dân đã bắt đầu thức tỉnh về quyền làm chủ, không phải chỉ có quyền làm chủ hiện nay của mình mà quyền làm chủ của mình từ trước đó nữa. Điều đó không có nghĩa là nhà nước cho nhân dân quyền làm chủ mà thực chất là nhà nước trả lại cho nhân dân cái quyền vốn có của mình. Tôi cho rằng dần dần xã hội sẽ phát triển đến mức con người sẽ đòi các tiêu chuẩn làm chủ hoặc là xác nhận sự làm chủ vốn có của mình đối với các đối tượng cụ thể họ đã từng có trong quá khứ. Khi người ta truy đuổi các quyền sở hữu có tính chất công dân của mình thì người ta tìm ra bản chất của các quyền công dân chính là các quyền con người. Cho nên, phổ biến các quyền công dân chính là một trong những cách thức tốt nhất để dẫn con người truy nguyên đến trạng thái nhân quyền. Và điều quan trọng nhất là khi đi hết cái không gian cần để hiểu được bản chất của dân quyền và nhân quyền thì người ta sẽ đòi chủ quyền, tức là đòi dân chủ, bởi vì chủ quyền của nhân dân được xác lập tập trung ở các quyền dân chủ đối với hệ thống chính trị. Trong thời đại toàn cầu hoá và số hoá hiện nay, chúng ta phải nhận thức được rằng các quyền con người đang ngày càng trở nên lạc hậu so với đòi hỏi của con người và so với đòi hỏi của sự giao lưu của con người. Tôi lấy ví dụ, hiện nay ở Anh đã xuất hiện một loại hiệp hội của những người có nhà, thành viên là những người có nhà ở Tây Ban Nha, ở Iraq, ở Ireland... Ban Giám đốc điều hành Hiệp hội ấy có thể điều chỉnh để một người ở Tây Ban Nha khi sang Pháp sẽ đến ở nhà hội viên có nhà ở Pháp nhưng đang có mặt ở Tây Ban Nha, họ đổi nhà cho nhau trong một thời gian. Xã hội dân sự đạt đến độ tự cân bằng sâu sắc như vậy và xét về mặt kinh tế nó đồng nghĩa với sự tiết kiệm khổng lồ cho con người. Qua đó có thể thấy nới rộng và làm sâu sắc các quyền con người là vấn đề cực kỳ quan trọng để nâng cao hạnh phúc của con người. Có thể kết luận rằng, quyền con người không phải là các quyền chính trị đơn giản, quyền con người là nâng cao tính hiệu lực làm người, nâng cao mật độ hạnh phúc của đời sống con người. Tức là đã đến lúc không thể ỷ lại vào các quyền tự nhiên đơn giản nữa, xã hội ngày càng phát triển đến mức các quyền tự do dân chủ cần phải được cập nhật và phổ biến hàng ngày để con người có thể sống hạnh phúc hơn. Vì thế, trong thời đại này, để nâng cao hiệu lực làm người, nâng cao hạnh phúc của con người thì phải tạo ra các thể chế đủ tinh khôn, đủ mềm dẻo, đủ tế nhị bằng cách tổ chức và rèn luyện nền dân chủ, mà bước đầu tiên của nó chính là khích lệ tinh thần và nâng cao năng lực làm chủ của con người. Trang: 1/3 1 2 3 » Thông tin liên quan:Vì một số phận chung 11/05/2008Vì một số phận chung 11/05/2008 07:59' AM Chúng ta đang ở giữa một thời khắc quan trọng trong lịch sử Trái đất, khi mà loài người phải lựa chọn một tương lai cho chính mình. Khi thế giới ngày càng trở nên mỏng manh và phụ thuộc lẫn nhau, tương lai phía trước có cả những triển vọng và hiểm họa to lớn. Vai trò động lực của dân chủ đối với sự hoạt động và sáng tạo của con người 02/06/2006Vai trò động lực của dân chủ đối với sự hoạt động và sáng tạo của con người 02/06/2006 08:32' PM Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người, là nhu cầu không thể thiếu của từng cá nhân cũng như của cộng đồng người trong xã