VuongChu

Hội viên
  • Số nội dung

    74
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by VuongChu

  1. :) Ngộ tính khá phi thường! Tuy nhiên hiểu biết về Pháp Luân Đại Pháp bước đầu là chưa chính xác.Cứ đọc cả cuốn Chuyển Pháp Luân lần 1, lần 2, lần 3... sẽ hiểu pháp lý cao tầng, cao tầng, cõi cao tầng... hàm nghĩa là gì :) Đại Sư giảng nguyên lý cao tầng dùng Khoa học nhân thể, vật lý học... để con người hiện đại dễ hình dung. Vì môn là tu tập chủ nguyên thần/chủ ý thức lên lời giảng là Rõ ràng, minh bạch, không theo lối huyền huyền, ảo ảo... chỉ thẳng bản chất vấn đề là gì, cần làm gì, làm như thế nào. :) :P ;) :) Thân!
  2. Hì :) cả 100 triệu học viên ở trên 100 quốc gia làm gì có ai đã luyện ra Pháp Thân, bất kể họ đã tu cao đến đâu, đã có những khả năng gì hoặc đạt đến trạng thái nào thì chưa ai có Pháp Thân, trên thế giới duy có Một.Một ý nghĩ hay một tâm chấp trước dường như nó tạo ra một "vòng" bao bọc trí não, cởi "vòng" càng nhiều càng sáng, sáng chói chang; ai cũng như thế làm sao mê lầm chứ. PLĐP tu tập Chủ Nguyên Thần/Chủ Ý Thức, ý thức thường biết mình nghĩ gì, làm gì... hehe cho nên mê lầm giảm thiểu. Thân!
  3. Hiểu biết cá nhân tôi thì thế này:Danh từ Pháp Luân Công: Pháp Luân Công (còn có tên khác là Pháp Luân Đại Pháp) là chỉ trường phái tu tập mới xuất hiện ở Trung Hoa từ 1992. Trong môn Pháp Luân Công lúc mới ra đời có cuốn sách là "Pháp Luân Công". Cuốn sách "Pháp Luân Công" là Khí công và nguyên lý luyện Công cao cấp. Ví dụ khi luyện khí nếu huyệt lao cung hoặc bách hội khai thông, nếu có thể phát khí cho người khác hoặc nhận phát khí từ người khác thì thông thường chỉ cảm giác mát mát như gió nhẹ. Còn Công - khi phát công tới người khác hoặc nhận công từ người khác - thì cảm giác nóng bừng... Luyện Công lên cao hơn sẽ thành công năng. Luyện đến bước cuối cùng thì là Phật Pháp Thần Thông. Pháp Luân Đại Pháp luyện Công như vậy. Khoảng cuối năm 1994 khi sách Chuyển Pháp Luân ra đời, Pháp Luân Đại Pháp là Tính Mệnh Song Tu. Chuyển Pháp Luân bao hàm nguyên lý từ nguyên lý làm người tốt trong xã hội tiến đến các nguyên lý vũ trụ, học viên trực tiếp tống khứ tâm chấp trước con người... Do đó tu nhanh và chắc. Phần luyện Thân là 5 bài công pháp có tác dụng cải biến thân thể tiến đến thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng. Luyện 5 bài công pháp còn để luyện xuất ra những thể sinh mệnh cao cấp... thân thể con người giống như tiểu vũ trụ, 1 tiểu vũ trụ hay cả 1 đại vũ trụ, điều gì cũng bao hàm. Công pháp của Pháp Luân Đại Pháp là luyện tập Pháp Luân, mang đặc tính vận động của vật chất, của vũ trụ như hình thức điện tử xoay quanh hạt nhân hay trái đất quay quanh mặt trời... Thân! Anh Miêu hiện đang tập môn gì không, khi thực tế bước vào tập luyện thực sự thì khá hay, quay lại soi chiếu sách thật thấm thía!
  4. Các anh xem hiện tượng này trong khoa học lượng tử:
  5. Con người thật :huh: :D :P . Ý nghĩ thật: khi mình nghĩ gì mà mình chắc đó là ý nghĩ của mình thì đó là ý nghĩ chân thật; khi ý nghĩ mà chẳng biết cái nghĩ từ nguồn cơn nào đưa đẩy đến thì gọi là ý nghĩ ngoại lai!
  6. :huh: :D :P (Ui da cho thư giãn chút nào) quán chiếu, tức là cái đó là quán chiếu, quán tưởng, tưởng tượng ra mấy hình ảnh đó ở xung quanh à? :) :o :o . Họ đắc chính quả rồi, viên mãn rồi, thoát luôn hồi rồi, hihì anh ghé hỏi họ cái "pháp lý vũ trụ", cách tu thành như họ... :) :P :P Cha...đợi vị huynh đài thanh tâm tĩnh trí rồi, lại đọc lại trọn bộ Chuyển Pháp Luân để cùng hiểu pháp lý cao tầng nào :o :P :P .
