songHan

Hội viên
  • Số nội dung

    77
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by songHan

  1. <iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/rjfdtDum-jY" frameborder="0" allow="autoplay; encrypted-media" allowfullscreen></iframe>
  2. Như vậy cũng là ăn chay, nhưng để diệt tham ái theo tinh thần của đạo Phật thì ăn chay là chỉ ăn những vật thực không do mình mà có, chỉ do thiên nhiên hoặc người khác tặng cho, không phân biệt, chọn lựa thượng, hạ, ngon dở, bổ béo...Như vậy các loài động vật chỉ ăn thực vật không thể gọi là ăn chay trong tinh thần diệt tham ái được. Do đó, Đức Phật đã cấm các vị tu sĩ tham gia tạo ra thức ăn như trồng trọt, thu hái, nấu nướng...Ngoài ra các món thịt không phải do mình mà thành thức ăn thì Đức Phật vẫn cho dùng, thí chủ cho vào bình bát thứ gì thì dùng thứ đó. Đó là tinh thần ăn uống theo đúng Chánh nghiệp trong Bát chánh đạo. Như trong Kinh có dạy: "Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới. Và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn".
  3. (Vì không tạo được chủ đề mới trong chuyên mục học thuật nên)Tôi xin đăng lên đây một nghiên cứu về việc xác định chuyển động thực của thái dương hệ Xem xét dữ liệu của Nasa(1) về vị trí thiên đỉnh của mặt trời (hình 1), sự dịch chuyển bất thường của kinh độ thiên đỉnh của mặt trời sau mỗi 24h đã được giải thích bằng hiệu ứng kéo theo của thiên thể tác động lên đường đi của tia sáng, qua đó chuyển động thực của thái dương hệ đã được xác định http://imageshack.us...05/907/k46d.png Sử dụng phần mềm vẽ đồ thị, với: x(time) = 0 tại 23h58’(UTC) vào ngày 22/12/2009 y(kinh độ) = 0 tại giao điểm giữa kinh tuyến 180 và mặt phẳng quỹ đạo trái đất vào 23h58’(UTC) mỗi ngày xét hai nguyên nhân chính đã biết làm dịch chuyển kinh độ thiên đỉnh sau mỗi 24h: 1/ độ nghiêng của trục quay trái đất ảnh hưởng đến sự dịch chuyển của kinh độ thiên đỉnh sau mỗi 24h theo ham số f(x): (hình 2) http://imageshack.us...13/9767/d5s.png f(x) =11,72sin(alpha)cos(u)k(x) sin(alpha)= sin(23,44sin(u)pi/180 u(x)=2pi.x/365 k(x)=0.04cos(2u)+1.04 (là sự co dãn của đơn vị kinh độ khi vĩ độ thay đổi) 2/ Quỹ đạo hình elip của trái đất ảnh hưởng đến sự dịch chuyển của kinh độ thiên đỉnh sau mỗi 24h theo ham số g(x)= nguyên hàm[(1+e.cos(u’))^2*căn hai(1-e)/(1-e^2)^2-1] u’= 2pi(x-c)/365 e = 0.0167 (tâm sai của trái đất) Chon c = 10 để trùng với điểm cận nhật vào ngày 1tháng 1 Sự kết hợp hai ngyuên nhân này cho ta một kết quả không trùng khớp với dữ liệu thực tế của Nasa h(x) = f(x) + g(x) (hình 3) http://imageshack.us...7/2539/aoef.png 3/ sử dụng mặt phẳng quỹ đạo trái đất làm mặt phẳng tham chiếu Nếu tồn tại một hiệu ứng kéo theo, chuyển động của thái dương hệ sẽ tác động đến sự dịch chuyển của kinh độ thiên đỉnh sau mỗi 24h theo hàm số r(x)= betamaxsin(i+msin(i)) i=2pi(x+n)/365 Nhìn từ thiên cực bắc theo phương chuyển động của thái dương hệ,ảnh hưởng của hiệu ứng kéo theo làm cho kinh độ thiên đỉnh dịch chuyển về phía đông khi trái đất nằm ở phía bên phải mặt trời và dịch chuyển về phía tây khi trái đất nằm ở phía bên trái mặt trời (hình 4) http://imageshack.us...3/4334/cwjm.png Sự kết hợp với hàm số r(x) đã cho một kết quả trùng khớp với dữ liệu thực tế của Nasa, với betamax= 0,16,và n = -130 (hình5) http://imageshack.us...94/333/96zf.png Điều đó cho thấy thái dương hệ đang chuyển động về phía chòm sao bạch dương với vân tốc (827+-50)km/s Khác với quan điểm về ete của cơ học cổ điển và hiệu ứng kéo Fresnel Hiệu ứng kéo trong bài viết này chỉ có thể được hiểu bằng một cái nhìn mới về bản chất của vũ trụ. Nó cho thấy rằng, vũ trụ là một thực thể cứng rắn vô hạn và đồng nhất, không có cấu trúc nội tại, trong đó, vật chất chỉ là những liên kết của những xung dao động nội tại của thực thể đó. Nếu độ cứng của vũ trụ thay đổi theo thời gian, màu sắc của những tia sáng cũng sẽ thay đổi trong thời gian tồn tại của nó, và nguyên nhân của hiện tượng chuyển đỏ quang phổ không phải do sự dãn nở của vũ trụ. Tài liệu tham khảo: 1- http://www.timeandda...23&min=58&sec=0
  4. Quasar cũng thấy rằng:Sự sống không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên của tạo hóa. Nó chỉ hiện hữu khi vũ trụ vận động theo một xu hướng nhất định. Không chứa đựng một xu hướng nội tại, sự sống không thể hình thành. Xu hướng đó bao trùm cả vũ trụ và tồn tại ngay trong từng tia sáng bé nhỏ. Bỡi lẽ, sự sống luôn hoàn hảo trong từng thời điểm, trong từng cơ chế nhỏ bé nhất trong mỗi tế bào cho đến cơ chế vĩ đại của thái dương hệ và các thiên hà… Tất cả là một mối quan hệ thống nhất trong sự cân bằng động của vũ trụ Trí não của con người chỉ là một công cụ thô thiển nhất hoạt động trong môi trường tương tác cơ tính, nó không thể hiểu hết sự kỳ vĩ trong một cấu trúc nhỏ bé nhất của một tế bào sống đơn giản nhất. Tìm hiểu xu hướng nội tại của vũ trụ mới là vấn đề cơ bản của khoa học
  5. Thê giới sẽ mãi còn chiến tranh nếu những tín đồ của thuyết tương đối và lý thuyết hạt còn nắm cương vị chính thống trong cộng đồng khoa học, và chừng nào những sản phẩm của họ như năng lượng tối, bigbang, hạt của chúa… còn phổ cập thì những nghiên cứu kiểu “Hai lúa” như thế này khó lòng thoát khỏi sự trù dập. Tuy nhiên, tôi cũng thử đăng nghiên cứu này bằng tiếng Anh xem sao Real motion of the solar system Review of Nasa data, unusual shift of the zenith longitude of the sun after each 24 hours has been explained by the addition of the drag-effect of the motion of the solar system affecting sunlight, and through which real motion of the solar system have been identified. cause of the aberration of light phenomena will be presented at the conclusion Use Nasa data,[ 1 ], (Figure 1) http://imageshack.us/a/img405/907/k46d.png Use graph plotting software with the Cartesian coordinate system x(time) = 0 at 23h58’(UTC) on 22/12/2009 y(longitude) = 0 at intersection point between 180th meridian and plane of Earth's orbit the main cause affects the shift of the zenith longitude of the sun - The tilt of Earth's axis affects the shift of the zenith longitude of the sun after each 24 hours as a function of f(x) (Figure 2) http://imageshack.us/a/img13/9767/d5s.png f(x) = 11.72sin(alpha)cos(u)k(x) sin(alpha)= sin(23.44sin(u)pi/180 u = 2x.pi/365 k(x) = 0.04cos(2u)+1.04 -Elliptical orbit of the Earth affects the shift of the zenith longitude of the sun after each 24h as a function of g(x) g(x) = int w(x)dx w(x) = Earth’s velocity/ average velocity -1 = (1+ecos(u’))2(1-e)1/2/1-e2)2-1 e = 0.0167 u’ = 2pi(x-c)/365 Calibrate c = 10 to consistent with perihelion in January 1st h(x) = f(x) + g(x) gave a result inconsistent with the actual data of NASA (Figure 3) http://imageshack.us/a/img197/2539/aoef.png the existence the drag-effect Using the plane of Earth's orbit to the reference plane If there exists a drag effect, motion of the solar system will shift the zenith longitude after each 24 hours as a function of r(x) (Figure 4) http://imageshack.us/a/img703/4334/cwjm.png Beta = r(x) = betamaxsin(i+msin(i)) i = 2pi(x+n)/365 Viewed from north celestial pole, in accordance with the direction of motion of the solar system, the effects of drag-effect make the zenith longitude shift eastward when the earth at the sun's right, and shift westward when the earth at the sun's left. The combination with the function of r(x) gave a result match with the actual data of NASA with betamax = 0.160 , m = 1 and n = -130 (Figure 5) http://imageshack.us/a/img694/333/96zf.png Corresponding to betamax = 0,160, the real velocity of the solar system will be (~872+-50)km/s The parameter n (= -130) shows that the solar system is moving in the direction to Aries constellation (Right ascension: 3h) Concluding Unlike the concept of ether, and the Fresnel drag effect. drag effects in this article can only be explained by a new perspective of the universe. It shows that the universe is a elementary, homogeneous, infinite entity, there is no internal structure, in which the material is only links the internal oscillator pulses of that entity, If the hardness of the universe change according to time, the color of the light rays will also change in exist time of it, therefore, the cause of the red-shift phenomenon is not due to the motions of celestial bodies . References 1-http://www.timeanddate.com/worldclock/sunearth.html?n=0&month=12&day=22&year=2009&hour=23&min=58&sec=0
  6. Xin lỗi vì thiếu dấu phẩy anh Thiên Sứ ah,"cứng rắn, vô hạn và đồng nhất"
  7. Đức Phật là một nhà khoa học đích thực đối tượng nghiên cứu của Ngài là bản chất của ý thức, của đau khổ và hạnh phúc, tất nhiên đó cũng là bản chất của vũ trụ do đó Ngài phải lấy bản thân của chính mình làm đối tượng thực nghiệm, dùng trí tuệ sáng suốt để phân tích vấn đề. Ngài xuất gia không phải để thoát khỏi đau khổ hay trở thành siêu nhân... mà chỉ là để thấu hiểu chân lý vô số đệ tử của Ngài cũng đã thấu hiểu như Ngài Ngài đã mô tả sơ lược bản chất của vũ trụ trong kinh Bát nhã và kinh Lăng nghiêm, nhưng đa số chúng ta nghe như vịt nghe sấm Vô thường hay Nhân quả chỉ là những biểu hiện của quy luật vũ trụ chứ không phải là Bản chất của vũ trụ Một đứa trẻ có thể biết cách dùng lửa làm cho nước sôi lên, nhưng hiểu được bản chất của hiện tượng là chuyện khác Không còn phiền não chỉ là cái kết quả tất yếu chứ không phải là cứu cánh của Đạo Phât Vì chân lý khó giải bày nên đa phần lời Phật dạy là đưa chúng ta vào con đường tăng trưởng trí tuệ mà thôi Vài lời cạn nghĩ mong quý vị minh xét
  8. Tại sao ảnh hai tòa tháp lại được chụp từ hai phía khác nhau ( với khoảng cách rất xa nhau) mà lại nói chỉ một thợ săn ảnh chụp được ? Tia sét giống như vẽ, chắc là ảnh giả !
  9. Thật oan uổng cho công trình khoa học của tiến sĩ Masaru Emoto khi bị Chanthiennhan dán cái mác "tâm linh" làm mê hoặc người đọc nhằm cũng cố cho cái PLC huyễn hoặc vì thật ra những nghiên cứu trên chẳng có liên quan gì đến PLC cả
  10. HIỆN TƯỢNG OSHO Hoàng Liên Tâm Một hiện tượng, tưởng rằng đã chết khi ông Osho tức Bhagwan Shree Rajneesh bị chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ trục xuất về Ấn Độ vào năm 1987, nay đang có những chỉ dấu sống dậy, không phải chỉ trong cộng đồng Oregon, Hoa Kỳ như trước đây mà là trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại và có thể ở cả trong nước qua một số sách do Osho giảng được Sư cô Thích nữ Minh Tâm và hội Osho International Foundation dịch ra Việt ngữ. Một số sách đó được bầy bán tại các nhà sách ở quận Cam Hoa Kỳ và quảng bá qua liên mạng Internet. Họ cũng rao quảng cáo trên một vài nhật báo xuất bản ở miền Nam California, kêu gọi đóng góp tiền ấn tống hai quyển sách Bát Nhã Tâm Kinh và Kinh Kim Cương giảng giải. Nhằm tìm hiểu hiện tượng này, người viết đành phải bỏ thì giờ ra đọc một số tác phẩm của Osho qua các ấn bản giấy và ấn bản điện tử do thân hữu hội Osho gửi đến. Càng đọc, người viết càng cảm thấy có bổn phận phải viết ra đôi lời để những độc giả, hoặc không biết hay đã biết về Osho, có cái nhìn bao quát hơn về những khía cạnh khác của ông này. Mặc dù đã dựa chủ yếu vào các nguồn căn bản cho phần tiểu sử Osho, người viết thấy cần phải đưa thêm vào những tin tức khả tín nhất về ông Osho, nhằm mô tả hình ảnh Osho một cách trung thực. Bài viết được chia làm hai phần, phần đầu viết về con người của Osho và phần sau viết về một vài tác phẩm của ông giảng dạy về đạo Phật, như Kinh Kim Cương và Bát Nhã Tâm Kinh. PHẦN I: THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP Tên thực của Osho là Acharya Rajneesh, sau đổi là Bhagwan Shree Rajneesh (1931-1990). Ông sanh ngày 11 tháng 12 năm 1931 tại làng Rajneesh Chandra Mohan tỉnh Kuchwara, miền Trung Ấn Độ. Vào cuối đời ông đổi tên là Osho. Song thân ông theo đạo Kỳ Na (Jainism), nhưng bản thân ông chưa từng gia nhập một tôn giáo nào trong suốt quãng đời của ông. Từ lúc còn bé, Osho đã tỏ ra là một con người có cá tính độc lập, cương quyết, nổi loạn và luôn luôn bảo hộ ý kiến của mình. Theo sách của ông ghi lại, ông đã đạt định “samadhi” và chứng ngộ vào ngày 21 tháng 3 năm 1953 lúc ông 21 tuổi. Rajneesh đậu bằng Cao học Triết từ viện đại học University of Saugar. Sau đó ông dạy Triết học tại viện đại học University of Jabalpur trong chín năm. Cùng thời gian đó ông đi du thuyết nhiều nơi và trở nên một nhà lãnh đạo tôn giáo. Năm 1966, ông từ nhiệm việc giảng dạy tại viện đại học Jabalpur và tập trung các nỗ lực vào việc giáo huấn cho các đệ tử theo ông. Ông thường tiếp các nhóm tu học và cá nhân ở căn hộ apartment của ông ở Bombay, ông hành xử như là vị lãnh đạo tâm linh của họ. Phần lớn các đệ tử của ông đến từ Âu Châu và đã ở Ấn từ vài năm trước. Năm 1974, Osho từ bỏ Bombay đến thành phố Pune (Poona), miền Nam Ấn thiết lập trung tâm tu học. Có nguồn tin từ những người chống đối ông cho rằng việc ông rời Bombay là do những sự chống đối của cư dân địa phương. Thực tế việc đến Pune là do nhu cầu phát triển cơ sở hầu thoả mãn chỗ ăn ở và tu tập cho các đệ tử. Trung tâm tu học mới rộng sáu mẫu, nằm ở ngoại ô thành phố Pune. Người ta ước tính có tới năm mươi ngàn người Tây Phương đã đến đây tu học để tìm cầu giác ngộ với ông. Vào năm 1979, ông nhìn thấy phong trào tu học theo ông như là một con lộ nhắm hướng bảo hộ dòng giống sinh sản mới cho nhân loại. Ông nói: “Nếu chúng ta không thể tạo ra những người mới trong hai mươi năm tới, thì nhân loại sẽ không có tương lai. Cuộc tàn sát kiểu holocaust trên quả địa cầu chỉ có thể được ngăn chặn nếu chúng ta cho ra đời những con người mới”. Osho dạy một loại thiền mới, một loại thiền động (dynamic meditation) mà ông lấy từ các đạo Kỳ Na giáo (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), Phật Giáo, Lão Giáo (Taoism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và một vài tư tưởng triết học nổi tiếng đương thời, rồi pha trộn thành của mình. Năm 1980, ông bị một người theo Ấn Giáo tấn công bằng dao trong khi ông đang thuyết giảng. Vết thương không nặng nhưng do sức khoẻ của ông vốn yếu kém từ những năm trước đây nay trở nên tồi tệ hơn. Một vài đệ tử thân cận với ông cho biết ông thường hay đau yếu và mắc phải hội chứng mệt