daretolead

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    240
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by daretolead

  1. Đã là người Việt Nam thì dòng máu dân tộc cực mạnh, nên lịch sử Việt Nam những Trần Bình Trọng thì nhiều mà bọn như ích Tắc, Chiêu Thống thì ít.Nếu giỏi thì đã trở thành lãnh đạo,không giỏi thì làm dân.Đã rốt thì phải nge người giỏi chỉ huy.Khi Lãnh đạo ra lệnh đánh thì dân việt Nam có bơi thuyền thúng vác ngư lôi đánh tầu chiến cũng không ngán. Với những bài viết đại loại như kiểu của mnn thì yêu nước ở đâu?phản quốc thì có vì hủy hoại niềm tin của nhân dân với hạt nhân lãnh đạo đã từng dẫn dắt dân tộc vượt qua bao gian lao khó khăn,gieo rắc nghi ngờ về sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân Việt nam,súc phạm danh dự các thế hệ người lính các lực lượng vũ trang Việt Nam luôn vì tổ quốc vì nhân dân sẵn sàng quyên mình. Bài Viết của mnn có thể coi là dạng thuộc đạo quân thứ năm của Trung Quốc có nhiệm vụ đánh cho Việt Nam Tan rã từ trong.Mnn hãy đọc lại gương của ích tắc. Mấy ông/bà rận chủ như bạn mnn này cũng mò cả vào diễn đàn lý học đông phương của Việt Nam để pha trò nữa đấy bác Liêm Trinh ạ. Xin lỗi chứ mấy cái giọng điệu như của bạn mnn thì dare đây nghe chán trên các diễn đàn khác rồi. Ban quản trị diễn đàn nên lưu ý những thành viên kiểu này vì luận điệu kiểu bla bla bla nhưng kết cục sẽ vẫn lại là "đánh đổ chính quyền...Việt Nam". Bác rân chủ mnn nói gì thì nói nhưng nhớ rằng "không có gì quý hơn độc lập tự do" nhé.
  2. Rubi trao đổi mà cứ như đánh trận nhỉ. Này thì phát biểu của Rubi: Này thì câu hỏi của Dare: Dare hỏi thêm để biết thế nào là Phật học và xem Rubi chơi chữ thế nào chứ đã có kết luận về sơ hở của Rubi gì đâu mà Rubi nhét chữ của mình vào mồm Dare này: Rồi thì một mớ lý luận từ trên trời rơi xuống của Rubi: Nói thật là Dare cũng đôi lần nghe lý luận "Phật học là Phật học" nhưng nó không "tự nhiên muốn té ghế" như của Rubi thế này... nên dare mới thất vọng tràn trề mà cho Rubi vào "danh sách đen" của mình. Mong Rubi thông cảm. Dare đâu có "miệt thị" thì Rubi. Thế Dare xin lỗi Rubi về sự hiểu nhầm này nhé và mong kết thúc vấn đề Phật học ở đây. Thực tình mong rằng kết quả tranh luận là sự hiểu biết lẫn nhau chứ không phải sự miệt thị. Để Dare đọc phần lý luận về tính Không của chú Thiên Sứ rồi Rubi vào trao đổi cho khỏi bị Dare nói là đi lan man ra ngoài nội dung của Dare.
  3. Qua 2 bài trả lời trên của Rubi thì Dare xin lỗi là phải cho Rubi vào "ignored list". Xin đừng đem kiến thức Phật học của Rubi ra mà làm xấu hổ những người quan tâm đến Phật học, Phật giáo, triết Phật nữa. Chờ mãi không thấy chú Thiên Sứ vào nên mới tranh luận với Rubi nhưng chịu hết nổi rồi... Ic, dare tự cho điểm mình ở mức 4 - cảm tính vậy!
  4. Vận động hành lang ở Mỹ được luật pháp quy định thì phải. Nói chung là phải minh bạch và rõ ràng. Câu hỏi là việc vận động hành lang này có dẫn đến một kết quả không công bằng không. Công bằng ở Mỹ là công bằng (fair) thế nào? Dare có xem 1 chương trình thời sự trên VTV thì thấy học giả ở Mỹ nói người Mỹ quan niệm công bằng theo kiểu cứ cho 2 bên đẩy nhau, đẩy đến khi nào dừng tại 1 điểm thì điểm đó là công bằng. Như vậy, Việt Nam làm ăn với Mỹ cũng phải biết lobby, lobby không phải là đưa hối lộ mà Lobby là làm sao để chứng minh được việc này, dự án này, đạo luật này, thông tin này,... sẽ đem lại lợi ích cho các bên tham gia (thường là mấy ông/bà dân biểu đại diện cho dân ở các vùng). Một ví dụ cụ thể: Mỹ ra đạo luật bất lợi cho việc xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam. Dân Việt Nam mình xem việc này là không công bằng (kiểu mình được thiên nhiên ưu đãi, phí nhân công rẻ, v.v....). Nhưng ở Mỹ thì người ta chỉ biết sau một thời gian thảo luận, tranh cãi, lobby thì cuối cùng ra đạo luật này và đạo luật này không nói lên rằng chính phủ Mỹ bất công với người dân Việt Nam. Chỉ có 1 ông dân biểu đại diện cho dân ở 1 bang có nhiều nông dân nuôi cá muốn có đạo luật này. 99 ông dân biểu còn lại không thấy mình bị ảnh hưởng bởi việc có đạo luật này hay không nên xu thế là sẽ ủng hộ (để sau này sẽ được ủng hộ nếu mình muốn ra đạo luật khác). Lobby ở đây là làm sao cho mấy ông này không ủng hộ đạo luật, việc này làm qua quen biết, qua việc đem lại lợi ích khác mà họ quan tâm, v.v...
  5. Cám ơn chú vuivui đã chia sẻ. Như đã thấy, trong diễn đàn có nhiều bài báo gán gép, sử dụng các phát biểu của các nhà khoa học như Einstein để hỗ trợ cho tôn giáo của mình. Einstein phát biểu: "chúa không chơi chò xúc xắc" thế là có chỗ để thảo luận về thượng đế tôn giáo. Einstein viết về "Tôn giáo và khoa học" và thế là trên các diễn đàn Phật giáo trích dẫn Einstein, kết luận rằng Einstein là người thuộc về tôn giáo, v.v... Thưa các bạn, trước khi sử dụng các nguồn trích dẫn này thì vui lòng tự đọc thêm nhiều nguồn, tự thẩm định, so sánh, đối chiếu với một tâm thế của người làm khoa học tức trong sáng, vô tư, tôn trọng sự thật khách quan. Hãy đọc tác phẩm "tôn giáo và khoa học" bản gốc do chính Einstein viết, hãy xem ông quan niệm thế nào là tôn giáo (chân chính) và thế nào là khoa học, và mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học. Hãy xem lại các tài liệu lịch sử để xem phát biểu cho rằng Einstein là người có công giúp Mỹ chế tạo bom nguyên tử ra sao (có đúng sự thật không? có khách quan không? có tính chính trị không?,...). Tóm lại, Dare không muốn topic này đi lan man xa hơn khi chuyển sang bàn về triết Phật và Einstein. Nếu Rubi hay hoangnt muốn thì cứ lập một topic để bàn riêng. Riêng về Rubi, Dare đã nhiều lần trao đổi với Rubi về văn hóa tranh luận, đã trích dẫn các tiêu chuẩn để tham khảo. và vẫn tiếp tục chịu khó trao đổi với Rubi. Dare đang trao đổi về các bài viết trong topic "định mệnh có thật hay không" của chú Thiên Sứ, đang phân tích, đánh giá cách hiểu đối với các khái niệm, thuật ngữ, tiên đề, suy luận được sử dụng trong chính các bài viết đó. Và cũng đã nói rõ phần nào là tranh luận chủ đạo, phần nào là lan man ra ngoài một chút. Còn Rubi thì hết lần này đến lần khác mang các khái niệm, định nghĩa trong Phật học của mình vào để thuyết giảng. Phần thảo luận chính của Dare thì không chịu tham gia, khiến loãng topic (và ngày càng chứng tỏ nhận định của chú vuivui là chính xác). Tham gia một chút với Rubi cho vui vậy: Rubi cho rằng Phật học không phải là Phật giáo, không phải là triết học, không phải là khoa học thì nó là cái gì?
