
+Achau+
Hội viên-
Số nội dung
533 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
3
+Achau+ last won the day on Tháng 3 9 2011
+Achau+ had the most liked content!
Danh tiếng Cộng đồng
271 ExcellentAbout +Achau+
-
Rank
Hội viên chính thức
- Birthday
Xem hồ sơ gần đây
1.885 lượt xem hồ sơ
-
Achau thành thực cám ơn Quản trị viên 07, Thiên Đồng, Thiên Luân & các ACE Trung tâm đã dành chút thời gian quí báu của mình đi tư vấn PTLV giúp cho Gia đình các ACE thành viên trên Diễn Đàn Lý học hiện đang gặp khó khăn! Thực lòng, Achau cũng rất muốn góp chút công sức của mình cùng với ACE Trung tâm. Dạo này nhiều chuyện lu bu quá. Hơn nữa tự thấy kiến thức của mình đang còn những hạn chế nhất định nên không tham gia cùng với ACE được. Achau xin rút tên khỏi Topic Tư vấn từ thiện này. Thành thực xin lỗi Sư phụ, ACE trung tâm NC Lý học & Gia đình các ACE thành viên Diễn đàn đang cần giúp đỡ! Achau.
-
Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988 Tác giả: Hoàng Hường Bài đã được xuất bản.: 9 giờ trước Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988 Phát ngôn&Hành động: Minh bạch chủ quyền và con tim lập lờ Chỉ cần được học dù phải đánh đổi bằng sinh mạng NS Quỳnh Hợp: Tổ quốc lâm nguy lòng người sao bình lặng được! Chúng tôi tìm về tỉnh Quảng Bình, nơi tập trung nhiều cựu chiến binh tham gia vào trận đánh bi hùng này. Họ là những người trực tiếp chiến đấu cùng anh Phương và anh Lanh, và trên chuyến tàu HQ-604 anh hùng, để được nghe tường tận hơn những câu chuyện rơi nước mắt chưa từng được biết đến. Những ngày gần đây, tình hình Biển Đông đang căng thẳng. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phức tạp. Người dân cả nước lại hướng trái tim ra vùng trời biển tổ quốc. Những sự kiện từng xảy ra trên vùng biển, cũng như trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại được đặc biệt quan tâm, trong đó đương nhiên có trận hải chiến trên đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 14/3/1988. Sự kiện được đề cập tới trong clip phim tài liệu 'vòng tròn bất tử' từng làm làm xôn xao cư dân mạng từ năm 2008. Hình ảnh thiếu úy liệt sĩ Trần Văn Phương ngã xuống khi giành giật lá cờ tổ quốc, và Anh hùng Quân đội Nguyễn Văn Lanh tay không chiến đấu để bảo vệ cờ đã trở thành biểu tượng anh dũng trong công cuộc giữ gìn chủ quyền đất nước. Gần đây Tuần Việt Nam đã đăng bài viết Phía sau những người đã ngã xuống vì Trường Sa ghi lại những câu chuyện cảm động về các gia đình, thân nhân liệt sĩ đã ngã xuống trong sự kiện ngày 14/3/1988. Để tiếp nối câu chuyện và có cái nhìn trực diện hơn, chúng tôi tìm về tỉnh Quảng Bình, nơi tập trung nhiều cựu chiến binh tham gia vào trận đánh bi hùng này. Họ là những người trực tiếp chiến đấu cùng anh Phương và anh Lanh, và trên chuyến tàu HQ-604 anh hùng, để được nghe tường tận hơn những câu chuyện rơi nước mắt chưa từng được biết đến. Vợ chồng anh Lê Văn Đông và Nguyễn Thị Thương, Ảnh: Hằng Nhom Đầu xuân năm 1988, thượng sĩ Lê Văn Đông (Thôn Rẫy, xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình) được nghỉ phép hai tuần đón Tết Nguyên Đán. Không bỏ phí khoảng thời gian quý báu, anh chiến sĩ (khi ấy 22 tuổi - chỉ còn vài tháng nữa là hết kỳ nghĩa vụ quân sự) tranh thủ tổ chức đám cưới với người con gái cùng thôn đã chờ anh mấy năm quân ngũ. Ngay trong ngày cưới, chú rể nhận lệnh của đơn vị và đúng 24 giờ sau, Lê Văn Đông quay lại đơn vị chuẩn bị làm nhiệm vụ. Bỏ lại cô dâu mới và đêm tân hôn còn nồng đượm, chàng trai lên đường và không biết hơn một tháng sau đó, cuộc đời binh nghiệp của anh có những lối rẽ không ngờ, gắn liền với một dấu mốc trong lịch sử chủ quyền đất nước. Anh Mai Văn Hải đang 'ngắm' lại chính mình trong đoạn clip phim tài liệu. Lời bình trong phim cho rằng người này là chiến sĩ Trương Văn Hiền, nhưng các nhân chứng đều khẳng định đó là anh Mai Văn Hải. Hiện anh Hải đang sống tại xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ảnh: Hoàng Hường Đầu năm 1988, Trung Quốc bất ngờ đổ bộ chiếm đóng trái phép 5 đảo đá: Chữ Thập, Châu Viên, Xu Bi, Huy Gơ và Ga Ven trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, sát cụm đảo Sinh Tồn. Trong khi đó, trên 3 đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao phía Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn, giống ba góc tam giác có vị trí như trạm quan sát tuyến đầu, 'mắt thần' của Trường Sa, đã có nhà đóng giữ và cột mốc chủ quyền của Việt Nam. Anh Nguyễn Văn Thống, anh là một trong những người bị thương nặng nhất trong trận chiến ngày 14/3/1988. Anh bị chìm cùng tàu HQ-604. Khi được vớt lên, chính đồng đội cũng không nhận ra anh. Anh Thống hiện là thương binh hạng 1. Anh sống cùng vợ con tại xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Ảnh: Hằng Nhom. Chiều 13/3/1988, Việt Nam đưa ba tàu vận tải HQ-604, HQ-605, HQ-505 chở bộ đội ra đóng giữ ba đảo này. Lực lượng chủ yếu trên ba tàu này là các chiến sĩ thuộc Trung đoàn Công binh Hải quân Việt Nam E83, đơn vị của anh Lê Văn Đông. Trước đó đơn vị này đang đóng quân tại Đà Nẵng, được điều khẩn cấp ra Cam Ranh, Khánh Hòa. Khá tình cờ, nhiều đồng hương của anh Đông tại Quảng Bình cùng đơn vị đều đi trên tàu HQ-604, được lệnh đóng giữ đảo Gạc Ma, con tàu bị tổn thất nặng nề nhất với gần như toàn bộ thủy thủ thương vong hoặc bị bắt, tàu bị bắn chìm. Anh Lê Văn Đông chỉ vào cảnh anh đang bị lính Trung Quốc bắt trong đoạn phim tài liệu, Ảnh Hằng Nhom Anh Đông kể lại, hầu hết chiến sĩ trên tàu thuộc trung đoàn công binh E83 và một số học viên của Học viện Hải quân. Tuổi đời hầu hết đều khoảng từ 20 - 23. Trong đó anh Đông thuộc diện 'may mắn' hơn vì đã kịp lấy vợ. Hầu hết những chiến sĩ khác đều chưa lập gia đình, để rồi nhiều người trong số họ đã ngã xuống khi chưa kịp có một mối tình nào mang theo. Những đồng đội Quảng Bình như Mai Văn Hải, Nguyễn Văn Thống, Trần Văn Quyết, Lê Thanh Miễn và nhiều người đều 'bái phục' thành tựu tình yêu của anh Đông. Thế nhưng sau này, khi trải qua biến cố trên đảo Gạc Ma, bị báo tử khi còn sống. Trong các câu chuyện khi bị tù đày nơi xứ người. Anh Đông không khỏi day dứt về người vợ trẻ vừa cưới được một ngày của mình, khi vừa mang thai được vài tháng đã nhận tin chồng hy sinh. Nhưng chị Nguyễn Thị Thương - vợ anh Đông - đã may mắn hơn nhiều người vợ lính khác trong sự kiện 14/3/1988 lại được đón chồng trở về, để trở thành nhân chứng của một câu chuyện lịch sử. Kỳ 2: Vòng tròn bất tử
-
Chúc mừng sinh nhật chị Wild! Em chúc Chị luôn Khỏe & Hạnh phúc! em Achau
-
Lo ngại bao trùm đường sắt cao tốc Trung Quốc 25/07/2011 0:08 Vụ tai nạn thảm khốc ở tỉnh Chiết Giang gióng lên hồi chuông báo động về đường sắt cao tốc Trung Quốc, vốn chịu nhiều tai tiếng về tham nhũng. Tính tới ngày 24.7, đã có ít nhất 35 người chết và 210 người bị thương trong vụ hai tàu tông nhau trên tuyến đường sắt cao tốc đoạn ở thành phố Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, theo Tân Hoa xã. Trong số các nạn nhân thiệt mạng, mới xác minh được nhân thân 19 người, bao gồm 2 người nước ngoài. Tai nạn thảm khốc này xảy ra trên đoạn đường ray cách mặt đất 15m, khi tàu D301 đâm phải đuôi tàu D3115, khiến 4 toa của D301 và 2 toa của D3115 trật đường ray, rơi thẳng xuống đất, bẹp dúm. Theo điều tra ban đầu, tàu D3115 bị sét đánh gây mất điện và phải dừng lại trên đường ray. Bất thần, tàu này bị tàu D301 đụng mạnh từ phía sau. Hình ảnh trên truyền hình cho thấy những toa tàu rúm ró nằm nghiêng ngả trên trong khi những nạn nhân thương tích đầy mình được khiêng khỏi hiện trường. Do tính nghiêm trọng của tai nạn, Cục trưởng Cục Đường sắt Thượng Hải Long Kinh, Bí thư Đảng bộ Lý Gia và một quan chức cấp cao khác đã bị cách chức để điều tra. Vụ việc xảy ra chưa đầy một tháng sau khi tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải trị giá 33 tỉ USD đi vào hoạt động. Tuyến đường này cũng nhiều lần xảy ra sự cố khi các chuyến tàu bị trì hoãn do mất điện. “Đại nhảy vọt” Cư dân mạng Trung Quốc rất bất bình về thái độ vô trách nhiệm của tổ lái tàu D3115. Theo lịch trình, hai tàu cách nhau tới hơn 10 phút và hoàn toàn có thể tránh được tai nạn thảm khốc nếu nhân viên trên tàu D3115 kịp thời gọi điện thông báo sau khi tàu bị mất điện. Dư luận cũng chỉ trích dữ dội hệ thống thông tin trên tuyến đường sắt cao tốc yếu kém tới mức tàu D3115 vừa bị sét đánh đã mất hết tín hiệu và điện thoại vệ tinh có cũng như không. Phần lớn các bình luận đều cho rằng chất lượng đường ray và ý thức của người điều khiển giao thông đã góp phần lớn gây nên tai nạn. Hiện trường vụ tai nạn ở Ôn Châu - Ảnh: AFP Trang tin Tài chính Trung Quốc cho rằng với chỉ tiêu do Quốc vụ viện đưa ra trong cuộc họp ngày 7.1.2004 là “tới năm 2020, phải đưa bằng được 100.000 km đường sắt cao tốc vào vận hành” khiến ngành đường sắt cao tốc buộc phải phát triển kiểu “đại nhảy vọt”, bất chấp cả vấn đề an toàn và chất lượng. Chính tờ Hành khách của Bộ Đường sắt nước này số ra ngày 1.7.2011 cũng có bài phản ánh rằng người Đức mất từ 2-3 tháng để học lái tàu cao tốc, nhưng người Trung Quốc bị lãnh đạo chỉ thị “bắt buộc phải lái bằng được chỉ sau 10 ngày học”. Điều này khiến các chuyên gia Đức tham gia giảng dạy lái tàu cũng phải than thở là “điên rồ và không thể hoàn thành được”. Nhưng trên thực tế nhiều lái tàu Trung Quốc vẫn bị ép học “nhồi nhét” và đốt giai đoạn như vậy. Tham nhũng tràn lan Kế hoạch phát triển đường sắt cao tốc ở Trung Quốc bắt đầu được đẩy mạnh từ năm 2003, đặc biệt khi ông Lưu Chí Quân nhận chức Bộ trưởng Đường sắt, kiêm Bí thư Đảng bộ. Tuy nhiên tới tháng 2.2011, ông này bị bắt để điều tra về hành vi tham nhũng suốt 7 năm trong các dự án đấu thầu xây dựng đường sắt cao tốc. Em trai của Lưu Chí Quân là Lưu Chí Tường - từng là Phó cục trưởng Cục Đường sắt tỉnh Hồ Bắc, đã bị tử hình vào năm 2006 nhiều tội danh: lũng đoạn ngành đường sắt, tham ô hơn 40 triệu tệ, thuê sát thủ âm mưu giết người diệt khẩu. Tháng 3.2011, giới kiểm toán Trung Quốc phát hiện các công ty xây dựng và một số cá nhân đã tham ô 187 triệu nhân dân tệ (600 tỉ đồng) trong dự án đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải. Trước đây, báo chí Trung Quốc từng điều tra về tham nhũng trong ngành đường sắt nhưng phần lớn đều chìm xuồng. Năm 2008, tờ Thời báo Trung Quốc đăng bài về việc sử dụng vật liệu kém chất lượng trong công trình xây dựng tuyến đường tàu cao tốc Võ Quảng. Sau khi bài báo được đăng, Bộ Đường sắt đã kiện Bộ Thông tin - Tuyên truyền tội đưa tin sai sự thật và phóng viên bị nghỉ việc. Cuối năm 2010, tờ Kinh tế thế kỷ 21 cũng đăng một bài điều tra tương tự về tham ô, rút ruột trong quá trình phát triển đường sắt cao tốc nhưng gặp rất nhiều rắc rối sau đó. Cùng năm, nhà báo Doãn Mặc Tam của báo Tương Thanh ở tỉnh Hồ Nam đã đi sâu vào điều tra và phát hiện nhiều công ty “ma” hoặc không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng vẫn trúng thầu dự án xây dựng tuyến tàu cao tốc Hộ Côn. NgọcBi ==== K biết việt nam mình khi nào làm đường sắt kao tốc có mời công ty trung quốc tư vấn k bít. Nhỡ trung quốc cho vay ODA để làm dự án này thì không bít mọi chuyện ra làm sao nữa, lo nhất là cái anh an toàn à. hây hà. khà khà. Làm cái anh đường sắt kao tốc loạng quạng lại phát triển cái anh xi măng, sắt thép, dịch vụ giải trí... k bít chừng.