mỏi (Chronic Fatigue Syndrome CFS), bị bệnh tiểu đường loại 2, bệnh đau bắp thịt, bệnh cao áp huyết và thường xuyên dùng thuốc Valium. Năm 1981 ông rời Ấn Độ qua Hoa Kỳ chữa bệnh. Các đệ tử của ông mua một nông trại rộng 65,000 mẫu tại Big Muddy Ranch, Dalles, Wasco County, bang Oregon với giá 6 triệu dollars. Nông trại này sau đó được đổi tên là Rajneeshpuram . Ông đã thiết lập được một làng tâm linh tu học rộng lớn cách thị trấn Antelope 12 miles với một giảng đường rộng 88,000 square foot, một sân bay nhỏ và 4000 hội viên thường trú, một số được trang bị súng phòng thủ. Đời sống trong làng bị nhiều áp lực từ ban lãnh đạo của Oshọ cho đến chính quyền địa phương. Nhiều cư dân địa phương xung quanh sống lâu đời ở đây đã dị ứng với những người mới đến này. Họ chống đối sự hiện diện của nhóm người do ông lãnh đạo, và vì vậy đã có những sự va chạm lẫn nhau. Thành phố từ chối cấp giấy phép xây cất và ra lệnh triệt hạ những cơ sở đã xây không có giấy phép. Khi các viên chức chính quyền địa phương ngăn cản việc xây cất không có phép, thì văn phòng chính quyền liền bị nhóm người lạ mặt ném chất nổ. Do hội đồng thành phố tiếp tục từ chối cấp giấy phép xây cất, nên các đệ tử của Osho bầu người của mình vào hội đồng thành phố. Tân hội đồng thành phố lãnh đạo bởi phe thân Osho, đổi tên Antelope thành City of Rajneesh. Hai phụ tá cao cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị truy tố liên quan đến một số tội ác, bao gồm cả tội dự mưu ám sát vị luật sư công tố Charles Turner và vị bác sĩ riêng của Osho. Hai viên phụ tá này bị kết tội 5 năm tù ở với tội danh âm mưu ám sát viên luật sư công tố liên bang Charles Turner, trong âm mưu ngăn chặn việc đóng cửa nông trại. Một số phụ tá khác của Osho chạy thoát về Thuỵ Sĩ, ở đó họ còn nắm giữ một số trương mục ngân hàng cho tổ chức Osho. Năm 1983, thư ký riêng Sheela Silverman của Osho thay mặt Osho tuyên bố sẽ có đại cơn tàn phá địa cầu trong khoảng từ 1984 và 1999. Các thành phố Tokyo, New York, San Francisco, Los Angeles, Bombay sẽ bị xoá tên khỏi bản đồ thế giới. Điều tiên đoán này không xảy ra và người ta cũng nghi ngờ điều tiên đoán đó không phải của Osho. Theo tài liệu lưu giữ tại Quốc Hội Hoa Kỳ Congressional Record và ghi lại trong quyển sách Germs, New York Times reporter Judith Miller, [simon & Schuster Book] cho biết một số đệ tử của Osho là thủ phạm gieo rắc vi khuẩn Salmonella tại một số nhà hàng bán salad bar nhằm đe doạ cư dân ủng hộ dự án luật ngăn cấm các hoạt động của Osho. Trong vụ này có 751 người nhiễm vi khuẩn Salmonella. Sự cố này đã gây chấn động ở Hoa Kỳ vào năm 1984 khi được các đài truyền hình quốc gia như ABC News, Lehrer NewsHour of Public Television loan tải trong ngày 1 tháng 10 và trên tuần báo Time Magazine, số ra ngày 3 tháng 10, với tựa đề là "America's First Bioterrorism Attack." [01], [02], [03] Lo sợ bị chính quyền áp dụng biện pháp mạnh, một số đệ tử của Osho đã thu xếp cho ông di chuyển đến thành phố Charlotte, bang North Carolina. Nhưng báo Origonian cho biết là Osho đã được các đệ tử đưa đi trốn qua vùng hải đảo, biển Caribbien bằng một máy bay riêng của ông, nhưng bị chận bắt khi máy bay dừng tiếp tế nhiên liệu tại Charlotte, North Carolina. Osho bị bắt giữ vì đã liên tiếp vi phạm luật di trú Hoa Kỳ. Ông bị kết tội môi giới làm giả hôn nhân cho những đệ tử mang quốc tịch Ấn kết hôn với những đệ tử mang quốc tịch Hoa Kỳ để hợp pháp hoá việc định cư. Osho cũng bị truy tố về tội khai man trên những giấy tờ di trú. Năm 1987 Osho nhận tội, bị phạt 400 ngàn Mỹ kim và trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Ông trở về lại Pune (Poona) Ấn Độ, ở đó sức khoẻ của ông trở nên trầm trọng. Osho quyết định khai tử tên Rajneesh (có lẽ là để dấu khuôn mặt thật của ông bị lộ diện ở Hoa Kỳ) và khai tên mới là Osho. Ông từ gĩa cõi đời ngày 19 tháng 1 năm 1990. Giấy khai tử ghi nguyên do tử vong là bệnh trụy tim. Vào thời kỳ cao điểm, có khoảng 200 ngàn hội viên và 600 trung tâm tu học trên thế giới. Osho bị nhiều nhóm chống đối coi ông như là một giáo phái ma quỷ (an evil). Ông cũng được họ gọi là “sex guru” vì ông quảng bá mạnh mẽ về sex. Ông cho rằng “sự thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành chiếc thang mà qua đó đạt tới ngôi đền của tình yêu", rằng "dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm thức, đạt tới định samadhi.” Ông chỉ bày kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài lâu. Xin trích đoạn: “… Việc thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng ngắn; hơi thở người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó càng kéo dài hơn. Và việc giao hợp càng kéo dài lâu, thì càng nhiều khả năng từ dục tạo ra cánh cửa tới samadhi, một kênh cho siêu tâm thức. …. Vào lúc giao hợp chúng ta ở gần với Thượng đế. Thượng đế tồn tại trong chính hành động sáng tạo cho sinh thành nên cuộc sống mới, và do vậy thái độ của người ta nên giống như thái độ của người đi vào chùa chiền, đền đài hay nhà thờ. Vào lúc cực khoái chúng ta ở gần nhất với đấng Tối cao (From Sex To Super-Consciousness – Osho International Foundation) Osho phát triển một dạng thiền năng động mới mẻ, được nhiều người biết với tên Dynamic Meditation, thường khởi đầu với các hoạt động mạnh mẽ về thể chất như nhảy múa với âm nhạc kích động, sau đó là thiền im lặng. Phương pháp thiền này, theo Osho, có thể phát triển đến một trạng thái “không tính” và đạt đến giác ngộ. Hành giả sau đó sẽ trở thành “no past, no future, no attachment, no mind, no ego, no self” Trong thập niên 1980, các đệ tử của Osho thường mặc y phục toàn màu vàng cam đậm (có khi màu nâu đỏ), không phải chỉ có áo choàng. Vì vậy, họ được gọi là "Orange People". Tên gọi nầy khá phổ thông trong thời kỳ đó. Osho ban tước hiệu mới cho đệ tử. Nam được gọi là “Swami” và nữ được gọi là “Ma”. Mặc dầu đa số đệ tử sống trong môi trường khiêm tốn và đơn giản, nhưng Osho, ngược lại, sống trong xa hoa lộng lẫy, tư thất ông ở có máy điều hoà không khí, có bồn tắm nước nóng. Ông có 27 chiếc xe hơi mang hiệu Rolls Royces do các đệ tử hiến cúng. (Có sách nói 93 chiếc) Osho dạy rằng Thượng đế trong mọi người và hiện diện mọi nơi chốn. Không có gì ngăn cách giữa God và Not God. Ông thừa nhận Jesus Christ đã giác ngộ và tin tưởng là Jesus còn sống sau khi bị đóng đinh trên cây Thập tự giá và trốn qua Ấn Độ, ở đó Jesus chết lúc 112 tuổi. Osho nói rằng ông không chỉ định người kế vị khi ông qua đời, vì tất cả các đệ tử của ông đều sẽ là những người kế vị ông. Tuy nhiên, trước khi chết, ông đã chỉ định một hội đồng gồm 21 người điều hành trung tâm tu học Pune. Trung tâm này đã được phát triển từ 6 mẫu thành 32 mẫu. Ngày nay họ điều hành 20 trung tâm trên khắp thế giới và trở thành một tổ chức kinh doanh với lợi tức hàng năm lên đến nhiều triệu Mỹ kim. Ảnh hưởng chính của Osho bây giờ chính là những sách viết của ông. Cũng nên biết hai phụ tá cao cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị kết án 5 năm tù ở Oregon hồi năm 1995, đã được phóng thích trước thời hạn mãn tù vào tháng 6 năm 1998 và bị trục xuất về Anh Quốc. PHẦN 2: ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN ĐẠO Nói rằng ông Osho là một Đạo Sư và những lời giảng dạy của ông là Giáo lý thì không đúng vì tất cả những lời giảng của ông không có gì mới lạ, chỉ là sự góp nhặt rồi pha trộn từ một số giáo lý của các đạo Kỳ Na giáo (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), Phật Giáo, Lão Giáo (Taoism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và một vài tư tưởng triết học đương thời. Ông bắt đầu sự nghiệp bằng việc giảng dạy môn Triết học tại đại học, rồi từ đó chuyển qua dạy về khoa Tâm linh cho những đệ tử và những người theo ông. Thị trường khoa Tâm linh học ở Ấn Độ thời đó rất cạnh tranh và ông là một người giỏi về tiếp thị. Ông đã tung ra thị trường một sản phẩm mới nhiều hấp dẫn. Đó là những lời hứa hẹn “giác ngộ và giải thoát” bằng một đường lối rất quyến rũ là con đường tình yêu và tình dục; mà ông tin rằng sẽ được đón nhận ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Mặc dầu là một người độc tài, độc tôn, độc đoán, nhưng ông lại là một nhà thuyết giảng có tài, có mãnh lực quyến rũ và thuyết phục người nghe, người đọc. Văn tiếng Anh ông viết giản dị, sáng sủa. Ông thuyết giảng rất nhiều và thuộc đủ mọi đề tài. Với Phật Giáo, ông ca ngợi đức Phật, dùng những thuật ngữ nhà Phật, nên người đọc, nhất là những Phật tử mới vào đạo hay những người có ý muốn hướng về một nền đạo học Đông Phương cảm thấy thích thú và gần gũi với ông. Ông nói thao thao bất tuyệt về kinh Kim Cương, Bát Nhã Tâm Kinh và Kinh Pháp Cú. Ông thuyết giảng về Vô Ngã và Không Tánh của Phật Giáo. Ông cũng giảng và đề cao nhiều pháp thiền định khác nhau của nhiều tôn giáo, như của Mật tông: Kundalini, Mandala và Tình Dục, lẫn của cả Thiền Minh Sát Vipassana của Phật giáo Nam Tông, cũng như thiền quán âm thanh của kinh Lăng Nghiêm v... v… Ông có lối diễn giảng như hỏa mù, vừa ca ngợi, vừa xuyên tạc đạo Phật (một cách tinh vi), lại vừa lợi dụng uy tín của đức Phật, dùng đức Phật như một cái dù che; nhưng thực chất bên trong nôị dung những điều ông giảng lại chứa đựng những tư tưởng đối nghịch với tư tưởng nhà Phật. Đây chính là điều mà người ta thường gọi là “cái bẫy của ngôn ngữ”. Chúng ta hãy đọc một đoạn của Osho dưới đây: ”Đừng lo sợ gì cả, vì toàn bộ tiến trình giáo lý Bát Nhã Tâm Kinh sẽ giúp anh phóng thể, khai sáng cái bản ngã: cái “Tôi” đó thực không hiện hữu – chỉ cái “Tôi” đó là cái duy nhất không hiện hữu, không thực! Ngoài ra tất cả đều thực có. Có nhiều đạo sư đã nói: “Thế giới này là ảo ảnh và linh hồn mới hiện hữu – cái ‘Tôi” là thực, ngoài ra đều là ảo giác.” Đức Phật lại giảng trái ngược lại: “Cái Tôi là không thực, còn những thứ khác là thực.” Tôi đồng ý với Đức Phật về quan điểm này hơn tất cả những lập thuyết, quan niệm của những đạo sư khác…”[Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm] Đức Phật không hề nói “cái Tôi là không thực, còn những thứ khác là thực…” Những người am tường giáo lý đạo Phật đều biết trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp, Đức Phật đều là tuỳ căn cơ, hay nói một cách khác, tuỳ bệnh “chấp thật” của chúng sinh mà cho thuốc khác nhau. Ngài phá chấp thật: phá Ngã chấp, Pháp chấp và Không chấp; [01] ngay cả lời nói của Ngài, Ngài cũng nói là vọng tưởng, chớ nên chấp thật. Một đoạn khác, cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho cho rằng Tiểu ngã hoà nhập vào Đại ngã là Niết Bàn: “Chỉ có người nào yêu và thiền định thì mới có thể chết tỉnh thức được. Và một khi anh chết trong tỉnh thức rồi, thì anh không cần phải lộn lạo luân hồi trở lại cuộc đời này nữa, vì anh đã học xong bài học thế gian rồi. Rồi anh tan biến vào vũ trụ, hội nhập vào đại thể, hoà mình vào chân ngã – đó là Niết Bàn tịch tĩnh đấy, anh ạ! [Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm] Đây chính là quan niệm của Ấn Độ giáo hay Bà La Môn Giáo. Đối với Phật giáo thì mọi khái niệm, tư tưởng về Bản Ngã, dù là Tiểu Ngã hoặc Đại Ngã đều bị quét sạch, kể cả cái công cụ quét cũng bị quét luôn. Ngay cả đến giáo lý của Phật giảng dạy cũng chỉ được coi là phương tiện như con đò đưa người qua sông. Khi đã đến được bến đò thì phải bỏ đò và người đưa đò tức Phật cũng phải bỏ luôn và phải bỏ luôn cả cái vọng chấp gọi là bến đò nữa mới có thể đạt tới cái mà sách vở tạm dùng ngôn từ mà gọi là Niết Bàn, Chơn Như. Còn trên phương diện hành trì, giáo lý nhà Phật chủ trương diệt dục vì dục là nguồn gốc của khổ đau và luân hồi thì Osho lại chủ trương ngược lại. Ông đề cao dục, ca ngợi dục, quảng bá dục; nhất là tình yêu và tình dục, ông dành nhiều buổi thuyết giảng về tình dục và viết thành một quyển sách nói về Dục. Ông chỉ dạy kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài lâu. Nên lưu ý, đây là điểm quan trọng trong quá trình truyền đạo của ông, là “đường lối hành trì” để hành giả đạt đến giác ngộ giải thoát, đến Niết Bàn hay Thượng Đế” của cái gọi là “giáo lý” của “Đạo sư Osho”. Xin trích đoạn: “..Nhưng người đã nghiên cứu về dục, người đã đi sâu vào nó, người đã thiền về những kinh nghiệm nhiều kiếp, đều nêu ra rằng nếu giao hợp chỉ kéo dài một phút thì con người sẽ ham muốn nó lần nữa vào ngày hôm sau, nhưng nếu nó có thể được kéo dài trong ba phút thì người đó sẽ không nghĩ về dục trong một tuần tiếp sau. Hơn nữa, họ đã quan sát rằng nếu giao hợp có thể được kéo dài trong bẩy phút thì người đó sẽ tự do khỏi dục đến mức không ý nghĩ đam mê dục nào nẩt sinh trong người đó trong ba tháng. Và nếu thời kì giao hợp có thể kéo dài ba giờ thì người đó sẽ tự do với dục mãi mãi; người đó sẽ không bao giờ ham muốn nó lần nữa! Nhưng kinh nghiệm của con người nói chung chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc; thậm chí khó mà tưởng tượng được một thời kì ba giờ. Tuy nhiên, tôi lặp lại: nếu một người có thể vẫn còn trong tư thế giao hợp, có thể vẫn còn trong samadhi đó, trong sự chìm ngập ba giờ, thế thì chỉ một hành động giao hợp đó cũng đủ để giải phóng người đó khỏi dục cho phần còn lại trong cuộc đời mình. Nó để lại sau một kinh nghiệm mãn nguyện, một kinh nghiệm phúc lạc đến mức nó kéo dài cả đời. Sau việc giao hợp hoàn hảo đó thì không còn rào chắn để đạt tới vô dục thực sự. Thậm chí sau cả đời kinh nghiệm dục chúng ta cũng chẳng bao giờ đạt tới bất kì đâu gần cái giai đoạn tối cao đó, gần điều thiêng liêng đó. Tại sao? Người ta đạt tới tuổi già chín muồi, đi tới cuối cuộc sống của mình, nhưng người đó chưa bao giờ được tự do khỏi sự thèm khát dục, khỏi niềm đam mê giao hợp. Tại sao? Bởi vì người đó chưa bao giờ hiểu mà cũng không được bảo cho về nghệ thuật dục, về khoa học dục. Người đó chưa bao giờ xem xét nó; người đó chưa bao giờ thảo luận về nó với người đã chứng ngộ. Bạn có thể ngần ngại rằng một kinh nghiệm mà thường chỉ kéo dài một khoảnh khắc lại có thể được kéo dài trong ba giờ, cho nên tôi sẽ nêu ra cho bạn một số điểm chỉ dẫn. Nếu bạn chú ý tới chúng, thì cuộc hành trình tới vô dục sẽ trở nên đơn giản hơn. Việc thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng ngắn; hơi thở người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó càng kéo dài hơn. Và việc giao hợp càng kéo dài lâu, thì càng nhiều khả năng từ dục tạo ra cánh cửa tới samadhi, một kênh cho siêu tâm thức. Như tôi đã nói trước đây, việc hiểu về vô ngã, về vô thời gian, bắt đầu hé mở ra cho con người trong samadhi-dục đó. Việc thở phải rất chậm. Việc làm chậm hơi thở sẽ mở ra viễn cảnh ngày càng sâu sắc hơn của nhận thức rõ. Một điều khác cần phải nhớ trong hành động giao hợp là ở chỗ nhận biết của bạn nên được tập trung vào giữa hai con mắt, ở chỗ của agnichakra. Nếu sự chú ý được tập trung vào đó, thì thời hạn cực đỉnh có thể được kéo dài - thậm chí tới ba giờ. Và một hành động giao hợp như vậy có thể bắt rễ chắc chắn một người vào mảnh đất của vô dục - không chỉ cho kiếp sống này mà cho kiếp sống tiếp nữa..” [Osho: Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức (Bài nói thứ 4)©Osho International Foundation] Có người cho rằng những điều giảng trên không phải là của Phật giáo mà là của Mật Giáo Ấn Độ hay như Osho gọi chung chung là Mật tông. Thêm vào đó, tình yêu và tình dục nam nữ mà Osho đề cao cũng được ông giảng lồng vào trong các kinh Phật, như trong kinh Kim Cương và Bát Nhã Tâm kinh. Điều này xác nhận tư tưởng của ông đối nghịch với giáo lý nhà Phật như nước với lửa. Xin trích đoạn: “…Chỉ có tình yêu lan tràn ra thế giới mới đem đến cách mạng. Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại, chủ nghĩa phát xít đã thất bại, chủ nghĩa tư bản đã thất bại. Tất cả các "chủ nghĩa" đều thất bại bởi vì sâu bên dưới tất cả chúng đều kìm nén dục. Về phương diện này, không có sự khác biệt giữa Washington và Moscow, Bắc kinh và Delhi không có khác biệt nào hết cả. Tất cả họ đều đồng ý về một điểm rằng dục cần phải bị kiểm soát, rằng người ta phải không được phép có niềm vui hồn nhiên trong dục. Mật tông tới để lập lại quân bình. Mật tông là phương thuốc cho nên nó nhấn mạnh quá nhiều vào dục. Những cái gọi là tôn giáo nói dục là tội lỗi, còn mật tông nói dục là hiện tượng thiêng liêng duy nhất. Mật tông là phương thuốc. Thiền không phải là phương thuốc. Thiền là trạng thái khi bệnh tật đã biến mất và tất nhiên, cùng mất đi với bệnh thì phương thuốc cũng mất đi nữa. Một khi bạn được chữa lành khỏi bệnh, bạn không còn giữ lại toa thuốc và cả lọ thuốc và thuốc với mình. Bạn vứt chúng vào sọt rác. Xã hội thông thường chống dục; Mật tông tới để giúp loài người, để trả lại dục cho loài người. Và khi dục đã được trả lại, thì nảy sinh Thiền. Thiền không có thái độ. Thiền là sự mạnh khỏe thuần khiết. " [Osho: Kinh Kim Cương Việt dịch: Như Không] “…Khi anh ân ái giao hợp với một người phụ nữ anh thương, cái tột đỉnh của khoái lạc chính là đỉnh cao của Chân Không. Ngay giây phút Chân Không hay khoái lạc cực điểm đó, người đàn bà không còn là người đàn bà nữa và người đàn ông cũng không còn là người đàn ông nữạ Những hình thái nam nữ đó đã biến mất. Cái tính chất phân cực, sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà không còn đó nữa, sự căng thẳng không còn đó nữa; tất cả đã tuyệt đối buông xả, thư giản hoàn toàn…” [Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm] Những lời ông giảng về kinh Phật và hành thiền nghe thật hấp dẫn, rất êm tai, nhưng theo ông, hành giả chỉ có thể đến được với nó qua đường tình yêu và tình dục. Đây chính là viên thuốc độc bọc đường để mê hoặc lòng người và đó chính là cái bẫy của ngôn từ, nên những người mới vào đạo Phật cần phải lưu ý mà tránh xa. Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã cảnh giác những ai đi theo con đường dâm (sex), Ngài nói: “…Nói chung sự tà dâm được thực hiện bởi sự tham muốn, nhưng người ta cũng có thể làm như thế bởi lòng sân hận, như khi một người ngủ với vợ của một kẻ thù. Cũng thỉnh thoảng nó được thực hiện do sự vô minh, cho rằng qua sự giao hợp người ta có thể đạt được các chứng ngộ vĩ đại…” [Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom, Dalai Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999] Cũng nên nói thêm, trong cuốn Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức, Osho khẳng định không có con đường nào khác hơn để đi đến samadhi là phải qua con đường tình dục:“Con đường từ dục tới samadhi là con đường dài. Samadhi là mục tiêu tối thượng; dục chỉ là bước đầu tiên. Và tôi muốn chỉ ra rằng những người từ chối thừa nhận bước đầu tiên, người chỉ trích bước đầu tiên, thì thậm chí không thể nào đạt tới bước thứ hai được. Họ không thể nào tiến bộ được chút gì. Điều bắt buộc là phải tiến bước thứ nhất có ý thức, hiểu biết và nhận biết. …” Trong một bài giảng khác, Osho cũng xác nhận rằng: “Sex contains samadhi, because life contains God. Move from sex to samadhi, from sex to superconsciousness; this is the only natural and rightful way. Don't get stuck anywhere in sex. I teach you sex and transcendence both, because the transcendence is possible only through it. And the people who are teaching repression are not teaching transcendence. In fact, they go on pouring more mud on you. They go on forcing you deeper in the mud because there is no possibility of transcendence if you have not moved through these sexual stages of autoeroticism, of homoeroticism, of heteroeroticism, and then to transcendence. And the lotus blooms, the one-thousand-petalled lotus. You are containing it in yourself. Avoid the priests and the politicians and you can achieve it. They are standing in the way…” [Osho: The Secret of Secrets, Vol 2, Chapter 15 (Available on Audio only) Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International Foundation 1995] Khi giảng về Thiền Định trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho giảng huyên thuyên, dùng toàn thuật ngữ Phật giáo nhưng chỉ có chữ mà không có nghĩa, hầu như không có liên hệ gì với giáo lý nhà Phật, lại còn có những điểm trái ngược với Phật giáo, như khi giảng về thiền định, ông phân chia Thiền Định làm hai lực đối kháng nhau: Thiền là một cái gì “yên tĩnh, ôn hòa, sâu lắng” trong khi đó Định thì có bản chất “bạo hành, cá nhân bản ngã…” Chúng ta hãy đọc thử một đoạn: “…Định là ý thức đối đãi, nhị nguyên: bởi thế Định tạo ra sự mệt mỏi, chán ngán, cho nên khi anh tập trung vào một đối tượng nào, anh cảm thấy mệt lả. Anh không thể tập trung suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền được, anh phải nghỉ ngơi. Sự tập trung không bao giờ có thể trở thành bản chất của anh được. Thiền không bao giờ làm cho anh mệt mỏi. Thiền không bao giờ làm cho anh đuối sức. Anh có thể thiền hai mươi bốn giờ đồng hồ liền hay ngày nọ qua ngày kia, năm nọ qua năm kia. Thiền có thể trở thành vô tận vì chính bản chất thiền là thư thái, an nhiên, tuyệt đối không căng thẳng, mệt lả, đuối sức. Định là một hành động, một loại hành động có ý chí mạnh mẽ. Còn Thiền là trạng thái không ý chí, một trạng thái vô hành….Trong Định, chúng ta đã có sẵn một kế hoạch, một dự án, một tư tưởng trong tâm trí. Khi anh tập trung tâm trí vào một đối tượng, đầu óc anh hoạt động dữ dội, anh thấy rõ là anh đang quán chiếu cái gì, tập trung tâm ý vào cái gì, vì tập trung hiện ra từ vùng quá khứ….Định sẽ khiến anh trở thành một con người ý chí. Nhưng thiền sẽ đưa anh đến Chân Không, sẽ đưa anh đến vùng Chân Như tự tại. Đó là chính xác những gì Phật nói với Xá Lợi Phất…[Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm] Trong khi đó, Định theo Phật giáo là “trạng thái chú tâm lên một đối tượng duy nhất bằng sự lắng lọc từ từ của tâm. Định là một dạng tâm thức, trong đó không còn tính nhị nguyên, trong đó chủ thể biến thành một với khách thể, lúc đó chỉ còn một "kinh nghiệm tâm thức" là có thật. Khả năng đạt định là một trong những điều kiện tiên quyết để tu tập Thiền…, hành giả nhờ Định (s: samadhi) mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm thức, trong đó toàn bộ tâm thức chỉ chú ý đến một đối tượng thiền định thuộc về tâm hay vật. Tâm thức sẽ trải qua nhiều chặng, trong đó lòng tham dục dần dần suy giảm. Một khi hành giả trừ Năm chướng ngại thì đạt được bốn cõi thiền (Tứ thiền định) của sắc giới (xem Ba thế giới), đạt được Lục thông (s: abhij) và tri kiến vô thượng. Tri kiến này giúp hành giả thấy rõ các đời sống trước của mình, thấy diễn biến của sinh diệt và dẫn đến giải thoát mọi Ô nhiễm. Hành giả đạt bốn cõi thiền cũng có thể chủ động tái sinh trong các cõi Thiên (deva) liên hệ. Trong giai đoạn một của thiền định, hành giả từ bỏ lòng tham dục và các pháp bất thiện, nhờ chuyên tâm suy tưởng mà đạt đến. Trong cấp này, hành giả có một cảm giác hỉ lạc. Trong giai đoạn hai, tâm suy tưởng được thay thế bằng một nội tâm yên lặng và tâm thức trở nên sắc sảo bén nhọn, xuất phát từ sự chú tâm quán sát. Hành giả tiếp tục ở trong trạng thái hỉ lạc. Qua giai đoạn ba, tâm hỉ lạc giảm, tâm xả bỏ hiện đến, hành giả tỉnh giác, cảm nhận sự nhẹ nhàng khoan khoái. Trong giai đoạn bốn, hành giả an trú trong sự xả bỏ và tỉnh giác. Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồm tất cả phép tu như quán niệm hơi thở, Bốn niệm xứ ... với mục đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề Đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh (Thiền tông). Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền cũng không phải là những phương pháp đã nêu trên. Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể mô tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên hệ với một tôn giáo nào cả kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức vừa nói đã được các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên thế giới, mọi thời đại và văn hóa khác nhau trực nhận và mô tả bằng nhiều cách. Đó là kinh nghiệm giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa là thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh tử. Vì vậy, Tọa thiền không phải là một phương pháp đưa con người đi từ vô minh đến giác ngộ, mà là giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình đang mỗi lúc hiện diện…” [Tự điển Phật Học Đạo Uyển: http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T132.htm] Còn có quá nhiều điều đối nghịch với giáo lý nhà Phật, nhưng người viết cho là tạm đủ để độc giả có thể nhìn rõ thêm về ông Osho và giá trị những lời thuyết giảng của ông về đạo Phật. Osho có phải là đạo sư và những lời thuyết giảng của ông có phải là khuôn vàng thước ngọc không, điều đó không tuỳ thuộc vào những điều ông nói, không tuỳ thuộc vào những khả năng trích dẫn từ kinh điển Phật giáo mà là từ hành động của ông và động lực để giảng dạy của ông. Ngài Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã nói rằng: “Động lực giảng dạy (của một vị Thầy) phải trong sạch – không bao giờ vì một ước muốn danh tiếng hay lợi lạc vật chất… Trong thế giới, nếu không có một nhà lãnh đạo chân chính thì chúng ta không thể cải thiện xã hội được. Cũng vậy, trừ phi vị thầy có phẩm chất đúng đắn, thì mặc dù đức tin của bạn có mạnh mẽ đến đâu, việc theo học vị thầy có thể làm hại bạn nếu bạn được dẫn dắt theo một đường hướng sai lầm. Vì thế, trước khi thực sự coi ai là thầy, điều quan trọng là phải khảo xét họ…” … Nếu như vị đạo sư của bạn buộc bạn phải làm việc vô đạo đức hay nếu giáo lý của vị ấy mâu thuẫn với Phật Pháp thì hành xữ như thế nào? Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp: “Bạn nên trung thành với điều đạo đức và xa rời những gì không phù hợp với Pháp…” Ở Ấn Độ, một lần kia, một vị thầy có nhiều đệ tử yêu cầu họ đi ra ngoài ăn trộm. Vị thầy thuộc đẳng cấp Bà La Môn và rất nghèo. Ông dạy rằng khi những người Bà la Môn trở nên nghèo khó thì có quyền ăn cắp. Ông nói, là những người được Trời Brahma - đấng sáng tạo của thế giới – yêu quý, đối với một người Bà la môn, việc ăn cắp không xấu xa. Những đệ tử sắp đi ăn cắp thì vị thầy người Bà la môn nhận thấy một đệ tử đứng im lặng cúi đầu xuống. Ông hỏi anh tại sao không đi. Người học trò nói: “Điều thầy dạy chúng con bây giờ trái nghịch với Pháp, vì vậy con không nghĩ rằng con có thể làm được điều đó. “ Lời nói này làm vui lòng người Bà la môn, ông nói: “Ta đã trắc nghiệm các con. Mặc dù các con đều là đệ tử của ta và trung thành với ta, nhưng sự khác biệt giữa các con là sự phán đoán. Ta là thầy của các con, nhưng các con phải xem xét lời chỉ dạy của ta, và bất kỳ lúc nào lời chỉ dạy chống trái với Pháp thì các con chớ nên theo.” …” [Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom, Dalai Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999]. Hoàng Liên Tâm Chú Thích [01] Ngã chấp, Pháp chấp, Không chấp: Chấp thật cái thân thể và sự suy nghĩ của bộ não của ta gọi là Ngã Chấp. Chấp thật vạn sự vạn vật trong vũ trụ pháp giới do ta hiểu biết được cho là Thật Tánh Thật Tướng, gọi là Pháp Chấp. Phá được Ngã Chấp và Pháp Chấp, thấy tất cả đều không, chấp cái không này là thật Không gọi là Không Chấp. [02] Cần biết thêm về ông Osho, quý độc giả có thể tìm mua đọc Bhagwan: The God That Failed, published by Saint Martin's Press and written by Hugh Milne (Shivamurti), quyển sách này được viết bởi Hugh Milne, một đệ tử thân cận với Osho trong thời kỳ ở Poona và Oregon. Một quyển sách thứ hai cũng nên xem là cuốn: Promise of Paradise: A Woman's Intimate Life With 'Bhagwan' Osho Rajneesh, published by Barrytown/Station Hill Press. Cả hai quyển sách đều không còn, nhưng có thể mua lại sách cũ tại http://www.Amazon.Com and http://www.Amazon.Com.UK Sách và Tư Liệu Trích Dẫn: [01] Has Any American City Ever Faced Biological Warfare? By George Beres http://www.hnn.us/articles/355.html Mr. Beres, a graduate of Northwestern's Medill School of Journalism, was sports information director at the University of Oregon. [02] Oregon. Town Never Recovered From Scare The Associated Press/October 19, 2001 By Gillian Flaccus http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh8.html [03] The Story of a Truly Contaminated Election Columbia Journalism Review/Jan/Feb 2001 By Lawrence K. Grossman http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh4.html [04] Osho: From Sex To Super-Consciousness – ©Osho International Foundation (ấn bản Anh) [05] Osho: Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức – ©Osho International Foundation (ấn bản Việt) [06] Osho: The Secret of Secrets, Vol 2, Chapter 15 (Available on Audio only) Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International Foundation 1995 [07] Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Minh Tâm [08] Osho: Kinh Kim Cương, Việt dịch: Như Không, ©Osho International Foundation (ấn bản Việt) [09] Dalai Latma 14: Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999 [10] Osho: "Autobiography of a spiritually incorrect mystic," St. Martin's Press, (2000) Review/order this book [11] Osho: "Meditation: The first and last freedom," ST, Martin's Press, (1997). Review/order this book [12] Osho: "Courage: The joy of living dangerously," Griffin, (1999). Review/order this book This is one of a new series of books in the series "Insights for a new way of living." [13] Osho: The science of meditation is at: http://osho.com [14] Friends of Osho has a web site at: http://www.sannyas.net/ They have a list of Sannyasins, [15] Osho information centers, etc. at: http://oz.sannyas.net/friends/ [16] Friends of Osho have a biography of Osho at: http://earth.path.net/osho/osho02.htm [17] Osho Vision: A lifestyle of meditation and celebration at: http://www.meditate-celebrate.com [18] Christopher Calder, "Osho, Bhagwan Rajneesh, and the Lost Truth," at: http://home.att.net/~meditation/Osho.html [19] Article in the New York Times, 1998-MAR-11, Page A21. Mentioned in "Food Poisoning and Biological Warfare," [20] "Osho Rajneesh," is a particularly beautiful web site, which covers a wide range of topics: http://osho.toptelemedia.com/index1.htm [21]Tự điển Phật Học Đạo Uyển: http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T132.htm] http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-hientuongosho-2.htm
