songHan

Hội viên
  • Số nội dung

    77
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by songHan

  1. Chào anhChỉ để giải thích sự thất bại của thí nghiệm Maikenxơn - Moocly, cụ Lorenxơ đã đưa ra lý thuyết co rút, một lý thuyết không thể chứng minh bằng thực nghiệm, còn Einstein thì bác bỏ sự tồn tại của ether và đưa ra TTĐ Tuy nhiên, không phát hiện ra điều gì không có nghĩa là điều đó không tồn tại, trong khi khoa học hiện đại vẫn chưa hiểu biết gì nhiều về ánh sáng, hơn nữa sự hiện hữu của ánh sáng lại chính là sự thể hiện rõ ràng nhất của một môi trường dao động. Mà đi sâu vào vấn đề này làm gì nữa khi hai tiên đề cơ bản nhất của TTĐ đã không còn đúng Đối với lý thuyết biến dịch của quasar, khi một cấu trúc 'vật chất' chuyển động với vận tốc lớn thì cũng có nghĩa là tia cấu tạo của nó duỗi ra (bước xoắn của cấu trúc dãn ra), khi vận tốc bằng c có nghĩa là tia cấu tạo đã trở về hình dạng của tia sáng Thân chào Quasar
  2. xin ghi nhận và thành thật xin lỗi vì những lời không phải với bạn trước đâythân chào quasar
  3. Anh Thiên Sứ thân mếnMặc dù không chuyên sâu lắm nhưng quasar cũng hiểu đại loại giống như vậy chẳng hạn khi toàn bộ vũ trụ này bỗng nhiên chuyển động theo một hướng với vận tốc bằng c thì thuyết tương đối cho rằng điều đó không có nghĩa gì cả,trừ khi nó để lại đằng sau một hành tinh đứng yên để có đối tượng so sánh vận tốc với nó, và trong cả hai trường hợp -theo TTĐ- vạn vật trong vũ trụ lúc đó vẫn không cảm thấy có gì thay đổi cả trừ cái hành tinh bị bỏ lại đằng sau bị dẹp lại như tờ giấy và hoàn toàn bất động, nhưng người trên hành tinh này lại có cảm giác đối lại giống y như vậy, và tất cả chỉ là tương đối. Không biết quasar hiểu như vậy có đúng không , xin các cao nhân chỉ giáo. Thân chào quasar
  4. Chúng ta hãy cùng tham khảomột đoạn trích từ 'thuyết tương đối cho mọi người': Bây giờ chúng ta có thể xem xét hiện tượng co rút Lorenxơ - Phitxojeral của thuyết tương đối hẹp từ quan điểm mới: từ quan điểm của Mincopxki, nói một cách khác là từ quan điểm của nhà bác học bốn chiều của chúng ta. Như chúng ta đã thấy khi hai còn tàu vũ trụ đi sát bên nhau trong trạng thái chuyển động tương đối, người quan sát trên mỗi con tàu phát hiện ra những thay đổi nào đó hình dạng của con tàu kia, cũng như những thay đổi tốc độ của đồng hồ trên con tàu khác. Điều đó xảy ra do nguyên nhân rằng không gian và thời gian không phải là những đại lượng tuyệt đối không phụ thuộc lẫn nhau. Chúng giống như người ta vẫn thường nói, là hình chiếu của các đối tượng không gian thời gian. Nếu đặt cuốn sách đối diện với nguồn sáng và chiếu bóng nó lên thành hai chiều thì khi xoay cuốn sách, có thể thay đổi bóng của nó. Ở vị trí này, bóng của cuốn sách là một hình chữ nhật rộng, ở vị trí khác lại là hình chữ nhật hẹp. Bản thân cuốn sách không thay đổi hình dạng chỉ có cái bóng hai chiều của nó thay đổi mà thôi. Bằng cách tương tự người quan sát nhìn thẳng cấu trúc bốn chiều, chẳng hạn một con tàu vũ trụ trong những hình chiếu ba chiều khác nhau tùy thuộc vào điều là nó chuyển động như thế nào với con tàu. Trong một số trường hợp hình chiếu choán nhiều không gian hơn và ít thời gian hơn, trong các trường hợp khác thì ngược lại. Những thay đổi anh ta quan sát được trong các sơ đồ không gian và thời gian của con tàu khác, có thể giải thích là sự "đảo" con tàu trong không - thời gian dẫn đến sự thay đổi hình chiếu của nó đối với không gian và thời gian. Chính Mincopxki đã có ý như vậy khi (năm 1908) ông bắt đầu bài giảng nổi tiếng tại đại hội lần thứ 80 của hội các nhà khoa học tự nhiên và vật lý học của Đức. Bài