bài: BÍCH UYÊN (chủ nhiệm Phương Đông News, Portland, Oregon)
hình: Phóng Viên Phương Đông News, Portland, Oregon và
Phương Đông Times, Seattle, Washington; Little Sàigòn TV-Radio Portland, Orego
Trong buổi sinh hoạt giới thiệu tác phẩm, tác giả thường xuất hiện vào cuối chương trình. Ban tổ chức đã mở diễn đàn để ký giả Du Miên đón nhận ý kiến, thắc mắc. Ngoài một số câu hỏi được tác giả giải đáp vắn tắt, nhận thấy có nhiều đề tài cần được đào sâu, chúng tôi đã có buổi trò chuyện cùng tác giả vào cuối chương trình, để cống hiến đến các bạn xa gần
Việt Nam: Anh cả của Bách Việt
"Xin tác giả cho biết người Việt mình có liên hệ gì với Việt vương Câu Tiễn không?," người phụ nữ có mái tóc bạc trắng, phải nói là tóc bạch kim, đã hỏi ký giả Du Miên Lê Thanh Hoa trong phần góp ý, nêu thắc mắc cuối chương trình giới thiệu tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông tại Hollywood Senior Center, thành phố Portland, tiểu bang Oregon vào chiều Thứ Bảy 22 tháng 8 năm 2009.
"Trước khi trả lời thẳng câu hỏi của chị, " ký giả Du Miên nhờ các phóng viên chụp chung với người phụ nữ này một tấm hình và tiếp: "hãy lướt qua một số sự kiện lịch sử. Sử có ghi rằng khi làm bá chủ các chư hầu của nhà Chu, Việt vương Câu Tiễn đã cho sứ sang dụ vua ta (Hùng vương) thần phục nhà Chu nhưng Hùng vương không thuận."
Trước khi Câu Tiễn cho sứ dụ vua ta thần phục nhà Chu, vào năm Tân Mão [1.100 trước Tây lịch] sứ Việt Nam sang thăm nhà Chu. Sự kiện này, sử Tàu chép: "Tân Mão, năm thứ sáu đời Thành vương nhà Chu, phía nam đất Giao Chỉ có họ Việt Thường dùng người thông ngôn ba lần mà tới, dâng chim trĩ trắng. Chu công nói: "Ơn đức không đến, quân tử không hưởng lễ của họ. Chính lệnh không tới, quân tử không coi họ là bề tôi."
"Chính lệnh không tới, quân tử không coi họ [tức Việt Nam] là bề tôi" có nghĩa là giữa Việt Nam và Tàu vào lúc ấy [năm 1.100 trước Tây Lịch] hoàn toàn độc lập với nhau nên "chính lệnh" để sai khiến chư hầu của Thiên tử nhà Chu không tới và nhà Chu không coi Việt Nam là chư hầu bề tôi.
Năm 1.100 trước Tây lịch, vua thứ 2 của nhà Chu là Thành vương còn quá nhỏ nên Chu công Cơ Đán nhiếp chính, xử lý thường vụ, thay mặt vua điều hành triều chính. Câu Tiễn trị vì từ năm 496 đến 465 trước Tây lịch. Nhấn mạnh móc thời gian này để thấy nước Việt ta vẫn giữ được sự độc lập cho đến khi nhà Hán cai trị nước Tàu [203 trước Tây lịch đến 220 sau Tây lịch])
Ký giả Du Miên nói tiếp: "Thưa chị và quý anh chị cùng các bạn, trước nay chúng ta đều biết tích Một Mẹ Trăm Con hay sự tích Con Rồng Cháu Tiên và hãnh diện về truyện cổ tích, huyền thoại này. Nay thì lịch sử đã chứng minh sự thật là có nhiều tộc Việt và sử gọi chung là Bách Việt. Cuốn cổ sử Bách Việt Tiên Hiền Chí của sử gia Âu Đại Nhậm viết vào thời nhà Minh (cách nay 500 năm) ghi rõ ràng về các tộc Việt và âm mưu tàn độc của triều Hán, chủ trương lấn chiếm và tiêu diệt các tộc Việt này. Chẳng những ta có liên hệ với các tộc Việt trong Bách Việt mà ta còn là "anh cả" của Bách Việt. Thưa quý vị, Trung tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam chúng tôi có tìm được tài liệu quý để minh chứng vai trò "anh cả" của Việt Nam chúng ta trong Bách Việt. Thời Trăm Việt còn sống an lành trên địa bàn gốc của tổ tiên vùng châu thổ sông Trường Giang/Dương Tử, quốc hiệu của nước ta là Lạc Việt.
