songHan

Hội viên
  • Số nội dung

    77
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by songHan

  1. Chào anh “ Một hạt cơ bản đích thực – tức là không hề còn có cơ cấu nội tại nào cả __ thì không thể là đối tượng của một lực nào, lực đó cho phép chúng ta phát hiện sự hiện hữu của nó. Chỉ duy việc biết đến sự hiện hữu của một hạt là đã nói được rằng hạt đó phải có một cơ cấu nội tại.” Định nghĩa trên là của một giáo sư tiến sĩ vật lý có uy tín người Mỹ -Geoffrey Chew, một định nghĩa đã được khoa học công nhận bởi nó là một suy luận tất yếu. Một đối tượng được cảm giác của chúng ta cảm nhận là "như vậy" thì cũng chưa hẳn đối tượng đó thực sự là "như vậy" bởi đó chỉ là cảm nhận chủ quan của ta, giống như một hòn đá được ta cảm nhận là to và cứng nhưng thật sự thì nó rất loãng và kích thước thật sự của tất cả hạt nhân nguyên tử và điện tử cộng lại cũng chỉ nhỏ hơn một hạt bụi, hoặc như đối với hai cực cùng tên của hai nam châm thì cái khoảng không giữa chúng lại rất đặm đặc khi chúng xích lại gần nhau, hoặc như khi trong giấc mơ ta cứ tưởng mọi thứ là thật. Các quy luật vận hành tất nhiên là chỉ nằm trong bản chất của vật chất nếu như đó thật sự là vật chất, cho nên cái vật chất thực sự mới phải là một thực thể vô hạn và đồng nhất, còn thế giới của chúng ta chỉ là biểu hiện cho trạng thái của thực thể đó. Mô hình vũ trụ của lý thuyết này là một mô hình biến dịch tuần hoàn, trong đó độ cứng của vũ trụ tăng và giảm theo chu kỳ. Kính anh
  2. Chào anh Có phải ý anh là : vũ trụ phải có cấu trúc nội tại, và những hạt cơ bản hình thành nên những cơ cấu đó không thể có kích thước vô hạn mà phải nằm ngay bên trong những cấu trúc đó ? Nhưng đã là hạt cơ bản thì giữa chúng không thể tồn tại những biểu hiện tương tác với nhau, vậy thì làm sao chúng có thể cấu thành nên những cấu trúc được. Do đó suy ra rằng : hạt cơ bản không thể tồn tại trong thể giới của chúng ta. Vậy thì cái gì đã tạo nên cấu trúc nội tại của những sự vật trong vũ trụ ? Do đó tôi cho rằng thế giới của chúng ta chỉ là một thế giới hiện tượng với một bản chất không thật, không có cấu trúc nội tại. Tất cả chỉ là phản ánh của một sự thật khác, một sự thật có thể bao hàm và quy định tất cả các quy luật vận hành của mọi hiện tượng. Một sự thật với đúng nghĩa là một hạt cơ bản. Như vậy, vũ trụ chính là một thực thể vô hạn và đồng nhất, với một năng lượng nội tại vốn có được thể hiện ở dạng những dao động, trong đó vật chất chỉ là những tập hợp của những dao động nội tại của thực thể đó. Hiện tượng chuyển đỏ của các thiên hà được giải thích bằng hiệu ứng Doppler và do đó dãn đến kết luận là vũ trụ đang nở ra. Nhưng hiện tượng chuyển đỏ đã được giải thích một cách hợp lý bằng lý thuyết này và vũ trụ thực sự không hề co dãn. Kính anh
  3. Chào anh Xin cảm ơn và ghi nhận sự đóng góp của anh. Đúng là như vậy nếu như nó là một công trình mới, thế nhưng lý thuyết được hình thành không phải dựa trên những tiên đề mới mà chỉ là dựa vào những dữ kiện khách quan và một suy luận tất yếu. Bởi tất yếu nên nó không là mới, nếu lý thuyết là đúng thì những suy luận của nó quả thật là tất yếu, còn nếu lý thuyết là sai thì đó chỉ là những suy luận miễn cưỡng, và những điều mà lý thuyết cho là tất yếu như sau : Chúng ta luôn nghĩ rằng vũ trụ phải được cấu tạo từ những hạt cơ bản, nhưng có lẽ chúng ta cũng luôn đồng ý với Geoffrey Chew rằng : “ Một hạt cơ bản đích thực – tức là không hề còn có cơ cấu nội tại nào cả __ thì không thể là đối tượng của một lực nào, lực đó cho phép chúng ta phát hiện sự hiện hữu của nó. Chỉ duy việc biết đến sự hiện hữu của một hạt là đã nói được rằng hạt đó phải có một cơ cấu nội tại.” Nguyên văn: “A truly elementary particle – completely devoid of internal structure – could not be subject to any forces that would allow us to detect its existence. The mere knowledge of a particle’s existence, that is to say, implies that the particle possesses internal structure!”(1) Và nó phải là hoàn toàn đồng nhất, mỗi mảnh vỡ của nó phải là chính nó nguyên vẹn không khác, nó không phụ thuộc vào không gian và thời gian. Với đặc tính đó, hạt cơ bản đã không thể tồn tại trong thế giới của chúng ta, dù là trong thế giới hạ nguyên tử. Vậy tại sao chúng ta luôn cho rằng nó phải là một hạt có kích thước nhỏ nhất ? Tại sao nó không thể là một hạt có kích thước vô hạn, bao hàm và quy định tất cả các quy luật vận hành của vũ trụ ? Và chỉ có cái vô hạn mới hàm chứa đầy đủ đặc tính của một hạt cơ bản. Như vậy, vũ trụ chính là một thực thể vô hạn và đồng nhất, với một năng lượng nội tại vốn có được thể hiện ở dạng những dao động, trong đó vật chất chỉ là những tập hợp của những dao động nội tại của thực thể đó. "Vô hạn và đồng nhất" là điều kiện cần và đủ để yếu tố cơ bản không bị quy định bởi một cấu trúc nội tại, bởi nếu còn một cấu trúc nội tại thì nó không còn là cơ bản nữa mà thay vào đó là cái gì đã tạo nên nó, và chỉ có "vô hạn và đồng nhất" thì nó mới thực sự là cái vốn có mà không cần phải được sinh ra từ một cái khác. Thưa anh Liêm Trinh, cái yếu tố năng lượng quang hợp thấp hơn chưa hẳn là điều kiện xấu hơn so với sự thích nghi của động thực vật thời đó, giống như khi bị nắng quá thì chưa hẳn là tốt.Tuy nhiên sẽ là lạc đề nếu ta chỉ đi sâu vào cơ chế sinh học mà không rút ra được những yếu tố tương quan đặc thù giữa lý thuyết và thực tế. Biết là vậy, nhưng lý thuyết đang ở giai đoạn khảo nghiệm ở mức độ cơ bản, và sau đó lý thuyết còn cần phải xây dựng thêm những hệ quả ở nhiều tầng mức khác nhau thì mới có thể đôi chiếu với thế giới tự nhiên ở mức cao được. Kính anh.
  4. Cám ơn anh Liêm Trinh, một vũ trụ đồng nhất liên tục không nhất thiết phải tạo ra những tia sáng có đầu và đuôi như nhau, những va chạm giống nhau, và những tương tác đối xứng nhau, những vụ nổ không nhất thiết phải tạo ra những mãnh vỡ giống nhau, và số phận của những mãnh vỡ lại càng không thể như nhau...do đó không tránh khỏi sự hình thành những thiên thể có kích thước khác nhau. Có nhiều hệ quả với những tầng mức khác nhau từ một trạng thái của vũ trụ. Để xem xét sự tương ứng của quá trình sinh trưởng của động thực vật với điều kiện môi trường, chúng ta cần sử dụng những hệ quả ở mức tương cận nhất thì sự tương ứng mới thể hiện rõ ràng nhất, giống như ta không thể sử dụng một quái chỉ có ba hào để suy luận một hiện tượng mà phải sử dụng đến những quái có sáu hào.Do đó,không đơn thuần cho rằng với một năng lượng quang hợp thấp hơn thì buộc giống cây phải nhỏ hơn mà phải xem xét thêm nhiều yếu tố khác như tình trạng của đất, nước, khí hậu, khoáng chất... Thân ái