  6. Rubi không nên thay đổi thuật ngữ trong khi mạn đàm nhé. Dare nói: Rubi trích lại ý của Dare nhưng lại thay "tính bất định" bằng "không tính" Rồi đem Phật giáo vào và bắt đầu thuyết pháp về "KHÔNG TÍNH" và "Y THA KHỞI TÍNH" trong Phật giáo. Dare nói Rubi lan man là vậy. Dare không muốn tranh luận về Phật giáo với Rubi. Rubi muốn tìm ra chân lý bằng cách dựa vào tôn giáo chăng? Hay Rubi cho rằng mọi phát biểu trong kinh kệ Phật giáo đều là đúng tuyệt đối?! Lại vui lòng xem lại các bài trước mà dare đã post nhé.
  7. ic, ngôn từ quá cao siêu, mờ mờ ảo ảo khiến dare này hoa hết cả mắt. Dare không phải là người chuyên sâu về Phật giáo nên Rubi cố gắng dùng từ "bình dân" dễ hiểu. Cũng cố gắng bám vào nội dung topic "định mệnh có thật hay không" của chú Thiên Sứ để thảo luận. Đừng để topic đi lung tung lạc đề. Dare muốn nói chú Thiên Sứ đang nhầm lẫn giữa "vận động" và "bất định". Sau khi thống nhất điều này rồi thì ta hãy bàn về kết luận "thực tại là bất định". Đồng ý?
  8. Xin phép chú Thiên Sứ cho dare nhảy cóc mạn đàm bài viết mới nhất của chú trong topic "Định mệnh có thật hay không" (http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/2490-dinh-menh-co-that-hay-khong/page__pid__131140__st__240#entry131140 ). Dare chưa thống nhất với rất nhiều ý trong bài viết nhưng chỉ xin trích một vài đoạn: Dare thấy chú Thiên Sứ có sự nhầm lẫn giữa "vận động" và "bất định". Vất chất luôn vận động, vận động là một thuộc tính của vật chất. Nhưng từ đây để kết luận ngay rằng thực tại là bất định thì rõ ràng là quá vội vàng. Vật chất vận động và con người đã, đang và sẽ tìm ra các quy luật vận động của vật chất. Đó là nhiệm vụ của rất nhiều ngành khoa học và triết học. Với các quy luật đã biết thì ta hoàn toàn có thể tiên đoán chính xác quỹ đạo của một vệ tinh, phản ứng hóa học của 2 hóa chất thì sao lại nói là bất định? Con người qua quan sát thực tại sẽ rút ra các quy luật và ta phải thừa nhận rằng quy luật mà con người phát hiện ra không phải đồng nhất 100% với thực tại. Qua thời gian, các quy luật do con người phát hiện ra sẽ ngày càng được cải tiến, chỉnh sửa, làm mới sao cho ngày càng miêu tả đúng thực tại vận động của vật chất. Theo dare thì chỉ có thể nói: thực tại là thực tại . Tức nó gồm các mặt bất định và tất định. Chú Thiên Sứ có một nhận xét là tính tất định có tính tương đối và liên quan đến thời gian và cấu trúc vật chất. Điều này có vẻ đúng NHƯNG theo dare là không phản ánh bản chất, theo dare điều này phụ thuộc vào trình độ khoa học. Ở trình độ thấp, con người quan sát hiện tượng sự vật chỉ với một mặt nào đó. Khi phát triển, ta quan sát sự vật hiện tượng một cách đầy đủ, thấu đáo hơn. Ý này giống với ý mà chú Thiên Sứ nêu: Đến đây thì ta lại thấy cần thận trọng để không bị nhầm lẫn giữa tính bất định và tính nhân quả. Tính không thể tiên đoán được, tức phi định mệnh, không loại trừ tính nhân quả. Nếu kết luận một cách rốt ráo rằng bản thể thực tại là bất định thì có lẽ chú Thiên Sứ đang đi gần đến thuyết Bất Khả Tri chăng? Chờ các bài viết tiếp theo của chú để làm rõ thêm.
  9. Chắc bác Vô Trước hiểu nhầm. Dare đang nói đến người viết bài báo trên chứ đâu nói về khả năng dự báo đáng tin cậy của lý học đông phương. Mà trong bài báo này cũng không nhắc đến khả năng dự báo của lý học đông phương. Báo đăng thông tin ngoài lề, lập lờ trong dẫn giải, giật tít để kích thích tính hiếu kỳ của người đọc. Bác lấy trường hợp này ra để thảo luận về độ tin cậy đáng kinh ngạc của lý học đông phương thì chẳng phải khập khiễng lắm sao?
  10. Mấy ông nhà báo cố nghĩ ra đề tài để viết bài kiếm tiền. Sự cẩu thả trong quản lý, sự vô trách nhiệm của những người điều hành hoạt động kinh doanh của con tàu, việc đặt lợi nhuận lên trên sự an toàn của khách hàng tất yếu sẽ dẫn đến tai nạn. Thay vì đi tìm nguyên nhân ở lời phán của ông thầy bói thì nên đi tìm nguyên nhân ở thực tại từ đó mới có cách phòng tránh và cải thiện sự an toàn trong hoạt động kinh doanh kiểu này.
  11. Trước đây dare có đưa ra nhận xét về phát biểu của ông Hawking như trong trích dẫn trên. Dare thấy nhận định của mình là hơi vội vàng nên tìm đọc tóm tắt của quyển "Lược sử thời gian". Xin trích dẫn lại đầy đủ ý của Hawking như sau: Các thành viên có thể tìm đọc bản tóm tắt "Lược sử thời gian" tại: http://www.quangduc....02luocsutg.html Dare cũng chỉ có thể nói rằng đoạn trích dẫn trên nêu lên sự băn khoăn của Hawking về việc liệu có một lý thuyết thống nhất hay không. Ông không kết luận rằng chắc chắn sẽ có một lý thuyết thống nhất. Hãy lưu ý về " nghịch lý rất cơ bản". Hawking đã rất tinh tế khi chuyển từ "thế giới quan" và "vũ trụ quan" sang "nhân sinh quan". Nét đep của khoa học không phải là việc liệu nó có tìm ra lý thuyết thống nhất hay không mà đó là "khát vọng tri thức, khát vọng sâu xa nhất của loài người". Lan man thêm một chút. Dare đồng ý với ý kiến cho rằng "triết học Phật giáo" thuộc về phân loại "bất khả tri", do đó dare không đồng tình với việc vận dụng các phân tích Phật giáo trong việc nghiên cứu khoa học. Chỉ có thể tìm sự "tương đồng" giữa khoa học hiện đại và phật giáo. Không biết chú vuivui và Thiên Sứ có ý kiến gì về việc này hay không?
  12. Dare cám ơn chú vuivui đã cho nhận xét. Cũng nhờ tham gia diễn đàn mà dare thấy bản thân mình phải tìm hiểu nhiều hơn và thấy được nhiều điều hơn. Dare rất thông cảm với những tâm huyết của Rubi nhưng cũng mong Rubi thấy rõ rằng phương pháp luận là rất quan trọng. Qua những điều Rubi viết ở trên thì dare nghĩ ta không cần tranh luận thêm về các vấn đề Rubi đã nêu nữa. Chỉ chia sẻ một điều: cố gắng đọc lại thật kỹ 2 bài viết trích dẫn về các LLSL và PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY TIẾN ĐẾN CHÂN LÝ mà dare đã post. Hy vọng Rubi đạt được những thành quả mới trên con đường nghiên cứu lý học sau này. Dare muốn qua tranh luận để mọi người cùng rút kinh nghiệm, làm cho các nghiên cứu của mình ngày càng chặt chẽ hơn.