Khi tìm hiểu nghĩa chữ "Lạc" trong Lạc Việt, xưa nay có một số giải thích. Ví dụ như có giải thích cho rằng "Lạc" là "chim Lạc" và gọi hình chim khắc trên trống đồng cổ của ta là loài chim này. Nhưng chưa ai biết chim Lạc là chim gì và chưa có sách vở nào đề cập cũng như giải thích về loài "chim lạc" này. Gần đây có người giải thích "Lạc" là "lúa". Chúng tôi tìm trong Thuyết Văn Giải Tự, cuốn tự điển do Hứa Thận soạn vào thời nhà Hán, gần 2.000 năm trước tức gần với cổ sử nhất trong các tự điển. Thuyết Văn Giải Tự giải nghĩa "Lạc" là cái trán. Đây là giải nghĩa lý thú và hợp lý nhất. Cái trán là đầu não, là chỉ huy. Lạc Việt là Việt đầu não, là anh cả. Lạc tướng là tướng chỉ huy... Giải nghĩa này còn giúp để giải mã lý do tại sao trong Bách Việt, ngày nay chỉ còn Việt Nam ta là tồn tại trong khi các em của ta đã bị đồng hóa hay trở thành dân tộc thiểu số chẳng hạn như tộc Choang (Tráng tộc) rất gần với người Nùng, hiện còn trên 16 triệu người tập trung tại Quảng Tây.
Ai Dạy Ai?
Không riêng gì Việt vương Câu Tiễn mới được nhắc tới mà nhân khi tiếp xúc với tác giả, nhiều người còn nêu lên sử tích khác, như chuyện Hậu Hán Thư bịa sự tích Nhậm Diên dạy dân ta cấy cày và lễ nghĩa trong khi Hậu Hán Thư cũng ghi nhận sự thực Nhậm Diên chỉ cai trị nước ta có 4 năm dưới triều Hán. Ngoài yếu tố thời gian ngắn ngũi 4 năm, còn một số yếu tố khác đã được tác giả Du Miên nêu bật lên: gốc gác của Nhậm Diên là người du mục Tây Vực, lấy kinh nghiệm cầy cấy ở đâu mà dạy dân ta, "tổ sư" nghề trồng lúa mà các nghiên cứu giá trị của phương Tây ngày nay đã công nhận? Đem mốc thời gian ra để giải thích, mọi người sẽ thấy sử Tàu xuyên tạc, nay chúng ta phải chỉnh sửa cho đúng sự thật lịch sử:
Năm 1991, Tạp chí National Geographic (Hoa Kỳ) ấn hành tài liệu về sự bành trướng của đế quốc Tàu, ghi rõ: "5.000 năm trước Tây lịch, Việt tộc là giống dân trồng lúa đầu tiên trên thế giới." Năm 2007, hai đại học Luân Đôn và Bắc Kinh cho công bố kết quả khai quật một vựa lúa có niên đại 7.700 năm trước Tây lịch, trên vùng đất của Việt tộc ta xưa nằm trong châu thổ sông Trường Giang/Dương Tử.
Biết trồng lúa, dân Việt phải sống định cư và do đó đã có văn minh tồn trữ rất sớm và sớm nhất trong buổi bình minh văn minh nhân loại. Đó cũng là lý do tại sao chúng tôi đặt tên tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông.
Nhậm Diên làm quan dưới triều Hán và sang làm thái thú cai trị cố đồng hóa dân ta vào năm 29 sau Tây lịch, ai dạy ai?
Còn về chuyện Nhậm Diên, vào năm 29 sau Tây lịch "dạy dân ta lễ nghĩa", sử tàu Hậu Hán Thư còn bịa chuyện trắng trợn hơn.
Sử Ký Tư Mã Thiên ghi: cuối triều đại nhà Thương (khoảng năm 1.150 trước Tây lịch), tổ nhà Chu (là chư hầu của nhà Thương) là Cổ Công Đản Phụ có 3 người con là Thái Bá, Ngu Trọng và Quý Lịch. Cổ Công Đản Phụ chọn Quý Lịch kế ngôi và cho Thái Bá, Ngu Trọng sang du học Việt Nam. Quý Lịch đẻ ra Cơ Xương. Cơ Xương đẻ ra Cơ Phát, Cơ Đán.
Khi Cơ Phát họp 800 bộ tộc du mục đánh Trụ, lập nên triều Chu, lên ngôi lấy hiệu là Chu Vũ Vương thì mới truy phong cho Cơ Xương là Chu Văn Vương.