  5. Theo lý thuyết của bạn toàn bộ vũ trụ cùng một độ cứng vậy tại sao lại có những ngôi sao bây giờ mới hình thành và có ngôi sao giờ đây đã lụi tàn. Các sao neutron được hình thành ở cuối chu kỳ giảm độ cứng của vũ trụ có kích thước không như nhau, quá trình phân rã hạt nhân bắt đầu khi độ cứng của vũ trụ gia tăng, tuy nhiên những thiên thể càng lớn thì có tuổi thọ càng cao ( theo chu kỳ bán rã ). Theo bạn thì hiện tai tất cả moi khoảng cách của vật chất đang xa ra vậy chu kỳ tăng giảm "độ cứng" là bao nhiêu để đủ giải thích được vào thời tiền sử động thực vật trên trái đất to lớn hơn bây giờ như các loài khủng long, các cây quyết,dương xỉ khổng lồ....... Không phải là mọi khoảng cách của vật chất đang xa ra, mà chỉ có bán kính quỹ đạo của các hành tinh tăng lên. So với chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ (hàng chục tỷ năm) thì thời tiền sử đến giờ là một khoảnh khắc quá ngắn, tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt so với bây giờ dù it ỏi : 1- giới hạn mật độ năng lượng của vũ trụ thấp hơn 2- độ rỗng của tia sáng (và cả tia cấu tạo) lớn hơn 3- năng lượng của ánh sáng mặt trời thấp hơn ...và một số những hệ quả khác. Để có thể giải thích được kích thước của động thực vật thời tiền sử, chúng ta cần nghiên cứu rất sâu vào mối tương quan giữa trạng thái của vũ trụ với bản chất của sự sống.
  6. Mỗi năm khoảng cách giữa mặt trời và địa cầu tăng thêm 15 cm. Sự suy giảm động lượng của mặt trời có thể là nguyên nhân gây nên hiện tượng này. Những người yêu thích thiên văn liên tục đo khoảng cách mặt trời và trái đất trong hàng nghìn năm qua. Vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, Aristarchus of Samos – nhà thiên văn đầu tiên đề cập tới thuyết nhật tâm – cho rằng khoảng cách giữa mặt trời và trái đất gấp 20 lần khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng. Tính toán của ông không chính xác, bởi con số thực sự khi đó là 400. Vào cuối thế kỷ 20, việc đo đạc khoảng cách trong vũ trụ trở nên thuận lợi và thống nhất hơn nhờ sự ra đời của đơn vị thiên văn. Nhờ kỹ thuật đo bằng sóng radar (phát sóng tới các thiên thể rồi thu nhận tín hiệu dội lại, sau đó tính ra quãng đường bằng cách lấy thời gian nhân với vận tốc sóng), người ta đã tính được khoảng cách giữa mặt trời và trái đất với độ chính xác đáng kể. Hiện tại khoảng cách đó là 149.597.870.696 km. Con số chính xác ấy cho phép Gregoriy A. Krasinsky và Victor A. Brumberg – hai chuyên gia về động lực học người Nga – phát hiện ra rằng mặt trời và địa cầu ngày càng xa nhau. Mức độ tăng không lớn – chỉ 15 cm mỗi năm – nhưng vấn đề là cái gì đã gây nên hiện tượng đó ? Một hướng giải thích là: Mặt trời đã mất lượng vật chất đáng kể do phản ứng nhiệt hạch và gió mặt trời, vì thế mà lực hấp dẫn của nó giảm. Nhiều nhà khoa học cho rằng quá trình giãn nở của vũ trụ, tác dụng của hố đen và sự thay đổi của hằng số hấp dẫn G mới là nguyên nhân. Tuy nhiên, chưa giả thuyết nào được chấp nhận rộng rãi. Giờ đây 4 nhà khoa học của Đại học Hirosaki (Nhật Bản) khẳng định họ đã tìm ra câu trả lời. Trong một bài báo đăng trên tạp chí Astronomy & Astrophysics của châu Âu, họ cho rằng trái đất và mặt trời đẩy nhau do tương tác thủy triều của chúng. Lực hấp dẫn từ mặt