Công Minh

Hội viên
  • Số nội dung

    284
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    4

Công Minh last won the day on Tháng 8 24 2012

Công Minh had the most liked content!

Danh tiếng Cộng đồng

150 Excellent

About Công Minh

  • Rank
    Hội viên mới
  • Birthday

Contact Methods

  • MSN
    6banhtrung8
  • Yahoo
    thang1728@yahoo.com.vn

Xem hồ sơ gần đây

1.197 lượt xem hồ sơ
  1. Thưa bác Chấn Nguyên Đầu tiên cho phép Công Minh xin được đính chính những lời khiêm tốn của bác Chấn Nguyên : Thầy của chị Wild là một vị Thầy, thành viên giang2 như bác nhận xét có thể là một vị tu sĩ theo tông Nguyên Thủy. Còn Công Minh chỉ là Phật tử sơ cơ, hạng hạ ngu, còn phải học hỏi nhiều nên không dám nhận chữ thầy, e rằng tổn phước. Mà bác Chấn Nguyên có vẻ khiêm tốn quá, Công Minh có cảm giác hình như là bác cũng là một “cao thủ” – Mong bác mạnh dạn trao đổi hơn. Chấn Nguyên phải chăng cảm ứng từ Trấn Nguyên Đại Tiên trong Tây Du hay là tư tưởng Chấn hưng Nguyên thủy như thành viên giang2 đây ạ ? Chào bác. À mà, nhân nhắc đến Tây Du.Công Minh xin hỏi bác Chấn Nguyên : Bởi Nguyên Lý( nguyên nhân và lý do ) nào mà Pháp Sư Huyền Trang lại phát nguyện và đã công phu đi Tây Trúc lễ Phật và thỉnh chân kinh đem về Đông Độ. Chân thành cám ơn bác.
  2. Chúc mừng sinh nhật Thầy Thiên Sứ. SỨC KHỎE, AN LẠC VÀ MAY MẮN Công Minh
  3. Đoạn kết Với tiêu đề của bài viết này là : “ Vị Bồ Tát hộ trì phong thủy” ngoài đoạn mở đầu có dẫn chuyện của một vị Thầy dạy học trò, cách thức thanh tịnh và làm yên ổn gia đạo bằng pháp tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thì phần lớn nội dung còn lại là giới theo về Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng. Thật ra tôi không có ý giật tít để gây sự chú ý về bài viết, mà chuyện tụng Kinh Địa Tạng để an ổn gia đạo, đất cát trong nhà là có thật. Cách đây vài năm tôi có một người bạn, nhà cửa phong thủy rất hợp lý, làm ăn khá giả, cuộc sống gia đình hạnh phúc và sung túc. Một dịp đầu năm mới, mong muốn để an bình gia trạch anh thiết lễ tụng phẩm kinh : Phật nói Kinh An Trạch thần chú. Sau đó thấy trong nhà rất nóng nảy, có nhiều bất an, người trong nhà hay ốm bệnh…. Sau khi anh vấn an Tôn Sư, bày tỏ câu chuyện và được thầy chỉ dậy như đã nói ở trên. Anh ta thiết lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức như thầy chỉ dạy, và sau đó mọi việc trong gia đình chuyển biến rất tốt đẹp. Từ việc chứng thực cảm ứng đó, tôi đã nhờ Thầy chỉ dạy và tìm hiểu về Công Đức Ngài Địa Tạng Vương. Với những nội dung đã nêu được ít nhiều ở trên, qua những lời Đức Phật chỉ dạy về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương - có thể thấy việc Ngài hộ trì hay gia hộ cho đất đai, phong thủy là chân thực. Tuy nhiên, điều lợi ích đó mới chỉ là một phần nhỏ trong những năng lực hay oai lực của Ngài. Địa Tạng Bồ Tát vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, gia hộ đất đai, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại này. Xin giới thệu một số đường dẫn đến các tài liệu nói về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương, để những ai quan tâm có thể thỉnh về tham khảo thêm. Bồ Tát Địa Tạng vấn đáp. Khuyen hanh gia tinh do kiem tri tung kinh dia tang Kinh Địa Tạng Thâm Mật nghĩa Địa Tạng Mật Nghĩa Những câu chuyện linh ứng về Ngài Địa Tạng Nghi Thức Tụng Kinh Địa Tạng Qua loạt bài này, nếu được một trong những ai đã ghé đọc rồi khởi tâm hoan hỉ niệm 1 câu danh hiệu của Ngài hay trì tụng được 1 lần bộ kinh kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Công Minh xin hồi hướng hết thảy mọi công đức có được trong loại bài này cho bản thân và gia đình người đó gia đạo luôn vạn sự bình an, phú túc, cát tường, may mắn. Con xin hồi hướng Công Đức này đến tất cả pháp giới chúng sanh trong các cõi: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, giai cộng thành Phật đạo. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến chân linh Cửu Huyền Thất Tổ, hương linh Thân Phụ và Nhạc Phụ là những tấm gương kiên định luôn hướng về Chính Pháp, tại những giai đoạn khó khăn trong việc phát triển Đạo Pháp ở một khoảng thời gian trước đây. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến Thân Mẫu thân tâm thường lạc, Phật sự tinh tấn. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các bậc Tôn Sư đã bỏ công chỉ dẫn và khuyến khích con trên con đường tầm học. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các Thầy Thích Quảng Trí, Cư sĩ Huyền Thanh đã bỏ nhiều công phu biên dịch và biên tập bộ Mật Tạng ra tiếng Việt để đem lại lợi lạc cho nhiều hàng Phật tử Việt Nam. Xin chân thành cám ơn đến các các bậc thầy, các tác giả, soạn giả có những bài nghiên cứu, bài giảng giải, cũng như có hình ảnh về Tôn tượng Đức Địa Tạng Vương trên Internet, để Công Minh được tham khảo, trích dẫn hỗ trợ cho phần biên soạn này. Vì điều kiện bố cục của bài viết hạn chế, tránh phân tán nên người biên soạn không thể trích rõ nguồn tài liệu, rất mong chư vị tác giả hoan hỉ thông cảm đại xá. Xin cám ơn người bạn đường CTT và hai “ tiểu đồng chí” của tôi, đã phấn đầu giải quyết nhiều việc thuộc hàng “đại gia sự " để hỗ trợ tôi có được nhiều thời gian, yên tâm tìm hiểu Giáo Pháp. Xin cảm ơn anh hoangnt và mọi người đã quan tâm, ủng hộ cho bài viết trong thời gian qua. Thân mến tặng bài viết này đến anh Thanh phuc ; bạn Hoàng Dung trên trang lyhocdongphuong ( những người có ít nhiều công phu và sự cảm ứng về Thánh linh của Đức Địa Tạng vương Bồ Tát ) - Đặc biệt là qua những tâm sự của anh Thanhphuc, đây cũng là một trong những nguồn động lực cho Công Minh tìm hiểu về Thánh linh của Đức Địa Tạng và điểm đặc biệt của bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thân mến tặng chị Wild, Chipchip cùng đại gia đình, em Linh và “cô học trò bướng bỉnh ” cùng tất cả thân hữu bè bạn cũ mới, xa gần – do qua những thắc mắc, hỏi đáp của mọi người đã giúp Công Minh giác ngộ thêm nhiều vấn đề trong tu học. Kính chúc mọi người, mọi nhà có một mùa Vu lan viên mãn và thành tựu Nguyện xin Tam Bảo và các vị Hộ Pháp hãy ban rải Thần Lực giúp cho các bậc ân nhân của con với tất cả chúng hữu tình mau chóng tránh được mọi lỗi lầm, thực chứng được Chính Pháp Giải Thoát. Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh. Trân trọng
