+Achau+

Hội viên
  • Số nội dung

    533
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by +Achau+

  1. Sư phụ xem bài viết này, đệ tử đã phân tích đúng chưa & có cần phải sửa nhiều không SP? Đệ tử định viết bài này đưa vào mục trao đổi học thuật vì thấy nó rất hay. Khu đô thị mới Thủ Thiêm - Quận 2 Phân tích & đánh giá theo Phong Thuỷ Lạc Việt Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lại khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm thương mại – tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng nước ngoài tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng ý tưởng gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Ngược theo thời gian. Khu bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn. Bỏ qua các yếu tố ngoại cảnh khác, nhìn bán đảo Thủ Thiêm dưới góc độ phân tích theo Phong Thuỷ Lạc Việt thấy có một số những điểm lưu ý như sau: Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng (phương Đông Bắc). Khu vực từ Tây Bắc tới Tây, khí lực cuộc đất rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm. Khu vực từ Tây- Tây Nam- Nam, khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông Nam (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Giao thông đi lại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính. Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Do nằm không đắc cách nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Như vậy, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Hinh tham khảo: http://wikimapia.org/#lat=10.7783367&lon=106.729517&z=14&l=38&m=b
  2. Dự Án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm - Quận 2 Nhìn từ Phong Thuỷ Lạc Việt Nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Chịu trách nhiệm chính: Achau Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Nhìn trên bản đồ Thành phố HCM, có thể thấy lợi thế của bán đảo Thủ Thiêm nằm ngay giữa khu vực trung tâm của TP. Theo qui hoạch bán đảo Thủ Thiêm có vị trí rất thuận lợi về giao thông: Là cửa ngõ của TP, điểm đầu của nút giao thông xa lộ Hà nội đi các tỉnh phía Bắc, đại lộ Đông Tây đi qua khu vực bán đảo Thủ Thiêm nối liền các tỉnh miền Tây với miền Đông Nam bộ, khoảng cách từ bán đảo Thủ Thiêm đi sân bay quốc tế Long Thành - Đồng Nai trong tương lai cũng không phải là quá xa khi lưư thông bằng xa lộ. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm (Hình minh họa) Đã có những phong thủy gia ca ngợi vị trí đắc địa của bán đảo Thủ Thiêm với những khái niệm chuyên môn, mà chúng ta có thể thấy được qua bài viết trên báo TT&VH sau đây: Nhưng ngược theo thời gian, chúng ta có thể thấy không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả khi Sài Gòn là một thành phố sầm uất với danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” thì bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn…. Rõ ràng, đây là thực tế trái ngược với những nhận xét của các phong thủy gia khi áp dụng một cách máy móc những khái niệm phong thủy. Không những vậy, mà ngay cả với những quyết tâm - Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP, nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ….. Nếu chúng ta loại suy những yếu tố ngoại quan khác và phân tích những nguyên nhân khiến cho bán đảo Thủ Thiêm chưa phát triển, dưới góc nhìn theo Phong Thuỷ Lạc Việt thì vị trí địa lý ở đây có những khiếm khuyết lớn cần khắc phục với mục đích mang lại sự phồn vinh nơi đây. Xét về Hình lý - Khí Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng lại nằm bên “Tả Ngạn”, có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí với sự phân tích về khí của Phong thủy Lạc Việt. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng chậu (phương Đông Bắc). Toàn bộ bán đảo với rất nhiều kênh rạch, thêm một chỉ dấu rất rõ của một cuộc đất yếu, có thể ví như một bình bông bị nứt rạn nên càng khó có thể giữ được nguồn sinh khí của cuộc đất. Khu vực từ Tây Bắc tới Tây (ô số 1): Khí lực cuộc đất của khu vực này rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nối từ Quận 1 sang. Cách cục của âm dương giao trì nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm và chỉ mang tính cục bộ , dân cư hầu hết chỉ tập trung ở khu vực bên trái của tuyến đường Lương Đình Của. Khu vực từ Tây Nam- Nam (ô số 2): Khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư Quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Khu Đông Bắc – Đông (ô số 3) Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Tuy nhiên vì khí dồn vào góc phía Đông, nên ở đây có cơ hội phát triển. Đó chính là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tuy nhiên vì tổng thể vô khí, nên sự phát triển chậm chạp. Dương khí qua các tuyến giao thông chính Phong thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Những tuyến đường giao thông đều mang tới dương khí cho cuộc đất do tương tác của những phương tiện vận động, tính chất giống như những dòng sông chảy. Nhưng phân Âm Dương so với sông và là một sự tương tác với các khái niệm đồng đẳng theo Phong Thủy Lạc Việt. Trên cơ sở này, chúng ta xem xét sự tương quan của nguồn khí do giao thông đem lại. Điều này tương tự như ở Bắc sông Hồng (Tả ngạn), trước đây vốn là vùng đất không phát triển. Nhưng từ khi những cây cầu bắc qua sông Hồng hình thành , như: Cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì….vv…xuất hiện thì trở thành khu đô thị trù phú. Giao thông đi lại hiện tại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính như sau: Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Có tính chất tiếp khí từ cầu Sài Gòn và theo trục Bắc Nam. Nhưng do nằm không đắc cách, bị xéo tạo khúc gãy so với góc nhọn xa lộ Hà Nội. Đã vậy, tuyến đường khi chạy qua Thủ Thiêm thì dừng ở sông Sài Gòn, Như vậy, Dương khí bị bế không thông. Nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang và do tính tiếp khí tích cực của cây cầu này, cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Qua đây, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, để khu đô thị mới Thủ Thiêm phát triển được theo đúng ý tưởng đề ra ban đầu thì rất có một qui hoạch thích hợp với vị trí Địa Lý cần tụ khí nơi đây. Người viết rất hy vọng rằng bài viết này dưới góc nhìn của khoa Phong Thủy sẽ góp phần cho khu đô thị Thủ Thiêm được tốt đẹp hơn với mục đích mang lại sự phồn vinh và phát triển của T/P chúng ta. Trong năm nay, theo huyền không thì sao Nhị Hắc vận niên tinh đều chiếu hướng Đông Bắc. Tuy đây là hai sao không được coi là tốt trong sinh hoạt, nhưng lại là sao Quý nhân cho những cuộc đất mới phát triển. Cho nên, người viết hy vọng rằng trong năm nay sẽ có nhiều cơ hội để những nhà đầu tư đến với dự án quy hoạch khu đô thị này.
  3. Thêm 3 người bị rơi từ công trường cao ốc Keangnam Trưa 27/7, ngay sau khi thi công trở lại, 3 công nhân và cán bộ kỹ thuật làm việc tại hầm thang máy tầng 13 Hanoi Landmark Tower đã trượt chân, rơi cùng tấm cốp pha xuống phía dưới. > Đình chỉ thi công cao ốc xảy ra 2 vụ chết người liên tiếp/ Chủ tịch Keangnam Vina xin lỗi về 2 vụ tai nạn Vụ việc xảy ra khoảng 11h trưa 27/7 tại tòa tháp A của công trình, nơi đã xảy ra tai nạn làm 2 công nhân chết trước đó 6 ngày. Theo các nhân chứng, trong lúc đang làm việc tại hầm thang máy ở tầng 13, 3 công nhân và cán bộ kỹ thuật của nhà thầu - Công ty CP Xây dựng số 1 (COFICO) đã trượt chân và rơi cùng tấm cốp pha xuống phía dưới. Khi rơi đến khoảng tầng 8, 9, tấm cốp pha bị mắc và giữ lại cả 3 người. Một người bị thương nặng và bất tỉnh tại chỗ, hai người còn lại bị xây xát và chấn thương ở lưng. Các nạn nhân đang được cấp cứu tại Bệnh viện Việt Đức. Ảnh: Anh Thư Theo chủ đầu tư, Hanoi Landmark Tower sẽ là tòa nhà cao nhất Việt Nam. Theo ghi nhận của phóng viên VnExpress.net, ngày 27/7, tại các công trình này, hàng trăm công nhân Công ty CP Xây dựng số 1 (COFICO), Công ty CP Xây dựng địa ốc Hòa Bình đã quay trở tiếp tục làm việc, máy móc, thiết bị cũng đã hoạt động trở lại sau 4 ngày ngừng thi công. Trao đổi với VnExpress.net sáng nay, ông Bùi Văn Chiểu, Phó giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội, tỏ ý ngạc nhiên khi biết tiếp tục có 3 người bị thương tại công trường xây dựng của nhà thầu Keang nam. Ông cho biết, công trình này tiếp tục phải đình chỉ thi công để làm rõ nguyên nhân các vụ tai nạn. Sở sẽ có cuộc làm việc với chủ đầu tư để chấn chỉnh công tác an toàn lao động. Như vậy, chỉ trong 1 tuần đã xảy ra 3 vụ tai nạn trên công trường Keang nam làm 4 người chết, 3 người bị thương. Trước đó, sau 2 tai nạn liên tiếp, chủ đầu tư là Tập đoàn Keangnam đã gửi lời xin lỗi về sự việc và cam kết phối hợp cùng các cơ quan chức năng tìm hiểu nguyên nhân tai nạn. Ông Ha Jong Suk, Chủ tịch Keangnam Vina khi đó cũng khẳng định, kiểm tra đầy đủ về biện pháp thực thi an toàn lao động của toàn bộ các nhà thầu. Chỉ sau khi kiểm tra thực hiện đánh giá "đảm bảo an toàn", việc thi công của từng nhà thầu mới được tiếp tục. Anh Thư - Đoàn Loan(vnexpress.net) Mới đang xây mà lắm người chết thế! Không biết tòa nhà này khi khởi công có phạm gì không nhỉ? Hay đơn thuần chỉ là sự cẩu thả & vô trách nhiệm???
  4. Achau thành thực cám ơn Quản trị viên 07, Thiên Đồng, Thiên Luân & các ACE Trung tâm đã dành chút thời gian quí báu của mình đi tư vấn PTLV giúp cho Gia đình các ACE thành viên trên Diễn Đàn Lý học hiện đang gặp khó khăn! Thực lòng, Achau cũng rất muốn góp chút công sức của mình cùng với ACE Trung tâm. Dạo này nhiều chuyện lu bu quá. Hơn nữa tự thấy kiến thức của mình đang còn những hạn chế nhất định nên không tham gia cùng với ACE được. Achau xin rút tên khỏi Topic Tư vấn từ thiện này. Thành thực xin lỗi Sư phụ, ACE trung tâm NC Lý học & Gia đình các ACE thành viên Diễn đàn đang cần giúp đỡ! Achau.
  5. Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988 Tác giả: Hoàng Hường Bài đã được xuất bản.: 9 giờ trước Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988 Phát ngôn&Hành động: Minh bạch chủ quyền và con tim lập lờ Chỉ cần được học dù phải đánh đổi bằng sinh mạng NS Quỳnh Hợp: Tổ quốc lâm nguy lòng người sao bình lặng được! Chúng tôi tìm về tỉnh Quảng Bình, nơi tập trung nhiều cựu chiến binh tham gia vào trận đánh bi hùng này. Họ là những người trực tiếp chiến đấu cùng anh Phương và anh Lanh, và trên chuyến tàu HQ-604 anh hùng, để được nghe tường tận hơn những câu chuyện rơi nước mắt chưa từng được biết đến. Những ngày gần đây, tình hình Biển Đông đang căng thẳng. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phức tạp. Người dân cả nước lại hướng trái tim ra vùng trời biển tổ quốc. Những sự kiện từng xảy ra trên vùng biển, cũng như trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại được đặc biệt quan tâm, trong đó đương nhiên có trận hải chiến trên đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 14/3/1988. Sự kiện được đề cập tới trong clip phim tài liệu 'vòng tròn bất tử' từng làm làm xôn xao cư dân mạng từ năm 2008. Hình ảnh thiếu úy liệt sĩ Trần Văn Phương ngã xuống khi giành giật lá cờ tổ quốc, và Anh hùng Quân đội Nguyễn Văn Lanh tay không chiến đấu để bảo vệ cờ đã trở thành biểu tượng anh dũng trong công cuộc giữ gìn chủ quyền đất nước. Gần đây Tuần Việt Nam đã đăng bài viết Phía sau những người đã ngã xuống vì Trường Sa ghi lại những câu chuyện cảm động về các gia đình, thân nhân liệt sĩ đã ngã xuống trong sự kiện ngày 14/3/1988. Để tiếp nối câu chuyện và có cái nhìn trực diện hơn, chúng tôi tìm về tỉnh Quảng Bình, nơi tập trung nhiều cựu chiến binh tham gia vào trận đánh bi hùng này. Họ là những người trực tiếp chiến đấu cùng anh Phương và anh Lanh, và trên chuyến tàu HQ-604 anh hùng, để được nghe tường tận hơn những câu chuyện rơi nước mắt chưa từng được biết đến. Vợ chồng anh Lê Văn Đông và Nguyễn Thị Thương, Ảnh: Hằng Nhom Đầu xuân năm 1988, thượng sĩ Lê Văn Đông (Thôn Rẫy, xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình) được nghỉ phép hai tuần đón Tết Nguyên Đán. Không bỏ phí khoảng thời gian quý báu, anh chiến sĩ (khi ấy 22 tuổi - chỉ còn vài tháng nữa là hết kỳ nghĩa vụ quân sự) tranh thủ tổ chức đám cưới với người con gái cùng thôn đã chờ anh mấy năm quân ngũ. Ngay trong ngày cưới, chú rể nhận lệnh của đơn vị và đúng 24 giờ sau, Lê Văn Đông quay lại đơn vị chuẩn bị làm nhiệm vụ. Bỏ lại cô dâu mới và đêm tân hôn còn nồng đượm, chàng trai lên đường và không biết hơn một tháng sau đó, cuộc đời binh nghiệp của anh có những lối rẽ không ngờ, gắn liền với một dấu mốc trong lịch sử chủ quyền đất nước. Anh Mai Văn Hải đang 'ngắm' lại chính mình trong đoạn clip phim tài liệu. Lời bình trong phim cho rằng người này là chiến sĩ Trương Văn Hiền, nhưng các nhân chứng đều khẳng định đó là anh Mai Văn Hải. Hiện anh Hải đang sống tại xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ảnh: Hoàng Hường Đầu năm 1988, Trung Quốc bất ngờ đổ bộ chiếm đóng trái phép 5 đảo đá: Chữ Thập, Châu Viên, Xu Bi, Huy Gơ và Ga Ven trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, sát cụm đảo Sinh Tồn. Trong khi đó, trên 3 đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao phía Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn, giống ba góc tam giác có vị trí như trạm quan sát tuyến đầu, 'mắt thần' của Trường Sa, đã có nhà đóng giữ và cột mốc chủ quyền của Việt Nam. Anh Nguyễn Văn Thống, anh là một trong những người bị thương nặng nhất trong trận chiến ngày 14/3/1988. Anh bị chìm cùng tàu HQ-604. Khi được vớt lên, chính đồng đội cũng không nhận ra anh. Anh Thống hiện là thương binh hạng 1. Anh sống cùng vợ con tại xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Ảnh: Hằng Nhom. Chiều 13/3/1988, Việt Nam đưa ba tàu vận tải HQ-604, HQ-605, HQ-505 chở bộ đội ra đóng giữ ba đảo này. Lực lượng chủ yếu trên ba tàu này là các chiến sĩ thuộc Trung đoàn Công binh Hải quân Việt Nam E83, đơn vị của anh Lê Văn Đông. Trước đó đơn vị này đang đóng quân tại Đà Nẵng, được điều khẩn cấp ra Cam Ranh, Khánh Hòa. Khá tình cờ, nhiều đồng hương của anh Đông tại Quảng Bình cùng đơn vị đều đi trên tàu HQ-604, được lệnh đóng giữ đảo Gạc Ma, con tàu bị tổn thất nặng nề nhất với gần như toàn bộ thủy thủ thương vong hoặc bị bắt, tàu bị bắn chìm. Anh Lê Văn Đông chỉ vào cảnh anh đang bị lính Trung Quốc bắt trong đoạn phim tài liệu, Ảnh Hằng Nhom Anh Đông kể lại, hầu hết chiến sĩ trên tàu thuộc trung đoàn công binh E83 và một số học viên của Học viện Hải quân. Tuổi đời hầu hết đều khoảng từ 20 - 23. Trong đó anh Đông thuộc diện 'may mắn' hơn vì đã kịp lấy vợ. Hầu hết những chiến sĩ khác đều chưa lập gia đình, để rồi nhiều người trong số họ đã ngã xuống khi chưa kịp có một mối tình nào mang theo. Những đồng đội Quảng Bình như Mai Văn Hải, Nguyễn Văn Thống, Trần Văn Quyết, Lê Thanh Miễn và nhiều người đều 'bái phục' thành tựu tình yêu của anh Đông. Thế nhưng sau này, khi trải qua biến cố trên đảo Gạc Ma, bị báo tử khi còn sống. Trong các câu chuyện khi bị tù đày nơi xứ người. Anh Đông không khỏi day dứt về người vợ trẻ vừa cưới được một ngày của mình, khi vừa mang thai được vài tháng đã nhận tin chồng hy sinh. Nhưng chị Nguyễn Thị Thương - vợ anh Đông - đã may mắn hơn nhiều người vợ lính khác trong sự kiện 14/3/1988 lại được đón chồng trở về, để trở thành nhân chứng của một câu chuyện lịch sử. Kỳ 2: Vòng tròn bất tử
  6. Chúc mừng sinh nhật chị Wild! Em chúc Chị luôn Khỏe & Hạnh phúc! em Achau
  7. Lo ngại bao trùm đường sắt cao tốc Trung Quốc 25/07/2011 0:08 Vụ tai nạn thảm khốc ở tỉnh Chiết Giang gióng lên hồi chuông báo động về đường sắt cao tốc Trung Quốc, vốn chịu nhiều tai tiếng về tham nhũng. Tính tới ngày 24.7, đã có ít nhất 35 người chết và 210 người bị thương trong vụ hai tàu tông nhau trên tuyến đường sắt cao tốc đoạn ở thành phố Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, theo Tân Hoa xã. Trong số các nạn nhân thiệt mạng, mới xác minh được nhân thân 19 người, bao gồm 2 người nước ngoài. Tai nạn thảm khốc này xảy ra trên đoạn đường ray cách mặt đất 15m, khi tàu D301 đâm phải đuôi tàu D3115, khiến 4 toa của D301 và 2 toa của D3115 trật đường ray, rơi thẳng xuống đất, bẹp dúm. Theo điều tra ban đầu, tàu D3115 bị sét đánh gây mất điện và phải dừng lại trên đường ray. Bất thần, tàu này bị tàu D301 đụng mạnh từ phía sau. Hình ảnh trên truyền hình cho thấy những toa tàu rúm ró nằm nghiêng ngả trên trong khi những nạn nhân thương tích đầy mình được khiêng khỏi hiện trường. Do tính nghiêm trọng của tai nạn, Cục trưởng Cục Đường sắt Thượng Hải Long Kinh, Bí thư Đảng bộ Lý Gia và một quan chức cấp cao khác đã bị cách chức để điều tra. Vụ việc xảy ra chưa đầy một tháng sau khi tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải trị giá 33 tỉ USD đi vào hoạt động. Tuyến đường này cũng nhiều lần xảy ra sự cố khi các chuyến tàu bị trì hoãn do mất điện. “Đại nhảy vọt” Cư dân mạng Trung Quốc rất bất bình về thái độ vô trách nhiệm của tổ lái tàu D3115. Theo lịch trình, hai tàu cách nhau tới hơn 10 phút và hoàn toàn có thể tránh được tai nạn thảm khốc nếu nhân viên trên tàu D3115 kịp thời gọi điện thông báo sau khi tàu bị mất điện. Dư luận cũng chỉ trích dữ dội hệ thống thông tin trên tuyến đường sắt cao tốc yếu kém tới mức tàu D3115 vừa bị sét đánh đã mất hết tín hiệu và điện thoại vệ tinh có cũng như không. Phần lớn các bình luận đều cho rằng chất lượng đường ray và ý thức của người điều khiển giao thông đã góp phần lớn gây nên tai nạn. Hiện trường vụ tai nạn ở Ôn Châu - Ảnh: AFP Trang tin Tài chính Trung Quốc cho rằng với chỉ tiêu do Quốc vụ viện đưa ra trong cuộc họp ngày 7.1.2004 là “tới năm 2020, phải đưa bằng được 100.000 km đường sắt cao tốc vào vận hành” khiến ngành đường sắt cao tốc buộc phải phát triển kiểu “đại nhảy vọt”, bất chấp cả vấn đề an toàn và chất lượng. Chính tờ Hành khách của Bộ Đường sắt nước này số ra ngày 1.7.2011 cũng có bài phản ánh rằng người Đức mất từ 2-3 tháng để học lái tàu cao tốc, nhưng người Trung Quốc bị lãnh đạo chỉ thị “bắt buộc phải lái bằng được chỉ sau 10 ngày học”. Điều này khiến các chuyên gia Đức tham gia giảng dạy lái tàu cũng phải than thở là “điên rồ và không thể hoàn thành được”. Nhưng trên thực tế nhiều lái tàu Trung Quốc vẫn bị ép học “nhồi nhét” và đốt giai đoạn như vậy. Tham nhũng tràn lan Kế hoạch phát triển đường sắt cao tốc ở Trung Quốc bắt đầu được đẩy mạnh từ năm 2003, đặc biệt khi ông Lưu Chí Quân nhận chức Bộ trưởng Đường sắt, kiêm Bí thư Đảng bộ. Tuy nhiên tới tháng 2.2011, ông này bị bắt để điều tra về hành vi tham nhũng suốt 7 năm trong các dự án đấu thầu xây dựng đường sắt cao tốc. Em trai của Lưu Chí Quân là Lưu Chí Tường - từng là Phó cục trưởng Cục Đường sắt tỉnh Hồ Bắc, đã bị tử hình vào năm 2006 nhiều tội danh: lũng đoạn ngành đường sắt, tham ô hơn 40 triệu tệ, thuê sát thủ âm mưu giết người diệt khẩu. Tháng 3.2011, giới kiểm toán Trung Quốc phát hiện các công ty xây dựng và một số cá nhân đã tham ô 187 triệu nhân dân tệ (600 tỉ đồng) trong dự án đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải. Trước đây, báo chí Trung Quốc từng điều tra về tham nhũng trong ngành đường sắt nhưng phần lớn đều chìm xuồng. Năm 2008, tờ Thời báo Trung Quốc đăng bài về việc sử dụng vật liệu kém chất lượng trong công trình xây dựng tuyến đường tàu cao tốc Võ Quảng. Sau khi bài báo được đăng, Bộ Đường sắt đã kiện Bộ Thông tin - Tuyên truyền tội đưa tin sai sự thật và phóng viên bị nghỉ việc. Cuối năm 2010, tờ Kinh tế thế kỷ 21 cũng đăng một bài điều tra tương tự về tham ô, rút ruột trong quá trình phát triển đường sắt cao tốc nhưng gặp rất nhiều rắc rối sau đó. Cùng năm, nhà báo Doãn Mặc Tam của báo Tương Thanh ở tỉnh Hồ Nam đã đi sâu vào điều tra và phát hiện nhiều công ty “ma” hoặc không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng vẫn trúng thầu dự án xây dựng tuyến tàu cao tốc Hộ Côn. NgọcBi ==== K biết việt nam mình khi nào làm đường sắt kao tốc có mời công ty trung quốc tư vấn k bít. Nhỡ trung quốc cho vay ODA để làm dự án này thì không bít mọi chuyện ra làm sao nữa, lo nhất là cái anh an toàn à. hây hà. khà khà. Làm cái anh đường sắt kao tốc loạng quạng lại phát triển cái anh xi măng, sắt thép, dịch vụ giải trí... k bít chừng.