  13. Đây là bài cuối Dare đối thoại với Rubi về vấn đề "văn hóa tranh luận". Để thống nhất cách hiểu về một vấn đề thì người ta phải đối thoại, phải tìm hiểu xem người kia đang nói gì, tại sao anh ta nói như vậy, tiền đề, lập luận, kết luận của anh ta có thỏa đáng, chính xác, hợp lý hay không. Và để làm được điều này thì phải có tiêu chuẩn (là những tiêu chuẩn mà dare đã nêu). Rubi đừng lập lờ trong tranh luận nhé. Để xác định một lập luận sai thì hãy dựa trên tiền đề, lập luận, kết luận mà đánh giá. Nó đúng thì phải kết luận rằng nó đúng. Nó sai thì phải nói rằng nó sai. Nó còn chưa thống nhất thì nói nó chưa thống nhất. Nó còn thiếu sót thì ta sẽ bổ sung. Rubi có điểm nào cần tranh luận trong "định mệnh có thật hay không" thì cứ trình bày rõ ràng, mạch lạc. Thời đại này đâu phải mấy ngàn năm về trước, lấy tòa án dị giáo ra xử Rubi đâu mà sợ, rồi lại đi lập lờ giữa ánh sáng và bóng tối, giữa trước và sau. Dare nói, nó là sai/đúng và đưa ra lập luận chứng minh, Rubi nói nó là đúng/sai và đưa ra lập luận chứng minh, cứ thế mà đối thoại, bổ sung cho nhau sau cho cuối cùng - nếu nó đúng - thì sẽ đạt đến độ "gắn kết chặt chẽ", và giới hạn của cái chân lý đang bàn tới giờ đây chỉ phụ thuộc vào tri thức của Dare, của Rubi, của tác giả, của khoa học hiện tại... Và dĩ nhiên ta phải chấp nhận điều này. Còn giang hồ học thuật quân tử và tiểu nhân thì có liên quan gì đến chân lý khoa học? Rubi lại chỉ giỏi môn LLSL thôi. Dare cho Rubi mức 4 - cảm tính (xúc cảm).
  14. Dare đồng ý với Rubi về mong muốn xây dựng một văn hóa tranh luận và dare nghĩ mình đang làm đúng những điều cần làm trong tranh luận ở topic này. Văn hóa tranh luận là kết quả của một quá trình, phụ thuộc trực tiếp vào nền tảng văn hóa của người tham gia tranh luận và gián tiếp từ các giá trị văn hóa của xã hội. Những bài viết về lý luận sai lầm ( LLSL) hay CÁCH TƯ DUY TIẾN TỚI CHÂN LÝ mà dare đã trích dẫn đều là kết quả đúc kết và suy tư từ thực tế đấy Rubi ạ; và giờ đây, ngay trong topic này dare (và hy vọng là các thành viên khác) đang áp dụng lý thuyết này ngược trở lại thực tế (tức cuộc mạn đàm cụ thể này). Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa thực tế và lý luận. Dare rất tôn trọng người đối thoại và cố gắng tránh các lỗi LLSL đã liệt kê ở trên. Hy vọng người đối thoại với Dare cũng làm như vậy. Rubi hãy chỉ ra dare cần phải cân nhắc lời nói khi phản biện trong topic này như thế nào qua những phản biện mà dare đã viết từ đầu đến giờ. Nếu góp ý đúng, Dare sẽ tiếp thu. Nếu không hợp lý thì chính Rubi phải tiếp thu và rút kinh nghiệm. Tiêu chuẩn nào để biết là hợp lý hay không thì dare sử dụng các tiêu chuẩn đã trích dẫn. Nếu Rubi có tiêu chuẩn nào khác thì vui lòng đưa ra. Và Rubi nên bám theo chủ đề "định mệnh có thật hay không" để trao đổi. Đồng ý?
  15. Xin vui lòng đọc kỹ lại các lỗi LLSL. Dare thấy Rubi rất giỏi trong việc này: Vui lòng quay về đúng chủ đề topic "mạn đàm về "định mệnh có thật hay không"" mà dare đã lập ra nhé.
  16. Cám ơn Thế Trung đã chia sẻ. Dare chỉ có thể xếp những lý luận của Thế Trung vào cửa số 6 - linh cảm. Thế Trung lưu ý rằng:
  17. Dare xin được tiếp tục. Đầu tiên dare sẽ tiến hành đánh giá xem các lý luận trong bài viết "Định mệnh có thật hay không" - và chỉ giới hạn ở phần đề cập đến phạm trù ý thức và vật chất - đang ở mức bao nhiêu trong thang đo tiêu chuẩn mà Dare đã nêu ở bài viết trước. Xin tham khảo lại nội dung các phần liên quan: Định mệnh có thật hay không? - Phần 8 Định mệnh có thật hay không? - Phần 9 Định mệnh có thật hay không? - Phần 10 Dare không biết các bài viết này có phải là phiên bản chính thức của tiểu luận của chú Thiên Sứ hay không? Nếu đúng là phiên bản chính thức thì dare xin đưa ra nhận xét:Dare cho rằng các lý luận trong phần 8 chủ yếu sẽ được xếp vào cửa số 4 - cảm tính (xúc cảm). Các lý luận trong phần 9 được dare xếp vào cửa số 6 - linh cảm. Một số suy luận ở cửa số 3 - thời gian. Các lý luận trong phần 10 đã tương đối phức tạp hơn, nhưng cũng chỉ đạt đến (nếu cho điểm một cách cởi mở) cửa số 15 - nhất quán cục bộ. Dare sẽ bàn về các LLSL sau khi đi vào chi tiết.
  18. Dare bận một số việc nên thời gian qua không tiếp tục mục mạn đàm được. Hôm nay rảnh rỗi nên xin tiếp tục. Ở phần trên dare đã post phần tóm gọn của bài viết "LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN", nay trước khi tiếp tục thảo luận, Dare xin post thêm một bài viết khá hay là "CHÂN LÝ - CÁCH TƯ DUY TIẾN ĐẾN CHÂN LÝ" để mọi người tham khảo thêm. Bài viết đầy đủ có thể tham khảo thêm tại http://ttvnol.com/hocthuat/1200796 => Như vậy các bài sau Dare chỉ đơn giản xếp loại các LLSL (theo ý kiến riêng của Dare dựa trên các tiêu chuẩn đã post), nếu mọi người thắc mắc thì sẽ bàn sâu hơn vào từng việc cụ thể. CÁC TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH CHÂN LÝ WILLIAM S. SAHAHAN & MABEL. SAHAKAN (Thanh Chân dịch) Tri thức luận (Epistemology) là nhánh triết học khảo cứu phạm vi là giới hạn của tri thức. Nó tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề cơ bản như: Bản chất của tri thức là gì? khả năng và mức độ tiếp thu kiến thức của con người? Đâu là giới hạn của tri thức, về mặt lý thuyết cũng như về mặt thực tiễn ? (Thuật ngữ "epistemology" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu tri thức. ) Luận lý học (Logic) có thể được xem là một bộ phận của tri thức luận. Công việc chủ yếu của nó là khảo sát bản chất của lối tư duy chính xác và lý luận hiệu quả, bao gồm các phương pháp tư duy hợp lý. Tìm hiểu toàn bộ phạm vi của bộ môn tri thức luận và luận lý học đòi hỏi công phu nghiên cứu và cả một đời học hỏi. Tuy nhiên, bạn đọc sẽ tìm thấy trong phần này những đoạn tóm lược rất hữu ích về các vấn đề trọng tâm và hàng loạt giải pháp dành cho các vấn đề ấy. Quá trình thảo luận ở phần này bao gồm: 1. Các tiêu chuẩn (criteria) được sử dụng để phân biệt lẽ đúng sai. 2. Phân tích những lỗi nguỵ biện chủ yếu trong tiến trình lập luận (the fallacies of reasoning). 