trăng gây nên hiện tượng thủy triều trên các đại dương của chúng ta. Nhờ một cơ chế nào đó mà mỗi năm quỹ đạo mặt trăng mở rộng thêm khoảng 4 cm, còn vận tốc xoay của quả đất giảm 0.000017 giây. Nhóm chuyên gia Nhật Bản cho rằng lực hấp dẫn từ địa cầu, sao Hỏa, sao Kim và các hành tinh khác trong Thái Dương hệ cũng gây nên tác động tương tự trên mặt trời. Do mặt trời không có nước nên thủy triều không xảy ra. Thay vào đó các lớp vật chất của nó thoát ra ngoài vũ trụ. Theo tính toán của họ, do tác động của quả đất mà vận tốc xoay của mặt trời giảm 0.00003 giây mỗi năm. Như vậy, khoảng cách mặt trời – trái đất tăng dần do mặt trời đang mất dần động lượng góc. Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com/modules.php?name=New...4#ixzz0Yof2Efdj Theo tôi, trên quan điểm về sự biến dịch của vũ trụ , ở chu kỳ gia tăng độ cứng của vũ trụ như hiện nay, vận tốc của ánh sáng, của tia cấu tạo sẽ gia tăng và vận tốc thực của vạn vật cũng sẽ tăng tương ứng khiến cho khoảng cách từ trái đất đến mặt trời và từ mặt trăng đến trái đất ngày càng xa nhau. Kính thiên văn Hubble mới quan sát thấy 6 thiên thể, chỉ nặng khoảng 80 lần trái đất, đi lang thang trong thiên hà, hoàn toàn thoát khỏi trường hấp dẫn của các sao mẹ. Đây có lẽ là những thiên thể nhỏ nhất thoát khỏi quỹ đạo đã từng quan sát được. Theo các nhà thiên văn, 6 thiên thể mới quan sát thuộc chùm các ngôi sao nhỏ M22, cách trái đất 8.500 năm ánh sáng. Để kiểm chứng xác thực hơn, Kailash Sahu và các đồng nghiệp dự định sẽ quan sát trung tâm của chùm sao trong khoảng một tuần liền. Minh Hy (theo CNN, 29/6)
  7. "Độ cứng của vũ trụ là nguyên nhân tồn tại của những hằng số cơ bản , trong đó dễ thấy nhất là hằng số c" Cám ơn anh Liêmtrinh, ở đọan này lý thuyết chưa đề cập đến sự biến dịch của vũ trụ nên chưa đóng ngoặc kép được ( "hằng số" ), kể cả khi dùng từ vật chất ta cũng hiểu là tạm dùng theo quan niệm cũ. Vào thời điểm tạo ra vật chất của vũ trụ "c" chắc khác với "c" bây giờ bởi vì rõ ràng chúng ta thấy ánh nắng mặt trời hiện nay không hề cuộn soắn thành vật chất. Đây là một vấn đề rất quan trọng, tôi nhớ có một nhà khoa học đã đặt câu hỏi về sự đồng bộ của vũ trụ: tại sao các hạt vật chất trong vũ trụ lại giống nhau ở mọi lúc mọi nơi? và đúng như anh Liêm trinh nghĩ, ánh sáng chỉ có thể cuộn xoắn lại khi vận tốc của nó đủ nhỏ và lực cộng hưởng dao động đủ lớn . Ở chu kỳ giảm độ cứng của vũ trụ, giới hạn rỗng có tác dụng như một cái sàng khiến cho các tia sáng trở nên đồng đều về độ lớn trong quá trình gia tăng độ rỗng của chúng, đây cũng là giai đoạn ánh sáng giảm vận tốc và gia tăng lực cộng hưởng dao động (do độ rỗng tăng), và như vậy, khi đủ điều kiện để cuộn xoắn lại, vũ trụ đã tạo ra được những neutron đồng đều nhau ở mọi nơi. Chúng ta đang tồn tại ở chu kỳ gia tăng độ cứng của vũ trụ, vận tốc ánh sáng đã đủ lớn để không thể bị cuộn xoắn lại bởi lực cộng hưởng dao động, do đó ánh nắng mặt trời hiện nay không hề cuộn xoắn thành "vật chất".
  8. Cám ơn rất nhiều sự quan tâm của anh, tôi luôn là người khát khao chân lý và sẽ hết mình vì chân lý .
  9. Trước hết nó đã làm sáng tỏ bản chất của những định luật vật lý và giải thích được hầu hết những hiện tượng khó hiểu của tự nhiên, và theo tôi nó có thể giải quyết được tất cả.