  11. SỰ CÁO CHUNG CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI Một luận điểm dựa trên một thí nghiệm xác thực : sự co dãn thời gian của đồng hồ nguyên tử tỉ lệ với vận tốc chuyển động Đối với thuyết tương đối hẹp: Giả sử trên một toa tàu chuyển động thẳng đều, một hành khách sử dụng một đồng hồ nguyên tử để khảo sát sự rơi tự do của quả táo, anh ta nhận thấy với những vận tốc chuyển động(thẳng đều) khác nhau, gia tốc rơi của quả táo có những giá trị khác nhau và tỉ lệ với vận tốc chuyển động ( sở dĩ như vậy là do sự co dãn thời gian của đồng hồ nguyên tử), nhờ đó anh ta đã tính được vận tốc thực của toa tàu và xác định được một hệ quy chiếu tuyệt đối mà tại đó gia tốc rơi của quả táo có giá trị nhỏ nhất (tại đó đồng hồ chạy nhanh nhất) Nếu không dựa vào đồng hồ nguyên tử thì chúng ta hãy làm thí nghiệm như sau: Tai mặt đất, dưới toa tàu, chiếu một tia sáng hướng lên vuông góc với sàn tàu, tia sáng xuyên qua lỗ A ở sàn tàu và đập lên trần tàu tại điểm B, ta dễ dàng nhận thấy nếu tàu đứng yên, AB sẽ vuông góc với sàn tàu, nếu tàu chuyển động với vận tốc V , AB sẽ lệch với sàn tàu một góc có cos = V/c Đối với thuyết tương đối tổng quát : Trong một thang máy chuyển động lên trên với một gia tốc đúng bằng gia tốc rơi của một vật thể xuống mặt đất, một người sử dụng một đồng hồ nguyên tử để khảo sát sự rơi tự do của quả táo, anh ta nhận thấy giá trị đo được của gia tốc rơi tăng dần theo thời gian(bởi vận tốc của thang máy ngày càng tăng do đó sự dãn ra của đồng hồ ngày càng lớn), như vậy anh ta có thể tính được gia tốc chuyển động của thang máy và khẳng định được rằng anh ta đang bị tác dụng bởi lực quán tính chứ không phải bởi lực hấp dẫn Nếu các bạn không chấp nhận sự chậm lại của đồng hồ nguyên tử theo vận tốc chuyển động thì hãy xét quan điểm sau của Einstein : Thang máy chuyển động và chuyển động của nó tạo ra hiện tượng quán tính, hoặc là vũ trụ chuyển động đồng thời tạo ra trọng trường? Đó là một câu hỏi không đúng. Không hề có một chuyển động "thực", tuyệt đối nào, chỉ có sự tồn tại tương đối của thang máy và vũ trụ chuyển động tương đối đó tạo ra trọng trường được mô tả bởi các phương trình trường của thuyết tương đối tổng quát. Trọng trường có thể gọi là trường trọng lực hay trường quán tính tuỳ thuộc vào việc lực chọn hệ thống đọc số nên dùng hệ thống tính toán là thang máy thì ta có trường trọng lực. Còn nếu lấy vũ trụ làm hệ thống tính toán, thì ta có trường quán tính. Lực quán tính và lực hấp dẫn tất cả chỉ là các từ khác nhau được áp dụng cho cùng một hiện tượng. Đương nhiên coi vũ trụ là đứng yên thì đơn giản hơn và thuận tiện hơn. Trong trường hợp này không ai gọi trường bên trong thang máy là trường trọng lực. Song thuyết tương đối tổng quát lại nói rằng trường này có thể gọi là trường trọng lực, nếu chọn được hệ thống tính toán thích hợp. Không một thí nghiệm được thực hiện bên trong thang máy có thể chứng minh "sự giả dối" của quan niệm đó. Lần kiểm tra ấn tượng nhất lý thuyết tổng quát được tiến hành vào năm 1919 trong thời gian nhật thực toàn phần. Anhxtanh đã lập luận như sau: Nếu cái thang máy trong khoảng không giữa các vì sao đi lên phía trên với vận tốc tăng lên, thì tia sáng đi trong thang máy từ tường này đến tường kia sẽ lệch về phía dưới đồng thời chuyển động theo đường parabol. Điều đó có thể giải thích bởi lực quán tính, nhưng theo thuyết tổng quát có thể xem thang máy là hệ thống tính toán cố định và coi tỉ suất cong của tia sáng như kết quả tác động của lực hấp dẫn. Như vậy, lực hấp dẫn có thể uốn cong các tia sáng. Tỉ suất cong này quá nhỏ để có thể ghi lại từ một thí nghiệm nào đó được tiến hành trong phòng thí nghiệm, nhưng nó có thể đo được bởi các nhà thiên văn trong thời gian nhật thực toàn phần. Có nghĩa là Einstein cho rằng ứng xử của tia sáng là như nhau khi thang máy ở tại mặt đất cũng như đang đi lên trong vũ trụ với gia tốc g. Tại đây Einstein đã sai khi coi tỉ suất cong của tia sáng như kết quả tác động của lực hấp dẫn. và cho rằng Tỉ suất cong này quá nhỏ để có thể ghi lại từ một thí nghiệm nào đó được tiến hành trong phòng thí nghiệm Bởi vì tại thang máy đang đi lên, điểm đến của tia sáng ( ở tường bên kia ) sẽ tuột xuống phía dưới một đoạn không luôn luôn cố định, mà tùy thuộc vào vận tốc của thang máy tại thời điểm thí nghiệm Có nghĩa là, giả sử có một tia sáng chiếu vuông góc vào thang máy, xuyên qua lỗ A ở tường bên này và đập vào tường bên kia tại điểm B, ta dễ dàng nhận thấy AB sẽ vuông góc với tường khi thang máy đứng yên, nhưng khi thang máy luôn tăng tốc thì điểm B sẽ tuột xuống phía dưới và sẽ tuột xuống càng nhiều tại thời điểm vận tốc của thang máy càng lớn ( nếu tia sáng qua lỗ A tại thời điểm thang máy có vận tốc bằng ½ c thì AB sẽ lệch một góc hơn 30 độ so với tường) Và kết luận của Einstein : Không một thí nghiệm được thực hiện bên trong thang máy có thể chứng minh "sự giả dối" của quan niệm đó. Đã không thể nào đúng được Và như vậy, nếu cái sai này được xác minh, ắt hẳn Einstein cũng sẽ rất vui mừng khi thuyết tương đối nói lời cáo chung, tạo điều kiện cho một lý thuyêt đúng đắn khác ra đời bởi ông luôn là người tìm cầu chân lý cao cả.
  12. Đó sẽ là đường xoắn ốc tiếp xúc với quỹ đạo ban đầu và quỹ đạo cân bằng sau cùng. Mà không biết bác Liêm Trinh có ý tưởng gì vậy ? Kính bác
  13. http://www.marxist.com/chong-lai-cach-luan...oc-luong-tu.htm Những thách thức đối với cách luận giải Copenhagen A bubble chamber photograph showing the paths of charged particles in a magnetic field. Không may cho Heisenberg, sự phát triển trong công nghệ hiện đại đã cho phép các nhà khoa học chỉ ra rằng đường đi của một hạt hạ nguyên tử là rất thực. Thấy được đường đi của hạt hạ nguyên tử trong các thí nghiệm năng lượng cao là chuyện bình thường, trong đó cả vị trí và vận tốc đều có thể được xác định trong giới hạn lớn hơn mức không chắc chắn. Heisenberg đã bảo vệ quan điểm của mình chống lại thí nghiệm như vậy bằng cách nói rằng nguyên lý bất định của ông chỉ thích hợp để tiên đoán tương lai. Nhưng ông cũng nói rằng "tri thức của quá khứ chỉ là một loại tư biện thuần túy... Nó là vấn đề của niềm tin cá nhân xem liệu một tính toán như vậy liên quan đến lịch sử quá khứ của electron có thể được quy cho bất kỳ một thực tại vật chất nào hay không". [10] Bản thân Heisenberg đang thú nhận ở đây là cách lý giải duy tâm của ông về hành trạng lượng tử là một sự lựa chọn mang tính hệ tư tưởng. Và lối thoát khác của ông ta - nguyên lý bất định không chỉ thích hợp cho việc tiên đoán tương lai - là một tuyên bố rõ ràng nhạt nhẽo. Nếu động lượng chỉ được biết với một độ chính xác nhất định, chúng ta chỉ có thể tiên đoán vị trí tương lai với một độ chính xác nhất định. Không có gì mới hay đặc biệt sâu sắc ở đây cả. Nhà vật lý Max Born [11] đã phát triển một cách giải thích khác về tính đối ngẫu sóng hạt tránh được cách lý giải Copenhagen duy tâm chủ nghĩa. Erwin Schrodinger đã chỉ cho thấy làm cách nào để tính được "hàm sóng cơ học lượng tử" của một hệ thống; Born giải thích hàm sóng của Schrodinger không phải như vật thể vật chất mà là một cách mô tả xác suất một hạt ở tại một vị trí cụ thể nào đó. Ví dụ, trong thí nghiệm khe đôi có một hàm sóng cho việc đến từ một khe và có một hàm sóng cho việc đến từ một khe khác. Xác suất của việc đến là cường độ của sự chồng sóng của các hàm sóng tại vị trí đó, theo cách khá giống như vậy biên độ của một sóng nước là tổng của các sóng khác nhau tại một điểm trên bề mặt của nước. Einstein đã giải thích ý tưởng này như sau: "... nó chứng minh không thể kết hợp với những sóng Schrodinger này để xác định chuyển động của các điểm có khối lượng được - và rằng, sau tất cả, có một mục đích nguyên thủy của cái cấu trúc tổng thể. Khó khăn này xuất hiện một cách không sao khắc phục được cho tới khi nó được Born vượt qua theo một cách đơn giản như nó được mong đợi. Trường sóng Broglie-Schrodinger không phải được giải thích như là một mô tả toán học về việc một sự kiện thực sự diễn ra trong thời gian và không gian như thế nào, mặc dù, tất nhiên, chúng cùng nói đến sự kiện đó. Đúng hơn đó là một mô tả toán học về cái mà chúng ta có thể thực sự biết về hệ thống này. Chúng chỉ là để nhằm đưa ra những phát biểu thống kê và những tiên đoán về kết quả của những sự đo đạc mà chúng ta tiến hành đối với hệ thống đó mà thôi." [12] Như Einstein chỉ ra, một khía cạnh quan trọng của quan điểm này về hành trạng lượng tử là hàm sóng không được thừa nhận là có một tồn tại vật chất (physical existence). Các hạt vật chất tồn tại, chúng tương tác, vượt qua các khe, chuyển động quanh nguyên tử. Nhưng hàm sóng tương ứng với nó là một phương tiện đối với một sự kết thúc, một dụng cụ toán học cho phép các nhà vật lý tính toán xác suất của một trạng thái hay một sự kết hợp các trạng thái - xác suất mà một electron trong một nguyên tử hydro có một măng lượng cụ thể, hay xác suất của một hạt ánh sáng đến một máy dò bằng rất nhiều các con đường khả dĩ khác nhau. Khi có nhiều hạt, xác suất chuyển hóa thành mật độ của những hạt đến - nhiều hơn ở chỏm sáng và không có ở chỏm tối trong thí nghiệm khe đôi. Sự hiểu biết này về hành trạng cơ học lượng tử về cơ bản là phương pháp được sử dụng trong mọi ứng dụng thực tiễn của cơ học lượng tử. Đôi khi nó được mô tả như là phương pháp "shut up and calculate" (một cách diễn đạt được Richard Feynman tín nhiệm, nhưng có lẽ là sai) là một phản ứng có thể hiểu được đối với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa thần bí của những cách luận giải khác. Chẳng hạn, khi một nhà khoa học trong công nghiệp bắt đầu thiết kế một màn hình TV, đây là phương pháp mà ông ta sẽ dùng đến. Các electron rời sợi đèn nóng tại đây với xác suất này, tạo ra dòng điện này; chúng được gia tốc bởi từ trường kia, và lệch hướng đến vị trí kia trên màn hình. (Tuy nhiên, nếu người quản lý phòng thí nghiệm hỏi đến, rõ ràng tất nhiên là đường đi không tồn tại.) Bản thân Feynman đã sử dụng phương pháp này - hạt có xác suất dương - trong tác phẩm của ông về điện động lực học lượng tử, được mô tả trong cuốn sách hay và dễ hiểu "QED - The Strange Theory of Light and Matter". Điện động lực học lượng tử là một lý thuyết cực kỳ thành công, với những tiên đoán phù hợp với các quan sát thực nghiệm với một độ chính xác rất cao. Một kiểu thí nghiệm khe đôi khác đã được tiến hành mới đây bởi nhà vật lý Shahriar Afshar, ở Rowan và đại học Harvard. Kết quả từ những thí nghiệm này, được xuất bản trên web, trực tiếp mâu thuẫn với nguyên lý bổ sung của Bohr. Nguyên lý bổ sung này khẳng định rằng không thể quan sát được đồng thời hành trạng sóng và hạt. Nhưng kết quả của Afshar lại đề xuất ngược lại. Thí nghiệm của ông là chủ đề của một cuộc thảo luận chi tiết trên weblog http://irims.org/blog/index.php/questions (một ví dụ tốt về việc làm cách nào internet có thể mở rộng thảo luận những kết quả khoa học mới ra với đông đảo khan giả, trái lại với cái lối xem xét giấu diếm của những tập san khoa học truyền thống). Bản sao của bài báo mô tả một số trong thí nghiệm của ông có ở http://irims.bluemirror.net/quant-ph/030503/ . Trái lại với thí nghiệm tư tưởng của Heisenberg về việc làm thế nào dò ra khe mà hạt đã đi qua, Afshar sử dụng một thấu kính và các bộ tách sóng quang đặt sau các vân giao thoa để quan sát các photon đi qua khe. Trong thí nghiệm photon đơn của ông (được mô tả bằng miệng trên web, nhưng kết quả từ đó thì vẫn chưa có rộng rãi ra công chúng) một chớp sáng tại vị trí của hình ảnh của một khe cho thấy rõ ràng rằng photon đã đi qua khe đó. Photon là cục bộ tại khe đó là cư xử như là một hạt. Theo như nguyên lý bổ sung của Bohr, một vân giao thoa - hành trạng sóng hạt - khi đó sẽ không thể nào được quan sát thấy. Afshar kiểm tra để xem liệu giao thoa có xảy ra hay không khi đặt các sợi dây mỏng vào những vị trí mà trước đó là các phần tối của vân giao thoa. Thậm chí khi ông quan sát thấy các photon đi xuyên qua khe, ông có thể chỉ ra rằng các dây đó vẫn ở trong vùng tối của vân giao thoa; photon quan sát được cư xử như vừa là một sóng và vừa là một hạt. Những kết quả của tất cả các thí nghiệm mà Afshar tiến hành vẫn chưa được công bố công khai, và những thí nghiệm của ông cũng chưa hề được ai khác thực hiện lại, đó sẽ là một sự kiểm tra quan trọng về tính chính xác của chúng. Nhưng nếu như Afshar đúng, thì nguyên lý bổ sung của Bohr sẽ chết.