  4. Thành Tâm Niệm Danh Hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương Có Thế Siêu Độ Nghiệp Chướng Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khi Địa Tạng Vương Bồ Tát biết quý vị thành tâm niệm danh hiệu Ngài, Ngài sẽ giúp siêu độ nghiệp chướng của quý vị. "Trực tâm là Đạo Tràng". Bất luận quý vị là người xuất gia hay là tại gia, trong bất cứ hoàn cảnh nào đều phải thành thật và ngay thẳng. Không được nói dối, không làm những việc mạo hiểm , cũng không đầu cơ hoặc đánh cá ngựa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào phải dùng tâm chân thật không dùng tâm cầu cạnh dua nịnh. Chúng ta phải có tâm chân thật trong mọi hòan cảnh, cái tâm phải biết dung hòa để hòa hợp với người khác. Để có tâm chân thật có nghĩa là để tu Đạo Bồ Đề, và đừng bao giờ làm trở ngại hay chướng ngại người khác. Nếu chúng ta làm hại hay chướng ngại người khác, chúng ta tạo nhân cho quả báo xấu. Khi quả báo của chúng ta đến, nếu chúng ta không sám hối mà lại cứ tiếp tục lừa dối người càng nhiều thêm, thi chúng ta lại sẽ tạo ra thêm nhiều nghiệp xấu nữa, khó mà tiêu trừ được. Lần này (năm 1982) khi tôi đến Châu Á, tôi có gặp một người phụ nữ là cô họ Vương ở Penang. Trong tiền kiếp cô thích ăn móng gấu và óc khỉ. Cô đập đầu khỉ nứt ra để uống óc khỉ. Cô cũng chặt móng gấu, chiên lên để ăn. Vì những nghiệp chướng trong quá khứ này, kiếp này cô sanh ra làm người phụ nữ. Tuy nhiên, thay vì sửa chữa lỗi lầm và bắt đầu đời mới, cô vẫn tiếp tục tạo nghiệp xấu. Cô đã giết hai nhân mạng bằng cách phá thai hai lần. Hai vong linh thai nhi bị phá thai này cùng kêu gọi những con ma là các chúng sinh mà cô đã làm hại trong tiền kiếp. Vì thế, cô bị ung thư. Trong thời gian thăm tôi viếng Penang, người phụ nữ trẻ này đã phát đại tâm sám hối và bệnh ung thư của cô đã thuyên giảm. Tiếc thay, hai tuần sau cô lại quay trở lại tập quán cũ, tái lập liên hệ với người bạn trai và lại còn làm những hành vi không phù hợp Phật Pháp. Sau đó một thời gian ngắn, bệnh ung thư của cô trở lại. Cô bị bệnh là do nghiệp chướng của cô gây ra. Nếu cô thật tâm sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ và sửa đổi lại thì cô đã có một phần vạn cơ hội để khỏi bệnh. Nếu không, không có thuốc nào có thể chữa và ngay cả Phật và Bồ tát cũng chẳng cứu được cô. Có câu nói rằng, "Tội từ tâm khởi, đem tâm sám.". Nếu chúng ta không sám hối và sửa đối với tâm chân thành, thì nghiệp chướng của chúng ta sẽ quay trở lại. Trong trường hợp của cô họ Vương, vì cô không thành tâm sám hối và sửa đổi, nên bệnh ung thư của cô đã trở lại. Đáng lẽ cô phải viết thư cho tôi khi bệnh cô trở lại. Nếu cô ấy nói thật với tôi, có lẽ lúc đó còn có thể làm đuợc cái gì đó. Thay vì làm như vậy, cô đã nói dối với tôi và nói với tôi là cô sắp sang Mỹ. Trước khi tôi rời Mã Lai, tôi có bảo cô rằng sau khi khỏe mạnh hơn và nếu có khả năng mua vé máy bay sang Mỹ, thì cô có thể đến Hoa Kỳ và xuất gia đề tu hành. Nói cách khác, đáng lẽ cô phải sang Mỹ sau khi cô được chữa khỏi bệnh. Nhưng, người phụ nữ trẻ này chỉ sang Mỹ sau khi khí bệnh ung thư tái phát; cô đến để chết ở Vạn Phật Thánh Thành. Chỉ đến lúc khi bệnh của cô đã quá tầm tay của Y khoa thi cô mới lên máy bay một cách rất khó khăn và đến Mỹ vào ngày 24 tháng trước. Với loại xảo quyệt nầy, bệnh của cô càng khó chữa lành. Vì hành vi của cô là hoàn toàn giả dối, không thành thật và thủ đoạn, ngay cả Phật và Bồ Tát cũng không thể giúp được cô. Bây giờ cô đang ở trong bệnh viện, cơ hội sống chỉ còn 0.5 phần vạn. Tối nay chúng ta hãy thành tâm hồi hướng công đức cho cô, mong rằng cô sẽ bình phục. Mặc dù cô lừa dối tôi, lừa dối nơi tỉnh giác này tức cũng có nghĩa là lừa dối mọi người ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều có lòng từ bi. Cô ta từ nơi rất xa đến đây, hy vọng cô có thể đuợc cứu sống khỏi tay tử thần. Nếu còn có thể cứu cô ta được, chúng ta nên cố gắng hết sức. Nếu không thể cứu cô ta, chúng ta cũng cố gắng hết sức. Nỗ lực của tập thể rất mạnh, chúng ta thành tâm giúp cô tiêu trừ những nghiệp chướng của cô. Hãy theo tiếng mõ, và vì cô ta mà niệm hồng danh Bồ Tát Địa Tạng Vương . Trong lúc chung ta niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương , những nghiệp chướng của cô đáng lẽ phải được tiêu trừ. Tuy nhiên, khi nghiệp quá khứ của cô được tiêu trừ thì nghiệp mới tích tụ lại cũng nhanh như vậy. Thật ra, chúng ta đang giúp cô ta tiêu trừ những nghiệp chướng vô tận mà lúc sanh ra cô đã có. Tôi nghĩ nếu chúng ta muốn cứu người này, chúng ta cần bắt đầu Thất Địa Tạng vào ngày mai. Hãy thanh tâm niệm danh hiệu Bồ Tát và hồi hướng công đức cho cô, hy vọng cô sẽ bình phục. Khi chúng ta giúp người khác với lòng thành khẩn thì chư Phật và Bồ Tát nhất định cùng sẽ giúp chúng ta ... Hôm nay chúng ta cùng phát tâm để hồi hướng công đức cho người phụ nữ trẻ này. Có phải thân nhân của cô ta yêu cầu chúng ta làm công việc này không? Không, họ không có yêu cầu. Tuy nhiên, dù là họ không biết, chúng ta vẫn hồi hướng công đức cho cô. Là Phật tử, chúng ta không cần được thỉnh cầu mới giúp đỡ người khác. Chúng ta cảm thấy thương xót người phụ nữ trẻ này và cố hết sức mình để giúp cô ta. Chúng ta nương tựa vào uy lực của Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng Vương. Nếu cô ta tỉnh lại thi thật là tuyệt hảo; nếu không, đó chỉ vì nghiệp chướng của cô quá nặng. Dẫu sao đi nữa, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, tất cả chúng ta nên nỗ lực làm việc! Hiện nay, càng lúc các nhiều tai họa trên thế giới, trong khi đó càng lúc càng ít người tu Đạo Bồ Đề. Thêm nữa, càng lúc càng có nhiều người phá giới. Tại sao thế giới ngày càng trở nên tệ hại? Chúng ta hãy nghiên cứa câu hỏi căn bản này. Nguyên nhân của vấn đề này là con người không giữ năm giới, đặc biệt là giới không tà dâm. Đàn ông và đàn bà đều sai lầm nghĩ rằng thỏa mãn ham muốn tình dục là một loại khoái lạc. Như có câu nói là “quay lưng với giác ngộ, phối hợp với bụi trần (bội giác hợp trần)” và "nhận kẻ giặc làm con”. Họ cho đau khổ là khoái lạc, đen là trắng, và cho sự thật là hão huyền. Họ quá mê lầm đến nỗi họ hành động cẩu thả và không chánh đáng, dường như họ đi ngược đầu thay vì đứng thẳng. Thêm vào đó, thay vì biết giữ gìn tinh lực quý giá, những người nam nữ mỗi ngày làm những việc mà cuối cùng chỉ là thương tổn chính họ. Đàn ông không biết cư xử như người đàn ông chính trực, phụ nữ không biết cư xử như người phụ nữ chính trực; những điều họ biết chỉ là làm cách nào để thỏa mãn ham muốn nhục dục của họ. Ngày nay, nam nữ sinh viên, nhất là những người trong những đại học nổi tiếng, họ sống chung và tham gia những hành vi chung chạ. Những hành động này đưa đến những sự mang thai ngoài ý muốn. Đề tránh những sự mang thai ngoài ý muốn này, các phương tiện ngừa thai được phát minh. Nhiều người nghĩ rằng dùng phương tiện ngừa thai tốt hơn là đối phó với những khó khăn do những sự có thai ngoài ý muốn. Thật ra, dùng biện pháp ngừa thai là không đúng vì nó ngược lại những chức năng sinh học trong việc giao hợp, và đó cũng là một loại nghiệp chướng. Thêm vào đó, những người phát minh ra những phương pháp ngừa thai cuối cùng đã gây hại cho nhiều thanh niên nam nữ , vì những người trẻ sẽ dễ dàng tham gia hành vi tà dâm hơn khi nghĩ rằng họ không phải lo lắng về chuyện có thể mang thai. Ngoài phương pháp ngừa thai, nam nữ còn dùng sự phá thai để đương đầu với những bào thai ngoài ý muốn do những hành vi đồi trụy của họ. Bằng cách phá thai, họ tạo ra một tội nặng nề hơn - tội sát sanh. Nói cho rõ, trong khi dùng biện pháp ngừa thai là một hành động sát sanh gián tiếp; thì phá thai là hành vi sát sanh trực tiếp. Tất cả những việc sát sanh này làm gia tăng lòng oán hận trên thế gian. Những năng lực xấu này cũ chồng chất, kết quả là có những bệnh lạ. Khi quý vị nghiên cứu sâu xa hơn, quý vị sẽ thấy rằng nếu đàn ông, đàn bà không luôn phá luật về hành vi luân lý thì đã chẳng xảy ra quá nhiều những bệnh tật lạ với những triệu chứng khác thường không giải thích được và không chữa được. Bây giờ, ngoài ung thư còn có những bệnh khác cũng khó chữa hoặc không thể chữa được. Những vấn đề này đều đầu tiên bắt nguồn từ phạm giới về tà dâm, rồi thì giới sát sinh. Những hành động không chính đáng này