Như Thông

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    889
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Như Thông

  1. Trung Quốc: "Lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông là không thể bàn cãi" Đáp lại yêu cầu của Việt Nam về việc đảo ngược lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông của Trung Quốc, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố, đó là những biện pháp thông thường của Bắc Kinh để bảo vệ nguồn tài nguyên biển trong lãnh hải của nước này. Trước lệnh cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã "đề nghị phía Trung Quốc không có các hoạt động cản trở hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam". Nhưng gần đây, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại tuyên bố "Đó là một biện pháp hành chính thông thường và hợp lý của Trung Quốc để đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá vào mùa hè ở Biển Đông nhằm bảo vệ bảo tồn nguồn lợi hải dương ở khu vực này". Để rộng đường dư luận, đảm bảo tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam xin đăng tải nguyên văn bài viết "South China Sea fishing ban "indisputable": foreign ministry spokesman.", đăng trên Tân Hoa Xã. Tờ Thời báo Hoàn Cầu trích lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương tuyên bố, Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông, gồm cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận. Ông Tần Cương - Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Ảnh: xinhuanet.com "Đó là một biện pháp hành chính thông thường và hợp lý của Trung Quốc để đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá vào mùa hè ở Biển Đông nhằm bảo vệ bảo tồn nguồn lợi hải dương ở khu vực này", ông Tần nói. Trung Quốc đã chính thức áp đặt lệnh cấm đánh bắt từ hôm 16/5 và đã phái 8 tàu tuần tra tới giám sát 128.000 km vuông trên Biển Đông. Tuy nhiên, đặc khu kinh tế khổng lồ bao quanh quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã từ lâu là nơi Việt Nam thèm muốn. Phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Lê Dũng tuyên bố, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã yêu cầu Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội kêu gọi chính phủ ở Bắc Kinh ngừng các hoạt động trên biển. Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn nói với đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Tôn Quốc Tường rằng việc Trung Quốc tăng cường tuần tra sẽ dẫn tới có thêm nhiều vụ bắt bớ và phạt, ảnh hưởng tới các hoạt động đánh bắt cá bình thường của ngư dân Việt Nam tại khu vực đánh bắt truyền thống của Việt Nam. Ông Trang Quang Thổ, Trưởng khoa Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Hạ Môn nói với Thời báo Hoàn cầu rằng Trung Quốc đã tỏ rõ thái độ cứng rắn về việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. "Hạm đội tàu tuần tra ngư nghiệp cũng sẵn sàng bảo vệ nguồn hải sản.", ông Trang cho hay. www.hoangsa.org
  2. Bát quái trận đồ của Khổng Minh thì đã từng nghe. Nhưng Bát trận đồ của Phong hậu thì mới nghe lần đầu tiên. Anh VinhL có thể cho biết Phong hậu là ai không? Thank anh.
  3. Tầm như ông này mà có cái bằng tiến sĩ nghĩ cũng nực cười. Chắc hối lộ, đút lót để có cái danh, cái phận với xã hội. Xa xứ từ bé nên chẳng hiểu cái quái gì về Việt Nam. Thôi thì cũng thông cảm cho ông, cái đầu óc gặp VN là chê bai, khinh thường. Tôi chẳng cái bằng tiến sĩ như ông, nhưng tôi hiểu rõ về Việt Nam hơn ông đấy. Ông ráng làm, sưu tập để được vài cái luận án kiếm 10.000USD rôi vào các diễn đàn lý số kiếm gái hợp số, hợp tuổi ăn chơi cho đỡ tốn tiền như nguyện vọng của ông đó. Ông đừng nghĩ mọi người không nói với ông thì ông là tiến sĩ vĩ đại, cưỡi mây trên trời. Vì mọi người chả rãnh nói với ông, ngoại trừ tui. Hi
  4. Theo khảo sát toàn cầu về mức độ yên bình, Việt Nam đứng thứ 39 trên tổng số 144 nước, được đánh giá cao về sự thân thiện với người nước ngoài và nguy cơ xảy ra khủng bố thấp. Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global Peace Index), do Viện Hòa bình Kinh tế tại Australia phối hợp với Đơn vị tình báo kinh tế thực hiện - xếp hạng 144 quốc gia về mức độ yên bình - theo định nghĩa là không có bạo lực. Chỉ số được đưa ra dựa trên 23 chỉ tiêu bao gồm ổn định chính trị, nguy cơ khủng bố, tỷ lệ giết người, khả năng xảy ra biểu tình bạo lực, tôn trọng nhân quyền, nội chiến, nhập khẩu vũ khí và liên quan tới chiến tranh nước ngoài. Theo khảo sát năm nay, New Zealand - đất nước của 4 triệu người và 40 triệu con cừu, đã lật đổ ngôi vị của Iceland để trở thành đất nước thái bình nhất thế giới. Iceland bị tụt xuống vị trí thứ 4 sau khi nước này xảy ra bạo loạn do vụ sụp đổ của hệ thống ngân hàng tại Reykjavik. Sau New Zealand, Đan Mạch và Na Uy đứng vị trí thứ 2 và 3. Italy xếp thứ 36, thấp nhất trong các quốc gia châu Âu. Mỹ đứng thứ 83 do liên quan tới các cuộc chiến tranh ở nước ngoài, số tù nhân cao và việc sử dụng súng lan tràn. Tuy nhiên, vị trí này đã tăng 14 bậc so với năm ngoái. Iraq đứng cuối bảng liên tục trong 3 năm kể từ khi chỉ số này được đưa ra. Bản báo cáo cho thấy sự suy thoái kinh tế, gia tăng nội chiến cũng như bất ổn trên chính trường trên toàn cầu đã làm bức tranh hòa bình trên thế giới bị nhuốm màu đen trong năm ngoái. Giáo sư Kevin Clements tại Đại học Otago, New Zealand, nhận định: "Chỉ số này đã phản ánh rõ nét những quốc gia nào mọi người mong muốn ở nhất. Trong top 20 đều là những quốc gia nhỏ có nền kinh tế thịnh vượng và chính quyền không bị thối nát". 10 quốc gia an bình nhất: 1 New Zealand, 2 Đan Mạch, 3 Na Uy, 4 Iceland, 5 Áo, 6 Thụy Điển, 7 Nhật Bản, 8 Canada, 9 Phần Lan và Slovenia đồng hạng. 10 quốc gia ít bình ổn nhất: 1 Iraq, 2 Afghanistan, 3 Somalia, 4 Israel, 5 Sudan, 6 Cộng hòa dân chủ Congo, 7 Chad, 8 Pakistan, 9 Nga, 10 Zimbabwe. Diệu Minh (theo Telegraph) www.yahoo.com
  5. Phát biểu câu nào, bị xóa câu đó, 3,4 lần bị xóa nick thì phải hiểu mình là người như thế nào. Anh là tiến sĩ ư ? OK. Theo tôi anh là một tiến sĩ lùn cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Học ở đâu, trường nào dạy.. cái thói chê bai Việt Nam, gặp đâu chê đó. Việt Nam nào mà chưa sản xuất ốc vít, bấy nhiêu đấy thôi cũng đã biết anh chẳng hiểu gì về quê hương, anh sống trên mây, đầu óc bị nhồi nhét tư tưởng hận thù, bả đậu. Tôi nghỉ, chắc có lẽ anh nghĩ rằng VN vẫn còn ở thời kỳ trước giải phóng chăng? Hi p/s: tôi hứa với anh, nếu anh có ở VN hay là việt kiều về VN. Riêng cái nhà anh đang cư trú, tôi sẽ đổ đầy nhà anh các loại ốc vít made in Việt Nam để anh bỏ cái thói chê bai Việt Nam luôn.