-
Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (04/07/2011) Sau khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 của Hải quân VNCH là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH đang thực thi chủ quyền lâu đời của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và việc liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này là một hiển nhiên trong lịch sử. Sơ đồ trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 Trên thực tế khi ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa tháng 4-1956 từ quân đội Pháp, Hải quân VNCH phát hiện Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép các đảo phía đông của quần đảo này. Kể từ đó cho đến khi diễn ra trận hải chiến 1974, vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam không còn bình yên truớc những diễn biến làm phức tạp tình hình từ phía Trung Quốc. Từ năm 1956, Hải quân VNCH đã phát hiện ngư dân Trung Quốc nhiều lần xâm nhập trái phép các đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa do chính quyền VNCH quản lý. Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Hạm đội 7- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng rút quân và các thiết bị ra khỏi vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Kể từ đó, các hoạt động xâm nhập trái phép của Trung Quốc lên các đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày càng gia tăng. Để mở đầu cho kế hoạch gây chiến và đánh chiếm, ngày 11-1-1974 Trung Quốc đột ngột ra Tuyên bố phản đối việc chính quyền VNCH 4 tháng trước điều chỉnh sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy của Việt Nam và nhắc lại yêu sách vô lý của họ về chủ quyền trên toàn bộ các đảo và quần đảo ở Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Ngay lập tức, ngày 12-1-1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền VNCH ra Tuyên bố bác bỏ yêu sách vô lý của Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 16-1-1974, chính quyền VNCH tiếp tục ra Tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử minh chứng chủ quyền lâu dài và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong ngày 16-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) khi đưa một phái đoàn ra quần đảo Hoàng Sa để khảo sát xây dựng sân bay thì phát hiện hai chiến hạm của Trung Quốc gần đảo Cam Tuyền và quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép, cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc... Nhận được tin báo khẩn cấp, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH điều thêm chiến hạm ra quần đảo Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên vùng biển này của tàu chiến Trung Quốc với thái độ ôn hòa, kiềm chế. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng đã điều động một lực lượng tàu chiến hùng hậu tiến về phía quần đảo Hoàng Sa, trong đó có nhiều tàu đánh cá vũ trang và đổ bộ lên một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để cắm cờ. Một số tàu cá vũ trang của Trung Quốc còn bám theo các chiến hạm của Hải quân VNCH đang trên đường ra Hoàng Sa, cản trở hành trình của các tàu Việt Nam bằng những hành động khiêu khích. Bốn chiến hạm của Hải quân VNCH đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam năm 1974 (HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16) Ngày 17-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đổ bộ một toán biệt hải lên đảo Vĩnh Lạc để nhổ cờ Trung Quốc. Toán đổ bộ còn phát hiện một số ngôi mộ giả mới đắp không hề có xương cốt với những tấm bia gỗ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước. Theo các nhân chứng, đêm 17 rạng sáng ngày 18-1-1974 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình gia tăng sự khiêu khích, các chiến hạm của họ bắt đầu tiến sâu vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Các tàu chiến của Hải quân VNCH liên tục ra tín hiệu cảnh báo: "Đây là lãnh hải Việt Nam, yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay”. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả và cho rằng quần đảo Hoàng Sa là "lãnh hải” của Trung Quốc, họ lì lợm không rút lui theo yêu cầu và cảnh báo ôn hòa từ phía Việt Nam. Ngày 18-1-1974, chiến hạm HQ-4 tiến về phía đảo Cam Tuyền, đổ bộ một toán biệt hải lên đảo lúc 8 giờ sáng. Sau khi hạ cờ Trung Quốc, toán đổ bộ phát hiện những ngôi mộ giả do phía Trung Quốc mới đắp giống như trên đảo Vĩnh Lạc hôm trước. Đến 11giờ cùng ngày, nhận được tin báo có hai tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đang xâm nhập trái phép và tiến về quần đảo Hoàng Sa, các tàu HQ-4 và HQ-16 của Hải quân VNCH ra ngăn chặn, dùng tín hiệu cảnh cáo và yêu cầu các tàu xâm nhập trái phép ngay lập tức phải rút ra khỏi vùng biển Việt Nam. Nhưng hai tàu cá vũ trang của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh và cố tình khiêu khích, gây hấn. Tàu HQ-4 tiến thẳng đến gần một tàu cá Trung Quốc, nhìn thấy rõ thủy thủ đoàn trên tàu mặc đồng phục xanh dương đậm, có trang bị 2 súng đại liên và rất nhiều súng tiểu liên cá nhân. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc để xua đuổi và dùng loa phóng thanh hết cỡ yêu cầu họ ngay lập tức rút khỏi vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả bằng những lời lẽ khiêu khích và gây hấn. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 dùng mũi ủi vào tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của Hải quân VNCH họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt tham gia xua đuổi tiếp các tàu cá vũ trang còn lại của Trung Quốc trong khu vực này. Buổi chiều cùng ngày, 3 chiến hạm của VNCH bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) được lệnh sắp đội hình hàng dọc tiến về đảo Duy Mộng. Khoảng 16giờ cùng ngày, có hai tàu chiến của Trung Quốc tiến ra khiêu khích, cắt đường ngang mũi các tàu HQ-4 và HQ-16. Do đội hình bị chia cắt, tàu của VNCH không thể tiến lên được, khoảng cách của hai bên rất gần nhau, các khẩu đại bác trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nhưng các tàu của VNCH được lệnh phải hết sức kiềm chế và phải cố gắng hết sức để thuyết phục phía Trung Quốc lui quân. Đêm 18 rạng sáng 19-1-1974, tàu chiến và tàu đánh cá Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng khiêu khích và ngày càng tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa. Tàu HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang thật sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trong khi đang bị hỏng một máy chính chưa kịp sửa chữa, đã nhận lệnh ra Hoàng Sa tham gia đội hình chiến đấu. Khoảng 6 giờ sáng ngày 19-1-1974, Tàu HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Theo ông Lữ Công Bảy, nguyên là thượng sỹ giám lộ có mặt trên chiến hạm HQ-4 trong trận hải chiến 1974, từ đài chỉ huy bằng ống nhòm, tàu HQ-4 đã phát hiện doanh trại mới toanh, có cột cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng tàu HQ-4 có dịp khảo sát đảo này không hề thấy), như vậy Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo mới đây. Đài chỉ huy đồng thời phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân rất đông lên phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc liên tục đổ người ào ạt lên các đảo của Việt Nam. Và họ đã nổ súng trước. Vào lúc 8 giờ 30 phút, một loạt đại liên và cối 82 của Trung Quốc đã bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sỹ tử vong và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam vẫn không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì đội hình người nhái Việt Nam đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Cùng lúc đó, xuất hiện hai chiếc tàu Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly ngay bên cạnh tàu HQ-4. Các họng súng đại bác của tàu Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4. Các tín hiệu bằng đèn cực kỳ khiêu khích của tàu Trung Quốc liên tục được chuyển tới tàu HQ-4. Khoảng 10 giờ, hai trục lôi hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 bắt đầu tách khỏi hai chiếc 274 và 271, chạy song song gần nhau và bất chợt cùng quay mũi trực chỉ HQ-10. Vẫn chưa có lệnh khai hỏa từ phía VNCH. Các tàu chiến của Trung Quốc từ từ tiến gần đội hình của VNCH, còn cách tàu HQ-10 chỉ khoảng 200 mét, tình hình hết sức căng thẳng. Khoảng 10 giờ 25 phút, bốn chiến hạm của Hải quân VNCH được lệnh nổ súng để tự vệ trước sự gia tăng gây hấn, khiêu khích và xâm chiếm trái phép ngày càng quyết liệt hơn của Trung Quốc. Những phát đạn đầu tiên của HQ-10 trúng ngay vào chiếc 389 của Trung Quốc làm nó bốc cháy, cùng lúc tàu HQ-16 cũng bắn thẳng vào chiếc 386 làm cho đài chỉ huy bị trúng đạn, hỏng hệ thống điều khiển bánh lái khiến nó cứ xoay vòng. Đang chiếm ưu thế, bất chợt khẩu 76,2 ly trên tàu HQ-10 bị trục trặc, thêm vào đó HQ-10 chỉ còn một máy chính nên xoay trở rất chậm trở thành mục tiêu dễ dàng của đối phương. Lợi dụng sự bất lợi đó, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ-10 trúng đạn. Không bỏ lỡ cơ hội, chiếc 389 của Trung Quốc tiến đến gần phía sau lái của HQ-10, nhưng bị các binh sỹ trên tàu HQ-10 chống trả dữ dội và điều khiển tàu đâm vào phần sau lái của chiếc 389, khiến chiếc này hư hỏng nặng và bị loại khỏi vòng chiến. Đây cũng là lý do khiến chiếc 396 phải ngưng chiến đấu với tàu HQ-16 để cấp tốc ứng cứu chiếc 389 và đưa chiếc này ủi lên bãi san hô để tránh bị chìm xuống biển. Tình trạng của tàu HQ-10 lúc này rất bi đát, hơn 70% chiến sỹ đã tử trận kể cả hạm trưởng. Các tàu Trung Quốc phản kích dữ đội. Cùng lúc đó Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm ở gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Các chiến sỹ còn trụ lại trên tàu HQ-10 đang bốc cháy vẫn tiếp tục nổ súng vào các tàu Trung Quốc, thu hút hỏa lực cho các đồng đội khác rút lui cho đến khi chìm hẳn xuống lòng Biển Đông của Tổ quốc. Sau khoảng hơn 45 phút giao chiến, theo tài liệu của Trung Quốc có các tàu của Trung Quốc mang số hiệu 274, 271, 389, 391 trúng đạn hư hỏng nặng; 281, 282 và 402, 407 hư hại trung bình. Theo tài liệu của VNCH, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trúng đạn bị chìm, HQ-16 bị hư hại nặng, HQ-4 và HQ-5 bị hư hại nhẹ. VNCH có hơn 50 binh sỹ tử trận. Trung Quốc bắt giữ 48 binh sỹ VNCH và một người Mỹ, sau đó trao trả cho Việt Nam và Hoa Kỳ tại Hồng Kông. Hình ảnh chiếc trục lôi hạm 389 của Trung Quốc bị loại khỏi vòng chiến phải ủi vào bãi san hô để không bị chìm Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH liên tục phát ra nhiều Tuyên bố phản đối hành động "xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” này của Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) cũng ra Tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường "về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” . Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ CMLTCHMNVN cũng đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMNVN đã lên tiếng bác bỏ các thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa và Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay luôn do người Việt Nam quản lý. Nhóm PV Biển Đông