sẽ có tiếp theo sau là sự phạm giới ăn cắp, nói dối và dùng chất say. Năm giới luật này là những luật lệ quan trọng nhất trong đời sống chúng ta. Vì thế, mọi người phải giữ năm giới. Thuở xưa, khi vị Chuyển Luân Thánh Vương còn ở trên thế gian để giáo hóa chúng sanh, mọi người đều giữ năm giới, tuân theo và thực hành mười điều thiện (Thập Thiện) và ăn chay. Vào thời đó, không có thiên tai và mọi người được hưởng rất nhiều phước báo, nhiều người có thần thông và mở ngũ nhãn. Trái lại ngày nay, tiêu chuẩn đạo đức ngày càng suy đồi. Sự suy đổi trong phẩm cách con người cũng làm cho cả thế giới suy đồi. Quý vị có muốn biết tại sao có quá nhiều người bị ung thư? Tình trạng này là do nghiệp sát sanh tạo ra. Quý vị hãy suy nghĩ về việc này, qua sự phá thai, quý vị đã tận diệt những mạng sống ngay trước khi chúng có cơ hội chào đời. Trong hoàn cảnh này, sự oán giận của những bào thai không được sinh ra không thật là kinh khủng hay sao ? Nói tóm lại, thế giới và con người càng ngày càng tệ hại hơn. Tất cả chỉ vì nghiệp sát sinh. Người tại Vạn Phật Thánh Thành, vì biết nhân quả báo ứng tuần hoàn, chúng ta hãy làm giảm nghiệp xấu trên thế giới, như vây thế giới sẽ không có nhiều thiên tai, giúp nhân loại bớt đi một chút đau khổ, và bệnh tật của nhân loại cũng bớt đi một chút. Chúng ta hãy cùng nhau giúp cô họ Vương xem như đây là một cơ hội để nỗ lực và thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương . Niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương có thể giúp giảm nghiệp xấu của chúng sinh; và để cho những kẻ thù, thân nhân và những chủ nợ của họ từ vô lượng kiếp về trước được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Lần tụng niệm này cũng sẽ giúp tất cả kẻ thù, thân nhân và chủ nợ của chúng ta được được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Hãy nhân cơ hội này để niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm. Khi chúng ta giúp những người đang bệnh hay đang đau khổ, chúng ta cũng đang độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân nhân, và chủ nợ của chúng ta trong những đời quá khứ, và giúp họ lìa khổ được vui, và liễu sanh thoát tử. Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khí quý vị niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm, Ngài sẽ cảm động. Biết rằng quý vị đang niệm danh hiệu Ngài với lòng thành khẩn như vậy, Bồ Tát Địa Tạng Vương sẽ siêu độ tất cả nghiệp chướng của quý vị, Ngài cũng giúp quý vị tu Đạo Bồ Đề, tiến bộ trên đường Đạo này mà không bị ma chướng, sớm tiêu trừ các nghiệp chướng, mau xa lìa đau khổ và vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Đó là lý do chính để chúng ta tham dự Thất Địa Tạng. Vì thế, mọi người hãy chân thật và thành tâm để siêu độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân quyến và chủ nợ của chúng ta trong những kiếp trước. Hãy để cho họ dùng cơ hội này để lia khổ đuoc vui. Đừng để thời gian trôi quá vô ích! Lời Sọan Giả: Dù cô họ Vương đã tạo nhiều nghiệp xấu trong quá khứ, cô đã phát đại tâm sám hối tại Penang. Trước đại chúng hơn hai ngàn người, cô thành thật nói về những hành vi không tốt đẹp của cô, và cầu xin sự gia hộ từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát và của Hòa Thượng khi cô quyết tâm sám hối và thay đổi. Khi ấy bệnh ung thư của cô được thuyên giảm. Tuy nhiên, cô trở lại thói quen cũ sau khi phát tâm sám hối, và dùng phương tiện gian dối để đến Vạn Phật Thánh Thành. Vì cô làm thêm nhiều nghiệp chướng, nên khó mà tránh được nghiệp quả không lành. Vì thế, mặc dù bốn chúng đệ tử tại Vạn Phật Thánh Thành đã vì cô mà tổ chức hai Thất Địa Tạng và nhiều bác sĩ đã cố gắng để cứu cô, nhưng cô đã mất vài tuần sau đó. Chúng ta có thể nói rằng cô họ Vương đã hiện thân thuyết Pháp và hãy xem đây là sự cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta. ( trích : Những Vong Linh Thai Nhi Vô Tội )    
  5. Cám ơn chị Wild đã bổ sung hình ảnh cho bài viết. Kính mời Chị cùng mọi người theo dõi tiếp nhé. ============ Nhân qua bài dẫn của anh hoangnt ở trên có câu đầu của bài Kệ thỉnh chuông Hồng chung sơ khấu Bảo kệ cao âm Thượng triệt thiên đường Hạ thông địa phủ. Nam mô U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát! Chợt nhớ, trong dịp đi thăm cơ sở nuôi người bệnh tâm thần Trọng Đức – Đà Lạt, Đại đức Thích Trí Khánh có chỉ dạy : “ Những người bệnh này, nếu được nghe tiếng chuông chùa thường ngày, bệnh tình rồi sẽ thuyên giảm”. TT. Thích Minh Quang , mỗi lần có người đến chùa xin cho người thân nương nhờ cửa chùa để chữa tâm bệnh, thầy đều hỏi vui người bệnh : “ Ở lại chùa với thầy, thày sẽ nuôi ăn, chỉ cần hàng ngày ngồi thỉnh đại hồng chung cho thầy thôi, vậy có có chịu không” - chắc cũng trong ẩn ý đó. Địa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lớn là nơi nào có địa ngục thì nơi đó bồ tát phải có mặt. Danh hiệu của bồ tát là Địa Tạng Vương. Minh tức là cõi u minh, nghĩa là cõi âm, minh này không có nghĩa là sáng. Dương tức là cõi trần thế. Người cứu độ cho cả cõi âm và cõi dương được gọi là Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương. Hình ảnh của bồ tát Địa Tạng Vương là một hình ảnh tiêu biểu, vì chính ở đây sự đối tượng cúng dường, đối tượng của tình thương và của sự thực tập là những người cô hồn. Vì vậy bồ tát Địa Tạng Vương đóng một vai trò quan trọng. Sự đau khổ đó có mặt trong cả cõi dương và cõi âm. Cõi dương nằm trong cõi âm và cõi âm nằm trong cõi dương. Đó là giáo lý tương tức. Cõi dương cũng như cõi âm đều nằm trong cõi dương hết. Trong chùa mỗi khi thỉnh chuông đại hồng chúng ta hay xướng bài kệ: Bài kệ thỉnh chuông Việt dịch : Sơ khấu : (khấu thỉnh đoạn nhứt) Hồng chung khởi thỉnh tiếng ban đầu, Bảo kệ ngâm cao thoát nhiệm mầu, Trên thấu Thiên đàng vui an lạc Dưới thông Địa ngục diệt đau sầu ! (0) ! *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Nhị khấu : (khấu thỉnh đoạn hai) Hồng chung khấu thỉnh lần thư hai, Bảo kệ ngâm cao giọng ngân dài, Trên thấu thiên đường trời niệm Phật Dưới thông địa ngục ngục tiêu tai. ! (0). *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Tam khấu : (khấu thỉnh đoạn ba) Hồng chung kính thỉnh lần thứ ba, Bảo kệ ngân cao chiếu bảo tòa, Trên thấu thiên đường thông sáu nẻo, Dưới sâu địa ngục độ bao la. ! (0) *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Cũng chưa có dịp để hỏi thêm thầy Trí Khánh về diệu lực của tiếng chuông chùa nói chung và tiếng chuông trong truyền thống Kim Cang Thừa nói riêng có “hiệu ứng” tác động đến tinh thần của chúng sinh như thế nào. Nhưng có lẽ, phần lớn trong chúng ta đều đã có dịp cảm nhận : Mỗi khi bước chân vô cửa chùa nghe tiếng chuông ngân đều thấy lòng mình thư thái ,dịu lại. Nên phải chăng !? Tiếng chuông chùa đã là phương tiện truyền tải, mang năng lựợng từ bi từ những đại hạnh nguyện cứu độ chúng sinh các cõi của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đến với nhân gian này. Sống trong xã hội đầy ô nhiễm hiện nay, áp lực sinh sống tạo nhiều chần động lên tâm lý con người nhẹ thì stress nặng thì trầm cảm, tâm thần. Nên có lẽ phải “tranh thủ phương tiện” : Khi tinh thần thấy bất ổn không yên. Đến cửa Thiền nghe chuông chùa mươi phút. Thầm niệm Phật, nhìn khói hương nghi ngút. Nỗi ưu phiền theo khói vút thăng thiên.
