Như Thông

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    889
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Như Thông

  1. Bài chú Nghe qua liền được giải thoát: AH AH SHA SA MA HA MA BEN DHARMA RA RA HA GAN GA AH SHA LA SA DEN DHARMA DA LI GA HA NA AH LI DA HA MA SA SHA GI YO Trong số “Pháp Phục Tàng” của Đức Liên Hoa Sinh Đại Sư truyền vào xứ Tây Tạng, cho đến nay vẫn còn rất nhiều pháp chưa được công khai truyền thừa. Bài chú “Thính Tức Giải Thoát” (Nghe qua liền được giải thoát) là một trong số ấy. Đức Liên Hoa Sinh khai thị: “Nghe liền được giải thoát, chỉ cần nghe đến chú này là đã đầy đủ liền được sự gia trì lợi ích của thần chú, sự gia trì của chư Phật, Bồ-tát.” Chú ngữ này, bất cứ chúng sinh nào nghe thấy, đều có thể từ trong luân hồi mà được giải thoát. Thời gian giải thoát là khi nào? Đối với kẻ thiện căn, đầy đủ duyên lành thì nghe chú này xong có thể liền giải thoát; riêng đối với kẻ nghiệp chướng nặng nề cũng nhận được sự gia trì lợi ích của thần chú, sớm thoát khỏi luân hồi lục đạo. Chú ngữ này vốn được Đức Phổ Hiền Vương truyền cho Bồ-tát Kim Cang, rồi từ Bồ-tát Kim Cang truyền lại cho đức Liên Hoa Sanh. Đến thời đức Liên Hoa Sanh, ngài đã cất dấu chú này ở điểm nào đó được gọi là điểm “Phục Tàng”, về sau các Phục Tàng Đại Sư (các vị đại sư đã tu chứng, thấy được các pháp vật ẩn dấu trong đất) mang ra truyền bá rộng rãi làm lợi ích chúng sinh. Cho dù rùa, cá, chó, mèo…v.v, hể chúng sinh trong loài súc sanh nghe được lời chú này liền nhận được công đức lợi ích rất lớn. Xin hồi hướng công đức này cho tất cả mọi loài chúng sinh, mong họ thoát khỏi mọi cảnh khổ. http-~~-//www.youtube.com/watch?v=IKUvev4GU5M&feature=player_embedded CHÚC MỌI NGƯỜI HOAN HỶ.
  2. Viết lại tên Bách Việt Nhận thấy bài viết đề cập cùng chủ đề của blog Bách Việt và tập trung vào hai vấn đề lịch sử có nhiều khuất tất nhất và dường như đang bị "quên lãng" bởi chính người Việt Nam, đó là a) nguồn gốc và mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam và Bách Việt nói chung (?); B) người Việt có chữ viết riêng hay không và tiếng Việt vay mượn tiếng Hán hay ngược lại (?), chủ blog tôi xin giới thiệu để cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho bạn đọc. Hy vọng tài liệu này sẽ góp phần trả lời một số thắc mắc đồng thời thúc đẩy hơn nữa công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta theo hướng khách quan và tôn trọng sự thật lịch sử dựa vào không chỉ sử sách cũ mà tất cả các nguồn dữ liệu mới trên cơ sở khoa học khảo cỗ và nhân chủng học hiện đại. Sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về cội nguồn dân tộc sẽ giúp người Việt Nam thật sự thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp và lấy lại tâm thế đáng có của mình. Viết lại tên Bách Việt Tác giả: Nguyễn Đại Việt(*) Hình 1: Chữ "Việt" (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái mác" hoặc "chiến tranh". Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越. Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ. Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ. Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu" có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán. Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN. CHỮ "VIỆT" CỦA BÁCH VIỆT Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế? Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm. Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu" (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim". 1. Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 chữ thuộc văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt" được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears. Sau đây là 5 chữ "Việt" viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. a) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01747 Hình 2: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747: - Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim". - Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ. - Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó. - Niên đại: không rõ. B) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01748 Hình 3: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác). - Người Chim trong tư thế của một vũ điệu. - Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi. - Niên đại: không rõ. c) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01750 Hình 4: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng. - Niên đại: không rõ. d) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01751 Hình 5: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751: - Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa. - Người Chim không cầm qua hoặc binh khí. - Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong. - Niên đại: không rõ. e) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01749 Hình 6: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt. - Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam). Kết luận: Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng, - Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ. - Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua" hay binh khí là yếu tố phụ. 2. Chữ "Nước" (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia". Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn" (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Hình 7: Chữ "ấp" trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất được vua ban cho. Hình 8: "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải). Trong chữ "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt" của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc" (nước Hàn) trong hình 9. Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải) Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận. 3. Chữ "Tẩu" trong thời đại đồ đồng Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại. Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng. So sánh chữ "nước" (hình 7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước" là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10). 4. Chữ "Kim" thời đại đồ đồng Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm" chính là chữ "Kim". Hình 11: Các cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước" là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim" khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận. Kết luận: Thành phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. 5. Chữ "Người Chim" trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua" (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán Chữ "Việt bộ Tẩu" của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh 12). Hình 12: "Việt bộ tẩu" viết theo Hán ngữ hiện đại. Chữ bên phải của chữ "Việt bộ Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu" không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên thủy. Hình 13: Một cách dịch chữ "Người Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. Thật vậy, từ chữ "Việt" trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh khí (hình 13). Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia. Cho đến nay số lượng chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt" nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim" thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt" trình bày trên đây rất cao. Hình 15: Một ví dụ của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia). Kết luận: Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 - 465 TCN, viết bằng "văn tự chim", xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua" hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15). oOo
  3. Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt. PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ "VIỆT" SANG HÁN NGỮ Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa. Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn", còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình. "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本). Trong phần chính chữ "Việt" được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt" ở đây có thể không hoàn toàn khách quan. 1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây. Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16). 2. Chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt" còn có thêm 2 yếu tố khác. Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia. Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Người Chim". Hình 18: Chữ "Việt" (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó. Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim" trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác. 3. Chữ "Mặt Trời" trong Giáp Cốt Văn và trong chữ"Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là: a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó. b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời". Vì vậy, một thành phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời". Hình 19: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại Giáp Cốt Văn. Hình 20: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại đồ đồng. 4. Chữ "Rồng" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. 5. Chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng" trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng" được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện. Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. So với chữ "Rồng" của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng". 6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272. May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập: - Hán tộc không có trống đồng. - Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo. - Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ. Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt. 7. "Mặt Trời" trong chính sử trống đồng Về yếu tố "Mặt Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ. Hình 23: Một ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍 nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. 8. "Rồng" từ đời sống thực tế đến huyền sử Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau: Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại. Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ, nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt. 9. "Người Chim" trong chính sử trống đồng Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ. oOo Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình, còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục. KẾT LUẬN Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt" thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc. Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938. Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ. Thung lũng Hoa vàng Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012 (*)Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.
  4. Ủa, ông Bùi Quốc Hùng (dienbatn) thuộc Trung tâm nghiên cứu lý học đông phương hả mọi người.
  5. Hi hi. Công nhận giống nhau thật.
  6. Bức ảnh thứ tư đó thì trước lúc bị bắt , anh giải phóng quân đã vui tay thịt luôn cả 1 gia đình trung tá.
  7. NÓ TUYÊN BỐ, KHIÊU KHÍCH NHƯ THẾ NÀO CHĂNG NỮA CŨNG PHẢI NHỊN THÔI CHỨ BIẾT LÀM SAO BÂY GIỜ. CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG, NỘI LỰC TỪNG BƯỚC MỘT. HI VỌNG TRONG 5 NĂM NỮA, KHI ĐÓ CÓ ĐẦY ĐỦ LỮ ĐOÀN TÀU NGẦM VÀ SỰ TIN TƯỞNG LIÊN KẾT CHẶT CHẼ VỚI CÁC CƯỜNG QUỐC THÌ GIÀNH LẠI.