  10. Tôi đánh giá cao diễn đàn này, bởi tôi nghĩ rằng đây là nơi hội tụ nhiều bậc trí giả và cao thủ khoa học nhất và sở dĩ tôi không vào các diễn đàn chuyên ngành vì tôi không cần kiểm tra kiến thức.Ngày xưa, cũng vì tin vào các chuyên gia chính ngạch mà Einstein đã mất cảnh giác với hai thí nghiệm nêu trên, nhưng ông đã thực sự vĩ đại khi xây dựng được một lý thuyết dựa trên những cái sai mà vẫn thấy như là rất hợp lý. Nhưng với cái đà này thì cho dù Einstein có bất tử cũng không giải quyết hết những bế tắt cứ liên tục phát sinh như là lỗ đen, bigbang, sóng hấp dẫn, rồi là năng lượng tối, hạt của chúa...Bởi một lý thuyết dựa trên một nền tảng không thực thì nó phải hội cho đủ những yếu tố không thực thì mới hoàn hảo được Và toán học là một công cụ đắc lực cho những trường hợp như vậy. Toán học có thể xây dựng nhiều mô hình vũ trụ giả tưởng một cách hợp lý, nhưng không thể coi đó là chân lý. Vật lý sẽ đến gần chân lý hơn nếu đi bằng con đường suy nghiệm hơn là phát triển trên nền tảng toán học. Tuy nhiên đây không phải là nơi tôi có thể chỉ ra những lỗi của thí nghiệm, do đó kk đừng nên lúc nào cũng nào là "đã làm thí nghiệm hàng triệu lần rồi " nào là "tiến sĩ chuyên ngành" nào là "1000 Tiến sĩ/sắp tiến sĩ đang lượn ở đấy, cà GS NBC nữa" rồi còn "lũ đàn em, lũ bạn bè"...đó không phải là tác phong của một người làm khoa học, mà chỉ đáng là ...
  11. Đây không phải là nơi tôi phải trình bày rạch ròi những kiến này giải nọ mà chỉ gợi mở những nghi vấn, chứ cái thí nghiệm 2 khe có làm lại hàng tỉ lần thì cũng chỉ lọ mọ sao cho nó có kết quả giống như ban đầu là bọn họ mừng hú rồi, giống như cái dòng họ nhà ai có rặn cho lắm đời cũng chỉ ra một cái loài rỗng tuếch, cho nên mới nói là ngu truyền kiếp, như cái lão kk nếu biết tôi là ai chắc là té đái trong quần, bởi cái thói mê tín học vị, chỉ biết xách dép chạy theo đám đông, thích làm thầy bùa phán này phán nọ. Một cái đầu rỗng tuếch, biết điều thì còn được coi là cái tủ sách, còn không thì chỉ như cái hầm chứa... Ngu đến nỗi người ta đã bảo không thèm để ý đến thuyết này thuyết nọ mà vẫn bảo là thiếu kiến thức. Bao nhiêu năm gạo bài kiếm tiền bây giờ chắc là hóa cuồng rồi, biết điều thì ngậm cái củ chuối sám hối đi kẻo ân hận không kịp. Istanton chỉ là để biện giải cho một cái không có thực là bigbang, bởi hiện tượng chuyển đỏ quang phổ không phải là do hiệu ứng Doppler mà là do độ cứng của vũ trụ tăng lên, vậy thì làm gì có bigbang ( đó cũng là lý do tồn tại chu kỳ bán rã của những nguyên tố phóng xạ). Chân lý thì phải chỉ có một mà bao trùm vạn tượng, chứ có cái chân lý gì mà chỉ đúng ở chổ này mà trật ở chổ khác. Đó chỉ là những cái giả lý, cho dù có xây dựng thêm hàng trăm cái giả lý thì cũng không thể hợp thành cái chân lý được. Thuật toán của cái giả lý tất nhiên nó chỉ đúng trong trường hợp của giả lý đó, không giống như Dịch học là thuật toán của một chân lý, nên nó ứng dụng được cho mọi trường hợp. Anh Thiên Sứ đi tìm sự tương đồng với khoa học làm gì cho mất công, mọi người đang cần anh vận dụng cái dịch lý mà anh đã nghiên cứu để giúp ích cho đời rồi chờ đợi cho đến khi khoa học thay da đổi thịt thì mới hợp nhất với Dịch học được. Còn vấn đề về cái vận tốc tuyệt đối /0/, tôi nghĩ chắc là anh muốn nói đến sự tức thời, và theo tôi điều này không liên quan gì đến giới hạn của vận tốc ánh sáng cả. Vũ trụ vốn luôn là tức thời, bởi sắc tướng của một hiện tượng chính là biểu hiện cho cái trạng thái của vũ trụ ở góc độ của hiện tượng đó. Giống như khi ta đục một lỗ trên tấm cao su, khi tấm cao su căng ra 4 phía ta có thể dựa trên hình dạng của cái lỗ mà biết được tức thời trạng thái của tấm cao su đó vậy. Đó có phải là điều kiện anh cần để sự tiên tri có thể thực hiện được ? Đôi lời thiếu suy nghĩ mong anh lượng thứ.