  8. Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (04/07/2011) Sau khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 của Hải quân VNCH là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH đang thực thi chủ quyền lâu đời của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và việc liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này là một hiển nhiên trong lịch sử. Sơ đồ trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 Trên thực tế khi ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa tháng 4-1956 từ quân đội Pháp, Hải quân VNCH phát hiện Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép các đảo phía đông của quần đảo này. Kể từ đó cho đến khi diễn ra trận hải chiến 1974, vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam không còn bình yên truớc những diễn biến làm phức tạp tình hình từ phía Trung Quốc. Từ năm 1956, Hải quân VNCH đã phát hiện ngư dân Trung Quốc nhiều lần xâm nhập trái phép các đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa do chính quyền VNCH quản lý. Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Hạm đội 7- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng rút quân và các thiết bị ra khỏi vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Kể từ đó, các hoạt động xâm nhập trái phép của Trung Quốc lên các đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày càng gia tăng. Để mở đầu cho kế hoạch gây chiến và đánh chiếm, ngày 11-1-1974 Trung Quốc đột ngột ra Tuyên bố phản đối việc chính quyền VNCH 4 tháng trước điều chỉnh sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy của Việt Nam và nhắc lại yêu sách vô lý của họ về chủ quyền trên toàn bộ các đảo và quần đảo ở Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Ngay lập tức, ngày 12-1-1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền VNCH ra Tuyên bố bác bỏ yêu sách vô lý của Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 16-1-1974, chính quyền VNCH tiếp tục ra Tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử minh chứng chủ quyền lâu dài và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong ngày 16-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) khi đưa một phái đoàn ra quần đảo Hoàng Sa để khảo sát xây dựng sân bay thì phát hiện hai chiến hạm của Trung Quốc gần đảo Cam Tuyền và quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép, cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc... Nhận được tin báo khẩn cấp, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH điều thêm chiến hạm ra quần đảo Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên vùng biển này của tàu chiến Trung Quốc với thái độ ôn hòa, kiềm chế. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng đã điều động một lực lượng tàu chiến hùng hậu tiến về phía quần đảo Hoàng Sa, trong đó có nhiều tàu đánh cá vũ trang và đổ bộ lên một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để cắm cờ. Một số tàu cá vũ trang của Trung Quốc còn bám theo các chiến hạm của Hải quân VNCH đang trên đường ra Hoàng Sa, cản trở hành trình của các tàu Việt Nam bằng những hành động khiêu khích. Bốn chiến hạm của Hải quân VNCH đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam năm 1974 (HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16) Ngày 17-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đổ bộ một toán biệt hải lên đảo Vĩnh Lạc để nhổ cờ Trung Quốc. Toán đổ bộ còn phát hiện một số ngôi mộ giả mới đắp không hề có xương cốt với những tấm bia gỗ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước. Theo các nhân chứng, đêm 17 rạng sáng ngày 18-1-1974 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình gia tăng sự khiêu khích, các chiến hạm của họ bắt đầu tiến sâu vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Các tàu chiến của Hải quân VNCH liên tục ra tín hiệu cảnh báo: "Đây là lãnh hải Việt Nam, yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay”. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả và cho rằng quần đảo Hoàng Sa là "lãnh hải” của Trung Quốc, họ lì lợm không rút lui theo yêu cầu và cảnh báo ôn hòa từ phía Việt Nam. Ngày 18-1-1974, chiến hạm HQ-4 tiến về phía đảo Cam Tuyền, đổ bộ một toán biệt hải lên đảo lúc 8 giờ sáng. Sau khi hạ cờ Trung Quốc, toán đổ bộ phát hiện những ngôi mộ giả do phía Trung Quốc mới đắp giống như trên đảo Vĩnh Lạc hôm trước. Đến 11giờ cùng ngày, nhận được tin báo có hai tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đang xâm nhập trái phép và tiến về quần đảo Hoàng Sa, các tàu HQ-4 và HQ-16 của Hải quân VNCH ra ngăn chặn, dùng tín hiệu cảnh cáo và yêu cầu các tàu xâm nhập trái phép ngay lập tức phải rút ra khỏi vùng biển Việt Nam. Nhưng hai tàu cá vũ trang của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh và cố tình khiêu khích, gây hấn. Tàu HQ-4 tiến thẳng đến gần một tàu cá Trung Quốc, nhìn thấy rõ thủy thủ đoàn trên tàu mặc đồng phục xanh dương đậm, có trang bị 2 súng đại liên và rất nhiều súng tiểu liên cá nhân. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc để xua đuổi và dùng loa phóng thanh hết cỡ yêu cầu họ ngay lập tức rút khỏi vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả bằng những lời lẽ khiêu khích và gây hấn. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 dùng mũi ủi vào tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của Hải quân VNCH họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt tham gia xua đuổi tiếp các tàu cá vũ trang còn lại của Trung Quốc trong khu vực này. Buổi chiều cùng ngày, 3 chiến hạm của VNCH bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) được lệnh sắp đội hình hàng dọc tiến về đảo Duy Mộng. Khoảng 16giờ cùng ngày, có hai tàu chiến của Trung Quốc tiến ra khiêu khích, cắt đường ngang mũi các tàu HQ-4 và HQ-16. Do đội hình bị chia cắt, tàu của VNCH không thể tiến lên được, khoảng cách của hai bên rất gần nhau, các khẩu đại bác trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nhưng các tàu của VNCH được lệnh phải hết sức kiềm chế và phải cố gắng hết sức để thuyết phục phía Trung Quốc lui quân. Đêm 18 rạng sáng 19-1-1974, tàu chiến và tàu đánh cá Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng khiêu khích và ngày càng tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa. Tàu HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang thật sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trong khi đang bị hỏng một máy chính chưa kịp sửa chữa, đã nhận lệnh ra Hoàng Sa tham gia đội hình chiến đấu. Khoảng 6 giờ sáng ngày 19-1-1974, Tàu HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Theo ông Lữ Công Bảy, nguyên là thượng sỹ giám lộ có mặt trên chiến hạm HQ-4 trong trận hải chiến 1974, từ đài chỉ huy bằng ống nhòm, tàu HQ-4 đã phát hiện doanh trại mới toanh, có cột cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng tàu HQ-4 có dịp khảo sát đảo này không hề thấy), như vậy Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo mới đây. Đài chỉ huy đồng thời phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân rất đông lên phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc liên tục đổ người ào ạt lên các đảo của Việt Nam. Và họ đã nổ súng trước. Vào lúc 8 giờ 30 phút, một loạt đại liên và cối 82 của Trung Quốc đã bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sỹ tử vong và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam vẫn không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì đội hình người nhái Việt Nam đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Cùng lúc đó, xuất hiện hai chiếc tàu Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly ngay bên cạnh tàu HQ-4. Các họng súng đại bác của tàu Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4. Các tín hiệu bằng đèn cực kỳ khiêu khích của tàu Trung Quốc liên tục được chuyển tới tàu HQ-4. Khoảng 10 giờ, hai trục lôi hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 bắt đầu tách khỏi hai chiếc 274 và 271, chạy song song gần nhau và bất chợt cùng quay mũi trực chỉ HQ-10. Vẫn chưa có lệnh khai hỏa từ phía VNCH. Các tàu chiến của Trung Quốc từ từ tiến gần đội hình của VNCH, còn cách tàu HQ-10 chỉ khoảng 200 mét, tình hình hết sức căng thẳng. Khoảng 10 giờ 25 phút, bốn chiến hạm của Hải quân VNCH được lệnh nổ súng để tự vệ trước sự gia tăng gây hấn, khiêu khích và xâm chiếm trái phép ngày càng quyết liệt hơn của Trung Quốc. Những phát đạn đầu tiên của HQ-10 trúng ngay vào chiếc 389 của Trung Quốc làm nó bốc cháy, cùng lúc tàu HQ-16 cũng bắn thẳng vào chiếc 386 làm cho đài chỉ huy bị trúng đạn, hỏng hệ thống điều khiển bánh lái khiến nó cứ xoay vòng. Đang chiếm ưu thế, bất chợt khẩu 76,2 ly trên tàu HQ-10 bị trục trặc, thêm vào đó HQ-10 chỉ còn một máy chính nên xoay trở rất chậm trở thành mục tiêu dễ dàng của đối phương. Lợi dụng sự bất lợi đó, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ-10 trúng đạn. Không bỏ lỡ cơ hội, chiếc 389 của Trung Quốc tiến đến gần phía sau lái của HQ-10, nhưng bị các binh sỹ trên tàu HQ-10 chống trả dữ dội và điều khiển tàu đâm vào phần sau lái của chiếc 389, khiến chiếc này hư hỏng nặng và bị loại khỏi vòng chiến. Đây cũng là lý do khiến chiếc 396 phải ngưng chiến đấu với tàu HQ-16 để cấp tốc ứng cứu chiếc 389 và đưa chiếc này ủi lên bãi san hô để tránh bị chìm xuống biển. Tình trạng của tàu HQ-10 lúc này rất bi đát, hơn 70% chiến sỹ đã tử trận kể cả hạm trưởng. Các tàu Trung Quốc phản kích dữ đội. Cùng lúc đó Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm ở gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Các chiến sỹ còn trụ lại trên tàu HQ-10 đang bốc cháy vẫn tiếp tục nổ súng vào các tàu Trung Quốc, thu hút hỏa lực cho các đồng đội khác rút lui cho đến khi chìm hẳn xuống lòng Biển Đông của Tổ quốc. Sau khoảng hơn 45 phút giao chiến, theo tài liệu của Trung Quốc có các tàu của Trung Quốc mang số hiệu 274, 271, 389, 391 trúng đạn hư hỏng nặng; 281, 282 và 402, 407 hư hại trung bình. Theo tài liệu của VNCH, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trúng đạn bị chìm, HQ-16 bị hư hại nặng, HQ-4 và HQ-5 bị hư hại nhẹ. VNCH có hơn 50 binh sỹ tử trận. Trung Quốc bắt giữ 48 binh sỹ VNCH và một người Mỹ, sau đó trao trả cho Việt Nam và Hoa Kỳ tại Hồng Kông. Hình ảnh chiếc trục lôi hạm 389 của Trung Quốc bị loại khỏi vòng chiến phải ủi vào bãi san hô để không bị chìm Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH liên tục phát ra nhiều Tuyên bố phản đối hành động "xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” này của Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) cũng ra Tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường "về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” . Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ CMLTCHMNVN cũng đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMNVN đã lên tiếng bác bỏ các thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa và Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay luôn do người Việt Nam quản lý. Nhóm PV Biển Đông
  9. Ghi sâu lời Bác dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" ND- 55 năm trước đây, ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Đền Hùng, gặp mặt và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". .......... http://www.baomoi.co...122/3223752.epi ====
  10. Ông Nguyễn Cao Kỳ qua đời tại Malaysia Rạng sáng nay, ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn, đã qua đời tại một bệnh viện ở Malaysia, ở tuổi 81. > Ông Nguyễn Cao Kỳ: 'Tôi muốn là sứ giả hòa hợp dân tộc' Ông Nguyễn Cao Kỳ. Ảnh: AFP Sáng nay, nữ MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên (con gái ông Nguyễn Cao Kỳ) cho VnExpress biết, chỉ ít phút sau khi được đưa vào bệnh viện ở Malaysia, ông Kỳ đã qua đời. Trước đó, ông có biểu hiện khó thở. Kỳ Duyên chia sẻ, mấy năm gần đây cha cô rất yếu, thường xuyên phải vào viện. Những ngày cuối đời, ông thường động viên con gái về nước và hướng cô kinh doanh ở Đà Nẵng. Theo đánh giá của ông, đây là một mảnh đất vàng, nhiều tiềm năng phát triển. "Duyên rất hãnh diện khi tên mình được gắn với tên ông - Nguyễn Cao Kỳ", cô tâm sự. Kỳ Duyên đang ở Việt Nam và hôm nay sẽ bay sang Malaysia để cùng gia đình lo tang lễ cho cha. Ông Nguyễn Cao Kỳ sinh năm 1930, là sĩ quan quân đội, chính khách của chính quyền Sài Gòn và từng giữ chức vụ Thủ tướng, Phó tổng thống. Ông có 3 vợ và 6 con. Năm 2004, lần đầu tiên sau gần 30 năm kết thúc chiến tranh, ông Nguyễn Cao Kỳ cùng vợ và con gái đã về đón năm mới ở quê hương. Ông từng khẳng định, muốn làm sứ giả cho sự hoà giải và kết hợp đại đoàn kết dân tộc. Hồng Khánh http://vnexpress.net...i-tai-malaysia/
  11. Giàn khoan Trung Quốc đe dọa an ninh Biển Đông Tác giả: Nguyễn Đức Hùng-Lê Vĩnh Trương- Dư Văn Toán - Nguyễn Trọng Bình- Phạm Thu Xuân (QNCBĐ) Bài đã được xuất bản.: 23/07/2011 05:00 GMT+7 Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002. Trung Quốc cho tàu Hải Tuần 31 rời bến ngày 15/6 qua vùng Biển Ðông và ghé Hoàng Sa, Trường Sa đến Singapore. Truyền thông nước này cho biết đây là tàu hải tuần lớn nhất của họ ra Hoàng Sa và Trường Sa giữa lúc căng thẳng gia tăng tại vùng biển tranh chấp này. Ngoài ra Trung Quốc đang hoàn thành và sắp đưa giàn khoan kích thước lớn ra Biển Đông gây xôn xao dư luận trên thế giới. Sự kiện này nằm trong chiến lược ngoại giao pháo hạm, xâm lấn bằng tàu dân sự để bành trướng xuống Biển Đông, phục vụ việc sở hữu năng lượng của Trung Quốc. Bài viết này trình bày một số điểm liên quan đến giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc và những ảnh hưởng đến an ninh khu vực Biển Đông. 1. Giới thiệu Với những tiến bộ về khoa học công nghệ hải dương và đóng tàu, Trung Quốc đang có những thành công trong lĩnh vực chế tạo và sản xuất hàng loạt tàu chiến hạng siêu nặng, giàn khoan dầu khí khổng lồ nhằm khai thác tài nguyên biển phục vụ phát triển quân sự và kinh tế của mình. Sẽ có ít bàn cãi, nếu các hoạt động của các kết cấu này diễn ra trong vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia sở hữu, nhưng ngược lại, nếu các thiết bị này được dùng như lá bài thăm dò và khai thác dầu khí mà thực chất đó lại là những cấu kiện nhằm tìm chiếm tài nguyên tại các vùng biển thuộc chủ quyền nước khác, việc này không khác gì hành động xâm lược. Những thách thức của các kết cấu này thật hiển nhiên, do đó việc chuẩn bị các giải pháp xử lý theo chủ quyền Việt Nam, theo đúng luật quốc tế là cần thiết. Theo UNCLOS và các bộ luật khác, hiện chưa có quy chế nào về việc lấn biển hay hình thành đảo nhân tạo cũng như chưa có quy chế vùng ngoại vi cho các thực thể này ngoài khơi hay gần bờ.[1] Vậy thì thực thể này (giàn khoan dầu khí khổng lồ) có ý nghĩa gì? Được hưởng những quy chế nào? Và Trung Quốc sẽ tiến hành đặt giàn khoan khổng lồ này ở đâu và sẽ gây ảnh hưởng tới các nước vành đai Biển Đông như thế nào? Do Trung Quốc có nhiều chiêu bài, nhiều cách thức và biện pháp để phục vụ mục đích cuối cùng của họ là độc chiếm Biển Đông, những ai quan tâm đến tình hình an ninh và ổn định ở khu vực Biển Đông và trên thế giới chắc chắn sẽ có những quan ngại nhất định. Chú thích cho bản đồ trong Hình 1: Đường mầu xanh nước biển là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý cách đường cơ sở của các quốc gia chung Biển Đông. Theo cách phân chia giả định này dựa trên giả thiết các đảo trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough không được hưởng quy chế 100% hiệu lực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý. Khu vực khép kín bởi đường mầu xanh nước biển nằm giữa đường phân định đặc quyền kinh tế là khu vực chung, được coi là vùng thềm lục địa chung của các quốc gia chung Biển Đông cần có thỏa thuận phù hợp trong việc khai thác tài nguyên và đánh bắt cá. Các chấm tròn màu xanh lá cây thể hiện lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo được cho là có tranh chấp thuộc các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough. Đường mầu xanh lá cây là đường trung tuyến cách đều bờ từ Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đường mầu đỏ đứt đoạn là đường chữ U (lưỡi bò) của Trung Quốc. Chúng ta thử đưa ra các giả định để tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn này. Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 tới vị trí nào trên Biển Đông? Từ bản đồ trong Hình 1, chúng ta có thể thấy có một trong những kịch bản sau: Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng Đặc quyền kinh tế của Trung Quốc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng khu vực chung Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng EEZ của Việt Nam Trung Quốc đưa giàn khoan vào một ví trị nằm vùng giới hạn bởi đường xanh lá cây Kịch bản khác... 2. Sự kiện Sự cố tình chủ ý vi phạm chủ quyền Trường Sa củaViệt Nam của Trung Quốc từ năm 1984 Chủ nghĩa đế quốc và ngành hải dương học thường đi cùng nhau, đó là kinh nghiêm đúc kết từ các siêu cường biển trong lịch sử như Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan, Mỹ, Nga. Trung Quốc cũng đang đặt mục tiêu trở thành siêu cường biển mới trên thế giới nên họ đã đang dùng nhiều thủ đoạn nghiên cứu đáy biển, mặt biển thuộc chủ quyền của các quốc gia láng giềng tại Biển Đông, nhằmphục vụ các tham vọng kinh tế và chính trị của mình. Theo những tài liệu mà chúng tôi tham khảo, từ năm 1984 đến năm 1986, Viện Hải dương học Nam Hải và từ 1987-1991 Viện Khoa học quốc gia Trung Quốc gồm nhiều cơ quan, đã vi phạm chủ quyền biển Việt Nam và thực hiện nhiều nghiên cứu địa chất hải dương chi tiết tại khu vực Trường Sa và lân cận. Họ đã xuất bản tập tổng kết năm 1992, 400 trang, với nhiều kết luận về khoáng sản đáy biển Trường Sa và cho rằng những kết quả này là bước đầu trong công cuộc khai thác và mở rộng biên giới biển phía Nam cho họ[1]. Thời gian này do vừa kết thúc chiến tranh và hạn chế điều kiện, Việt Nam chỉ có thể khởi động nghiên cứu về Trường Sa từ sau năm 1990. Chúng ta cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn, chất lượng hơn và đi vào thực tiễn hơn nữa để có đủ kiến thức và phản bác những hành vi lấn chiếm của Trung Quốc trên các diễn đàn, hội nghi khoa học quốc tế. Năm 2010, Trung Quốc tuyên bố đã dùng tàu ngầm thực hiện cắm cờ của họ dưới đáy Biển Đông ở 17 điểm, trong đó điểm có độ sâu nhất là 3759 m. Tuy vậy do họ không công khai vùng biển nào trên Biển Đông, nên đã có quan ngại lớn cho các quốc gia lân cận và cả toàn thế giới. Đầu năm 2011 Trung Quốc đã khởi động dự án South China Sea Deep (Vùng nước sâu Biển Đông) trước tiên là nghiên cứu các hướng phát triển của đáy đại dương, kế đó là trầm tích, khí hậu, sinh học đáy đại dương. Đó là việc hấp thu cacbon của các vi sinh vật, cuộc sống dưới đáy biển, sự trao đổi dưỡng chất và phiêu sinh vật... tại nhiều vùng ở Biển Đông cũng như giữa Biển Đông và Thái Bình Dương. Đề án trên do nhà khoa học Uông Phẩm Tiên, thuộc Đại Học Đồng Tế ở Thượng Hải chủ trì. Ông này có thể đã nhờ đến sự hỗ trợ của Giao Long, con tàu lặn hiện đại nhất của Trung Quốc, có khả năng lặn sâu đến 7km dưới đáy biển. Dự án được đưa ra một phần từ nghiên cứu của chiếc Đại Dương Nhất Hiệu năm 2007 về những dải kiến tạo ở giữa đại dương do các dịch chuyển của vỏ trái đất. Đồng thời, các nhà thám hiểm trên tàu này cũng phát hiện được vị trí nhiều mỏ đồng, chì, kẽm cũng như các nguồn thủy nhiệt tại đây. Những nỗ lực khoa học của Trung Quốc thực đáng khâm phục, song nếu những thành quả khoa học này được sử dụng cho mục đích cuối cùng là khống chế những vùng biển chung của nhân loại vì lợi ích kỷ của một tập đoàn cầm quyền thì thế giới cần có biện pháp ngăn chận. Cuối năm 2011 Trung Quốc cho triển khai loạt 6 tàu dầu khí, trong đó có giàn khoan khổng lồ CNOOC 981. Đây là giàn khoan chủ lực của Trung Quốc nhằm khai thác tài nguyên biển sâu. Giàn khoan 981 được mệnh danh là "hàng không mẫu hạm" trên biển[2] ,được trang bị các thiết bị hiện đại nhất thế giới. Trung Quốc đã thực hiện thành công khá nhiều toan tính của họ tại Biển Đông, liên tục leo thang gây căng thẳng từ tháng ba năm 2011 tại vùng biển gần Philippines đến cắt cáp thăm dò hai tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam ngày 26/05/2011 và ngày 09/06/2011. Trung Quốc liên tục gây hấn, liên tục xoa dịu thế giới và đẩy khu vực Đông Nam Á vào chính sách "bên miệng hố chiến tranh". Tại sao? Chưa nói xa thêm về chiến lược Chuỗi Ngọc Trai[3] vốn được họ hoạch định sẽ bao trùm Ấn Độ Dương, chúng ta hãy quan sát các động thái tiếp theo. Ngoài ý đồ đánh vẹt Việt Nam đang đơn độc và Philipines cả tin ra hai bên để lấn xuống trọn vẹn hai cánh của đường chữ U. Để sau này tiến xuống thanh toán ba nước Indonesia, Brunei, Malaysia mà hiện nay vẫn đang quan sát, Trung Quốc còn có 1 chủ ý khác. Đó là ra vẻ giảm nhẹ căng thẳng về tinh thần, tức tạm ngưng quấy phá, để thực hiện một chiến dịch chiếm đóng thực tế bằng các khối sắt thép đồ sộ, những giàn khoan[4]-dưới dạng đảo nhân tạo. Từ đó tạo thế cho những con tàu quân sự ngụy trang dân sự, hoặc cả những con tàu quân sự có nơi giao lưu dễ dàng về tiếp vận, về thông tin và cả về tinh thần của đoàn quân viễn chinh tương lai. Chúng ta hãy theo dòng sự kiện gần đây mà Trung Quốc đã gây ra với Việt Nam để gây sức ép như sau . Ngày 28/5/2011 Trung Quốc đề nghị hợp tác khai thác 19 lô dầu khí ở ngoài khơi Biển Đông (theo phương án gác tranh chấp cùng khai thác). Ngày 10/6/2011 Trung Quốc đã liên tiếp đe dọa Idemitsu, BP và ExxonMobil nếu các Tập đoàn này không rút các dự án khỏi Việt Nam. Trong dòng chảy sự kiện, chúng ta thấy ngày 26/05/2011 (sự cố Bình Minh 2) và ngày 09/06/2011 (sự kiện Viking 2) chẳng qua chỉ là những mắt xích nhỏ trong toàn bộ hệ thống của Trung quốc đang thực hiện để xâm chiếm tài nguyên trong vùng biển Việt nam . Chúng ta có thể quan sát sự ra đời và phô diễn hàng loạt sản phẩm khổng lồ trong năm 2011 của Trung Quốc: 2.1 Tàu sân bay Thi Lang[5] Tầu sân bay Thi Lang có chiều dài 302 mét, chiều rộng 70,5 mét, vận tốc đạt 29-31 hải lý/giờ (khoảng 53 đến 57 km/h), có thể chuyên chở được 50 máy bay chiến đấu và chứa thêm nhiều máy bay trực thăng[6]. Tên chính thức cho con tàu này vẫn còn đang bàn cãi. Có thể tên tàu sẽ là "Trung Sơn" hoặc "Mao Trạch Đông" hoặc 'Tát Chấn Băng",đề đốc thủy sư thời Bắc Dương, đại thần thời Viên Thế Khải, ủy viên Quân ủy Trung ương sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập[7]. "Thi Lang vốn là hình mẫu của Varyag được Nga bán laị cho Trung Quốc làm sắt vụn vào giữa những năm 1990. Cũng trên cơ sở mẫu của thiết bị quân sự thanh lý này, Trung Quốc sẽ còn chế tạo 2 tàu khác vào năm 2020. Chiếc đầu, sẽ giống tàu "Varyag" (mua trực tiếp của Ukraine với giá 20 triệu đôla), còn chiếc thứ hai, như các chuyên gia quân sự Nga khẳng định, sẽ hao hao với chiếc tàu sân bay nguyên tử của Liên Xô cũ chưa kịp hoàn thành mang tên "Ulianovsk", mà dường như Ukraine bí mật chuyển giao cho Trung Quốc. Máy bay tiêm kích trên boong tàu sẽ là chiếc J-15 "hàng nhái" của Su-27 của Nga. Nhờ bộ hồ sơ kỹ thuật của Su-27 và nguyên mẫu của Ukraine, Trung Quốc đã tự chế tạo máy bay tiêm kích trên boong tàu sân bay của họ gọi là J-15. Hệ thống radar trên chiếc hàng không mẫu hạm này, theo chuyên gia Nga, cũng sao chép nguyên mẫu trạm radar "Chuỗi ngọc" loại hiện đại nhất của Nga, sản phẩm của Liên hiệp sản xuất "Fazotron". Trạm này chính là một phiên bản của Trạm "Zuk", vừa được đề xuất cho máy bay tiêm kích Mig-35, loại máy bay mới nhất của Nga (mà không hiểu sao Trung Quốc có được). Các trang thiết bị của máy bay cũng sao chép những bản thiết kế máy bay tiêm kích của Nga. Các trang thiết bị huấn luyện trên bờ hoàn toàn là phiên bản boong tàu sân bay, cho phép huấn luyện các phi công, mô phỏng hoạt động của tàu sân bay khi đang ở giữa biển, các thao tác hạ cánh và cất cánh của máy bay tiêm kích. Tất cả giáo án tập luyện đó các chuyên gia Trung Quốc đã được làm quen tại Ukraine (khi mua lại tàu sân bay của Ukraine). Giới chuyên gia Nga cho rằng, bằng việc sao chép công nghệ, Trung Quốc đã tiết kiệm được 1 tỷ đô la và 20 - 25 năm trong việc chế tạo tàu sân bay Thi Lang."[8] 2.2 Giàn khoan CNOOC 981 Giàn khoan CNOOC 981 dài 114 m, rộng 90 m, gồm năm tầng cao 136 m (tương đương tòa nhà 45 tầng). Trọng tải tịnh hơn 30.000 tấn. Diện tích boong tương đương sân vận động bóng đá đúng tiêu chuẩn. Giàn khoan có đầy đủ hệ thống phục vụ cho 160 công nhân làm việc và nghỉ ngơi. Đây là giàn khoan kiểu nửa chìm hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 m, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 m, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới và là Giàn khoan cấp siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc sản xuất[9]. Hiện nay trên thế giới chỉ có khoảng 20 giàn khoan hoạt động ở độ sâu 3.000m." Giàn khoan này có giá trị cao, tiêu tốn hơn chín trăm hai mươi triệu USD và có ích lợi đối với Trung Quốc như là một pháo đài quân sự ngụy trang, một cơ sở nghiên cứu khoa học đại dương, một nhà máy khoan dầu khổng lồ... Bản thân giàn khoan này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho môi trường, phá hoại môi sinh. Và đây cũng chính là mối nguy rất lớn đối với các quốc gia láng riềng về mặt quốc phòng an ninh, về nguy cơ chiếm dụng khai thác tài nguyên khoáng sản biển sâu. 2.3 Một số tàu dầu khí phục vụ các mục đích khác Tàu thăm dò địa chấn 12 cáp quang Dầu mỏ hải dương 720 Tàu thăm dò Dầu mỏ hải dương 708 Tàu đặt ống nước sâu Dầu mỏ hải dương 201. Tàu công trình đa năng Dầu mỏ hải dương 681 Tàu công trình tự chạy kiểu nửa chìm Dầu mỏ hải dương 278. Các nước ASEAN có thể sẽ mất cảnh giác vì đã qua nhiều năm tháng chịu đựng sóng gió với những cuộc cắt cáp, đe dọa, dọa trừng phạt kinh tế, xua đuổi nước thứ ba can dự. Các nước ASEAN có thể chưa biết rằng các giàn khoan khổng lồ này chính là các pháo đài ngoài khơi quan trọng trong bước lấn chiếm Biển Đông từ ngôn từ đi ra hiện thực. Đây là chiêu thức đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ và thực hành chiếm cứ thật sự. 3. Các kịch bản cho các Giàn khoan, tiền đồn quân sự của Trung Quốc Nếu giàn khoan này mang đến đặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia (xem Hình 1) như một thách thức chủ quyền của một trong năm nước này, Trung Quốc coi như đã phớt lờ luật pháp quốc tế bằng một hành động ngang ngược và từng nước sẽ có cách xử lý riêng của mình. Khi giả thiết rơi vào một trong năm nước đã nêu, có nghĩa là Trung Quốc đã khẳng định sẽ sẵn sàng va chạm để xác định đường chữ U là có giá trị thực tế. Nếu giàn khoan này mang đến vùng nước đang được tranh chấp bởi Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei tại khu vực Trường Sa nhưng ngoài khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của từng nước, Trung Quốc đang dựa vào thói quen "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", thiếu đoàn kết của ASEAN, để các nước tự nhìn nhau và bản thân mình tránh va chạm. Nếu Trung Quốc mang giàn khoan lớn này đến đóng ngoài các vùng tranh chấp và ngoài các vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của các nước thì điều đó có phải họ có thiện chí xuống thang các đòi hỏi của họ dạng đường chữ U hay không? Trong trường hợp này, giàn khoan lớn này như một căn cứ quân sự (gỉa dạng) xa bờ tại vùng biển Ðông, Trung Quốc sẽ thách thức câu nói của Ngoại Trưởng Mỹ tại ARF một cách trực diện. Lợi ích quốc gia của Mỹ là thông thương và hải hành tại Biển Đông. Vậy đối tượng chính bị thách thức sẽ ứng xử ra sao nếu Trung Quốc lại dùng cách thức cũ y như cách ngụy trang tàu dân sự của các tàu Hải Giám, Hải Tuần, Ngư Chính? Liệu pháo đài trên biển giả dạng dân sự sẽ tác động như thế nào đến lợi ích của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước khác. 4. Việt Nam sẽ chuẩn bị gì? Trước câu hỏi Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ này đi đâu, có nhiều giả thiết đặt ra. Sẽ không có tranh cãi nếu chúng nằm tại vùng EEZ Trung Quốc. Nhưng nếu chúng đi vào các vùng tiềm năng dầu khí cao như địa điểm tương tự điểm xảy ra sự cố Bình Minh 2. Việt Nam cần có một thái độ kiên quyết để xua đuổi chúng đi. Những giàn khoan này có thể sẽ là những căn cứ quân sự với các thiết bị hiện đại ngoài các vùng biển sâu tới 3,000 m (như miền trung bộ Việt Nam). Khi ấy, tàu thuyền đánh cả Việt Nam ra vào vùng này sẽ gặp những trở ngại chờ đón thường trực, và tạo ra sức ép quân sự lên quốc phòng của Việt nam.. Việc quan trọng nhất là Việt nam tiếp tục kiên quyết trong vấn đề áp dụng UNCLOS 1982 cho Biển Đông, phản đối đường chữ U của Trung Quốc bằng việc đưa ra đường phân chia (giả định) của Việt Nam và thông báo cho thế giới biết chủ trương của Việt Nam. Về mặt luật pháp quốc tế, các quy định trong UNCLOS 82 thì đảo nhân tạo chỉ được đặt trong vùng nội thủy và đảo nhân tạo không được dùng tính đường cơ sở. Nhưng với các cách thức lấn dần của Trung Quốc xưa nay. Việc giành trước, dọa kèm và lấn sau đã thành một chiến thuật thông thường của họ. Có lẽ chính phủ và nhân dân các nước Đông Nam Á cần hội đủ ý chí chính trị để khẳng định với Trung Quốc rằng các giàn khoan này chỉ được khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế của nước sở hữu. Những giàn khoan này chịu được sóng bão cấp 10, do vậy chúng còn là điểm cư trú cho các tàu thuyền quân sự và dân sự của Trung Quốc. Đây có thể là cách thức của Trung Quốc đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ rồi thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò. Những giàn khoan loại này hoàn toàn có thể phục vụ nhiều mục tiêu như khai thác, thăm dò dầu khí, băng cháy biển sâu mà các quốc gia Đông Nam Á chưa có cũng như phục vụ các mục tiêu quân sự, dân sự khác. Ngoài ra, chúng sẽ tạo ra những vị thế mới cho Hải Quân Trung Quốc, và làm suy giảm không gian biển-lãnh thổ biển và không trung của các nước xung quanh như Việt Nam, Philippines. Giàn khoan 981 còn đặt ra một tiền lệ mới "ai đến trước, được hưởng trước" đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông như dầu, khí, băng cháy.... Tiền lệ này sẽ làm cho các quốc gia như Việt Nam, Philippines rất khó đối phó, nếu Trung Quốc không tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS 82, DOC 2002. Đây là cơ hội để Trung Quốc độc chiếm tài nguyên đáy Biển Đông. Nếu không có sự minh bạch về DK 981, Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược "gác tranh chấp, cùng khai thác" theo kiểu Trung Quốc. Đây có thể là tiền đồ cho một "Đồng thuận Biển Đông" kiểu Bắc Kinh, Pax Sino, là "làm trước, nói sau", đưa tất cả Việt Nam, Philippines và cả các nước khác trong thế bị thiệt hại bởi đường chữ U vào thế đã rồi. Thiết nghĩ, tiếp theo các phản ứng kiên quyết, trong tương lai cộng đồng quốc tế cũng phải có những cơ chế pháp lý cho việc sử dụng biển khơi (biển quốc tế) của những nước khác có khả năng đưa giàn khoan cố định ra biển quốc tế. Và hành trình hàng hải qua khu vực này sẽ cần những chuẩn bị tương ứng. Hiểu biết vấn đề để từng bước có biện pháp tháo gỡ sự lấn chiếm ngày càng sâu, càng chặt và càng quy mô hơn -vốn sẽ tạo nên những thế gọng kìm để án ngữ các yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam- đó chính là một phần nhiệm vụ của mỗi con dân Việt Nam trước lịch sử. Nếu không có sự phản kháng sớm từ cấp cao nhất của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và cả từ nhiều nước khác về việc giàn khoan 981 được triển khai khai thác dầu khí tại vùng biển thuộc chữ U thì rất có thể Trung Quốc sẽ sớm triển khai hàng loạt các giàn khoan khổng lồ khác từ năm 2012 tới Biển Đông. Khi ấy sự việc sẽ vượt tầm kiểm soát của thế giới, và nguy cơ Biển Đông là "ao nhà Trung Quốc" là rõ ràng Các quốc gia khu vực làm gì trên biển Đông cũng phải cúi đầu xin phép, và quyền tự do hàng hải qua khu vực này sẽ bị hạn chế. Lúc đó ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ bị Trung Quốc khống chế về mọi mặt như một ông "Vua Đông Á"! 5. Kết luận Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002. Trước khi biết chính xác Trung Quốc đưa dàn khoan CNOOC 981 tới vị trí nào ở Biển Đông, Việt Nam và các nước chung Biển Đông cần tiếp tục có những biện pháp cứng rắn về việc áp dụng UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế để giải quyết những tranh chấp, phân chia quyền lợi công bằng và giữ gìn hòa bình ổn định trong khu vực. http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/Gian-khoan-Trung-Quoc-de-doa-an-ninh-Bien-Dong/6677398.epi