giảng này đã được công bố trong cuốn sách "Nguyên lý tương đối" của Anbe Anhxtanh và những người khác. Không có một cuốn sách phổ biến nào về thuyết tương đối là hoàn hảo mà không có trích dẫn từ bài giảng của Mincopxki: "Các quan điểm về không gian và thời gian mà tôi muốn trình bày trước các bạn đã được phát triển trên cơ sở của vật lý thực nghiệm và đó là sức mạnh của chúng". Chúng thật là cơ bản. Từ nay bản thân không gian và bản thân thời gian đều được thể hiện trong các hình dáng đơn giản và chỉ có sự thống nhất nào đó của cả hai mới giữ gìn một thực tế độc lập. Từ đó hiểu ra rằng cấu trúc không - thời gian, cấu trúc bốn chiều của con tàu vũ trụ vẫn là bền vững và không thay đổi giống như trong vật lý cổ điển. Ở đây có sự khác biệt căn bản giữa lý thuyết co rút đã bị bác bỏ của Lorenxơ và lý thuyết co rút của Anhxtan. Đối với Lorenxơ sự co rút là co rút thực tế của vật thể ba chiều. Đối với Anhxtanh vật thể thực tế là vật thể bốn chiều không bị thay đổi. Hình chiếu ba chiều của nó và thời gian có thể thay đổi, nhưng con tàu bốn chiều trong không gian thời gian là không thay đổi. Đó là một minh chứng khác cho thấy tuyết tương đối đã chấp nhận những tuyệt đối mới. Hình dạng bốn chiều của vật thể rắn là tuyệt đối và không thay đổi. Tương tự như vậy, khoảng cách bốn chiều giữa hai sự kiện trong không gian thời gian là khoảng cách tuyệt đối. -------------------------------------------------------------------------- Qua trên ta hãy để ý: Ở đây có sự khác biệt căn bản giữa lý thuyết co rút đã bị bác bỏ của Lorenxơ và lý thuyết co rút của Anhxtanh. Đối với Lorenxơ sự co rút là co rút thực tế của vật thể ba chiều. Đối với Anhxtanh vật thể thực tế là vật thể bốn chiều không bị thay đổi. Hình chiếu ba chiều của nó và thời gian có thể thay đổi, nhưng con tàu bốn chiều trong không gian thời gian là không thay đổi. Như vậy thuyết tương đối không chấp nhận một sự co rút thật sự nào cả bởi tất cả chuyển động chỉ là tương đối Nếu hiểu như vậy thì không biết có tương tác gì với ý thứ nhất của anh Thiên Sứ không, còn ý thứ hai thì quasar không có ý kiến gì @Votruoc Tôi cũng cho rằng đó là hệ quả của tiên đề vận tốc ánh sáng trong chân không bằng c = const đối với mọi hệ qui chiếu Và đó cũng là cái thắc mắc chính đáng của Mieumap Trước mắt thì ta chỉ thấy đồng hồ có co dãn, còn thời gian có co dãn hay không thì là một vấn đề hoàn toàn khác Do đó, những thí nghiệm về sự co dãn của thời gian bằng đồng hồ nguyên tử đã vô tình là một bằng chứng khiến cho người ta phải xét lại thuyêt tương đối
  5. Cảm ơn câu trả lời của anhThân chào Quasar
  6. 16/11/2007 Ai cũng biết Thuyết tương đối hẹp nổi tiếng của Albert Einstein đã chỉ ra rằng thời gian bị trôi chậm lại trong một hệ quy chiếu chuyển động, và một lần nữa các nhà nghiên cứu lại xác nhận điều này bằng các kết quả thí nghiệm chính xác gấp 10 lần so với các kết quả đã từng thực hiện trước đó. Các kết quả này được khẳng định bởi một nhóm các nhà khoa học đến từ Đức và Canada, những người đã ghi lại chính xác thời gian trong một "tích tắc" mà các ion Lithium va chạm xung quanh một vòng ở vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng. Khi ta đặt hai đồng hồ cạnh nhau, nếu chúng có cùng độ chính xác thì chúng phải luôn chỉ cùng một thời gian. Tuy nhiên, khi một chiếc chuyển động nhanh, quan sát viên đứng bên cạnh chiếc đồng hồ đứng yên có thể quan sát thấy chiếc đồng hồ này bị chạy chậm đi. Đó là hiệu ứng co giãn thời gian được tiên đoán bởi Albert Einstein trong líthuyết tương đốihẹp được xuất bản từ năm 1905, và đã từng được kiểm chứng rất nhiều lần. Lần kiểm chứng đầu tiên được tiến hành vào năm 1938 bởi thí nghiệm của Herbert Ives và G.R. Stillwell với sai số 1% so với tiên đoán, và lần gần đây nhất được kiểm chứng bởi hệ thống đồng hồ nguyên tử trên Trái đất với sự hỗ trợ của hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu (GPS). Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn không ngừng tiến hành các đo đạc để kiểm chứng sự lệch thời gian theo lí thuyết này. Ví dụ như các nhà khoa học cố gắng tìm sự lí giải cho câu hỏi tại sao lại có nhiều vật chất hơn là phản vật chất trong vũ trụ dẫn đến việc vi phạm định lí CPT*, đã phát biểu rằng các định luật vật lí luôn giữ nguyên tính chất nếu các điện tính, tính chẵn lẻ và tính chất đảo thời gian của một hạt đều cùng nhau đảo ngược. Sự vi phạm CPT có thể được "thanh minh" bởi sự vượt quá của các vật chất thông thường có thể quan sát được, nhưng cũng có thể dẫn đến việc những phương trình dưới Mô hình chuẩn của vật lí hạt được dựa trên lí thuyết tương đối hẹp là chưa hoàn toàn đầy đủ. http://images.iop.org/objects/physicsweb/n...13/Facility.jpg Hình 1. Hệ thống vòng từ trong thí nghiệm tại Max Planck Institute for Nuclear Physics in Heidelberg. Theo những kết quả vừa công bố trên Nature Physics advance o¬nline publication, các thí nghiệm đã được tiến hành bởi Gerald Gwinner (Đại học Manitoba, Canada) cùng với các đồng nghiệp từ nhiều nơi ở Đức đã chỉ ra rằng không có sự sai lệch nào của thuyết tương đối hẹp hay vật lí dưới Mô hình chuẩn. Để kiểm chứng lí thuyết tương đối hẹp, nhóm đã cải tiến kỹ thuật quang phổ laser bão hòa để đo sự co giãn thời gian của một nhóm các nguyên tử Li-7 được bơm tới vận tốc cao vào một vòng bẫy từ trường đặt tại Viện Vật lí Hạt nhân Max Planck ở Heidelberg (Đức). Khi ở trạng thái đứng yên đối với quan sát viên, Li-7 có sự chuyển mức điện tử giữa các mức năng lượng và luôn phát ra ở tần số 546 THz, tương ứng như một "tích tắc". Trên nguyên tắc, sự co giãn thời gian thời gian với tần số này đối với nguyên tử Li-7 chuyển động có thể được phát hiện nhờ sự chiếu sáng với một tia laser từ phía sau. Trên thực tế, nhóm các ion Li trong vòng từ không hoàn toàn có cùng một vận tốc và điều này dẫn đến sự hạn chế về độ chính xác của phép đo. Để loại bỏ sự hạn chế về độ chính xác này, nhóm đã sử dụng một chùm laser thứ hai hướng vào các ion. Mặc dù chùm laser này cũng gây ra sự phát quang đối với các iôn, nhưng ở tại trung tâm của sự phân bố vận tốc lại nhận được nhiều các photon đến nỗi mà tính chất phát quang của chúng bị bão hòa dẫn đến việc tạo ra một độ nghiêng địa phương trong quang phổ và do đó chỉ các iôn có cùng một vận tốc được ghi nhận. http://thienvanhoc.org/news/images/stories...ncuu/Tuning.jpg Hình 2. Các nhà nghiên cứu bên hệ ghi phổ laser. Gwinner cùng các đồng nghiệp đã ghi lại tích 2 tần số laser, mà theo lí thuyết tương đối hẹp sẽ phải bằng bình phương tần số phát ra từ iôn Li-7 ở trạng thái đứng yên. Tuy nhiên tần số chuyển mức này chưa được xác định với một độ chính xác đủ mức như họ cần thiết nên các nhà nghiên cứu đã lặp lại thí nghiệm với các iôn Li-7 di chuyển với vận tốc chỉ là 3% và 6,4% vận tốc ánh sáng và kiểm tra lại tích này một lần nữa. Đúng như các nhà nghiên cứu trông đợi, kết quả đưa đến sự phù hợp với độ chính xác rất cao (sai số nhỏ dưới 8,4.10-8), vượt xa 10 lần so với các kiểm chứng từ hệ thống GPS trước đó. "Có nghĩa là ở mức độ rất nhạy cảm của thí nghiệm này, ta có thêm bằng chứng để nói rằng vật lí trong Mô hình chuẩn thực ra chưa đủ để mô ta mọi thứ" - Gwinner nói với Physicsworld.com Vạn lý Độc hành - www.vatlyvietnam.org (Theo Physicsworld.com) ................................................................................ ..................... ngoài ra anh vẫn có thể tìm thêm nhiều nghiên cứu khác nữa quasar