  6. Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm 6 Thế tôn tuyên dương ghi rằng : " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hâm ba, hâm bốn, hâm tám, hâm chín hay ba mươi, là những ngày kê cứu tội ác để phán định nặng nhẹ. Mà người Diêm phù thì cử động (51) hay suy tư toàn là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh trộm cướp tà dâm vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai trên đây, nếu kẻ nào biết đối trước tượng Phật đà, tượng Bồ tát hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này, thì khu vức người ấy cư trú, đông tây nam bắc chu vi một trăm do tuần, không có mọi sự tai nạn, và nhà ở của người ấy thì bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị lai, trong cả trăm cả ngàn năm thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài. Mỗi ngày thập trai biết tụng kinh này một biến, việc ấy, ngay trong đời này, đã làm cho cả nhà không có tai họa, bịnh tật, ăn mặc sung túc " Lại thêm " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỉ thần với bao nhiêu biến dạng buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có. Ấy toàn là cha mẹ con cái, anh em chị em, hay vợ chồng bà con, trong quá khứ một đời mười đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước cứu vớt, nên họ báo mộng cho những kẻ xương thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để cứu họ thoát khỏi đường dữ. Phổ quảng, các người hãy vận dụng thần lực làm cho những kẻ xương thịt ấy biết đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt, thì họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa." Lại thêm " Đại loại như vậy, Phổ quảng, các người nên biết Địa tạng đại sĩ, xuất từ thần lực vĩ đại, có những sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết. Đối với Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù có sự liên hệ lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của đại sĩ, cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa (52) , hiện tại cũng đạt được sự yên vui tuyệt diệu, mà vị lai thì trăm ngàn vạn đời luôn luôn sinh ra trong nhà tôn quí, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo." (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông ghi rằng: “ Vào kiếp lâu xa trong thời quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là con của một vị Đại Trưởng Giả. Nhân thấy tướng tốt trang nghiêm của Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát sinh tâm kính ngưỡng, nói rằng để chứng đắc được tướng trang nghiêm này mà phát Nguyện cho đến hết các kiếp chẳng thể tính đếm, ở đời vị lai độ thoát tội khổ của chúng sinh trong sáu nẻo” Lại ghi rằng:”Một trong các kiếp trong a tăng kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, Địa Tạng Bồ Tát là người nữ thuộc giòng Bà La Môn, vì cứu độ mẹ thoát khỏi Địa Ngục đã thay mẹ cúng dường tu Phước và phát Nguyện cho đến hết kiếp vị lai đều rộng cứu độ tội khổ của chúng sinh” (*) Trong Phẩm Diêm Phù Chúng Sinh Nghiệp cảm của Kinh trên cũng ghi nhận hai thuyết là: _ “Vào thời lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát làm vua của một nước. Do thấy người dân trong nước tạo nhiều tội ác, nên đã phát Nguyện độ hết tội của các chúng sinh, đều đến Bồ Đề. Nếu chẳng như vậy thì không thành Phật” _”Ở một kiếp lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là một người nữ tên là Quang Mục. Do mẹ của nàng bị đọa vào Địa Ngục nên Quang Mục vì muốn cứu độ mẹ, đã phát Nguyện cứu giúp nhổ bứt tất cả tội khổ của chúng sinh, đợi cho chúng sinh thành Phật rồi, sau đó mình mới thành Chính Giác” Các Thuyết ghi trên đều tùy theo Tín Ngưỡng Địa Tạng mà rộng truyền trong dân gian, cho nên trong Phật Giáo thường dùng các câu: _“Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” _ “Ta chẳng vào Địa Ngục thì ai vào Địa Ngục ?”Để hình dung lời Nguyện rộng lớn thuộc Tâm Từ Bi thương xót của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, Phẩm Địa Thần Hộ Pháp đề cập đến mười điều lợi ích của việc cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Trong đó hay đắp tượng vẽ tranh, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc hình tượng Ngài Địa Tạng, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì nơi người đó ở liền được mười điều lợi ích là: 1_Đất cát tươi tốt. 2_Nhà cửa an ổn. 3_Người đã chết được sinh lên cõi Trời. 4_ Những người hiện còn được tăng thọ. 5_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 6_ Không có tai họa về lửa và nước. 7_ Trừ sạch việc hư hao. 8_ Dứt hẳn mộng ác. 9_ Khi ra lúc vào có Thần theo hộ vệ. 10_ Thường được gặp bậc Thánh Nhân. (*) Trong Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên nói rằng: “Nếu trong đời sau có kẻ trai lành người nữ thiện nào, nhìn thấy hình tượng Ngài Địa Tạng và nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn uống, quần áo, trân bảo, bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, sẽ được hai mươi tám điều lợi ích là: 1_Trời, Rồng thường hộ niệm. 2_Quả lành ngày càng tăng. 3_ Gom chứa Nhân vô thượng của bậc Thánh. 4_ Chẳng thoái Bồ Đề 5_Ăn mặc được đầy đủ. 6_ Thân không bị vướng những bệnh tật, nạn dịch 7_ Xa lìa tai họa về lửa và nước. 8_ Không bị nạn trộm cướp. 9_ Người khác nhìn thấy đều sinh lòng kính trọng. 10_ Quỷ Thần theo hộ trì. 11_ Đời sau sẽ chuyển thân nữ thành thân nam. 12_ Đời sau sẽ làm con gái của các bậc Vương Giả Đại Thần. 13_ Tướng mạo xinh đẹp. 14_ Phần lớn được sinh về cõi Trời. 15_ Làm bậc vua chúa. 16_ Có Trí sáng biết rõ những việc trong đời trước. 17_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 18_ Quyến thuộc an vui. 19_ Các tai họa đột ngột đều được tiêu diệt. 20_ Các nghiệp về nẻo ác đều dứt hẳn. 21_ Đi đến đâu cũng không bị trở ngại. 22_ Đêm nằm mộng được an ổn vui vẻ. 23_ Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ. 24_ Nếu đời trước có Phước thì được thọ sinh về cõi vui sướng. 25_ Được các bậc Thánh ngợi khen. 26_ Căn Tính lanh lợi thông minh. 27_ Giàu lòng Từ Tâm thương xót. 28_ Cuối cùng thành Phật. Trong băng đĩa Cửu Hoa Sơn (thuộc Tứ Đại Danh Sơn) có ghi nhận bài Địa Tạng Sám nhằm nhấn mạnh vào Pháp Tu Chính Pháp Giải Thoát qua sự nhiếp hóa của Bồ Tát Địa Tạng như sau: _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con lìa hẳn ba nẻo ác _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau dứt Tham Sân Si _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con siêng tu Giới Định Tuệ _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con thường tùy các Phật Học _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con chẳng thoái Tâm Bồ Đề _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con quyết định sinh An Nhẫn _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau được thọ Thánh Ký _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con phân thân khắp các cõi _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con rộng độ các chúng sinh