  12. Đây chỉ là những nghi ngờ của riêng tôi, trước hết là trong thí nghiệm khe Young, hiện tượng "giao thoa" là do lỗi của dụng cụ thí nghiệm gây ra, do đó người ta vẫn ghi lại được hình ảnh "giao thoa" khi chiếu những tia sáng rời rạc.Ánh sáng thực sự không giao thoa như vậy, đó là nguyên nhân dẫn đến kết quả âm tính trong thí nghiệm của Michelson và Morley khi áp dụng hiện tượng giao thoa của ánh sáng. Đó là hai trong số những thí nghiệm quan trọng làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học cho đến ngày nay,và người ta cũng cho rằng khối lượng của electron trong máy gia tốc đã gia tăng ở vận tốc cao khi năng lượng dùng để gia tốc cho nó ngày càng lớn, thế nhưng điều đó vẫn có thể giải thích trên một quan điểm khác. Có thể sẽ không có ai tin điều này, nhưng không sao.
  13. Theo khoa học hiện đại, một vật đứng yên trong một trường hấp dẫn thì chịu tác động của một lực hấp dẫn. Khi chuyển động với vận tốc cao v trong trường hấp dẫn đó, khối lượng của vật tăng lên γ = 1/(1 – v2/c2)1/2 lần. Như vậy, lực hấp dẫn, phải chăng cũng tăng lên từng ấy lần? Khi chuyển động với vận tốc cao v trong trường hấp dẫn đó, khối lượng của vật tăng lên γ = 1/(1 – v2/c2)1/2 lần, đó là hệ quả của thuyết tương đối, nhưng theo tôi đó là một sự nhầm lẫn, và không có sự gia tăng nào cả. Nhưng theo khoa học hiện đại thì tất nhiên lực hấp dẫn cũng sẽ gia tăng tương ứng.
  14. Tôi vẫn biết KK có nhiều kiến thức, nhưng có một điều anh chưa biết đó là khoa học hiện đại vẫn chưa nhận thấy được rằng bản thân vũ trụ không hề có khối lượng tự thân, cho dù tất cả năng lượng vốn có của nó ngưng đọng thành "vật chất".Theo quan điểm của khoa học hiện đại, chúng ta vẫn không thể nào nhận biết được khi kích thước của vũ trụ hiện nay bỗng nhiên thay đổi hoặc lớn hơn hàng tỷ lần hoặc nhỏ lại thành một điểm. Và như vậy, liệu cái instanton còn có ý nghĩa gì? Mong anh suy nghĩ thật kỹ trước khi bàn luận tiếp.
  15. Muốn bàn chuyện ở đây thì nên có cái gì hay ho một chút, đừng có lượm lặt những thứ cũ rích của người khác mang vào thì chẳng ai hoan nghênh đâu.Còn không biết mình sống để làm gì thì nên nhờ các sư phụ xem cho một quẻ còn có lợi hơn.
  16. Tôi không hề nói Bigbang có xung đột với Thái cực mà là thuyết Bigbang sẽ không còn điểm kỳ dị để bị bế tắt nếu có nhận thức đúng về vũ trụ.
  17. Anh Vo Truoc bận tâm với những hạng không có trí tuệ làm gì cho mệt mõi. Hiện nay có rất nhiều kẻ đeo bằng tiến sĩ, thuộc làu kinh sách cổ kim nhưng trí tuệ không bằng một đứa trẻ, tham gia các diễn đàn chỉ để xổ bẩn cho thỏa thích, anh đừng mắc lừa bọn người này.
  18. Anh Thiên Sứ thân, điều đó thật quá rõ, chỉ có địa k là không biết thôi.
  19. địa kiếp có biết ai nói vậy không?