  7. Ở thời điểm hiện nay, đồng hồ nguyên tử là công cụ đo thời gian chính xác nhất, bằng cách đếm số lần nguyên tử caesium nhảy đi nhảy lại giữa các mức năng lượng khác nhau theo tần số vi sóng. Chiếc đồng hồ nguyên tử chính xác nhất hiện nay thuộc quyền sở hữu của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ (NIST). Nó hoạt động trên cùng nguyên tắc cơ bản của những đồng hồ nguyên tử vi sóng từ những năm 1950, nhưng sử dụng ánh sáng quang học tần số cao hơn, do vậy chính xác hơn. Tác giả của chiếc đồng hồ này cho biết đã sản xuất ra nó dựa trên tần số quang học của một ion thuỷ ngân được làm nguội (một nguyên tử thuỷ ngân thiếu một electron) nối liền với máy tạo dao động laser. Tổ hợp này hoạt động giống như quả lắc của đồng hồ truyền thống để tạo ra tiếng "tích, tắc" cho đồng hồ. Tuy nhiên, nếu mỗi giây đồng hồ truyền thống tạo ra được một âm thanh "tích, tắc" thì đồng hồ nguyên tử tạo được 1.064 triệu tỉ tiếng. Nhờ thế, độ chính xác của đồng hồ tăng lên cực cao. ------------------------------------------------------------------------------------------------ với kỹ thuật tiên tiến như ngày nay, hy vọng những lo ngại của bác LiêmTrinh sẽ không xảy ra Kính Quasar
  8. Xin được hỏi anh Vuivui 'sinh' ở đây có thể được hiểu là khởi thủy của vũ trụ ? Thân chào
  9. Theo tôi nghĩ lý học đông phương không phải quan niệm Thái cực là khởi thủy của vũ trụ mà là một khái niệm đầu tiên để mô tả vũ trụ : không gian vô tận, thời gian vô biên, không có thủy không có chung nên gọi là Thái cực Còn nếu cho rằng vũ trụ phải có khởi thủy thì thật khó hình dung cái nguyên nhân nào tạo nên cái thời điểm khởi thủy, một nguyên nhân hình thành từ một trạng thái bất động ? Quasar
  10. Kính thưa quí vị quan tâm. Anh Quasa là một thành viên mới của diễn đàn. Nhưng ngay bài đầu tiên anh đã đưa ra mộtt ý tưởng học thuật "Lý thuyết về bản chất của vũ trụ". Điều này phủ hợp với mục đích nghiên cứu học thuật của trang web Lý học Đông phương. Bởi vậy Ban Điều hành mở riêng một chuyên mục do anh Quasa phụ trách để thể hiện ý tưởng của mình. Lý thuyết của anh có thể đúng và có thể sai, có thể mâu thuẫn với nhận thức hiện đại về các tri kiến khoa học được công nhận. Nhưng thực tế lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại đã chứng tỏ rằng: Những lý thuyết khoa học mới không dễ dàng gì được chấp nhận, nhưng nó vẫn có thể đúng trong tương lại. Chúng tôi trân trọng sự nhiết tình và khám phá vô vụ lợi của tác giả, cho dù giả thiết nó là một ý tưởng sai. Còn nếu nó đúng thì đây chính là sự cống hiến không hề được xác định bởi quyền lợi. Tôi tin rằng tác giả cũng mong được sự phản biện học thuật của các chuuyên gia trên tinh thần khách quan khoa học và mang tình thân ái với tác giả. Xin trân trọng cảm ơn sự công hiến của tác giả và quí vị quan tâm. Thiên Sứ --------------------------------------------------------------------------- LÝ THUYẾT VỀ BẢN CHẤT CỦA VŨ TRỤ Đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân, đưa lên diễn đàn này mong được các cao nhân chỉ giáo. Xin được tạm gọi đây là "Lý thuyết về bản chất của vũ trụ ": (Bản thân lý thuyết thực ra chỉ là sự đảo ngược cái nhìn của chúng ta về vũ trụ. Chúng ta luôn cho rằng bản thân chúng ta và những gì chúng ta cảm nhận được (vật chất) là thực, còn bây giờ thì ngược lại, vật chất chỉ là những hạt rỗng, còn chân không mới thực sự là một hạt cơ bản, đồng nhất và vô cùng cứng rắn). Vật chất