3. Gút mắc trọng tâm về bản chất của chân lý (nature of truth), bao gồm cả vấn đề liệu rằng chân lý có nằm trong tầm nắm bắt của con người hay không. Sau đây, xin mời các bạn bước vào phần thảo luận: Các tiêu chuẩn xác định chân lý Một trong những lãnh vực quan trọng mà luận lý học quan tâm đến là xác định các khả năng kiểm chứng chân lý, các tiêu chuẩn phân biệt lẽ đúng sai. Tiêu chuẩn xác định chân lý là thước đo chuẩn mực được dùng để đánh giá sự chân xác của các ý tưởng và nhận định. Vì lẽ đó, nó cũng được xem là một công cụ kiểm chứng sự thật. Để có được một cái nhìn rõ ràng và đúng đắn về bất kỳ bộ môn triết học nào, chúng ta phải thấu triệt các tiêu chuẩn chân lý của nó. Đó là điều kiện quan trọng đặc biệt, bởi lẽ các hệ thống triết lý khác nhau thường đưa ra những ý tưởng bất đồng với nhau. Bản thân các quy tắc luận lý không thể vạch ra các sự kiện về giới nhân sinh hay giới tự nhiên. Để khám phá những sự kiện ấy, hay để đánh giá mức độ đáng tin cậy của một lập luận nào đó, mỗi cá nhân phải dựa vào các tiêu chuẩn xác định chân lý để tự mình phân định đúng sai. Không phải tất cả những gì được gọi là "tiêu chuẩn chân lý" đều có giá trị và hiệu lực như nhau. Một số thì thoả đáng, số khác thì đáng được nghi vấn. Các tiêu chuẩn đề cập bên dưới đây, không phải được chọn theo cơ sở giá trị và hiệu lực, đúng hơn là theo quan niệm đại chúng. Tuy nhiên, theo cách đánh giá của giới học giả, chúng được xem là thông dụng và gần gũi nhất. 1. Tập quán (Custom) Cân nhắc một cách nghiêm chỉnh, tập quán khó lòng được xem là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng. Rõ ràng, trong quá trình thu thập chứng cứ thực tế hoặc khảo cứu một nguyên lý nào đó, các khoa học gia không bao giờ nhìn nhận các tập quán, của đa số cũng như thiểu số, như là một phương tiện kiểm chứng sự thật. Nói cho cùng, một cuộc thăm dò dư luận công chúng không thể nào là phương cách thoả đáng nhất để nhận định các chân lý khoa học. 2. Truyền thống (Tradition) Tương tự như tập quán, truyền thống cũng được xem là một tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý. Những người chấp nhận tiêu chuẩn này quan niệm rằng: những gì đã tồn tại suốt nhiều thế hệ phải có giá trị và hiệu quả nhất định, xứng đáng được xem là một chuẩn mực đáng tin cậy. Những lập luận phản bác tiêu chuẩn tập quán cũng có thể được sử dụng để chống lại tiêu chuẩn truyền thống. 3. Thời gian (Time) Cơ sở của dạng lập luận như thế căn cứ theo tiền đề cho rằng:Nếu như một niềm tin thực sự sai lầm, chẳng sớm thì muộn, sai lầm ấy sẽ hiển lộ ra. Nếu như niềm tin ấy thực sự đúng đắn, dòng chảy của thời gian không thể nào xói mòn được chân giá trị của nó. Tuy vậy, thời gian không phải là một tiêu chuẩn hoàn hảo để kiểm chứng chân lý. Nó có mối quan hệ hết sức gần gũi với tập quán và truyền thống ?" nói đúng hơn, hai yếu tố ấy chính là hai trong nhiều khía cạnh của thời gian. 4. Cảm tính (hay Xúc Cảm) Khi đối mặt với tình huống bắt buộc phải đưa ra một quyết định dứt khoát, nhiều người đã cho phép cảm xúc làm chủ bản thân, không cố gắng tìm kiếm và đánh giá các sự kiện có liên quan, thậm chí đi ngược lại con đường mà chứng cớ thực tế vạch ra cho họ. Rõ ràng, những người như thế chấp nhận cảm tính như là tiêu chuẩn chân lý. Rất nhiều người trong số họ dựa vào cảm giác chủ quan để ứng xử trong các tình huống khác nhau, từ những gút mắc nảy sinh trong cuộc sống đời thường đến các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả một cộng đồng. Tuy nhiên, ngày nay hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng họ không thể đặt nặng tình cảm khi giải quyết các vấn đề quan trọng trong cuộc sống. Các doanh nhân có kinh nghiệm thường gạt bỏ xúc cảm cá nhân, tìm kiếm các sự kiện và dữ liệu khách quan trước khi tiến hành một dự án đầu tư. Tương tự, các khoa học gia, y sĩ, sử gia và học giả thuộc mọi lĩnh vực cũng học cách "phớt lờ" các phản ứng xuất phát từ cảm tính chủ quan như thế. 5. Bản năng (Instinct) Bản năng không thể được nhìn nhận như là một yếu tố kiểm chứng đáng tin cậy. Đa số các bản năng có tính mơ hồ, khó xác định, nhiều mức độ biến thể và chỉ giới hạn trong một số hình thái hoạt động cụ thể. Ngay cả khi chúng ta chập nhận hiệu quả kiểm chứng của bản nănh, tầm ứng dụng của chúng cũng quá hạn hẹp, không thể giúp chúng ta thu nhập được nhiều bằng chứng đáng tin cậy. Nói cho cùng, liệu rằng bản năng có thể giúp được điều gì cho một nhà khoa học đang tìm hiểu thành phần cấu tạo của các chất hoá học? 6. Linh cảm (Hunch) Linh cảm là một cảm giác đột phát, có lẽ được dựa trên một ý niệm mơ hồ, bất định. Thật khó lòng xem xét nó như là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng, tuy rằng nhiều người thường cho phép linh cảm ảnh hưởng đến quyết định của mình. Các linh cảm có mối quan hệ khăng khít với cảm tính và trực giác, tiêu chuẩn được bàn đến bên dưới đây. 7. Trực giác (Intuition) Trực giác không phải là một phương diện sẵn có để sử dụng khi cần thiết. Khác với phương pháp suy lý, trực giác không thể được vận dụng một cách chủ động trong những trường hợp cụ thể. Với giá trị hoàn hảo nhất, trực giác cũng chỉ là nguồn chân lý tiềm tàng, không phải là một yếu tố kiểm chứng. Khi trực giác lên tiếng, chúng ta nên lập tức tìm cách kiểm tra mức độ xác thực của nó 8. Thiên khải (Revelation) Các ý kiến phản bác tiêu chuẩn trực giác kể trên cũng có thể áp dụng cho tiêu chuẩn thiên khải. Khi ai đó tuyên bố rằng mình đã đón nhận kinh nghiệm thiên khải, chính người ấy chịu trách nhiệm tìm cách chứng minh kinh nghiệm đó và vì thế, cần đến một tiêu chuẩn kiểm chứng khác. Người ta có thể chấp nhận thiên khải như một nguồn chân lý, nhưng không thể sử dụng kinh nghiệm cá nhân ấy như một phương tiện truyền đạt giá trị của niềm tin nơi mình. 9. Luật đa số (Majority rule) Mặc dù đa số đầu phiếu là một biện pháp dân chủ và khá hiệu quả, nó không thể được xem là một phương pháp thoả đáng nhất để xác minh chân lý. Liệu điều gì sẽ xảy ra nếu một khoa học gia dựa vào luật phổ thông đầu phiếu để rút ra kết luận cho các công trình nghiên cứu của mình? Hoặc giả, một nhà thiên văn tuân thủ "nghị quyết" của công chúng về vấn đề nên ghi nhận hay loại bỏ một ngôi sao nào đó ra khỏi bản đồ thiên hà? 10. Tri thức nhân loại (Concensus Gentium) Có một số người tin rằng những ý kiến thuộc về tri thức chung của nhân loại bao hàm một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng. Tri thức nhân loại, những tư tưởng và nhận thức chung của loài người, được xem là có giá trị hơn hẳn nghị quyết đa số. Theo tiêu chuẩn này, sự kiện cả nhân loại có chung một niềm tin đủ chứng minh rằng niềm tin ấy tất đúng. Mặc dù tri thức của nhân loại đã được xây dựng trên nền tảng khá vững chãi, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học; tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi nó chỉ là sự nhất trí chung đơn thuần, giá trị của nó cần được đặt thành nghi vấn. Nói cho cùng, sự nhất trí chung không chứng minh được chân lý. Thực tế, đã có một thời hầu như toàn bộ nhân loại đều tin rằng trái đất phẳng và mặt trời xoay quanh nó. 11. Chủ nghĩa duy thực thuần phác Tiêu chuẩn duy thực thuần phác không phải là yếu tố kiểm chứng chân lý thoả đáng. Thực tế, các chân lý khoa học thường nằm ngoài phạm vi cảm nhận của các giác quan. Sóng ánh sáng, tia X, các phản ứng hóa học, v.v?, cũng như một số hiện tượng tự nhiên khác, vốn không cảm nhận được bằng giác quan, mặc dù chúng được kiểm chứng qua các cuộc thử nghiệm. 