  7. Tại Nhật Bản Tại Nhật Bản,Tín Ngưỡng Địa Tạng bắt nguồn trong thời kỳ Bình An (Heian:794_1192) và được phát triển qua từng giai đoạn cho đến ngày nay như sau: (*) Kim Tích Vật Ngữ Tập ghi nhận Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong đời hiện tại và dẫn dắt họ sang Thế Giới Cực Lạc (Sukhàvatì) (*) Bộ Nhật Bản Linh Dị Ký tin rằng Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh sau khi lâm chung. (*) Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát chuyên cứu độ linh hồn của trẻ con bị chết yểu nên thường dựng các tượng đá Jizò (Địa Tạng) trong các nghĩa trang và khoác quần áo của trẻ con đã chết ấy lên bức tượng Dần dần Địa Tạng Bồ Tát được đồng hóa với vua Diêm La (Yama-ràja) và được xem là vị chủ tể của cõi U Minh, chuyên cứu độ tất cả chúng sinh trong cõi Địa Ngục. Như quyển Bồ Đề Tâm Luận của ngài Trân Hải cho rằng Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện thành thân Phật hoặc thân Diêm La Vương để vào Địa Ngục cứu độ chúng sinh Biểu tượng thường thấy nhất là tượng Địa Tạng Bồ Tát được tạo dựng trong các nghĩa trang của Phật Giáo hoặc các tranh tượng Địa Tạng qua hình nhà sư đi vào lửa ngục để giải cứu những linh hồn chịu khổ nạn. (*) Ngày nay tại Nhật Bản, Địa Tạng Bồ Tát được thờ phượng qua hình dáng nhà sư đầu trần chân đất, đi vào xã hội cứu độ chúng sinh ngay trong đời này chứ không phải ở chốn Địa Ngục. Trong Thế Kỷ thứ 9, Tín Ngưỡng Địa Tạng được Thiên Đài Tông và Chân Ngôn Tông phổ biến qua hình tướng của sáu vị Địa Tạng. Giác Thiền Sao ghi rằng: 1_ Đại Kiên Cố Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm quyển Kinh 2_ Đại Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải kết Thí Vô Úy Ấn 3_ Thanh Tịnh Vô Cấu Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm rương Kinh Phạn 4_ Đại Quang Minh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm Như Ý 5_ Đại Đức Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn. 6_ Đại Định Trí Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải cầm viên ngọc báu. Hoặc sáu hình tượng Địa Tạng là sáu Hóa Tôn của sáu nẻo đã được ghi nhận trong Đại Nhật Kinh Sớ Ngoài sáu hình tướng trên, Nhật Bản còn lưu truyền nhiều hình tướng Địa Tạng khác là: _ Pháp Tính Địa Tạng: Còn gọi là Bất Hưu Tức Địa Tạng _ Địa Trì Địa Tạng (Jiji Jizò): Còn gọi là Hộ Tán Địa Tạng _ Bảo Tính Địa Tạng: Còn gọi là Phá Thắng Địa Tạng _ Pháp Ấn Địa Tạng: Còn gọi là Tán Long Địa Tạng _ Đà La Ni Địa Tạng: Còn gọi là Biện Ni Địa Tạng _ Long Quy Địa Tạng: Còn gọi là Diên Mệnh Địa Tạng hay Quang Vị Địa Tạng _ Dự Thiên Địa Tạng (Yotenga Jizò):Tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải tác Thuyết Pháp Ấn, cứu độ nẻo Trời Người. _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, giúp cho Ngũ Cốc được mùa _ Kim Cương Tràng Địa Tạng (Kongòtò Jizò):Tay trái cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn, cứu độ nẻo Tu La _ Kim Cương Bi Địa Tạng (Kongòhi Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dẫn Tiếp Ấn, cứu độ nẻo Súc Sinh _ Kim Cương Bảo Địa Tạng (Kongòhò Jizò):Tay trái cầm viên ngọc báu, tay phái tác Cam Lộ Ấn, cứu độ nẻo Quỷ đói _ Kim Cương Nguyện Địa Tạng (Kongògan Jizò):Tay trái cầm cây phướng Diễm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn, vàu Địa Ngục cứu khổ _ Khỏa Địa Tạng: (Hadaka Jizò: Địa Tạng lõa thể) Trường hợp đặc biệt, Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể mang hình tướng một bà già qua tên gọi Mẫu Địa Tạng (Uba Jizò) Hadaka Jizō Hoặc mang hình tướng của người nữ với tên gọi là Tử Dục Địa Tạng (Kosodate Jizò) được kêu cầu như vị Thần bảo vệ và nuôi lớn trẻ con _ Tử An Địa Tạng (Koyasu Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ và nuôi con dễ dàng. Tín Ngưỡng này đã thâm nhập vào Tín Ngưỡng Dân Gian từ sau thời đại Khiếm Thương (Kamakura: 1192_1336) tức lấy sự thị hiện của Bồ Tát Địa Tạng ở vùng Tắc Hà là vị cứu hộ trẻ con, giúp phụ nữ sinh đẻ dễ dàng… và có vẽ hình, ca vịnh tán tụng. Tại Kiyomizu ở Kyoto có dựng tượng Jizò (Địa Tạng) là nơi dùng để tưởng niệm những đứa trẻ bị chết yểu. _ Thủy Tử Địa Tạng hay Ấu Thủy Địa Tạng (Mizuko Jizò): Giúp cho những vong linh trẻ con chết yểu hoặc chết trong thai mẹ…được an lành. Do điều này mà tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được đặt dọc theo bờ sông Sai-no-Kawara nhằm giúp cho những vong linh chết trẻ, thoát khỏi mọi hình phạt, sớm được siêu thoát. Hoặc thiết lập các nghi lễ cầu siêu cho trẻ con bị chết khi người mẹ bị sẩy thai hay phá thai…. Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát có rất nhiều quyền năng như di chuyển, bay, nói hoặc nhổ gai khỏi chân những kẻ lữ hành… Từ đó vô số Tín Ngưỡng Dân Gian đã gắn liền với Địa Tạng như: _ Thích Phi Địa Tạng (Togenuki Jizò): hay giúp cho người lữ hành nhổ gai góc đâm vào chân Togenuki Jizò _ Thường Thí Địa Tạng (Ajimi Jizo): hay giúp cho các vị tu sĩ chuẩn bị các món ăn đặc biệt ở nhà bếp Ajimi Jizō at Koyasan _ Cốc Đoàn Bính Địa Tạng (Botamochi Jizò): hay giúp cho nhà nông có các cái bánh hình tròn để ăn trong thời gian gieo trồng lúa mạ. Botamochi Jizō _ Tỵ Thủ Địa Tạng (Hanatori Jizò): chăm sóc ngựa và gia súc _ Hỏa Tiêu Địa Tạng (Hikeshi Jizò) hay Hỏa Phần Địa Tạng (Hitaki Jizò): bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn tránh khỏi hỏa hoạn _ Thủy Dẫn Địa Tạng (Mizuhiki Jizò): mang nước đến giúp cho lúa mạ, cây cối tăng trưởng _ Vũ Khất Kỳ Địa Tạng (Amagoi Jizò): Cầu đảo xin trời mưa _ Lập Sơn Địa Tạng (Tachiyama Jizò): tạo làm nơi chốn cho phụ nữ nông dân nghỉ ngơi _ Điền Thực Địa Tạng (Taue Jizò): giúp cho ngũ cốc được mùa _ An Sản Địa Tạng (Anzan-Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ dễ dàng Anzan-Jizò _ Nhật Hạn Địa Tạng (Higiri Jizò): giúp cho con người tránh khỏi Thiên Tai _ Tâm Bình Địa Tạng (Shinpei Jizò): giúp cho linh hồn của con người được an bình _ Đạo Dẫn Địa Tạng (Michibiki Jizò): bảo vệ, chỉ đường cho những người đi trong vùng hoang vắng hiểm trở _ Thắng Quân Địa Tạng (Shokògun Jizò): Giúp cho chiến thắng và bình an trong trận mạc Shokògun Jizò _ Diên Mệnh Địa Tạng (Enmei Jizò): giúp cho con người mạnh khỏe sống lâu, không bị bệnh tật _ Du Huyền Địa Tạng (Aburakake Jizò): chữa trị bệnh tật cho con người Aburakake Jizò _ Bảo Ấn Địa Tạng ((Hòin Jizò): Cứu độ súc sinh _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò) hoặc Kiên Cố Ý Địa Tạng (Kenko-i Jizò) hoặc Nhật Quang Địa Tạng (Nikkò Jizò): Cứu độ hàng Trời _ Bảo Xứ Địa Tạng (Hòsho Jizò): Cứu độ A Tu La _Bảo Chưởng Địa Tạng (Hòshò Jizò): Cứu độ Quỷ đói _Trì Địa Địa Tạng (Jiji Jizo) hoặc Trừ Cái Chướng Địa Tạng (Jogaishò Jizò): Cứu độ loài người _ Bảo Châu Địa Tạng (Hòju Jizò): Cứu độ nẻo Địa Ngục _ Hỏa Phục Địa Tạng (Hifuse Jizò): ngăn chận nạn núi lửa. Điển hình là các Tượng Địa Tạng được dựng gần núi lửa Chasudake tại Nhật Ngoài ra Địa Tạng Bồ Tát còn được thờ phụng qua nhiều tên gọi như sau: _ Đàn Đà Địa Tạng (Danda Jizò) _ Nê Túc Địa Tạng (Doroashi Jizò) _ Phúc Đới Địa Tạng (Hara-Obi Jizò) _ Bị Mạo Địa Tạng (Hibò Jizò) _ Hắc Địa Tạng (Kuro Jizò) _ Không Thủ Địa Tạng (Karate Jizò) _ Lạp Địa Tạng (Kasa Jizò) _ Khái Chỉ Địa Tạng (Sekidome Jizò) _ Thúc Tử Địa Tạng (Tawashi Jizò) _ Lung Địa Tạng (Tsunbo Jizò) _ Thỉ Điền Địa Tạng (Yata Jizò) _ Thủ Chấn Địa Tạng (Kubifuri Jizò) Người dân Nhật thường khắc hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát trên đá hoặc dùng đá tảng, cắt xẻ đục đẽo đơn sơ rồi dựng hình tượng của Ngài trên các bệ đá dựng ở ven đường, cổng ra vào của làng mạc, nơi hoang vắng nguy hiểm… nhằm bảo vệ cho làng mạc và khách lữ hành. Riêng ở Tokyo có hơn 500 bức tượng Jizò (Địa Tạng) được dựng dọc theo nhiều tuyến đường Do người Nhật tin tưởng Địa Tạng là vị Bồ Tát giám hộ trẻ thơ, nên thường cho trẻ con chơi đùa loanh quanh, gần một bức tượng Địa