được cấu tạo như thế nào? Đó là một câu hỏi làm trăn trở nhân loại từ xưa đến nay. Và chúng ta luôn nghĩ rằng vũ trụ phải được cấu tạo từ những hạt cơ bản, nhưng có lẽ chúng ta cũng luôn đồng ý với Geoffrey Chew rằng : “ Một hạt cơ bản đích thực – tức là không hề còn có cơ cấu nội tại nào cả __ thì không thể là đối tượng của một lực nào, lực đó cho phép chúng ta phát hiện sự hiện hữu của nó. Chỉ duy việc biết đến sự hiện hữu của một hạt là đã nói được rằng hạt đó phải có một cơ cấu nội tại.” Nguyên văn: “A truly elementary particle – completely devoid of internal structure – could not be subject to any forces that would allow us to detect its existence. The mere knowledge of a particle’s existence, that is to say, implies that the particle possesses internal structure!”(1) Và nó phải là hoàn toàn đồng nhất, mỗi mảnh vỡ của nó phải là chính nó nguyên vẹn không khác, nó không phụ thuộc vào không gian và thời gian. Với đặc tính đó, hạt cơ bản đã không thể tồn tại trong thế giới của chúng ta, dù là trong thế giới hạ nguyên tử. Vậy tại sao chúng ta luôn cho rằng nó phải là một hạt có kích thước nhỏ nhất ? Tại sao nó không thể là một hạt có kích thước vô hạn, bao hàm và quy định tất cả các quy luật vận hành của vũ trụ ? Và chỉ có cái vô hạn mới hàm chứa đầy đủ đặc tính của một hạt cơ bản. Như vậy, vũ trụ chính là một thực thể vô hạn và đồng nhất, với một năng lượng nội tại vốn có được thể hiện ở dạng những dao động, trong đó vật chất chỉ là những tập hợp của những dao động nội tại của thực thể đó. Vào thời Newton người ta đã tính được độ cứng cần thiết của vũ trụ để ánh sáng có vận tốc c Nếu không có thí nghiệm của Michelson và Moley và thuyết tương đối của Einstein thì người ta đã có thể biết được phương thức để những “hạt vật chất cứng rắn” có thể di chuyển trong một môi trường cứng như vậy, bởi thực ra không có vật thể thực sự nào di chuyển , tất cả chỉ là hình ảnh của những dao động. (Bản thân tôi đã thực hiện thành công thí nghiệm đo quang sai của tia sáng gắn trên hệ quy chiếu quả đất - có nghĩa là tính được vận tốc thực của quả đất so với vận tốc ánh sáng - và xin được công bố sau). Độ cứng của vũ trụ là nguyên nhân tồn tại của những hằng số cơ bản , trong đó dễ thấy nhất là hằng số c Chúng ta biết rằng năng lượng của mỗi tia sáng ( mỗi photon ) luôn không thay đổi trong quá trình lan truyền trong không gian. Như vậy, trên quan điểm vũ trụ là một thực thể đồng nhất liên tục, thì mỗi tia sáng là một xung dao động ngang đồng trục tạo thành một chuỗi những hạt rỗng nhỏ dần trên trục dao động tương ứng với biên độ dao động giảm dần của xung Với phương thức như vậy, ánh sáng đã bảo toàn được năng lượng của nó trong quá trình truyền sóng. Độ rỗng ® của chuỗi hạt rỗng tỉ lệ thuận với năng lượng dao động và tỉ lệ nghịch với độ cứng (k) của vũ trụ r = [ E/k ] (chỉ là công thức gợi ý, chưa hoàn chỉnh) Giới hạn đàn hồi của vũ trụ đã tạo nên giới hạn lớn (U) của những hạt rỗng và giới hạn của mật độ năng lượng (J) Ở tại cùng một độ cứng của vũ trụ , với các mức năng lượng khác nhau các tia sáng luôn có cùng một tần số dao động và chỉ khác nhau về độ rỗng và độ dài xung . Đó là bản chất của ánh sáng , và như vậy giao thoa kế của Michelson và Moley đã không có hiệu quả trong thí nghiệm trước đây (1887). Hiện tượng chuyển đỏ quang phổ trong quan sát thiên văn không phải do hiệu ứng Doppler mà nó chứng tỏ rằng độ cứng của vũ trụ hiện đang gia tăng Nếu như vậy, vật chất trong quá khứ tồn tại ở giới hạn mật độ năng lượng thấp hơn và đó lại là một yếu tố nữa khiến cho ánh sáng của quá khứ càng chuyển đỏ hơn. (do đó, khi