  6. Thưa chú, cháu cũng 32 tuổi (ở VN 18 tuổi đã cấp thẻ CMND, có quyền công dân), có gia đình,cũng mới có em bé, làm chủ 01 công ty chứ không phải trẻ con đâu chú. Cháu chưa bao giờ bỏ sót bài nào trên diễn đàn này và cháu là thành viên thứ 66 của diễn đàn từ ngày thành lập, trước cả chú đấy. Tất nhiên chú Vuivui là tiền bối thâm sâu lãnh vực dịch học, cháu hiểu điều đó. Cháu chẳng cần thiết phải adua ngay cái diễn đàn ảo này
  7. Triều Tiên càng nóng bỏng, thì thằng ba Tầu nó càng có lợi trong tranh chấp biển Đông. Hic
  8. Các đại giáo sư, tiểu giáo sư, tiến sĩ, tiểu tiến sĩ ...cách tốt nhất là hãy chỉ ra những mắc xích sai trong hệ thống luận thuyết của chú Thiên Sứ và chú cũng đã nói rõ ràng chỉ cần hệ thống luận thuyết của chú nếu sai thì cái việc nhân danh hoàn toàn sụp đổ. Chứ đừng nên bắt câu bẻ chữ nhân danh hay không nhân danh, giống các mụ đàn bà lắm. p/s: Chú Thiên Sứ ơi, đúng như chú nhatnguyen52 đã từng nói: cái đáng sợ nhất bây giờ là tuổi tác và thời gian của chú và chú nhatnguyen52 không còn nữa. Thiết nghĩ, chú hãy tập trung từng phút, từng giây nghiên cứu nền văn minh Tổ tiên và có vô số câu hỏi các bạn cần chú tư vấn và trả lời kìa, mất thời gian chi với các bác thân sâu hồn bướm. Hi
  9. Tình đầu cũng là tình cuối Chợt tỉnh tình cuối, cái đầu còn đâu.
  10. Bài viết của chú nhatnguyen52 khí thế và hào hùng quá đi mất. Cố gắng lên nghen chú. Chúc chú thành công. Hi
  11. Các bác, các chú, tranh luận thì nhẹ nhàng dùm chút. Ví như chú quangnx vậy đó, tranh luận, phản biện vừa nhẹ nhàng, thật là hay, để lớp trẻ học hỏi phát triển, trưởng thành.Ví như cụ HaUyen (nếu nhớ không lằm trong topic nào đó cụ cũng 80 tuổi rồi) cùng tham gia với anh VinhL nhẹ nhàng, thâm sâu về dịch học vô cùng.Một cụ, một trẻ vui vẻ giúp nhau hiểu biết thêm về dịch học. Vả lại, đọc xuyên xuốt các vấn đề từ lúc chú VoTruoc tham gia diễn đàn đến giờ chú ấy có làm mất lòng, hay chê bai một ai đâu. Còn các bác, các chú có là giáo sư, đại giáo sư cứ được vài câu thì lại nổ ra chê bai ông này lỡm khởm, ông kia rẽ tiền, nói xiên nói xỏ. Ôi, thiệt là chẳng có gì phải học hỏi. MỆTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTTT NÃO.
  12. Hé hé. Mấy bố đó thì cứ loăng qua, loăng quăng Thời đại Hùng Vương cỡi trần đóng khố thôi. Được cái giỏi nhậu thôi à. Chú ơi, ai mà có tài liệu cái đoạn này thì ngon à :" Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ."
  13. Thế giới thiệt là khó hiểu và hóc búa quá đi mất. Lại có thêm bằng chứng về hỉnh ảnh máy bay, trực thăng chiến đấu :) Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng. Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập. Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos. Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp. Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng? Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ. Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian. Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó? Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan. Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh. Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay"
  14. Tượng thầy trò Vũ Thê Lang được thờ trong Thiên Cổ Miếu Qua quá trình nghiên cứu của nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền, các thư tịch cổ ở nhiều nơi trong cả nước đã ghi lại danh sách các thầy giáo và học trò thời Hùng Vương. Bước đầu chúng ta biết từ Hùng Huy Vương – Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường ở kinh đô và địa phương, với số học trò được biết là 23 người. Học trò học ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu tên thầy giáo là 17 trường với số học trò là 35 người. Như vậy có 19 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn trong cả nước và 58 học trò tiêu biểu. Ta khiêm tốn gọi đó là những dấu tích của nền giáo dục thời Hùng Vương. Cũng trong quá trình nghiên cứu đó, ông Xuyền còn tìm thấy thời Bắc thuộc lần thứ I từ năm 111TRCN đến năm 39 – thời Bà Trưng có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương. Sau đây là danh sách các thầy giáo và học sinh thời Hùng Vương của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền tìm ra: 1. Danh sách 18 thầy giáo 1 Thời Hùng Vương thứ 6 – Hùng Huy Vương có thầy Lý Đường Hiên Dạy học ở Yên Vĩ huyện Hoài An phủ ứng Thiên đạo Sơn Nam nay là huyện Ứng Hoà Hà Tây. Thầy có hai học trò là Cao Đường và Lý Đá học giỏi thấu tỏ mọi lẽ kinh sách, người đường thời ai cũng khen là thần đồng. 2 Lý Đá và Cao Đường Mở trường dạy học tại Xuân La Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng trấn Sơn Nam. Giặc Ân xâm lược, hai ông theo Phù Đổng đánh giặc, giặc tan về đến núi Sóc Sơn ông cùng Phù Đổng bay về trời. Nhân dân Xuân la Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng Trấn Sơn Nam lập đền thờ phụng. 3 Thời Hùng vương thứ 9 - Thầy Lỗ Công Dạy ở kinh thành Văn Lang, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương. Có học trò là Hoàng Trù ở xã Bồng Lai huyện Từ Liêm Hà Nội theo học. 4 Thời Hùng Vương thứ 16 – Thầy Ngô Tiên Dạy học ở Xuân Áng xã Thuỵ Trang huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng lộ Hải Dương có người học trò là Phan Hộ mày hổ, mũi rồng, tiếng như chuông, mới sinh ra đã có răng, học được một năm giỏi giang, văn võ tinh thông, tài trí khác đời. Ông vào chữa bệnh cho Thái Phi vua thấy tài giỏi, phong “Đốc trưởng tiền quên ngự đô lực sĩ, Đông Đại tướng quân thiên hộ hầu. 5 Thời Hùng Vương thứ 18 – thầy Cao Đường Dạy học ở khu Khổng Tước Châu Hoan, học trò là Hùng Duệ Vương. Còn có người học trò là Chu Hoằng theo học được hơn 4 năm mà văn chương thông thái, võ bị tinh thường. Ông theo Tản Viên Sơn Thánh, trở hành vị tướng đánh Thục giỏi được vua phòng: Cai số Đại vương. Ngày 10 tháng 11 ông tự hoá, nhân dân khu Bùi Trang Hạ Bái huyên Diên Hà lập đền thờ phụng. 