  7. Phát hiện khảo cổ học mới nhất về người tiền sử cách đây 20.000 năm 1. Dấu vết một nền văn hóa cổ Ngách lối đi cổ sớm nhất phát hiện năm 2004. Nguồn: www.drnguyenviet.com Hang Xóm Trại là một hang tiêu biểu của văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam và Đông Nam Á. Hang nằm trong phạm vi Mường Vang cổ thuộc địa phận Xóm Trại xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Theo tài liệu nghiên cứu, dân cư sống phổ biến ở hang động đá vôi ở Đông Nam Á lục địa, tập trung nhiều nhất ở vùng núi tỉnh Hòa Bình. Niên đại: từ 20.000 năm trước, từng bộ phận tách ra phát triển thành nền văn hóa như Đa Bút hoặc hội nhập thành những cư dân trồng lúa thung lũng miền núi tiền Việt Mường. Lối sống đặc trưng của dân cư vùng này là ở hang, dùng công cụ cuội ghè đẽo, mài lưỡi, mảnh tước và xương, sừng, tre, nứa, gỗ. Khai thác thức ăn tự nhiên như ốc, thú nhỏ, hạt quả củ thuộc sinh thái thung lũng đá vôi. Họ đã bắt đầu tư duy nghệ thuật nhưng chưa có táng tục, mộ táng rõ nét.Cách nay 20.000 năm, con người đã đến sinh sống trong hang Xóm Trại. Cách kiếm ăn của họ là săn bắt và hái lượm trong thung lũng quanh hang. Các dấu vết vật chất để lại cho thấy, con người sống ở đây đã biết sử dụng các hòn đá cuội suối và xương rừng động vật để ghè đẽo và mài lưỡi thành các loại công cụ. Tàn tích thức ăn còn lại trong hang gồm nhiều loại ốc suối, xương các loại thú lớn nhỏ và các hạt quả cây rừng. Trong hang còn để lại nhiều dấu tích của bếp lửa và đôi chỗ phát hiện xương người chết chôn theo tư thế nằm co chân cạnh bếp. Những tác phẩm nghệ thuật sớm nhất của người tiền sử Việt Nam cũng được phát hiện ở hang này. Tại đây người ta tìm thấy nhiều mảnh gốm, trong đó sớm nhất là những mảnh gốm thuộc văn hóa Đa Bút cách nay 5-6000 năm. Có những mảnh gốm được trang trí hoa văn rất đẹp và những chiếc rìu nhỏ mài nhẵn toàn thân có niên đại khoảng 3.500 đến 3.200 năm. Hang được phát hiện năm 1974-75 sau đó đã được thăm dò khai quật 4 lần (1981, 1982, 1986 và 2004. Năm 2005 Bộ văn hoá đã cấp bằng Di tích Khảo cổ học cấp quốc gia. Hiện tại hang đang được Bảo tàng Tỉnh Hoà Bình phối hợp với Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đầu tư bảo quản và tôn tạo. Và hiện nay, đã có một trạm nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hòa Bình để phục vụ công việc nghiên cứu của các nhà khảo cổ. Vào những năm 1920, khi Pháp tiến hành làm những con đường quốc lộ, đường sắt họ cũng lập tại đây Sở địa chất Đông Dương. Các nhà địa chất Pháp đã tham gia phục vụ quá trình làm đường, tìm các mỏ, ở Châu Âu, đa số các nhà địa chất đều có rất nhiều kinh nghiệm về khảo cổ dù khảo cổ chưa được công nhận là ngành độc lập mà chỉ là ngành “con” của địa chất và mỹ thuật. Đầu thế kỉ 20, các nhà khoa học đã quan tâm và xác nhận tồn tại một nền văn hóa Hòa Bình và đã thống nhất lấy tên tỉnh để đặt tên cho nền văn hóa nơi đây. Văn hóa Hòa Bình được coi là khởi nguyên cho các thời kì đá mới lấy tên là văn hóa Đa Bút, sau đó là văn hóa hậu kì đá mới như Phùng Nguyên, Bàu tráu, Đông Sơn…Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, các nhà khảo cổ đã chứng nhận 4 địa điểm đã được định tuổi carbon phóng xạ: Xóm Trại, Làng Vành, Hang Muối, và Xóm Tre có tuổi từ 16-20.000 năm. 2. 18.000 năm-kết quả gây bất ngờ giới khảo cổ TS Nguyễn Việt- Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á. Ảnh: Bảo Ngọc Một trong những đặc trưng của nền văn hóa Hòa Bình là thực phẩm chính của dân cư nơi đây là ốc. Loài nhuyễn thể này thích hợp với khí hậu nên sinh trưởng với số lượng rất nhiều và đã trở thành nguồn thức ăn phổ biến và những hang của những người ăn ốc đã hình thành. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều vỏ ốc trắng ở trên núi. Kết quả khảo cổ đầu tiên về hang Xóm Trại do giáo sư Hoàng Xuân Chinh gửi sang viện nghiên nghiên cứu CHLB Đức đã gây ngỡ ngàng giới nghiên cứu Việt Nam và Đức. Các nhà khoa học trong nước chỉ “ước lượng” kết quả khảo cổ vào khoảng 7-8000 năm như đã tìm thấy ở Thái Lan hay các ở các nước khu vực. Trước khi giám định bằng hệ thống carbon phóng xạ, phương pháp xác định bằng vỏ nhuyễn thể đã cho kết quả là…18.000 năm-con số hết sức gây ngỡ ngàng trong giới. Một điều tế nhị rằng các nhà khảo cổ VN không “dám” dùng kết quả đó, còn các nhà khảo cổ Đức thì tự hào và họ rất tin tưởng đó là kết quả đúng. Công cuộc xác định tiếp tục, các nhà khoa học đã tìm vật liệu khác như than, than gỗ, các hạt quả…Và khi khảo sát bằng vật liệu này cũng cho kết quả là 18.000 năm. Vẫn chưa hoàn toàn…tin, mẫu vật được gửi đến các phòng thí nghiệm Hàn Quốc dùng phương pháp khác cũng xác nhận là 18.000 năm. Các kết quả đã cho thấy những phát hiện ở xóm trại đã thực sự có giá trị và đáng quan tâm nghiên cứu hơn nữa. 3. Lối mòn ra vào hang Xóm Trại-lối vào của một nền văn hóa Trong quá trình nghiên cứu lập dự án bảo vệ và tôn tạo năm 2004, các nhà nghiên cứu của Bảo tàng Hoà Bình và Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã phát hiện dấu mòn đi lại tiền sử dài chừng 6 m ở phía nam cửa hang. Khi mới phát hiện, hệ thống các dấu mòn này nằm sâu dưới mặt tầng văn hoá Hoà Bình 60-70cm, tương đương niên đại 8-9.000 năm cách ngày nay, trong tình trạng được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Tháng 10/2008, các nhà khảo cổ học thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã tìm ra dấu đi dài chừng 10m nối đoạn đường trên từ cửa hang xuống phía dưới chân núi. Cũng từ năm 2004, nhóm nghiên cứu liên hợp của bảo tàng Hoà Bình với Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã phát hiện ngách đi vào hang sớm nhất của những người Hoà Bình đầu tiên sử dụng hang này. Ngách đi này nằm sâu dưới mặt tầng văn hoá cổ chừng 4 mét, len qua khoảng cách giữa các khối đá lăn với vách cửa hang. Một trong những phiến đá mang vết mòn trong lối đi cổ hình thành từ 21.000 năm trước. Nguồn www.drnguyenviet.com Tuy nhiên, do thời gian và điều kiện tầng văn hoá bị nước nhũ kết cứng, năm 2004 các nhà khảo cổ chưa phát hiện ra những dấu mòn đi lại. Đợt nghiên cứu tu bổ tôn tạo năm 2008 đã cho phép các nhà nghiên cứu phát hiện hệ thống dấu mòn đi lại cổ vào loại nhất thế giới này.Hiện tại 6 vết mòn sâu và lớn đã được phát hiện bên dưới tầng văn hoá Hoà Bình đã và đang trong quá trình bị nước nhũ kết cứng. Khả năng các vết mòn này có thể còn được phát hiện nhiều hơn. So với hệ thống vết mòn muộn hơn ở vách nam cửa hang thì những dấu vết này có độ mòn sử dụng lâu và rõ rệt hơn nhiều. Chứng tỏ con đường này tồn tại trong nhiều ngàn năm, từ trước 21.000 năm cho đến khi những đợt đá rơi đầu thời kỳ địa chất toàn tân diễn ra trong khoảng 10.000 năm trước. Phát hiện các lối đi cổ thời tiền sử là một thành tựu nghiên cứu rất có ý nghĩa của nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á. Phát hiện hệ thống dấu mòn lối đi có niên đại trên 21.000 năm có thể coi như phát hiện đầu tiên ở Đông Nam Á và thuộc loại những phát hiện hiếm có trên thế giới. Hiện tại, các dấu mòn này đang được dự kiến làm khuôn silicon và bảo quản bằng các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Ngày 20.11.2008, các nhà khảo cổ học thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã tiếp tục phát hiện hệ thống dấu mòn đi lại của người nguyên thuỷ ở ngách hang phía bắc. Các trầm tích văn hoá của cư dân nguyên thuỷ thuộc văn hoá Hoà Bình có tuổi carbon phóng xạ sau khi hiệu chỉnh vòng cây là 21.000 năm phủ trực tiếp trên các vết mòn này xác nhận các dấu mòn đi lại này diễn ra từ cùng thời hoặc trước 21.000 năm nay. 4.Nguồn thức ăn ở Xóm Trại-nét đặc trưng thú vị Ảnh: Bảo Ngọc Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã kết luận ốc là nguồn thức ăn điển hình nơi đây. Nếu như ở hang Con Moong đã được Unesco công nhận có số lượng 90.000 con/1m3 