sử dụng độ sáng đặc trưng để đo khoảng cách từ trái đất đến các thiên hà, khoảng cách này đã bị tăng lên do độ sáng không chỉ giảm theo khoảng cách mà còn giảm mạnh theo thời gian, chính điều này đã dẫn đến sai lệch trong tính toán khối lượng của vũ trụ, và vật chất tối đã thực sự không tồn tại ). Điều gì sẽ xảy ra khi độ cứng của vũ trụ thay đổi ? Trước hết ta hãy xem xét cấu trúc của những neutron, proton…cùng với bản chất của những lực vận hành vũ trụ. Mỗi Photon là một xung dao động cơ bản của vũ trụ Áp lực dao động của chúng có thể cộng hưởng và tương tác với nhau, trong một số trường hợp, phương truyền sóng của photon có thể bị bẻ cong bởi cộng hưởng áp lực dao động (ff) Khi vận tốc photon đủ nhỏ và ff đủ lớn , các photon sẽ bị cuộn xoắn lại bởi ff nội tại và trở thành những cấu trúc vật chất (…), trong đó, mỗi photon trở thành một tia cấu tạo của cấu trúc đó, vận tốc của nó © trở thành vận tốc cấu tạo (Z) của cấu trúc . Chu kỳ cấu tạo là đơn vị thời gian nội tại của cấu trúc. Ở trạng thái chuyển động, chu kỳ cấu tạo dãn ra do tia cấu tạo phải thực hiện thêm chuyển động v . t’ = t / ( 1 – V2/Z 2)1/2 Vector v là vận tốc thực của vạn vật trong vũ trụ, và cũng là bản chất của hiện tượng quán tính và định luật bảo toàn động lượng. Thí nghiệm nổi tiếng về quả lắc của Léon Foucault là một minh chứng cho lý thuyết này Áp lực dao động cũng hình thành những nếp dao động theo từng cấu trúc, và tạo nên lực cộng hưởng nếp dao động giữa các cấu trúc, lực này tỉ lệ thuận với độ lồi lõm của những nếp dao động, do đó nó chỉ xuất hiện trong phạm vi bán kính rất nhỏ của cấu trúc. đó là lực liên kết hạt nhân trong nguyên tử Giới hạn của mật độ năng lượng không cho phép lực liên kết hạt nhân ép chặt các cấu trúc quá mật độ cho phép . đó là bản chất của lực yếuỞ phạm vi bán kính càng lớn , độ lồi lõm của những nếp dao động càng bị nhoè đi và năng lượng dao động chỉ thể hiện được độ rỗng của tập hợp. Cộng hưởng áp lực ở khoảng cách lớn đã tạo nên lực hấp dẫn Làm thế nào để một photon có thể đủ dài với một độ rỗng đủ lớn và một vận tốc đủ nhỏ để ff nội tại có thể cuộn xoắn chúng lại thành những cấu trúc như hiện nay ? Điều này chỉ có thể xảy ra khi những photon biến dạng trong quá trình giảm độ cứng của vũ trụ Bắt đầu ở một độ cứng cực đại, năng lượng nội tại của vũ trụ hình thành những photon rất nhỏ và ngắn(giới hạn U rất nhỏ) , nhưng với một năng lượng rất lớn (giới hạn mật độ năng lượng J rất cao) Và khi độ cứng của vũ trụ giảm dần, độ rỗng của những photon tăng dần, nhưng do giới hạn mật độ J giảm nên năng lượng dư thừa làm tăng chiều dài của photon , vận tốc của chúng cũng giảm dần Vũ trụ lúc bấy giờ tràn ngập những tia sáng rất dài với mức năng lượng lớn nhất, cho đến khi độ rỗng của những photon đủ lớn và một vận tốc đủ nhỏ, chúng sẽ bị cuộn xoắn lại bởi ff khi tương tác với nhau và trở thành những neutron, lực liên kết hạt nhân hình thành cùng với lực hấp dẫn tập hợp những neutron lại với nhau thành những sao neutron khổng lồ. Tuy nhiên những thiên thể càng lớn thì mật độ trong lòng chúng càng giảm bởi giới hạn mật độ năng lượng không cho phép chúng tồn tại ở mật độ quá đậm đặc. Vũ trụ trở nên tối tăm bởi hầu hết ánh sáng đã bị ngưng đọng thành những cấu trúc vật chất Khi độ cứng của vũ trụ tiếp tục giảm, độ rỗng của những tia cấu tạo tăng lên, làm gia tăng lực liên kết hạt nhân Mật độ năng lượng giảm xuống, năng lượng dao động thừa ra khiến cho neutron phân hoá thành P và E, giảm mật độ sít chặt của những tập hợp xuống giới hạn tồn tại cho phép, lực điện từ hình thành cùng với những nguyên tố rất nặng Năng lượng