  20. Xin trích đoạn bài viết của anh Thiên Sứ về thuyết tương đối: Có 2 anh em sinh đôi. Nói chính xác ở đây là ta lấy ví dụ về 2 người coi như hoàn toàn giống nhau về thời gian cũng như hình dáng. Quá trình phát triển của cơ thể họ cũng là hoàn toàn như nhau. Và một ngày kia một trong hai người đó bay lên vũ trụ. Nghịch lí sắp nói tới ở đây là liệu có thể nào một trong 2 người này sẽ già hơn người còn lại khi gặp lại nhau hay không. Hãy giả sử 2 anh em này là A và B. Bây giờ là lúc B ở lại Trái Đất chờ người anh em của mình là A bay lên vũ trụ trên một con tàu có vận tốc khoảng 80% vận tốc ánh sáng chẳng hạn. A có nhiệm vụ đi đến một hành tinh cách rất xa Trái Đất mà theo như tính toán của cơ học Newton thì với vận tốc này anh ta phải mất 10 năm để đến nơi đó. Và cả đi cả về (coi như không tính thời gian ở lại hành tinh) anh ta phải mất những 20 năm. Vậy khi anh ta trở về để gặp lại người anh em song sinh của mình thì điều gì sẽ xảy ra? Trong rất nhiều bộ phim viễn tưởng và cả những câu chuyện tưởng tượng khác nữa mà chắc hẳn các bạn đã xem khá nhiều, các bạn đều có thể qua đó trả lời tôi rằng chắc chắn khi anh ta quay về thì người anh em nọ đã là một ông già, tuổi tác khi đó sẽ chênh lệch rất lớn. Vậy tại sao người ta lại có thể suy ra điều đó? Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trước khi phân tích xem liệu những điều đó có đúng hay không. Chúng ta lại nhắc đến phép biến đổi Lorenzt đã nói ở trên, theo đó với γ: γ = (1 - v² / c²)½ Thì ta có hệ thức thời gian như sau: t' = t. γ Bây giờ chúng ta sẽ áp dụng bài toán trên để tìm nghịch lí cho 2 anh em sinh đôi trên. Vì 2 anh em này có vận tốc hoàn toàn khác nhau. Ta cứ tạm nói theo ngôn ngữ thông thường là người A đang chuyển động còn người B thì đứng yên. Vậy ta có thể đặt cho 2 người này 2 hệ qui chiếu tương ứng có tên tương ứng cũng là A và B. Hệ A là hệ tại đó người A (người bay lên vũ trụ) là đứng yên vì hệ này luôn chuyển động cùng với anh ta. Tại hệ A người B là đối tượng chuyển động. Còn hệ B là hệ tại đó người B (ở lại Trái Đất) đứng yên còn người A lại là đối tượng chuyển động. Quay lại với các bộ phim viễn tưởng. Nếu như đặt vấn đề tôi đang nói tới ở đây vào một nhà đạo diễn chuyên nghiệp các bộ phim viễn tương hay một hoạ sĩ truyện tranh có học qua vật lí tương đối tính, hẳn một kết luận đuợc đưa ra ngay tức khắc là khi quay về chắc chắn người A sẽ rất trẻ so với người B vì đơn giản là theo phép biến đổi Lorentz nói trên thì thời gian của người A sẽ trôi chậm hơn trong hệ qui chiếu của người B. Điều này không phải không có lí khi xét quá trình chuyển động. Có điều những người đưa ra kết luận này đã quên mất rằng chuyển động luôn chỉ có tính tương đối mà thôi. Việc đưa ra kết luận như trên là vì nhà đạo diễn này đang tự đặt mình vào vị trí của người B ở lại Trái Đất. Khi đó tại hệ qui chiếu của ông ta, ông ta sẽ luôn thấy kẻ ra đi kia là trẻ trung một cách kì lạ. Có điều là nếu như một lần nhà đạo diễn thử đặt mình vào vị trí của người A, ông ta sẽ thấy gì. Khi đó ông ta sẽ sử dụng hệ qui chiếu mà tại đó ông ta hoàn toàn đứng yên (tức hệ qui chiếu A). Khi đó với ông ta, hệ qui chiếu B và do đó cả người B là đối tượng chuyển động với cùng vận tốc mà ông ta từng thấy người A chuyển động khi đứng tại hệ qui chiếu B. Và như thế có nghĩa là tại thời điểm này, ông ta hẳn phải ngạc nhiên khi thấy rằng mình đã sai lầm vì thực sự khi bay cùng với A thì ông ta