Từ một chư hầu như bao chư hầu khác của nhà Thương, sau sự kiện Cổ Công Đản Phụ cho 2 con lớn sang học văn hóa của Việt tộc thì tộc Chu trở thành Tây Bá tức bá chủ chư hầu và hùng mạnh hơn để giết vua Trụ, diệt nhà Thương dựng nên triều Chu.
Khổng Tử (551-479 trước Tây lịch) được người Tàu tôn thánh và coi là vị thầy muôn đời, đã thường mơ thấy Chu công. Chu công đây tức là Chu công Cơ Đán, em của Chu Vũ vương Cơ Phát. Khổng Tử dạy học trò và ca ngợi Chu công hết mực.
Sử Tàu ghi: Triều Chu đặt chức quan "hành nhân" chuyên đi khắp thiên hạ ghi các bài ca dao, phong dao đem về nghiên cứu, học tập và áp dụng vào đời sống. Kinh Thi là kết quả của công trình này và Khổng Tử được cho là người gạn lọc và sắp xếp lại Kinh Thi.
Kết quả: thánh Khổng chọn ca dao 13 nước để đưa vào thiên chính của Kinh Thi là Quốc Phong rồi phân chia thành "chính phong" và "biến phong". Ca dao Việt được chọn vào "chính phong" và ca dao 12 nước khác được xếp vào "biến phong".
Mời quý bạn nghe giải thích lý thú ở đây. Không phải là tôi giải thích mà chính học giả lừng lẫy của người Tàu giải thích rành mạch. Nếu ai còn yếu bóng vía, còn sợ bóng ma khổng lồ của người Tàu uy hiếp và chưa lấy làm tin sự thật Khổng Tử lấy văn hóa Việt dạy dân Tàu nên đọc kỹ những điều sau đây:
Á thánh Chu Hy, học giả nổi tiếng chỉ sau Khổng Tử, giải thích: "Theo thuyết xưa, ca dao Nhị Nam (tức Chu Nam và Chiêu Nam của Việt Nam) là thơ chính phong, ứng dụng những thơ ấy vào gia đình, làng xóm và nước nhà mà giáo hóa cả thiên hạ." Chu Hy giải nghĩa thêm: "Thơ chính phong, sở dĩ được gọi là chính, vì đem việc chính để khuyên dạy." Trong khi đó, ông giải nghĩa biến phong: "Thơ biến phong, sở dĩ được gọi là biến, vì nêu việc bất chính ra để răn đời."
Xem thế ta thấy ngay ra rằng nhà Chu đã học hỏi văn hóa Việt và đem văn hóa Việt dạy cho dân Tàu. Rõ nét nhất là dấu tích 25 bài phong dao Việt Nam trong Kinh Thi mà Khổng Tử là người tuyển chọn và dùng phong hóa Việt dạy luân thường đạo lý cho dân Tàu.
Tổ nhà Chu cho con sang Việt Nam du học. Chu công, Khổng Tử lấy văn hóa Việt dạy cho dân Tàu. Chuyện xảy ra trong thời gian khoảng từ năm 1.122 đến năm 256 trước Tây lịch. Sử Ký Tư Mã Thiên, Kinh Thi ghi như thế, đem so với tích Nhậm Diên trong Hậu Hán Thư thì thấy chuyện "dạy dân ta lễ nghĩa" là sai sự thật.
Thực dân văn hóa Tàu thường lấy tích này mà chê dân ta không biết lễ nghĩa. Tôi muốn nói điều này: "Nếu người Tàu hạ bệ được Khổng Tử, phủ nhận được giá trị của Sử Ký Tư Mã Thiên và Kinh Thi thì mới có thể nói người Tàu dạy người Việt lễ nghĩa."
Nếu cho đến Nhậm Diên qua cai trị vào năm 29 sau Tây lịch mà dân ta chưa biết lễ nghĩa thì tại sao thánh Khổng Tử ghi lại ca dao Việt Nam như vầy:
"Có quả mai rụng,
Quả trên cây, mười phần còn bảy.
Bạn học trò muốn cầu hôn cùng ta,
Hãy đợi ngày tốt.
Có quả mai rụng,
Trên cây mười phần còn ba.
Bạn học trò muốn cầu hôn với ta,
Hãy lo cưới xin ngay ngày hôm nay.
Có quả mai rụng,
Nghiêng giỏ mà lượm.
Bạn học trò nào muốn cầu hôn với ta,
Còn đợi gì nữa, hãy kịp ngõ lời cùng ta...
Trên đây là lời thơ trong bài "Phiến Hữu Mai" dịch nghĩa là "Có Quả Mai Rụng", bài thơ thứ 9 trong Chiêu Nam của Kinh Thi.
Nguồn; Thư viện bảo tàng Việt Nam.
www.vnlibraryonline.com