6 Thầy Nguyễn Thiện Quê ở làng Yên Vỹ, động Hương Tích, huyện Hoài An phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam đến học ở Thượng Khu xã Vĩnh Lai, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông có hai người con trai cùng sinh giờ ngọ ngày 12/8 năm Bính Tý, lại là hai học trò văn võ toàn tài, thao lược hơn người. Khi cha chết hai anh em đến Sơn Tây vào yết kiến Tản Viên Sơn Thánh và kết nghĩa anh em cùng nhau đánh Thục thắng lơị, được Hùng Duệ Vương phong: Đại tướng công. 7 Thầy Hải Đường Dạy học ở kinh thành Văn Lang có người học trò tên là Nguyễn Mục sinh ngày 12-9 năm GIáp Ngọ, con ông Nguyễn Danh Huyên và bà Đào Thị Túc ở trang Đông Đồ huyện Kim Hoa phủ Từ Sơn xứ Kinh Bắc, đến ở nhà cậu rột là ông Đào Công Hải làm huyện Doãn Châu Phong (Bạch Hạc) để đi học. Mới học được vài năm mà Nguyễn Mục văn chương võ nghệ tinh thông. Hùng Duệ Vương yết bảng chiêu hiền. Nguyễn Mục ứng thi được vua ban chức: Đại Phu tham gia triều đình chính sự. Quân Thục xâm lược, Nguyễn Mục cầm quân đánh thắng giặc trở về được Vua phong: Y Mục đại vương. Ngày 2 tháng chạp năm Kỷ Dậu ông hoá, vua truy phong Thượng đẳng thần tối linh. Nhân dân trang Bối Khê huyện Đông Yên phủ Khoái Châu lập đề thờ phụng. 8 Thầy Lã tiên sinh Dạy ở Hồng Châu Hải Dương có hai người học trò là Cao Sơn và Quý Minh vă võ đã hơn người. Bấy giờ Hùng Duệ Vương hạ chiếu kén nhân tài. Hai ông ứng thi trúng tuyển, vua phong cho hai người chức Chỉ Huy Xứ: Tả Hữu tướng quân. Vâng mệnh vua hai ông đưa quân trấn thủ ở sông Lô, sông Thao, sông Đà đề phòng quân Thục xâm lược. Hai ông lập đồn ở xã Tiên Du huyện Phù Khang phủ Tạm Đái đạo Sơn Tây về sau là xã Tiên Du tổng Hạ Giáp huyện Phù Ninh Phú Thọ… Ngày 10 tháng 11 hai ông đã hoá, nhân dân nơi đây đã tôn thờ làm Thành Hoàng làng. 9 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở xã An Canh huyện Thiên Thi nay là huyện Ân thi, Hưng Yên. Thầy có 3 người học trò là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Chiêu, Nguyễn Minh là con ông Nguyễn Xuân và bà Đoàn Thị Nghi. Ba người cùng sinh một bọc ngày 10-3 năm Bính Thìn, thật là khôi ngô kỳ vỹ. Năm lên 9 tuổi ba anh em đều theo học thầy Lỗ tiên sinh, học được ba năm đã tinh thông văn võ. Năm 15 tuổi tài năng của 3 ông đã nổi bật, nhân dân và hào kiệt trong vùng đều khâm phục. Năm 19 tuổi Hùng Duệ Vương ra bảng kén chọn nhân tài, ba ông đều trúng tuyển. Vua hài lòng phong cho ông Tuấn chức: Tư Tào điển lạc quan, ông Chiêuk chức: Tả Tư tào phán quan, ông Minh chức: Hữu Tư tào phán quan. Quân Thục đến xâm lược, ba ông theo Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc. 10 Thầy Lỗ Đường Tiên sinh Dạy ở xã Đại Đồng thuộc huyện An Đường phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương. Có người học trò là Trương Sơn Nhạc sinh giờ Thân ngày 8 tháng giêng năm giáp Thân, rất kỳ lạ, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, trong bụng có điểm nét chữ “son” trông tựa như chữ thần tiên. Một tuổi đã biết nói, năm lên 7 theo học thầy Lỗ Đường, chẳng bao lâu văn võ kỳ tài, được Hùng Duệ Vương giao cho chức Bố Chính Quan. Quân Thục đến xâm lược, ông là vị tướng đã đáh thắng giặc rồi tự hoá.. Nhân dân làng Nhiễm Dương tổng Nghĩa Xá, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh lập đền thời phụng. 11 Thầy Niệm Hưng Quê ở Mộ Trạch Hải Dương được nhân dân làng Lỗ Khê phủ Từ Sơn Bắc Ninh đón về dạy hỏi: Năm 23 tuổi nhà vua hạ chiếu kén anh tài. Niệm Hưng ứng tuyển được Hùng Duệ Vương phong chức: Chỉ Huy xứ. Quân Thục xâm lược, ông lĩnh chức Tiền Đạo đại tướng quân, đánh thắng quân Thục ông trở về Lỗ Khê tự hoá, nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng Làng. 12 Thầy Nguyễn Minh Quê ở huyện Lôi Dương Châu Ái đến xã Màn Xuyên tổng Đông kết huyện Đông An mở trường dạy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoá thi, vào thi Đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoá, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ ba, ông cùng với Tản Viên Sơ Thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi được vua phong: Trấn Chiêm Thành cửa ải đại tướng quân. 13 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở Động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá, có ba người học trò là Cao Hiển công, Cao Minh công, Cao Tùng công quê gốc ở Châu ái đến ngụ cư ở Lăng Xương. Ba học trò này thật là dị tướng, hai gồ má cao vọi, tay dài chấm gối, bàn chân có 7 cái lông dài. Học mới 3 năm mà đã am hiểu nghĩa lý, kinh sử lầu thông. Vì có công đánh giăc Thục khi hoá được vua phong Thượng đẳng phúc thần. 14 Thầy Phạm Công Tuyển Quê ở trang Hội Triều huyện Hoàng Hoá phủ Hà Chung Châu ái làm quan ở châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Ông là Người văn chương nổi tiếng. Sau khi vợ chết ông tư quan về dạy học ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, sau lại chuyển về khu Đăng Xuyên xã Đăng Định huyện Thiên Thi… Sau khi chết nhân dân xã Đăng Xuyên huyện Ân Thi tôn thờ Thành Hoàng làng. 15 Thầy Vũ công Ở Mộ Trạch Hải Dương dòng dõi thi thư lên cung thành kinh đô Văn Lang, ở thôn Hương Lan, ngày nay thuộc xã Trưng Vương – Việt Trì dạy học. Hai ông bà sinh được người con đặt tên là Vũ Thê Lang, khi trưởng thành Vũ Thê Lang đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Nhân dân đã lập đền thờ vợ chồng Vũ Thê Lang, đền này có tên là “Thiên Cổ Miếu”. 16 Thầy Lý Đường tiên sinh Dạy học ở động Lăng Xứơng huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng, đao Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Nguyễn Chiêu học thầy 3 năm liền. Sau này Nguyễn Chiêu gọi là Tả Viên Sơn Thánh phò mã của Hùng Duệ Vương. 17 Thầy Ngô tiên sinh Dạy học ở thôn Trì La Huyện Thiên Thi Xứ Sơn Nam. Có hai người học trò tên là Phạm Đá, Phạm Dũng cùng sinh một bọc ngày 9/3 năm kỷ Mùi, con ông PHạm Đạt và bà Đinh THị Duyên, quê nội ở sách Biện Sơn huyện Lôi Dương phủ Thuận Thiên Châu ái. Hai học trò này hình dáng kỳ dị, mày ngài hàm én, tay dài chấm gói, bàn tay có 7 chiến lông mọc dài, năm lên tám tuổi hai anh em đến học thầy Ngô tiên sinh, mới học được vài năm đã thông kinh sử. Thời An Dương Vương có giặc Đại Man đến cướp phá Cao Bằng, Hưng Hoá. Nhà vua truyền hịch tuyển lựa chọn nhân tài. Hai ông ứng tuyển được nhà vua phong cho ông Phạm Đá là Bình Man Đô nguyên soái, ông Phạm Dũng là Thiên Quan đại tướng công. Hia ông dẹp yên giặc lại trở về Trì La, khi hoá nhân dân tôn Thành Hoàng làng. 18 Thầy Dương Như Tồn tiên sinh Dạy học ở Lỗi Giang, Tề Giang xưa, nay thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá là thầy dạy tể tướng Lữ Gia thời nhà Triệu. 2. Danh sách 23 học trò Thời Hùng Vương thứ 6 - ông Tạ Quang và bà Trần Thị Ở xã An Phú huyện Từ Sơn Bắc Ninh có 5 con học ở xã Điềm Xá huyện Tiên Lữ phủ Khoái Châu Hưng Yên. Năm người con này khi trưởng thành đã cùng với Hùng Đức huyện quan Tiên Lữ đánh giặc ở Châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang…. được vua phong: Ngũ vị đại vương. 