trầm tích thì ở hang Xóm Trại 1m khối trầm tích có 44.000con cũng là một con số đáng kể, khá lớn so với các hang khác. Những con ốc đã được mang đi phân tích dinh dưỡng, tương đương với số lượng ốc đó, có thể cung cấp khoảng 35kg có thể ăn được. Ngoài ra các nhà khoa học cũng tìm được rất nhiều xương rùa. Theo TS Nguyễn Việt, vào năm 1982 số lượng rùa ở đây vẫn còn rất nhiều, nếu đứng đường đón mua thì một ngày có thể mua đc 8-10 con, điều đó cho biết sinh thái ở đây thích hợp cho rùa sinh sống. Hơn nữa, ở đây cũng có nhiều loài gặm nhấm như dúi, chuột, cầy, cáo, các loài động vật lớn đa số là các loài ăn cỏ như hươu, nai, hoẵng, tê giác chiếm số lượng khá nhiều. Hang nằm trong thung lũng tên là mường Vang, có người giải thích theo tiếng Mường, “Vang” còn dùng để chỉ hươu, nai, hoẵng. Ngoài sử dụng thịt để ăn, sừng và xương chân của chúng còn được dùng để làm công cụ. Tuy nhiên, không phải tất cả xương tìm được trong tầng văn hóa Hòa Bình đều được người xưa dùng làm thức ăn, vì nếu vậy phải tìm thấy xương đầy đủ của con vật trong hang. Ngoài ra để đánh giá đúng, cần tìm nhiều bằng chứng, giả thuyết hiện tại cho rằng người xưa có thể lấy xương thú lớn về làm công cụ, còn rùa, ốc thì có bằng chứng rõ ràng đó là nguồn thức ăn chính. Một điều thú vị, TS Nguyễn Việt còn đưa ra các hiện vật đá khoáng đã vừa tìm được-cũng được coi là một trong những nguồn thức ăn ở hang. Theo tiến sĩ, người xưa đã sử dụng đá khoáng như một loại muối để cân bằng vi lượng qua rất nhiều bằng chứng chứng tỏ người xưa có ăn những lớp vỏ của những hòn đá. Khi đem những mẫu đá tìm được đi phân tích, kết quả cho biết đá khoáng có nhiều dinh dưỡng có lợi cho cơ thể như canxi, kali, mangan…Những người xưa, đã để lại vết cào trên đá bằng dụng cụ, ngoài ra còn có 30% dấu răng của các loài chuột để lại chứng tỏ chúng đã ăn hoặc mài răng.Lục Bảo Phát hiện khảo cổ học mới nhất về người tiền sử cách đây 20.000 năm (Phần II) (10:48, 24/01/2009) 5. Bếp lửa và mộ táng Mô hình bếp dựng lại trong hang Xóm Trại. Ảnh: BN Lửa là một phát minh mang tính đột phá của người tiền sử. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học lần lượt đặt ra các câu hỏi rằng họ làm cách nào để lấy lửa? Dụng cụ lấy lửa của cư dân ở Xóm Trại là gì? Bếp của họ được xây dựng như thế nào? Tiến sĩ Nguyễn Việt cho biết quá trình nghiên cứu về bếp lửa ở hang Xóm Trại là một quá trình rất lý thú, tuy rằng về nguyên tắc lửa xuất hiện và tồn tại ở đây cũng không nằm ngoài các phương thức kinh điển của nhân loại. Một trong những phương pháp chính để tạo ra lửa là: cọ xát mạnh, người xưa đã dùng những loại đá có khoáng như thạch anh đập vào để lửa tóe ra khi có ma sát mạnh, và họ cũng chuẩn bị sẵn vật liệu bén lửa để duy trì lửa. Người Nhật từ xa xưa đã tôn thờ và gìn giữ cách lấy lửa truyền thống, đó là cách dùng các viên đá sa thạch ma sát cao, đục lỗ và gọ xát nóng bằng thanh gỗ, hoặc dùng những mảnh vỡ của đá, bụi đá sau khi ma sát…Thậm chí hiện nay, các em học sinh phổ thông ở Nhật đều có thể tự tạo ra lửa bằng cách này. Các nhà khảo cổ cũng tìm được khoảng 30 lỗ đá lấy lửa như vậy tại hang Xóm Trại. Theo TS Nguyễn Việt, người xưa chưa có ý thức bảo vệ môi trường nên lửa thường được giữ quanh năm.Mộ táng cũng là câu hỏi lớn thường trực trong các nhà khoa học khi tiến hành nghiên cứu về hang Xóm Trại. Các nhà khảo cổ học đã khai quật gần như toàn bộ diện tích cư trú trong hang qua bốn mùa điền dã (1981, 1982, 1986 và 2004). Từ 18.10.2008, Bảo tàng Tỉnh Hoà Bình đã cùng Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á làm lễ khởi công tu tạo toàn bộ hang di tích khảo cổ được xếp hạng cấp Quốc Gia này. Vào ngày 26/10/2008 vừa qua, các nhà khảo cổ đã tìm được hai đầu gối và nửa dưới của một cá thể mà dựa theo tầng trầm tích và độ hóa thạch, hiện vật có tuổi 16-17.000 năm. Ngôi mộ mới phát hiện nằm dưới một khối nhũ đã kết cứng tầng