12. Sự tương hợp Tiêu chuẩn này cho rằng một ý tưởng tương thích với đối tượng của nó thì tất đúng. Qua đó, ?oNhà Trắng toạ lạc tại thủ đô Washington, D.C của Hoa Kỳ? là lời nhận định đúng nếu đối tượng được nói đến (Nhà Trắng) có vị trí thực tế phù hợp với ý kiến mà nhận định ấy nêu ra. Có vẻ như sự tương hợp (correspondence) là tiêu chuẩn thoả đáng nhất so với các tiêu chuẩn liệt kê ở trên ?" nhiều triết gia nhìn nhận nó là yếu tố kiểm chứng chân lý hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến phản bác. Đành rằng một ý tưởng tương thích với đối tượng của nó là chân xác, nhưng làm thế nào có thể xác định được một ý tưởng thực sự tương thích với đối tượng bởi thực tại, chúng ta vẫn cần phải đến một yếu tố kiểm chứng khác, yếu tố ấy phải có khả năng phát hiện ra mức độ chính xác của sự tương hợp ấy ở những tình huống cụ thể. 13. Thẩm quyền (Authority) Mặc dù yếu tố thẩm quyền thường được công nhận là tiêu chuẩn kiểm chứng có giá trị và hiệu lực sử dụng khá rộng (thí dụ chân lý tối hậu). Trong nhiều trường hợp, các nguồn thông tin có thẩm quyền và đáng tin cậy đưa ra nhiều chứng cứ cũng như nhận định mâu thuẫn với nhau. 14. Tiêu chuẩn thực dụng (The Pragmatic Criterion of Truth) Mặc dù chủ nghĩa thực dụng đưa ra được một tiêu chuẩn chân lý có giá trị nhất, tiêu chuẩn này cũng cần được xem xét và vận dụng với thái độ dè dặt đúng mức. Không phải mọi ý tưởng có vẻ hiệu dụng bề ngoài đều đúng cả. 15. Nhất quán cục bộ (Loose Consistency) Chính xác, nhưng không nhất thiết phải có liên quan với nhau, những nhận định được gọi là nhất quán cục bộ nếu chúng không mâu thuẫn với nhau. (Tương tự, một người có tính nhất quán thì không tự mâu thuẫn với chính mình). Theo lý lẽ trên, những nhận định dưới đây được xem là nhất quán cục bộ, bởi vì chúng không đối kháng nhau: - ?oTuyết trắng.? - ?oChì là kim loại nặng.? - ?oHôm qua, nhiệt độ hạ xuống mức 200C.? - ?oGeorge Washington* là vị tổng thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.? Sự bất xứng của tiêu chuẩn nhất quán cục bộ được thể hiện qua thí dụ trên. Những lời nhận định như thế không thể không liên quan gì với nhau, thiếu mạch lạc và không cấu thành một tổng thể. Xét cho cùng, giá trị của chứng cứ phải thể hiện ở các mối quan hệ có khả năng nối kết các dữ kiện riêng lẻ thành một khối thống nhất. 16. Nhất quán tổng thể (hay Nhất quán nghiêm ngặt ?" Rigorous Consistency) Tiêu chuẩn này phản ánh mối liên kết giữa các nhận định, trong đó những dữ kiện được đưa ra kết thành một chuỗi mắt xích gắn bó mật thiết với nhau. Phương pháp luận toán học và cơ sở luận lý học thể hiện rõ tiêu chuẩn này. Thí dụ: Nếu mọi thành viên trong ban giám hiệu nhà trường được xem là giáo viên, và nếu thầy Hưng là một thành viên trong ban giám hiệu nhà trường, chắc chắn thầy Hưng cũng phải được xem là một giáo viên. Nếu mọi cá thể A đều thuộc nhóm B và mọi nhóm B đều thuộc tập hợp C, dứt khoát mọi cá thể A phải thuộc tập hợp C. Giá trị của tiêu chuẩn nhất quán tổng thể là không thể bàn cãi. Tuy nhiên, khả năng áp dụng tiêu chuẩn này bị giới hạn ở một số lãnh vực nhất định. Thực tế, những tiền đề của nó vốn có sẵn. Điều đó có nghĩa là để phân định sự chính xác của chúng, ta cần sử dụng đến một hay nhiều tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý khác. Hơn nữa, một ý kiến phản bác khác còn nhấn mạnh rằng một tập hợp kết luận mang tính triết học, mặc dù thoả mãn tính nhất quán tổng thể, vẫn có thể bộc lộ sự thiếu chặt chẽ. Đôi khi, một hệ thống triết học chỉ có thể duy trì tính nhất quán tổng thể trong khuôn khổ những sự kiện được đưa ra để cân nhắc. Trong khi đó, một tiêu chuẩn hoàn hảo phải thoả mãn mọi sự kiện đề ra, kể cả các sự kiện mới phát sinh có tác động bất lợi đối với tính nhất quán tổng thể vốn có của nó. 17. Kết cấu chặt chẽ Xét trên phương diện của một tiêu chuẩn chân lý, kết cấu chặt chẽ nói đến sự lý giả nhất quán và có tính hệ thống đối với toàn bộ sự kiện thuộc về kinh nghiệm và tri thức. Để đảm bảo tiêu chuẩn này, người ta phải sắp xếp tất cả các sự kiện vào đúng vị trí, sao cho chúng thể hiện được mối tương quan với nhau một cách nhất quán và chặt chẽ như những bộ phận hữu cơ của một tổng thể thống nhất. Bất kỳ sự kiện nào được đề cập đến phải được lý giải thoả đáng, được đặt vừa khớp trong hệ thống tổng thể ấy. Chỉ những cách lý giải nào thoả mãn tối đa các yêu cầu của kết cấu tổng thể mới có thể được xem là thoả đáng. Trong số các tiêu chuẩn được đề cập đến ở trên, kết cấu chặt chẽ là yếu tố thoả mãn các yêu cầu kiểm chứng chân lý một cách đầy đủ nhất. Nó bao hàm các đặc tính cần thiết: lý lẽ, hệ thống, tổng thể, tương quan và nhất quán. Rõ ràng, giới hạn của tiêu chuẩn này, không thuộc về khiếm khuyết của nó, chính là giới hạn của con người (hay nói cách khác, sự bất lực của con người) trong việc thu thập toàn bộ kinh nghiệm về thế giới thực tại. Chỉ có trí tuệ ?othông suốt mọi sự? mới sở hữu được khối tri thức khổng lồ ấy. Do vậy, con người phải tự bằng lòng với vốn tri thức sẵn có ở thời điểm hiện tại, với những gì được chứng minh là chân xác theo chuẩn mực ?ocó khả năng gắn kết chặt chẽ nhất? đối với kinh nghiệm tri thức trong điều kiện hiện tại. Những ai muốn phản bác tiêu chuẩn này sẽ tự đặt mình vào tình thế bất lợi về mặt lý luận. Rõ ràng, phản bác trực tiếp bằng cách biện minh cho cái gì đó phi kết cấu hay thiếu chặt chẽ thì thật bất hợp lý. Hơn nữa, để đề xuất một tiêu chuẩn thoả đáng hơn, người ta không thể tránh được việc vận dụng tiến trình suy lý một cách có hệ thống (biện minh cho sự phi lý là một điều vô nghĩa), chính điều này buộc người lý giải phải vận dụng yếu tố ?ogắn kết chặt chẽ các sự kiện? ?" nói cách khác, thừa nhận yếu tố ấy như một tiêu chuẩn chân lý. Cuối cùng, vấn đề còn nằm trong vòng bàn cãi là liệu có khả năng nhiều hệ thống kết cấu, bao gồm toàn bộ kinh nghiệm tri thức của con người, tồn tại song song với nhau?