  14. Có một bài cũng khá hay tại http://www.marxist.com/khung-hoang-trong-vu-tru-hoc.htm Khủng hoảng trong vũ trụ học Đối với cả thường dân và các nhà khoa học những bức ảnh chụp được bởi các dụng cụ thiên văn hiện đại đã gợi lên một bức tranh tự nhiên tuyệt đẹp đáng kinh ngạc đến mức nào. Cái ngay lập tức đang thu hút sự chú ý là những mẫu hình chuyển động, những mẫu hình tương tự một cách ngạc nhiên với những mẫu hình thấy được ở trên Trái đất, nhưng ở thang khoảng cách vũ trụ. Những đám mây khí và bụi khổng lồ xoáy tít cuộn mình xuyên qua những ngôi sao và thiên hà. Những cuộn khí nóng nổ tung từ những gì còn lại của một vì sao. Ở mọi nơi trong vũ trụ, từ hệ mặt trời của chúng ta cho đến những thiên hà xa xăm nhất, chúng ta thấy được bằng chứng về sự biến đổi và vận động. Điều gì đang diễn ra ở đây? Đâu là nguyên nhân? Câu trả lời chuẩn được các nhà vũ trụ học đưa ra là sự vận động của các vì sao và thiên hà chúng ta thấy hiện giờ là kết quả của một vụ nổ khổng lồ diễn ra cách nay 14 tỷ năm. Đây là lý thuyết Vụ nổ lớn về nguồn gốc của vũ trụ. Nhưng một trận lũ các thông tin gần đây từ những chiếc kính viễn vọng trên mặt đất và ngoài không gian mới đã dẫn nhiều nhà khoa học đến chỗ nghi vấn lý thuyết này, "Mô hình chuẩn" của vũ trụ học. Một dãy các quan sát tổng thể gần đây, về cấu trúc thiên hà, tuổi của các vì sao và thiên hà, bức xạ phông, tỷ lệ những nguyên tố khác nhau trong vũ trụ, dường như đối lập lại với những tiên đoán của lý thuyết Vụ nổ lớn. Ngày càng nhiều các nhà khoa học tin rằng có một lỗi nghiêm trọng trong lý thuyết này và ngày càng có cảm giác rằng lĩnh vực này của khoa học đang lâm vào khủng hoảng. Vào mùa hè, ở Monção Bồ Đào Nha, một nhóm các nhà thiên văn và vật lý đã gặp nhau để thảo luận về tình hình này và để nhìn ra những vấn đề khác. Cuộc gặp diễn ra dưới nhan đề "Khủng hoảng trong Vũ trụ học" và là sáng kiến của "nhóm vũ trụ học lập dị". Đây là một nhóm các nhà khoa học gồm có cả nhà vật lý plasma Eric Lerner, tác giả cuốn sách Vụ nổ lớn chưa bao giờ diễn ra (1). Năm ngoái, nhóm này đã xuất bản một lá thư ngỏ trong tạp chí Khoa học mới đặt nghi vấn về những ý tưởng nền tảng của Vụ nổ lớn, và cũng chỉ ra những hạn chế mà các quỹ đang đặt vào trong nghiên cứu về những vấn đề khác (2) Hội nghị ở Bồ Đào Nha là kết quả thực tiễn của cuộc thảo luận trong các nhóm khoa học diễn ra sau khi xuất bản lá thư. Trong Lý tính trong sự nổi dậy (3), Alan Woods và Ted Grant cũng đã hướng đến những mâu thuẫn về mặt khoa học và triết học trong lý thuyết Vụ nổ lớn. Mọi bằng chứng xuất hiện kể từ đó, và cụ thể là những quan sát gần đây nhất, xác nhận sự phân tích của họ - rằng ý tưởng về Vụ nổ lớn đã bị rạn nứt, không tương hợp với quan điểm duy vật và biện chứng về vũ trụ, và rằng rốt cuộc những người ủng hộ nó sẽ bị buộc phải chấp nhận rằng nó không thể giải thích được những sự thực đã biết. Bức xạ phông vi ba và lạm phát Một trong những điều được cho là thành công của thuyết Vụ nổ lớn là những giải thích của nó về "bức xạ phông vi ba vũ trụ", được quan sát thấy lần đầu tiên vào năm 1964. Đây là một tín hiệu radio biên độ thấp tại tần số tương tự như tần số được sử dụng trong một lò vi sóng, được thấy theo mọi hướng trong không gian. Những người ủng hộ Vụ nổ lớn nói rằng đây là năng lượng còn lại từ Vụ nổ lớn. Sự thực thì khi bức xạ phông được phát hiện ra lần đầu tiên nó không tương hợp với phiên bản thuyết Vụ nổ lớn tại thời điểm đó. Lý thuyết này không thể giải thích được tại sao bức xạ này lại rất đồng nhất qua khắp các vùng trời, so với tính lổn nhổn của vật chất trong vũ trụ, tụ họp lại thành những đám mây bụi và khí, các thiên hà và các vì sao. Nhưng những nhà lý thuyết Vụ nổ lớn trong lịch sử của thuyết đã có vài lần bị buộc phải điều chỉnh lại ý tưởng của họ khi chúng bị mâu thuẫn với những chứng cứ. Trong trường hợp này, để giải thích tính đồng nhất của bức xạ phông, thì cần phải phát minh ra một ý tưởng mới về sự lạm phát. Nó được mô tả như sau trích từ mục trong Wikipedia về chủ đề này: "Lạm phát vũ trụ là một ý tưởng, lần đầu tiên được Alan Guth đề xuất vào năm 1981, rằng vũ trụ lúc mới sinh trải qua một pha giãn nở theo hàm số mũ (thời kỳ lạm phát) được điều chỉnh bởi một mật độ năng lượng chân không áp lực âm... Như là một hệ quả trực tiếp từ vụ giãn nở này, tất cả vũ trụ quan sát được có nguồn gốc từ một vùng nhỏ có quan hệ nhân quả. Sự dao động lượng tử trong vùng cực nhỏ này, khuếch đại lên kích cỡ vũ trụ, sau đó trở thành hạt giống cho sự tăng trưởng về cấu trúc của vũ trụ. Hạt chịu trách nhiệm cho sự lạm phát này thường được gọi là inflaton." Điều này mang ý nghĩa một nỗ lực nghiêm túc để giải thích cho những câu hỏi nền tảng về nguồn gốc của vũ trụ, nhưng không thể nào đi qua cái lối như lối này một cách nghiêm túc được. Bức xạ phông là bằng phẳng, vì vậy trước tiên vũ trụ phải giãn nở rất nhanh và rất êm, được điều chỉnh bởi một "mật độ năng lượng chân không áp lực âm", nhưng các thiên hà lại lổn nhổn, do đó mọi thứ chậm lại để cho vật chất co cụm lại với nhau - nhưng tình cờ thay, như là kết quả của "những dao động lượng tử" theo một cách nào đó trở nên khuếch trương thành vũ trụ mà chúng ta biết ngày nay. Tất cả những điều này được trung chuyển bởi "inflaton" - một hạt chưa bao giờ quan sát thấy (nhưng có lẽ chúng ta quá muộn màng và bỏ lỡ nó mất rồi). Một tác gia khoa học viễn tưởng cũng không thể làm tốt hơn thế được. (4) Dù sao, lạm phát vũ trụ cũng đã được chấp nhận bởi thuyết Vụ nổ lớn. Nó bảo vệ cho lý thuyết này bằng cách cho phép những tiên đoán của nó về bức xạ vũ trụ được trơn tru phù hợp với quan sát. Phần lớn những gì được phát triển trong lý thuyết này kể từ đó đều dựa trên "mô hình lạm phát", và phiên bản hiện nay của Vụ nổ lớn phụ thuộc một cách mật thiết vào ý tưởng này. Vào năm 2003 kết quả đã có do bởi một vệ tinh mới, Tàu không người lái dò tìm sóng vi ba đẳng hướng Wilkinson (WMAP), nó cho thấy bức xạ vũ trụ một cách chi tiết hơn trước kia. Vào lúc đầu, và một lần nữa trong tinh thần của vũ trụ học hiện đại, những kết quả mới được mô tả như là sự thành công cho thuyết Vụ nổ lớn và "một sự xác nhận hoàn toàn thuyết lạm phát". Tuy nhiên sự phân tích sau đó chỉ ra điều ngược lại. Một trong những tiên đoán từ thuyết lạm phát là bức xạ phông sẽ bằng phẳng chứ không có những dao động ngẫu nhiên nhỏ. Tiên đoán này đã được viết thành sách, và chống đỡ cho mọi đề xuất trọng yếu của thuyết. Tuy nhiên, phân tích kỹ những kết quả từ WMAP cho thấy rằng bức xạ này không bằng phẳng. Glen Starkman trình bày kết quả trước hội nghị Bồ Đào Nha chỉ ra rằng không chỉ những dao động khác với kết quả tiên đoán của thuyết Vụ nổ lớn mà chúng còn liên quan với hình học của hệ mặt trời. Thay cho là thuộc về nguồn gốc vũ trụ - năng lượng còn lại từ Vụ nổ lớn - dường như thích hợp hơn là bức xạ đó là ánh sáng và sóng radio từ các vì sao bị phân tán ra bởi các đám mây bụi và khí trong không gian, tạo nên một trong các bức xạ bắt nhịp với cấu trúc của hệ mặt trời và thiên hà của chúng ta. Nhưng khuynh hướng đi tìm kiếm những lời giải thích trong cái lý thuyết mờ mịt tối tăm đã ăn sâu vào trong vũ trụ học hiện đại. Một weblog vật lý học thiên thể thảo luận kết quả của WMAP có chứa những đoạn sau: "tôi đề xuất một lời giải thích dưới dạng không-thời gian đa diện... Xem bài của tôi "Những dao động trong bức xạ phông vi ba như là một sự ủng hộ cho khái niệm về không thời gian đa diện". [Matti Pitkanen] "Liệu điều này có thể được giải thích bởi sự phân bố không đồng nhất khối lượng trong vũ trụ không? Điều gì sẽ xảy ra nếu vật chất tối được giả định đều nằm bên trong một số những hố đen bị che dấu đâu đó, có thể nào các hố đen đó ảnh hưởng đến những photon phông vĩ ba vũ trụ theo cái cách tạo ra những dị thường như vậy?" [Artem Khodush] Cuộc thảo luận đó khép lại với những lời như sau: "Đây là vấn đề với việc dạy và quảng cáo cho những điều kỳ quặc. Các sinh viên bắt đầu suy nghĩ về những kịch bản lập dị (tức là không thực tế một cách ngớ ngẩn) thay vì trung thành với vật lý học bình thường. Vấn đề là dữ liệu ngụ ý đến một sự đóng góp địa phương chưa được giải thích vào cái phông vi ba đó, sau đó thì C trong CMB [Phông viba vũ trụ] là không thích hợp về mặt thực tiễn, Vụ nổ lớn rõ ràng là sai lầm, và lạm phát là một cái tẩu mơ mộng của con nghiện." [D R Lunsford] Sự giãn nở và hiệu ứng dịch chuyển đỏ Những vấn đề xa hơn đã xuất hiện đối với thuyết Vụ nổ lớn khi nó giả định rằng vũ trụ đang giãn nở như là một kết quả của vụ nổ khởi đầu của thời gian. Năm 1929, Edward Hubble lần đầu tiên đã chú ý đến hành trạng lạ lùng và không được mong đợi trong ánh sáng đến từ các vật thể xa xôi mà ông giải thích như là bằng chứng cho sự giãn nở của vũ trụ. Edward Hubble thấy những tập hợp màu xác định trong ánh sáng mà ông có thể nhận ra là thuộc về những nguyên tố đặc biệt. (khí natri nóng, chẳng hạn, luôn tạo ra ánh sáng vàng, như đèn đường, và những chất khác luôn phát ra hoặc hấp thụ các màu tương ứng với tính chất của các chất đó.) Nhưng Hubble cũng ghi nhận thấy rằng các màu đó đã bị dịch chuyển đi so với vị trí ban đầu của chúng, hướng về bước sóng dài hơn tới màu đỏ nằm ở cuối dãy quang phổ ánh sáng. Thậm chí làm khó xử hơn, lượng dịch chuyển đó lớn hơn đối với các thiên hà ở xa hơn, đánh giá khoảng cách dựa theo độ sáng của thiên hà đó. Hubble phỏng đoán rằng dịch chuyển đỏ của màu sắc là do bởi sóng ánh sáng từ các thiên hà bị căng ra khi di chuyển đến trái đất. Một hiệu ứng tương tự - hiệu ứng Doppler - xuất hiện khi một nguồn âm chuyển động; một chiếc xe lửa đang chạy tạo ra một âm lên khi nó tiến lại gần và một âm xuống khi nó đi ra xa và làm giãn sóng âm. Nhưng sự giải thích này về dịch chuyển đỏ không chỉ có nghĩa là các thiên hà đang di chuyển ra xa, mà là thiên hà xa hơn thì đang chuyển động với vật tốc lớn hơn. Các thiên hà giống như là các điểm trên bề mặt của một trái banh đang căng - vũ trụ đang giãn nở. Đây là quan sát chính dẫn đến ý tưởng về Vụ nổ lớn. Trong chuyển động của các thiên hà, những người ủng hộ Vụ nổ lớn nói, chúng ta thấy hậu quả của một vụ nổ vĩ đại. Vật chất đã từng một lần tập trung lại chỉ một điểm, và hiện nay đang ào ào tuôn ra từ chỗ vụ nổ xuất hiện. Lời giải thích này của dịch chuyển đỏ Hubble dưới dạng sự giãn nở của vũ trụ đã trở thành một trong những hòn đá tảng nâng đỡ thuyết Vụ nổ lớn. Eric Lerner đã trình bày một bài báo ở hội nghị Bồ Đào Nha thách thức nghiêm trọng quan điểm này. Ông đã dùng các hình ảnh, đủ khéo từ kính thiên văn không gian Hubble, để khảo sát độ sáng bề mặt của những thiên hà xa nhất từng được biết đến. Thuyết Vụ nổ lớn tiên đoán về việc độ sáng bề mặt của một vật thể sẽ thay đổi như thế nào với khoảng cách khác nhau từ hành trạng được mong đợi trong một vũ trụ không giãn nở. Kết quả của ông cho thấy rằng những tiên đoán của Vụ nổ lớn là sai một cách bất ngờ - những thiên hà xa có độ sáng gấp hàng trăm lần so với đề xuất của thuyết Vụ nổ lớn: "Dữ liệu đã chỉ ra rõ ràng rằng vũ trụ không đang giãn nở, và dịch chuyển đỏ của ánh sáng hẳn phải là do một nguyên nhân khác, có lẽ trong tính chất của bản thân ánh sáng. Điều này cũng có nghĩa là vũ trụ mà chúng ta có thể thấy là không bị giới hạn trong không gian và thời gian - những thiên hà xa nhất chúng ta thấy ngày nay là 70 tỉ năm tuổi, nhiều hơn số tuổi giả định của Vụ nổ lớn, và chúng ta sẽ có thể thấy những thiên hà già và xa hơn nữa với thế hệ kính thiên văn tương lai." Những ủng hộ xa hơn cho quan điểm này được trình bày trong một bài báo của Thomas Andrews. Ông nhìn vào những ước lượng khoảng cách xuất phát từ độ sáng tương đối của hai loại vật thể: siêu tân tinh và thiên hà sáng nhất trong cụm thiên hà. Ông đã chỉ ra rằng những ước lượng từ siêu tân tinh mâu thuẫn với những ước lượng từ các thiên hà nếu vũ trụ được thừa nhận là đang giãn nở. Nhưng khi các khoảng cách được tính toán xác nhận rằng vũ trụ không đang giãn nở, thì không thấy sự khác biệt giữa hai tập hợp các ước lượng khoảng cách. Tuổi của vũ trụ Thuyết Vu nổ lớn gặp phải một trong những khó khăn lớn nhất do nó giả định là có một "khởi điểm của thời gian", một thời gian khi vật chất và chuyển động xuất hiện trong vũ trụ. Tuy nhiên một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng đơn giản không có đủ thời gian kể từ Vụ nổ lớn cho việc hình thành những cấu trúc vĩ mô được quan sát thấy trong các cụm thiên hà xa xôi. Francesco Sylosis-Labini đã giới thiệu kết quả từ một nghiên cứu gần đây phát hiện thấy cấu trúc trong các cụm thiên hà có kích cỡ lớn tới 210 triệu năm ánh sáng; do vận tốc của thiên hà chỉ là 1/1500 vận tốc của ánh sáng nên không thể nào cấu trúc loại này có thể được tạo thành với với từng ấy thời gian kể từ Vụ nổ lớn. Nghiên cứu khác sử dụng mô hình máy tính đã cho thấy là ngay cả với giả định thuận lợi nhất thì các cấu trúc vĩ mô quan sát được sẽ cần thời gian ba đến sáu lần dài hơn để tạo thành hơn là thời gian được cho là đã trôi qua kể từ Vụ nổ lớn. Tương tự, các thiên hà riêng lẻ được quan sát thấy còn già hơn cả Vụ nổ lớn. Tuổi của một thiên hà có thể được ước tính từ màu sắc của ánh sáng nó phát ra; ngôi sao già và lạnh hơn tạo nên nhiều ánh sáng đỏ hơn những sao trẻ. Những thiên hà xa xôi, dựa theo màu sắc ánh sáng do những ngôi sao của nó phát ra, thì thấy rằng chúng có trước Vụ nổ lớn cỡ 1 tỉ năm. Thuyết Vụ nổ lớn luôn gặp phải những khó khăn dạng này trong việc hòa hợp giữa những quan sát về vũ trụ với sự tiên đoán của nó về tuổi của vũ trụ. "Vật chất tối" - chưa bao giờ được quan sát thấy, bất chấp những công cuộc nghiên cứu vật lý tốn kém trong vòng hai mươi năm nay - là một phát minh nhằm giải thích sự tạo thành của các thiên hà bởi sự suy sụp hấp dẫn, cho là mật độ vật chất cần thiết trong vũ trụ chỉ là 5% hoặc tương tự để làm cho điều này có thể xảy ra được trong thời gian kể từ Vụ nổ lớn. Nhưng khi người ta phát hiện ra là vũ trụ dường như đang giãn nở gia tốc thì cần thiết phải tức tốc phát minh ra "năng lượng tối", để bật đèn xanh cho các thiên hà giãn ra xa nhau sau khi vật chất tối hoàn thành cái công việc tạo lập của nó. Giờ đây, lại có đề nghị rằng những cấu trúc thiên hà ở thang khoảng cách lớn có thể thành hình nếu như năng lượng tối và vật chất tối được thừa nhận là cân bằng với nhau (mặc dù như