2 Người con giai là Vũ Nghị Con ông Vũ Huy Hiển, bà Hoàng Thị Việt. Năm 12 tuổi ha mẹ cho đi học ở thôn Trung xã Vĩnh Lại tên nôm là làng Giải Thượng huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Thời Hùng Hy Vương có giặc Cao Man giặc Ân ông đã cùng với người cậu là Hoàng Công Độ, lạc tướng ở kinh thành Văn Lang đi đánh giặc lập nhiều chiến công. Ông Vũ Nghị đã hoá theo Thánh Gióng ở núi Sóc Sơn. 3 Đời Hùng Vương thứ 6 có Vũ Lang Lữu Sinh giờ Dần ngày 20 tháng giêng năm ất sửu là con ông Vũ Sùng và bà lê Thị Ngọc, học ở sách Lam Sơn, Ái Châu, Thanh Hoá. Sau lại chuyển đến học ở huyện Nam Xang phủ lý Nhân đạo Sơn Nam. ông thông thạo văn chương, thượng thiên văn, hạ địa lý, không một vật gì không biết, không một việc gì không hay, đời bấy giờ khen là: ông thánh trẻ. Giặc Ân xâm lược nước ta Vũ Lang Lữu cùng Thánh Gióng đánh tan giặc. Ông được vua phong: Võ Gia Hỗu giám sát đại tướng quân. Khi ông mất làng Vũ Xá tổng ngu Nhuế phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam lập đền thờ phụng. 4 Hoàng tử Hùng Bảo, Hùng Chân Con Hùng Huy Vương và con Hoàng hậu Phương Dung. Hoàng tử Bảo sinh ngày 12/02 năm Giáp Tí. Hoàng Tử Chân sinh ngày 10 tháng giêng năm đinh mão. Hai hoàng tử này học ở kinh thành Văn Lang, với tư chất thông minh, chăm học, ngay từ thuở thiếu niên đã tỏ ra người có tài văn võ. Lúc bấy giờ có giặc xâm lược vua cử hai hoàng tử làm tướng, phong cho hoàng tử Bảo là Bảo quốc lạc hầu, Hoàng tử Chân là Chân Võ đại tướng quân. 5 Nguyệt tinh công chúa Cháu của Hùng Tạo Vương – Hùng Vương thứ 16 học ở kinh thành Văn Lang, 19 tuổi văn võ kỳ tài, đi 7 bước làm xong bài thơ. 6 Hoàng tử Mang Công Con của Hùng Nghị Vương – Hùng vương thứ 17 học ở kinh thành Văn Lang, là người thiên tư mẫn tuệ. Năm 17 tuổi Mang công lầu thông thiên kinh vạn quyển, hiểu rõ ngọn ngành của mọi nghĩa lý. 7 Thời Hùng Duệ Vương có Lương Cội công Con ông Lương Nhạc và bà Trần Thị Ái, cha mẹ cho Cội công đi học ở động Chung Sơn quận Cửu Chân, Hoan Châu. Cội công rất thông minh, văn tài võ lược đều giỏi, được vua trọng dụng phong làm tướng cử đi đánh giặc, thắng lợi trở về vua lại truy phong; Đài vàng Cội Công Uy linh đại vương. Ông mất, Trang Minh Lương (tức Mỹ Lương) huyện Diên Hà phủ Tân Hưng làm đền thờ phụng. 8 Bốn người con: Liêm , Vĩnh, Dũng, Bùi Vợ chồng ông Đinh Công Bách và Tô Thị Công Nghị quê ở Châu Ái, Thanh Hoá có 4 con theo học ở làng Pó Hoa trấn Sơn Nam Thượng phủ Thường Tín huyện Thượng phúc đạo Sơn Nam. Bốn người con đều đi học chăm chỉ, đều tài giỏi cả văn lẫn võ, tài trí thông minh lẫy lừng thiên hạ, danh tiếng đến tai vua. Hùng Duệ Vương mời 4 chàng trai vào triều để giúp vua trị nước. 9 Chàng Ngọ Ông Nguyễn Trường vợ là Đinh Thị Khương ngày 8 tháng giêng năm Bính Ngọ sinh được người con trai phong tư đẹp đẽ, khí vu hiên ngang đặt tên là Ngọ. Cha mẹ cho Ngọ đi học ở khu Tập Ninh xã Vân Lung động Hoa Lư phủ Trường Yên Châu Ái. Chàng thông hiểu văn chương, tinh thông võ nghệ được Hùng Duệ Vương phong: Trung Thư Lệnh, Quân Thục đến xâm lược, ông là võ Tướng chỉ huy đánh thắng giặc rồi ông tự hoá, làng Tập Ninh xã Vân Lung huyện Hoa Lư – Ninh Bình lập đền thờ phụng. 10 Tam Quan học Hùng Thiện Công và Nguyễn Thị Phương có người con trai tên là Tam Quan học ở trang Cao Xá thuộc tổng Lai Cách phủ Bình Giang nay là xã Ca An huyện Cẩm Giàng Hải Dương: Tam Quan học rất giỏi võ nghệ tinh thông, pháp thuật cao cường được Hùng Duệ Vương tuyển dụng phong: Tam Quan địa vương. 11 3 người con giai: Tuấn, Chiêu, Minh Ông Nguyễn Xuân và vợ là Đoàn Thị Nghị ngày 10/3 sinh một bọc được 3 người con giai thật là kỳ vỹ. Con thứ nhất đặt tên là Tuấn, con thứ 2 đặt là Chiêu, con thứ 3 đặt là Minh. Năm lên 9 tuổi cả 3 anh em đều đi học ở làng cổ Lễ xã An Canh huyện Thiên Thi nay là Ân Thi Hưng Yên. Ba ông có công đánh quân Thục xâm chiếm, khi hoá nhân dân Cỗ Lễ thờ; “Tam vị Thành Hoàng” 12 2 con giai: Minh Đức, Chiêu Chung Đặng Cẩn vợ là Phùng Thị Thuần ngày 10 tháng 4 năm Nhâm Thân sinh được 2 con giai , dung mạo khôi ngô kỳ lạ. năm lên 7 tuổi cha mẹ cho 2 anh em đi học ở Châu Quỳnh Nhai. Năm 16 tuổi lực học hai cậu tinh thông, tài năng võ nghệ khiến vạn phu không địch nổi. Năm 20 tuổi, giữa lúc Hùng Duệ Vương dựng lầu kén rể ở thành Văn Lang để mộ người thông minh tài trí, đức độ hơn người, kén chọn bậc vương lấy công cháu Ngọc Hoa rồi vua trao ngôi báu. Hai ông vào ứng thi tài văn võ ứng đối lưu loát nhưng toàn tài chưa có. Vì thế vua chỉ phong cho 2 ông chức: chỉ huy xứ tả hữu tướng quân. Quân Thục đến xâm lược, hai ông cầm quân đánh thắng giặc trở về và tự hoá ngày 3 tháng 12 nhân dân Nghĩa trang Lưu Thượng, Lưu hạ đạo Hải Dương lập đền thờ phụng. 13 Thời Hùng Duệ Vương - Vũ Uy Ông Vũ Phục vợ là Quế Hoa ngày 18 tháng 3 giờ Tý năm Nhâm Dần sinh được người con trai đặt tên là Vũ Uy, năm 14 tổi cha mẹ cho Vũ uy học ở xã Đan Tràng tổng Đan Tràng huyện Cẩm Giàng phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, võ nghệ tinh thông, học một biết mười, quân Thục đến xâm lược, ông xin nhà vua cầm quân đánh giặc, chiến thắng ông trở về bản quán xã Đan Tràng và tự hoá được vua phong: “Thượng đẳng phúc thần” 14 Con trai tên Hoằng Ông Nguyễn Lương vợ là Đinh Thị Tố ngày 10-8 năm Giáp thân sinh người con trai đặt tên là Hoằng, có nước da trắng ngần, mắt sáng như sao, sau lưng có 28 nốt ruồi, dười đùi có 7 cái lông. năm 12 tuổi ông kết bạn với Sơn Thánh và đến bái yết Hùng Duệ Vương được vua pong “Dũng lược tướng quân” hộ giá nhà vua. Ông có công đánh thắng quân Thục được vua gia phong: Hoằng tướng quân đại vương. Khi ôg hoá làng Cổ Viễn, Bình Lục, Hà Nam lập đền thờ phụng. 15 2 con trai: Mang công, Mỹ công. Ông bà Cao công ngày 2 tháng 2 năm Giáp thân sinh một bọc được 2 con trai đặt tên là Mang công, Mỹ công. năm 11 tuổi cha mẹ cho hai anh em đi ọc ở Vũ Ninh, học được 5 năm văn võ rất giỏi. Quân Thục xâm lược Hùng Duệ Vương triệu hai ông về triều, cử đi đánh giặc. Thắng giặc trở về hai ông tự hoá ngày 10-6 được vua truy phong: “Thượng đẳng phúc thần”. Làng Mão Cầu Phủ Lý Nhân Hà Nam lập đền thờ phụng. 