dao động tiếp tục thừa ra và bức xạ thành những sóng điện từ tràn ngập vũ trụ (hiện tượng Quasar) cho đến khi độ cứng của vũ trụ ngừng suy giảm. Do đó, khi nhìn về quá khứ của vũ trụ, điều chúng ta thấy được xa nhất chỉ là hiện tượng Quasar (vào cuối chu trình giảm độ cứng của vũ trụ). Và như một dao động tuần hoàn, vũ trụ sẽ tiếp tục biến dịch theo một chu trình ngược lại , độ cứng của vũ trụ sẽ tăng dần, vận tốc của những tia cấu tạo sẽ gia tăng , cùng với độ rỗng của nó sẽ giảm dần . Giới hạn mật độ năng lượng gia tăng khiến cho độ rỗng của những tia cấu tạo ngày càng dưới mức giới hạn , do đó chúng có khả năng hấp thụ năng lượng để gia tăng độ rỗng đến giới hạn mới (đây có thể là nguyên nhân hụt khối của quả cân chuẩn tại Viện hàn lâm khoa học Pháp khi sự gia tăng khối lượng của nó chậm hơn những quả cân ở bên ngoài do điều kiện bảo quản). Lực liên kết hạt nhân ngày càng nhỏ , những nguyên tố nặng phân rã dần, những thiên thể bùng nổ thành những sao sáng, những nguyên tố nhẹ hơn được hình thành Trong một nhóm nguyên tố nặng , khi một nguyên tử phân rã hạt nhân, năng lượng bức xạ được các nguyên tử kế bên hấp thụ một phần , do đó làm gia tăng độ rỗng của những tia cấu tạo và lực liên kết hạt nhân của những nguyên tử này, giúp chúng vượt qua thời điểm phân rã và tồn tại thêm một thời gian nếu không bị bắn phá nhưng chúng sẽ tiếp tục phân rã khi lực liên kết hạt nhân yếu dần trong quá trình tăng độ cứng của vũ trụ . đó là nguyên nhân của chu kỳ bán rã của những nguyên tố phóng xạ . Những tia sáng mới được tạo ra với mức năng lượng ngày càng lớn ( do được bức xạ từ những cấu trúc đã hấp thụ thêm năng lượng ), trong khi những tia sáng cũ lan truyền trong không gian với độ rỗng ngày càng giảm (chuyển đỏ) và ánh sáng của mặt trời sẽ mang đến trái đất ngày càng nhiều năng lượng hơn làm cho trái đất ngày càng nóng lên. Tất cả các nguyên tố sẽ phân rã dần cho đến khi chỉ còn lại Hydro và những neutron Vận tốc của ánh sáng và của những tia cấu tạo ngày càng tăng cùng với độ rỗng ngày càng giảm cho đến khi lực cộng hưởng dao động không đủ mạnh để giữ tia cấu tạo tồn tại trong cấu trúc, tất cả đều trở thành ánh sáng tràn ngập không gian, những tia sáng, đến lượt chúng cũng nhỏ dần với vận tốc cực lớn và dần dần biến mất, thời gian và không gian không còn nữa, vũ trụ trở thành một cõi tịch lặng vĩnh hằng. Tuy nhiên với một nguồn năng lượng vô hạn đang tiềm ẩn, vũ trụ sẽ tiếp tục biến dịch với một chu trình ngược lại sau khi đã đạt đến một độ cứng tới hạn .và những tia sáng sẽ lại được hồi sinh trở lại Xu hướng hấp thu và tích luỹ năng lượng của sự sống có nguồn gốc sâu xa trong xu hướng nội tại của cấu trúc vật chất trong chu trình gia tăng độ cứng của vũ trụ : các tia cấu tạo không ngừng hấp thu năng lượng để đạt mức giới hạn mật độ năng lượng đang liên tục gia tăng của vũ trụ . Trên xu hướng đó những tập hợp phức tạp dần được hình thành và tạo nên sự sống như ngày nay trên trái đất. Khi một dao động hình thành tại một điểm trong không gian cũng có nghĩa là nó đã hình thành tức thời trong suốt bề dày vô hạn của không gian theo chiều co dãn của dao động tại điểm đó. Và do đó mỗi một vật thể, một bông hoa, một hạt bụi đều luôn luôn hàm chứa trong nó cái vô hạn của vũ trụ. Mỗi cá thể luôn là một bộ phận của cá thể khác . Tất cả chúng ta đều có chung một thân thể, đó là cái thực thể vô hạn bất sinh bất diệt đang biến dịch tuần hoàn vớí một nhịp điệu bất tận không có khởi đầu và kết thúc. ------------- (1) G.F.Chew, Impasse for the elementary particle concept, the great ideas today (William Benton, Chicago,1974),99.