  8. Bây giờ có chuyển biến gì cũng phải ngó trước dòm sau coi thử có bàn tay thằng TQ ko đã.
  9. HỌC DỐT NÊN SỐ PHẬN LẬN ĐẬN LÀ ĐÚNG RỒI CHỨ GÌ NỮA.
  10. Quan điểm của chú Thiên Sứ là: Yêu nhau cứ lấy. Nếu có khắc thì lấy tuổi đứa con để hóa giải.
  11. HÃNH DIỆN VÌ NƯỚC VIỆT NAM MÌNH NHÉ BÀ CON. SHOW HÀNG CHO KHÍ THẾ CHÚT. Tàu pháo Hải quân mang số hiệu TT400TP số 1 do Công ty đóng tàu Hồng Hà (còn gọi là Nhà máy Z173 thuộc Tổng Cục công nghiệp Quốc phòng-Bộ Quốc phòng) thực hiện vừa được bàn giao cho Quân chủng Hải quân tại TP Hải Phòng để đưa vào sử dụng. Đây là chiếc tàu quân sự hiện đại đầu tiên do Việt Nam sản xuất. Tàu pháo TT400TP số 1 là loại tàu chiến hiện đại, có nhiều đặc tính ưu việt khi hoạt động tác chiến trên biển, lần đầu triển khai đóng mới tại Việt Nam. Tàu được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại như: pháo AK-630; tổ hợp tên lửa phòng không tầm thấp; hệ thống rađa, hệ thống nhận biết địch, ta; hệ thống quang điện từ, các kho đạn pháo, tên lửa… được tích hợp qua nhiều hệ thống tự động hóa, có tính chính xác cao, bảo đảm tác chiến trong mọi tình huống. ẢNH: Tàu pháo HQ - 272 trong lễ bàn giao - Ảnh: QĐND Trong 2 năm thử nghiệm vừa qua, tàu TT400TP số 1 đã chạy thử và bắn nghiệm thu đạn thật, mọi thông số đều đảm bảo theo thiết kế, được Quân chủng Hải quân, các cơ quan thiết kế và Hội đồng nghiệm thu của Bộ Quốc phòng đánh giá cao về chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật, đạt được đầy đủ các tính năng kỹ thuật, chiến thuật theo phê duyệt của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Lắp đặt các trang thiết bị, vũ khí trên tàu pháo - Ảnh: TTO Hải pháo bắn nhanh AK-630 - Ảnh: QĐND Trong buồng lái tàu HQ-272 - Ảnh: QĐND Tàu HQ-272 trong một lần thử nghiệm trước lúc bàn giao - Ảnh: TTO Thử nghiệm hệ thống vũ khí, trang bị trên tàu HQ-272 - Ảnh: TTO Buồng thủy thủ tiện nghi trên tàu - Ảnh: TTO KHÔNG BIẾT 1 CHIẾC NHƯ VẬY SẢN XUẤT MẤT BAO LÂU. TẦM 3 THÁNG/1 CHIẾC THÌ NGON À.
  12. Chính thức bác bỏ hạt nhanh hơn ánh sáng Trung tâm nghiên cứu phản ứng hạt nhân châu Âu (CERN) đã chính thức bác bỏ thông tin neutrino nhanh hơn ánh sáng thu được trong quá trình thí nghiệm OPERA tại cuộc họp báo vừa diễn ra hồi giữa tuần trước. >>Kết luận mới nhất: neutrino không nhanh hơn ánh sáng / Neutrino nhanh hơn ánh sáng vì cáp nối không tốt? Sergio Bertolucci, giám đốc CERN tuyên bố thông tin neutrino nhanh hơn ánh sáng là một sai lầm. Tại cuộc họp báo, ông Sergio Bertolucci, giám đốc CERN nói lại về bản báo cáo của ông đọc tại Hội nghị vật lý neutrino và Vật lý thiên văn tổ chức mới đây tại Kyoto. Theo ông, các số liệu về tốc độ nhanh hơn ánh sáng là do sai sót kỹ thuật khi thực nghiệm do 4 nhóm các nhà khoa học cùng phát hiện. Đó là nhóm “phản biện” của OPERA - Borexino, nhóm IRACUS và nhóm LVD. Cả 4 nhóm đều đo thời gian lưu của chùm neutrino. "Chúng tôi đã có thể chứng minh một cách thuyết phục sự đúng đắn của các phương pháp khoa học - những kết quả bất ngờ phải được phơi bày trước sự phán xét của xã hội và chúng đã bị bác bỏ hoàn toàn”, Bertolucci tuyên bố. Những thông tin đầu tiên ghi lại các neutrino chuyển động với tốc độ nhanh hơn ánh sáng xuất hiện vào ngày 23/9/2011. Lúc đó người ta đã nêu ra kết quả chùm neutrino đi từ CERN đến Gran-Sasso tính trung bình nhanh hơn so với tính toán lý thuyết 60 nanogiây. Như vậy là các hạt neutrino đã chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng 1,0000248 lần. Trong suốt vài tháng tiếp đó, một lượng rất lớn các giải thích khác nhau đã được đưa ra cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Hoá ra sai lầm chỉ là sự tiếp xúc không tốt của đường dây cáp. Sự công bố vội vàng này dẫn đến sự từ chức của giáo sư Antonio Ereditato, chủ nhiệm dự án OPEERA và nhà khoa học Dario Autiero, nhưng người đã trực tiếp đo và đưa ra kết quả. Tại cuộc họp báo, Bertolucci cũng đề nghị khép lại vấn đề neutrino nhanh hơn ánh sáng trước ngưỡng cửa của Vật lý học. Bảo Châu