-
Ghi sâu lời Bác dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" ND- 55 năm trước đây, ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Đền Hùng, gặp mặt và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". .......... http://www.baomoi.co...122/3223752.epi ====
-
Ông Nguyễn Cao Kỳ qua đời tại Malaysia Rạng sáng nay, ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn, đã qua đời tại một bệnh viện ở Malaysia, ở tuổi 81. > Ông Nguyễn Cao Kỳ: 'Tôi muốn là sứ giả hòa hợp dân tộc' Ông Nguyễn Cao Kỳ. Ảnh: AFP Sáng nay, nữ MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên (con gái ông Nguyễn Cao Kỳ) cho VnExpress biết, chỉ ít phút sau khi được đưa vào bệnh viện ở Malaysia, ông Kỳ đã qua đời. Trước đó, ông có biểu hiện khó thở. Kỳ Duyên chia sẻ, mấy năm gần đây cha cô rất yếu, thường xuyên phải vào viện. Những ngày cuối đời, ông thường động viên con gái về nước và hướng cô kinh doanh ở Đà Nẵng. Theo đánh giá của ông, đây là một mảnh đất vàng, nhiều tiềm năng phát triển. "Duyên rất hãnh diện khi tên mình được gắn với tên ông - Nguyễn Cao Kỳ", cô tâm sự. Kỳ Duyên đang ở Việt Nam và hôm nay sẽ bay sang Malaysia để cùng gia đình lo tang lễ cho cha. Ông Nguyễn Cao Kỳ sinh năm 1930, là sĩ quan quân đội, chính khách của chính quyền Sài Gòn và từng giữ chức vụ Thủ tướng, Phó tổng thống. Ông có 3 vợ và 6 con. Năm 2004, lần đầu tiên sau gần 30 năm kết thúc chiến tranh, ông Nguyễn Cao Kỳ cùng vợ và con gái đã về đón năm mới ở quê hương. Ông từng khẳng định, muốn làm sứ giả cho sự hoà giải và kết hợp đại đoàn kết dân tộc. Hồng Khánh http://vnexpress.net...i-tai-malaysia/
-
Giàn khoan Trung Quốc đe dọa an ninh Biển Đông Tác giả: Nguyễn Đức Hùng-Lê Vĩnh Trương- Dư Văn Toán - Nguyễn Trọng Bình- Phạm Thu Xuân (QNCBĐ) Bài đã được xuất bản.: 23/07/2011 05:00 GMT+7 Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002. Trung Quốc cho tàu Hải Tuần 31 rời bến ngày 15/6 qua vùng Biển Ðông và ghé Hoàng Sa, Trường Sa đến Singapore. Truyền thông nước này cho biết đây là tàu hải tuần lớn nhất của họ ra Hoàng Sa và Trường Sa giữa lúc căng thẳng gia tăng tại vùng biển tranh chấp này. Ngoài ra Trung Quốc đang hoàn thành và sắp đưa giàn khoan kích thước lớn ra Biển Đông gây xôn xao dư luận trên thế giới. Sự kiện này nằm trong chiến lược ngoại giao pháo hạm, xâm lấn bằng tàu dân sự để bành trướng xuống Biển Đông, phục vụ việc sở hữu năng lượng của Trung Quốc. Bài viết này trình bày một số điểm liên quan đến giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc và những ảnh hưởng đến an ninh khu vực Biển Đông. 1. Giới thiệu Với những tiến bộ về khoa học công nghệ hải dương và đóng tàu, Trung Quốc đang có những thành công trong lĩnh vực chế tạo và sản xuất hàng loạt tàu chiến hạng siêu nặng, giàn khoan dầu khí khổng lồ nhằm khai thác tài nguyên biển phục vụ phát triển quân sự và kinh tế của mình. Sẽ có ít bàn cãi, nếu các hoạt động của các kết cấu này diễn ra trong vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia sở hữu, nhưng ngược lại, nếu các thiết bị này được dùng như lá bài thăm dò và khai thác dầu khí mà thực chất đó lại là những cấu kiện nhằm tìm chiếm tài nguyên tại các vùng biển thuộc chủ quyền nước khác, việc này không khác gì hành động xâm lược. Những thách thức của các kết cấu này thật hiển nhiên, do đó việc chuẩn bị các giải pháp xử lý theo chủ quyền Việt Nam, theo đúng luật quốc tế là cần thiết. Theo UNCLOS và các bộ luật khác, hiện chưa có quy chế nào về việc lấn biển hay hình thành đảo nhân tạo cũng như chưa có quy chế vùng ngoại vi cho các thực thể này ngoài khơi hay gần bờ.[1] Vậy thì thực thể này (giàn khoan dầu khí khổng lồ) có ý nghĩa gì? Được hưởng những quy chế nào? Và Trung Quốc sẽ tiến hành đặt giàn khoan khổng lồ này ở đâu và sẽ gây ảnh hưởng tới các nước vành đai Biển Đông như thế nào? Do Trung Quốc có nhiều chiêu bài, nhiều cách thức và biện pháp để phục vụ mục đích cuối cùng của họ là độc chiếm Biển Đông, những ai quan tâm đến tình hình an ninh và ổn định ở khu vực Biển Đông và trên thế giới chắc chắn sẽ có những quan ngại nhất định. Chú thích cho bản đồ trong Hình 1: Đường mầu xanh nước biển là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý cách đường cơ sở của các quốc gia chung Biển Đông. Theo cách phân chia giả định này dựa trên giả thiết các đảo trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough không được hưởng quy chế 100% hiệu lực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý. Khu vực khép kín bởi đường mầu xanh nước biển nằm giữa đường phân định đặc quyền kinh tế là khu vực chung, được coi là vùng thềm lục địa chung của các quốc gia chung Biển Đông cần có thỏa thuận phù hợp trong việc khai thác tài nguyên và đánh bắt cá. Các chấm tròn màu xanh lá cây thể hiện lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo được cho là có tranh chấp thuộc các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough. Đường mầu xanh lá cây là đường trung tuyến cách đều bờ từ Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đường mầu đỏ đứt đoạn là đường chữ U (lưỡi bò) của Trung Quốc. Chúng ta thử đưa ra các giả định để tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn này. Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 tới vị trí nào trên Biển Đông? Từ bản đồ trong Hình 1, chúng ta có thể thấy có một trong những kịch bản sau: Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng Đặc quyền kinh tế của Trung Quốc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng khu vực chung Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng EEZ của Việt Nam Trung Quốc đưa giàn khoan vào một ví trị nằm vùng giới hạn bởi đường xanh lá cây Kịch bản khác... 2. Sự kiện Sự cố tình chủ ý vi phạm chủ quyền Trường Sa củaViệt Nam của Trung Quốc từ năm 1984 Chủ nghĩa đế quốc và ngành hải dương học thường đi cùng nhau, đó là kinh nghiêm đúc kết từ các siêu cường biển trong lịch sử như Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan, Mỹ, Nga. Trung Quốc cũng đang đặt mục tiêu trở thành siêu cường biển mới trên thế giới nên họ đã đang dùng nhiều thủ đoạn nghiên cứu đáy biển, mặt biển thuộc chủ quyền của các quốc gia láng giềng tại Biển Đông, nhằmphục vụ các tham vọng kinh tế và chính trị của mình. Theo những tài liệu mà chúng tôi tham khảo, từ năm 1984 đến năm 1986, Viện Hải dương học Nam Hải và từ 1987-1991 Viện Khoa học quốc gia Trung Quốc gồm nhiều cơ quan, đã vi phạm chủ quyền biển Việt Nam và thực hiện nhiều nghiên cứu địa chất hải dương chi tiết tại khu vực Trường Sa và lân cận. Họ đã xuất bản tập tổng kết năm 1992, 400 trang, với nhiều kết luận về khoáng sản đáy biển Trường Sa và cho rằng những kết quả này là bước đầu trong công cuộc khai thác và mở rộng biên giới biển phía Nam cho họ[1]. Thời gian này do vừa kết thúc chiến tranh và hạn chế điều kiện, Việt Nam chỉ có thể khởi động nghiên cứu về Trường Sa từ sau năm 1990. Chúng ta cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn, chất lượng hơn và đi vào thực tiễn hơn nữa để có đủ kiến thức và phản bác những hành vi lấn chiếm của Trung Quốc trên các diễn đàn, hội nghi khoa học quốc tế. Năm 2010, Trung Quốc tuyên bố đã dùng tàu ngầm thực hiện cắm cờ của họ dưới đáy Biển Đông ở 17 điểm, trong đó điểm có độ sâu nhất là 3759 m. Tuy vậy do họ không công khai vùng biển nào trên Biển Đông, nên đã có quan ngại lớn cho các quốc gia lân cận và cả toàn thế giới. Đầu năm 2011 Trung Quốc đã khởi động dự án South China Sea Deep (Vùng nước sâu Biển Đông) trước tiên là nghiên cứu các hướng phát triển của đáy đại dương, kế đó là trầm tích, khí hậu, sinh học đáy đại dương. Đó là việc hấp thu cacbon của các vi sinh vật, cuộc sống dưới đáy biển, sự trao đổi dưỡng chất và phiêu sinh vật... tại nhiều vùng ở Biển Đông cũng như giữa Biển Đông và Thái Bình Dương. Đề án trên do nhà khoa học Uông Phẩm Tiên, thuộc Đại Học Đồng Tế ở Thượng Hải chủ trì. Ông này có thể đã nhờ đến sự hỗ trợ của Giao Long, con tàu lặn hiện đại nhất của Trung Quốc, có khả năng lặn sâu đến 7km dưới đáy biển. Dự án được đưa ra một phần từ nghiên cứu của chiếc Đại Dương Nhất Hiệu năm 2007 về những dải kiến tạo ở giữa đại dương do các dịch chuyển của vỏ trái đất. Đồng thời, các nhà thám hiểm trên tàu này cũng phát hiện được vị trí nhiều mỏ đồng, chì, kẽm cũng như các nguồn thủy nhiệt tại đây. Những nỗ lực khoa học của Trung Quốc thực đáng khâm phục, song nếu những thành quả khoa học này được sử dụng cho mục đích cuối cùng là khống chế những vùng biển chung của nhân loại vì lợi ích kỷ của một tập đoàn cầm quyền thì thế giới cần có biện pháp ngăn chận. Cuối năm 2011 Trung Quốc cho triển khai loạt 6 tàu dầu khí, trong đó có giàn khoan khổng lồ CNOOC 981. Đây là giàn khoan chủ lực của Trung Quốc nhằm khai thác tài nguyên biển sâu. Giàn khoan 981 được mệnh danh là "hàng không mẫu hạm" trên biển[2] ,được trang bị các thiết bị hiện đại nhất thế giới. Trung Quốc đã