văn hoá phía trên. Nhờ khối nhũ này mà tầng văn hoá bên dưới được bảo tồn khá nguyên vẹn. Những đào bới trước đó đã phá huỷ phần xương từ nửa hông bên trái trở lên, chỉ có thể thu lượm được một vài đoạn xương chi, sườn và một phần hàm dưới có răng khôn và một răng hàm rời. Phần còn lại bao gồm hai chân (mất phần bàn chân) và hông bên phải cùng một bàn tay trái úp trên hông cho thấy người chết được đặt nằm co chân nghiêng bên phải - một kiểu chôn cất quen thuộc của cư dân văn hoá Hoà Bình. Người chết được chôn theo một chày nghiền cuội hình bầu dục, hai công cụ ghè đẽo, một mũi nhọn bằng sừng. Hông người chết đặt trên tầng than tro cháy của một bếp lửa dày khoảng 25 cm. Các phát hiện đó chưa đủ để làm thỏa mãn các nhà khoa học, họ còn băn khoăn hơn với mộ táng bởi quá trình nghiên cứu chưa đã lâu nhưng chưa khai quật được một ngôi mộ táng hoàn chỉnh nào. Phần xương được tìm thấy. Ảnh: B.N 6. Tư duy mỹ thuật ở Xóm Trại-tiền đề của một nền mỹ thuật sơ khai?Hệ thống mỹ thuật theo tiến trình phát triển của loài người, xuất phát từ nhu cầu, tôn giáo, tín ngưỡng…Nhà khoa học đã chia 4 giai đoạn trong tiến trình ấy và giai đoạn thứ 4 mới hình thành tác phẩm nghệ thuật đầu tiên. Năm 2008 vừa qua, các nhà khảo cổ đã củng cố thêm nhận định về tư duy mỹ thuật của người dân xóm trại bằng những hiện vật khai quật rất thuyết phục. Các tác phẩm mỹ thuật thuần túy đã hình thành, hiện vật thể hiện tư cách độc lập về sự xuất hiện của mình chứ không bao gồm những chức năng sử dụng như một công cụ, đồ vật nào đó. Tượng khối làm từ một thỏi ngà voi nhỏ được gọt tạo những rãnh nông song song, đối xứng thể hiện các dẻ xương của mu rùa. Trên phần đầu được gọt cong khum nghệ nhân tạo hai lỗ nhỏ thể hiện đôi mắt rùa. Đây là dạng tượng khối độc lập sớm nhất hiện biết ở Việt Nam cũng có niên đại khoảng 20.000 năm trước đây. Ngoài ra, trên các hiện vật còn có các đường khắc mặt lưng và bụng đã đối xứng so le cho thấy người xưa đã có ý thức, chủ đích nào đó. Có giả thuyết cho rằng, đa phần trong số đó là những vết cào của hòn đá được xếp vào hàng đá ăn, nhưng tại sao chúng lại được vạch những đường nét như vậy, “cầu kì” hơn nhiều so với những vết cào lý tính là để lấy chất khoáng ăn thông thường. Tiến sĩ Nguyễn Việt vẫn tin rằng những hòn đá ấy là những tác phẩm mỹ thuật thuần túy, tức là không bao hàm chức năng công cụ. Ông cũng cho rằng, trong số những người Hòa Bình cổ, đã có những người thăng hoa để tạo nên những “tác phẩm” như vậy, và sau này các tác phẩm đã biến chuyển thú vị hơn nữa với những tổ hợp đường zíc zắc, song song đẹp mắt. Miếng đá có họa tiết sơ khai. Ảnh: BN Mỹ thuật thể hiện qua trang phục của người xưa tại Xóm Trại chưa tìm được bằng chứng thuyết phục. Song, các nhà khoa học cũng cho rằng da, vải chưa thể xuất hiện, nhưng lá và vỏ cây được đập ra, ghép lại bằng các mảnh liên kết bằng đá là một giả thuyết tương đối thuyết phục. Bộ hiện vật được cho là “nút áo” liên kết vỏ cây của người xưa đã được giới thiệu.Một trong những hiện vật khiến TS Nguyễn Việt rất ấn tượng là chiếc móng một loài chim mô tả con cá, với miệng cá, mắt cá để thông dây đeo cổ, có đường khắc để tả mang cá, và đặc biệt chỉ có một mặt, đeo một mặt để mặt kia luôn chĩa ra ngoài cho người khác xem... Móng hình con cá. Ảnh: BN Năm 1983, TS Nguyễn Việt đã trao tặng hình ảnh, tiêu bản của một mẫu đá mô tả hình con hổ rất tinh xảo cho một tạp chí của Đức. Tiến sĩ Nguyễn Việt hi vọng vấn đề nghiên cứu mỹ thuật của người xưa tại Xóm Trại được nghiên cứu sâu hơn để điền thêm tư liệu vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam, có chăng đây lại là tiền đề của nền mỹ thuật Việt Nam sơ khai? 7- Nghiên cứu tính mùa trong cư trú tiền sử Đây là một lĩnh vực mới. Khác với làng trồng lúa ở xã hội đồng bằng Việt Nam định cư rất lâu, từ đời này qua đời khác thì nghiên cứu tính mùa người tiền sử cho thấy không có nhóm