  13. Dự đoán cho vui thui mà. Làm gì mà căng thẳng vậy.
  14. THẦN CHÚ NÀY CÓ THÊM TRƯ BÁT GIỚI ( THIÊN BỒNG NGUYÊN SOÁI LUÔN HẢ).
  15. Phi hành gia hàng đầu NASA: người ngoài hành tinh là có thật Đó là một câu chuyện gây xôn xao dư luận, một cựu phi hành gia thuộc phi hành đoàn trên tàu con thoi vũ trụ của NASA thông báo rằng ông và NASA biết rằng người ngoài hành tinh là có thật. Chạm trán người ngoài hành tinh ở độ cao khoảng 350 km so với Trái đất Thông tin đã được xác nhận: Phi hành gia hàng đầu của NASA – tiến sĩ Story Musgrave – tiết lộ khi tàu con thoi đang bay theo quỹ đạo họ đã chạm trán đĩa bay của người ngoài hành tinh Clark C. McClelland, một thành viên cao cấp của MUFON (Mạng lưới UFO chung – tổ chức nghiên cứu UFO tư nhân lớn nhất trên thế giới) từ năm 1958 đến 1992, đã tiết lộ trên báo chí Canada về những tình tiết bí mật của một sự việc kinh ngạc đã xảy ra khi thực hiện sứ mệnh STS-80 trên tàu con thoi Columbia. Các quan chức không gian vũ trụ hàng đầu đã hoảng sợ và vội vã che đậy nó. Vật thể hình đĩa xuất hiện bên dưới tàu con thoi Theo các báo cáo nội bộ, xác nhận bởi Tiến sĩ Story Musgrave – một thành viên trong đội Chuyên gia trọng tải trong sứ mệnh STS-80, một vật thể hình đĩa, lớn hơn nhiều so với phi thuyền vũ trụ đang bay theo quỹ đạo của Mỹ này, đột nhiên xuất hiện bên dưới tàu con thoi. Vào thời điểm đó, tàu con thoi Columbia đang ở độ cao khoảng 350 km so với Trái đất. Musgrave thừa nhận rằng, mặc dù nhìn thấy khá rõ, nhưng ông không thể nhận dạng được vật thể đó. “Tôi không biết đó là thứ gì… Tôi không biết… Nó dường như đột nhiên xuất hiện. Thực sự rất ấn tượng Phi hành gia tàu con thoi Columbia của NASA tiến sĩ Story Musgrave Musgrave khẳng định đã nhìn thấy cái được gọi là “đĩa bay’ Sau khi tàu con thoi trở về Trái Đất, Musgrave đã được phỏng vấn về cuộc chạm trán khó tin này. Theo báo cáo, các nhà khoa học đã xem lại một đoạn video quay lại cuộc gặp gỡ của tàu Columbia với UFO khi nó đang bay trên bầu trời Denver, Colorado. Phi thuyền lạ của người ngoài hành tinh bay theo tàu con thoi [Ảnh: NASA] Cận cảnh UFO bay theo tàu con thoiVật thể hình đĩa đột nhiên xuất hiện, có vẻ được điều khiển một cách thông minh, thay đổi hướng bay của nó và đáng sợ nhất là hình như nó đang theo dõi tàu Columbia và phi hành đoàn trên đó. Musgrave đã nghỉ việc tại NASA sau sứ mệnh đó. Cựu phi hành gia của NASA tin rằng người ngoài hành tinh không chỉ có thật mà thậm chí hiện nay còn đang có mặt trên trái đất, cho nên ông đã tiết lộ thông tin này. Những vụ che đậy khác Tiến sĩ Musgrave không phải là người duy nhất khẳng định rằng UFO và người ngoài hành tinh là có thật. Trong những năm qua, những người khác từng làm việc tại NASA cũng đã đấu tranh để tiết lộ những điều này ra công chúng. Gần đây, Ken Johnston đã bị sa thải khỏi NASA, sau khi ông tiết lộ những thông tin liên quan đến các thành phố của người ngoài hành tinh trên mặt trăng. Tại Washington, DC, cựu sĩ quan tình báo Hải quân Milton Cooper tiết lộ Mỹ đã có một căn cứ bí mật trên mặt trăng từ nhiều năm qua. Đã đoán chắc NASA che giấu sự việc nhưng các nhà nghiên cứu không khỏi choáng váng