thực hiện thành công khá nhiều toan tính của họ tại Biển Đông, liên tục leo thang gây căng thẳng từ tháng ba năm 2011 tại vùng biển gần Philippines đến cắt cáp thăm dò hai tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam ngày 26/05/2011 và ngày 09/06/2011. Trung Quốc liên tục gây hấn, liên tục xoa dịu thế giới và đẩy khu vực Đông Nam Á vào chính sách "bên miệng hố chiến tranh". Tại sao? Chưa nói xa thêm về chiến lược Chuỗi Ngọc Trai[3] vốn được họ hoạch định sẽ bao trùm Ấn Độ Dương, chúng ta hãy quan sát các động thái tiếp theo. Ngoài ý đồ đánh vẹt Việt Nam đang đơn độc và Philipines cả tin ra hai bên để lấn xuống trọn vẹn hai cánh của đường chữ U. Để sau này tiến xuống thanh toán ba nước Indonesia, Brunei, Malaysia mà hiện nay vẫn đang quan sát, Trung Quốc còn có 1 chủ ý khác. Đó là ra vẻ giảm nhẹ căng thẳng về tinh thần, tức tạm ngưng quấy phá, để thực hiện một chiến dịch chiếm đóng thực tế bằng các khối sắt thép đồ sộ, những giàn khoan[4]-dưới dạng đảo nhân tạo. Từ đó tạo thế cho những con tàu quân sự ngụy trang dân sự, hoặc cả những con tàu quân sự có nơi giao lưu dễ dàng về tiếp vận, về thông tin và cả về tinh thần của đoàn quân viễn chinh tương lai. Chúng ta hãy theo dòng sự kiện gần đây mà Trung Quốc đã gây ra với Việt Nam để gây sức ép như sau . Ngày 28/5/2011 Trung Quốc đề nghị hợp tác khai thác 19 lô dầu khí ở ngoài khơi Biển Đông (theo phương án gác tranh chấp cùng khai thác). Ngày 10/6/2011 Trung Quốc đã liên tiếp đe dọa Idemitsu, BP và ExxonMobil nếu các Tập đoàn này không rút các dự án khỏi Việt Nam. Trong dòng chảy sự kiện, chúng ta thấy ngày 26/05/2011 (sự cố Bình Minh 2) và ngày 09/06/2011 (sự kiện Viking 2) chẳng qua chỉ là những mắt xích nhỏ trong toàn bộ hệ thống của Trung quốc đang thực hiện để xâm chiếm tài nguyên trong vùng biển Việt nam . Chúng ta có thể quan sát sự ra đời và phô diễn hàng loạt sản phẩm khổng lồ trong năm 2011 của Trung Quốc: 2.1 Tàu sân bay Thi Lang[5] Tầu sân bay Thi Lang có chiều dài 302 mét, chiều rộng 70,5 mét, vận tốc đạt 29-31 hải lý/giờ (khoảng 53 đến 57 km/h), có thể chuyên chở được 50 máy bay chiến đấu và chứa thêm nhiều máy bay trực thăng[6]. Tên chính thức cho con tàu này vẫn còn đang bàn cãi. Có thể tên tàu sẽ là "Trung Sơn" hoặc "Mao Trạch Đông" hoặc 'Tát Chấn Băng",đề đốc thủy sư thời Bắc Dương, đại thần thời Viên Thế Khải, ủy viên Quân ủy Trung ương sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập[7]. "Thi Lang vốn là hình mẫu của Varyag được Nga bán laị cho Trung Quốc làm sắt vụn vào giữa những năm 1990. Cũng trên cơ sở mẫu của thiết bị quân sự thanh lý này, Trung Quốc sẽ còn chế tạo 2 tàu khác vào năm 2020. Chiếc đầu, sẽ giống tàu "Varyag" (mua trực tiếp của Ukraine với giá 20 triệu đôla), còn chiếc thứ hai, như các chuyên gia quân sự Nga khẳng định, sẽ hao hao với chiếc tàu sân bay nguyên tử của Liên Xô cũ chưa kịp hoàn thành mang tên "Ulianovsk", mà dường như Ukraine bí mật chuyển giao cho Trung Quốc. Máy bay tiêm kích trên boong tàu sẽ là chiếc J-15 "hàng nhái" của Su-27 của Nga. Nhờ bộ hồ sơ kỹ thuật của Su-27 và nguyên mẫu của Ukraine, Trung Quốc đã tự chế tạo máy bay tiêm kích trên boong tàu sân bay của họ gọi là J-15. Hệ thống radar trên chiếc hàng không mẫu hạm này, theo chuyên gia Nga, cũng sao chép nguyên mẫu trạm radar "Chuỗi ngọc" loại hiện đại nhất của Nga, sản phẩm của Liên hiệp sản xuất "Fazotron". Trạm này chính là một phiên bản của Trạm "Zuk", vừa được đề xuất cho máy bay tiêm kích Mig-35, loại máy bay mới nhất của Nga (mà không hiểu sao Trung Quốc có được). Các trang thiết bị của máy bay cũng sao chép những bản thiết kế máy bay tiêm kích của Nga. Các trang thiết bị huấn luyện trên bờ hoàn toàn là phiên bản boong tàu sân bay, cho phép huấn luyện các phi công, mô phỏng hoạt động của tàu sân bay khi đang ở giữa biển, các thao tác hạ cánh và cất cánh của máy bay tiêm kích. Tất cả giáo án tập luyện đó các chuyên gia Trung Quốc đã được làm quen tại Ukraine (khi mua lại tàu sân bay của Ukraine). Giới chuyên gia Nga cho rằng, bằng việc sao chép công nghệ, Trung Quốc đã tiết kiệm được 1 tỷ đô la và 20 - 25 năm trong việc chế tạo tàu sân bay Thi Lang."[8] 2.2 Giàn khoan CNOOC 981 Giàn khoan CNOOC 981 dài 114 m, rộng 90 m, gồm năm tầng cao 136 m (tương đương tòa nhà 45 tầng). Trọng tải tịnh hơn 30.000 tấn. Diện tích boong tương đương sân vận động bóng đá đúng tiêu chuẩn. Giàn khoan có đầy đủ hệ thống phục vụ cho 160 công nhân làm việc và nghỉ ngơi. Đây là giàn khoan kiểu nửa chìm hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 m, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 m, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới và là Giàn khoan cấp siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc sản xuất[9]. Hiện nay trên thế giới chỉ có khoảng 20 giàn khoan hoạt động ở độ sâu 3.000m." Giàn khoan này có giá trị cao, tiêu tốn hơn chín trăm hai mươi triệu USD và có ích lợi đối với Trung Quốc như là một pháo đài quân sự ngụy trang, một cơ sở nghiên cứu khoa học đại dương, một nhà máy khoan dầu khổng lồ... Bản thân giàn khoan này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho môi trường, phá hoại môi sinh. Và đây cũng chính là mối nguy rất lớn đối với các quốc gia láng riềng về mặt quốc phòng an ninh, về nguy cơ chiếm dụng khai thác tài nguyên khoáng sản biển sâu. 2.3 Một số tàu dầu khí phục vụ các mục đích khác Tàu thăm dò địa chấn 12 cáp quang Dầu mỏ hải dương 720 Tàu thăm dò Dầu mỏ hải dương 708 Tàu đặt ống nước sâu Dầu mỏ hải dương 201. Tàu công trình đa năng Dầu mỏ hải dương 681 Tàu công trình tự chạy kiểu nửa chìm Dầu mỏ hải dương 278. Các nước ASEAN có thể sẽ mất cảnh giác vì đã qua nhiều năm tháng chịu đựng sóng gió với những cuộc cắt cáp, đe dọa, dọa trừng phạt kinh tế, xua đuổi nước thứ ba can dự. Các nước ASEAN có thể chưa biết rằng các giàn khoan khổng lồ này chính là các pháo đài ngoài khơi quan trọng trong bước lấn chiếm Biển Đông từ ngôn từ đi ra hiện thực. Đây là chiêu thức đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ và thực hành chiếm cứ thật sự. 3. Các kịch bản cho các Giàn khoan, tiền đồn quân sự của Trung Quốc Nếu giàn khoan này mang đến đặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia (xem Hình 1) như một thách thức chủ quyền của một trong năm nước này, Trung Quốc coi như đã phớt lờ luật pháp quốc tế bằng một hành động ngang ngược và từng nước sẽ có cách xử lý riêng của mình. Khi giả thiết rơi vào một trong năm nước đã nêu, có nghĩa là Trung Quốc đã khẳng định sẽ sẵn sàng va chạm để xác định đường chữ U là có giá trị thực tế. Nếu giàn khoan này mang đến vùng nước đang được tranh chấp bởi Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei tại khu vực Trường Sa nhưng ngoài khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của từng nước, Trung Quốc đang dựa vào thói quen "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", thiếu đoàn kết của ASEAN, để các nước tự nhìn nhau và bản thân mình tránh va chạm. Nếu Trung Quốc mang giàn khoan lớn này đến đóng ngoài các vùng tranh chấp và ngoài các vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của các nước thì điều đó có phải họ có thiện chí xuống thang các đòi hỏi của họ dạng đường chữ U hay không? Trong trường hợp này, giàn khoan lớn này như một căn cứ quân sự (gỉa dạng) xa bờ tại vùng biển Ðông, Trung Quốc sẽ thách thức câu nói của Ngoại Trưởng Mỹ tại ARF một cách trực diện. Lợi ích quốc gia của Mỹ là thông thương và hải hành tại Biển Đông. Vậy đối tượng chính bị thách thức sẽ ứng xử ra sao nếu Trung Quốc lại dùng cách thức cũ y như cách ngụy trang tàu dân sự của các tàu Hải Giám, Hải Tuần, Ngư Chính? Liệu pháo đài trên biển giả dạng dân sự sẽ tác động như thế nào đến lợi ích của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước khác. 4. Việt Nam sẽ chuẩn bị gì? Trước câu hỏi Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ này đi đâu, có nhiều giả thiết đặt ra. Sẽ không có tranh cãi nếu chúng nằm tại vùng EEZ Trung Quốc. Nhưng nếu chúng đi vào các vùng tiềm năng dầu khí cao như địa điểm tương tự điểm xảy ra sự cố Bình Minh 2. Việt Nam cần có một thái độ kiên quyết để xua đuổi chúng đi. Những giàn khoan này có thể sẽ là những căn cứ quân sự với các thiết bị hiện đại ngoài các vùng biển sâu tới 3,000 m (như miền trung bộ Việt Nam). Khi ấy, tàu thuyền đánh cả Việt Nam ra vào vùng này sẽ gặp những trở ngại chờ đón thường trực, và tạo ra sức ép quân sự lên quốc phòng của Việt nam.. Việc quan trọng nhất là Việt nam tiếp tục kiên quyết trong vấn đề áp dụng UNCLOS 1982 cho Biển Đông, phản đối đường chữ U của Trung Quốc bằng việc đưa ra đường phân chia (giả định) của Việt Nam và thông báo cho thế giới biết chủ trương của Việt Nam. Về mặt luật pháp quốc tế, các quy định trong UNCLOS 82 thì đảo nhân tạo chỉ được đặt trong vùng nội thủy và đảo nhân tạo không được dùng tính đường cơ sở. Nhưng với các cách thức lấn dần của Trung Quốc xưa nay. Việc giành trước, dọa kèm và lấn sau đã thành một chiến thuật thông thường của họ. Có lẽ chính phủ và nhân dân các nước Đông Nam Á cần hội đủ ý chí chính trị để khẳng định với Trung Quốc rằng các giàn khoan này chỉ được khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế của nước sở hữu. Những giàn khoan này chịu được sóng bão cấp 10, do vậy chúng còn là điểm cư trú cho các tàu thuyền quân sự và dân sự của Trung Quốc. Đây có thể là cách thức của Trung Quốc đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ rồi thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò. Những giàn khoan loại này hoàn toàn có thể phục vụ nhiều mục tiêu như khai thác, thăm dò dầu khí, băng cháy biển sâu mà các quốc gia Đông Nam Á chưa có cũng như phục vụ các mục tiêu quân sự, dân sự khác. Ngoài ra, chúng sẽ tạo ra những vị thế mới cho Hải Quân Trung Quốc, và làm suy giảm không gian biển-lãnh thổ biển và không trung của các nước xung quanh như Việt Nam, Philippines. Giàn khoan 981 còn đặt ra một tiền lệ mới "ai đến trước, được