vậy sẽ làm cho số tuổi của vũ trụ là 32 chứ không phải 14 tỉ năm - một chi tiết nhỏ.). Tuy nhiên Eric Lerner báo cáo rằng những nhà nghiên cứu chịu trách nhiệm về kết quả này "đồng ý rằng mô hình này không thực tế một chút nào cả". Vũ trụ học Plasma Các nhà thiên văn học và vũ trụ học đang trở nên ngày càng nhận ra được vai trò của plasma và điện từ học trong một dải các hiện tượng khác nhau của vũ trụ. Một trong những bài trình bày của Eric Lerner tại hội nghị Bồ Đào Nha là một bức họa tổng quan về vũ trụ học plasma, ý tưởng được phát triển ban đầu bởi nhà vật lý plasma Hannes Alfven. Plasma là khí nóng trở nên "bị ion hóa" - những electron tích điện âm tách ra khỏi các nguyên tử để lại các ion mang điện tích dương. Một thí dụ về plasma là arc của một cái mỏ hàn - các electron và ion tự do trong khí nóng giữa các điện cực cho phép một dòng electron chạy qua, tạo nên nhiệt, ánh sáng và các sóng radio có thể làm nhiễu các máy thu radio đặt gần. Có lẽ đến 99% vật chất trong vũ trụ được tin là tồn tại dưới dạng plasma, vừa ở trong các vì sao, vừa trong các đám mây khí khổng lồ giữa các vì sao và các thiên hà. Các nhà vũ trụ học plasma tin là các hiệu ứng điện từ từ plasma, thường bị ngó lơ bởi vũ trụ học truyền thống, có thể giải thích những hiệu ứng mà các nhà lý thuyết Vụ nổ lớn bị buộc phải phát minh ra các vật thể chưa bao giờ được thấy như vật chất tối hay năng lượng tối. Dòng điện trong plasma giữa các vì sao hay giữa các thiên hà có thể phát ra các lực từ mạnh như lực hấp dẫn, và đó là cái có thể giải thích sự tạo thành các thiên hà và cấu trúc mà không cần đến những thứ ngu xuẩn như vật chất tối hay năng lượng tối. Nhưng vũ trụ học truyền thống hiếm khi xem xét đến bất cứ thứ gì ngoài những tác động hấp dẫn. Một số người tham dự hội nghị có nhắc đến những hiệu ứng liên quan plasma trong những bài trình bày của họ trong cuộc thảo luận chung. Tuy nhiên, Donald Scott (5) đã chỉ ra trong bài báo của ông rằng các nhà vật lý học thiên thể dòng chính thống thường không có khả năng nhận ra những cơ sở của thuyết điện từ và rằng trong lĩnh vực này cần thiết phải hết sức cẩn thận để tránh cái khuynh hướng muốn phát minh ra những vật thể hư ảo để lấp vừa lý thuyết: "các nhà vật lý học thiên thể gần đây đã phát hiện (phát minh) ra những thực thể và lực mang tính giả thuyết với một tốc độ đang gia tăng. Họ đã làm vậy mà không bị trừng phạt bởi vì những thực thể đó là không thể sai lầm được - no in situ experiments are possible in remote space. Nhưng khi những quy luật đã được thẩm tra lại bởi thực nghiệm của khoa học điện không nhận được sự quan tâm hoặc bị hiểu sai thì đó là lúc hiện diện một thách thức - để bắt đầu một cuộc đối thoại giữa hai phe nhằm giải quyết mâu thuẫn." Một trong những mặt khác lạ của vũ trụ học plasma là nó tiên đoán sự phân bố fractal của vật chất trong vũ trụ. Fractal là các đối tượng có những hoa văn lập lại tại mọi thang khoảng cách từ bé đến lớn; một vài bài báo tại hội nghị đã thảo luận những hậu quả khả dĩ của hành trạng này. Một phân bố fractal ngụ ý đến những vùng không có vật chất, trống rỗng giữa các thiên hà và các cụm thiên hà, sẽ xuất hiện và tái xuất hiện lại ở mọi thang bậc khoảng cách. Do vũ trụ học plasma không cần đến giả định về tuổi của vũ trụ nên nó cũng không đòi hỏi giới hạn nào về thời gian cần thiết để tạo nên những cấu trúc lớn đến như vậy. Dark Matter Vật chất tối "Phần lớn khối lượng của vũ trụ được tin là tồn tại ở phần tối. Việc xác định bản chất của khối lượng ẩn này là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong vũ trụ học hiện đại. Khoảng 23% vũ trụ được cho là cấu tạo từ vật chất tối, và 73% được coi là chứa năng lượng tối, một thành phần khá xa lạ phân bố một cách rối rắm trong không gian nên khó có thể coi đó là các hạt thông thường được." [Wikipedia] Hầu hết mọi người khi dồn bản thân mình đến góc tường sẽ chấp nhận sai lầm của mình và từ bỏ con đường đó. Các nhà vũ trụ học truyền thống lại khác hoàn toàn và họ đi dỡ từng viên gạch của cái góc tường đó cho đến khi nó đổ sập xuống đầu họ. Đối mặt với những quan sát về chuyển động của các thiên hà, những chuyển động này không thể được giải thích bởi một mình hấp dẫn, thì dường như là hợp lý khi coi hiện tượng điện từ có thể chịu trách nhiệm về chuyển động này. Sau tất cả, từ khi khoa học bắt đầu đến giờ các nhà vật lý chỉ có thể tìm ra 4 loại lực mà thôi: lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân yếu và lực hạt nhân mạnh, hai lực sau cùng chỉ hoạt động ở những khoảng cách hạ nguyên tử cực kỳ nhỏ. Tuy nhiên, không may thay là có ít những người danh tiếng làm việc với điện từ học trong vật lý học cổ điển hơn là trong việc mô tả một số những hệ quả không mong muốn của thuyết tương đối chung, và thuyết tương đối chung thì lại chỉ làm việc với hấp dẫn. Vật chất được phát minh ra để chế tạo nên cái điều kiện hấp dẫn cho sự tạo thành của vũ trụ, và cũng để ngăn không cho các thiên hà hiện tồn rời xa nhau. Tốc độ quay của nhiều thiên hà là rất lớn so với những gì hấp dẫn tạo ra bởi vật chất nhìn thấy được để giữ chúng lại với nhau. Thay vì đi tìm một câu trả lời cho hiện tượng vật chất chưa biết này, như các nhà vũ trụ học plasma đã làm, những lý thuyết gia Vụ nổ lớn đã đi phát minh ra một dạng vật chất và năng lượng không nhìn thấy được, được cho là chiếm ưu thế trong vũ trụ, giải thích cho 95% hợp phần của vũ trụ. Không may là bất chấp những đóng góp to lớn của nó vào hấp dẫn, vật chất tối mặt khác lại "tương tác một cách yếu ớt" với vật chất thông thường, giải thích một cách yếu ớt cho việc không ghi nhận được sự có mặt của nó trong bất kỳ một cuộc thí nghiệm nào. Điều này đã không ngăn cản được các quỹ khoa học thay nhau lên kế hoạch và tiêu nhiều tiền hơn vào một cuộc tìm kiếm khó thành công loại vật chất vô hình này tạo ra thêm nhiều nghề nghiệp khoa học. Vật chất tối không quá tối đến nỗi "mất hút". Những nghiên cứu gần đây về bức xạ dưới đỏ từ các thiên hà đã tạo khả năng ước đoán được khối lượng của các ngôi sao trong các thiên hà đó. Những hiệu ứng hấp dẫn trong các thiên hà và các cụm thiên hà này để lại rất ít chỗ trống cho vật chất tối. Ở các thiên hà, vật chất nhìn thấy được có thể giải thích cho 2/3 hiệu ứng hấp dẫn quan sát được, mặc dù trong các cụm thiên hà thì lượng vật chất cần thiết nhìn thấy được ít hơn, có lẽ là vì nó bị che mờ bởi lượng lớn bụi và khí trong những hệ thống này. Phương pháp khoa học Có cả một phiên họp trong hội nghị làm việc với vấn đề các nhà vũ trụ học và khoa học nói chung nên làm như thế nào trong những đề tài chẳng hạn như vũ trụ học nơi mà họ đang cố gắng để hiểu được những vật thể ở rất xa và không thể tiếp cận được. Timothy Eastman đã chỉ ra những nguy hiểm vốn sẵn có trong phương pháp suy diễn có chung trong vũ trụ học và các phần khoa học khác, ở đó những câu trả lời được sút ra từ "những quy luật chung của vũ trụ" được thừa nhận là không cần có bằng chứng (và do đó có thể được làm cho vừa vặn với các sự kiện). Một trong những giải pháp khác ông đề nghị là "khai thác dữ liệu" dựa trên máy tính, ở đây máy tính được dùng để tìm ra các mô hình trong dữ liệu mà không cần phải viện đến một lý thuyết nào cả. Tính phổ biến của phương pháp suy diễn dựa trên sự thực là trong một số những vùng được hiểu biết khá rõ của khoa học có thể tổng kết lại những năm tháng làm việc khoa học trong một dạng thức trừu tượng và cực kỳ cô đọng, sửa dụng một số nhỏ các phát biểu toán học. Một ví dụ là những quy luật điện từ của Maxwell: Những ký hiệu trên biểu thị mối quan hệ giữa trường điện E, trường từ B, mật độ điện tích r và mật độ dòng điện j, cùng với những thay đổi của chúng trong không gian và thời gian, được biểu diễn bởi các toán tử ∇•, ∇ x ∂/∂t. Từ những phương trình này, câu chuyện bắt đầu, có thể sử dụng các quy luật tương ứng với những ký hiệu toán học này để suy ra tất cả những hiện tượng điện từ đã được biết đến. Đối với một nhà toán học hoặc nhà vật lý học điều này thật là một lời tuyên bố cực kỳ hấp dẫn, gần như là làm say đắm, trong đó mọi thứ xuất hiện thật hoàn chỉnh và chắc chắn và có thể lĩnh hội được mọi thứ, ít nhất là về phương diện điều kiện ban đầu thông qua việc áp dụng những quy luật logic và sự biểu diễn của chúng trong toán học. Không may thay các nhà khoa học hiện đại có khuynh hướng quên mất rằng phải mất rất nhiều năm lao động trải dài bởi rất nhiều con người để đạt đến cái điểm nhận thức hiện nay của chúng ta về điện từ, và cũng tương tự như thế trong những lĩnh vực khác của khoa học ở đó có thể xảy ra sự tổng quá hóa tương tự. Những phương trình Maxwell được mô tả như là những tiên đề - những tuyên bố không cần phải chứng minh hay luận giải. Nhưng đây là chỉ cái nhìn một chiều, bắt đầu với cái kết quả chung cuộc của có lẽ hàng ngàn năm của sự phát triển của con người và khoa học và bỏ qua những gì đã xảy ra như thể đó là sự lầm lẫn. Để đạt đến được cái điểm ở đó thậm chí ý tưởng về một trường điện, hay là sự biểu diễn toán học của sự thay đổi trong không gian và thời gian, được thiết lập, khám phá, phát triển, ứng dụng, kiểm nghiệm và cho thấy là hữu dụng cũng cần đến những đóng góp của không biết bao nhiêu là các nhà khoa học trải qua một thời kỳ lâu dài. 4 phương trình làm nên phương trình Mawxell phân ly thành rất nhiều khái niệm toán học và vật lý học, có liên kết với và được hỗ trợ bởi những kết quả của một dãy tổng thể các hoạt động khoa học. Nếu chúng là tiên đề, nếu chúng là điểm để bắt đầu, tại sao lại cần tới 15 năm trải qua giáo dục hoặc nhiều hơn nữa, thêm cả một số năm để học chuyên sâu về toán học và vật lý, trước khi ai đó có thể hiểu và sử dụng được chúng? Điểm nhấn trong vật lý lý thuyết và vũ trụ học chính thống là dựa trên sự suy diễn từ các tiên đề, trên các tư tưởng thuần túy và logic. Thuyết Vụ nổ lớn, thiếu sự ủng hộ của quan sát, đã cho thấy những nguy hiểm vốn có trong phương pháp này. Cho đến giờ nó chính là phương pháp chiếm ưu thế trong vũ trụ học, được dạy và cổ xúy trong các trường đại học bởi vì nó đem lại cho những người rất thông minh một cơ hội để chứng tỏ sự sáng chói của họ thông qua việc xác nhận điều ngu xuẩn. Trước tiên là một điều khái quát sâu rộng cốt yếu, một tiên đề từ đó tất cả những cái khác sẽ được suy diễn ra. Sau đó là các vấn đề, sự sửa chữa, sự im lặng của đối thủ. Còn có một khó khăn hơn nữa. "Từ những quy luật này, mọi hiện tượng đã biết sẽ được suy ra.". Xem nào, cũng không hoàn toàn. Chỉ trong những trường hợp đơn giản nhất, đối với những hình học đơn giản nhất và một số nhỏ các đặc tính/các hạt/các hợp phần/các hoạt động (tốt nhất là không nhiều hơn hai). Sự khéo léo của các nhà vật lý thực tiễn nằm ở chỗ tìm ra được những cái gần đúng đủ tốt để, đan bện và đổi chiều các tư tưởng và toán học để cố gắng làm cho nó vừa với sự rắc rối. Tính xác thực của hầu hết các hiện tượng vật chất là chúng có nhiều đặc tính nối kết với nhau, tất cả chúng đều tương tác. Và ngày càng có nhiều nhà vật lý bắt đầu nhận thấy rằng chính sự tương tác còn quan trọng hơn nhiều so với những chi tiết của các quy luật vật lý. Sự quá độ xuất hiện được quyết định bởi bản thân sự phức tạp không cần quan tâm đến chi tiết của vật lý học; đây là lý do tại sao mô hình fractal có thể hoạt động ở nhiều thang khoảng cách và với những cơ cấu vật chất khác nhau. Những tiên đề vật lý và những sự suy diễn từ chúng không những trở nên không thỏa đáng, chúng còn không thích hợp. Nhiều quy luật chung xuất hiện - những quy luật biện chứng về chất và lượng, về sự thống nhất của các mặt đối lập và phủ định của phủ định. Một phương pháp thuần túy kinh nghiệm, ở đó không có nhu cầu về lý luận, thì cũng là phiến diện. Học hỏi từ thực nghiệm, tổng quát hóa những kinh nghiệm, và sau đó kiểm tra chúng trong những thí nghiệm mới là nguyên tắc cơ bản đối với sự phát triển của những tư tưởng khoa học cũng như là đối với sự phát triển của cá nhân. Các nhà khoa học thực hành, cụ thể là trong những khoa học mang tính quan trắc, chẳng hạn như vũ trụ học hay địa vật lý học, đang không ngừng rút ra những ý tưởng từ trong dữ liệu của họ, kiểm nghiệm những ý tưởng này bằng cách áp dụng chúng ngược lại với các dữ kiện, và chọn lọc hoặc thay đổi những ý tưởng của họ. Đây là phương pháp quy nạp và suy diễn một cách đông thời, không phải là cái này hoặc cái kia mà là cả hai. Đối với Eric Lerner vấn đề về phương pháp luận trong sự phát triển của các lý thuyết khoa học cũng quan trọng ngang với những chi tiết trong vật lý học. Trong một buổi phỏng vấn gần đây (6), ông bình luận rằng: "Bước đột phá trong cuộc cách mạng khoa học của Galileo và Kepler là khái niệm cho rằng những quy luật của vũ trụ, vật lý và khoa học về vũ trụ, cũng giống hệt nhưng khoa học mà chúng ta quan sát được ở đây trên trái đất". Các lý thuyết gia Vụ nổ lớn khẳng định, chẳng hạn, rằng "vào lúc bắt đầu (và không thể tránh được những sự biểu đạt mang tính kinh thánh theo kiểu này) tất cả mọi vật chất trong vũ trụ được tập trung vào một điểm duy nhất có mật độ vô hạn. Thật vậy, chúng ta không thể nói điều này là bất khả được, và có những khả năng khác có thể giải thích được sự vận động của các thiên hà, bức xạ phông vũ trụ, tỷ lệ của ánh sáng so với các nguyên tố có khối lượng trong vũ trụ, và những quan sát khác mà các lý thuyết gia Vụ nổ lớn khẳng định, một cách sai lầm, là giải thích được. Nếu mà khẳng định, một cách không có bằng cớ gì và hoàn toàn mâu thuẫn với những gì quan sát được cho đến nay, rằng vật chất bị nén vào một điểm, thì sẽ tốt hơn khi nói rằng "nếu chúng ta đẩy tình thế đến giới hạn của sự hấp dẫn khổng lồ chúng ta sẽ không biết được chuyện gì xảy ra, nhưng không có vẻ như là vật chất sẽ xuất hiện hoặc biến mất, bởi vì chúng ta chưa thấy điều đó bao giờ." Tri thức có thể được thâu nhận bằng nhiều cách; các thí nghiệm trong phòng có thể cho phép chúng ta hiểu được tự nhiên tốt hơn và tự nhiên có thể trao cho chúng ta những đầu mối về những điều chúng ta cần chú ý trong những thí nghiệm đó. Chúng ta có thể tìm hiểu tư nhiên bằng cách quan sát nó trực tiếp, hoặc bằng cách ngoại suy từ những gì đã biết ra cái chưa biết. Eric Lerner nói "Mối quan hệ giữa khoa học trong phòng thí nghiệm và khoa học trong vũ trụ chạy theo cả hai hướng. Đã lắm khi những điều quan trọng về tự nhiên đã được