  12. Mỹ kêu gọi Ấn Độ lãnh đạo châu Á 2:37 chiều | Tháng Bảy 21, 2011 Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hôm qua kêu gọi Ấn Độ cần quyết đoán hơn để nắm vai trò dẫn dắt tại châu Á, phản ánh mong muốn của Washington rằng New Delhi sẽ là đối trọng của các cường quốc mới nổi. Phát biểu tại thành phố Chennai, một cảng biển quan trọng ở bang miền nam Tamil Nadu của Ấn Độ, bà Clinton cho rằng quốc gia Nam Á này cần đóng một vai trò lãnh đạo rõ nét hơn để tạo nên an ninh và phồn vinh trong khu vực. “Sự lãnh đạo của Ấn Độ tiềm tàng khả năng giúp định hình một cách tích cực tương lai của châu Á-Thái Bình Dương. Chúng tôi khuyến khích các bạn không chỉ nhìn về phía đông, mà còn tiếp tục cam kết và hành động vì phía đông nữa”, AFP dẫn lời phát biểu của ngoại trưởng Mỹ. Mỹ gần đây thể hiện sự đánh giá cao đối với Ấn Độ, coi New Delhi là một đồng minh đương nhiên vì hai nước chia sẻ niềm tin về dân chủ, nhân quyền và các chính sách kinh tế định hướng thị trường. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton phát biểu tại Chennai, Ấn Độ hôm qua. Ảnh: AFP “Đây là lúc để nắm bắt những cơ hội của thế kỷ 21. Đây là lúc để dẫn đầu”, bà Clinton khẳng định. Với sự nhỉnh hơn về quân sự và kinh tế so với Ấn Độ, Trung Quốc là một cường quốc thống trị ở châu Á và đang mở rộng ảnh hưởng tới các láng giềng gần gũi của Ấn Độ, đáng chú ý là Sri Lanka và Nepal. Trung Quốc gần đây còn có các va chạm với Việt Nam và Philippines trên Biển Đông, nơi được cho là giàu trữ lượng dầu mỏ và khí đốt. Tình hình này làm dấy lên nghi ngại rằng cường quốc mới nổi đã sẵn sàng khẳng định sức mạnh của mình một cách mạnh mẽ hơn. Bà Clinton nhấn mạnh rằng Ấn Độ nên đóng vai trò là một đồng minh của Mỹ trong các diễn đàn khu vực giống như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), hay Hội nghị thượng đỉnh Đông Á được lên kế hoạch tổ chức vào cuối năm nay. Ngoại trưởng Mỹ chỉ một lần duy nhất đề cập rõ ràng về Trung Quốc trong bài phát biểu của mình tại Chennai, với tuyên bố cam kết một quan hệ vững chắc và xây dựng giữa Washington với New Dehli, và cả Bắc Kinh. Tuy nhiên, bất chấp mong muốn của Mỹ trong việc thúc đẩy Ấn Độ nắm giữ vai trò lãnh đạo ở châu Á, giới quan sát vẫn hoài nghi về việc liệu quốc gia Nam Á có sẵn sàng và đủ khả năng đảm nhận vai trò này hay không. Ngoại trưởng Clinton bắt đầu chuyến thăm ba ngày tại Ấn Độ hôm 19/7 và đã gặp các nhà lãnh đạo của nước này, như Thủ tướng Manmohan Singh, Ngoại trưởng S.M. Krishna, để bàn về nhiều vấn đề trong quan hệ song phương của hai nước. Đây là chuyến thăm Ấn Độ thứ hai của bà Clinton kể từ khi trở thành ngoại trưởng Mỹ. Bà rời Ấn Độ hôm nay và tới đảo Bali của Indonesia để tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Phan Lê - VNE
  13. Chân trời biển Đông và bóng dáng Thái Dương thần nữ 9:06 sáng | Tháng Bảy 21, 2011 (Petrotimes) - Với tiềm lực quân sự mạnh như vậy của Tokyo mà có kẻ còn nghĩ đến việc muốn "đập" Nhật thì phải nói là tên đó hẳn đã phải say rượu Mao Đài pha mật gấu, say lắm, say khướt, say dữ dội đến nỗi hóa thành… lú lẫn mất trí, mất khôn! Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 3) - Chân trời biển Đông và bóng dáng Thái Dương thần nữ >> Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 1) >> Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 2) Giới chính trị gia và quân sự Ấn Độ gần đây đã không còn úp mở mối lo ngại trước tình cảm khăng khít có tính toán giữa Bắc Kinh và Islamabad. Yếu tố “có tính toán” ở đây cần được nhấn mạnh, chẳng hạn việc TQ xây loạt con đập tại các hệ thống sông ngòi “nhạy cảm” đối với môi trường – sinh thái Ấn Độ; việc xây cảng tại Gwadar; việc bán “đồ chơi” cho Pakistan trong đó có chiến đấu cơ, khu trục hạm và trực thăng, việc hỗ trợ “hạt nhân dân sự”, việc TQ xây xa lộ Karakoram nối liền Tân Cương đến Bắc Pakistan, việc hợp tác nghiên cứu sản xuất vũ khí… Và bóng dáng những người Hoa gần đây tại Azad Kashmir, nơi mà New Delhi xem là thuộc lãnh thổ Ấn Độ, đã khiến người Ấn không khỏi không nhớ lại ký ức cuộc xâm chiếm của TQ vào bang Arunachal Pradesh vào năm 1962… Trò lá mặt lá trái của Pakistan thật ra không mới. Vào thời điểm thích hợp, Islamabad luôn chìa “lá bài TQ” vào mặt người Mỹ để nhắc “đồng minh” Washington rằng, “chớ có mà hiếp đáp tớ nhé; tớ đây cũng có “bạn lớn” chứ chẳng không!”. Không có mợ thì chợ vẫn đông, hiểu không nào!. Tháng 11-2010, ngay trong ngày mà Mỹ giao vài trong lô hàng 18 chiếc F-16 cho Pakistan, Islamabad đã tuyên bố họ vừa đặt lô tên lửa tầm trung SD10 (tức Shan Dian-10; Thẩm Điện hỏa tiễn) từ TQ để trang bị cho chiến đấu cơ JF-17 Thunder do Pakistan hợp tác sản xuất với TQ (mà TQ gọi là “Kiêu Long thần sấm”) (20). Dự kiến TQ giao cho Pakistan 250 chiếc JF-17 trong 5-10 năm; chưa kể hợp đồng 1,3 tỉ USD mua chiến đấu cơ J-10 và đơn đặt hàng 6 tàu ngầm. Đầu tháng 3/2011, TQ bắt đầu sản xuất hai tàu trang bị tên lửa cho Hải quân Pakistan cùng 8 khu trục hạm F22P đặt làm từ năm 2005… Tàu ngầm Nhật Bản. TQ lại tiếp tục “uống mật gấu” khi phóng hai máy bay quân sự đến đảo tranh chấp Senkaku. Điếu Ngư ngày 4/7/2011, ngay thời điểm mà Ngoại trưởng Nhật – Takeaki Matsumoto đang có mặt tại Bắc Kinh để nói chuyện tử tế với Phó chủ tịch TQ Tập Cận Bình, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Ngoại trưởng Dương Khiết Trì. Phản hồi việc Nhật phóng hai chiến đấu cơ F-15 lên nghênh tiếp, TQ nói rằng, Nhật nên “ngưng ngay” những “hành động mạo hiểm” tại biển Đông vì hoạt động máy bay quân sự TQ là “hoàn toàn” phù hợp luật pháp quốc tế – một lập luận nghe ngày càng quen tai nhưng mỗi lúc mỗi nghịch nhĩ. Nói là TQ “uống mật gấu” khi gây hấn với Nhật không phải không có lý do… Nhật điều chỉnh sách lược quốc phòng như thế nào? Nói về sức mạnh quân sự khu vực châu Á, Nhật có thể được xếp vào hàng đầu bảng. TQ hoàn toàn không có “cửa” khi so với Nhật về khoa học kỹ thuật lẫn khoa học quân sự, nếu không nói thẳng rằng, trình độ kỹ thuật quân sự TQ còn kém Nhật đến hàng thập niên. Trong khi TQ bất tài và kém cỏi về thực lực khoa học quân sự đến nỗi đành phải mua xác chiếc Varyag về “mổ bụng” để nghiên cứu kỹ thuật đóng tàu và tân trang nó thành cái – gọi – là “hàng không mẫu hạm Thi Lang”, gần 100 năm trước, Nhật đã có thể không chỉ tự đóng tàu sân bay mà còn thử nghiệm thực tế chiến trường với những trận hải chiến ngang dọc dậy sóng Thái Bình Dương từ thời Thế chiến thứ nhất. Sức mạnh quân sự Nhật hẳn còn kinh khủng như thế nào nữa, nếu Nhật không ngạo mạn gây hấn với cả khu vực để cuối cùng bị dập nát sau khi đánh thức người khổng lồ Mỹ và cuối cùng bị khống chế với điều 9 Hiến pháp nghiêm cấm phát triển quân đội được soạn sau Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, với sự “trỗi dậy hòa bình” của TQ, Nhật đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược quốc phòng. Trong “Đề cương hướng dẫn chương trình phòng thủ quốc gia” do Bộ Quốc phòng Nhật ấn hành ngày 17/12/2010, Tokyo lần đầu tiên nhấn mạnh đến mối lo ngại về an ninh khu vực lẫn toàn cầu bởi sự phát triển quân sự không kiềm chế của TQ và do đó Nhật đã phải “chẳng đặng đừng” có động thái thích hợp để “tương thích”. Sự cân chỉnh quốc phòng Nhật khó có thể bắt đầu từ ngân sách. Từ năm 1967 đến nay, ngân sách quốc phòng Nhật bị quy định không bao giờ vượt quá 1% GDP. Năm 2009, ngân sách quốc phòng Nhật là 4,77 nghìn tỉ yen, tương đương 0,94% GDP và 9,2% ngân sách chính phủ (23). Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm cho biết, chi tiêu quốc phòng Nhật năm 2008 là 46,3 tỉ USD – đứng thứ 7 thế giới sau Mỹ, TQ, Pháp, Anh, Nga và Đức. Nguồn (24) cho biết thêm, bởi sức khỏe ốm yếu của nền kinh tế, ngân sách quốc phòng Nhật đã giảm trung bình 5,2% kể từ năm 2001, xuống còn 4,68 ngàn tỉ yen, tức khoảng 56,4 tỉ USD. Trong tương lai, ngân sách quốc phòng Nhật cũng sẽ không tăng. Dự toán (tổng cộng) 5 năm tới là khoảng 23,49 nghìn tỉ yen (279 tỉ USD), giảm 750 tỉ yen so với giai đoạn tài khóa 2005-2009 (25). Để vượt qua vấn đề ngân sách teo tóp và tình trạng bị trói chân, trói tay bởi điều 9 của Hiến pháp, Tokyo đã ứng biến bằng cách tập trung nâng chất hơn là lượng (26). Cục Phòng vệ Nhật bắt đầu thiết lập nguyên tắc cho khả năng “phòng thủ cơ động”, giúp Không quân Nhật có thể phản ứng tức thời với mức độ linh hoạt cao (ngoài ra, một ủy ban trong Nội các chịu trách nhiệm điều phối với tất cả đơn vị của không quân cũng được thành lập). Việc trang bị vận tải cơ chiến thuật C-2 Kawasaki (to gấp 4 thế hệ C-1) là nhằm đạt mục tiêu trên. Nhật còn đầu tư nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình để thay thế phi đội 202 chiếc F-15 Eagle thuộc thế hệ thập niên 70 của thế kỷ trước (dù máy bay này – của Hãng McDonnell Douglas, nay thuộc Boeing – là một trong những máy bay chiến đấu thành công nhất lịch sử với hơn 100 trận chiến trên không chưa hề thua trận nào!). Một trong những dự án nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình đáng chú ý nhất của Nhật là máy bay Shinshin (do Mitsubishi Heavy Industries đầu tư), có thể ra đời sau năm 2016 (27). Trước mắt, Nhật đang vận động hành lang (lobby) Quốc hội Mỹ để được mua F-22 Raptor do Lockheed Martin/Boeing tung ra từ năm 2005 (150 triệu USD/chiếc) – thế hệ máy bay chiến đấu được đánh giá số một hiện nay – nhưng Mỹ chưa đồng ý (với những tính năng vượt trội và kỹ thuật hiện đại, F-22 Raptor nằm trong danh sách những thiết bị quân sự – vũ khí hoàn toàn nghiêm cấm không được chuyển giao cho nước ngoài). Sự điều chỉnh phòng không còn bao gồm việc lực lượng Phòng vệ không quân tại căn cứ Naha (Okinawa) được bổ sung thêm một phi đội chiến đấu cơ chiến thuật; đồng thời dàn thêm hệ thống tên lửa bắn chặn PAC3 (Patriot Advanced Capability-3) cho 6 nhóm phòng không thay vì 3 nhóm hiện nay. Với bộ binh, yếu tố cơ động được chú ý với việc đưa vào sử dụng xe tăng hạng nhẹ TK-X MBT (Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Về phòng thủ tên lửa, năm 2011 sẽ là giai đoạn cuối của dự án hợp tác Mỹ – Nhật trong chương trình lắp hệ thống tên lửa bắn chặn hiện đại cho khu trục hạm Nhật (đây là phần tốn kém nhất trong ngân sách quốc phòng Nhật). Vài năm gần đây, Nhật đã đầu tư mạnh cho hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo: 1,1 tỉ USD năm 2004; 1,2 tỉ USD năm 2005; 1,4 tỉ USD năm 2006; 1,8 tỉ USD năm 2007, 1,1 tỉ USD năm 2008 và 1,1 tỉ USD năm 2009 (23) – bên cạnh việc “phát triển kỹ thuật khoa học quân sự” với ngân sách 1,2-1,8 tỉ USD/năm; và “xây dựng một hệ thống mạng thông tin liên lạc hiện đại” với 1,6-2,1 tỉ USD/năm. Với Hải quân, hạm đội tàu ngầm sẽ được tăng từ 16 lên 22 chiếc; tăng số khu trục hạm trang bị dàn tên lửa bắn chặn Aegis, đồng thời bổ sung hệ thống tên lửa chống đạn đạo SM-3 (Standard Missile-3) từ 4 lên 6; chưa kể việc nâng cấp khu trục hạm JDS Atago (DDG-177) và JS Ashigara (DDG-178) (đều do Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Cuối cùng, lực lượng tuần dương Nhật được giao nhiều vai trò hơn, với chức năng và hành động như là một lực lượng Hải quân thứ hai sau lực lượng Hải quân chính quy. Tư duy chiến lược quốc phòng mới cũng đề cập việc tái tổ chức lực lượng bộ binh. Lâu nay vốn đóng chủ yếu ở Hokkaido (phần cực Bắc đối diện Nga), bộ binh Nhật (155.000 lính) bây giờ được điều động tăng cường quanh quần đảo Nansei thuộc Okinawa (nam nước Nhật) và tại khu vực gần TQ và Đài Loan. Điều quan trọng cuối cùng cần nói là Hải quân Nhật cũng có kinh nghiệm (nhiều hơn Hải quân TQ) với vô số các cuộc thao dượt và tập trận với Mỹ cùng nhiều nước khác (chưa kể các chiến dịch hỗ trợ quân đội Mỹ trong cuộc chiến Iraq và Afghanistan). Bộ binh Nhật được nâng cấp với chiến thuật cơ động hơn và hỏa lực mạnh hơn Công nghiệp quốc phòng Nhật mạnh đến đâu? Cựu cố vấn cấp cao Singapore Lý Quang Diệu từng nói: Chẳng lực lượng Hải quân châu Á nào có thể đọ nổi với Hải quân Nhật! Với bề dày lịch sử về kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật đóng tàu của Nhật, điều đó chẳng có gì lạ (hiện tại, Nhật có số tàu chiến hơn gấp đôi Hải quân Hoàng gia Anh và tàu ngầm gấp đôi Hải quân Pháp). Nhật có một lực lượng Hải quân được trang bị khả năng chống tàu ngầm (anti-submarine warfare-ASW) vô địch châu Á (28), được tổ chức thành bốn hạm đội, gồm 4 khu trục hạm Kongô (trang bị Aegis); 3 tàu chiến siêu tốc Towada; và 16 tàu ngầm – tất cả đều được kết nối hệ thống điện tử liên lạc đồng bộ với 100 máy bay tuần tra Lockheed P-3 Orion. Đó là chưa kể hai “siêu” khu trục hạm JDS Hyuga 13.500 tấn với bãi đáp trực thăng hoàn toàn có khả năng phòng không độc lập, được “giới thiệu” từ năm 2007. Có thể chở 11 trực thăng to loại Chinook hay 18-24 trực thăng nhỏ, Hyuga được trang bị kỹ thuật liên lạc hiện đại đến mức nó có thể trở thành tàu chỉ huy điều phối một cuộc chiến. Nó còn có hệ thống tác chiến liên hợp PARS (Phased Array Radars); 64 tên lửa phòng không tầm trung Evolved Sea Sparrow (của Hãng Mỹ Raytheon; 800.000USD/quả) và hai khẩu pháo Phalanx CIWS 20 ly. Với thủy thủ đoàn 350 người, Hyuga thật ra chẳng khác gì một hàng không mẫu hạm mini, giống như loại Invincible của Anh, hoàn toàn có khả năng làm bãi phóng cho chiến đấu cơ như Harrier II hoặc F-35B JSF (mà Mỹ đang nghiên cứu để trang bị cho các tàu chiến đổ bộ)… Năm 2009, Nhật tiếp tục trình làng tàu ngầm thế hệ mới Sôryu (“Rồng Xanh”) chạy bằng hệ thống AIP (Air Independent Propulsion) “êm như lụa” dù nó nặng 2.900 tấn. Ngoài ra, còn có các hệ thống trên bộ điều phối liên lạc với các trạm thu tín hiệu tình báo từ vệ tinh và máy bay thám thính… Điều đáng nói nhất về khả năng quân sự Nhật là họ không rình mò chôm chỉa hay ăn cắp của ai. Hầu hết vũ khí hiện đại Nhật đều do tự họ làm. Cứ nhìn khả năng kỹ thuật nghiên cứu không gian hay kỹ thuật trí thông minh nhân tạo của Nhật đủ biết trình độ khoa học nước này cao như thế nào. Theo một tài liệu năm 2008 (29), ba công ty vũ khí lớn nhất của Nhật là Mitsubishi Heavy Industries, Kawasaki Heavy Industries và Mitsubishi Electric. Xét về quy mô, ba công ty trên không thể so với những tập đoàn khổng lồ của Mỹ hay châu Âu nhưng xét về tổng doanh thu (total revenue), họ không hề nhỏ chút nào. Năm 2007, tổng doanh thu Mitsubishi Heavy Industries (26,024 tỉ USD) còn lớn hơn Raytheon (20,291 tỉ USD) của Mỹ và gần bằng BAE Systems (26,967 tỉ USD) của Anh; tương tự, tổng doanh thu của NEC (39,460 tỉ USD) gần tương đương với Lockheed-Martin (39,620 tỉ USD)! Cần nhắc lại, ngay từ thời Thế chiến thứ hai, Nhật đã sản xuất được loại máy bay chiến đấu được đánh giá là hiện đại nhất và nguy hiểm nhất thế giới thời đó! Đó là chiếc Mitsubishi A6M Zero, được đưa vào sử dụng rộng rãi đầu Thế chiến thứ hai. Trong các cuộc đụng độ vào đầu cuộc chiến, Mitsubishi A6M Zero (chính là loại được dùng trong các chiến dịch Thần Phong) đã trở thành huyền thoại bởi khả năng bắn hạ máy bay đối phương với tỉ lệ “12 ăn 1”! Không đáng nể sao được, khi mà thời đó, Mitsubishi A6M Zero có thể bay với vận tốc 500km/giờ ở độ cao 4.000m và có khả năng nhào xuống độ cao 3.000m chỉ trong 3,5 giây! Mitsubishi A6M Zero, do kỹ sư Jiro Horikoshi thiết kế, được làm bằng hợp kim nhôm 7075 (trong chương trình nghiên cứu hợp kim quân sự tuyệt mật) mà Hãng Sumitomo Metal Industries sản xuất năm 1936. Gọi là hợp kim duralumin siêu đặc biệt, nó nhẹ và cứng hơn bất kỳ hợp kim nào khác thời điểm đó. Ngày 13/9/1940, Mitsubishi A6M Zero bắt đầu ghi những điểm đầu tiên trên bảng tỉ số, khi 13 chiếc Zero đụng độ với 27 chiếc đối phương (Polikarpov I-15 của Liên Xô và I-16 của Quốc dân đảng Trung Hoa) và bắn hạ không sót một mống! Một năm sau, Mitsubishi A6M Zero bắn cháy tan tành thêm 99 chiếc của Quốc dân đảng (vài tài liệu khác ghi 266 chiếc – theo Wikipedia). Mitsubishi A6M Zero đã vậy thì tất nhiên người em của nó hiện tại, Mitsubishi F-2, tất nhiên mạnh hơn nhiều (F-2 là sản xuất hợp tác giữa Mitsubishi Heavy Industries và Lockheed-Martin). Nói về cái sự nhỏ trong khuôn khổ khái niệm kích cỡ, diện tích nước Nhật chỉ lớn hơn gần gấp ba tỉnh Quảng Đông của TQ (377.944km2 so với 177.900km2) với dân số chỉ hơn khoảng 23 triệu người (127 triệu so với 104 triệu) nhưng giá trị sức mạnh nước Nhật là ở chỗ tinh thần tự lực tự cường của họ, chứ không phải ăn cắp chỗ này một ít chỗ kia một tị, rồi tự thổi phồng sức mạnh mình để từ đó tỏ thói huênh hoang như một tên giàu xổi mới nổi cứ nghĩ ta đây là ông trời con muốn bắt tất cả phải nằm bẹp phủ phục dưới chân mình! Xét ở nhiều góc độ, Nhật, dù không phải là quốc gia có chân trong “ngũ cường” thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, mới đáng mặt là nước lớn và chững chạc một cách đáng kính trọng, với những đóng góp cụ thể và bền vững cho thế giới (đặc biệt các chiến dịch nhân đạo). Chỉ riêng điều này đã có thể thấy được tầm vóc nhỏ nhoi đáng hổ thẹn của “ông trời con” khi so với Nhật. Hơn nữa, Nhật đã thấu hiểu thế nào là bài học lịch sử đắt giá phải trả bằng cả một sinh mệnh dân tộc khi dở thói bá quyền du côn. Là dân châu Á với nhau, TQ hẳn cần nhận thức rõ điều đó mới phải. Còn nữa, với tiềm lực quân sự mạnh như vậy của Tokyo mà có kẻ còn nghĩ đến việc muốn đập Nhật thì phải nói là tên đó hẳn đã phải say rượu Mao Đài pha mật gấu, say lắm, say khướt, say dữ dội đến nỗi hóa thành… lú lẫn mất trí, mất khôn! Mạnh Kim http://www.petrotime...i-duong-than-nu