hưởng trước" đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông như dầu, khí, băng cháy.... Tiền lệ này sẽ làm cho các quốc gia như Việt Nam, Philippines rất khó đối phó, nếu Trung Quốc không tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS 82, DOC 2002. Đây là cơ hội để Trung Quốc độc chiếm tài nguyên đáy Biển Đông. Nếu không có sự minh bạch về DK 981, Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược "gác tranh chấp, cùng khai thác" theo kiểu Trung Quốc. Đây có thể là tiền đồ cho một "Đồng thuận Biển Đông" kiểu Bắc Kinh, Pax Sino, là "làm trước, nói sau", đưa tất cả Việt Nam, Philippines và cả các nước khác trong thế bị thiệt hại bởi đường chữ U vào thế đã rồi. Thiết nghĩ, tiếp theo các phản ứng kiên quyết, trong tương lai cộng đồng quốc tế cũng phải có những cơ chế pháp lý cho việc sử dụng biển khơi (biển quốc tế) của những nước khác có khả năng đưa giàn khoan cố định ra biển quốc tế. Và hành trình hàng hải qua khu vực này sẽ cần những chuẩn bị tương ứng. Hiểu biết vấn đề để từng bước có biện pháp tháo gỡ sự lấn chiếm ngày càng sâu, càng chặt và càng quy mô hơn -vốn sẽ tạo nên những thế gọng kìm để án ngữ các yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam- đó chính là một phần nhiệm vụ của mỗi con dân Việt Nam trước lịch sử. Nếu không có sự phản kháng sớm từ cấp cao nhất của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và cả từ nhiều nước khác về việc giàn khoan 981 được triển khai khai thác dầu khí tại vùng biển thuộc chữ U thì rất có thể Trung Quốc sẽ sớm triển khai hàng loạt các giàn khoan khổng lồ khác từ năm 2012 tới Biển Đông. Khi ấy sự việc sẽ vượt tầm kiểm soát của thế giới, và nguy cơ Biển Đông là "ao nhà Trung Quốc" là rõ ràng Các quốc gia khu vực làm gì trên biển Đông cũng phải cúi đầu xin phép, và quyền tự do hàng hải qua khu vực này sẽ bị hạn chế. Lúc đó ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ bị Trung Quốc khống chế về mọi mặt như một ông "Vua Đông Á"! 5. Kết luận Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002. Trước khi biết chính xác Trung Quốc đưa dàn khoan CNOOC 981 tới vị trí nào ở Biển Đông, Việt Nam và các nước chung Biển Đông cần tiếp tục có những biện pháp cứng rắn về việc áp dụng UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế để giải quyết những tranh chấp, phân chia quyền lợi công bằng và giữ gìn hòa bình ổn định trong khu vực. http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/Gian-khoan-Trung-Quoc-de-doa-an-ninh-Bien-Dong/6677398.epi
-
Mỹ kêu gọi Ấn Độ lãnh đạo châu Á 2:37 chiều | Tháng Bảy 21, 2011 Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hôm qua kêu gọi Ấn Độ cần quyết đoán hơn để nắm vai trò dẫn dắt tại châu Á, phản ánh mong muốn của Washington rằng New Delhi sẽ là đối trọng của các cường quốc mới nổi. Phát biểu tại thành phố Chennai, một cảng biển quan trọng ở bang miền nam Tamil Nadu của Ấn Độ, bà Clinton cho rằng quốc gia Nam Á này cần đóng một vai trò lãnh đạo rõ nét hơn để tạo nên an ninh và phồn vinh trong khu vực. “Sự lãnh đạo của Ấn Độ tiềm tàng khả năng giúp định hình một cách tích cực tương lai của châu Á-Thái Bình Dương. Chúng tôi khuyến khích các bạn không chỉ nhìn về phía đông, mà còn tiếp tục cam kết và hành động vì phía đông nữa”, AFP dẫn lời phát biểu của ngoại trưởng Mỹ. Mỹ gần đây thể hiện sự đánh giá cao đối với Ấn Độ, coi New Delhi là một đồng minh đương nhiên vì hai nước chia sẻ niềm tin về dân chủ, nhân quyền và các chính sách kinh tế định hướng thị trường. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton phát biểu tại Chennai, Ấn Độ hôm qua. Ảnh: AFP “Đây là lúc để nắm bắt những cơ hội của thế kỷ 21. Đây là lúc để dẫn đầu”, bà Clinton khẳng định. Với sự nhỉnh hơn về quân sự và kinh tế so với Ấn Độ, Trung Quốc là một cường quốc thống trị ở châu Á và đang mở rộng ảnh hưởng tới các láng giềng gần gũi của Ấn Độ, đáng chú ý là Sri Lanka và Nepal. Trung Quốc gần đây còn có các va chạm với Việt Nam và Philippines trên Biển Đông, nơi được cho là giàu trữ lượng dầu mỏ và khí đốt. Tình hình này làm dấy lên nghi ngại rằng cường quốc mới nổi đã sẵn sàng khẳng định sức mạnh của mình một cách mạnh mẽ hơn. Bà Clinton nhấn mạnh rằng Ấn Độ nên đóng vai trò là một đồng minh của Mỹ trong các diễn đàn khu vực giống như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), hay Hội nghị thượng đỉnh Đông Á được lên kế hoạch tổ chức vào cuối năm nay. Ngoại trưởng Mỹ chỉ một lần duy nhất đề cập rõ ràng về Trung Quốc trong bài phát biểu của mình tại Chennai, với tuyên bố cam kết một quan hệ vững chắc và xây dựng giữa Washington với New Dehli, và cả Bắc Kinh. Tuy nhiên, bất chấp mong muốn của Mỹ trong việc thúc đẩy Ấn Độ nắm giữ vai trò lãnh đạo ở châu Á, giới quan sát vẫn hoài nghi về việc liệu quốc gia Nam Á có sẵn sàng và đủ khả năng đảm nhận vai trò này hay không. Ngoại trưởng Clinton bắt đầu chuyến thăm ba ngày tại Ấn Độ hôm 19/7 và đã gặp các nhà lãnh đạo của nước này, như Thủ tướng Manmohan Singh, Ngoại trưởng S.M. Krishna, để bàn về nhiều vấn đề trong quan hệ song phương của hai nước. Đây là chuyến thăm Ấn Độ thứ hai của bà Clinton kể từ khi trở thành ngoại trưởng Mỹ. Bà rời Ấn Độ hôm nay và tới đảo Bali của Indonesia để tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Phan Lê - VNE
-
Chân trời biển Đông và bóng dáng Thái Dương thần nữ 9:06 sáng | Tháng Bảy 21, 2011 (Petrotimes) - Với tiềm lực quân sự mạnh như vậy của Tokyo mà có kẻ còn nghĩ đến việc muốn "đập" Nhật thì phải nói là tên đó hẳn đã phải say rượu Mao Đài pha mật gấu, say lắm, say khướt, say dữ dội đến nỗi hóa thành… lú lẫn mất trí, mất khôn! Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 3) - Chân trời biển Đông và bóng dáng Thái Dương thần nữ >> Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 1) >> Cục diện quốc phòng châu Á đang thay đổi như thế nào? (Kỳ 2) Giới chính trị gia và quân sự Ấn Độ gần đây đã không còn úp mở mối lo ngại trước tình cảm khăng khít có tính toán giữa Bắc Kinh và Islamabad. Yếu tố “có tính toán” ở đây cần được nhấn mạnh, chẳng hạn việc TQ xây loạt con đập tại các hệ thống sông ngòi “nhạy cảm” đối với môi trường – sinh thái Ấn Độ; việc xây cảng tại Gwadar; việc bán “đồ chơi” cho Pakistan trong đó có chiến đấu cơ, khu trục hạm và trực thăng, việc hỗ trợ “hạt nhân dân sự”, việc TQ xây xa lộ Karakoram nối liền Tân Cương đến Bắc Pakistan, việc hợp tác nghiên cứu sản xuất vũ khí… Và bóng dáng những người Hoa gần đây tại Azad Kashmir, nơi mà New Delhi xem là thuộc lãnh thổ Ấn Độ, đã khiến người Ấn không khỏi không nhớ lại ký ức cuộc xâm chiếm của TQ vào bang Arunachal Pradesh vào năm 1962… Trò lá mặt lá trái của Pakistan thật ra không mới. Vào thời điểm thích hợp, Islamabad luôn chìa “lá bài TQ” vào mặt người Mỹ để nhắc “đồng minh” Washington rằng, “chớ có mà hiếp đáp tớ nhé; tớ đây cũng có “bạn lớn” chứ chẳng không!”. Không có mợ thì chợ vẫn đông, hiểu không nào!. Tháng 11-2010, ngay trong ngày mà Mỹ giao vài trong lô hàng 18 chiếc F-16 cho Pakistan, Islamabad đã tuyên bố họ vừa đặt lô tên lửa tầm trung SD10 (tức Shan Dian-10; Thẩm Điện hỏa tiễn) từ TQ để trang bị cho chiến đấu cơ JF-17 Thunder do Pakistan hợp tác sản xuất với TQ (mà TQ gọi là “Kiêu Long thần sấm”) (20). Dự kiến TQ giao cho Pakistan 250 chiếc JF-17 trong 5-10 năm; chưa kể hợp đồng 1,3 tỉ USD mua chiến đấu cơ J-10 và đơn đặt hàng 6 tàu ngầm. Đầu tháng 3/2011, TQ bắt đầu sản xuất hai tàu trang bị tên lửa cho Hải quân Pakistan cùng 8 khu trục hạm F22P đặt làm từ năm 2005… Tàu ngầm Nhật Bản. TQ lại tiếp tục “uống mật gấu” khi phóng hai máy bay quân sự đến đảo tranh chấp Senkaku. Điếu Ngư ngày 4/7/2011, ngay thời điểm mà Ngoại trưởng Nhật – Takeaki Matsumoto đang có mặt tại Bắc Kinh để nói chuyện tử tế với Phó chủ tịch TQ Tập Cận Bình, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Ngoại trưởng Dương Khiết Trì. Phản hồi việc Nhật phóng hai chiến đấu cơ F-15 lên nghênh tiếp, TQ nói rằng, Nhật nên “ngưng ngay” những “hành động mạo hiểm” tại biển Đông vì hoạt động máy bay quân sự TQ là “hoàn toàn” phù hợp luật pháp quốc tế – một lập luận nghe ngày càng quen tai nhưng mỗi lúc mỗi nghịch nhĩ. Nói là TQ “uống mật gấu” khi gây hấn với Nhật không phải không có lý do… Nhật điều chỉnh sách lược quốc phòng như thế nào? Nói về sức mạnh quân sự khu vực châu Á, Nhật có thể được xếp vào hàng đầu bảng. TQ hoàn toàn không có “cửa” khi so với Nhật về khoa học kỹ thuật lẫn khoa học quân sự, nếu không nói thẳng rằng, trình độ kỹ thuật quân sự TQ còn kém Nhật đến hàng thập niên. Trong khi TQ bất tài và kém cỏi về thực lực khoa học quân sự đến nỗi đành phải mua xác chiếc Varyag về “mổ bụng” để nghiên cứu kỹ thuật đóng tàu và tân trang nó thành cái – gọi – là “hàng không mẫu hạm Thi Lang”, gần 100 năm trước, Nhật đã có thể không chỉ tự đóng tàu sân bay mà còn thử nghiệm thực tế chiến trường với những trận hải chiến ngang dọc dậy sóng Thái Bình Dương từ thời Thế chiến thứ nhất. Sức mạnh quân sự Nhật hẳn còn kinh khủng như thế nào nữa, nếu Nhật không ngạo mạn gây hấn với cả khu vực để cuối cùng bị dập nát sau khi đánh thức người khổng lồ Mỹ và cuối cùng bị khống chế với điều 9 Hiến pháp nghiêm cấm phát triển quân đội được soạn sau Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, với sự “trỗi dậy hòa bình” của TQ, Nhật đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược quốc phòng. Trong “Đề cương hướng dẫn chương trình phòng thủ quốc gia” do Bộ Quốc phòng Nhật ấn hành ngày 17/12/2010, Tokyo lần đầu tiên nhấn mạnh đến mối lo ngại về an ninh khu vực lẫn toàn cầu bởi sự phát triển quân sự không kiềm chế của TQ và do đó Nhật đã phải “chẳng đặng đừng” có động thái thích hợp để “tương thích”. Sự cân chỉnh quốc phòng Nhật khó có thể bắt đầu từ ngân sách. Từ năm 1967 đến nay, ngân sách quốc phòng Nhật bị quy định không bao giờ vượt quá 1% GDP. Năm 2009, ngân sách quốc phòng Nhật là 4,77 nghìn tỉ yen, tương đương 0,94% GDP và 9,2% ngân sách chính phủ (23). Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm cho biết, chi tiêu quốc phòng Nhật năm 2008 là 46,3 tỉ USD – đứng thứ 7 thế giới sau Mỹ, TQ, Pháp, Anh, Nga và Đức. Nguồn (24) cho biết thêm, bởi sức khỏe ốm yếu của nền kinh tế, ngân sách quốc phòng Nhật đã giảm trung bình 5,2% kể từ năm 2001, xuống còn 4,68 ngàn tỉ yen, tức khoảng 56,4 tỉ USD. Trong tương lai, ngân sách quốc phòng Nhật cũng sẽ không tăng. Dự toán (tổng cộng) 5 năm tới là khoảng 23,49 nghìn tỉ yen (279 tỉ USD), giảm 750 tỉ yen so với giai đoạn tài khóa 2005-2009 (25). Để vượt qua vấn đề ngân sách teo tóp và tình trạng bị trói chân, trói tay bởi điều 9 của Hiến pháp, Tokyo đã ứng biến bằng cách tập trung nâng chất hơn là lượng (26). Cục Phòng vệ Nhật bắt đầu thiết lập nguyên tắc cho khả năng “phòng thủ cơ động”, giúp Không quân Nhật có thể phản ứng tức thời với mức độ linh hoạt cao (ngoài ra, một ủy ban trong Nội các chịu trách nhiệm điều phối với tất cả đơn vị của không quân cũng được thành lập). Việc trang bị vận tải cơ chiến thuật C-2 Kawasaki (to gấp 4 thế hệ C-1) là nhằm đạt mục tiêu trên. Nhật còn đầu tư nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình để thay thế phi đội 202 chiếc F-15 Eagle thuộc thế hệ thập niên 70 của thế kỷ trước (dù máy bay này – của Hãng McDonnell Douglas, nay thuộc Boeing – là một trong những máy bay chiến đấu thành công nhất lịch sử với hơn 100 trận chiến trên không chưa hề thua trận nào!). Một trong những dự án nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình đáng chú ý nhất của Nhật là máy bay Shinshin (do Mitsubishi Heavy Industries đầu tư), có thể ra đời sau năm 2016 (27). Trước mắt, Nhật đang vận động hành lang (lobby) Quốc hội Mỹ để được mua F-22 Raptor do Lockheed Martin/Boeing tung ra từ năm 2005 (150 triệu USD/chiếc) – thế hệ máy bay chiến đấu được đánh giá số một hiện nay – nhưng Mỹ chưa đồng ý (với những tính năng vượt trội và kỹ thuật hiện đại, F-22 Raptor nằm trong danh sách những thiết bị quân sự – vũ khí hoàn toàn nghiêm cấm không được chuyển giao cho nước ngoài). Sự điều chỉnh phòng không còn bao gồm việc lực lượng Phòng vệ không quân tại căn cứ Naha (Okinawa) được bổ sung thêm một phi đội chiến đấu cơ chiến thuật; đồng thời dàn thêm hệ thống tên lửa bắn chặn PAC3 (Patriot Advanced Capability-3) cho 6 nhóm phòng không thay vì 3 nhóm hiện nay. Với bộ binh, yếu tố cơ động được chú ý với việc đưa vào sử dụng xe tăng hạng nhẹ TK-X MBT (Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Về phòng thủ tên lửa, năm 2011 sẽ là giai đoạn cuối của dự án hợp tác Mỹ – Nhật trong chương trình lắp hệ thống tên lửa bắn chặn hiện đại cho khu trục hạm Nhật (đây là phần tốn kém nhất trong ngân sách quốc phòng Nhật). Vài năm gần đây, Nhật đã đầu tư mạnh cho hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo: 1,1 tỉ USD năm 2004; 1,2 tỉ USD năm 2005; 1,4 tỉ USD năm 2006; 1,8 tỉ USD năm 2007, 1,1 tỉ USD năm 2008 và 1,1 tỉ USD năm 2009 (23) – bên cạnh việc “phát triển kỹ thuật khoa học quân sự” với ngân sách 1,2-1,8 tỉ USD/năm; và “xây dựng một hệ thống mạng thông tin liên lạc hiện đại” với 1,6-2,1 tỉ USD/năm. Với Hải quân, hạm đội tàu ngầm sẽ được tăng từ 16 lên 22 chiếc; tăng số khu trục hạm trang bị dàn tên lửa bắn chặn Aegis, đồng thời bổ sung hệ thống tên lửa chống đạn đạo SM-3 (Standard Missile-3) từ 4 lên 6; chưa kể việc nâng cấp khu trục hạm JDS Atago (DDG-177) và JS Ashigara (DDG-178) (đều do Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Cuối cùng, lực lượng tuần dương Nhật được giao nhiều vai trò hơn, với chức năng và hành động như là một lực lượng Hải quân thứ hai sau lực lượng Hải quân chính quy. Tư duy chiến lược quốc phòng mới cũng đề cập việc tái tổ chức lực lượng bộ binh. Lâu nay vốn đóng chủ yếu ở Hokkaido (phần cực Bắc đối diện Nga), bộ binh Nhật (155.000 lính) bây giờ được điều động tăng cường quanh quần đảo Nansei thuộc Okinawa (nam nước Nhật) và tại khu vực gần TQ và Đài Loan. Điều quan trọng cuối cùng cần nói là Hải quân Nhật cũng có kinh nghiệm (nhiều hơn Hải quân TQ) với vô số các cuộc thao dượt và tập trận với Mỹ cùng nhiều nước khác (chưa kể các chiến dịch hỗ trợ quân đội Mỹ trong cuộc chiến Iraq và Afghanistan). Bộ binh Nhật được nâng cấp với chiến thuật cơ động hơn và hỏa lực mạnh hơn Công nghiệp quốc phòng Nhật mạnh đến đâu? Cựu cố vấn cấp cao Singapore Lý Quang Diệu từng nói: Chẳng lực lượng Hải quân châu Á nào có thể đọ nổi với Hải quân Nhật! Với bề dày lịch sử về kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật đóng tàu của Nhật, điều đó chẳng có gì lạ (hiện tại, Nhật có số tàu chiến hơn gấp đôi Hải quân Hoàng gia Anh và tàu ngầm gấp đôi Hải quân Pháp). Nhật có một lực lượng Hải quân được trang bị khả năng chống tàu ngầm (anti-submarine warfare-ASW) vô địch châu Á (28), được tổ chức thành bốn hạm đội, gồm 4 khu trục hạm Kongô (trang bị Aegis); 3 tàu chiến siêu tốc Towada; và 16 tàu ngầm – tất cả đều được kết nối hệ thống điện tử liên lạc đồng bộ với 100 máy bay tuần tra Lockheed P-3 Orion. Đó là chưa kể hai “siêu” khu trục hạm JDS Hyuga 13.500 tấn với bãi đáp trực thăng hoàn toàn có khả năng phòng không độc lập, được “giới thiệu” từ năm 2007. Có thể chở 11 trực thăng to loại Chinook hay 18-24 trực thăng nhỏ, Hyuga được trang bị kỹ thuật liên lạc hiện đại đến mức nó có thể trở thành tàu chỉ huy điều phối một cuộc chiến. Nó còn có hệ thống tác chiến liên hợp PARS (Phased Array Radars); 64 tên lửa phòng không tầm trung Evolved Sea Sparrow (của Hãng Mỹ Raytheon; 800.000USD/quả) và hai khẩu pháo Phalanx CIWS 20 ly. Với thủy thủ đoàn 350 người, Hyuga thật ra chẳng khác gì một hàng không mẫu hạm mini, giống như loại Invincible của Anh, hoàn toàn có khả năng làm bãi phóng cho chiến đấu cơ như Harrier II hoặc F-35B JSF (mà Mỹ đang nghiên cứu để trang bị cho các tàu chiến đổ bộ)… Năm 2009, Nhật tiếp tục trình làng tàu ngầm thế hệ mới Sôryu (“Rồng Xanh”) chạy bằng hệ thống AIP (Air Independent Propulsion) “êm như lụa” dù nó nặng 2.900 tấn. Ngoài ra, còn có các hệ thống trên bộ điều phối liên lạc với các trạm thu tín hiệu tình báo từ vệ tinh và máy bay thám thính… Điều đáng nói nhất về khả năng quân sự Nhật là họ không rình mò chôm chỉa hay ăn cắp của ai. Hầu hết vũ khí hiện đại Nhật đều do tự họ làm. Cứ nhìn khả năng kỹ thuật nghiên cứu không gian hay kỹ thuật trí thông minh nhân tạo của Nhật đủ biết trình độ khoa học nước này cao như thế nào. Theo một tài liệu năm 2008 (29), ba công ty vũ khí lớn nhất của Nhật là Mitsubishi Heavy Industries, Kawasaki Heavy Industries và Mitsubishi Electric. Xét về quy mô, ba công ty trên không thể so với những tập đoàn khổng lồ của Mỹ hay châu Âu nhưng xét về tổng doanh thu (total revenue), họ không hề nhỏ chút nào. Năm 2007, tổng doanh thu Mitsubishi Heavy Industries (26,024 tỉ USD) còn lớn hơn Raytheon (20,291 tỉ USD) của Mỹ và gần bằng BAE Systems (26,967 tỉ USD) của Anh; tương tự, tổng doanh thu của NEC (39,460 tỉ USD) gần tương đương với Lockheed-Martin (39,620 tỉ USD)! Cần nhắc lại, ngay từ thời Thế chiến thứ hai, Nhật đã sản xuất được loại máy bay chiến đấu được đánh giá là hiện đại nhất và nguy hiểm nhất thế giới thời đó! Đó là chiếc Mitsubishi A6M Zero, được đưa vào sử dụng rộng rãi đầu Thế chiến thứ hai. Trong các cuộc đụng độ vào đầu cuộc chiến, Mitsubishi A6M Zero (chính là loại được dùng trong các chiến dịch Thần Phong) đã trở thành huyền thoại bởi khả năng bắn hạ máy bay đối phương với tỉ lệ “12 ăn 1”! Không đáng nể sao được, khi mà thời đó, Mitsubishi A6M Zero có thể bay với vận tốc 500km/giờ ở độ cao 4.000m và có khả năng nhào xuống độ cao 3.000m chỉ trong 3,5 giây! Mitsubishi A6M Zero, do kỹ sư Jiro Horikoshi thiết kế, được làm bằng hợp kim nhôm 7075 (trong chương trình nghiên cứu hợp kim quân sự tuyệt mật) mà Hãng Sumitomo Metal Industries sản xuất năm 1936. Gọi là hợp kim duralumin siêu đặc biệt, nó nhẹ và cứng hơn bất kỳ hợp kim nào khác thời điểm đó. Ngày 13/9/1940, Mitsubishi A6M Zero bắt đầu ghi những điểm đầu tiên trên bảng tỉ số, khi 13 chiếc Zero đụng độ với 27 chiếc đối phương (Polikarpov I-15 của Liên Xô và I-16 của Quốc dân đảng Trung Hoa) và bắn hạ không sót một mống! Một năm sau, Mitsubishi A6M Zero bắn cháy tan tành thêm 99 chiếc của Quốc dân đảng (vài tài liệu khác ghi 266 chiếc – theo Wikipedia). Mitsubishi A6M Zero đã vậy thì tất nhiên người em của nó hiện tại, Mitsubishi F-2, tất nhiên mạnh hơn nhiều (F-2 là sản xuất hợp tác giữa Mitsubishi Heavy Industries và Lockheed-Martin). Nói về cái sự nhỏ trong khuôn khổ khái niệm kích cỡ, diện tích nước Nhật chỉ lớn hơn gần gấp ba tỉnh Quảng Đông của TQ (377.944km2 so với 177.900km2) với dân số chỉ hơn khoảng 23 triệu người (127 triệu so với 104 triệu) nhưng giá trị sức mạnh nước Nhật là ở chỗ tinh thần tự lực tự cường của họ, chứ không phải ăn cắp chỗ này một ít chỗ kia một tị, rồi tự thổi phồng sức mạnh mình để từ đó tỏ thói huênh hoang như một tên giàu xổi mới nổi cứ nghĩ ta đây là ông trời con muốn bắt tất cả phải nằm bẹp phủ phục dưới chân mình! Xét ở nhiều góc độ, Nhật, dù không phải là quốc gia có chân trong “ngũ cường” thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, mới đáng mặt là nước lớn và chững chạc một cách đáng kính trọng, với những đóng góp cụ thể và bền vững cho thế giới (đặc biệt các chiến dịch nhân đạo). Chỉ riêng điều này đã có thể thấy được tầm vóc nhỏ nhoi đáng hổ thẹn của “ông trời con” khi so với Nhật. Hơn nữa, Nhật đã thấu hiểu thế nào là bài học lịch sử đắt giá phải trả bằng cả một sinh mệnh dân tộc khi dở thói bá quyền du côn. Là dân châu Á với nhau, TQ hẳn cần nhận thức rõ điều đó mới phải. Còn nữa, với tiềm lực quân sự mạnh như vậy của Tokyo mà có kẻ còn nghĩ đến việc muốn đập Nhật thì phải nói là tên đó hẳn đã phải say rượu Mao Đài pha mật gấu, say lắm, say khướt, say dữ dội đến nỗi hóa thành… lú lẫn mất trí, mất khôn! Mạnh Kim http://www.petrotime...i-duong-than-nu
-