phát hiện nhờ quan sát các vật trong không gian." Đây là kinh nghiệm của cá nhân ông khi làm việc trong lĩnh lực vật lý plasma, trong đó những tiến trình plasma ông nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của mình là bản đối chiếu với những tiến trình thấy được ở các thiên hà. Ông tin rằng một vấn đề cốt yếu đối với thuyết Vụ nổ lớn là giả định về một hiệu ứng - sự bùng nổ vật chất và năng lượng vào trong vũ trụ - mà không cần có nguyên do. Đối với ông đây là điều phản lại với phương pháp khoa học, cái phương pháp luôn đi tìm những nguyên do đằng sau các hiệu ứng. Sức mạnh của khoa học nằm ở khả năng khái quát hóa từ những điều quan sát được và tạo ra các tiên đoán của nó - ở khả năng phát triển lý luận thông qua việc nghiên cứu những tiến trình đang hoạt động và sau đó dùng lý luận này để dẫn đường cho hành động. Thần thoại về sự sáng tạo Một bức tranh sâu hơn về cuộc khủng hoảng cơ bản tồn tại hiện nay đối với lý thuyết Vụ nổ lớn được Mike Disney đưa ra ở hội nghị Bồ Đào Nha trong một bài báo nhân đề "Sự vô nghĩa của vũ trụ học đương thời". Ông đã chỉ ra rằng các lý thuyết hiện thời dựa trên một số lượng nhỏ đáng kinh ngạc những quan sát thực sự độc lập - ông tin là cùng lắm chỉ có năm quan sát độc lập hơn những tham số trong các lý thuyết này. Theo ý ông: "Có thể biện luận là có ít những cái có ý nghĩa về mặt thống kê phù hợp tốt gây ấn tượng đối với các nhà vũ trụ học chính thống... Cái tính huống nguy hiểm tương tự này cũng tồn tại trong toàn bộ cái lĩnh vực vũ trụ học hiện đại khi mà số lượng những tham số mới đã nở ra để xem xét dữ liệu." Trong quá khứ ông đã từng cảnh báo về mối nguy hiểm trong tình thế này: "Phần yếu nhất trong vũ trụ học là sự tương đương của nó với tôn giáo. Cả hai đều làm việc với những vấn đề to lớn nhưng không thể trả lời. Những khán giả say sưa, những phương tiện quảng cáo, những cửa hiệu sách lớn, những thầy tu xúi dục và những kẻ lừa lọc, cũng như những kẻ cả tin, không giống như những chủ đề khác trong khoa học." (7) Một sự tương tự đáng lo lắng có thể rút ra từ câu chuyện Vụ nổ lớn và thần thoại về sự sáng thế của đạo Cơ Đốc. Không có đủ thẩm quyền để tuyên bố, như những người ủng hộ thuyết Vụ nổ lớn vẫn làm, rằng không thể nào nghiên cứu được những gì đã xảy ra trước Vụ nổ lớn - rằng trước đó thì không có thời gian, và việc nghiên cứu một cách khoa học, giống như những thứ khác, phải dừng lại tại điểm đó. Chúng ta chỉ phải hỏi cái gì đã khởi xướng nên vụ nổ tại điểm bắt đầu của thời gian để thấy rằng chúng ta rồi lại phải bị lôi ngược về cái yêu cầu phải có một xung lực ban đầu - bàn tay của Chúa. Trong vật lý học thiên thể cái ý tưởng cũ rích này đã đi tới thời hiện đại trong một bộ cánh mới, nhưng dưới cái lớp vỏ đó thì vẫn là cái nội dung xa xưa. Chúng ta được bảo rằng "những dao động lượng tử", được ủng hộ bởi hệ quả của nguyên lý bất định của Heisenberg, tạo ra năng lượng để cho xuất hiện cái thời kỳ ngắn ngủi này, và nổ bung ra vũ trụ. Nguyên lý bất định của Heisenberg là lời tuyên bố về việc chúng ta có thể đồng thời đo được chính xác tới mức nào lượng của các cặp chẳng hạn như là động lượng và vị trí hoặc thời gian và năng lượng. Cho đến giờ đó là tình trạng mò mẫm của tri thức, là những khó khăn của việc quan sát, và những hiểu biết bị giới hạn của chúng ta hiện nay về tính đối ngẫu sóng hạt, chứ không có nghĩa đó là sự mơ hồ trong thực tại vật chất. Dao động lượng tử là một cách luận giải thần bí và duy tâm của nguyên lý bất định Heisenberg được lấy ra từ cau chữ và một nội dung vật chất rỗng tuếch, theo như truyển thống của cách luận giải Copenhagen về cơ học lượng tử. (8) Đó là một sự bảo vệ yếu ớt dựa vào chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa thần bí của tôn giáo khi mà viện đến cách luận giải duy tâm và thần bí về cơ học lượng tử. Khoa học đang ngày càng cho phép chúng ta có thể tìm ra những câu trả lời cho các hiện tượng tự nhiên, cả lịch sử và tương lai của vũ trụ, trong các tiến trình vật chất. Chúa không tồn tại, không có linh hồn trong máy móc, và chúng ta cần phải tìm Chúa không phải ở thiên đường mà là ở tại Trái đất này, trong thực tiễn tồn tại của nhân loại. Sự sinh thành ra loài người là một quá trình đau đớn và lâu dài cả về thể xác và tinh thần. Những vết sẹp chỉ ra trong thời kỳ lâu dài sinh thành đó đã mất đi cái thiên đường, nơi mà theo nghĩa đen "tất cả là một". Trong xã hội có giai cấp sự thực cơ bản này của điều kiện của con người có công dụng làm phương tiện hỗ trợ cho những người cai trị, chúa đất phong kiến người xuất hiện với người tư tế mà ông ta đã mướn lẽo đẽo theo sau, Thủ tướng và chủ tịch nước bào chữa cho chính sách khủng bố của họ bằng việc cầu khẩn đến một quyền lực cao hơn, và khi đó đại biểu cho ý chí của Chúa trong việc gieo rắc nối tiếp nhau hàng tấn chất nổ. Đối với các nhà khoa học thuộc nhóm vũ trụ học lập dị lời giải thích cho những gì xuất hiện trong quá khứ nằm ở chính những tiến trình mà chúng ta đang thấy, trong nhiều trường hợp chúng ta có thể khám phá trong những thí nghiệm trong phòng. Không có kết quả mà thiếu đi nguyên nhân - một chuỗi vô hạn các nguyên nhân và kết quả dẫn từ đây về với quá khứ. Và đối với các nhà vũ trụ học plasma nguồn gốc của vận động là ở bản thân vật chất, như được mô tả bởi những quy luật của điện từ học. Nhóm khoa học này đang đấu tranh để thiết lập nên một phương pháp về cơ bản là duy vật và biện chứng đối với những tư tưởng về không gian, thời gian và nguồn gốc của vũ trụ. Và họ làm như vậy bởi vì đó là phương pháp duy nhất thích hợp với các chứng cứ. Chẳng hạn, Eric Lerner nói: "Vũ trụ không bao giờ có một khởi nguyên trong thời gian nhưng nó tiến hóa... Không có một bằng chứng nào cho thấy vũ trụ là hữu hạn trong không gian và thời gian, nó quay về đúng với những gì mà Giordano Bruno đã nói và bị thiêu sống cách nay 400 năm." (9) Lượng vật chất và vận động được bảo toàn trong toàn bộ các tiến trình là một phần cốt lõi trong tri thức của chúng ta về thế giới vật chất. Và nếu vật chất và vận động tồn tại hiện nay thì chúng luôn tồn tại và sẽ luôn tồn tại - không chỉ đơn giản đối với cái thời gian đã ghi nhận được và còn cả trước và sau cái thời gian đó nữa, dù ta có ghi nhận hay không cũng vậy. Với con người để hiểu được cái vô hạn trừu tượng hóa là rất khó khi mà nó cách quá xa kinh nghiệm của chúng ta và dường như có rất ít ý nghĩa thực tế. Cho đến giờ sự tồn tại hiện nay của vật chất và năng lượng là bằng chứng rõ ràng nhất mà chúng ta có rằng chúng luôn tồn tại và sẽ luôn là như thế. Nếu chúng ta bắt đầu với vật lý mà chúng ta đã biết, thì chúng ta phải kết luận là vũ trụ không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm kết thúc, và thời gian là vô tận. Nhưng vũ trụ không đứng yên. Tại mọi nơi, mọi thang bậc khoảng cách, từ rất nhỏ đến lớn vô cùng, đều có sự biến đổi, vận động và phát triển. Các thiên hà, các cụm thiên hà, tiến hóa và biến đổi. Các ngôi sao và hành tinh được sinh ra, lớn lên và chết đi. Các đế chế xuất hiện và rơi vào hậu đài. Những cá nhân lớn lên, học tập, làm việc và lại biến mất. Nội trong mỗi người cũng có đến hàng tỷ những tế bào tương tác, lớn lên, chết đi và thay mới. Và cứ thế đến cả những thang bậc nhỏ nhất và hơn thế nữa. Trong chừng mực chúng ta biết, trong chừng mực chúng ta có thể nói, trong cái góc nhỏ nhắn này của vũ trụ thì đầu óc của con người là sản phẩm cao nhất của quá trình này.
  15. Các Thiên hà biến dạng xác nhận gia tốc giãn nở của Vũ Trụ (Deformed Galaxies Confirm Universe's Acceleration) Ý tưởng cho rằng vũ trụ sinh ra từ vụ nổ Big Bang và sẽ chết đi vì một cú sụp lớn (Big Crunch) ít ra cũng làm người ta yên tâm về cái gì đó hữu hạn, như số phận con người. Nhưng gần đây, các nhà thiên văn lại có bằng chứng cho thấy, Vũ Trụ sẽ không sụp đổ, mà cứ lan rộng ra mãi. Thủ phạm chính của hiện tượng này là Năng Lượng Tối. Trong hình trên ,Các nhà Nghiên cứu đã tạo ra một bản đổ 3 chiều trong một khoảng không rộng lớn của Vũ trụ bằng cách tổ hợp những dữ liệu hiệu ứng thấu kính trọng lực (gravitational lensing) từ hơn nửa triệu Thiên Hà nằm rải rác lác đác trong vũ trụ theo khoảng cách tính từ Trái đất Năng lượng tối và Số phận Bất định của Vũ Trụ Theo các nhà thiên văn, Vũ Trụ chỉ có 5% vật chất thường, tức là có thể quan sát và đo đạc được. 95% còn lại thuộc loại vật chất "tối". Trong số vật chất tối có 33% tồn tại dưới dạng không nhìn thấy được (như các hố đen "Black Holes"), và 67% còn lại xuất hiện dưới dạng "năng lượng tối "Dark Energy" (theo thuyết tương đối, vật chất và năng lượng có thể hoán chuyển cho nhau). Nguồn năng lượng tối này trải đều trong vũ trụ, tác động ngược lại lực hấp dẫn, và đẩy các Thiên Hà xa rời nhau, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở. Các nhà nghiên cứu ở Đại học Washington (Mỹ) đưa ra giả định cho rằng, cách đây khoảng 5 tỷ năm - tức là 9 tỷ năm sau Big Bang - vũ trụ đã đạt đến độ lớn mà lực của năng lượng tối vượt lên lực hấp dẫn, khiến vũ trụ chỉ có thể giãn nở ra thêm chứ không co lại được nữa. Như vậy, một sự sụp đổ theo kiểu "Big Crunch" là điều không thể xảy ra. Vậy thì Vũ Trụ sẽ giãn nở đến đâu? Câu trả lời là, nó sẽ giãn nở mãi mãi, vì chưa hề có bằng chứng nào cho thấy là quá trình đó sẽ dừng lại. Sẽ không có một ngày tận thế nào cho Vũ trụ này. Đành rằng đã có một sự mở đầu là Big Bang, nhưng mãi mãi sẽ không có sự kết thúc! Số phận của vũ trụ là như vậy, cứ loang rộng ra, cứ trải năng lượng ra... nhưng không hề có mục đích gì, và cũng chẳng bao giờ dừng lại. Đó có phải là bí mật tận cùng của Vũ Trụ? Chưa ai trả lời được câu hỏi này, cũng như chưa ai hiểu gì về bản chất của "năng lượng tối" và "vật chất tối". Các nhà vật lý ở Washington đang cố gắng đặt những nền tảng đầu tiên cho việc nghiên cứu loại vật chất và năng lượng này. NASA - STSc Space.com -------------------------------------- Quasar Caught Building Future Home Galaxy Trong Vũ trụ, Việc khai sanh ra các Thiên Hà là một việc khá phức tạp, có một vấn đề nhỏ được đề cập đến là : Nằm tại trung tâm của hầu hết các Thiên Hà là những "Hố đen" - có phải những "Hố đen" đó được hình thành trước ? - hay là Vật chất trong Thiên Hà đã bồi đắp tích tụ chung quanh ở tâm trước, rồi sau đó tạo dựng "Hố đen" sau ? Những quan sát về Một Quasar có vị trí ở bên ngoài một Thiên Hà có tên HE0450-2958 cho thấy : Quasar này đang trợ giúp cho một Thiên Hà ở gần nó tạo dựng nên các Vì Sao, điều này đã cung cấp bằng chứng cho ý tưởng nói rằng : Những "Hố đen" siêu trọng có thể tạo dựng nên các Thiên Hà riêng của chúng (click vào hình bên dưới để xem lớn hơn) Quasar HE0450-2958 là một thực thể đơn lẻ, lạc lõng trong Vũ trụ : bình thường các siêu "Hố đen" cũng được hiểu như là những Quasar được hình thành tại tâm điểm của các Thiên Hà. Nhưng HE0450-2958 không có bất kỳ một galaxy nào nằm bên ngoài nó để "làm chủ" riêng nó. Đây là một khám phá mới lạ trong quy luật riêng của "Hố đen" khi quy luật riêng này đã được làm lại trong năm 2005. Lúc đó có một câu chuyện nguyên thủy về Quasar, gọi là : "Siêu "Hố đen" Rogue không có Thiên Hà " (Rogue Supermassive Black Hole Has No Galaxy) Việc tạo thành các Quasar vẫn còn là một bí ẩn, nhưng lý thuyết hiện tại gợi ý rằng : nó được hình thành từ những sợi mảnh khí Gas trong khoảng không giữa các Vì Sao, các sợi mảnh này được bồi dần lên xung quanh một tâm điểm hạt nhân. hoặc là có một cái gì đó chưa được biết, phun ra từ Thiên Hà Chủ (Host galaxy) do lực tương tác hấp dẫn mạnh với một Thiên hà khác đã tạo thành các Quasar đó Và một điều kỳ quặc khác về đối tượng Quasar này là : nó nằm ở vị trí lân cận và "bầu bạn" với một Thiên Hà gần nó, Thiên Hà này đang được nó trợ giúp tạo dựng nên các Vì sao! Thiên hà "bầu bạn" đó nằm trực tiếp trong đường ngắm của một trong hai tia phản lực Jet của Quasar phát ra (xem ảnh), và đang tạo dựng nên các Vì Sao với tốc độ điên cuồng. - Một nhóm các nhà Thiên văn đến từ Pháp, Đức, và Bỉ đã nghiên cứu Quasar và Thiên hà "bầu bạn" đó bằng cách sử dụng hệ thống kính viễn vọng rất lớn (viết tắt là VLT : Very Large Telescope) của Đài quan sát Thiên văn Nam Âu ESO (Europe Southern Observatory). Ngay từ đầu, Các nhà Thiên văn đã xăm soi, xem xét để tìm kiếm một Thiên hà chủ của Quasar này. Hiện tượng về một Quasar "trơ trụi" đã được ghi nhận trước kia, nhưng cứ mỗi lần thực hiện quan sát xa hơn, là lại tìm ra được một Thiên hà chủ (cho Quasar đó). luồng năng lượng từ các Quasar có thể làm mờ đi các Thiên hà yếu ớt ẩn sau các đám bụi, - Cho nên các nhà Thiên văn đã sử dụng hệ thống Giao thoa và tạo ảnh của VLT trong khoảng giữa của dải Hồng ngoại tuyến. - Những quan sát trong vùng Hồng ngoại Tuyến có thể dò ra các đám mây bụi đó không khó khăn gì. Chúng được tổ hợp với những hình ảnh mới nhất, thu được từ Viễn vọng kính không gian Hubble trong giải sóng cận Hồng ngoại Những quan sát về HE0450-2958, nằm cách Địa cầu 05 tỷ năm ánh sáng xác nhận rằng quả thực Quasar này không có một Thiên hà chủ nào ! năng lượng và vật chất thoát ra thành luồng từ những tia phản lực Jet của Quasar chỉ đúng ngay vào Thiên hà "bầu bạn" nằm gần bên. Kịch bản này đang làm gia tăng việc hình thành Sao trong Thiên hà. Một đống gồm 340 sao được hình thành trong 01 năm, gấp 100 lần so với các Thiên hà điển hình thông thường trong Vũ trụ. Quasar và Thiên hà đó đủ gần để rốt cục là chúng sex hòa quyện trộn lẫn vào nhau, cuối cùng là tạo cho Quasar một "tổ ấm" (home) David Elbaz thuộc bộ phận dịch vụ thiên văn và là tác giả dẫn dắt tờ báo xuất hiện trong mục "Thiên văn học và Vật lý Thiên thể" nói : "Câu hỏi "Quả trứng và Con gà" với Thiên hà và "Hố đen" cái nào có trước? là một trong những đề tài gây tranh cãi nhất hiện nay. Nghiên cứu của chúng tôi gợi ý rằng các "Siêu hố đen" có thể kích hoạt việc hình thành Sao, và việc xây dựng như vậy đang hình thành nên các Thiên hà chủ của chúng. Mối liên kết này cũng có thể giải thích tại sao các Thiên hà đăng cai làm chủ các "Siêu Hố đen" lại có nhiều Sao hơn" "Thông tin phản hồi về Quasar" có thể là một điều giải thích tiềm năng cho cách thức mà một số Thiên hà hình thành, và lẽ tự nhiên là việc nghiên cứu về những hệ thống thiên hà khác là cần thiết, để xác minh xem kịch bản này có phải là độc nhất vô nhị hay không, hay là nó là một đặc điểm chung trong Vũ trụ.