Tạng với niềm tin là Ngài sẽ trông coi và bảo vệ cho lũ trẻ [1] Phật Giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng bảy theo Lịch của Nhật Bản là ngày vía của Địa Tạng Bồ Tát và chọn ngày 23, 24 tháng tám làm ngày lễ hội Địa Tạng Bồn (còn gọi là ngày truyền thống của trẻ thơ), nhằm nhắc nhở đến sự mệnh thiêng liêng của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người. Nhiều chùa ở Nhật Bản có dựng một dãy tượng Địa Tạng bằng đá đẽo thô mộc, gọi là Sentai Jizò (ngàn thân Địa Tạng) Do Bản Tính khoan hòa, từ ái của Địa Tạng Bồ Tát kèm với hình tướng nhà sư, khiến Ngài có vẻ gần gũi với dân gian hơn là vị Thần khác. Ngài được gắn liền với Đức Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm thì được xưng tán là “Nhất Phật Nhị Bồ Tát”. Đôi khi, Địa Tạng Bồ Tát còn được biểu thị như là một chiến binh của Thần Đạo Nhật Bản được đồng hóa với Atago Gongen (vị Thần bảo vệ khỏi bị lửa đốt, là một Nhập Thể tạm thời của Jizị được thờ phụng trên núi Atago thuộc tỉnh Kyoto) với hình dáng một chiến tướng ngồi trên lưng ngựa, tay cầm cây gậy hành hương và viên ngọc ước. Thần Thú của Thần Atago Gongen là con lợn rừng, biểu tượng cho sức mạnh, lòng dũng cảm và ý chí kiên cường….nhằm giải cứu cho những chiến binh thoát khỏi mọi tình huống khó khăn nguy cấp hoặc tránh sự gây hại của lợn rừng. [1] Xem thêm : Vị Bồ Tát bảo vệ trẻ em
  8. Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng: Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ nói : “ Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng Tôn là: 1_ Diễm Ma Sứ Giả (Yàma-cetïa): hóa độ Địa Ngục 2_ Trì Bảo Đồng Tử (Ratna-dhàra-kumàra): hóa độ Ngạ Quỷ 3_ Đại Lực Sứ Giả (Mahà-bala-cetïa): hóa độ súc sinh 4_ Đại Từ Thiên Nữ (Mahà-maitreya-devì): hóa độ Tu La 5_ Bảo Tạng Thiên Nữ (Ratna-garbha-devì): hóa độ loài người 6_ Nhiếp Thiên Sứ Giả (Pratigrahadeva-cetïa): hóa độ chư Thiên Nghi Quỹ niệm tụng này, tuy chẳng do ngài Bất Không dịch. Xong cùng với nhóm Diên Mệnh Địa Tạng Kinh, Liên Hoa Tam Muội Kinh đều là Bản thuộc Nghi Tự Bộ. Tại Tây Tạng, khoảng Thế Kỷ thứ 8, do sự phát triển của Mật Giáo nên Địa Tạng Bồ Tát được minh họa trong các bức tranh và các Mạn Đà La (Manïdïala) như là một trong tám vị Bồ Tát vây quanh Đức Phật, biểu thị cho ý nguyện Từ Bi vĩ đại là: “Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” Ngoài ra Phật Giáo Tây Tạng cũng nhận định Địa Tạng Bồ Tát là một trong các Bản Tôn Tài Bảo
  9. Người dân Việt Nam; Trung Hoa thờ phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Ta Bà Tam Thánh ) Một cách bài trí chánh điện tiểu biểu của chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) theo truyền thống Phật giáo Đại thừa Bắc truyền. Chính giữa là tượng Ta bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Bên tay trái Ngài là Địa Tạng Bồ Tát Bên tay phải Ngài là Quàn âm Bồ Tát (Hai vị trí Bồ Tát có thể hoán đổi ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ)===== Chú thích : Truyền thống Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam, chúng ta thường được gặp 3 thế giới : 1 - Tây Phương Cực Lạc Thế Giới : Ở đó cò Đức Phật A Di Đà là giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế hộ trì, gọi là Tây Phương Tam Thánh Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 2 - Đông Phương Tịnh Lưu Ly Thế Giới : Ở đó Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật làm giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Nhật Quang thường chiếu và Nguyệt Quang Thường Chiếu hộ trì, gọi là Đông Phương Tam Thánh. Nam mô Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nhật Quang thường chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quang Thường Chiếu Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát. 3- Trung Thiên Thế Giới (hay còn gọi là cõi ta bà này ): ở đây Đức Phật Thích Ca làm giáo chủ,với 2 vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát hộ trì. Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Do Đức Thích Ca Mâu Ni Ngài đang là giáo chủ cõi Ta Bà thời hiện tại, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát vì có hạng nguyện lớn lao và rất cần thiết cho con người trong xã hội - cõi ta bà này, nên các Ngài đã có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn.Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Tôn Thiết tượng thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Sa Bà Tam Thánh )- Là như vậy.
  10. (*) Mật Giáo của Trung Hoa ghi nhận: Địa Tạng Bồ Tát là Tôn Chủ của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đà La (Garbha-dhàtu-manïdïala), hiển hình Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen , trên hoa có cây phướng báu Như Ý, tay phải cầm viên ngọc báu ngồi trên hoa sen. Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La (Vajra-dhàtu-manïdïala) thì Địa Tạng Bồ Tát được ghi nhận qua tên gọi Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Bảo Sinh Như Lai (Ratna-samïbhava-tathàgata) Căn cứ vào sự đề xuất của Kinh Bát Đại Bồ Tát Man Đồ La thì Địa Tạng Bồ Tát là một trong tám vị Đại Bồ Tát gồm có: Quán Tự Tại (Avalokite’svara), Từ Thị (Maitreya), Hư Không Tạng (Àkà’sa-garbha), Phổ Hiền (Samanta-bhadra), Kim Cương Thủ (Vajra-pànïi), Văn Thù (Mamïju’srì), Trừ Cái Chướng (Sarva-nìvaranïa-visïkambhin), Địa Tạng (Ksitigarbha). Tám vị Bồ Tát này cùng phụ giúp Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn các chúng sinh về Thế Giới Cực Lạc. (*) Do Địa Tạng Bồ Tát dùng sức Bi Nguyện cứu độ chúng sinh, nhất là đối với chúng sinh đang chịu khổ tại cõi Địa Ngục, lại đặc biệt thương xót, thị hiện thân Diêm La Vương (Yàma-ràja-kàya), thân Địa Ngục (Nakara-kàya) rộng vì chúng sinh chịu tội khổ mà nói Pháp để giáo hóa cứu độ. Do điều này mà thân Diêm La Vương thường được xem là một Hóa Thân (Nirmanïa-kàya) của Địa Tạng Bồ Tát. Như Kinh Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương là Địa Tạng Bồ Tát.Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng Địa Ngục (Nakara) trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra) nên dân gian Trung Hoa cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục. Trong động Thiên Phật ở Đôn Hoàng có ghi nhận hình vẽ Địa Tạng Thập Vương tức hội các tượng của Địa Tạng Bồ Tát với mười vị vua Diêm La kèm theo lời văn minh họa. Hình vẽ này được tạo lập trong đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, năm thứ tám (983) nhằm nhấn mạnh rằng Ngài là “Đấng giải thoát khỏi cực hình Địa Ngục” Chính tư tưởng bên trên đã khiến cho một số người ngộ nhận, cho rằng Địa Tạng Bồ Tát chỉ ở tại Địa Ngục để cứu độ chúng sinh trong Địa Ngục. Từ đấy trong việc làm tang ma, Thanh Minh tảo mộ qua tiết Trung Nguyên, Pháp Hội Siêu Độ…thường cúng phụng Địa Tạng Bồ Tát để cầu đảo cho vong linh được siêu độ. Ngoài ra tại nghĩa địa, linh tháp hoặc gặp chiến loạn, sự cố, đất đang phát triển mà mọi người đều đi qua…. thường xây dựng Miếu bái tế Địa Tạng với hy vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo vệ người sống, siêu độ vong linh Thật ra ở trong cả sáu nẻo, Ngài đều có năng lực giáo hóa tế độ. Điều đó được biểu thị qua sáu vị Địa Tạng, tức là Địa Tạng độ hóa chúng sinh trong sáu nẻo. Tên của sáu vị Địa Tạng đều y theo Thế Giới Sa Bà (Sàha-dhàtu) có chúng sinh trong sáu nẻo mà nói. Thế Giới ở phương khác hoặc có bảy nẻo, hoặc năm nẻo… chẳng giống nhau thời Địa Tạng