săn bắn, hái lượm nào định cư suốt đời. Tuy nhiên, tính mùa trong thời kì săn bắn hái lượm là điều không phải tranh luận nhưng cần phải chứng minh để xác định được thời điểm cư trú của cư dân. Từ trước đến nay, ở Việt Nam chưa có cơ sở để chứng minh, song, TS Nguyễn Việt và các nhà khoa học Việt Nam đã sử dụng phương pháp xác định đặc trưng mùa theo phương pháp của các nhà khoa học Đức. Ở Động Cang đã khai thác được 300 mẫu xương đốt cá, sau khi đem phân tích và thu được kết quả 96% con cá này được bắt vào mùa đông khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, có trọng lượng khoảng 10-30kg/con, ngoài ra không có cá nhỏ. Từ các hiện vật khai quật đó, sau khi gửi sang Đức phân tích thì các nhà khoa học nắm được con cá bị bắt làm thức ăn vào mùa nào trong năm. Động Cang có rất nhiều hang động đá vôi nhưng trong trầm tích không tìm thấy ốc núi dù ốc núi là thức ăn phổ biến và nhiều dinh dưỡng nhất của người Hòa Bình, điều đó có nghĩa, trong thời gian từ tháng 4-10, người Động Cang không có mặt ở đây. Ở Đú Sáng cũng tương tự, nơi đây chỉ là địa điểm cư trú trong mùa đông. Trái lại, Con Moong lại không có dấu tích cư trú trong mùa đông, mà thức ăn để lại cho biết họ đã cư trú trong mùa hè. Dùng ốc để nghiên cứu tình mùa. Ảnh: BN Các nhà khoa học đã tiến hành cắt loài ốc núi để xác định tuổi, mỗi 1 ngày con ốc “mọc” ra một đường sinh trưởng, loài ốc này có đặc trưng nếu chúng ăn nhiều thức nhiều thì rộng, ăn ít ngủ nhiều thì hẹp từ đó tìm được mùa ngủ của ốc. TS Nguyễn Việt và cộng sự của ông đã tiến hành nghiên cứu ở Cúc Phương, Tam Điệp, Kim Bôi và thấy rằng, bắt đầu tháng 4 mới có thể bắt được loài ốc này từ các kẽ núi và tháng 11 thì hết, điều đó cho thấy loài ốc này có một mùa ngủ. Tập hợp các đường sinh trưởng của ốc từ đó vẽ được phác đồ để biết đâu là mùa hè của ốc và mùa đông của ốc. Sau đó dựa vào thời điểm chúng bị lấy làm thức ăn để tính được thời điểm cư trú của dân cư ở đó. Những kết quả khảo cổ được công bố sau quá trình nghiên cứu công phu và tỉ mỉ của TS Nguyễn Việt và các nhà khoa học thật sự rất quý báu, có ý nghĩa rất lớn trong ngành khảo cổ học Việt Nam nói riêng và nền văn hóa lâu đời của nước ta nói chung. Các nhà khoa học cũng hi vọng những phát hiện này nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ hơn nữa để các công trình nghiên cứu ngày càng hoàn thiện. Lục Bảo Kính nhờ BQT xóa dùm 2 topic cùng chủ đề này, giữ chủ đề này. Cảm ơn.
  8. :rolleyes: :lol: :lol: Đúng là tự do trao đổi, tự do hiểu mỗi một cá nhân mỗi khác :lol: :lol: . ha ha ha Anh NhuBo à, tôi :P B) có lẽ tò mò xíu: anh :) nói rõ ràng hơn chỗ này xem sao. Hì, lục thông và pháp thân họ ra sao? :rolleyes: B) B) . Thân!
  9. :) :rolleyes: Anh Rubi, tôi gọi danh từ ấy theo cách mà nhiều người ở Bắc Kinh, người nhiều thành phố khác đã gọi người sáng lập Pháp Luân Công là Đại Sư– lúc ấy ở trình độ khí công nên lấy tên là Pháp Luân Công- có chữ Công ở sau. Danh xưng thực sự khi Đại Sư hạ từng tầng và chuyển sinh tại Trung Hoa có 3 chữ: Lý Hồng Chí. Còn danh xưng nguyên thuỷ của Đại Sư, danh xưng nơi mà Đại Sư đã đến từ thế giới của Ngài… Chúng tôi là học viên Pháp Luân Đại Pháp, sách chính chỉ đạo tu tập là Chuyển Pháp Luân. Sư Phụ chúng tôi là chủ Pháp Luân, học viên chúng tôi được cấp Pháp Luân và tập Pháp Luân… Phật Pháp vô biên! Pháp Luân thường chuyển! Thân! :rolleyes:
  10. :) Chào anh, những vấn đề liên quan đến Thần Nhãn Thông thì Đại Sư đã giảng rất kĩ ở bài 2, mục Vấn đề liên quan đến thiên mục. Cách khai mở thiên mục trong Pháp Luân Đại Pháp, cách khai thông thiên mục từ thể tùng quả ra bên ngoài; cho đến vì sao Đại Sư lại khai mở giúp tại tầng Huệ Nhãn Thông mà không khai mở giúp tại tầng thấp hơn là Thiên Nhãn Thông hay không khai mở giúp ở tầng cao hơn là Pháp Nhãn Thông... Có thể anh chưa đọc kĩ hoặc chưa đọc hết một lượt sách nên đôi chỗ còn chưa được rõ. Xin chia sẻ với anh rằng: Thiên mục của người tu luyện chân chính, bất kể là theo Phật, Đạo hay Pháp Luân Đại Pháp đều đòi hỏi tâm tính của người tu rất cao; muốn sử dụng được thiên mục phải có trạng thái tâm tính rất cao. Cao đến đâu? Đại Sư đã giảng: tĩnh tĩnh không động niệm. Đòi hỏi cao như thế cơ mà. Nếu tâm anh chỉ hơi động chút xíu thì thứ nhìn thấy đã sai khác, tức thứ nhìn thấy là giả, là huyễn. Nếu anh nhìn thấy một cảnh nào đó mà tâm chỉ hơi động niệm thích thú thì cảnh đã sai khác, đã là giả huyễn; hoặc giả hơi có 1 niệm lo sợ thì thứ nhìn thấy đã là huyễn giả... không chân thực hoặc sẽ biến mất. Thiên mục của người tu luyện chân chính có đòi hỏi về tâm tính người ta cao như vậy đấy. Xin chia sẻ thêm với anh: thiên mục muốn sử dụng được thì cần năng lượng lớn và hao tổn rất nhiều năng lượng/công lực bản thân. Nên muốn sử dụng thì bản thân phải có năng lượng lớn mạnh hoặc có phương cách để bù đắp lại năng lượng hao tổn. Thân mến! :rolleyes:
  11. Thiên thần, thiên nữ dù ở cõi Tịnh Độ, cõi Lưu Ly... hay thiên thần, thiên nữ trong tất cả phạm vi hệ ngân hà thì đều giống nhau :( .
  12. Bàn thảo về những vấn đề này thì hơi cao, chỉ là lý luận từ chỗ nào chỗ kia, thì khó hiểu-khó giải quyết vấn đề. Hiện tại chỉ dùng máy đo, phát hiện ra sóng âm chứa âm cốt. Ít người có thấy người âm, ma quỷ... Lại càng khó hơn để tiếp xúc được với những sinh mệnh cao cấp hơn: thiên thần, thiên nữ, la hán, bồ tát, phật...Thế nên chỉ từ tư duy lý luận mà hình dung về các cõi không gian này thì quả thực là khó khăn.
  13. ;) Đoạn trích chỉ có 5 cõi, còn thiếu 1 cõi, mới là "ngũ đạo luân hồi" :( :mellow: :) ;) .
  14. Theo ý kiến tôi thì huynh NguNhuBo nên đọc toàn bộ cuốn: (bản hiệu chỉnh – khi Pháp Luân Công bắt đầu được truyền rộng ra công chúng để giúp nhiều người thu được lợi ích). Rồi sau đó huynh có thể quay lại đọc Chuyển và Nhiều thứ … cũng rất dễ hiểu. :wub: B) :D
  15. Tốt nhất là VULONG phải xác định thật chuẩn xác ngày tháng năm sinh.Sau đó VULONG lập luôn Đại vận, tiểu vận, thần và sát... và post lên cho mọi người tham khảo.
  16. Thân gửi!Pháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công) là môn Phần Tu Tâm đã bao hàm hết thảy trong , phần luyện Thân có đầy đủ trong . Phần công Pháp rèn luyện thân thể này bao gồm: . Huynh NguNhuBo có chỗ nào chưa hiểu, hoặc có chỗ nào mà cách luyện, diễn luyện khác với bên huynh hoặc khác với trong suy nghĩ/ý niệm; hay là chưa từng được tiếp xúc thì có thể trao đổi thêm. Thân!
  17. :blink: Đoạn tích này tớ thấy không hợp lý, không hiểu có phải là do ghi chép sai chăng?Theo hiểu biết cá nhân tôi thì thế này: các hòa thượng hay thiền sư sau khi viên tịch thường để lại nhục thân, nguyên thần mang theo Công mà đi. Ngay cả Đức Phật khi Niết Bàn cũng bỏ lại nhục thân, các hòa thượng, thiền sư đều như vậy. Ở tích trên Sơ Tổ để lại chiếc giày trong áo quan. Tức là dùng chiếc giày và sử dụng thần thông để biến giày thành người thế thân nằm trong áo quan. Đây chính là hình thức Đắc Đạo của Đạo Gia, gọi là "Đưa Thi Hài". Người tu Đạo có hình thức Đắc đạo như vậy. Vậy phải chăng là người đời sau ghi chép sai? Thienlong có ý kiến gì không?
  18. Sơ Tổ truyền Nhị tổ Kinh Lăng Già để khai tâm mà hậu học không chịu đọc.Sơ Tổ nói: : Phật Pháp vĩ đại nhất: mà hậu học lại nói Thiền Tông gốc Phật giáo :blink: .Sơ Tổ là đời thứ 28 mà hậu học lại hiểu là Thiền tông gốc Phật Giáo :blink: . Sơ Tổ dùng kinh Lăng Già để truyền thừa mà hậu học lại hiểu là không có Pháp nào cả, Thiền Tông là gốc Pháp. :blink: Lục Tổ cũng 1 lần nghe kinh Kim cương là ngộ; lại một lần được trao kinh Kim cương mà hậu học hiểu là không có Pháp. :blink: Bài kệ này tôi đã đọc khá lâu lâu.Bạn có hiểu gì về đoạn kệ này không? Nếu hiểu ra thì chia sẻ cùng anh chị em diễn đàn? Hihi đừng nói là hãy tự ngộ đấy nhé :blink: . Bạn nói trước đi rồi tôi cũng chia sẻ lại cách hiểu của tôi.