  16. Phát hiện dòng chảy tối bí ẩn trong vũ trụ Như thể bí ẩn về vật chất tối và năng lượng tối chưa gây đủ tranh cãi, mới đây người ta lại phát hiện ra thêm một câu hỏi gây đau đầu về vũ trụ. Các mảng vật chất trong vũ trụ dường như đang chuyển động với tốc độ rất cao theo một hướng đồng nhất mà không thể giải thích được bằng bất cứ lực trọng trường nào được biết đến trong vũ trụ. Các nhà thiên văn học gọi đó là hiện tượng “dòng chảy tối”. Theo các nhà nghiên cứu kết luận, thứ lôi kéo vật chất phải nằm bên ngoài khoảng vũ trụ quan sát được. Khi họ nói về khoảng không vũ trụ quan sát được, họ không có ý nói về khoảng thực khi nhìn bằng mắt hay thậm chí là bằng kính thiên văn tân tiến nhất. Trên thực tế, có tồn tại giới hạn cơ bản về khoảng không vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát được dù các phương tiện hỗ trợ quan sát có cao cấp đến mức nào. Vũ trụ được cho là hình thành cách đây 13,7 tỷ năm. Do đó ngay cả khi ánh sáng bắt đầu chiếu đến chúng ta ngay lập tức sau vụ nổ Big Bang thì quãng đường xa nhất mà nó có thể đi được là 13,7 tỷ năm ánh sáng. Có lẽ có các khoảng vũ trụ nằm ở phía xa (chúng ta không biết cả vũ trụ sẽ to lớn đến dường nào) nhưng chúng ta lại không thể nhìn xa bằng ánh sáng bởi ánh sáng có thể di chuyển trong khoảng thời gian bằng cả cuộc đời của vũ trụ. Chuyển động bí ẩn Các nhà khoa học phát hiện ra dòng chảy bằng cách nghiên cứu một vài cấu trúc lớn nhất trong vũ trụ: các cụm thiên hà khổng lồ. Chúng là khối kết tụ hàng ngàn thiên hà, cùng đám khí nóng phát ra tia X. Bằng cách quan sát sự tương tác của tia X với nền vi sóng của vũ trụ (CMB), hay chính là bức xạ tàn dư của vụ nổ Big Bang, các nhà khoa học có thể nghiên cứu được chuyển động của các cụm ngân hà. Tia X rải photon trên CMB, biến đổi nhiệt độ theo hiệu ứng có tên hiệu ứng động học Sunyaev-Zel'dovich (SZ). Trước đây người ta chưa thể quan sát được hiệu ứng này, nhưng một nhóm các nhà nghiên cứu do Alexander Kashlinsky chỉ đạo (nhà vật lý học thiên thể tại Trung tâm Goddard Space Flight – NASA) đã phát hiện ra nó khi họ nghiên cứu danh mục khổng lồ bao gồm 700 cụm thiên hà nằm xa tới 6 tỷ năm ánh sáng hay nằm ở quãng đường tương đương một nửa vũ trụ. Họ đã so sánh danh mục này với bản đồ CMB do vệ tinh Wilkinson Microwave Anisotropy Probe (WMAP) của NASA chụp được. Họ phát hiện ra rằng các cụm ngân hà di chuyển với tốc độ khoảng 2 triệu dặm một giờ (tương đương với 3,2 triệu kilomet một giờ) hướng về phía vùng trời nằm giữa chòm sao Centaurus và chòm sao Vela. Chuyển động này khác với sự mở rộng ra phía ngoài của vũ trụ (do lực có tên năng lượng tối thúc đẩy). Kashlinsky cho biết: “Chúng tôi nhận thấy có một vận tốc đáng kể, bên cạnh đó, vận tốc này không giảm đi theo quãng đường mà chúng tôi có thể đo được. Vật chất trong khoảng vũ trụ quan sát được không thể tạo ra dòng chảy đó”. Quả bong bóng bị bơm phồng Các nhà khoa học kết luận rằng thứ đang điều khiển chuyển động của các cụm ngân hà chắc chắn phải nằm bên ngoài khoảng vũ trụ đã được biết đến. Một giả thuyết có tên ‘sự bơm phồng’ cho rằng vũ trụ mà chúng thay nhìn thấy chỉ là một quả bong bong nhỏ trong không gian - thời gian, nó mở rộng nhanh chóng sau vụ nổ Big Bang. Có thể còn các khoảng không vũ trụ khác ngoài quả bong bóng này mà chúng ta không thể thấy được. Khí nóng trong các cụm ngân hà chuyển động (đốm trắng) làm thay đổi nhiệt độ vi sóng trong vũ trụ. Hàng trăm cụm phía xa dường như đang cùng chuyển động hướng về một khoảng trời (hình elip màu tím). (Ảnh: NASA/WMAP/A. Kashlinsky et al) Trong những khoảng vũ trụ đó, không gian thời gian có thể rất khác, và dường như không có sao hay thiên hà (sao và thiên hà chỉ được hình thành do khối lượng đậm đặc kết tụ trong quả bong bóng vũ trụ của chúng ta). Có thể không gian thời gian đó có chứa các cấu trúc khổng lồ lớn hơn bất cứ thứ gì trong vũ trụ của chúng ta. Các cấu trúc đó là cái mà mọi người nghi ngờ đang lôi kéo các cụm ngân hà gây nên dòng chảy tối. Trả lời phỏng vấn điện thoại, Kashlinsky cho biết: “Các cấu trúc gây ra chuyển động này đã bị đẩy ra xa do quá trình bơm phồng, tôi ước đoán rằng chúng nằm cách xa hàng trăm tỷ năm ánh sáng. Chúng ta không thể quan sát được chúng ngay cả với kính viễn vọng tân tiến nhất bởi ánh sáng từ nơi đó không thể tới được chỗ chúng ta theo thời gian vũ trụ. Để tạo ra được dòng cố kết như thế chúng phải là các cấu trúc rất lạ, có lẽ là không gian thời gian bị biến dạng. Nhưng đây chỉ là suy đoán mà thôi”. Phát hiện bất ngờ Mặc dù giả thuyết bơm phồng dự đoán rất nhiều khía cạnh kỳ lạ của vũ trụ phía xa nhưng không nhiều nhà khoa học dự đoán rằng có dòng chảy tối. Kashlinsky nói: “Điều này là một ngạc nhiên lớn đối với chúng tôi và tôi nghĩ rằng đối với người khác cũng thế. Với một số mô hình bơm phồng đặc biệt chúng ta sẽ dự đoán rằng có các cấu trúc như thế này. Trong văn chương cũng có một vài gợi ý mà theo tôi là vẫn chưa được cân nhắc nghiêm túc cho đến tận bây giờ”. Phát hiện sẽ giúp các nhà khoa học thăm dò điều gì đã xảy ra với vũ trụ trước quá trình bơm phồng, và điều gì đang xảy ra ở lãnh thổ bất khả xâm phạm mà chúng ta không thể thấy được. Các nhà nghiên cứu sẽ công bố phát hiện của họ trên số ra ngày 20 tháng10 tờ Astrophysical Journal Letters. http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Phat-hien-dong-...u/80101205/199/
  17. Chào bạnĐây là đường link của tài liệu tham khảo http://www.vatlyvietnam.org/forum/showthread.php?t=26
  18. Anh Thiên Sứ thân Hoàn toàn đồng ý với quan điểm của anh. Bài tham khảo vừa rồi chỉ muốn nói lên rằng chúng ta có quyền nghi ngờ và xem xét lại các thí nghiệm là điều cần thiết, đôi khi chỉ cần một thao tác nhỏ là sự thật sẽ hé mở, như anh Vô Trước nhận xét: "Không lẽ một thí nghiệm đơn giản như vậy đủ để bác bỏ TTĐ hay sao ?" Quasar
  19. Cám ơn anh Thiên Sứ và anh Vô Trước chúng ta hãy tham khảo: Nguyên lý bất định đại khái nói rằng bạn không thể nào tiên đoán được chính xác vị trí của một hạt cơ bản tại một thời điểm cho trước, giống như các nhà thiên văn tiên đoán chính xác vị trí của một ngôi sao tại một thời điểm cho trước. Bạn chí có thể tiên đoán điều đó theo một xác xuất nào đó mà thôi. Einstein không đồng ý điều đó. Theo ông, nếu vật lý không tiên đoán được chính xác kết quả, thì không phải bản chất bất định của Thế giới lượng tử mà chỉ vì vật lý chưa làm tròn "bổn phận" của mình mà thôi. Ông cố gắng bịa ra rất nhiều ví dụ tưởng tượng để chứng minh nguyên lý bất định sai. Nhưng không may cho ông, Niels Bohr, người bảo vệ khổng lồ của nguyên lý bất định, đã "ăn miếng trả miếng" đâu ra đấy mỗi khi Einstein tung ra các thí nghiệm tưởng tượng của mình. Trong nhiều cuộc "tranh hùng " giữa hai nhân vật thiên tài này, nói chung Einstein thua, nhưng ông chỉ coi đó là cái thua tạm thời. Ông vẫn quyết phục thù. Rất tiếc ông đã ra đi trong khi chưa khuất phục được trường phái bất định. Nhưng lịch sử cho đến nay cũng chưa dám tuyên bố dứt khoát Einstein sai, mặc dù cơ học lượng tử liên tục đạt được những chiến công vang dội, thu phục được hầu hết trái tim và khối óc các nhà vật lý. Thật vậy, tư tưởng Einstein không chết, bằng chứng là vẫn có những trường phái hiện nay ủng hộ Einstein, tìm cách chứng minh nguyên lý bất định sai. Chẳng hạn, nhiêu nhà vật lý cho rằng cái gọi là bất định đó thực ra chỉ là hiện tượng rối lượng tử( quantum entanglement) mà thôi --------------------------------------------------------------------------------- Theo Einstein, nếu vật lý không tiên đoán được chính xác kết quả, thì không phải bản chất bất định của Thế giới lượng tử mà chỉ vì vật lý chưa làm tròn "bổn phận" của mình mà thôi. thế nhưng ông lai tin một cách dễ dàng hai thí nghiệm về ánh sáng mà cho đến nay bản chất của ánh sáng vẫn còn chưa được hiểu rõ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ hiểu thế nào là quan điểm của các nhà khoa học chính thống Quasar
  20. Sự thật về thí nghiệm khe Young: Ánh sáng sau khi qua hai khe hẹp có kích thước phù hợp sẽ tạo thành những vân sáng và tối trên màn chắn. Điều này được xem là hiện tượng giao thoa của ánh sáng và khoảng cách của các vân phải luôn phù hợp với bước sóng của ánh sáng thí nghiệm Tuy nhiên, nếu ta đặt sau hai khe hẹp một thấu kính thì khoảng cách của các vân sẽ thay đổi tùy theo thấu kính Điều đó chứng tỏ rằng các vân sáng thu được không phải là kết quả của hiện tượng giao thoa, dù là giao thoa của sóng xác suất, mà có thể chỉ là hiện tượng nhiểu xạ Và chính điều này đã dẫn đến kết quả âm tính cho thí nghiệm cuả Michelson và Morley, một thí nghiệm nền tảng của TTĐ
  21. Chào anh Thiên Sứ Tôi cũng nghĩ Thái cực không phải là bất động cho nên mới không có chỗ cho khởi thủy mà chỉ là những tiếp nối của những chu kỳ biến dịch tuần hoàn của vũ trụ, khởi đầu của chu kỳ này là tiếp nối cái chung cuộc của chu kỳ trước Thuyết Bigbang còn rất nhiều bất cập. tôi sẽ chứng minh lý thuyết của mình trong một tương lai gần Kính anh
  22. Chào anh Thiên Sứtheo tôi thì nên xóa topic này vì thấy không còn nóng lắm Xin cảm ơn anh Thiên Sứ và ban quản trị diễn đàn rất nhiều Quasar
  23. chia đôi thời gian từ phát đến nhận là ra thôi, hoặc chỉ cần một thời điểm bất kỳ vẫn không ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệmqs
  24. Chào bác Liêm trinhKhoa học hiện đại dựa trên thí nghiệm của Michelson _ Morley và thuyết tương đối đã không thể xác định được vecter chuyển động thực của trái đất nói riêng và vạn vật nói chung do đó trong giả thiết của bác không xác định được đâu là hướng ngược chiều với trái đất cho dù giả thiết vẫn thực hiện, nhưng ta lại sử dụng hệ quả của TTĐ để phán xét vấn đề thì TTĐ vẫn hoàn là TTĐ thay vì như vậy ta hãy làm lại thí nghiệm của Michelson _ Morley với cách biến thể như sau Hiện nay người ta sử dụng tia lade để đo khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng và xác định được khoảng cách đó bằng 1,3s ánh sáng giả sử sau thời điểm bắn tia lade 1,3s (lúc tia sáng bắt đầu phản xạ từ gương tại mặt trăng) người ta phóng một tên lửa từ mặt đất theo hướng đón tia sáng phản xạ từ mặt trăng, sao cho nó có vận tốc đều là V (hoặc không cần thiết phải đều), ta nhận thấy tia sáng sẽ bắt gặp tên lửa trước khi chạm đến mặt đất tại một thời điểm mà ta dễ dàng xác định được, đây chính là độ lệch mà thí nghiệm của Michelson _ Morley cần xác định Làm thí nghiệm nhiều lần tại những thời điểm khác nhau trong tháng ta có thể xác định được chuyển động thực của trái đất Và một lần nữa chủ đề này lại được khẳng định Thân chào quasar
  25. Vì bạn viết thiếu dấu phẩy nên đã hiểu khácĐạo khả đạo phi thường đạo Danh khả danh phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thủy; -- không, là tên gọi ban đầu của trời đất Hữu, danh vạn vật chi mẫu. -- có, là tên của mẹ muôn vật do đó 'vô' không phải là cái khởi thủy, cũng không phải là thái cực, 'vô' và 'hữu' chỉ là tạm đặt tên cho cho cái thể và dụng của vũ trụ bởi vì Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh, đồng dị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn. Hai cái đó, xuất hiện cùng nhau mà khác tên nhau, vừa giống lại vừa khác nên mới gọi là Huyền. Một Huyền lại một Huyền, nên gọi là Diệu; cảnh giới Huyền diệu của Sự thật thường hằng. còn đột biến lượng tử chỉ là một giả định của khoa học, không thể lấy làm căn cứ huống chi đã có nhiều lý thuyết thay thế nó quasar