16 Đời vua Hùng Vương thứ 18 - Cao Sơn, Cao Minh Ông Nguyễn Tùng vợ là Lê Thị Diêu ngày 14 tháng giêng năm Nhâm Dần sinh được hai con trai mặt mũi khác thường đặt tên là Cao Sơn và Quý Minh – Năm lên 6 tuổi cha mẹ cho đi học ở Hồng Châu Hải Dương. Năm 16 tuổi cả hai anh em đều tinh thông võ nghệ. Vua hạ chiếu tìm người tài giỏi. Hai anh em đến bái yết nhà vua được vua phong cho hai người làm: Đô chỉ huy xứ tướng quân Cao sơn và Quý Minh là hai nhân vật từng được thờ rất nhiều với những lai lịch sự tích mỗi nơi một khác. Có nơi cho Cao Sơn và Quý Minh là Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng anh em con chú con bác với ản Viên. Cao Sơn và Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên. Có người lại cho rằng Cao Sơn và Quý Minh là tước hiệu tránh viết tên huý.. 17 Chung công ý Công Hiển vợ là Đinh Thị Huyền ngày 10-2 năm Mậu Thân sinh được người con trai tay dài quá gối, chân có 7 cái lông dài, cha mẹ đặt tên là Chung công. Một tối Chung công đã biết nói, 7 tuổi đi học ở động Lăng Xương huyện Thanh Châu phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Mới học được mấy năm đã thông hiểu cả văn võ. Lớn lên cùng với Sơn Thánh cầm quân đánh Thục. 18 Đời Hùng Vương thứ 18 - Nam Định Ở làng Lưu Xá huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam có ông Trương Tùng vợ là Phùng Thị ích đến ngụ cư ở trang Trịnh Xá khu Nguyên Xá huyên Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc. Ngày 10/3 năm Quý Tỵ sinh được cậu con trai đặt tên là Nam Định. Lên 3 tuổi đọc thông sử sách, lại giỏi võ nghệ, đám học trò thời ấy thán phục và khen là thần đồng. Năm 21 tuổi, lúc này Hùng Duệ Vương xuống chiếu cầu hiền Nam Định ứng tuyển, trả lời các câu hỏi của vua đều lưu loát, vua khen và ban danh là Trung Định Công và giao cho chức chỉ huy xứ ở huyện Thượng Hiền đạo Sơn Nam. Hùng Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa nhưng đều nối gót lên tiên cả, chỉ còn lại 2 công chúa. Con gái lớn là Tiên Dung đã gả cho Chử Đồng Tử còn công chúa Ngọc Hoa duyên đẹp thời lành chưa định. Vì vậy mà giao cho Trung Định công dựng lầu ở cửa Việt Trì gọi là “Tuyển tế đại hiền lau” – Lễ đón người hiền, chọn rể, đề biển là: “Ngoan nguyệt cầu hiền” nghĩa là ngắm trăng cầu hiền - để nhà vua gả công chúa và truyền ngôi báu cho. Lúc bấy giờ chỉ có Sơn Thánh họ Nguyễn tên Tùng người Đạo Sơn Nam có nhiều phép lạ, vua cho rằng đó là người kỳ tài bậc nhất thiên hạ, vua đã gả công chúa và nhường ngôi báu. Quân Thục đến xâm lược Trung Định công được vua phong: Tiền đạo đương lộ tướng quân, đi giết giặc. Thắng giặc trở về ông tự hoá ngày 15/7 nhân dân khu Nguyên xá tôn thờ làm thành hoàng. 19, 20, 21, 22 4 con trai của Hùng Vương thứ 18 Hùng Vương thứ 18 ở Châu Quỳnh Nhai có ông Cao Bảo và Cao Hình lấy vợ ở Thanh Ba làng Vũ Lao. Năm Đinh Sử tháng 3 ngày 10 vợ ông anh sinh 2 con trai và một con gái. Ngày 10-8 năm ấy vợ ông em sinh một bọc 2 con giai. Thế là hai anh em sinh được 4 giai một gái. Bốn con giai thân thể lẫm liệt, cao to, môi rồng, mặt phượng, hàm én, mày hùm. Con gái thì phương phi, mặt như gương sáng, nhan sắc như tiên nữ. lên 3 tuổi người anh đặt tên cho con là Minh Công, Tín Công và con gái Dung nương. ông em đặt tên cho con là Cao công, Bạch công. năm lên 7 tuổi hết thảy đều thông minh, trí tuê, khí độ hơn người. Nam anh hùng, nữ tuấn tú. Lúc bấy giờ ở châu Quỳnh Nhai có người họ Đinh là nhà cự tộc gia thế, tìm cách giết chết 2 anh em giai và người vợ ông em. Bà vợ ông Cao Bảo đưa 3 con và 2 cháu đi chốn ở làng Thượng Nông huyện Tam Nông phủ Lâm Thao, ở nhà bà Ma Thị Chính và cho các con, các cháu học ông thầy ở làng Đào Xá Thanh Thuỷ. Học được 4 năm, tài chí của con trai và con gái khác thường. Bốn con trai giúp nhà vua đánh Thục còn Dung nương thì lấy vua làm thập tứ cung phi (cung phi thứ 14) Giả thuyết chữ Việt cổ đầu tiên là khi nào và chữ Việt cổ còn lưu lại ở những đâu? Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này" Văn bản chữ Việt cổ còn lại những gì? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ đã từng có một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm sau cách mạng Tháng Tám đã bị mất. Dù giặc ngoại xâm đã tước đoạt, đã thiêu huỷ những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta như Mã Viện đã tịch thu tất cả những trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ. Năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta. Nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều: Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tai vùng biên viễn Thập Châu. Thư viện Sơn La đã sưu tầm được gần 1500 cuốn sách, Bảo Tàng Sơn La cũng sưu tầm được gần 1000 cuốn sách trong đó là chữ Thái hay chữ Việt Cổ mà chưa nghiên cứu vấn đề này. Nhất định chúng ta tìm thấy và giải mã được chữ Việt Cổ, chữ của tổ tiên để lại. <a name="Giai-ma">Ông Xuyền đã giải mã hình dạng chữ Việt cổ như thế nào? Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật - Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này. www.chungta.com
  15. Bài hát Việt nhân ca xuất hiện trên văn đàn cổ Trung Hoa trong một bối cảnh hết sức đặc biệt. Thời Xuân Thu, Tử Tích (thế kỷ 6 trước Công nguyên) là vương tử nước Sở, em trai Sở Linh Vương, được phong chức lệnh quân vùng Ngạc Ấp nên được người dân gọi là Ngạc Quân Tử Tích. Một ngày nọ, Ngạc Quân Tử Tích cùng đoàn tùy tùng đi du ngoạn Phán Hồ (nay là hồ Lượng Tử thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc) để thăm thú lãnh địa của mình. Vị vương gia đi trên một con thuyền lớn do một thiếu nữ Dương Việt (một nhóm trong Bách Việt) cầm chèo. Được diện kiến Ngạc Vương Tử Tích, cô thiếu nữ cảm thấy rất hãnh diện, vừa nhịp tay chèo vừa cất cao giọng hát trong cái lãng mạn của xuân cảnh hữu tình và âm thanh rộn ràng của tiếng trống: Dưới đây là bài Việt nhân ca được ghi lại theo âm Việt cổ và bằng chữ viết của nước Sở cổ Dịch thơ (dựa theo lời dịch của tác giả Lâm Hà, dân tộc Đồng): Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ? Thuyền xuân đón khách, khách là ai? Thì ra khách là người vương tử! Triệu kiến người trên chiếc thuyền xuân Việt nữ tôi - lòng cảm tạ vô ngần Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ? Vương tử cùng lướt sóng ngao du Tâm can tôi nghe hớn hở vô cùng. Ngạc Quân Tử Tích nghe giai điệu thánh thót rất hay nhưng không hiểu Việt ngữ nên yêu cầu người thông ngôn (cũng là người Dương Việt) dịch cho nghe. Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích lấy làm thích thú, cho triệu kiến cô gái chèo thuyền. Gặp mặt cô gái, Tử Tích không chút do dự “xắn ống tay áo, ôm chầm lấy cô gái Việt”, còn “lấy một chiếc đai gấm quấn quanh eo cô gái” nhằm bày tỏ lòng biết ơn. Ngạc Quân Tử Tích liền hạ lệnh cho tùy tùng ghi lại bài hát và lưu truyền trong dân gian. Bài Việt nhân ca ra đời từ đó. Cố sự này được Lưu Hướng (79-8 trước CN) ghi lại tỉ mỉ trong cuốn Thuyết Uyển (bài Việt nhân ca) vào thời Tây Hán. Người đời sau dịch lại bài hát này ra tiếng Hán (có thêm bớt), song cốt cách, tình cảm và cái hồn của bài hát bản tiếng Hán đã vơi đi ít nhiều. Việt nhân ca là một bài tình ca độc đáo của dân gian Dương Việt, đặc biệt là đối với người dân Bách Việt di chuyển bằng thuyền độc mộc khắp vùng phía nam Dương Tử đầy sông nước. Nó độc đáo vì chỉ là lời tâm sự của một cô gái Dương Việt tuổi xuân thì song lại chứa đựng nhiều đặc trưng văn hóa Bách Việt phương Nam: quen với sông nước và thạo chèo thuyền; thích lãng mạn, phóng khoáng nhưng cũng rất tinh tế; không ưa giáo điều hay các qui tắc phân biệt tầng lớp xã hội. Cho đến hôm nay, nhiều dị bản của bài Việt nhân ca vẫn còn lưu truyền trong dân gian một số dân tộc Nam Trung Hoa như Choang, Đồng..., nơi dòng chảy của văn hóa Bách Việt cổ còn tồn tại và lưu truyền. TTCT - Th.s NGUYỄN NGỌC THƠ (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM)