  14. Thiếu tướng, cựu Đại sứ VN ở TQ: "Bằng chứng của TQ là hàng giả!" Thứ ba, 14 Tháng 6 2011 06:47 (GDVN) - Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã bước sang tuổi 95 nhưng vẫn vô cùng mẫn tiệp. Là người có thâm niên 13 năm làm Ðại Sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc ở thời điểm nhạy cảm nhất (1974-1989), tướng Vĩnh có những đánh giá rất sâu sắc về hành động và ý đồ ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông. Tin liên quan: "Không ai hoảng sợ trước việc tàu Trung Quốc gây hấn" Trung Quốc và những nấc thang bá chiếm biển Đông "Trung Quốc đang sử dụng những chiến thuật mạo hiểm" Trung Quốc tự mâu thuẫn khi đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò" Trung Quốc rất giỏi tạo cớ rồi lấn tới Trung Quốc lộ tham vọng bành trướng biển Đông Phản ứng không đủ độ, Trung Quốc sẽ lấn tới Hình ảnh tàu Trung quốc cắt cáp tàu Việt Nam Nhiều tàu cá Trung Quốc xâm phạm ngư trường TQ không hề có thư tịch gì về Trường Sa, Hoàng Sa PV: Ông có bất ngờ về sự việc tàu Trung Quốc liên tục cắt cáp tàu Việt Nam? Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi không bất ngờ. PV: Là người sống và làm việc 13 năm tại Bắc Kinh với cương vị Ðại Sứ đặc mệnh toàn quốc Việt Nam, có bao giờ ông được chính phủ Trung Quốc trưng ra bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chưa lần nào! Tôi sống tại Trung Quốc nhiều năm nhưng chưa lần nào thấy họ nói chính thức về vấn đề này. Tôi cũng đã nhiều lần lần tìm thư tịch của họ để tìm hiểu xem chứng cứ chủ quyền nếu có của họ về hai quần đảo này nhưng không hề có. PV: Vậy những dữ kiện mà họ nói do Tướng Trịnh Hòa (thời nhà Minh) thu thập được khi đến đảo Hoàng Sa thì sao? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cam đoan đó chỉ là hàng giả! Đó chỉ là trên phim của họ, họ tả là tướng Trịnh Hòa đem thương thuyền đi xuống Ấn Độ dương. Họ lướt chỗ nọ chỗ kia coi như dò đường thôi chứ có phải đi thực hiện chủ quyền đâu. Như vậy những chứng cứ do Trịnh Hòa thu được không đủ làm căn cứ để xác định chủ quyền của họ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phải là quản lý thì mới khẳng định chủ quyền chứ. Tôi nói giả sử, đi qua nhặt được cái gì đó thì đó đâu phải là thực thi chủ quyền. “Sự việc cắt cáp làm rơi mặt nạ hòa bình của Trung Quốc” PV: Ông đánh giá gì khi Trung Quốc liên tiếp có các hành vi gây hấn, thách thức sự kiên nhẫn, lòng yêu nước, trân trọng hòa bình của người dân Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã có 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc. Đó là thời gian quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian cam go, thử thách nhất. Sỡ dĩ nói rằng không bất ngờ vì tôi ở Trung Quốc đã lâu, đã biết bản chất của Trung Quốc là bá quyền nước lớn. Tư tưởng bành trướng bá quyền nước lớn, ngàn năm cũng chưa từ bỏ. Cho nên những việc họ làm, không chỉ tàu Bình Minh 02, Viking mà trước đây từ việc chiếm quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở quần đảo Trường Sa, bắt ngư dân, cấm ngư dân đánh cá… là biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Đến sự việc này, tôi không lạ nữa. Một lý do khác, đến thời điểm này, họ có tham vọng bá chiếm cả tài nguyên của Biển Đông, vì họ thiếu thốn, thèm khát dầu khí. Khi họ thấy ta thăm dò định khai thác, thì họ phải tìm cách cản trở. Dù đã bị ta phản đối, nhân dân, báo chí, dư luận Việt Nam và quốc tế chỉ trích sau sự việc ngày 26/5 (tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí – PV) nhưng với tính chất ngoan cố, ngang ngạch và cậy là kẻ mạnh, họ lại tiếp tục gây ra sự việc với tàu Viking 2. Tôi có thể kết luận, hai vụ việc xảy ra với tàu Bình Minh 02 và Viking làm rơi mặt nạ hòa bình mà Trung Quốc vẫn đeo, lộ ra nguyên hình bộ mặt bá quyền nước lớn ăn hiếp nước nhỏ, nói một đằng làm một nẻo. “Cố tình đổi trắng thay đen” PV: Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng vì đã hoàn tất đàm phán, phân giới cắm mốc trên bộ nên đây là thời điểm Trung Quốc tỏ ra cứng rắn hơn tại Biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Không phải. Mọi hoạt động vừa qua chỉ cho thấy Trung Quốc đang từng bước làm mọi điều vì lợi ích ích kỷ cho họ. Ngay từ giai đoạn giữa những năm 1970, khi tôi là Đại sứ tại Trung Quốc, hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán phân định cắm mốc biên giới trên bộ, vịnh Bắc bộ. Nhưng phải đến gần đây quá trình đàm phán mới hoàn tất. PV: Ông nghĩ sao khi những ngày vừa qua, quan chức cũng như báo giới Trung Quốc đăng tải những thông tin rất sai lệch về sự việc tại biển Đông? Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn ra tuyên bố yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền và tránh tạo ra những sự cố mới? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tuyên bố nêu trên của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa cho thấy họ cố tình “đổi trắng thay đen”, cố tình làm cho dư luận hiểu sai bản chất của vụ việc. Nhiều nước sẽ ủng hộ chính nghĩa của chúng ta PV: Trong bối cảnh này, theo ông Việt Nam nên xử lý ra sao? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chính sách của chúng ta là hòa bình, xưa nay đều thế. Thời điểm này, chúng ta phải đấu tranh lý lẽ một cách quyết liệt. Họ muốn bí mật, song phương thì ta phải công bố toàn bộ các cứ liệu lịch sử cho nhân dân ta và dư luận thế giới thấy rõ ai phải ai trái. Thế giới biết và ủng hộ thì Trung Quốc không thể hung hăng được nữa. Tôi cũng muốn nói thêm, thời đại này muốn phát động vũ lực cũng không phải dễ dàng. Ta càng đấu tranh công khai, càng quốc tế hóa thì thế của ta càng vững. PV: Hiện có nhiều ý kiến lo ngại sự chia rẽ trong các nước ASEAN về vấn đề biển Đông cũng tựa như hình ảnh chia bó đũa thiếu sự kết dính. Trung Quốc có thể lợi dụng điều này để giải quyết vấn đề biển Đông theo hướng có lợi cho họ? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Một là, nước nào cũng có lợi ích chung và riêng. Hai là, lợi ích trước tiên lúc này là lợi ích kinh tế. Điều đó là tự nhiên. Tất nhiên, về lý thuyết, thế giới là bình đẳng, nhưng trên thực tế, các nước lớn luôn dùng nhiều loại sức ép, cả chính trị, kinh tế và quân sự để áp đặt ý đồ của mình lên các nước nhỏ. Trong bối cảnh đó, giải pháp tối ưu là phải xác định được thế mạnh của bản thân mình. Với trường hợp của ta, cần phải đẩy mạnh mặt trận ngoại giao - pháp lý, làm cho cả dân ta, dân họ và cả cộng đồng quốc tế hiểu và ủng hộ. Nếu ta công khai, thì dù một số nước không có quyền lợi thiết thực gắn với biển Đông, nhưng tôi chắc rằng họ sẽ lên tiếng, ủng hộ cho chính nghĩa, lẽ phải của chúng ta, của bạn bè. PV: Quay trở lại thời gian ông làm đại sứ tại Trung Quốc. Theo ông, báo giới và nhân dân Trung Quốc nhìn nhận ra sao về tranh chấp tại biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhân dân Trung Quốc phần đông rất hữu nghị, trân trọng tình cảm với nhân dân ta. Ngay trong những năm 1979 – 1989, khi anh chị em tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc đi chợ, nhân dân Trung Quốc vẫn đối xử vẫn bình thường. “Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền” PV: Trung Quốc tuyên truyền ra sao về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Họ tuyên truyền rất mạnh, rằng biển Đông là biển Nam Sa của họ. Họ giáo dục rất sâu trong nhà trường, chiếm nhiều tiết học… PV: Vậy theo ông, chúng ta làm thế nào nói cho nhân dân Trung Quốc hiểu được bản chất vấn đề? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Ta cũng phải tuyên truyền, xuất bản văn kiện bằng tiếng Trung Quốc trên mạng và nhiều hình thức khác. PV: Dĩ nhiên, việc giải quyết các tranh chấp trên biển Đông hiện nay rất phức tạp. Theo ông hiện có những tồn tại, trở ngại chính nào trong tiến trình giải quyết vấn đề? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền. PV: Thời gian vừa qua, Trung Quốc liên tục phát triển sức mạnh quân sự với tàu bay, tàu ngầm, tàu sân bay. Dư luận đặt câu hỏi, vậy đâu là sức mạnh Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nói về sức mạnh, không đơn thuần chỉ bao gồm những thứ đó. Dân tộc ta đã có kinh nghiệm hàng ngàn năm lấy ít đánh nhiều, nhỏ thắng lớn. Ngoài ra còn sức mạnh thời đại, thế giới họ nhìn thấy điều đó, ta phải nói cho họ biết. “Phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa!” PV: Muốn giải quyết những trở ngại đó, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cho Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Phải đấu tranh lý lẽ, bằng các tư liệu, bằng báo chí trước tiên. Đưa lên Liên hiệp quốc, nói cái phi pháp của họ ra. Còn tình huống xấu hơn tôi nghĩ sẽ không xảy ra, khi cả thế giới hiểu được ta có chính nghĩa. Việc đó sẽ làm Trung quốc bớt hung hăng đi. Đồng thời chúng ta phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa… Tôi rất buồn khi ngày nay, nhiều con trẻ thuộc sử Trung Quốc hơn cả sử ta, phim ảnh, truyền hình cũng vậy… PV: Hiện có nhiều ý kiến đề nghị phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, theo ông có nên? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chúng ta phải tiếp tục kiên quyết đấu tranh và gửi công hàm lên Liên Hiệp quốc tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước luật Biển năm 1982. Chúng ta công khai các tài liệu để đấu tranh, cho thế giới biết thực chất vấn đề. Xin cảm ơn ông! Phúc Hưng – Tuệ Minh
  15. TQ 'nổi đóa' với chuyện nghị sĩ Philippines thăm Trường Sa Cập nhật lúc 20/07/2011 09:05:20 AM (GMT+7) Hôm nay, 5 nghị sĩ Philippines dự kiến sẽ tới thăm quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Trung Quốc nói kế hoạch này có thể làm tổn hại tới quan hệ song phương. Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông và được cho là khá giàu tài nguyên dầu khí. Hiện 5 thành viên quốc hội Philippines đang thăm đảo Pagasa. Theo một trong số nhóm này, Walden Bello, đây là chuyến thăm riêng để gặp gỡ người dân và binh lính đóng ở khu vực, đồng thời thể hiện sự ủng hộ với tuyên bố chủ quyền của Philippines. Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông và được cho là khá giàu tài nguyên dầu khí. Ảnh: MT Tuy nhiên, đại sứ quán Trung Quốc ở Philippines đã cảnh báo, chuyến thăm “không có mục đích nhưng lại làm xói mòn hòa bình và ổn định trong khu vực, phá hoại quan hệ Trung Quốc - Philippines". Về phần mình, ông Bello khẳng định: "Không có lý do gì khiến sứ quán Trung Quốc phải lo lắng, họ dường như phản ứng quá mức về một sứ mệnh rất nhỏ, mang tính hòa bình. Chúng tôi có các quyền như mọi công dân Philippines khác khi tới thăm lãnh thổ của Philippines". Căng thẳng Biển Đông từ vài tháng này gia tăng sau khi cả Philippines và Việt Nam đều chỉ trích những hành động gây hấn của Trung Quốc ở vùng biển mà hai nước tuyên bố chủ quyền. Diễn đàn khu vực ở Bali vào thứ bảy này sẽ bàn về các vấn đề an ninh, có sự tham gia của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và nhiều nước khác. Chính phủ hỗ trợ dân giữ đảo Với những người dân Philippines sống ở những vùng xa xôi ở Biển Đông, cuộc sống mỗi ngày là sự vật lộn với sự cô độc. Liên lạc với thế giới bên ngoài rất hạn chế. "Mọi người ở đây chơi bi a, chơi bóng bàn. Chúng tôi không có chợ, không có khu mua sắm”, Eugenio Bito-onon, 55 tuổi, thị trưởng thị trấn Kalayaan nói. Bito-onon, người ban đầu tới Kalayaan năm 1997 để làm việc như một nhà quy hoạch thị trấn, nói người dân ở đây được chính phủ khuyến khích giữ đảo bằng cách tạo việc làm, cấp nhà ở cũng như cung cấp miễn phí những nhu yếu phẩm như gạo, dầu ăn, mì, thức ăn đóng hộp. Cá cũng khá phong phú và các giếng nước đủ cung cấp nước ngọt cho cư dân. Tuy nhiên, các tiện nghi khác khá thiếu thốn như trường học, trạm y tế… Một công nhân xây dựng tên là Nonelon Balbontin, 34 tuổi thì nói, cuộc sống ở đây tốt hơn ở Thủ đô Manila ồn ào, đông đúc nơi anh từng sống. "Nơi đây rất đẹp, khí hậu tốt, tôi có việc làm, chúng tôi không có vấn đề gì, không ốm đau, thức ăn miễn phí, do chính phủ chi trả”, anh nói. Thái An (theo BBC, Inquirer) http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/31276/tq--noi-doa--voi-chuyen-nghi-si-philippines-tham-truong-sa.html
  16. Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011) Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau: "Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”. Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển. Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc. Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Bức Công hàm 1958 (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet) Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam. Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”... Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”. Nhóm PV Biển Đông http://daidoanket.vn...t=34740&Style=1
  17. No-U 19/07/2011 18:35:09 - Chính phủ Việt Nam có thái độ rất rõ ràng, phản đối đòi hỏi phi lý của Trung Quốc về đường chữ U nhằm biến Biển Đông thành cái ao nhà của Trung Quốc. Báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9/6/2011 đăng bài "Đường đứt khúc 9 đoạn” – Một yêu sách phi lý. Đó là bài báo của ông Nguyễn Hồng Thao, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế tháng 12/2009. Tại hội nghị thường niên của các nước thành viên Công ước Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật Biển giữa tháng 6/2011 tại trụ sở LHQ ở New York, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Lương Minh bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở biển Đông, khẳng định đường yêu sách này hoàn toàn không có bất cứ cơ sở pháp lý quốc tế nào, đặc biệt là theo Công ước Luật Biển. Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định Việt Nam có "đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền và quyền hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam". Sài Gòn Tiếp Thị vận động phong trào giúp bà con ngư dân bám biển. Có thể thấy Chính phủ Việt Nam có thái độ rất rõ ràng, phản đối đòi hỏi phi lý của Trung Quốc về đường chữ U nhằm biến Biển Đông thành cái ao nhà của Trung Quốc. Sài Gòn Tiếp Thị vận động phong trào giúp bà con ngư dân bám biển. Đúng một tháng trước, ủng hộ chính sách của Chính Phủ Việt Nam về Biển Đông, ủng hộ đợt vận động của Sài Gòn Tiếp Thị, tôi thấy nguyên nhân chính gây khó khăn cho bà con ngư dân ta, bà con ngư dân của các nước lân cận như Phillippines, Malaysia chính là đòi hỏi phi lý gắn với đường chữ U mà Trung Quốc muốn áp đặt. Bảo vệ biên cương của tổ quốc suy cho cùng là nhân dân. Bảo vệ biển đảo của tổ quốc suy cho cùng là ngư dân và nhân dân. Các họa sỹ, kiến trúc sư của cả nước đã tích cực tham gia thiết kế biểu tượng, thiết kế áo, thiết kế logo để dán trên mũ bảo hiểm, trên xe máy, trên kính ô tô, trên cặp học sinh…. Lô áo đầu tiên có hình chữ U bị gạch chéo đã đến Manila ngày 10/7/2011. Hy vọng chúng sẽ xuất hiện tại Mỹ, các nước châu Âu, Phillipines, Malaysia, Indonesia và cả ở Trung Quốc nữa. Đấy là một hành động nhỏ góp tiếng nói của công lý, đòi hòa bình cho Biển Đông và Thế Giới. Sài Gòn Tiếp Thị đã tổ chức sản xuất quy mô lô đầu tiên và hôm qua 18/7/2011 lô đầu tiên đã được chuyển ra Hà Nội. Thử mấy chiếc của đợt đầu tiên, tôi góp ý với các nhà thiết kế, sản xuất và phân phối như sau. Dòng chữ SAY NO TO U LINE! (Nói không với đường chữ U) bằng tiếng Anh theo cách nói Việt Nam quá. Hãy bỏ từ SAY và dấu ! để chỉ còn là NO TO U LINE vừa ngắn gọn và phù hợp với cách phát biểu của người nói tiếng Anh hơn. Nên bỏ chữ SAY và dấu ! cả trong các câu khác nữa. Nên có nhiều mẫu áo hơn, có thể in cả ở phía sau lưng áo với áo có túi và có cổ bẻ, cũng như các áo khác. Các logo nên có loại cỡ A4 để dán trên kính ô tô (có thể in trên phim trong để tiện cho ô tô). Nên nhớ có hơn 3 triệu bà con người Việt ở nước ngoài, họ có ít nhất 2 triệu xe ô tô, họ có thể vận động bạn bè họ nữa. Số xe ô tô ở Việt Nam cũng nhiều triệu. Mong bà con góp ý tiếp để cho các nhà thiết kế, nhà sản xuất làm ra các mặt hàng vừa đẹp, vừa bắt mắt, bền với giá phải chăng để giúp bà con ngư dân làm ăn hiệu quả, góp phần giữ biển đảo của tổ quốc. Nguyễn Quang A === Những việc làm của bài báo nêu ra là một trong những việc làm rất thiết thực. Cần phải tỏ rõ thái độ với bọn trung quốc tham lam trong lãnh hải. Độc ác khi cướp & đánh ngư phủ Việt nam. Yêu nước là minh bạch, là rõ ràng trong quan điểm. Nhu nhược là dấu dấu, diếm diếm, là loanh quanh trong hành xử.