khi NASA đột nhiên tuyên bố mà không báo trước về “những khu vực cấm” trên Mặt trăng. “Tôi đảm bảo người ngoài hành tinh là có thật!” Trong một buổi thuyết trình gần đây, Musgrave đã có một bài thuyết trình về thiên văn học. Vào cuối bài giảng của mình, ông đã làm nhiều khán giả bị sốc khi tuyên bố: “Tôi đảm bảo người ngoài hành tinh là có thật!” . Musgrave trong buổi thuyết trình: “Tôi đảm bảo người ngoài hành tinh là có thật!” Những tài liệu lưu trữ lịch sử liên quan đến những thông tin quân sự và tình báo về UFO đã được công bố bởi các nước: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Brazil và Nam Phi.(Theo tin180.com, Beforeitsnews.com)
  16. Bài toán rợn người trong... sách lớp 1 Lưu hành trên thị trường 10 năm, tập sách Phép cộng trừ phạm vi 100 vừa được giới phụ huynh phát hiện có một ví dụ ở trang 11 gây rợn người: "Hai bàn tay em có 10 ngón, do đùa nghịch dao nên bị cụt mất đi hai ngón tay. Hỏi em còn lại mấy ngón tay". “Bài toán rợn người” in tại trang 11 của sách. (Ảnh: L.Điền) Theo dantri.com.vn . HẾT SAI CHÍNH TẢ, GIỜ ĐẾN BÀI TOÁN NHƯ THẾ NÀY ?
  17. Khó tin nổi màn "ảo thuật" nghìn tỷ của Vinalines! (Dân trí)- “Sau khi báo chí nêu, các nhà khoa học phản biện, Vinalines điều chỉnh kinh phí đội tàu từ 100.000 tỷ xuống 68.000 tỷ. Chỉ trong vài hôm quy hoạch đã được thay đổi và giảm đến 32.000 tỷ, nếu làm quy hoạch như thế này, nói thật là chúng tôi khó có thể tin được”. >> “Nhà nước quá nuông chiều “công tử” Vinashin, Vinalines” >> Vinashin và Vinalines gây lo ngại cho các nhà tài trợ >> Vinalines đã ném tiền ra biển như thế nào? Chi phí đầu tư đội tàu của Vinlines giảm từ 100.000 tỷ đồng xuống còn 68.000 tỷ đồng. Đại biểu Lê Văn Học (tỉnh Lâm Đồng) bày tỏ chính kiến trước thực trạng đầu tư giàn trải, phân tán, hiệu quả thấp đối với các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, cũng như các công trình cơ bản trong buổi thảo luận về Đề án Tái cơ cấu nền kinh tế sáng nay 8/6. Hầu hết các đại biểu Quốc hội đồng tình với việc cần thiết phải Tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên, theo đánh giá, đề án đánh giá thực trạng, nguyên nhân sâu xa cơ bản của sự yếu kém nền kinh tế chưa được nêu rõ để tìm ra những giải pháp tái cơ cấu hiệu quả. Ngoài ra, Đề án cũng chưa xác định yêu cầu nguồn nhân lực, chưa tính toán về nhu cầu tài chính để thực hiện tái cơ cấu. Khi tái cơ cấu thì ảnh hưởng tới tình hình kinh tế xã hội ra sao? Đâu là những ngành, sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng cao, đâu là những công trình tiêu biểu xứng tầm với đất nước? “Tôi cho đây mới chỉ là một công trình lý thuyết tổng quát về tái cơ cấu kinh tế, trong điều kiện của Việt Nam phải được cụ thể hóa rất nhiều nội dung mới có thể triển khai được”, đại biểu Học cho hay. Cũng theo đại biểu này, đề án phải nêu ra được các biện pháp nhằm khắc phục triệt để việc đầu tư giàn trải, phân tán, hiệu quả thấp trong những năm vừa qua. Vị đại biểu này dẫn chứng bằng những số liệu trong lĩnh vực xây dựng những công trình cầu đường bộ giao thông, suất đầu tư đường bộ cao tốc của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước khác từ 1,5 