cũng y theo nhân duyên của mỗi phương để mỗi mỗi thị hiện ứng hóa. (*) Danh xưng của Địa Tạng trong sáu nẻo thời các Kinh Quỹ ghi chép chẳng giống nhau. Nhưng theo đại thể mà nói thì đều bắt nguồn ở Đại Nhật Kinh Sớ, quyển thứ năm là: Sáu vị Thượng Thủ (Sïadïa-pramukha) trong chín Tôn (Nava-nàtha) của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhàtu) tức là: Địa Tạng (Ksïitigarbha), Bảo Xứ (Ratnakàra), Bảo Chưởng (Ratna-pànïi), Trì Địa (Dharanïi-dhàra), Bảo Aán Thủ (Ratna-mudrà-hasta), Kiên Cố Ý (Drïdïhàdhyàsaya). Trong đó Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo A Tu La Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời. (*) Kinh Thập Vương ghi nhận rằng: 1_ Dự Thiên Hạ Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải kết Thuyết Pháp Ấn 2_ Phóng Quang Vương Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 3_ Kim Cương Tràng Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 4_ Kim Cương Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Tiếp Dẫn Ấn 5_ Kim Cương Mật Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Cam Lộ Ấn 6_ Kim Cương Nguyện Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây phướng Diêm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn. (*) Kinh Liên Hoa Tam Muội ghi nhận là: 1_ Đàn Đà Địa Tạng hay hóa độ nẻo Địa Ngục, tay cầm cây phướng đầu người [Đàn Đa (danïdïa)ødịch là Nhân Đầu Tràng] 2_ Bảo Châu Địa Tạng hay hóa độ nẻo Ngạ Quỷ, tay cầm viên ngọc báu 3_ Bảo Ấn Địa Tạng hay hóa độ nẻo Súc Sinh, duỗi bàn tay Như Ý Bảo Ấn 4_ Trì Địa Địa Tạng hay hóa độ nẻo Tu La, hay gìn giữa đại địa ủng hộ hàng Tu La 5_ Trừ Cái Chướng Địa Tạng hay hóa độ nẻo người, vì con người trừ sự che chướng của tám khổ 6_ Nhật Quang Địa Tạng hay hóa độ nẻo Trời, soi chiếu năm hiện tượng suy thoái của người Trời để trừ khổ não cho họ. (*) Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Tân Biên ghi nhận 6 vị Địa Tạng là:Hộ Tán Địa Tạng, Diên Mệnh Địa Tạng, Mâu Ni Địa Tạng, Tán Long Địa Tạng, Phá Thắng Địa Tạng, Bất Hưu Tức Địa Tạng Ngoài ra còn có thuyết ghi nhận là: Địa Tạng Bồ Tát cùng với các vị Bồ Tát Quán âm (Avalokite’svara), Đại Thế Chí (Mahà-sthamapràpta), Long Thọ (Nàgarjuna)…đều là các vị theo hầu Đức Phật A Di Đà (Amitàbha-buddha) và xưng là A Di Đà Ngũ Phật. Cũng còn nói là khi Đức Phật A Di Đà còn là con người thì Bồ Tát Pháp Tạng (Dharmàkara) với Bồ Tát Địa Tạng có cùng một Thể.
  11. (*) Địa Tạng Bồ Tát còn được xem là vị Thần bảo toàn đời sống qua tên gọi là Diên Mệnh Địa Tạng tức Thân Hóa Hiện bởi Thệ Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát để khiến cho sống lâu làm lợi ích cho đời, hay tránh khỏi sự chết yểu, đoản mệnh có đủ Đức của Pháp khoẻ mạnh sống lâu. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Như Lai Tán Thán ghi chép rằng: “Nếu có người nào mới sinh con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà đọc tụng Kinh Điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay gái mới sinh ra đó, nếu đời trước nó đã gây tạo tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi Phước Lực mà thọ sinh, thì đời nó càng được an vui hơn sống lâu hơn”.
  12. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương. (*) Lại nữa, Phật Giáo Trung Hoa còn xếp Địa Tạng Bồ Tát là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán âm, Địa Tạng) ứng hóa giảng thuyết tại Đạo Tràng ở núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy. Điện thờ đức Địa Tạng vương trên đỉnh Cửu Hoa sơn Tống Cao Tăng Truyện, quyển 20 ghi nhận rằng: “ Địa Tạng Bồ Tát sinh hạ vào giòng Vương Tộc ở nước Tân La, tên là Kim Kiều Giác rồi xuất gia. Sau thời Đường Huyền Tôn thì đến Trung Hoa tu Đạo ở núi Cửu Hoa, ở 75 năm đến ngày 30 tháng 7 năm Khai Nguyên thứ 26, đời Đường thì viên tịch, thọ thế 99 tuổi. Vì nhục thân chẳng hư hoại nên đem toàn thân vào Tháp, tức là Nhục Thân Điện tại núi Cửu Hoa, tương truyền tức là nơi Địa Tạng Bồ Tát thành Đạo”. Từ sự tích này nên người dân Trung Hoa chọn ngày 30 tháng 7 âm Lịch làm ngày Thánh Sinh của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Đến đời Thanh (1644_1911) thì Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn chủ quản ngũ cốc phong phú đồng thời cũng chủ về sự kính ái, phù hộ cho gia đình hòa thuận. (*) Ngày nay, đại đa số người dân Trung Hoa đều cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục và xưng tán Ngài là U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát cai quản mười điện Diêm Vương, tức là Bản Tôn chuyên cứu độ chúng sinh bị khổ đau trong cõi Địa Ngục. Nguồn gốc của danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát được nói ở trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) là: “An nhẫn chẳng động giống như đại địa, lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật (Bí Tạng) cho nên gọi là Địa Tạng” “An nhẫn chẳng động giống như đại địa” là nói Nhẫn Ba La Mật (Ksïànti-pàramità) bậc nhất của Địa Tạng Bồ Tát , giống như đại địa (đất đai) hay chịu đựng chuyên chở mọi loại nghiệp tội của tất cả chúng sinh. “Lặng lẽ suy nghĩ” trong câu “Lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật” là hiển rõ sự chẳng thể luận bàn của Trí Tuệ Thiền Định ấy 3 .) Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển một nói rằng:"Địa Tạng có ý nghĩa là ẩn chứa (kho báu bị che dấu trong lòng đất)" tức là nói tất cả kho báu ngầm dấu kín trong lòng đất đều là Địa Tạng (*) Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận, quyển 4 ghi rằng: "Dùng kho tàng ẩn chứa trong lòng đất ví như hiển bày Như Lai Tạng (Tathàgata-garbha). Nhưng kho báu này, một phương diện là đại biểu cho Phật Tính (Buddhatà) trong sạch không nhiễm bẩn của chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh thành tựu viên mãn Phật Quả. Một phương diện khác là đại biểu cho Phước Đức, Trí Tuệ, Tài Bảo vô tận của sinh mệnh, cho nên Địa Tạng đại biểu cho tất cả kho tàng ẩn chứa Công Đức chẳng thể nghĩ bàn”. Địa (đất) còn có bảy ý nghĩa đặc trưng là: 1_ Đất hay sinh ra vạn vật 2_ Đất thu nhiếp vạn vật 3_ Đất chuyên chở vạn vật 4_ Đất cất giữ nhiều kho tàng của cải vật chất 5_ Đất hay nuôi dưỡng giúp cho vạn vật tăng trưởng 6_ Đất hay nâng đỡ, là chỗ dựa của vạn vật 7_ Đất bền chắc vững vàng, chẳng động Do đó dùng hình dạng cụ thể của Đất (địa) để biểu thị cho Phước Đức có được của Địa Tạng Bồ Tát là: 1_ Địa Tạng Bồ Tát hay sinh ra mọi Pháp lành 2_ Địa Tạng Bồ Tát hay thâu nhiếp mọi Pháp lành trong Tâm Đại Giác 3_ Địa Tạng Bồ Tát hay gánh vác tất cả chúng sinh, dìu dắt họ tiến dần trên con đường giác ngộ. 4_ Địa Tạng Bồ Tát hay cất giữ mọi Pháp màu nhiệm 5_ Địa Tạng Bồ Tát hay dùng mọi Pháp lành bình đẳng giúp cho mọi chúng sinh tăng trưởng Chính Pháp giải thoát. 