  18. Nghị sĩ Mỹ cảnh báo Trung Quốc về Biển Đông Hai nghị sĩ kỳ cựu của Mỹ cảnh báo Bắc Kinh rằng những vụ xung đột với các nước láng giềng ở Biển Đông có thể làm tổn hại lợi ích của Mỹ tại khu vực. Nhận xét này chắc chắn không làm Bắc Kinh hài lòng. “Chúng tôi lo ngại rằng một loạt vụ việc trên biển trong những tháng qua đã khiến căng thẳng trong khu vực leo thang”, John Kerry thuộc đảng Dân chủ - Chủ tịch ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ cùng John McCain - cựu ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa, tuyên bố. “Nếu không có biện pháp thích hợp nào được thực hiện để xoa dịu tình hình, những vụ việc tiếp theo có thể còn nghiêm trọng hơn nữa và làm tổn hại tới lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ”. Hai nghị sĩ nói trên đã đưa ra lời lẽ trên trong thư gửi cho ông Đới Bỉnh Quốc - quan chức cấp cao về đối ngoại của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trước khi cuộc họp giữa các ngoại trưởng ASEAN cùng các nước đối tác diễn ra trong tuần này, tờ Financial Times cho hay. Trung Quốc có thể coi tuyên bố này như một đòn khiêu khích bởi nó phản ánh lại nhận xét của Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton vào năm ngoái. Phát biểu tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7 năm ngoái, Hilary Clinton đã khiến Bắc Kinh tức giận khi nói rằng Mỹ “có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông”. Bà Clinton cũng sẽ có một bài phát biểu tại diễn đàn này ở Bali, Indonesia, vào cuối tuần, khi mà căng thẳng ở biển Đông đang tăng cao so với năm ngoái. Trong những tuần gần đây, Trung Quốc đã nhiều lần yêu cầu Mỹ không can dự vào các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sau khi các nghị sĩ Mỹ nhiều lần ra nghị quyết về vấn đề này. Tại hội nghị tham vấn an ninh Mỹ - Trung tháng trước, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải thậm chí còn cảnh báo rằng "một số nước đang đùa với lửa, và (tôi) hy vọng lửa đó không cuốn vào nước Mỹ". Biển Đông chứa những tuyến đường biển quan trọng cho hoạt động nhập khẩu dầu ở Đông Bắc Á và các giao dịch khác với châu Âu, Trung Đông, châu Phi, Ấn Độ và Đông Nam Á. Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đều tuyên bố chủ quyền với một số vùng trong khu vực, nhưng Trung Quốc đòi quyền sở hữu rộng lớn nhất. Cảnh báo của hai nghị sĩ Mỹ được đưa ra sau khi chính quyền Obama đã giảm bớt chỉ trích đối với hành động gây hấn của Trung Quốc tại biển Đông. Trong đối thoại Shangri-La tại Singapore vào tháng 6, Robert Gates - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc bấy giờ - đã khiến một số quan chức các nước Đông Nam Á thất vọng khi nói với Trung Quốc bằng một giọng khá ôn hòa, một dấu hiệu cho thấy không muốn làm tổn hại tới quan hệ quân sự giữa hai nước. Tuy nhiên, ông Gates vẫn cam kết với các đồng minh trong khu vực rằng Washington sẽ duy trì “sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực”. Trong một diễn biến khác có thể làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, ngày mai 5 nghị sĩ Philippines có kế hoạch đến đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa. Hòn đảo này đã được Việt Nam khẳng định chủ quyền từ lâu. Trung Quốc cũng đòi chủ quyền với đảo Thị Tứ, và vì vậy phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc hôm nay đã lên tiếng phản đối kế hoạch đi ra đảo của các nghị sĩ Philippines. Hôm qua, giới chức Đài Loan được báo chí dẫn lời cho biết một đoàn học giả của Đài Loan đã tới đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Ba Bình, đảo lớn nhất trong số các đảo ở Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Song Minh http://vnexpress.net...c-ve-bien-dong/
  19. Chu kỳ căng thẳng mới trên Biển Đông Tác giả: Trần Trường Thủy Một bài xã luận trên Thời báo Hoàn cầu mang tên "Cái bóng của Mỹ trên biển Đông", viết rằng "Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình bằng các biện pháp quân sự". Nếu quan điểm này được Bắc Kinh chính thức thông qua, nó rõ ràng đi ngược lại với tinh thần và nội dung của DOC. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức phủ nhận quan điểm coi biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của mình. >> Kỳ 1: Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương >> Kỳ 2: Những diễn biến mới trên Biển Đông "Lợi ích quốc gia cốt lõi" của Trung Quốc Diễn biến lớn nhất trên biển Đông là tháng 3/2010, các quan chức cấp cao Trung Quốc nói với các khách mời cấp cao Mỹ rằng Trung Quốc đã xếp biển Đông vào loại "lợi ích quốc gia cốt lõi" tức là các yêu sách lãnh thổ không thể đàm phán - ngang với Đài Loan và Tây Tạng. Điều này có thể được hiểu là chính quyền Trung Quốc phải bảo vệ các lợi ích quốc gia mới này trên biển Đông bằng mọi giá, kể cả sử dụng vũ lực. Một bài xã luận trên Thời báo Hoàn cầu mang tên "Cái bóng của Mỹ trên biển Đông", viết rằng "Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình bằng các biện pháp quân sự". Nếu quan điểm này được Bắc Kinh chính thức thông qua, nó rõ ràng đi ngược lại với tinh thần và nội dung của DOC. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức phủ nhận quan điểm coi biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của mình. Một số nhân tố giúp giải thích tại sao Trung Quốc trở lại cách tiếp cận xác quyết trên biển Đông trong những năm gần đây. Đầu tiên, trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc đã gia tăng sức mạnh của mình, cả về kinh tế và quân sự, tới mức khiến họ có thể tự tin và xác quyết trong các hành xử với bên ngoài, đặc biệt trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Thứ hai, ổn định quan hệ Đại lục - Đài Loan đã làm chệch hướng các ưu tiên, khả năng và nguồn lực của Trung Quốc cho các vấn đề khác, đặc biệt là vấn đề biển Đông. Thứ ba, chủ nghĩa dân tộc lớn dần và vai trò cũng như hoạt động ngày càng gia tăng của PLA và cuộc cạnh tranh của các nhóm lợi ích (các cơ quan hành pháp, các tập đoàn năng lượng) đã làm phức tạp thêm tiến trình hoạch định và thực thi chính sách của Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Thứ tư, các hành động của các bên đòi chủ quyền khác buộc Trung Quốc phải phản ứng dữ dội. Thứ năm, thiếu cơ chế hiệu quả trong xử lý tranh chấp trên biển Đông, đặc biệt là trong việc điều chỉnh cách ứng xử của các bên, trong đó có Trung Quốc. ASEAN lo ngại, Mỹ can thiệp, Trung Quốc hạ giọng Sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trên biển Đông trong những năm qua khiến các nước ASEAN lo ngại và tạo cơ hội cho Mỹ "trở lại" châu Á. Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 43 ở Hà Nội tháng 7/2010, các bộ trưởng "đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định trên biển Đông", "khẳng định tầm quan trọng của DOC", "nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường nỗ lực nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả Tuyên bố này", và "hướng tới hình thành Bộ Quy tắc Ứng xử trên biển Đông (COC)". Các bộ trưởng ASEAN cũng giao nhiệm vụ cho Các quan chức cấp cao ASEAN phối hợp chặt chẽ với các đối tác Trung Quốc nhằm triệu tập lại hội nghị SOM ASEAN - Trung Quốc về thực thi DOC trong thời gian sớm nhất. Đáp lại, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN - Trung Quốc, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã nhất trí thực thi DOC, nhưng tuyên bố rằng hội nghị SOM Trung Quốc - ASEAN về DOC sẽ được tổ chức vào "một thời điểm thích hợp". Tại Diễn đàn Khu vực châu Á (ARF) lần thứ 17 ngày 23/7/2010, 13 ngoại trưởng (trong đó có 5 người đến từ các quốc gia ASEAN) đã nêu ra vấn đề biển Đông và ủng hộ DOC giữa ASEAN - Trung Quốc. Lần đầu tiên ở cấp này trong một cuộc họp chính thức, Ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Clinton đã đọc một tuyên bố dài về quan điểm của Mỹ đối với các vấn đề biển Đông. Bà nói rằng Mỹ có một lợi ích quốc gia về tự do hàng hải, tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở biển Đông. Bà Clinton cho biết Mỹ ủng hộ một tiến trình ngoại giao phối hợp, ủng hộ DOC ASEAN - Trung Quốc 2002, khuyến khích các bên đạt thỏa thuận về một COC, và "sẵn sàng tạo điều kiện" cho các sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với DOC. Đáp lại, Ngoại trưởng Dương Khiết Trì nhấn mạnh khả năng DOC tăng cường niềm tin lẫn nhau và tạo các điều kiện thuận lợi và môi trường tốt để đạt giải pháp cuối cùng cho các tranh chấp. Nhưng ông cũng nhấn mạnh không nên quốc tế hóa các vấn đề biển Đông, không nên coi DOC như giữa một bên là Trung Quốc với bên kia là toàn thể ASEAN, và các tranh chấp nên được giải quyết trên cơ sở song phương, không phải đa phương. Ông cũng chỉ ra rằng đã có các cuộc tham vấn JWG về DOC, và "khi điều kiện cho phép" một SOM có thể được tổ chức. Một tài liệu được công bố ngay sau hội nghị ARF-17 trên website của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng các nhận xét của bà Clinton trên thực tế "là một sự công kích Trung Quốc". Ảnh minh họa: THX Tương tự như tình huống trong giai đoạn cuối của cuộc đàm phán COC/DOC nói trên, sự can thiệp của Mỹ vào biển Đông và tăng cường hợp tác với các nước ASEAN có thể làm ảnh hưởng tới các tính toán của Trung Quốc. Chiến lược của Trung Quốc tập trung tránh để vấn đề biển Đông bị đa phương hóa và quốc tế hóa, đặc biệt tránh sự can thiệp của Mỹ. Tháng 7/2010, đáp lại nhận xét của bà Clinton tại ARF-17 ở Hà Nội, Ngoại trưởng Trung Quốc cảnh báo rằng đa phương hóa hay quốc tế hóa vấn đề biển Đông sẽ "chỉ làm vấn đề tệ hơn và khó tiến tới giải pháp". Tháng 9/2010, Trung Quốc cũng đã cố tránh để Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Mỹ thảo luận về các vấn đề biển Đông khi tuyên bố phản đối các đề xuất của Mỹ về biển Đông. Tuyên bố của bà Clinton và sự đáp trả của một số nước khác đã làm dấy lên một cuộc tranh luận bên trong Trung Quốc về việc liệu có khôn ngoan hay không khi đòi coi biển Đông là "lợi ích cốt lõi". Trong một bài báo trên tờ Nhân dân nhật báo số ra ngày 27/8/2010, một số chiến lược gia và học giả Trung Quốc cho rằng việc đưa biển Đông vào hàng các lợi ích quốc gia cốt lõi của Trung Quốc "không phải là một hành động khôn khéo", ít nhất vào thời điểm hiện nay. Họ cho rằng yêu sách này sẽ "khiến Mỹ lo lắng và tức giận" và có thể "gây ra sự tức giận ở các nước láng giềng với Trung Quốc". Đòi hỏi này có thể "tạo điều kiện cho Mỹ đưa tàu sân bay tới gần Trung Quốc và coi vấn đề khu vực (biển Đông) là một vấn đề quốc tế để củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ và sự hiện diện về kinh tế và quân sự của họ tại Đông Á". Một số người thậm chí còn thừa nhận rằng "yêu sách này không phù hợp với thông lệ quốc tế". Ngày 27/7/2010, Thời báo Hoàn cầu viết: "việc công khai tuyên bố ý định của Trung Quốc (trên biển Đông) và làm các nước khác lo ngại là một thách thức đối với Trung Quốc trong tương lai. Là quốc gia lớn nhất trong khu vực, Trung Quốc có trách nhiệm giảm bất đồng và xây dựng một sự đồng thuận". Thời báo Hoàn cầu số ra ngày 3/10/2010 cũng cho rằng "Trung Quốc cần cân nhắc lùi lại một chút" trong vấn đề lãnh thổ (ở biển Hoa Đông và biển Đông) nếu muốn duy trì sự phát triển mạnh ở Đông Á mà không cho phép Mỹ can thiệp vào công việc của khu vực. "Điều Trung Quốc cần làm không đơn giản là cứng rắn hơn, mà nên nỗ lực tìm một giải pháp thực tế để chấm dứt các tranh chấp". Nếu điều này khó hoàn thành, Trung Quốc ít nhất nên cố gắng tránh tạo ra một tình huống nuôi dưỡng các lợi ích của Mỹ hơn các lợi ích của châu Á." Bài báo viết Trung Quốc phải ý thức được thực tế là các đảo tranh chấp "không thể lấy lại được trong một thời gian ngắn". Nói đến các nỗ lực ngày càng tăng nhằm duy trì hòa bình trong khu vực, trong một cuộc họp báo tại Manila cuối tháng 9/2010, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Lưu Kiến Siêu cho biết Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á đã khởi động các cuộc thảo luận cấp chuyên viên nhằm "soạn thảo một bộ quy tắc ứng xử". "Trung Quốc sẵn sàng phối hợp với các bên khác liên quan đến tài liệu này" và hiện "hoan nghênh mọi mô hình và sáng kiến khác nhau nhằm duy trì hòa bình, thịnh vượng và ổn định trong khu vực". Tại diễn đàn Bộ trưởng Quốc phòng châu Á (ADMM+) ở Hà Nội tháng 10/2010, dù vấn đề biển Đông không nằm trong chương trình nghị sự chính thức, nhưng các đại diện của 7 quốc gia đã nêu vấn đề làm thế nào đảm bảo an ninh hàng hải cho tất cả các nước xung quanh biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M. Gates đã nhắc lại các bình luận của bà Clinton tại ARF hồi tháng Bảy, rằng các yêu sách ngược nhau trên biển Đông nên được "giải quyết hòa bình, không dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua các tiến trình ngoại giao phối hợp, và phù hợp với luật pháp quốc tế". Ông nói: "Mỹ có một lợi ích quốc gia về tự do hàng hải; tự do phát triển kinh tế và thương mại; và tôn trọng luật pháp quốc tế". Khác với phản ứng của ông Dương Khiết Trì tại ARF-17, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã kêu gọi "tin tưởng lẫn nhau" trong toàn khu vực. Ông nói các nước láng giềng không nên lo ngại về quân đội Trung Quốc. "Trung Quốc theo đuổi một chính sách quốc phòng mang bản chất phòng thủ. Sự phát triển quốc phòng của Trung Quốc không nhằm thách thức hay đe dọa ai, mà để dảm bảo an ninh và thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế". Ông cũng đã không nhắc tới biển Đông như một khu vực thuộc "lợi ích cốt lõi". Theo Kế hoạch hành động để thực thi Tuyên bố chung về đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN vì Hòa bình và Thịnh vượng (2011-2015), công bố sau hội nghị cấp cao Trung Quốc - ASEAN tháng 11/2010 tại Hà Nội, Trung Quốc đã cam kết phối hợp với ASEAN "thúc đẩy thực thi đầy đủ và hiệu quả DOC tại biển Đông" và "hướng tới ký kết... một bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông". Ngày 4/11/2010, trợ lý Ngoại trưởng Trung Quốc Hồ Chánh Dược nói Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng một khái niệm an ninh mới, theo đó Trung Quốc vẫn cam kết đóng "một vai trò xây dựng" trong xử lý các vấn đề quan trọng của khu vực và quốc tế, bao gồm giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ và quyền trên biển thông qua các cuộc đàm phán thân thiện với các nước láng giềng. Việc Trung Quốc hạ giọng trên mặt trận ngoại giao dường như phù hợp một phần với các hoạt động của họ trên biển thời gian gần đây. Ngay trước ADMM+ tại Hà Nội tháng 10, sau một loạt các phản đối ngoại giao của phía Việt Nam, Trung Quốc đã thông báo với Việt Nam rằng sẽ thả vô điều kiện thuyền trưởng và 9 thuyền viên bị bắt giữ gần quần đảo Hoàng Sa hơn một tháng trước đó. Ngày 17/8, Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Scher phát biểu trong một cuộc họp báo tại Hà Nội rằng Lầu Năm Góc không thấy có bất cứ sự hăm dọa nào "gần đây" của các công ty dầu khí Trung Quốc hoạt động tại biển Đông. Chu kỳ căng thẳng mới? Tuy nhiên, câu hỏi vẫn là liệu Trung Quốc hạ giọng trong những tháng gần đây sau ARF-17 có phản ánh sự thay đổi chính sách hay chỉ là các chiến lược đối phó với vấn đề biển Đông. Diễn biến gần đây nhất đã xảy ra ngày 2/11/2010, khi Hải quân Trung Quốc tập trận trong khu vực đang tranh chấp biển Đông với sự tham gia của 1.800 binh lính và hơn 100 tàu nổi, tàu ngầm và máy bay có sử dụng đạn thật. Li Jie, một chuyên gia hải quân ở Bắc Kinh, phủ nhận rằng đây không phải là dấu hiệu đặc biệt. Ông nói: "Một số quốc gia khác đã vào biển Đông những năm gần đây để tiến hành các cuộc tập trận chung với các nước láng giềng của chúng tôi, vì vậy đây là lúc chúng tôi phản đối sự can thiệp này". Chính sách chưa từng thấy trên của Trung Quốc đối với biển Đông cũng một phần phản ánh trên bàn thương lượng về thực thi DOC. Tại các cuộc họp lần thứ 5 của JWG ASEAN - Trung Quốc tại Côn Minh (Trung Quốc) tháng 12/2010, Trung Quốc chỉ rút lui quan điểm song phương với việc đề nghị bỏ điều 2 trong bản Hướng dẫn và coi bản Hướng dẫn này là chỉ dẫn các nguyên tắc thực thi chỉ đối với "các hoạt động hợp tác chung đã nhất trí có nêu trong DOC", chứ không thực thi với toàn bộ Tuyên bố. Trung Quốc từ chối tổ chức SOM Trung Quốc - ASEAN về thực thi DOC, lập luận rằng SOM này không thể diễn ra trước khi JWG đạt đồng thuận về bản Hướng dẫn. Các sự cố gần đây nhất cho thấy cách tiếp cận liên tục xác quyết của Trung Quốc trong các tranh chấp ở biển Đông. Ngày 2/3/2011, hai tàu tuần tra Trung Quốc đã quấy rối tàu thăm dò địa chất của công ty Energy Forum đang thực hiện hợp đồng với Chính phủ Philippines khai thác mỏ dầu nằm bên trong Bãi Cỏ rong, cách Palawan 80 hải lý về phía Tây. Chính quyền của ông Aquino đã phản đối ít nhất 6 sự cố, trong đó có sự cố Bãi Cỏ rong, cáo buộc Trung Quốc xâm phạm các vùng biển nằm trong EEZ rộng 200 hải lý của Philippines. Các sự cố nghiêm trọng khác liên quan đến báo cáo của quân đội Philippines tháng 6/2011, rằng một tàu hải giám của Trung Quốc và nhiều tàu hải quân đã thả vật liệu xây dựng và cột trụ ở gần Iroquois Reef và Amy Douglas Bank - một quả đồi dưới mực nước biển không có người sống mà Philppines đòi chủ quyền, nằm cách tỉnh Palawan 230 km về phía Tây Nam. Nếu báo cáo này là đúng, rõ ràng Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng DOC: điều 5 của văn bản này quy định "Các bên kiềm chế các hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình hay làm leo thang tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc không đưa người đến sinh sống tại các đảo, bãi đá, bãi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các hình thái địa chất khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng". Ngày 26/5/2011, một sự cố khác, lần này là giữa Trung Quốc với Việt Nam, diễn ra trong một khu vực chỉ cách bờ biển miền Trung của Việt Nam 80 hải lý, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ba tàu tuần tra Trung Quốc đã gây rối tàu thăm dò dầu khí Bình Minh 02 của Việt Nam trên biển Đông, phá hoại thiết bị, và cảnh báo tàu này vi phạm lãnh hải Trung Quốc. Sự cố tương tự xảy ra ngày 9/6/2011, khi một tàu cá Trung Quốc, với sự hỗ trợ của các tàu tuần tra đánh cá Trung Quốc, đã cắt cáp thăm dò của tàu Viking II của Việt Nam khi đang tiến hành thăm dò địa chất tại khu 136-03, nằm trong EEZ 200 hải lý của Việt Nam và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc tới hơn 622 hải lý. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Các hành động này cho thấy Trung Quốc muốn biến các khu vực không có tranh chấp thành các khu vực tranh chấp". Sự cố tàu Viking II diễn ra chỉ 4 ngày sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đảm bảo với các nước láng giềng tại Đối thoại Sangri-la rằng Trung Quốc không đe dọa các nước khác. Kết luận Là nước mạnh nhất, Trung Quốc tạo không khí cho tranh chấp trên biển Đông. Chính vì Bắc Kinh đã có một quan điểm bớt cứng rắn hơn trong các tranh chấp trên biển Đông, nên DOC giữa Trung Quốc và ASEAN đã được ký kết năm 2002. Một chính sách tương đối "mềm hơn" của Trung Quốc về biển Đông có thể xuất phát từ một số yếu tố như: i) sự đồng thuận và đoàn kết của ASEAN; ii) gia tăng cam kết của các lực lượng nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, trong vấn đề biển Đông; và iii) Trung Quốc cần tạo một hình ảnh tốt và thúc đẩy quan hệ với các nước khác trong khu vực. Từ năm 2007, vì Bắc Kinh thay đổi chính sách về vấn đề biển Đông theo hướng xác quyết hơn, nên tình hình đã căng thẳng trở lại, tạo cơ hội cho Mỹ can thiệp vào các vấn đề này và củng cố vai trò của họ trong khu vực. Những tháng cuối năm 2010, Bắc Kinh đã giảm tông trong các vấn đề này nhằm trấn an các nước láng giềng và lấy lại một phần hình ảnh của mình trong khu vực. Tuy nhiên, việc Trung Quốc hạ giọng trong thời gian qua chỉ phản ánh các chiến thuật trong xử lý vấn đề biển Đông. Trong tương lai gần, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục theo đuổi quan điểm xác quyết trong ứng xử với các nước nhỏ hơn cũng đòi chủ quyền trong tranh chấp trên biển Đông. Để thúc đẩy an ninh và hợp tác trong khu vực, Trung Quốc và ASEAN nên thực thi đầy đủ DOC và Bắc Kinh nên chấp nhận một COC khu vực mang tính ràng buộc pháp lý, đảm bảo các nước nhỏ hơn không bị đe dọa và để họ tin tưởng hơn trong việc thúc đẩy hợp tác trên biển Đông./. Châu Giang dịch từ CSIS http://tuanvietnam.v...-tren-bien-dong