Thiếu tướng, cựu Đại sứ VN ở TQ: "Bằng chứng của TQ là hàng giả!" Thứ ba, 14 Tháng 6 2011 06:47 (GDVN) - Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã bước sang tuổi 95 nhưng vẫn vô cùng mẫn tiệp. Là người có thâm niên 13 năm làm Ðại Sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc ở thời điểm nhạy cảm nhất (1974-1989), tướng Vĩnh có những đánh giá rất sâu sắc về hành động và ý đồ ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông. Tin liên quan: "Không ai hoảng sợ trước việc tàu Trung Quốc gây hấn" Trung Quốc và những nấc thang bá chiếm biển Đông "Trung Quốc đang sử dụng những chiến thuật mạo hiểm" Trung Quốc tự mâu thuẫn khi đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò" Trung Quốc rất giỏi tạo cớ rồi lấn tới Trung Quốc lộ tham vọng bành trướng biển Đông Phản ứng không đủ độ, Trung Quốc sẽ lấn tới Hình ảnh tàu Trung quốc cắt cáp tàu Việt Nam Nhiều tàu cá Trung Quốc xâm phạm ngư trường TQ không hề có thư tịch gì về Trường Sa, Hoàng Sa PV: Ông có bất ngờ về sự việc tàu Trung Quốc liên tục cắt cáp tàu Việt Nam? Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi không bất ngờ. PV: Là người sống và làm việc 13 năm tại Bắc Kinh với cương vị Ðại Sứ đặc mệnh toàn quốc Việt Nam, có bao giờ ông được chính phủ Trung Quốc trưng ra bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chưa lần nào! Tôi sống tại Trung Quốc nhiều năm nhưng chưa lần nào thấy họ nói chính thức về vấn đề này. Tôi cũng đã nhiều lần lần tìm thư tịch của họ để tìm hiểu xem chứng cứ chủ quyền nếu có của họ về hai quần đảo này nhưng không hề có. PV: Vậy những dữ kiện mà họ nói do Tướng Trịnh Hòa (thời nhà Minh) thu thập được khi đến đảo Hoàng Sa thì sao? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cam đoan đó chỉ là hàng giả! Đó chỉ là trên phim của họ, họ tả là tướng Trịnh Hòa đem thương thuyền đi xuống Ấn Độ dương. Họ lướt chỗ nọ chỗ kia coi như dò đường thôi chứ có phải đi thực hiện chủ quyền đâu. Như vậy những chứng cứ do Trịnh Hòa thu được không đủ làm căn cứ để xác định chủ quyền của họ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phải là quản lý thì mới khẳng định chủ quyền chứ. Tôi nói giả sử, đi qua nhặt được cái gì đó thì đó đâu phải là thực thi chủ quyền. “Sự việc cắt cáp làm rơi mặt nạ hòa bình của Trung Quốc” PV: Ông đánh giá gì khi Trung Quốc liên tiếp có các hành vi gây hấn, thách thức sự kiên nhẫn, lòng yêu nước, trân trọng hòa bình của người dân Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã có 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc. Đó là thời gian quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian cam go, thử thách nhất. Sỡ dĩ nói rằng không bất ngờ vì tôi ở Trung Quốc đã lâu, đã biết bản chất của Trung Quốc là bá quyền nước lớn. Tư tưởng bành trướng bá quyền nước lớn, ngàn năm cũng chưa từ bỏ. Cho nên những việc họ làm, không chỉ tàu Bình Minh 02, Viking mà trước đây từ việc chiếm quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở quần đảo Trường Sa, bắt ngư dân, cấm ngư dân đánh cá… là biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Đến sự việc này, tôi không lạ nữa. Một lý do khác, đến thời điểm này, họ có tham vọng bá chiếm cả tài nguyên của Biển Đông, vì họ thiếu thốn, thèm khát dầu khí. Khi họ thấy ta thăm dò định khai thác, thì họ phải tìm cách cản trở. Dù đã bị ta phản đối, nhân dân, báo chí, dư luận Việt Nam và quốc tế chỉ trích sau sự việc ngày 26/5 (tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí – PV) nhưng với tính chất ngoan cố, ngang ngạch và cậy là kẻ mạnh, họ lại tiếp tục gây ra sự việc với tàu Viking 2. Tôi có thể kết luận, hai vụ việc xảy ra với tàu Bình Minh 02 và Viking làm rơi mặt nạ hòa bình mà Trung Quốc vẫn đeo, lộ ra nguyên hình bộ mặt bá quyền nước lớn ăn hiếp nước nhỏ, nói một đằng làm một nẻo. “Cố tình đổi trắng thay đen” PV: Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng vì đã hoàn tất đàm phán, phân giới cắm mốc trên bộ nên đây là thời điểm Trung Quốc tỏ ra cứng rắn hơn tại Biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Không phải. Mọi hoạt động vừa qua chỉ cho thấy Trung Quốc đang từng bước làm mọi điều vì lợi ích ích kỷ cho họ. Ngay từ giai đoạn giữa những năm 1970, khi tôi là Đại sứ tại Trung Quốc, hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán phân định cắm mốc biên giới trên bộ, vịnh Bắc bộ. Nhưng phải đến gần đây quá trình đàm phán mới hoàn tất. PV: Ông nghĩ sao khi những ngày vừa qua, quan chức cũng như báo giới Trung Quốc đăng tải những thông tin rất sai lệch về sự việc tại biển Đông? Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn ra tuyên bố yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền và tránh tạo ra những sự cố mới? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tuyên bố nêu trên của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa cho thấy họ cố tình “đổi trắng thay đen”, cố tình làm cho dư luận hiểu sai bản chất của vụ việc. Nhiều nước sẽ ủng hộ chính nghĩa của chúng ta PV: Trong bối cảnh này, theo ông Việt Nam nên xử lý ra sao? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chính sách của chúng ta là hòa bình, xưa nay đều thế. Thời điểm này, chúng ta phải đấu tranh lý lẽ một cách quyết liệt. Họ muốn bí mật, song phương thì ta phải công bố toàn bộ các cứ liệu lịch sử cho nhân dân ta và dư luận thế giới thấy rõ ai phải ai trái. Thế giới biết và ủng hộ thì Trung Quốc không thể hung hăng được nữa. Tôi cũng muốn nói thêm, thời đại này muốn phát động vũ lực cũng không phải dễ dàng. Ta càng đấu tranh công khai, càng quốc tế hóa thì thế của ta càng vững. PV: Hiện có nhiều ý kiến lo ngại sự chia rẽ trong các nước ASEAN về vấn đề biển Đông cũng tựa như hình ảnh chia bó đũa thiếu sự kết dính. Trung Quốc có thể lợi dụng điều này để giải quyết vấn đề biển Đông theo hướng có lợi cho họ? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Một là, nước nào cũng có lợi ích chung và riêng. Hai là, lợi ích trước tiên lúc này là lợi ích kinh tế. Điều đó là tự nhiên. Tất nhiên, về lý thuyết, thế giới là bình đẳng, nhưng trên thực tế, các nước lớn luôn dùng nhiều loại sức ép, cả chính trị, kinh tế và quân sự để áp đặt ý đồ của mình lên các nước nhỏ. Trong bối cảnh đó, giải pháp tối ưu là phải xác định được thế mạnh của bản thân mình. Với trường hợp của ta, cần phải đẩy mạnh mặt trận ngoại giao - pháp lý, làm cho cả dân ta, dân họ và cả cộng đồng quốc tế hiểu và ủng hộ. Nếu ta công khai, thì dù một số nước không có quyền lợi thiết thực gắn với biển Đông, nhưng tôi chắc rằng họ sẽ lên tiếng, ủng hộ cho chính nghĩa, lẽ phải của chúng ta, của bạn bè. PV: Quay trở lại thời gian ông làm đại sứ tại Trung Quốc. Theo ông, báo giới và nhân dân Trung Quốc nhìn nhận ra sao về tranh chấp tại biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhân dân Trung Quốc phần đông rất hữu nghị, trân trọng tình cảm với nhân dân ta. Ngay trong những năm 1979 – 1989, khi anh chị em tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc đi chợ, nhân dân Trung Quốc vẫn đối xử vẫn bình thường. “Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền” PV: Trung Quốc tuyên truyền ra sao về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Họ tuyên truyền rất mạnh, rằng biển Đông là biển Nam Sa của họ. Họ giáo dục rất sâu trong nhà trường, chiếm nhiều tiết học… PV: Vậy theo ông, chúng ta làm thế nào nói cho nhân dân Trung Quốc hiểu được bản chất vấn đề? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Ta cũng phải tuyên truyền, xuất bản văn kiện bằng tiếng Trung Quốc trên mạng và nhiều hình thức khác. PV: Dĩ nhiên, việc giải quyết các tranh chấp trên biển Đông hiện nay rất phức tạp. Theo ông hiện có những tồn tại, trở ngại chính nào trong tiến trình giải quyết vấn đề? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền. PV: Thời gian vừa qua, Trung Quốc liên tục phát triển sức mạnh quân sự với tàu bay, tàu ngầm, tàu sân bay. Dư luận đặt câu hỏi, vậy đâu là sức mạnh Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nói về sức mạnh, không đơn thuần chỉ bao gồm những thứ đó. Dân tộc ta đã có kinh nghiệm hàng ngàn năm lấy ít đánh nhiều, nhỏ thắng lớn. Ngoài ra còn sức mạnh thời đại, thế giới họ nhìn thấy điều đó, ta phải nói cho họ biết. “Phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa!” PV: Muốn giải quyết những trở ngại đó, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cho Việt Nam? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Phải đấu tranh lý lẽ, bằng các tư liệu, bằng báo chí trước tiên. Đưa lên Liên hiệp quốc, nói cái phi pháp của họ ra. Còn tình huống xấu hơn tôi nghĩ sẽ không xảy ra, khi cả thế giới hiểu được ta có chính nghĩa. Việc đó sẽ làm Trung quốc bớt hung hăng đi. Đồng thời chúng ta phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa… Tôi rất buồn khi ngày nay, nhiều con trẻ thuộc sử Trung Quốc hơn cả sử ta, phim ảnh, truyền hình cũng vậy… PV: Hiện có nhiều ý kiến đề nghị phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, theo ông có nên? Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chúng ta phải tiếp tục kiên quyết đấu tranh và gửi công hàm lên Liên Hiệp quốc tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước luật Biển năm 1982. Chúng ta công khai các tài liệu để đấu tranh, cho thế giới biết thực chất vấn đề. Xin cảm ơn ông! Phúc Hưng – Tuệ Minh
-