hội, nhất là trong xã hội văn minh, bởi vậy dân chủ có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy con người hoạt động và sáng tạo... “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, Chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá hoại” 06/01/2006“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, Chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá hoại” 06/01/2006 09:33' PM “Dân chủ nghĩa là dân là chủ. Dân chủ là của báu vì đó không phải là thứ tự nhiên có sẵn mà đó là thành quả của cách mạng, nhân dân ta đã phải đấu tranh, hy sinh gian khổ mới giành được. Dân chủ là của báu vì đó là lý tưởng, là ước vọng của toàn thể nhân dân ta về một xã hội tốt đẹp trong tương lai..." Dân tâm và dân chủ 13/12/2005 Dân tâm và dân chủ 13/12/2005 08:26' AM Dân chủ với dân tâm gắn với nhau như bóng với hình. Để thu phục được dân tâm, để giành dân tâm thì phải thật lòng thực thi dân chủ, thật lòng mở rộng dân chủ. Để giành dân tâm, không có gì đơn giản hơn điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho cán bộ của Đảng và Nhà nước ngay từ những ngày mới giành được chính quyền từ cách mạng tháng 8/1945: " Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”...Khía cạnh triết học trong các giá trị phổ quát của dân chủ 24/11/2005 Khía cạnh triết học trong các giá trị phổ quát của dân chủ 24/11/2005 08:41' AM Tất cả những chủ thuyết và lý tưởng Sống chỉ đáng theo, đáng thực hành khi chúng nhân danh con người và phụng sự con người, khi chúng hợp lý, hợp quy luật, hợp với lẽ phải (chân), hợp với nhân tính (thiện), hợp với khát vọng về sự hài hoà và những tình cảm cao thượng của con người (mỹ). Dân chủ chính là một học thuyết đáp ứng được các tiêu chí đó. Nó chẳng những cổ vũ cho những giá trị chân, thiện, mỹ trong đời sống cá nhân và cộng đồng, mà còn chỉ ra những cách thức thực hành những giá trị đó... xem tất cả... Bài mới: Người ta càng đẹp lên hay xấu đi? 08/09/2008 10:32' PM Người ta càng đẹp lên hay xấu đi? 08/09/2008 10:32' PM Trên bìa các tờ tạp chí, các số cuối báo tuần hoặc tháng, trên màn ảnh truyền hình hàng ngày, chúng ta thường được chiêm ngưỡng những nam nữ thanh niên, những cháu nhi đồng xinh đẹp. Các cuộc thi hoa hậu diễn ra hai năm một lần, lần nào cũng chọn được những gương mặt đáng yêu. Nhưng ở ngoài phố, chúng ta khó có những điều kiện để thường thấy nhiều người đẹp. Tại sao lại vậy? Sự thật mới là vẻ đẹp chân chính! 07/09/2008 11:53' AM Sự thật mới là vẻ đẹp chân chính! 07/09/2008 11:53' AM Cuộc thi hoa hậu năm nay đến hồi kết mới xảy ra xìcăngđan nho nhỏ. Nói tóm tắt là hoa hậu Trần Thị Thùy Dung chưa tốt nghiệp trung học phổ thông. Việc công nhận cô coi như vi phạm các quy chế hiện hành. Mặc dù vậy - vì nhiều lý do tế nhị - ban tổ chức cuộc thi không tính tới chuyện tước vương miện của cô...Luật thừa trừ 18/08/2008 08:37' AM Luật thừa trừ 18/08/2008 08:37' AM Đạo và việc người xưa nay hơn về phía này, tất kém về phía kia - Đó là luật thừa trừ tức là san sẻ cho đều. Tạo hóa sinh ra con người và mọi vật hình như ít khi tạo ra hình mẫu vẹn loàn. Đến cây hoa cũng chịu chung luật đó... Thử bàn chuyện sướng, khổ 11/08/2008 08:26' AM Thử bàn chuyện sướng, khổ 11/08/2008 08:26' AM Người ta, ai chẳng mong cuộc sống bớt nghèo khổ, mong được sung