  20. Tàu sân bay, mốt kinh doanh mới của đại gia Trung Quốc? 20/07/2011 07:06:25 - Săn lùng các tàu sân bay cũ đã và đang là xu hướng được các doanh nhân giàu có Trung Quốc theo đuổi. Phục vụ mục đích kinh doanh trong lĩnh vực giải trí, văn hóa, đúng, nhưng liệu còn có mối liên hệ nào khác? Tháng 3/2011, tàu sân bay HMS Ark Royal, một thời từng là ngôi sao của lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh sau 25 năm hoạt động đã được Bộ quốc phòng nước này rao bán theo kế hoạch cắt giảm ngân sách của chính phủ. Theo thông tin từ trang web của Disposal Services Agency (DSA), một công ty đấu giá trên mạng thuộc Bộ quốc phòng Anh thì vụ bỏ thầu đã kết thúc hôm 6/7. Lãnh đạo của DSA cho biết sẽ gỡ bỏ các vũ khí, hệ thống thông tin và những thiết bị quân sự tiên tiến khác trước khi chuyển giao cho người mua cuối cùng. Vậy người mua cuối cùng sẽ là ai? Cuộc đua giữa các thương nhân Trung Quốc Huang Guangyu , 42 tuổi, thường được gọi bằng tiếng Quảng Đông là Wong Kwong-yu, đã từng là người giàu nhất Trung Quốc đại lục tính theo giá trị niêm yết tại Hồng Kông của Gome Electrical Appliances Holdings – Công ty kinh doanh hàng điện máy gia dụng lớn nhất Trung Quốc thuộc sở hữu của Huang. Hiện ông này đang chịu án tù 14 năm ở Trung Quốc vì tội hối lộ, giao dịch nội bộ và các hợp đồng kinh doanh bất hợp pháp hồi tháng Năm năm ngoái sau khi bị cảnh sát Bắc Kinh bắt cuối năm 2008. Mặc dù ngồi tù nhưng Huang được giới thạo tin biết đến như là người đứng sau Eagle Vantage - Công ty quản lý tài sản đã tham gia đấu giá tàu sân bay Ark Royal nói trên. Tàu sân bay của Hải quân Anh được đem bám đấu giá, HMS Ark Royal Eagle Vantage có trụ sở ở Hồng Kông hoạt động trong lĩnh vực bán đồ gia dụng, đầu tư bất động sản và hoạt động câu lạc bộ ở Hồng Kông và Trung Quốc. Zhao Qiguang, giám đốc dự án của Eagle Vantage cho biết vụ mua bán này nhằm mục đích mở rộng phát triển kinh doanh của Eagle Vantage. “Nếu thành công, công ty sẽ chuyển Ark Royal thành trung tâm triển lãm di động lớn nhất thế giới về các ứng dụng hi-end và sản phẩn xa sỉ. Các công ty khác cũng sẽ được mời tham gia sử dụng tàu sân bay này”, Zhao nói. Theo tin từ tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, Zhao đã từ chối tiết lộ giá gói thầu nhưng cho biết công ty này dự kiến sẽ kéo tàu sân bay này về Hồng Kông hay Macau trước khi lắp đặt các sản phẩm công nghệ cao và chuyển đổi thành một địa chỉ trưng bày dành cho các khác hàng hi-end. Tuy nhiên, Eagle Vantage không phải công ty Trung Quốc duy nhất đặt thầu tàu sân bay Ark Royal. Doanh nhân Trung Quốc Lam Kin-bong, người điều hành một chuỗi nhà hàng ở Birmingham, Anh chính là người thứ hai muốn có tàu sân bay này. Vào tháng Hai, nước Anh đã từ chối một gói thầu của Lam trị giá 5 triệu Bảng (8 triệu USD) cho chiếc Invincible sau khi ông này không cung cấp được các thông tin cần thiết. Đề xuất của Lam cao hơn gấp đôi giá mà một công ty tái chế tàu của Thổ Nhĩ Kỳ, công ty đã thắng thầu với giá ước tính khoảng 2 triệu Bảng. Tàu sân bay Invincible nặng 17.000 tấn, hết hạn sử dụng năm 2005 và đã gỡ bỏ các động cơ và vũ khí cũng được chính DSA đứng ra rao bán. “Với kinh nghiệm lần trước thì khả năng thắng thầu của tôi lần này lớn hơn”, Lam nói. Nếu đúng như vậy, ông này hy vọng sẽ biến tàu sân bay thành một trường học quốc tế để giúp thúc đẩy các quan hệ trao đổi thông tin và văn hóa giữa Anh và Trung Quốc. Nhà thầu Trung Quốc thứ ba tham gia vụ Ark Royal là Philip Li Koi-hop, chủ tịch câu lạc bộ tàu biển Hồng Kông. Ông này đã đến Anh đầu tháng 5 để xem xét chiếc tàu và nộp hồ sơ thầu. Năm 2002, Li đã thất bại trong gói thầu mua một tàu sân bay của Nga. Li cho biết câu lạc bộ của ông có khoảng 800 triệu đô la Hồng Kông (103 triệu USD) để đầu tư cho dự án. Trong đó khoảng 250 triệu đô la Hồng Kông sẽ dùng vào việc đấu thầu tàu sân bay và số còn lại dùng để chuyển đổi tàu thành một câu lạc bộ du thuyền cao cấp, có thể phục vụ như một cơ sở cho câu lạc bộ gồm 200 thành viên, trong đó mỗi người sẽ trả 10.000 USD để tham gia. Li còn có kế hoạch sử dụng Ark Royal vào một vai trò mang tính công chúng hơn là thành lập một trung tâm nghiên cứu hàng hải và đại dương quốc tế. Ngoài ra một trung tâm đào tạo thanh niên cũng có thể được xây dựng trên đó. Liệu còn có mối quan hệ nào với quân đội? Khi tham gia đấu giá tàu sân bay Ark Royal, Lam Kin-bong đã nói rằng việc làm của mình không có mối liên hệ gì với quân đội và nếu được phép ông sẽ kéo tàu về Trung Quốc còn nếu không sẽ đậu tại Liverpool. Nhưng chuyên gia phân tích quân sự Anthony Wong Dong, chủ tịch Liên hiệp quân sự quốc tế tại Macau cho rằng: “Mặc dù tàu sân bay Ark Royal có rất ít giá trị quân sự vì kích cỡ tương đối nhỏ của nó, chỉ khoảng 22.000 tấn nhưng Quân đội Trung Quốc sẽ vẫn phải tiến hành một kỳ kiểm tra kỹ lưỡng chiếc tàu này nếu vụ đấu thầu thành công”. Những người nghi ngờ về động cơ thực sự của các doanh nhân Trung Quốc đã chỉ dẫn về một ví dụ điển hình đó là tàu sân bay Varyag. Varyag là một tàu sân bay cũ của Liên Xô được một doanh nhân ở Macau, Trung Quốc mua lại từ Ukraine năm 1988 với giá 20 triệu USD. Ý định ban đầu được tuyên bố là chuyển đổi Varyag thành một sòng bạc nổi tại Macau. Tuy nhiên đầu năm 2002, Bắc Kinh đã đưa tàu sân bay này về cảng Đại Liên để nâng cấp, cải tạo và sẽ sớm trở thành tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc được hạ thủy trong một vài tuần tới đây. “Có thể tất cả ba nhà đấu giá Trung Quốc nêu trên sẽ phải được xem xét về phương diện chính trị. Lu Renbo, Phó tổng thư ký Phòng thương mại điện tử Trung Quốc nói. “Ark Royal đã từng là tàu đô đốc của Hải quân Hoàng gia Anh và một hợp đồng với nước ngoài có thể làm dấy lên lo ngại ở Anh về khả năng quân sự của Trung Quốc”. Tất nhiên, trước đây, cũng đã có hai tàu sân bay cũ của Liên Xô được Trung Quốc mua là chiếc Kiev, đậu ở Tianjin, phía Nam Bắc Kinh và Minsk, đậu ở Shenzhen, gần Hồng Kông đều được chuyển thành những công viên quân sự nổi phục vụ mục đích du lịch. Minh Phạm (Tổng hợp từ Asia Times)
  21. Không lùi bước ở Hoàng Sa Cập nhật lúc 19/07/2011 03:05:00 PM (GMT+7) - Sau bao sóng gió, sau bao nhọc nhằn mưu sinh, bao kinh hoàng khi bị những kẻ bất lương bắt giữ thu tàu, đánh đập tàn bạo tại đảo Hoàng Sa, giờ đây, hùng binh Mai Phụng Lưu mới thở phào nhẹ nhõm khi được cộng đồng và những doanh nghiệp giúp đỡ đóng tàu mới trở lại Hoàng Sa… Con tàu mơ ước Chúng tôi trở lại Lý Sơn tìm gặp Hùng binh Mai Phụng Lưu. Hay nói đúng hơn là tìm gặp cho bằng được người mà những ngư dân nơi vùng đất đảo này gọi là “sói biển”. Nhưng giữa những ngày này, “sói biển” Mai Phụng Lưu vào ra đất liền để hoàn tất thủ tục vay tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Đông Á, để đóng tàu mới ra lại Hoàng Sa. “Mấy ngày ni vợ chồng tui mất ăn, mất ngủ không phải vì lo, mà vì mừng rơi nước mắt khi những tấm lòng sẻ chia của đồng bào cả nước và các doanh nghiệp giúp để đóng lại tàu mới ra lại Hoàng Sa…” - hùng binh Mai Phụng Lưu tâm sự trong nước mắt hạnh phúc. Bạn đọc báo VietNamNet giúp đỡ “sói biển” Mai Phụng Lưu dàn máy ICM và tiền mặt để giúp ông thực hiện mơ ước trở lại Hoàng Sa. Số tiền 300 triệu đồng từ nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Đông Á sẽ là điểm tựa để hùng binh Mai Phụng Lưu thực hiện ước mơ và khát vọng trở lại Hoàng Sa sau 4 lần bị Trung Quốc bắt giữ thu tàu. Lần thứ 4 vào cuối năm ngoái, chiếc tàu - kế sinh nhai của hàng trăm con người trên bờ và phương tiện ra Hoàng Sa cuối cùng của ông Lưu đã bị bắt giữ tại Hoàng Sa. Niềm vui đoàn tụ ngày trở về của “sói biển” Mai Phụng Lưu. Trở về trong tay trắng. Nhưng không chịu đầu hàng, hùng binh mai Phụng Lưu cùng hai con trai mỗi người chia mỗi ngả xuống tàu bạn làm thuê trở lại Hoàng Sa mang theo nỗi khát vọng một ngày sẽ tích góp chút tiền và đóng lại tàu mới để đạp sóng ra khơi, nguyện làm cột mốc sống khẳng định chủ quyền nơi biển đảo. Những gì 'sói biển' nói, giống như lời ông từng tâm sự trong những đêm trắng cùng tôi, rằng Hoàng Sa đối với ông và những bạn nơi đất đảo này là máu thịt, là một phần không thể thiếu của một cơ thể. Năm 16 tuổi, ông cùng bạn chài đã lên tàu ra Hoàng Sa trên những con tàu nhỏ bé, thiếu trang thiết bị. Ngày đó, nỗi lo với ông chỉ là bão tố. Nhưng, những đôi khi, những cơn bão kinh hoàng như Chan Chu vẫn không làm ông sợ bằng việc bị Trung Quốc bắt giữ, thu tàu. Bởi, con tàu với những ngư dân như ông là sự sống còn của miếng cơm manh áo cho vợ con trên bờ và hơn thế nữa là chủ quyền của tổ quốc mà ông cũng như hàng vạn ngư dân khắc cốt ghi xương. Cờ Tổ quốc vẫn tung bay giữa biển Hoàng Sa Nhớ lại lần ông cùng những bạn chài khác bị Trung Quốc bắt giữ trở về nơi cảng Dung Quất, nhìn gương mặt hốc hác sau những tháng ngày bị cầm giữ, hỏi ông có trở lại Hoàng Sa hay không? Một chút suy nghĩ, ông bảo: “Có chết tui cũng chết ở Hoàng Sa…”. Một câu trả lời mộc mạc nhưng kiên định sau bao biến cố nơi đảo Hoàng Sa mà ông gánh chịu... Và bây giờ, ước mơ của ông sau hơn 1 năm đã thành hiện thực. Ông đã có đủ số tiền cần thiết để đóng lại con tàu mơ ước từ tấm lòng của những doanh nhân và đồng bào cả nước chung tay góp sức. Không lùi bước Khao khát của hàng triệu ngư dân vùng ven biển luôn mơ ước đóng được những con tàu to, được đánh bắt trên vùng biển đảo của Tổ quốc. Một ước mơ, một khao khát cháy bỏng đã và đang được tiếp sức bởi triệu triệu trái tim đất Việt đang hòa nhịp đập cùng Hoàng Sa - Trường Sa. Khát vọng về những con tàu to vươn ra biển của con em ngư dân đất đảo Lý Sơn. Con số 20 tỷ đồng từ chương trình đồng hành cùng ngư dân đã được Ngân hàng Đông Á ưu tiên giành cho ngư dân vay ưu đãi đóng tàu mới và mua sắm trang thiết bị để ra khơi đã được khởi động. Hùng binh Mai Phụng Lưu là người đầu tiên nhận nguồn vốn 300 triệu đồng để biến ước mơ thành hiện thực: Một con tàu mới để trở lại Hoàng Sa. Một Quỹ hỗ trợ ngư dân cũng đang được tỉnh Quảng Ngãi thành lập. Và nhiều lắm những tấm lòng của đồng bào cả nước đang hướng về Hoàng Sa - Trường Sa, hướng về những ngư dân nghèo khó, về những cột mốc sống chủ quyền của Tổ quốc trên biển đông. Chỉ tính riêng từ câu chuyện tường trình từ Hoàng Sa của VietNamNet đầu năm ngoái đã kết nối độc giả với những ngư dân Hoàng Sa. Đã có 4 dàn máy ICOM, cùng hàng trăm triệu đồng của đồng bào cả nước gửi về khởi đầu cho chương trình đồng hành cùng ngư dân Hoàng Sa. Khát vọng con tàu lớn để không còn lo sợ bão tố của “sói biển” Mai Phụng Lưu đã sắp thành hiện thực Tôi vẫn còn nhớ như in hôm thuyền trưởng Mai Phụng Lưu nhận nguồn vốn ưu đãi để chuẩn bị đóng con tàu mới. Nhìn gương mặt ông vừa mừng, vừa lo. Rồi nước mắt lăn dài nơi gương mặt sạm đen vì nắng gió. Ông bảo: "Với con tàu nghĩa tình này từ nguồn vốn ưu đãi, tui sẽ đạp sóng trở lại Hoàng Sa, sẵn sàng đương đầu với những tai ương. Dù có chết tui cũng chết ở Hoàng Sa, quyết không lùi bước…”. Đã từng trắng đêm với những hùng binh Hoàng Sa giữa biển khơi xa, tôi thấu hiểu những khát vọng, những ước mơ cháy bỏng của họ... Vũ Trung === Tôi không biết nói gì hơn, chỉ bày tỏ sự ngưỡng mộ Anh. một con người quả cảm. Chúc Anh thuận buồm, xuôi gió!
  22. Khi lãnh đạo quân sự TQ quên nghi thức ngoại giao Cập nhật lúc 19/07/2011 09:36:00 AM (GMT+7) Chỉ huy quân sự hàng đầu của Trung Quốc, tướng Trần Bỉnh Đức đã dành trọn vẹn 15 phút để không ngừng chỉ trích Mỹ trong cuộc hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Kwan-jin ở Bắc Kinh gần đây - tờ Chosun của Hàn Quốc ngày 18/7 đăng bài bình luận. Ở cương vị Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, ông Trần nói: "Là một siêu cường, Mỹ chỉ nói này, nói nọ với các nước khác, nhưng lại không bao giờ lắng nghe khi các nước khác thể hiện mình theo cách tương tự”. Ông nhấn mạnh, các hành động của Mỹ cho thấy họ muốn “áp đảo” nước khác. Bình luận của ông Trần là không hợp lý và vi phạm nghi thức ngoại giao. Thông thường, một cuộc họp giữa các quan chức ngoại giao được công khai cho báo chí là thời điểm để trao đổi những lời chào hỏi và các bình luận bình thường khác, và các quan chức luôn luôn hạn chế ý kiến của mình về các vấn đề song phương. Chỉ huy quân sự hàng đầu của Trung Quốc, tướng Trần Bỉnh Đức. Ảnh: chinaelectionsblog Sử dụng tuyên bố “khó nghe” như thế để chỉ trích nước thứ ba và là một đồng minh thân cận của nước có quan chức viếng thăm, không hề làm cho quan khách cảm thấy thoải mái. Ông Trần có cương vị thấp hơn Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, người đồng cấp của ông Kim. Đó là sự khiếm nhã về ngoại giao khi ông Trần lan man, dông dài và không tạo cơ hội để người cao cấp hơn có thể trao đổi. Ông Trần nhấn mạnh, Hàn Quốc cũng “cần phải cảm nhận theo cách tương tự” cho dù có liên minh với Mỹ nhưng nói rằng ông khá hiểu nếu Seoul “khó có thể thẳng thắn với Mỹ”. Ông này còn than phiền về chuyến thăm Trung Quốc gần đây của Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, đô đốc Mike Mullen. Ông nói Washington và Bắc Kinh “khó chịu” vì những nghi thức ngoại giao thái quá. “Những chuẩn bị quá tỉ mỉ như thế không tốt cho quan hệ song phương. Tôi không nghĩ Seoul và Washington sẽ chuẩn bị quá thận trọng và tỉ mỉ như thế nếu Mullen tới Seoul”. Theo giới phân tích, cơn giận “bột phát” như vậy đặt Seoul vào tình thế khó xử. Ông Kim đã cố gắng làm dịu tình hình bằng đề xuất, Seoul và Bắc Kinh “tăng cường hợp tác và trao đổi quân sự song phương”, theo một quan chức bộ Quốc phòng Hàn Quốc. Trước đó, trong cuộc gặp đầu tháng này với Đô đốc Mike Mullen, ông Trần đã chỉ trích việc Mỹ tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung ở Biển Đông là không thích hợp, và thúc giục Washington kiềm chế từ việc can thiệp trong khu vực. Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Trần Bỉnh Đức còn thúc giục Mỹ “khiêm tốn và thận trọng hơn trong lời nói và hành động” giữa lúc căng thẳng gia tăng xung quanh tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc về vùng biển chiến lược, giàu tài nguyên và chỉ trích Washington về chi tiêu quân sự. Giới phân tích coi đó là những tuyên bố mang tính khiêu khích khác thường trước một quan chức nước ngoài viếng thăm. Ông Trần còn cáo buộc Mỹ “đặt quá nhiều áp lực lên vai người đóng thuế” trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, về phần mình, ông Mullen đã nói rằng, Mỹ đã duy trì sự hiện diện lâu dài trong khu vực và cam kết này tiếp tục như thế. Ông nói: "Mỹ sẽ không rời xa. Sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực là điều quan trọng với các đồng minh của chúng tôi nhiều thập niên qua và sẽ tiếp tục như thế”. Đó có thể là lý do vì sao ông Trần lại bày tỏ sự thất vọng với Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc. Trung Quốc không ngừng nỗ lực gia tăng sự kiểm soát độc quyền với Biển Đông - vùng biển kết nối các nước Đông Nam Á, và biển Hoa Đông, nơi kết nối Hàn Quốc với Nhật Bản. Một cuộc tranh giành quyền lực là không thể tránh khỏi giữa Trung Quốc và Mỹ - nước đang chứng kiến ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Tuy nhiên, hiện tại, Trung Quốc chưa đủ khả năng cho một cuộc đối đầu vũ trang với Mỹ và thay vào đó là chọn lựa cách gia tăng áp lực với các đồng minh của Washington trong khu vực. Những bình luận mà ông Trần đưa ra phản ánh chiến lược này. Nó cũng báo trước cho cách hành xử tương lai của Trung Quốc và giống như lời cảnh báo tới các láng giềng trong khu vực. Tuy nhiên, chọn lựa này không thích hợp với vị thế toàn cầu của Trung Quốc và khiến các nước láng giềng thêm nghi ngờ về những ý định của Bắc Kinh. Thái An (theo Chosun) === xem lại mình đã tử tế chưa mà chỉ trích người khác cha nội.