đến 2 lần. Theo số liệu thống kê thì xây dựng cầu đường bộ của Trung Quốc khoảng 6 triệu USD/1 km, ở Mỹ là 8 triệu USD/km. Còn ở Việt Nam, ví dụ như đường Láng - Hòa Lạc dài 30 km, chúng ra sử dụng khoảng 7.500 tỷ, tức 250 tỷ đồng trên 1 km, khoảng 12 triệu USD. Đường Hồ Chí Minh - Trung Lương 4 làn xe, chi phí tính ra 9,9 triệu USD/1 km… Tại sao giá thành cao như vậy mà chúng ta không tiết kiệm được, vị đại biểu này cho rằng, là do chúng ta sử dụng tư vấn giám sát, máy móc thiết bị đều của nước ngoài, đặc biệt của nước cấp ODA nên tốn kém, lãng phí. Toàn bộ máy móc thiết bị khi thi công, xe cộ, phương tiện của ban quản lý dự án khi xong 1 công trình là hết thời hạn khấu hao. Về công nghiệp tàu thủy và hàng hải, thời gian qua chúng ta đầu tư giàn trải, không đúng mục tiêu, gây thất thoát tài sản và vốn. Đại biểu Học cho hay: Theo quy hoạch được phê duyệt ngành tàu biển Vinalines giai đoạn 2011 - 2020 sẽ mua và đóng mới khoảng 160 con tàu, dự toán khoảng 100.000 tỷ. “Sau khi báo chí nêu, các nhà khoa học phản biện, Vinalines lại điều chỉnh tổng kinh phí đội tàu xuống 68.000 tỷ. Như vậy, chỉ trong vài hôm quy hoạch đã được thay đổi và giảm đến 32.000 tỷ. Nếu làm quy hoạch như thế này, thì nói thật là chúng tôi khó có thể tin được”, vị đại biểu nhấn mạnh. Cùng về đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, đại biểu Lê Nam (Thanh Hoá) trong buổi thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội có nói: “Qua thảo luận ở Quốc hội cho thấy trên đất nước mình ở đâu cũng có những đòi hỏi hết sức chính đáng về những công trình cần được ưu tiên. Vấn đề bây giờ cần phải xác định được thứ tự ưu tiên trên cơ sở lợi ích bao trùm của quốc gia. Tôi vẫn tha thiết đề nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có lộ trình cụ thể trong vòng còn hơn 7 năm nữa trước năm 2020, mỗi năm sẽ làm được bao nhiêu km trên con đường hàng ngàn km đó để trình Quốc hội”. Theo đại biểu Nam, tại buổi chất vấn tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội, Thủ tướng đã trả lời về sự ưu tiên cũng như giải pháp để làm đường Quốc lộ 1A, từng bước xây dựng cao tốc Bắc - Nam trước năm 2020. Nhưng nay con đường ngày càng xuống cấp, một số đoạn đang làm đều thất hẹn tiến độ với dân do khó khăn về vốn, một số đoạn ở Miền Trung cho ta cảm giác quay lại con đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Đồng tình với các quan điểm trên, đại biểu Đồng Hữu Mạo (Thừa Thiên - Huế) cho biết: Tình trạng xây dựng chợ, công trình thủy lợi, đường quốc lộ mới đưa vào sử dụng một thời gian đã xuống cấp nghiêm trọng. Tình trạng này không chỉ xảy ra với những công trình có vốn 500 - 700 triệu đồng mà còn có những công trình hàng tỷ đồng, không chỉ là những công trình cấp địa phương quản lý mà cả những công trình cấp bộ quản lý. “Hiện chưa ai thống kê trên cả nước có bao nhiêu công trình xây dựng xong không phát huy hiệu quả cũng như chưa ai thống kê thiệt hại do công trình nhanh xuống cấp là bao nhiêu nhưng chắc chắn không phải ít, đại biểu nói. Nguyễn Hiền HÁ HÁ. BIẾT NGAY MÀ. MẤY THẰNG PHÁ HOẠI NÀY NÓ MÀ XIN TIỀN 100% THÌ CHÍNH PHỦ PHÊ DUYỆT 10% THÔI LÀ HẾT THAM NHŨNG.