  19. Thưa chú Thiên Sứ, Dare có theo dõi với sự tò mò topic "định mệnh có thật hay không" ngay từ đầu và đến tận trang 13. Khi mở topic mạn đàm này Dare bắt đầu đọc lại kỹ hơn và quả thật đến giờ, sau khi nhận được các trả lời của chú thì Dare thấy mình không cần tranh luận về các vấn đề vật lý và toán học nữa vì đã có anh chàng Kakalotta làm rất tốt. Do đó dare tập trung thảo luận về vấn đề mang tính triết học là ý thức, vật chất, mối quan hệ giữa ý thức và vật chất như đã thấy trong topic này. Dare rất lấy làm tiếc vì đã dùng từ "ngụy biện" mà chú không thích và cho rằng là hàng chợ, rằng đây là công kích cá nhân (dare công kích bài viết, lập luận trong bài viết chứ không công kích cá nhân chú Thiên Sứ - và rất lấy làm tiếc nếu chú Thiên Sứ cho rằng Dare đang công kích cá nhân). Vậy dare sẽ thay từ "ngụy biện" bằng "mâu thuẫn giữa các luận cứ" (dare viết tắt là LLSL (Lý Luận Sai Lầm) cho ngắn gọn). Dare không phân tích dài dòng vì đã làm rồi. Dare đóng góp bằng các liệt kê các LLSL thường gặp. Sau đó phân tích một vài lỗi LLSL trong bài viết. Hy vọng chú chỉnh sửa bài viết để tránh các LLSL này. LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN Chú và các thành viên có hứng thú về chủ đề mạn đàm của Dare có thể bỏ thời gian để đọc kỹ, sau đó cùng phân tích các lỗi LLSL nếu có trong bài viết. Đường link bài viết đầy đủ ở trang: http://lichsuvn.info...ead.php?t=9219.
  20. Thưa chú Thiên Sứ, như dare đã đề cập nhiều lần. Dare mở mục mạn đàm này để làm rõ phương pháp luận, trao đổi về một số quan điểm được nêu trong bài viết. Nếu chú thấy áp dụng được để làm bài viết rõ ràng hơn và trả lời từng câu hỏi thì dare rất vui, nếu không thấy cần thiết thì tùy chú vậy. Chú mắc rất nhiều lỗi ngụy biện khi viết cũng như khi trao đổi (nếu chú đã chấp nhận trao đổi với Dare). Nếu chú không muốn trao đổi thì có thể nói: tôi không trao đổi với anh. Nếu chú tiếp tục trao đổi nhưng lại nhắm vào cá nhân Dare như: "tại khả năng nhận thức của Dare" thì đây không phải là trao đổi khoa học. Dare khi phân tích về phương pháp luận đều cố gắng trình bày, ví dụ, theo tam đoạn luận để phân tích tác giả đã khuyết thiếu, ẩn dấu đi phần nào trong tam đoạn luận. Nếu bài viết khắc phục được lỗi này thì nó trở nên rõ ràng, dễ hiểu đối với người đọc. Dare đưa ra định nghĩa, khái niệm, phạm trù của duy vật biện chứng, duy vật chất phác, duy vật siêu hình, duy tâm chủ quan, khách quan,... là để chú tham khảo thêm, tự đặt ra câu hỏi (mà dare đã hỏi chú) để làm rõ ý tưởng, định nghĩa được sử dụng trong bài viết. Duy vật chất phác, siêu hình cho rằng ý thức là vật chất. Chú Thiên Sứ cũng kết luận ý thức là vật chất, vậy cần phân tích thêm sự khác nhau ở đây để bài viết đầy đủ hơn. Thay vì xem xét mọi khía cạnh, mọi tư tưởng chính đã có thì chú lại chỉ đơn giản nêu lên một quan niệm của một vài trường phái triết học rồi đi đến việc phải định nghĩa lại "vật chất", "ý thức" thì đây là điều mà dare muốn đề cập. Dare nói duy vật biện chứng thừa nhận ý thức và vật chất có tương tác 2 chiều. Chú lại cho rằng định nghĩa của chú cũng bao hàm và không phủ định điều này thì quả thật chú không đọc kỹ những gì Dare đã viết. Dare cũng không muốn thảo luận lại nữa. Dare nói: chủ nghĩa duy vật biện chứng phân biệt ý thức và vật chất, ý thức là thuộc tính của vật chất, là sự phản ảnh của vật chất thông qua hoạt động của bộ não người, v.v.. Ý thức và vật chất có mối quan hệ biện chứng. Vật chất quyết định ý thức... Thuyết Tất định khoa học trình bày một cách nói hiện đại về định mệnh. Theo đó, phần số của con người – về mặt cá nhân và về mặt xã hội – được tất định bởi những qui luật xã hội và kinh tế không thể thay đổi được. Nó cho rằng kết quả tối hậu sẽ là một tình trạng bình đẳng, tự do, và ái hữu tuyệt đối. Nó mời gọi con người hợp tác với những qui luật tất yếu trong việc hiện thực hóa một xã hội tốt đẹp được định trước. Con người theo nghĩa khái quát nhất sẽ có định mệnh là vươn đến tự do, đi tìm và đạt được một xã hội công bằng. Tuy nhiên con người, như dare đây, thì chỉ là một phần rất nhỏ trong cái "con người" lớn đó và cuộc sống của dare so với "con người" này có tính bất định. Tiếp theo, cuộc đời của Dare lại gồm cái tất định và bất định,... Nhận định trên có gì mâu thuẫn với thuyết định mệnh của chú không? Đoạn này dare xin mạn đàm: Chú thích thú với nhận định của ông Hawking, còn dare thì không thích phát biểu này. "Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất thì chính nó quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?" đã nhân cách hóa "lý thuyết thống nhất". Con người sẽ tự mình tìm ra lý thuyết thống nhất này nếu nó có. Thuyết thống nhất này chẳng quyết định có hay không thay cho con người được. Đây chỉ là một cách diễn tả bóng bẩy văn học nhiều hơn là một phát ngôn khoa học. Dare mạo muội nhận xét rằng đây là một biểu hiện duy tâm khách quan.
  21. Dare không phản biện lại những trả lời của chú Thiên Sứ trong bài trên vì như vậy sẽ đi xa chủ đề chính. Theo góp ý của chú Thiên Sứ, Dare sẽ phản biện lại từ đầu. Bài hơi dài nên mong mọi người kiên nhẫn. Dare xin trích lại bài viết "bản chất của ý thức" của chú Thiên Sứ để dễ tham khảo khi thảo luận: Trước hết, dare có nhận xét thế này: Bài viết có quá nhiều chỗ dông dài. Như vậy dare đề xuất trước hết ta cần loại bỏ sự dông dài này, để làm nổi bật tiên đề chính, lý luận và kết luận. Sau đó ta sẽ xem các tiên đề này có đúng không, lý luận có giá trị không và kết luận có hợp lý không. Phần đầu tiên, sau khi loại bỏ phần thông tin về "những dạng tồn tại nhỏ nhất của vật chất, vật chất biến mất, những nhà khoa học ngơ ngác,...kết luận thượng đế sáng tạo ra vũ trụ" (và Dare nhấn mạnh rằng những thông tin này đưa ra một cách lập lờ. Ví dụ: không nêu rõ thời điểm mà các nhà khoa học hàng đầu ngơ ngác. Thời điểm này có phải là những năm 2000 khi chú viết tiểu luận này không? "Những nhà khoa học hàng đầu ngơ ngác" không phải là tất cả các nhà khoa học.... Ngoài ra cũng không thấy rõ ràng tam đoạn luận trong phần này), thì ý quan trọng nhất mà dare có được là các câu hỏi: Thật sự rất khó để người đọc hiểu được tác giả muốn nói gì về Định mệnh và ý thức. Có những bộ phận khuyết thiếu trong chuỗi lý luận này. Chú Thiên Sứ để người đọc "tự suy luận" ra những phần khuyết thiếu trong chuỗi lý luận này. Dare hỏi 1. Có mối liên quan gì giữa "định mệnh" và "ý thức"? 