  16. Xin bổ sung sưu tầm được cái ấn vàng của Triệu Đà . Nguồn www.nga.gov "Văn đế hành tỷ"
  17. Sống kế bên thằng khổng lồ, vừa gian, vừa thâm, vừa nguy hiểm thì thật là mệt mỏi.Nhưng cũng còn may là , người tiêu dùng khá nhiều người đã nhận thức được hàng Trung Quốc là hàng lõm, không chất lượng. Nhưng cũng còn cái khúc mắc nữa là không dùng hàng Trung Quốc thì không được, vì còn nhiều khoản A,B,C ... khác nữa. Hé hé.
  18. Thưa chú, góp gió thì thành bão chú à. Các học giả nước ngoài có nhìn vào, có cười chê thì mặc xác họ. Mình tìm hiểu về tổ tiên của mình thì kệ mình, Nội cái đơn giản, ông bộ trưởng Anh Quốc hứa sẽ trả lời 05 câu hỏi được nhiều người bình chọn, câu hỏi của chị Rin86 rất đơn giản nhưng ông ấy nào trả lời được. Nếu như ai cũng sợ cười chê như quan điểm của chú thì chắc có lẽ 1triệu năm sau, nguồn gốc Tổ Tiên từ đâu mà tới, nền văn hiến từ đâu mà ra. Các sử gia, nhà nghiên cứu TQ họ chắc gì biết đến những gì họ nói nhưng họ cứ nói, cứ viết sách, tích gió thành bão riết 1 thời gian tất cả là của họ. Chú không có ý định viết sách, cháu thiết nghĩ là đúng rồi đó ạ.
  19. Toán học của người Maya Một số người da đỏ ở Gatêmala, miền Nam Mexico và Bêlidê ngày nay vẫn còn dùng tiếng Mam, tiếng Quiche, tiếng Cakchiquel, tiếng Kekchi và tiếng Myathan, là các thứ tiếng trong khoảng hơn ba chục thứ tiếng nói của người Maya. Điểm chung của các ngôn ngữ khác nhau đó là cách gọi tên một hệ số rất hoàn chỉnh, và gần giống nhau. Nhiều thế kỷ tồn tại của các chế độ thực dân và nhất là sự xuất hiện của kinh tế thị trường đã làm cho các từ thổ ngữ chỉ các con số bị thay dần bằng các từ vay mượn tiếng Tây Ban Nha. Đã nhiều thập kỷ nay người ta không còn dùng thổ ngữ để gọi các số lớn, và ngay cả tên gọi các số hàng đơn vị bằng thổ ngữ cũng dần dần mai một. Những con số thường nhật Ngành khảo cổ cho biết rất ít thông tin về việc dùng các số trong kinh tế ở châu Mỹ thời tiền Christophe Colomb. Tuy nhiên, chúng ta biết chắc hệ số Maya được sáng tạo ra bằng cách đếm trên đầu ngón tay và ngón chân. Ví dụ trong tiếng Quiche, từ chỉ số 20 là huvinak, có nghĩa là "toàn thân". Cách đếm này trong hệ đếm thập phân: 11 là hulahuh có nghĩa là hun (1) cộng với lahuh (10). Các con số rõ ràng được sử dụng rất giống với cách chúng ta sử dụng để đếm ngày nay, nhưng có một khác biệt là người Maya phải dùng đến những từ phân loại để miêu tả các vật được đếm, chỉ rõ vật được đếm có hình tròn, dài hay ở trạng thái đặc, lỏng. Ví dụ, nói về thuốc lá, người Yucatec nói: "Đây là hun (một) dzit " (vật thể dài, hình trụ) gọi là chamal (điếu thuốc lá) chứ không nói là "đây là một điếu thuốc lá" Lịch Mặt trời chính thức Lịch Maya được xây dựng trên cơ sở năm Mặt trời với 365 ngày, do người Maya kế thừa các nền văn minh cổ Zapotecs (ở Mont Alban) và Olmecs (ở La venta và Tres Zapotes). Với độ dài không đổi, một năm Mặt trời được chia thành 18 tháng, mỗi tháng 20 ngày (dùng hệ đếm cơ số 20), 5 ngày còn lại được đưa vào cuối năm. Mỗi tháng có một tên gọi dường như không hề có liên quan gì với mùa vụ hoặc lễ hội. Tên gọi các tháng được truyền theo truyền thống hoặc thậm chí có khả năng được mượn từ các thứ tiếng khác hoặc các nền văn hóa khác. Chúng cũng chỉ có ý nghĩa trong lịch sử chứ không giống như tên tháng trong các ngôn ngữ châu Âu hiện nay, có nguồn gốc từ tiếng Latinh mà nguyên nghĩa của nó hiện nay vẫn còn một số người hiểu được. Các ngày trong tháng được ghi bằng số thứ tự từ 0 đến 19 đặt trước tên tháng (Từ 0 đến 4 cho tháng thiếu, cuối năm chỉ có 5 ngày). Như thể, mỗi ngày được định tên chính xác trên trục thời gian. Các năm nối tiếp nhau không ngừng và không có năm nhuận. Bản đồ lịch của người Maya Lịch của các thày bói Ngày xưa, những người da đỏ Quiche, Ixil và Mam vẫn dùng lịch Maya truyền thống có 260 ngày để dự đoán tương lai. Tại sao lại có 260 ngày? Sau khi phỏng đoán nhiều thày bói ở Chichicastenango và Momstenango, nhà nhân chủng học Đức Leohard Schultze Jena đã phát hiện ra rằng việc chọn độ dài này không phải ngẫu nhiên, mà do phù hợp với thời gian mang thai của con người. Bất luận nguồn gốc thế nào hệ đếm hai mươi cho phép chia năm có 260 ngày thành 13 tháng, mỗi tháng 20 ngày. Mỗi ngày được định tên bằng một số từ 1 đến 13, kết hợp với một trong 20 tên gọi các con vật, các lực lượng tự nhiên, các quan niệm hoặc khái niệm trừu tượng mà ý nghĩa đến nay đã mất đi. Cũng giống như lịch Mặt trời, lịch bói toán có chu kỳ, ngày cuối cùng của chu kỳ trước tiếp nối bằng ngày đầu của chu kỳ sau. Chu kỳ lịch Hoán vị lịch 260 ngày với lịch 365 ngày cho ta một chu kỳ 52 năm, trong đó mỗi ngày được gọi bằng một tên khác nhau. Chu kỳ 18980 ngày (52 năm lịch Mặt trời với 365 ngày một năm, hoặc 73 năm lịch bói toán với 260 ngày một năm) này được biết như một đơn vị lớn nhất để đo thời gian của phần lớn các dân tộc Trung Mỹ thời kỳ tiền Christophe Colomb. Không giống người Mextec và Aztec, người Maya quen với nhiều hệ đếm khác nhau và họ sử dụng các đơn vị khác nhau để đo các chu kỳ thời gian dài hơn, nhưng người Maya là ngoại lệ trong những nền văn hóa lớn thời kỳ trước Christophe Colomb. Chữ tượng hình Chúng ta biết rằng ngày tháng được đặt tên, và một phần đa số hóa. Ngày nay, nhiều thầy bói người da đỏ vẫn dùng tiếng nói riêng của họ để gọi tên ấy. Người Maya thời tiền Christophe Colomb có thể viết tên tất cả các ngày trong một chu kỳ lịch bằng chữ tượng hình. Có 4 tập sách dùng chữ tượng hình còn lại đến ngày nay, hiện được lưu giữ ở Paris, Dresden Madrid và Mexico city. Vô số những chữ khắc trên đá, một số tranh khắc trên tường và rất nhiều đồ gốm trang trí luôn là những tư liệu đáng khâm phục về