sẽ thấy B trẻ lâu hơn ông ta nhiều. Và bây giờ khi mà chưa thể phanh được một trong 2 hệ qui chiếu này lại, nhà đạo diễn sẽ phải nghĩ xem vậy thì cuối cùng trong bộ phim của ông ta ai mới là kẻ già truớc, và thế là nghịch lí nảy sinh. Thuyết tương đối không chấp nhận sự tồn tại một vận tốc tuyệt đối riêng của mỗi hệ quy chiếu. Thế nhưng với sự ra đời của đồng hồ nguyên tử, chúng ta dễ dàng tính được vận tốc thực của mỗi vật hoặc ít nhất cũng xác định được sự chuyển động nhanh hay chậm hơn giữa các vật. Thí nghiệm về hai đồng hồ nguyên tử nêu trên là một phiên bản của nghịch lý hai anh em sinh đôi, nó đã xác định được người đi trên con tàu vũ trụ có vận tốc rất lớn đã trãi qua một khoảng thời gian ngắn hơn so với người ở trái đất nếu mỗi người có mang theo một đồng hồ nguyên tử. Riêng tôi với thí nghiệm tính được góc lệch của tia sáng khi hệ quy chiếu chuyển động cũng là một bằng chứng âm của thuyết tương đối
  21. Tôi nhận thấy điều này rất đúng. Có lẽ anh Thiên Sứ nên có kế hoạch thực hiện công trình nghiên cứu thống kê vấn đề này cùng với quy luật hình thành xoáy trên đầu mỗi người theo năm sinh và giới tính. Nó sẽ là một công trình khoa học rất có giá trị cho ht ADNH nói riêng và cho cả khoa học hiện đại nữa.
  22. Nhân dịp nói về xoáy tôi xin đưa lên một vài khảo sát, bà con nghiên cứu thêm: -các loài cây dạng dây leo luôn quấn lên theo chiều ngược kim đồng hồ -các loái ốc cũng chỉ xoắn theo một chiều như vậy -ai cũng có xoáy ở trên đầu,những người dương nam âm nữ hoặc âm nam dương nữ thì xoáy trên đầu có chiều giống nhau ( riêng những người sinh vào giờ thìn, tuất, sửu, mùi thì có hai xoáy) Tại sao vậy ?
  23. Và cả thuyết tương đối cũng không đứng vững trước thí nghiệm về sự co dãn thời gian khác nhau của hai đồng hồ nguyên tử có vận tốc chuyển động khác nhau. Thật đơn giản, nhưng tại sao không ai nhận ra ?
  24. Vô cùng cảm ơn anh Thiên Sứ đã quan tâm. Khi đọc lý thuyết này chắc có lẽ sẽ có nhiều người cho rằng tôi đang cố gắng làm sống lại ý tưởng về môi trường ete vào thời Newton. Tuy nhiên, có một sự khác biệt rất lớn mà chúng ta cần thấy rõ đó là : ete là một môi trường cùng tồn tại song song và tương tác với vật chất, là đồng dạng với vật chất. Còn ở đây, thực thể mà lý thuyết muốn nói đến là thứ vật chất thực sự, duy nhất, không phải là môi trường chứa đựng các sự vật, mà chỉ là môi trường thể hiện những trạng thái của năng lượng (những dao động nội tại), theo tôi, đó chính là Chân Như mà Đức Phật đã nói đến, thế giới mà chúng ta đang cảm nhận vốn chỉ là những dao động, và thực sự là vô ngã, là hư vọng. Thực ra, nếu như các nhà khoa học hiện nay nhận thức được rằng họ đang nhận cái hư làm thực, cho cái thực là hư thì thuyết tiến hóa của vũ trụ sẽ không còn bị bế tắc tại điểm kỳ dị của Bigbang...
  25. Trong lý thuyết có trình bày rằng vũ trụ là một thực thể vô hạn và đồng nhất, nó tương ứng với cái mà Đạo gọi là Thái cực, với sự biến dịch tuần hoàn giữa hai trạng thái căng và chùng của bản thể dẫn đến sự biến đổi trạng thái của năng lượng (dao động nội tại) từ ẩn đến hiện, từ nhanh đến chậm, từ nhỏ đến lớn... âm dương song hành, luân chuyển không ngừng... Cái chính là lý thuyết đã giải quyết được những vướng mắc của vật lý hiện đại, đã trả lời được những câu hỏi "tại sao" (bản chất của những định luật). và hy vọng nó cũng sẽ là cái điều mà người xưa muốn diễn tả thông qua ht ADNH nếu được mổ xé sâu hơn. thân chào.