2. Chú Thiên Sứ hiểu "Định mệnh" là gì? Tiếp tục, chú Thiên Sứ bắt đầu bằng giả thiết: "Tất cả các qui luật vật lý trong vũ trụ đã được phát hiện. Mọi quy luật tương tác - mà khoa học thừa nhận tính tương tác tạo nên vạn vật - đều được khám phá". Và đặt vấn đề: "Trong trường hợp này vấn đề đặt ra cho khoa học sẽ là: Bản chất của ý thức là gì? Và tất cả các quy luật tương tác vật lý có tương tác với ý thức hay không? Hay chỉ có sự tương tác một chiều: Sự tương tác của ý thức với vật chất và không có chiều ngược lại? " Dare muốn hỏi chú: 3. Khoa học ở đây là khoa học hiện tại hay nền khoa học tương lai - sau khi đã khám phá ra tất cả quy luật tương tác? 4. Rõ ràng là nếu đây là khoa học tương lai thì câu trả lời nằm ở tương lai! Còn nếu đây là khoa học hiện tại thì tại sao phải trả lời các câu hỏi này dựa trên giả thiết đã khám phá ra tất cả các quy luật tương tác? Mọi việc còn trở nên rắc rối hơn khi những suy luận được thể hiện bằng việc quên đưa ra định nghĩa về "tương tác", điều này sẽ dẫn đến cuộc chiến ngôn ngữ đúng như đang xảy ra trong các bài trên của Dare. Việc sử dụng không hợp lý động từ tương tác cũng làm cho người đọc bối rối. Cụ thể: Các quy luật tương tác vật lý có tương tác với ý thức hay không? là một câu tối nghĩa. Vậy dare chú ý đến câu hỏi "Hay chỉ có sự tương tác một chiều: Sự tương tác của ý thức với vật chất và không có chiều ngược lại?" Có vẻ dễ hiểu hơn nhưng thực sự cũng rất "rắc rối". Ừ thì tạm quên cái đòi hỏi phải giải thích khái niệm "tương tác" mà chỉ cần hiểu tương tác là tác động qua lại (phải ghi nhớ thêm là tương tác 1 chiều, tương tác 2 chiều, tức tương tác là tác động thôi). Tuy bỏ qua câu hỏi "các quy luật tương tác vật lý có tương tác với ý thức hay không" nhưng người đọc cần cẩn trọng với thắc mắc: 5. Tại sao tác giả lại chỉ giới hạn câu hỏi với các quy luật tương tác vật lý? Ngoài các tương tác vật lý ra, chẳng lẽ không còn các quy luật tương tác khác như quy luật xã hội, quy luật kinh tế có dính dáng đến ý thức hay sao? Ta đi tiếp: Cái quan trọng nhất trong đoạn này là câu hỏi: "Có sự tương tác hai chiều giữa vật chất và ý thức không - Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định một chiều là: "ý thức có tương tác với vật chất"?". Phần câu hỏi chính thì rất rõ ràng "có sự tương tác 2 chiều giữa vật chất và ý thức không" Tuy nhiên phần sau lại rất tối nghĩa, chắc chú Thiên Sứ muốn nói là các trường phái triết học đều đã xác định ý thức tác động 1 chiều lên vật chất và không có chiều tác động ngược lại? Dare trả lời luôn: chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định rằng vật chất và ý thức có tác động qua lại (2 chiều). Để trả lời câu hỏi "có sự tương tác 2 chiều giữa vật chất và ý thức không?", tác giả tiếp tục phân tích: Một loạt các ngụy biện được áp dụng. Dare sẽ chỉ ra từng cái: Nhận định này có thể thiết lập theo phương pháp tam đoạn luận sau:Ý thức và vật chất có tương tác 2 chiều [phần giữa] Ý thức [phần phụ] là vật chất [phần chính] Có thể thấy phần khuyết thiếu là gì: tiền đề chứa thuật ngữ chính và thuật ngữ trung gian. Phần khuyết thiếu là: có tương tác 2 chiều [phần giữa] thì là vật chất [phần chính] Hình như có cái gì đó không ổn. Tiền đề này ở đâu ra? nó có đúng không? Dare thật bất ngờ khi đọc tiếp. Cái tiên đề này chính là cái định nghĩa lại vật chất: Sau một hồi lòng vòng thì cái tiền đề trở thành cái kết luận!!! Dare cũng bàn thêm về "nhà khoa học trẻ, giảng viên toán lý của một trường đại học" khi anh này trả lời câu hỏi: Anh ta đã bị cài độ mà không biết. Ý thức và vật chất ở đây là phạm trù triết học hay ý thức và vật chất của môn vật lý học? Phi vật chất là gì? Phi vật chất nhưng lại có năng lượng là ý gì? Tác động vật lý (4 lực cơ bản theo tri thức khoa học hay sao?). Các vấn đề, khái niệm không rõ ràng thế mà anh này lại trả lời "không" (hoặc "có") thì thật bất cẩn. Đơn giả là hỏi lại: thế ý chú Thiên Sứ là gì? Đoạn sau thì cũng rắc rối không kém. Dare đọc mãi mà vẫn không hiểu ý chú Thiên Sứ muốn nói gì. Chú Thiên Sứ có thể bớt chút thời gian, trình bày lại theo phương thức tam đoạn luận để đoạn này trở nên rõ ràng, sáng sủa hơn được không? Dare sẽ phân tích tiếp các phần sau của bài viết.
  22. Thưa chú Thiên Sứ, Dare mạn đàm chỉ mong làm cho các bài viết trở nên vững chắc trong lập luận, sáng rõ khi sử dụng các tiên đề, các kết quả nghiên cứu từ các chuyên ngành khoa học hiện đại khác. Thực sự là chỉ mong muốn dừng ở mức tổng quát chứ không muốn đi sâu vào từng khái niệm, phạm trù. Vì như dare đã nói: các bài viết thực sự là khó hiểu và phức tạp. Nếu không đọc kỹ thì chỉ thấy cái kết luận mà không biết được cái tiên đề chính xác chưa, không thấy lý luận có hợp lý chưa và do đó không biết kết luận có đúng chưa. Dare xin nói rõ thêm về cách dare đặt câu hỏi. Ban đầu dare hỏi: Nhưng được trả lời rằng: Dare nghĩ chắc mình đi quá nhanh. Kiểu như luật sư hỏi bị cáo: "Anh ăn trộm nhiều không?", Trả lời kiểu nào thì thì cũng bị cho là đã ăn trộm. Vậy nên điều cần hỏi trước tiên là "Anh có ăn trộm không?" đã rồi mới hỏi tiếp. Vậy dare hỏi: ý thức có tương tác với vật chất không? rồi sau đó mới hỏi tiếp: thế ý thức và vật chất tương tác như thế nào? rồi sau đó lại tiếp tục... Theo chú thì "Từ xưa, người ta - dù theo quan niệm nào - đều đã xác định ý thức tương tác với vật chất." - Chủ nghĩa duy vật chất phác xem ý thức là vật chất. - Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem ý thức không phải là vật chất. (dare không muốn đi sâu) - Trong bài viết thì chú cho rằng ý thức là vật chất. Chưa cần bàn đến lý luận như thế nào (mà chú có nêu rằng dare không đọc kỹ mà chỉ đọc lướt rồi nhận xét) thì hiển nhiên dare phải thắc mắc ngay rằng ý thức, vật chất, sự tương tác giữa ý thức và vật chất trong bài viết có gì khác với chủ nghĩa duy vật chất phác không? Đây là một câu hỏi theo logic biện chứng đó thôi. Nếu cho rằng các trường phái triết học trước đây đã quan niệm như vậy rồi mà không cần giải thích nữa thì...chẳng có gì thay đổi, tiến bộ, khác biệt hay sao? Dare trình bày như trên để thấy rằng dù đã phát biểu là mình đứng trên lập trường duy vật biện chứng nhưng không hề máy móc áp đặt các định nghĩa, khái niệm đã được nêu và phân tích rất kỹ bởi các nhà duy vật biện chứng để so sánh với các định nghĩa, khái niệm trong bài viết. Như vậy dare hỏi "tương tác" cần được hiểu như thế nào cũng đâu phải là câu hỏi thừa, sai. Tại sao lại có người hỏi ngược lại dare? Tại sao lại đưa việc giải thích khái niệm "tương tác" được nêu trong bài viết cho người đọc khi mà khái niệm này rất quan trọng trong chuỗi lý luận của bài viết.