hệ thống chữ viết độc đáo này. Cách đơn giản nhất để ghi các con số từ 0 đến 19 là những dấu chấm (cho các đơn vị). Với các con số lớn hơn, người ta dùng một ký hiệu cho 20. Để ghi số lớn hơn 40, hệ thống ghi giá trị theo vị trí được sử dụng với một ký hiệu đặc biệt tương đương với số 0 của chúng ta tại vị trí trống. Mỗi vị trí đại diện của lỹ thừa 20, cho đến vị trí thứ ba thì nhân với 18, cụ thể là: vị trí thứ nhất 200 = 1; vị trí thứ hai 201 = 20; vị trí thứ ba 18 x 201 = 360; vị trí thứ 18 x 202 = 7200; vị trí thứ năm 28 x 203 = 144000,v.v... Chữ tượng hình của người Maya Đếm ngày Rất sớm, và không muộn hơn kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người da đỏ Trung Mỹ đã sáng chế ra một cách để tính thời gian: đánh số ngày (cuenta larga, có nghĩa là "đếm dài"). Hệ thống này độc lập với các chu kỳ lịch đã nói trên, đếm ngày tiếp ngày bắt đầu từ một ngày xa xưa ít nhiều mang tính thần bí. Hệ thống ngày rất chính xác này đã trợ giúp đắc lực cho các nhà nghiên cứu hiện đại đầu thế kỷ XX khi người ta thiết lập được tương quan giữa nó và lịch của chúng ta. Mục đích nguyên thủy của hệ thống ghi ngày tháng này là phục vụ cho người Maya trong việc hệ thống hóa các ngày lịch sử quan trọng có liên quan tới các thần thánh, hay lãnh tụ của họ. Những chu kỳ lịch khác. Người Maya xưa còn sử dụng những chu kỳ lịch khác nữa cho các mục đích lịch sử, bói toán hoặc suy đoán. Chẳng hạn từ chữ tượng hình G1-G9 người ta còn biết sự tồn tại của một chu kỳ lịch 9 ngày (hoặc đêm), dành cho 9 vị thần. Hơn thế, một tổ hợp các chu kỳ ngắn 7, 9 và 13 ngày, mỗi chu kỳ dành cho một loại thần linh khác nhau, tạo thành một chu kỳ 819 ngày phục vụ mục đích bói toán. Thiên văn Không dừng lại ở việc quan sát các ngôi sao và dự đoán gần đúng chuyển động của các thiên thể, các nhà thiên văn Maya đã sử dụng một hệ thống số và bảng tính rất tinh xảo, kết hợp với chữ tương hình để thực hiện các phép toán phức tạp với các con số hàng triệu. Đầu tiên, các nỗ lực của họ hướng về phía Mặt trời và Mặt trăng. Họ dùng các năm có độ dài khác nhau về mặt bản chất. Thông thường, năm chuẩn dài 365 ngày được coi là cơ sở, nhưng cũng có thể có những năm 364 ngày hay 365 1/7 ngày, tương tự như lịch Julilan (lịch của Jules César) Mặt trăng luôn có mặt trong các lịch chạm trên đá. Lịch này thường bắt đầu bằng một ngày căn cứ vào pha của Mặt trăng và vị trí của ngày đó trong một lịch của 6 tháng Mặt trăng. Các nhà thiên văn Maya cũng đã tính được quỹ đạo của sao Kim và kết quả 584 ngày gần đúng một cách đáng kinh ngạc so với kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Nhưng họ chưa dừng ở đây, sách chép tay Maya ở Dresden còn các bảng hiệu đính, cho phép hiệu chỉnh các sai lệch rất nhỏ so với các giá trị đó, để phát hiện những sai lệch này cần có thời gian quan sát kéo dài hàng chục, thậm chí hàng trăm năm. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, người Maya đã thành công trong việc tính toán chuyển động của nhiều hành tinh khác như sao Hỏa hay sao Mộc, nhưng điều này chưa được chứng minh. Bước vào toán học thuần túy Với người Maya, lý do cơ bản khiến họ xây dựng các loại lịch, cách tính toán thiên văn là tôn giáo, bói toán và đoán định tương lai. Các chuyên gia về lịch của họ đã dành thời gian để thiết lập tương quan giữa các chu kỳ lịch khác nhau, dùng bội số chung nhỏ nhất và các phương pháp khác để tiên đoán tương lai, hoặc nối hiện tại với những sự kiện quan trọng trong quá khứ. Bằng cách này họ cũng có thể khám phá đôi chút về số mệnh của các thân của chủ của họ - dù đó là thủ lĩnh hay cá nhân khác. Những tính toán thực tế đã giải được các thuật toán phối hợp và các lý thuyết có đặc trưng xác suất. Nhiều tính toán đã được đẩy xa về quá khứ và tương lại tới mức gây cho người ta ấn tượng các giáo sĩ phụ trách về lịch mong muốn trước tiên thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của bản thân mình, và thăm dò những giới hạn của khả năng toán học của mình. Điều đó cho phép chúng ta nói rằng người Maya cũng như trước và sau họ, người Babylone, người Hy Lạp, người Ả Rập và người Ấn Độ đều đã có một trực giác toán học thuần túy tuyệt vời. Berthold Riese người Đức, chuyên gia về các nền văn hóa của người Mỹ da đỏ. Ông đã xuất bản Maya Kalender und Astronomic, một công trình tập thể do Ulrich Kohler chủ biên (1988) Chữ số Maya từ 1 đến 13 dùng chấm và gạch Ai dạy người Maya cách tính lịch? Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có thể ghi chép các sự kiện theo năm tháng nhằm quyết định thời gian gieo trồng và thu hoạch, tính toán một cách chính xác thời tiết và những ngày mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc thời cổ đại nguyên thủy khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So với các nhà buôn Ả Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0" truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì người Maya sớm hơn 1000 năm. Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm mỗi năm có 5 ngày kiêng kỵ không đưa vào tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng hợp với nhận thức quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu trình. Người Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm của sao Kim, tức là thời gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính ra một năm sao Kim dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao Kim dài 583,92 ngày. Đó là một con số chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước. Quan sát sao Kim trên đài thiên văn Chichen Itza rong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc căn cứ vào con số ngón tay để sáng tạo ra phép đếm cơ số 10. Còn người Maya lại căn cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại để sáng tạo ra phép đếm cơ số 20. Ngoài ra họ còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép đếm này gợi ý về cái gì? Lấy cái gì làm căn cứ? Người Maya còn là dân tộc đầu tiên trên thế giới nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức và vận dụng số "0" trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề này, người Maya so với người Trung Quốc và người châu Âu đã sớm hơn được 3800 năm và 1000 năm. Kim tự tháp mà người Maya căn cứ vào lịch pháp của mình để xây dựng nên, thực chất là một đàn cúng tế thần linh kiêm đài quan trắc thiên văn. Đài thiên văn ở Chichén Itzá là đài thiên văn số Một do người Maya xây dựng nên cũng là đài thiên văn cổ nhất. Đỉnh chóp của đài thiên văn này cao trội hẳn lên trên các ngọn cây trong rừng rậm, bên trong có một cầu thang tròn lên tận đỉnh chóp của đài quan sát. Trong đỉnh chóp có các cửa sổ để quan trắc các tinh tú. Bên ngoài vách đá của tháp có trang trí hình khắc thần mưa, còn có cả hình khắc phù điêu hình người vươn cánh tay bay vào Vũ trụ. Tất cả cái đó làm các nhà khảo hổ học và khoa học có nhiều suy nghĩ và giả thiết. Cửa sổ đài thiên văn Chichén Itzá của họ không phải hướng về những vì sao sáng nhất mà họ hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên ngoài dải Ngân Hà. Còn lịch pháp của họ thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm sau, nó được dùng để làm gì? Ngoài ra họ tiếp thu từ đâu mà tính ra được năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con số sau dấu phảy? Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngoài nhu cầu thực tế của người Maya đang sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và khiến cho các nhà khảo cổ chưa thể giải thích được. Đã nằm ngoài nhu cầu của họ thì chứng tỏ những kiến thức đó không phải do người Maya sáng tạo ra. Vậy ai đã truyền cho người Maya những kiến thức đó? Trong thời đại mà tất cả mọi dân tộc trên Trái đất đều đang sống trong mông muội, ai đã nắm được những kiến thức tiên tiến như vậy? Hạn hán theo chu kỳ đã tiêu diệt nền văn minh Maya án đảo Yucatan ở Trung Mỹ, quê hương của nền văn minh Maya nổi tiếng, dường như là nạn nhân của các đợt hạn hán lặp lại sau 208 năm, trùng với chu kỳ hoạt động 206 năm của mặt trời. Đây là công bố mới nhất của các nhà nghiên cứu Mỹ. Hạn hán theo chu kỳ vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay Đợt hạn hán tồi tệ nhất dường như đã đóng vai trò quyết định trong sự sụp đổ của nền văn minh này vào khoảng năm 900 sau Công nguyên (CN). Maya nằm trong số những nền văn minh cổ xưa vĩ đại của Trung Mỹ, đạt đỉnh cao vào thế kỷ 9. Người Maya đã tạo ra những thành phố tôn giáo vĩ đại, hệ thống lịch và toán học phức tạp, hệ thống chữ viết tượng hình, các tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ tinh xảo... Đặc biệt, họ đã xây dựng các kim tự tháp bằng đá cao vút ở nhiều nơi, chẳng hạn Tikal ở Guatemala, Palenque ở Mexico và Copan ở Honduras. Dấu vết hạn hán Vào năm 1993, Giáo sư David Hodell và cộng sự tại Đại học Florida, Mỹ, đã thu thập các mẫu trầm tích từ đáy hồ Chichancanab, Mexico, phía bắc bán đảo Yucatan, để thành lập “hồ sơ” biến đổi khí hậu trong vùng. Họ tìm thấy ở đây lượng lớn thạch cao (canxi sun-phát) tập trung tại các tầng ngẫu nhiên. Các nhà nghiên cứu cho rằng, khi lượng mưa giảm đi, nước hồ bốc hơi đã khiến muối lắng đọng xuống đáy, tạo thành các lớp thạch cao mỏng. Như vậy, các tầng thạch cao tìm thấy ở hồ Chichancanab chính là bằng chức xác thực cho các giai đoạn hạn hán trong lịch sử vùng này. Chu kỳ hạn hán khá đặc biệt, lặp lại cứ sau 208 năm. Khoảng thời gian này gần như trùng hợp với biên độ hoạt động của mặt trời đã được biết trước đây: Mặt trời phát năng lượng cực đỉnh sau 206 năm. “Dường như sự thay đổi trong năng lượng toả ra từ mặt trời đã tác động trực tiếp lên khí hậu vùng Yucatan và gây ra những đợt hạn hán tái diễn, lần lượt ảnh hưởng đến sự tiến hoá của người Maya”, GS Hodell cho biết. “Không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên” Các nhà nghiên cứu cũng đã tìm thấy một số thời kỳ hạn hán khác trùng hợp với sự suy giảm hoạt động xây dựng của người Mayan. Đó là năm 475-250 trước CN và 125-210 sau CN. Đợt hạn hán khắc nghiệt nhất diễn ra vào năm 750-850 sau CN, trùng hợp với thời kỳ nền văn minh Maya rơi vào quên lãng. Những bằng chứng cho thấy hạn hán đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền văn minh Maya. Điều này không đồng nghĩa là kết luận, nhưng “khó có thể chỉ là sự trùng hợp thông thường”, Hodell nhận định. Ông cũng cho biết: “Tôi nghĩ hạn hán đã đóng một vai trò quan trọng, nhưng sẽ còn những nhân tố khác, chẳng hạn tăng dân số, suy thoái đất trồng và những thay đổi về chính trị - xã hội, đã phối hợp tác động”. Các nhà nghiên cứu khí hậu khác khi sử dụng phương pháp tính tuổi vòng cây cũng đã tìm thấy bằng chứng của chu kỳ hạn hán lặp lại sau mỗi hai trăm năm, cùng với nhịp điệu biến động của mặt trời. Nguồn:http://vietnamcayda.com./diendan/showthread.php?t=592
  20. So sánh 02 cái hình và cách giải thích này thử xem nhé. Với độ dài không đổi, một năm Mặt trời được chia thành 18 tháng, mỗi tháng 20 ngày (dùng hệ đếm cơ số 20), 5 ngày còn lại được đưa vào cuối năm. Mỗi tháng có một tên gọi dường như không hề có liên quan gì với mùa vụ hoặc lễ hội. Tên gọi các tháng được truyền theo truyền thống hoặc thậm chí có khả năng được mượn từ các thứ tiếng khác hoặc các nền văn hóa khác. Chúng cũng chỉ có ý nghĩa trong lịch sử chứ không giống như tên tháng trong các ngôn ngữ châu Âu hiện nay, có nguồn gốc từ tiếng Latinh mà nguyên nghĩa của nó hiện nay vẫn còn một số người hiểu được. Các ngày trong tháng được ghi bằng số thứ tự từ 0 đến 19 đặt trước tên tháng (Từ 0 đến 4 cho tháng thiếu, cuối năm chỉ có 5 ngày). Như thể, mỗi ngày được định tên chính xác trên trục thời gian. Các năm nối tiếp nhau không ngừng và không có năm nhuận. Cách đếm ngày và đêm Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ. Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày. Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận. Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy. Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm. Chưa kể những chữ số giống như ký hiệu của Âm Dương Ngũ hành, vậy những gì chú Thiên Sứ quả quyết rằng: Tổ tiên Hùng Vương không bao giờ cởi trần đóng khố là đúng roài chứ còn gì nữa. Và nền văn minh Lạc Việt là hậu duệ .Hé hé nguồn: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...c=642&st=20 Đây nữa, khỏi cải lun, quá chính xác roài. Hình 02 người chụp cái đầu vào nhau, y chang hình của lịch Maya. Khà khà Nguôn:http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=642&st=0
  21. Nhìn cái bản đồ lịch sao có nhiều chi tiết giống Trống đồng thế nhỉ ? Xin, ACE cho ý kíên
  22. Đây là đường link của trang web luatgiapham.com, đầy đủ tài liệu về Hải quan, anh tham khảo xem sao: http://www.luatgiapham.com/phap-luat/hanh-...292001qh10.html Theo mình, thị trường đồ cổ Việt Nam báo nháo, lộn xộn, không ổn định. Anh hãy liên hệ ở những cơ quan có chức năng chuyên nghiệp, uy tín nhé.
  23. Trống đồng Đông Sơn thuộc loại quý của quốc gia. Tốt nhất là đừng giao dịch mua bán dù là thật hay giả. Không khéo tiền mất tật mang đấy bạn.