  23. Bảng xếp hạng sức mạnh quân sự 2011 Cập nhật lúc :8:41 AM, 19/07/2011 Tạp chí Globalfire Power đã công bố bảng xếp hạng sức mạnh quân sự của 50 nước trên thế giới. Trong đó, có 11 quốc gia lần đầu được đưa vào danh sách, gồm: Ethiopia, Thụy Sĩ, Bỉ, Yemen, Jordan, Algeria, Qatar, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Malaysia và Singapore. http://quocphong.bao.../156273.datviet Top 10 trong bảng xếp hạng 2011 của GFP 1. Mỹ 2. Nga 3. Trung Quốc 4. Ấn Độ 5. Anh 6. Thổ Nhĩ Kỳ 7. Hàn Quốc 8. Pháp 9. Nhật Bản 10. Israel Mỹ vẫn tiếp tục dẫn đầu thế giới về sức mạnh và chi tiêu cho quân sự, tuy nhiên các vị trí còn lại đã có nhiều thay đổi so với đánh giá của năm 2010. Những chương trình phát triển vũ khí và hiện đại hóa quân đội của chính phủ Nga đã làm tăng sự đánh giá của GFP về sức mạnh lực lượng vũ trang này. Theo ,đó Nga đã lấy lại vị trí thứ 2 từ tay Trung Quốc và đẩy Trung Quốc xuống vị trí thứ 3.Dù Trung Quốc tiếp tục đầu tư mạnh cho quốc phòng, phát triển nhiều hệ thống vũ khí mới trong đó phải kể đến sự xuất hiện của mẫu thử nghiệm tiêm kích J-20 và tàu sân bay Thi Lang sắp hoàn thành, tuy nhiên, GFP đánh giá khá thấp sức mạnh chiến đấu của PLA. Nếu đem so với bản đánh giá của năm 2009, vị trí của Ấn Độ tăng đến 4 bậc, cụ thể là Ấn Độ đã chiếm vị trí thứ 4 của Anh. Chương trình cắt giảm quốc phòng quy mô lớn của Anh đã đẩy sức mạnh quân sự và khả năng chiến đấu của đảo quốc sương mù xuống vị trí thứ 5. Cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Âu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đánh giá về sức mạnh quân sự của các nền kinh tế khu vực đồng euro. Những thành công gần đây của nền công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ đã đưa sức mạnh quân sự của họ chiếm vị trí thứ 6 từ tay của Pháp. Pháp tụt xuống vị trí thứ 8, trong khi đó Đức tụt xuống đến vị trị thứ 13. Thậm chí Italy còn tụt xuống đến vị trí thứ 17. Bảng xếp hạng năm 2011 cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các nền quân sự khu vực châu Á. Theo đó, Hàn Quốc đã leo lên vị trí thứ 7. Nhật Bản do ảnh hưởng của thảm họa động đất và sóng thần nên bị tụt xuống vị trí thứ 9. Bảng xếp hạng năm nay cũng cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của Israel, so với năm 2009, Israel tăng đến 7 bậc từ vị trí thứ 17 lên vị trí thứ 10. Trong bảng xếp hạng năm nay khu vực ASEAN có 5 quốc gia, bao gồm Indonesia, Malaysia, Phillippine, Thái Lan, Singapore. Theo đánh giá của GFP, sức mạnh quân sự của Indonesia là cao nhất. Cụ thể Indonesia đứng ở vị trí thứ 18 trên bảng xếp hạng, tiếp theo là Thái Lan vị trí thứ 19. Phillippines ở vị trí thứ 23, Malaysia ở vị trí thứ 27, Singapore. Điều đáng nói, dù là quốc gia có chi tiêu cho quân sự lớn nhất khu vực ASEAN, nhưng GFP chỉ xếp Singapore ở vị trí thứ 41 về sức mạnh chiến đấu. Bảng danh sách của GFP dựa trên nhiều chỉ tiêu khác nhau và từ nhiều nguồn khác nhau, thông qua các hợp đồng mua bán vũ khí, sự phát triển của các hệ thống vũ khí tại quốc gia sở tại, chi tiêu cho quân sự, quân số có trong biên chế, sức mạnh chiến đấu... Mặc dù GFP cho rằng bản đánh giá của họ là không thiên vị nhưng đây là một bản đánh giá mang nhiều tính chủ quan. Bởi vũ khí trang bị, chi tiêu cho quân sự, quân số không hoàn toàn đánh giá được hết năng lực chiến đấu của quân đội nước đó. === Tôi cũng nghĩ là sức mạnh của quân đội trung quốc khá thấp. Kinh nghiệm & khả năng tác chiến nghiệp vụ tầm xa kém.
  24. Chuyên gia KT Phạm Chi Lan: “Theo luật biển thì 100% Trung Quốc thua" Thứ ba, 19 Tháng 7 2011 07:09 (GDVN) - Trong tranh chấp biển Đông, kinh tế là yếu tố cốt lõi luôn đi cùng với các lợi ích về quốc phòng. Để hiểu sâu hơn về lợi ích kinh tế tại khu biển giàu tài nguyên thiên nhiên như nhân dân ta tự hào từ bao đời nay: “rừng vàng biển bạc”, PV báo Giáo dục Việt Nam đã có buổi phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về vấn đề này. PV: Xét dưới góc độ kinh tế, bà đánh giá vai trò của các nước trong tranh chấp biển Đông như thế nào? Bà Phạm Chi Lan: Về lợi ích kinh tế tại biển Đông, theo tôi có 2 nhóm nước. Một là: Nhóm nước có vùng biển hoặc hải đảo mà họ nhận là chủ quyền thuộc về mình như: Việt Nam, Philippin, Malaysia, Trung Quốc. Còn Hoàng Sa thì rõ rồi, thực tế cũng như lịch sử đã khẳng định thuộc chủ quyền Việt Nam từ lâu nay. Hai là: Những nước không có chủ quyền về vùng biển hoặc hải đảo ở biển Đông thì họ cũng có quan tâm bởi vì đó là con đường biển đi lại giữa các nước. Ví dụ như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, các nước Châu Âu… Tôi nghĩ, tốt nhất cho Việt Nam, Philippin, Malaysia... là các nước có vùng chồng lấn thì nên có một sự thương lượng và thỏa thuận với nhau. Và cách tốt nhất mà chúng ta đã làm được như từng làm với Malaysia là cùng nhau khai thác. Dựa trên Công ước về luật biển, các nước có quyền lợi liên quan hoàn toàn có thể đi đến thỏa thuận với nhau để cùng nhau khai thác. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Tôi nghĩ giữa các nước ASEAN với nhau thỏa thuận với nhau việc đó có lẽ không khó bởi vì các nước đều hiểu và đều thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau dựa theo những quy định trong công ước Luật biển. Trong trường hợp các nước không thỏa thuận với nhau được thì hoàn toàn có thể đưa ra tòa án quốc tế phân xử. Họ hoàn toàn có thể phân xử được phần nào thuộc về nước nào thì hợp lý. Nếu đã cùng nhau đưa ra quốc tế phân xử thì phải chấp thuận những phán quyết từ tòa án quốc tế, tôn trọng những phán quyết đó rồi cùng nhau sống yên ổn, hòa bình cùng phát triển. PV: Nhưng Trung Quốc đã không tuân theo Công ước luật biển khi ngang nhiên xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của ta và đưa ra tuyên bố chủ quyền thể hiện qua yêu sách đường lưỡi bò. Bà đánh giá sao về cách hành xử này của Trung Quốc? Bà Phạm Chi Lan: Đối với trường hợp của Trung Quốc, những tuyên bố của nước này rất ngang ngược, hoàn toàn không có cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế. Ở vùng biển Đông, nhưng tuyên bố ngang ngược của Trung Quốc làm cho tất cả các nước đều khó chịu. Bây giờ, để giải quyết thì tất cả đều phải căn cứ trên luật biển, nếu như giữa Trung Quốc và các nước có quyền lợi liên quan không thỏa thuận được thì phải đưa ra tòa án quốc tế. Và khi đưa ra quốc tế căn cứ theo luật biển thì tôi chắc chắn 100% Trung Quốc thua. Chính vì vậy họ mới không muốn đưa các vấn đề liên quan tới biển Đông ra quốc tế theo cơ chế đa phương mà chỉ muốn giải quyết theo cơ chế song phương: giữa Trung Quốc với từng nước liên quan như giữa Trung Quốc với Việt Nam, Trung Quốc với Philippin… Trên việc đàm phán tay đôi như vậy thì họ tin rằng họ là một nước lớn, một nước mạnh trong khu vực này nên họ có thể dùng sức mạnh về các mặt của họ để mà buộc các nước trong đàm phán song phương với họ phải nhân nhượng hoặc chịu thua. Và chính vì vậy, giữa các nước ASEAN cũng đã cùng nhau thỏa thuận là đưa vấn đề này ra đàm phán đa phương. Bởi vì nếu theo cơ chế song phương thì bất kỳ một nước ASEAN nào cũng đều phải công nhận một thực tế là khó có thể đàm phán được với Trung Quốc vì tư tưởng bành trướng rất lớn, cái kiểu “lấy thịt đè người” họ vẫn làm xưa nay. Riêng với Trung Quốc rất khó để có thể giải quyết qua đàm phán song phương dựa trên lợi ích kinh tế chia sẻ nhau hoặc dựa trên công ước quốc tế. Đàm phán theo cơ chế đa phương tạo ra cho các nước yếu hơn tương đối nhưng có lý lẽ, chính nghĩa thuộc về mình có thể thắng được. PV: Trong thế giới hiện đại ngày nay, nhất là trong điều kiện hòa bình, sức mạnh kinh tế là hàng đầu. Nền kinh tế không vững thì không thể đảm bảo cho vị thế chính trị của một nước. Bà đánh giá thế nào về sức mạnh kinh tế trong sức mạnh Việt Nam? Bà Phạm Chi Lan: Trong thế giới hiện đại ngày nay, nhất là trong điều kiện hòa bình, sức mạnh kinh tế là hàng đầu, là sức mạnh cơ sở để làm chỗ dựa phát triển đất nước cũng như trong sự cạnh tranh, hợp tác với các nước khác liên quan trên toàn thế giới. Nếu nền kinh tế không vững mạnh thì nó sẽ không thể đảm bảo vai trò là cơ sở cho an ninh quốc phòng hay là cho độc lập tự chủ cũng như vị thế chính trị của một nước trên trường quốc tế. Về sức mạnh kinh tế Việt Nam hiện nay, tiềm năng rất lớn, những cơ sở khai thác để biến nền kinh tế Việt Nam trở lên mạnh mẽ đều có và vẫn đang còn đó. Nhưng trên thực tế, chúng ta đang trong một thời kỳ hết sức khó khăn hiện nay. Những bất ổn vĩ mô hiện nay đã kéo dài liền trong 3 - 4 năm gần đây. Có thể nói năm nay là năm thứ 4 liên tục, chúng ta trong tình trạng bất ổn vĩ mô cũng như trong các vấn đề lớn về kinh tế như thế này. Tuy nhiên tôi tin là chúng ta hoàn toàn có thể ra khỏi tình trạng khó khăn, lấy lại được sức mạnh kinh tế Việt Nam cũng như tăng cường thêm sức mạnh trong những năm tới. Chỉ cần chúng ta thực hiện đúng những điều mà nội bộ mình đã nhìn nhận được rõ, qua phân tích và làm theo những mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế như ở Đại hội XI vừa rồi đã đưa ra. Chỉ cần chúng ta làm được đúng những điều đó thôi là chúng ta đã có thể đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay và lấy lại cũng như tăng cường sức mạnh kinh tế của mình. PV: Trong hoàn cảnh hiện tại, nền kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn. Bà nghĩ gì trước nhiều ý kiến, người dân sẵn sàng góp công góp của vào một quỹ quốc phòng, mua sắm vũ khí cho quân đội? Bà Phạm Chi Lan: Tôi rất hoan nghênh ý kiến này của người dân. Phải nói là người dân Việt Nam có ý thức rất cao về độc lập, tự chủ của đất nước mình. Thời hiện đại có nhiều cách để đưa Việt Nam vào vị trí phụ thuộc vào nước khác. Người dân Việt Nam đã rất tỉnh táo trong vấn đề đó, luôn luôn sẵn sàng bỏ những cái gì thuộc về cá nhân mình để mà đóng góp cho đất nước, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn và khẳng định lại chủ quyền độc lập của mình. Đây là thời cơ thuận lợi để nhà nước có thể khắc phục những điểm còn nhiều ý kiến khác nhau để phát triển đất nước. Điều đó thể hiện sự thống nhất nhà nước với nhân dân, người Việt Nam trong nước cũng như ở nước ngoài chung một mối lo về vận mệnh của đất nước. Qua đó, đất nước phát triển mạnh về kinh tế cũng như quân sự để bảo vệ độc lập tự chủ của mình và đóng góp cho nền hòa bình trong khu vực và thế giới. Xin cảm ơn bà đã trả lời phỏng vấn! Tin liên quan: Nguyên chủ nhiệm VP Quốc hội Vũ Mão: Cần có nghị quyết về Biển Đông Cựu quan chức Bộ Ngoại giao nói về toan tính của TQ trên biển Đông TQ nguỵ tạo chủ quyền biển Đông: 'Còn nhiều tài liệu chưa đưa ra' Bùng phát săn lùng “siêu tình dược” từ biển Đông Phận đời của "hiệp sĩ mù" đã cứu hàng trăm ngư dân trên biển Đông "Đảm bảo an ninh hàng hải biển Đông vì lợi ích chung" Biển Đông - Mặt trận không tiếng súng: Có thể quốc tế hoá việc xử lý Chiến lược chèn ép của Trung Quốc nhằm thôn tính Biển Đông Sinh viên Trung Quốc tại Việt Nam nói về vấn đề biển Đông Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam: Biển Đông là vấn đề của cả khu vực Tuệ Minh (ghi)==== trung quốc tham lam như vậy e dàn khoan khủng khó bị mang đi cắt sắt vụn. đặt tại vùng tranh chấp với philippines thì không dám rồi vì thái độ kiên định của phi cũng như khác gì thách thức mỹ đại ca. vậy tại đâu ta?
  25. Báo Nga: 'Ấn Độ, Mỹ sau lưng Việt Nam' Cập nhật lúc :3:14 PM, 18/07/2011 Ấn Độ và Mỹ sẽ trợ giúp Việt Nam trước nỗi lo về sự trỗi dậy mạnh bạo của Trung Quốc. Tờ Sự thật (Pravda) của Nga vừa đăng bài bình luận về việc Ấn Độ và Mỹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với vấn đề biển Đông. Dưới đây là nội dung bài viết: Việt Nam không đơn độc trong cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Trong tương lai gần, hạm đội tàu khu trục của Ấn Độ sẽ tới biển Đông. Đây là một nhóm khu trục hạm có hệ thống điều khiển phòng thủ tên lửa. Theo những báo cáo từ New Delhi cuối tháng 6/2011, Hải quân Ấn Độ có dự định đóng quân lâu dài ở biển Đông. Phía Ấn Độ đã có kế hoạch xây dựng sự hiện diện quân sự tại vùng biển này. Theo thông báo chính thức của chính phủ Ấn Độ, sự hiện diện lâu dài ở biển Đông giúp Ấn Độ nâng cao vai trò của mình trong khu vực Đông Nam Á, nơi có đường vận chuyển hàng hải chiến lược từ Thái Bình Dương vào Ấn Độ Dương đi qua. Cụ thể, phía Việt Nam sẽ cung cấp bến đỗ cho tàu chiến Ấn Độ cũng như căn cứ hải quân ở Nha Trang và vịnh Hạ Long. Ấn Độ cũng sẽ cung cấp viện trợ giúp Việt Nam phát triển lực lượng hải quân thông qua đóng tàu mới và huấn luyện thủy thủ Việt Nam. Bằng động thái trên, Ấn Độ, một trong những đối thủ lớn của Trung Quốc trong khu vực đã cho thấy kế hoạch ngăn cản sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Tàu khu trục Ins-Mumbai của Ấn Độ từng cập Cảng Đình Vũ, Hải Phòng năm 2009 trong chuyến thăm Việt Nam. Trước đó, Trung Quốc không che giấu dã tâm thiết lập tầm kiểm soát trên toàn biển Đông cũng như những quần đảo nằm trong khu vực. Lý do dã tâm này ngoài đường vận chuyển hàng hải chiến lược còn có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú ở biển Đông. Hiện tại, Trung Quốc đang kiểm soát quần đảo Hoàng Sa (chiếm từ Việt Nam năm 1974) và một số đảo chìm ở Trường Sa một các bất hợp pháp. Trong 6 tháng đầu năm 2011, Trung Quốc đã có nhiều hành động khiêu khích với cả Việt Nam và Philippines. Mức độ căng thẳng tăng cao đến mức Manila phải kêu gọi sự hỗ trợ từ Washington cũng như gia nhập và phát triển mặt trận đoàn kết chống mối đe dọa từ Trung Quốc với các nước trong khu vực. Nguyên nhân của việc Trung Quốc đẩy cao các căng thẳng là do áp lực từ việc giá xăng tăng cao cũng như cuộc thương lượng về giá gas giữa Trung Quốc và Nga không có nhiều tiến triển. Mặc dù, hải quân Trung Quốc vượt trội so với Hải quân Việt Nam và Philippines nhưng căng thẳng tăng cao đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực cảnh giác với Trung Quốc. Indonesia cũng bày tỏ lo ngại việc Trung Quốc dùng quần đảo Trường Sa làm bàn đạp để nhảy vào những quốc gia gần đó như Malaysia và Indonesia. Với Ấn Độ, một lý do khác để nước này lo ngại sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc là Pakistan cung cấp cho Trung Quốc một căn cứ hải quân ở bờ biển nước này. (>> chi tiết) Trong trường hợp, sức mạnh của Trung Quốc ở biển Đông được tăng cường, Ấn Độ sẽ có nguy cơ "lưỡng đầu thọ địch". Ca sĩ phía sau hậu trường Tuy nhiên, thế giới cũng không nên quên về "ca sĩ phía sau hậu trường" khi nói về vấn đề biển Đông và Trung Quốc. Nước Mỹ đang đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng liên minh chống Trung Quốc với Ấn Độ. Từ sau tháng 12/2007, nhiều quan chức Mỹ có ảnh hưởng, bao gồm cả giám đốc CIA đã thường xuyên đến thăm Việt Nam. Đối diện với sự đe dọa từ phía Trung Quốc, 2 bên đều thể hiện ý muốn quên đi bất bình trong quá khứ. Điều này càng làm rõ hơn khả năng hiện diện quân sự của Mỹ và Ấn Độ trong khu vực trong tương lai gần. Cả Ấn Độ và Mỹ đều sẽ không giới hạn bản thân trong những cuộc gặp xã giao mà sẽ tiếp tục tiến hành đào tạo lực lượng hải quân Việt Nam. Điều này sẽ gây ra những phản ứng từ phía Trung Quốc như kêu gọi Mỹ không can thiệp vào những tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông. Tuy nhiên, những lời kêu gọi này khó mà dọa nạt được người Mỹ. Nếu không tăng cường các hoạt động trong khu vực, người Mỹ sẽ mất nhiều lợi ích cũng như những điểm chiến lược quan trọng về mặt địa lý về tay Trung Quốc. Thanh An (theo Pravda) === hay là tiện thể Việt nam mở luôn hội chợ triển lãm tàu chiến trên biển đông cho xôm. mời luôn mấy anh có tàu chiến to to, có súng dài dài tới tham gia hội chợ cho thêm phần khí thế. Tiện thể xem bác nào còn dư cái tàu tiếp vận nho nhỏ, thì mượn cho ngư dân quảng ngãi, phú yên đi đánh cá xa bờ cho chắc chắn. à mà tại sao bọn trung quốc nó lại đánh & cướp cá của ngư dân ta ấy nhỉ. Chắc là bọn cướp biển người trung quốc thôi, chứ quân đội nhân dân giải phóng trung quốc ai lại làm ba cái chuyện tầm bậy, tầm bạ, bố láo ăn cắp thế. đoán vậy, không biết đúng không nữa?