  23. Không thấy chú Thiên Sứ nhắc lại vấn đề cho rằng Dare muốn dẫn dắt vào tranh luận duy vật hay duy tâm. Như vậy dare có thể mạn đàm tiếp đúng không ạ? Dare không nói là diễn đàn chưa đủ tầm nghiên cứu về khoa học. Mà dare cũng chỉ thấy rằng diễn đàn là nơi thành viên trao đổi về các nghiên cứu khoa học của mình cũng như của người khác thôi. Có lẽ trung tâm nghiên cứu lý học đông phương mới là nơi nghiên cứu chứ không phải diễn đàn. Nếu các bài viết về vấn đề lật đổ Einstein, bàn về cơ học lượng tử, mà như chú nói - là đi vào chuyên môn sâu và không rành - thì chỉ nên cho đăng trong diễn đàn (forum) thôi. Điều này là quyền tự do khi tham gia diễn đàn, Dare không bàn đến. Nhưng một khi nó được đăng trên trang chủ một trung tâm nghiên cứu chuyên sâu (về lý học) thì khách viếng thăm trang web có cái nhìn khác rồi. Dare có thể xem đây như một động thái ủng hộ của lyhocdongphuong về nội dung mà các "nghiên cứu" này đề cập. Còn như lyhocdongphuong chỉ là nơi tập hợp tin tức (news) thì hóa ra nó chẳng có tính chất chuyên môn gì sao? Như vậy, để đăng các bài nghiên cứu này tại trang chủ thì Dare nghĩ rằng ban quản trị nên xem qua (đơn giản nhất là google) xem các diễn đàn, ý kiến chuyên ngành về các nghiên cứu này như thế nào. Hoặc ít nhất là nên có chú thích rõ ràng về quan điểm của trung tâm dưới góc độ tổng kết của một người làm khoa học/lý học.Như dare đã nhiều lần đề cập là dare rất hiểu sự không chuyên sâu về khoa học hiện đại của các thành viên nghiên cứu lyhocdongphuong vì vậy Dare mới nhắc đến việc phải hết sức thận trọng khi lấy kết quả từ các bài nghiên cứu khác. Và cũng chẳng có cách nào khác hơn là phải nắm nhiều thông tin, phải đối chiếu, tham khảo từ các nguồn khác nhau. Trở lại ý của thanhdc Dare không thấy có gì sai hay thừa về bản chất đối với câu hỏi ý thức có tương tác với vật chất không? Câu hỏi chỉ là có hay không. Thế theo thanhdc thì phải đổi lại câu hỏi này sao cho đúng? Theo những gì thanhdc trình bày thì dare hiểu là ý thức có tương tác với vật chất và tương tác này chưa được lý giải bởi khoa học đúng không? Dare không hiểu thanhdc đề cập đến khí làm gì? Đoạn trình bày về ý thức và vật chất trong bài viết không hề nhắc đến khái niệm "khí", cũng chẳng nhắc đến "phong thủy", "ngoại cảm" mà giờ lại lôi các khái niệm này vào để thảo luận. Chú Thiên Sứ đã trả lời dare là khái niệm "tương tác" được hiểu như "khái niệm chung đã ứng dụng". Vậy thanhdc cho dare biết là tương tác như khái niệm chung đã ứng dụng này có bao gồm cái tương tác mà các nhà khoa học chưa biết hay lý giải được không? Dare muốn thanhdc nêu ra khái niệm tương tác mà thanhdc hiểu để dễ trao đổi. Sau khi có được khái niệm về tương tác rồi thì thanhdc trả lời tiếp câu hỏi sau của dare: Theo trên thì cho dare hỏi là trong một xã hội thì quan hệ sản xuất có tương tác với lực lượng sản xuất không? Quan hệ sản xuất chứa năng lượng gì? Đến đây có lẽ dare lại phải hỏi tiếp là theo thanhdc thì năng lượng theo cách hiểu của thanhdc là gì? Có lẽ câu hỏi này hơi khó, vậy thanhdc trả giải thích giúp dare nhận định sau: ý thức là 1 dạng tồn tại của vật chất (ic, thật ra thanhdc nên biết rằng theo duy vật biện chứng thì ý thức/vật chất là 2 phạm trù triết học) vậy ý thức tồn tại ở đâu? Có phải ở bộ nào người không? hay ở ngoài não người? Nếu đi tìm nó thì tìm ở đâu? Bên giải phẫu học thần kinh nói rằng họ chẳng tìm thấy "ý thức" ở dạng vật chất khi giải phẫu bộ não người cả. Thanhdc trả lời xong các câu hỏi trên rồi mình mạn đàm tiếp nhé.
  24. Chú Thiên Sứ đã nói vậy thì Dare không tiếp tục trao đổi từng ý nữa vậy. Chỉ xin mạn đàm ngoài lề thế này: Lý do Dare cho rằng cần cẩn trọng trong suy luận bắt nguồn từ việc Dare thấy điễn đàn cổ súy cho các "nghiên cứu khoa học" chưa đủ tầm và chưa được công nhận. Ví dụ: lấy nguồn từ các kết luận giải thích sự ảnh hưởng của ý thức lên vật chất qua các thí nghiệm trong cơ học lượng tử, các bài viết lật đổ Thuyết tương đối một cách khôi hài, các định nghĩa, khái niệm cũ mà không xem xét nó một cách thấu đáo (Dare muốn dùng từ biện chứng). Xuất phát từ những nhận định không đầy đủ, thậm chí là sai làm xuất phát điểm để bác bỏ (không hoàn toàn) các giá trị khoa học hiện thời, đề xuất cái mới thì Dare e là không hợp lý và gượng ép. Và nó biểu hiện cho việc sẵn sàng sử dụng bất kỳ phát ngôn nào đúng với cái mà tác giả nhắm đến dù cho các nhận định này hoàn toàn không có giá trị học thuật. Có lẽ chú Thiên Sứ hiểu sai ý của Dare khi cho rằng sa đà vào chuyện duy vật hay duy tâm. Dare muốn nhấn mạnh rằng dare không bàn về duy vật hay duy tâm mà chỉ muốn đề cập đến phương pháp luận. Bởi vì duy vật hay duy tâm, theo cách nào đó, là 2 mặt đối lập của triết học, và nó là động lực để triết học phát triển. Đơn giản vì dare thấy rằng chú định nghĩa lại rất nhiều khái niệm và phạm trù triết học nên đi vào phương pháp luận sẽ khách quan hơn cả. Và như Dare đã có đề cập: Dare đọc trả lời của chú Thiên Sứ. Ví dụ: Dare hỏi: Trả lời: Trong bài viết của mình, Dare không hề nhắc đến cái gọi là "phi vật chất". Nên cũng không hiểu "ý thức tác động tới vật chất như thế nào là một câu hỏi sai" là như thế nào?Chú không phân biệt vật chất và ý thức vậy ý thức có tương tác với vật chất không? Hay chú hiểu rằng phân biệt vật chất và ý thức thì ý thức là phi vật chất? Khái niệm phi vật chất là gì? Đến đây dare quả thật không hiểu ý chú muốn diễn đạt là gì? Chắc Dare không đủ trình độ để hiểu những gì chú viết một cách tường minh và rõ ràng. Nếu chú có ý như vậy thì dare xin dừng mạn đàm ở đây vậy.
  25. Thưa chú Thiên Sứ, Dare nghĩ rằng đã là khoa học thì phải thống nhất. Không thể cùng một khái niệm lại mỗi người hiểu theo một cách khác nhau là đúng được. Vậy có thể nói rằng dare chưa hiểu khái niệm ý thức mà bài viết có đề cập đến. Không biết cách hiểu nào sau đây là đúng: 1. Ý thức là vật chất và nó chứa năng lượng, ý thức tương tác với vật chất. 2. Ý thức là vật chất và nó không chứa năng lượng. ý thức tương tác với vật chất. Về biểu hiện của sự tương tác giữa ý thức và vật chất: 1. Tương tác giữa ý thức và vật chất phải dùng năng lượng 2. Tương tác giữa ý thức và vật chất không cần năng lượng. Dare cũng xin hỏi chú Thiên Sứ và vật chất tương tác với ý thức như thế nào? Ý thức mang năng lượng gì? Năng lượng này có khác với năng lượng của vật chất không? Đây không không phải là vấn đề duy vật hay duy tâm mà là vấn đề phương pháp luận. Nó quyết định toàn bộ những vấn đề mà chú Thiên Sứ đề cập tiếp theo sau trong bài viết. Bởi vậy ta phải cẩn trọng trong suy luận.