6_ Địa Tạng Bồ Tát là chỗ dựa vững chắc của tất cả chúng sinh. 7_ Địa Tạng Bồ Tát hay hiển bày tâm Bồ Đề màu nhiệm, bền chắc như Kim Cương chẳng thể bị phá hoại. Trong Kinh lại ghi rằng: "Địa Tạng Bồ Tát trụ ở Kim Cương Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới Tam Muội, giống như Kim Cương Địa Luân rất bền chắc chẳng thể phá hoại, cho nên hay trụ giữ vạn vật khiến cho chẳng lay động. Lại giống như trái đất hay ẩn chứa các loại kho tàng quý báu không có cùng tận, hàm chứa tất cả hạt giống, khiến cho chẳng mục nát, dần dần tươi tốt thêm. Địa Tạng hay khiến cho đầy đủ tất cả Tâm Nguyện của chúng sinh thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, là thai mẹ (Mẫu Thai) hay sinh ra chúng sinh để thành Phật. Đại Địa ở ý nghĩa hiện tượng cụ thể trên, có đầy đủ tính chất đặc biệt là: Sinh trưởng, bền chắc, trụ giữ vạn vật, chẳng động, rộng lớn, cùng với thai mẹ có đầy đủ khả năng sinh ra tất cả kho báu. Do Địa Tạng Bồ Tát cũng có đầy đủ Phước Đức như vậy, cho nên dùng Địa Tạng để tác làm danh hiệu đó". (*) Phẩm Tựa của Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển 1 và Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển 1 ghi rằng: “Địa Tạng Bồ Tát do Thệ Nguyện Đại Bi ở đời quá khứ, nên thị hiện thành thân Đại Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Thanh Văn, thân Diêm La Vương, thân sư tử, thân cọp, thân chó sói, thân bò, thân ngựa cho đến thân La Sát, thân Địa Ngục…vô lượng vô số thân khác loài để giáo hóa chúng sinh và đặc biệt là thuận theo niệm của chúng sinh, thọ nhận nỗi khổ đau ở đời ác năm Trược, tương ứng với điều mong cầu của chúng sinh giúp cho họ tiêu Tai tăng Phước. Do thành thục căn lành của chúng sinh mà Địa Tạng Bồ Tát biến hiện vô số Hóa Thân như vậy để cứu độ chúng sinh, nên lại được xưng là Thiên Thể Địa Tạng” (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm Phân Thân Tập Hội ghi nhận lời phó chúc của Đức Thích Tôn, ở trong thời đại không có Phật, từ sau khi Đức Phật Thích Ca (‘Sàkyamunïi-buddha) viên tịch cho đến lúc Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thành Đạo, thời Địa Tạng sẽ làm vị Bồ Tát tự thề độ hết chúng sinh trong sáu nẻo mới thành tựu Nguyện. Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ Tát có Bi Nguyện (Kàrunïa-pranïidhàna) đặc biệt sâu nặng. Dựa vào Đức đặt biệt này mà Phật Giáo Đồ thường xưng tán Ngài là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (*) Do trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), có ghi nhận hai tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát là: Bà La Môn Nữ và Quang Mục Nữ vì muốn cứu độ mẹ thoát khỏi nỗi khổ đau trong Địa Ngục mà chuyên tâm tu hành, thề cứu giúp mẹ với tất cả chúng sinh. Cho nên Phật Giáo Trung Quốc nhận định Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là Kinh báo hiếu của nhà Phật nhằm nhấn mạnh việc tu học bắt đầu từ sự hiếu kính cha mẹ, tôn trọng Thầy Tổ cho đến cứu giúp chúng sinh. (*) Địa Tạng Bồ Tát lại được xem như là kho tàng ẩn chứa các Công Đức vi diệu, đầy đủ các trân bảo giải thoát, giống như viên ngọc Như Ý tuôn mưa mọi tài bảo. Tùy theo sự mong cầu chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc là cầu Phước Đức, tiền của, giàu có đều khiến được mãn túc. Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân ghi rằng: "Tùy theo chỗ ở. Nếu quần áo, thức ăn uống, đồ dùng hàng ngày của các hữu tình có chỗ thiếu thốn mà hay chí tâm xưng tên niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, thời tất cả đều được như Pháp mong cầu". Lại nói rằng: "Hay thủ hộ cho Hành Giả tu học pháp môn của Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho tất cả tiền của, quan vị chẳng thiếu thốn". Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn Tài Bảo, hay khiến cho tất cả chúng sinh thỏa mãn mọi mong cầu, chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc cầu Phước Đức, tiền của, giàu có.
  13. Do Tín Ngưỡng Địa Tạng không nhận được sự sùng mộ của dân Ấn Độ, nên đã mất dần các dấu tích. _ Sau này, Tín Ngưỡng Địa Tạng theo bước chân những Tăng Đoàn truyền giáo Phật Giáo du nhập vào vùng Trung Á, trạm dừng chân đầu tiên là Turkestan. Từ đây một hình tượng phổ biến của Địa Tạng Bồ Tát là: “Nhà sư cầm cây gậy hành hương với một viên ngọc Như Ý” được phụng thờ như là vị Bồ Tát bảo vệ người lữ hành thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hàng ngàn hình tượng Địa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Lung-Men và Tun-Hoang đã minh họa cho Tín Ngưỡng này. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương.
  14. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn. Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển thượng có chép: “Địa Tạng Bồ Tát do tâm đại bi phát đại nguyện lực trong thời quá khứ, cho nên Ngài hiện thân trời Đại Phạm Vương, hiện thân Đế Thích, hiện thân Thanh Văn, hiện thân Diêm La Vương, Ngài còn hiện thân Voi, Sư tử, Hổ, Báo, Trâu, Ngựa, cho đến hiện thân La Sát, Địa Ngục.v.v...vô lượng vô số các thân tướng khác nhau, để giáo hóa chúng sanh...”. (LƯỢC Ý HÌNH TƯỚNG - NGUYỆN LỰC CỦA ĐỨC ĐỊA TẠNG TRONG TINH THẦN HÀNH BỒ TÁT ĐẠO PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN) - Thích Tâm Mãn Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn, Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại-thiên chi giới. Biên trích : Địa Tạng Bồ Tát 地 藏 菩 薩 ( Tài liệu Do cư sĩ Huyền Thanh biên soạn Công Minh bổ sung hình ảnh minh họa và ghi chú ) Địa Tạng Bồ Tát tên Phạn là Ksïitigarbha, dịch âm là Tát Khất Xoa Để Nghiệt Bà. Ksïi là động từ mang nghĩa: chịu đựng, tồn tại, cư trú, ở Ksïiti: nghĩa là trú xứ, nơi đang cư ngụ, căn nhà, đất trồng trọt, đất nước, quê hương, trái đất. Garbha: nghĩa đen là Tử cung, dạ con, có thai, thọ thai, tưởng tượng, hình thành trong trí óc. Nghĩa bóng là cất chứa, ôm giữ. Ksïitigarbha được dịch ý là Địa Tạng, tức là người ôm giữ trái đất hoặc Mẫu Thể của Đại Địa. Do đất hay chuyên chở vạn vật, giúp cho vạn vật sinh sôi nảy nở, hàm chứa vô số nguồn lợi, tiền tài, vật báu…cho nên Địa Tạng là vị Bồ Tát biểu thị cho kho báu tiềm ẩn trong Đại Địa, hay chuyên chở mọi khổ nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát triển căn lành, được tài bảo vô tận, tròn đủ Phước Đức (Punïya) Trí Tuệ (Prajnõa). Nếu người tu hành theo Pháp của Địa Tạng Bồ Tát thì có thể khiến cho ngũ cốc [Đại Mạch (Yava), Tiểu Mạch (Godhùma), Lúa gié (‘Sàli), Tiểu Đậu (Masùra), mè (Atasì)] đầy kho, kéo dài mạng sống, tránh mọi hiểm nạn, tròn đủ tư lương (Sambhàra) Phước Trí vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi _ Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển rất sớm trong các Tông Phái Đại Thừa (Mahà-yàna) ở Aán Độ (Thế Kỷ thứ 4) Khởi nguyên của Tín Ngưỡng Địa Tạng có thể được khai triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên (Prïthivi), tức là Địa Thần, Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Trì Địa Thần. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho Thể Tính của đất là bền chắc chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng hay giữ gìn vạn vật. Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (RÏg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi… Hiện tượng Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên có thể được nhận biết qua hình tượng được ghi nhận trong Phật Giáo đời Thanh ở Trung Quốc là: Đầu đội mão Trời, thân khoác áo lụa mỏng, đeo chuỗi Anh Lạc với các vật báu trang sức, tay trái cầm cây lúa (tượng trưng cho ngũ cốc phong phú), tay phải cầm viên ngọc Như Ý để ngang ngực (tượng trưng cho việc thỏa mãn mọi mong cầu của chúng sinh), ngồi trên tòa sen.
  15. Cám ơn anh hoangnt đã có bài "ủng hộ" CM. Về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, thật ra CM cũng còn đang học, nên xin phép được trao đổi những kiến thức về đề tài này cùng anh ở Topic khác. Để dịp này CM hoàn thành topic này đã. Hy vọng sẽ được học hỏi từ anh những kiến thức hay. Xin cám ơn và mong anh tiếp tục ủng hộ.