sướng hơn. Có gì mà phải bàn với luận. Vậy mà có người không muốn sướng, chỉ muốn khổ, có lạ không? Có thể bạn không tin, nhưng xin hãy nghe: người ấy chính là tôi!Một cách tiêu đẹp 31/07/2008 08:17' AM Một cách tiêu đẹp 31/07/2008 08:17' AM Khi xã hội đã bắt đầu giàu có, một vấn đề bức thiết cần được đặt ra là xây dựng một cách tiêu tiền đẹp hay là xây dựng một nền văn hóa tiêu tiền cho những doanh nhân... Thế thái nhân tình 30/07/2008 01:40' PM Thế thái nhân tình 30/07/2008 01:40' PM Bữa tiệc đã bắt đầu, nhưng họ vẫn chưa tới. Nói chung họ không bao giờ đến đúng giờ, vì họ bận và còn vì họ quan trọng. Chủ tiệc đã mấy lần gọi điện thoại, họ đều trả lời sắp đến, sắp đến và cuối cùng thì họ cũng đến. Trông xuống, trông lên… 28/07/2008 08:06' AM Trông xuống, trông lên… 28/07/2008 08:06' AM Không biết từ bao giờ câu nói cửa miệng: "Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì cũng chẳng ai bằng mình” được nhiều người nhắc đến như một niềm an ủi khi người ta cảm thấy mình còn thua kém một ai đó về tài sản, về đường làm ăn...Bài khác:Một cách nhìn khác về cuộc đời 30/06/2007 Một cách nhìn khác về cuộc đời 30/06/2007 05:30' PM “Khi còn khoẻ mạnh, tôi cũng đã từng suy nghĩ điều gì là quan trọng nhất trong cuộc đời? Sau khi biết mình mắc bệnh, tôi đã đi đến kết luận điều quan trọng nhất chính là triết lý sống của một con người ”...Không có sự phát triển nào đi trước tự do 27/06/2007 Không có sự phát triển nào đi trước tự do 27/06/2007 08:50' PM Chúng ta vẫn hay nói nhiều về sự phát triển mà chưa hiểu hết bản chất của nó. Nếu không hiểu bản chất của sự phát triển, chúng ta không thể hiểu được giá trị của tự do và công nghệ sử dụng tự do. Tại sao chúng ta lại cần tự do? Và tự do có phải là một thứ xa xỉ không? Bạn trẻ phải sấn tới với bản lĩnh, nghị lực của mình 07/06/2007 Bạn trẻ phải sấn tới với bản lĩnh, nghị lực của mình 07/06/2007 09:46' AM Vào WTO, vai trò của lớp trẻ lại càng quan trọng, chỉnh họ sẽ nhanh chóng hội nhập, nắm bắt thông tin, nắm vững khoa học kỹ thuật... để đưa đất nước phát triển. Bạn trẻ hãy tự tin đi tới với đầy đủ bản lĩnh và trí tuệ của mình. Đảng, Nhà nước và nhân dân đang trông cậy vào lớp trẻ ngày nay. Hành trình không đơn độc 26/05/2007 Hành trình không đơn độc 26/05/2007 11:28' AM Tôi tin tưởng rằng những người hiểu được và giữ được cho mình những Giá trị Đích thực của cuộc sống cũng là những người biết sống Hạnh phúc. Có thể người đó không giàu có, không được coi là thành đạt, không có quyền cao chức trọng...., nhưng bao giờ họ cũng biết sống Hạnh phúc, biết cảm nhận được Hạnh phúc, bởi ở họ có được niềm tin bền vững vào cuộc sống và vào bản thân mình...Văn hóa thần tượng 19/05/2007 Văn hóa thần tượng 19/05/2007 01:46' PM Sống có thần tượng cũng là một nét văn hóa. Vấn đề là nét văn hóa đó cần được người hâm mộ tự thể hiện, kiểm soát và điều chỉnh...“Hạnh phúc”, cũng cần học! 13/05/2007“ Hạnh phúc”, cũng cần học! 13/05/2007 08:11' AM Một đề tài tờ Daily Telegraph đưa ra đang gây tranh cãi trong những người làm giáo dục ở Anh. Đó là việc cố vấn cao cấp về giáo dục cho Chính phủ Anh, Richard Layard, giáo sư kinh tế tại Đại học Kinh tế London, đề xuất đưa một môn học mới vào giảng dạy. Môn học có tên là “Bài học hạnh phúc”...Tự do sinh ra con người