  18. ƯU ĐÀM ĐÂU MÀ ƯU ĐÀM. TRÊN MẠNG, NGƯỜI TA ĐÃ THÔNG TIN VÀ CHỤP HÌNH RÕ RÀNG ĐÓ LÀ TRỨNG CỦA CÔN TRÙNG. CHỈ CÓ TÍN ĐỒ CỦA LÃO PHẬT GIA LÝ HỒNG CHÍ MỚI KÊU NÓ LÀ HOA ƯU ĐÀM NỞ. THÔNG TIN VÀ PHÁP LUÂN CÔNG TỪ NHỮNG NĂM TRƯỚC TÔI KHÔNG ẤN TƯỢNG, QUAN TÂM LẮM. NHƯNG TỪ LÚC GÁN GHÉP CÁI ẢNH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI THÀNH CÁI MẶT BỊ THỊT CỦA LÝ HỒNG CHÍ THÌ TÔI VÔ CÙNG ÁC CẢM.
  19. THEO MÌNH NGHĨ, CÁI HOA ĐÓ NỞ CŨNG BÌNH THƯỜNG. NÓ BÉ XÍU, MỌI NGƯỜI KHÔNG ĐỂ Ý ĐẾN LÀM GÌ. NHƯNG TỪ LÚC MẤY ÔNG NỘI BÊN PHÁP LUÂN CÔNG TUNG HÔ ĐÓ LÀ HOA ƯU ĐÀM, DỤNG Ý LÝ HỒNG CHÍ LÀ CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG THÌ MỚI TÙ MÙ.
  20. CHUẨN BỊ QUẢNG CÁO ÔNG LÝ HỒNG CHÍ LÀ CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG NỮA CHỨ GÌ ? . LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI LÀ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. NHƯNG CHẲNG BIẾT BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU MÀ AI ĐÃ CHO NHỮNG CÁI HOA ĐÓ LÀ HOA ƯU ĐÀM. ĐÃ AI TỪNG THẤY HOA ƯU ĐÀM. ?
  21. Có một nhà nghiên cứu nhân chủng học người Nhật đi tìm nguồn gốc tổ tiên của dân tộc mình. Ông ta đã đi khắp thế giới để tìm kiếm nhưng vô vọng. Cuối cùng, ông trở về châu Á và đặt chân đến Việt Nam. Đến ga Huế, tình cờ ông nghe được 2 người dân địa phương trò chuyện với nhau: - Mi đi ga ni? - Ừ, tau đi ga ni. Mi đi ga mô? - Ga tê. Tau đi ga tê. - Ga tê ga chi? - Ga Lăng Cô tề. - Răng đông như ri? - Ri mà đông chi! - Mi ra ga mô? - Ra ga Nam Ô. - Khi mô mi đi? - Chừ chứ khi mô. - Mi lo đi đi. - Ừ, tau đi nghe mi! Nhận ra cách phát âm ngôn ngữ của người dân địa phương ở đây không khác gì tiếng Nhật ngày nay, nhà nghiên cứu người Nhật đã mừng rỡ reo lên: - A! Đây chính là tổ tiên của người Nhật! kvtruong sưu tầm
  22. Tôi cũng lạy ông. Mổ lấy con, rủi ro cao hơn đẻ thường, mẹ tròn con vuông là điều hạnh phúc, vui mừng nhất trên đời rồi. Làm quái gì mà phải xem chi tiết đến ngày, giờ sinh đến thế.
  23. Nhiều lúc nhận thấy như thằng Bắc Triều Tiên lại hay. Cứ làm vài quả hạt nhân chả sợ bố con thằng nào.
  24. Em xem qua tấm ảnh, cũng có nhận xét tương tự giống anh.