  19. Sơ Tổ truyền Nhị Tổ bộ Lăng Già; Lục Tổ ngộ ra từ kinh Kim Cương, đương đêm Ngũ Tổ truyền kinh Kim Cương cho Lục Tổ. Bạn không đọc 2 kinh sách trên thì chưa hiểu hết tinh túy của Thiền Tông. Bạn nên tranh thủ thời gian rỗi lên đọc 2 bộ kinh này; rồi từ từ trao đổi tiếp cũng được, không sao cả. Tôi đợi bạn!
  20. :rolleyes: :wacko: :wacko: Có rất nhiều câu hỏi tớ muốn trao đổi với BatBoThienLong. Những câu hỏi này tạm để sau. Điều tớ muốn nhắn nhủ với BatBo: Hãy đọc, nghiên cứu thật kỹ 2 bộ kinh trên để ngộ ra cảnh giới cao thâm trong 2 bộ kinh này; qua đó ngộ ra cảnh giới Thiền Tông. Bạn có thể học hỏi với các bậc Chân Tu trong giới - những người Chân Tu, có thành tựu và thực tâm tu - để liễu ngộ những điều trong bản phái. Thân!
  21. VuongChu rất yêu quí 2 người Việt Nam Thuần Văn hóa Việt cổ xưa: Thiên Sứ và Trần Đại Sĩ. Đây là lời chân thật của cá nhân. Chúc anh Thiên Sứ và ông Trần Đại Sĩ cháy mãi dòng máu việt, văn hóa Việt cổ xưa. Mong nhận được thêm nhiều khám phá về văn hóa việt cổ xưa, thức tỉnh tinh thần việt, văn hóa việt tốt đẹp cho người Việt Nam.
  22. Ý VuongChu: Thứ 1, Nếu bản gia phả đó chỉ từ thế kỉ 17, hoặc 18 v.v... nghĩa là chỉ có từ vài trăm năm mà ghi lại lịch sử cả nghìn năm liệu có đủ độ tin cậy không? Hơn nữa theo tôi biết, người Việt cổ ta hình như không có chữ viết, chữ của chúng ta được người Hán trong sách cổ viết: loằng ngoằng như giun. Vậy làm sao ghi chép cho đúng lịch sử nghìn năm? Thứ 2, các câu chuyện về Vua Hùng phần nhiều là câu chuyện, là truyền thuyết. Ghi chép lâu nhất trong sử sách cũng chỉ 700-800 năm. Xuất xứ của những chi tiết không rõ niên đại của giai đoạn nào viết. Thứ 3, Ngày nay đã phát hiện ra phát minh tiền sử, văn hóa tiền sử của những người tiền sử thuộc nền văn minh trước chu kỳ chúng ta. Văn minh của họ đạt đến trình độ đặc định rồi bị hủy diệt, chỉ còn sót lại một ít. Đa phần lại chỉ có "bề ngoài" mà không còn lý luận bên trong. Thứ còn sót lại được tìm thấy trên núi cao hoặc dưới đáy biển hay lòng đất...
  23. Xin hỏi anh Thiên Sứ: Anh có thể cho biết thêm niên đại ra đời cụ thể của những bức hình trên là bao nhiêu năm? Tương đương với thời đại nào trong xã hội phong kiến Việt Nam?
  24. Nghiên cứu về giai đoạn Vua Hùng, GS Trần Quốc Vượng cũng đã có khá nhiều bằng chứng. Ở một số diễn đàn cũng có đăng nghiên cứu này của giáo sư đã quá cố. Về bản gia phả trên, tôi xin hỏi anh Thiên Sứ: bản gia phả được ghi vào thời gian năm nào? còn bút tích phê của các thời đại vua chúa phong kiến không? Trong văn hóa bác học Việt có chi tiết: sau khi giành độc lập của Ngô Quyền năm 938 và các giai đoạn sau, những nhà trí thức Việt Cổ đã xây dựng nên nhiều câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Vừa rồi báo chí cũng đăng tìm thấy người tiền sử ở Hòa Bình có niên đại hơn 20.000 năm. Có nên chăng đi theo hướng văn hóa tiền sử, những di lưu của văn hóa tiền sử còn sót lại? :rolleyes:
  25. VuongChu hiểu câu hỏi anh Thiên Sứ. Gốc rễ là ở điểm: Pháp Luân. Pháp Luân trong Pháp Luân Đại Pháp là một Sinh Mệnh, là Vật Chất. Pháp Luân này không phải là Pháp Luân trong ý niệm, tư tưởng; cũng không phải là "Bánh xe vàng", "Bánh xe bạc", hay"Bánh xe đồng". Mời anh Thiên Sứ tham khảo trực tiếp về Pháp Luân trong Chuyển Pháp Luân. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=8768 Thành Kính!