TQ 'nổi đóa' với chuyện nghị sĩ Philippines thăm Trường Sa Cập nhật lúc 20/07/2011 09:05:20 AM (GMT+7) Hôm nay, 5 nghị sĩ Philippines dự kiến sẽ tới thăm quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Trung Quốc nói kế hoạch này có thể làm tổn hại tới quan hệ song phương. Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông và được cho là khá giàu tài nguyên dầu khí. Hiện 5 thành viên quốc hội Philippines đang thăm đảo Pagasa. Theo một trong số nhóm này, Walden Bello, đây là chuyến thăm riêng để gặp gỡ người dân và binh lính đóng ở khu vực, đồng thời thể hiện sự ủng hộ với tuyên bố chủ quyền của Philippines. Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông và được cho là khá giàu tài nguyên dầu khí. Ảnh: MT Tuy nhiên, đại sứ quán Trung Quốc ở Philippines đã cảnh báo, chuyến thăm “không có mục đích nhưng lại làm xói mòn hòa bình và ổn định trong khu vực, phá hoại quan hệ Trung Quốc - Philippines". Về phần mình, ông Bello khẳng định: "Không có lý do gì khiến sứ quán Trung Quốc phải lo lắng, họ dường như phản ứng quá mức về một sứ mệnh rất nhỏ, mang tính hòa bình. Chúng tôi có các quyền như mọi công dân Philippines khác khi tới thăm lãnh thổ của Philippines". Căng thẳng Biển Đông từ vài tháng này gia tăng sau khi cả Philippines và Việt Nam đều chỉ trích những hành động gây hấn của Trung Quốc ở vùng biển mà hai nước tuyên bố chủ quyền. Diễn đàn khu vực ở Bali vào thứ bảy này sẽ bàn về các vấn đề an ninh, có sự tham gia của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và nhiều nước khác. Chính phủ hỗ trợ dân giữ đảo Với những người dân Philippines sống ở những vùng xa xôi ở Biển Đông, cuộc sống mỗi ngày là sự vật lộn với sự cô độc. Liên lạc với thế giới bên ngoài rất hạn chế. "Mọi người ở đây chơi bi a, chơi bóng bàn. Chúng tôi không có chợ, không có khu mua sắm”, Eugenio Bito-onon, 55 tuổi, thị trưởng thị trấn Kalayaan nói. Bito-onon, người ban đầu tới Kalayaan năm 1997 để làm việc như một nhà quy hoạch thị trấn, nói người dân ở đây được chính phủ khuyến khích giữ đảo bằng cách tạo việc làm, cấp nhà ở cũng như cung cấp miễn phí những nhu yếu phẩm như gạo, dầu ăn, mì, thức ăn đóng hộp. Cá cũng khá phong phú và các giếng nước đủ cung cấp nước ngọt cho cư dân. Tuy nhiên, các tiện nghi khác khá thiếu thốn như trường học, trạm y tế… Một công nhân xây dựng tên là Nonelon Balbontin, 34 tuổi thì nói, cuộc sống ở đây tốt hơn ở Thủ đô Manila ồn ào, đông đúc nơi anh từng sống. "Nơi đây rất đẹp, khí hậu tốt, tôi có việc làm, chúng tôi không có vấn đề gì, không ốm đau, thức ăn miễn phí, do chính phủ chi trả”, anh nói. Thái An (theo BBC, Inquirer) http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/31276/tq--noi-doa--voi-chuyen-nghi-si-philippines-tham-truong-sa.html
-
Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011) Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau: "Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”. Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển. Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc. Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Bức Công hàm 1958 (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet) Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam. Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”... Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”. Nhóm PV Biển Đông http://daidoanket.vn...t=34740&Style=1
-
No-U 19/07/2011 18:35:09 - Chính phủ Việt Nam có thái độ rất rõ ràng, phản đối đòi hỏi phi lý của Trung Quốc về đường chữ U nhằm biến Biển Đông thành cái ao nhà của Trung Quốc. Báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9/6/2011 đăng bài "Đường đứt khúc 9 đoạn” – Một yêu sách phi lý. Đó là bài báo của ông Nguyễn Hồng Thao, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế tháng 12/2009. Tại hội nghị thường niên của các nước thành viên Công ước Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật Biển giữa tháng 6/2011 tại trụ sở LHQ ở New York, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Lương Minh bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở biển Đông, khẳng định đường yêu sách này hoàn toàn không có bất cứ cơ sở pháp lý quốc tế nào, đặc biệt là theo Công ước Luật Biển. Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định Việt Nam có "đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền và quyền hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam". Sài Gòn Tiếp Thị vận động phong trào giúp bà con ngư dân bám biển. Có thể thấy Chính phủ Việt Nam có thái độ rất rõ ràng, phản đối đòi hỏi phi lý của Trung Quốc về đường chữ U nhằm biến Biển Đông thành cái ao nhà của Trung Quốc. Sài Gòn Tiếp Thị vận động phong trào giúp bà con ngư dân bám biển. Đúng một tháng trước, ủng hộ chính sách của Chính Phủ Việt Nam về Biển Đông, ủng hộ đợt vận động của Sài Gòn Tiếp Thị, tôi thấy nguyên nhân chính gây khó khăn cho bà con ngư dân ta, bà con ngư dân của các nước lân cận như Phillippines, Malaysia chính là đòi hỏi phi lý gắn với đường chữ U mà Trung Quốc muốn áp đặt. Bảo vệ biên cương của tổ quốc suy cho cùng là nhân dân. Bảo vệ biển đảo của tổ quốc suy cho cùng là ngư dân và nhân dân. Các họa sỹ, kiến trúc sư của cả nước đã tích cực tham gia thiết kế biểu tượng, thiết kế áo, thiết kế logo để dán trên mũ bảo hiểm, trên xe máy, trên kính ô tô, trên cặp học sinh…. Lô áo đầu tiên có hình chữ U bị gạch chéo đã đến Manila ngày 10/7/2011. Hy vọng chúng sẽ xuất hiện tại Mỹ, các nước châu Âu, Phillipines, Malaysia, Indonesia và cả ở Trung Quốc nữa. Đấy là một hành động nhỏ góp tiếng nói của công lý, đòi hòa bình cho Biển Đông và Thế Giới. Sài Gòn Tiếp Thị đã tổ chức sản xuất quy mô lô đầu tiên và hôm qua 18/7/2011 lô đầu tiên đã được chuyển ra Hà Nội. Thử mấy chiếc của đợt đầu tiên, tôi góp ý với các nhà thiết kế, sản xuất và phân phối như sau. Dòng chữ SAY NO TO U LINE! (Nói không với đường chữ U) bằng tiếng Anh theo cách nói Việt Nam quá. Hãy bỏ từ SAY và dấu ! để chỉ còn là NO TO U LINE vừa ngắn gọn và phù hợp với cách phát biểu của người nói tiếng Anh hơn. Nên bỏ chữ SAY và dấu ! cả trong các câu khác nữa. Nên có nhiều mẫu áo hơn, có thể in cả ở phía sau lưng áo với áo có túi và có cổ bẻ, cũng như các áo khác. Các logo nên có loại cỡ A4 để dán trên kính ô tô (có thể in trên phim trong để tiện cho ô tô). Nên nhớ có hơn 3 triệu bà con người Việt ở nước ngoài, họ có ít nhất 2 triệu xe ô tô, họ có thể vận động bạn bè họ nữa. Số xe ô tô ở Việt Nam cũng nhiều triệu. Mong bà con góp ý tiếp để cho các nhà thiết kế, nhà sản xuất làm ra các mặt hàng vừa đẹp, vừa bắt mắt, bền với giá phải chăng để giúp bà con ngư dân làm ăn hiệu quả, góp phần giữ biển đảo của tổ quốc. Nguyễn Quang A === Những việc làm của bài báo nêu ra là một trong những việc làm rất thiết thực. Cần phải tỏ rõ thái độ với bọn trung quốc tham lam trong lãnh hải. Độc ác khi cướp & đánh ngư phủ Việt nam. Yêu nước là minh bạch, là rõ ràng trong quan điểm. Nhu nhược là dấu dấu, diếm diếm, là loanh quanh trong hành xử.
-
Nghị sĩ Mỹ cảnh báo Trung Quốc về Biển Đông Hai nghị sĩ kỳ cựu của Mỹ cảnh báo Bắc Kinh rằng những vụ xung đột với các nước láng giềng ở Biển Đông có thể làm tổn hại lợi ích của Mỹ tại khu vực. Nhận xét này chắc chắn không làm Bắc Kinh hài lòng. “Chúng tôi lo ngại rằng một loạt vụ việc trên biển trong những tháng qua đã khiến căng thẳng trong khu vực leo thang”, John Kerry thuộc đảng Dân chủ - Chủ tịch ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ cùng John McCain - cựu ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa, tuyên bố. “Nếu không có biện pháp thích hợp nào được thực hiện để xoa dịu tình hình, những vụ việc tiếp theo có thể còn nghiêm trọng hơn nữa và làm tổn hại tới lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ”. Hai nghị sĩ nói trên đã đưa ra lời lẽ trên trong thư gửi cho ông Đới Bỉnh Quốc - quan chức cấp cao về đối ngoại của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trước khi cuộc họp giữa các ngoại trưởng ASEAN cùng các nước đối tác diễn ra trong tuần này, tờ Financial Times cho hay. Trung Quốc có thể coi tuyên bố này như một đòn khiêu khích bởi nó phản ánh lại nhận xét của Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton vào năm ngoái. Phát biểu tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7 năm ngoái, Hilary Clinton đã khiến Bắc Kinh tức giận khi nói rằng Mỹ “có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông”. Bà Clinton cũng sẽ có một bài phát biểu tại diễn đàn này ở Bali, Indonesia, vào cuối tuần, khi mà căng thẳng ở biển Đông đang tăng cao so với năm ngoái. Trong những tuần gần đây, Trung Quốc đã nhiều lần yêu cầu Mỹ không can dự vào các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sau khi các nghị sĩ Mỹ nhiều lần ra nghị quyết về vấn đề này. Tại hội nghị tham vấn an ninh Mỹ - Trung tháng trước, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải thậm chí còn cảnh báo rằng "một số nước đang đùa với lửa, và (tôi) hy vọng lửa đó không cuốn vào nước Mỹ". Biển Đông chứa những tuyến đường biển quan trọng cho hoạt động nhập khẩu dầu ở Đông Bắc Á và các giao dịch khác với châu Âu, Trung Đông, châu Phi, Ấn Độ và Đông Nam Á. Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đều tuyên bố chủ quyền với một số vùng trong khu vực, nhưng Trung Quốc đòi quyền sở hữu rộng lớn nhất. Cảnh báo của hai nghị sĩ Mỹ được đưa ra sau khi chính quyền Obama đã giảm bớt chỉ trích đối với hành động gây hấn của Trung Quốc tại biển Đông. Trong đối thoại Shangri-La tại Singapore vào tháng 6, Robert Gates - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc bấy giờ - đã khiến một số quan chức các nước Đông Nam Á thất vọng khi nói với Trung Quốc bằng một giọng khá ôn hòa, một dấu hiệu cho thấy không muốn làm tổn hại tới quan hệ quân sự giữa hai nước. Tuy nhiên, ông Gates vẫn cam kết với các đồng minh trong khu vực rằng Washington sẽ duy trì “sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực”. Trong một diễn biến khác có thể làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, ngày mai 5 nghị sĩ Philippines có kế hoạch đến đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa. Hòn đảo này đã được Việt Nam khẳng định chủ quyền từ lâu. Trung Quốc cũng đòi chủ quyền với đảo Thị Tứ, và vì vậy phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc hôm nay đã lên tiếng phản đối kế hoạch đi ra đảo của các nghị sĩ Philippines. Hôm qua, giới chức Đài Loan được báo chí dẫn lời cho biết một đoàn học giả của Đài Loan đã tới đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Ba Bình, đảo lớn nhất trong số các đảo ở Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Song Minh http://vnexpress.net...c-ve-bien-dong/