  11. Không phải là bác bỏ sự tồn tại của hạt cơ bản mà chỉ xác định nó chưa thật sự là cơ bản khi còn có cấu trúc nội tại Quasar
  12. Chào anh Không phải là tia sáng thực sự cong, mà do gia tốc của thang máy nên cái thấy tương đối của người trong đó có cảm giác cong mà thôi, nếu chuyển động đều thì thấy là tia thẳng Còn việc sửa tit thì tùy anh, quasar cũng xin đồng ý vậy Quasar
  13. Bác Liêm Trinh có một câu hỏi thật chính xác, đó chính là điểm đã gây nhiều nhầm lẫn nhất Với đèn gắn ở thành thang máy, thì : ở những vận tốc khác nhau là những tia sáng khác nhau (về phương), do đó ta chỉ có thể bắt một tia sáng từ bên ngoài thì mới đảm bảo nó luôn vuông góc với thang máy Vì sao : Từ đèn gắn ở thang máy: Tia sáng được tạo ra bằng cách lấy từ một nguồn sáng qua một khe hẹp hoặc qua một thấu kính hội tụ tạo thành chùm tia song song Vì tia sáng không phụ thuộc vào chuyển động của nguồn sáng, mà khe hẹp hoặc thấu kính lại chuyển động theo thang máy cho nên chỉ có những tia sáng nào trong chùm tia của nguồn đuổi kịp (hướng đúng vào) khe hẹp hoặc thấu kính thì mới ló ra khỏi đèn, do đó, dù thang máy chuyển động thì tia ló vẫn luôn hướng đúng vào điểm đối diện ở tường bên kia nhưng có góc tới khác nhau, mà tia này thì lại không phải là tia cần dùng cho thí nghiệm. Đó cũng là lý do vì sao không một thí nghiệm nào có thể phát hiện được chuyển động của quả đất bằng cách dùng kiểu tia sáng như vậy. Nếu có nguồn sáng nào chỉ phát ra một tia có định hướng duy nhất mà không cần thấu kính thì mới có thể dùng được cho thí nghiệm này Còn về nguyên lý hoạt động của đồng hồ nguyên tử thì quasar chưa chắc hiểu hơn bác cho nên bác cứ google cho chắc Quasar
  14. Định nghĩa về hạt đã có và không ai nói rằng sẽ được bổ sung và hoàn thiện dần Mô hình chuẩn sẽ sụp đổ khi hạt higgs không tồn tại Vậy thì chúng ta hãy chờ xem kết quả từ máy gia tốc trước khi bàn đến việc hiểu như thế nào về 'hạt', hay 'cấu trúc', trừ khi bạn quá rãnh
  15. Chào anhThiên Sứ Xin được đóng góp một ngu ý : Khả năng thấu thị, ngoại cảm luôn được coi là kỳ lạ đối với nhận thức như hiện nay về vũ trụ của khoa học. Nhưng sẽ không có gì lạ nếu vũ trụ được xem là một tánh thể thống nhất, trong đó mỗi cá thể là một trạng thái của vũ trụ ở góc độ của cá thể đó và do đó mỗi cá thể luôn hàm chứa tất cả những cá thể khác, cái tâm của mỗi cá thể chỉ là sự phóng hiện từ cái tánh vĩnh hằng của vũ trụ, và khi cái tâm đó cảm và giải mã được nội trạng của nó thì khả năng thấu thị hoặc ngoại cảm sẽ xuất hiện. Kính
  16. Mục đích của khoa học là tìm hiểu đến cái lý tận cùng của vạn vật, khoa học chỉ dừng lại (không nói đến những nghiên cứu ứng dụng) khi không còn bất cứ câu hỏi nào chưa được trả lời Theo bạn thì khoa vật lý hạt đã xác định được những nhóm hạt cơ bản khác nhau và cũng theo cái định nghĩa mà bạn dẫn chứng : an elementary particle or fundamental particle is a particle not known to have substructure; that is, it is not known to be made up of smaller particles. If an elementary particle truly has no substructure, then it is one of the basic building blocks of the universe from which all other particles are made. In the Standard Model, the quarks, leptons, and gauge bosons are elementary particle (trích từ wikipedia) . Có thể hiểu đó là những hạt đồng nhất bởi chúng không phải tạo thành từ những hạt khác nhỏ hơn. Giả sử có hai hạt a và b khác nhau được xác định là hai hạt cơ bản, chúng khác nhau bởi trường hạt mà chúng tạo ra hoặc sự thể hiện khác nhau khi tương tác, vậy thì ta có thể đặt câu hỏi :điều gì đã làm cho chúng có sự khác nhau như vậy ? Bởi sự khác nhau đó chỉ có thể được tạo ra khi và chỉ khi chúng có cơ cấu nội tại khác nhau, và một cơ cấu nội tại thì không thể gọi là đồng nhất được bởi nó phải là một cấu trúc đặc trưng của những thành tố (hay những hạt cơ sở). Do đó, những hạt a,b kia đã không còn là những hạt cơ bản theo như định nghĩa trên của bạn nữa Và cho dù có tồn tại chỉ duy nhất một loại hạt được gọi là cơ bản thì ta vẫn có thể đặt câu hỏi : cái gì đã làm nên trường hạt của nó để từ đó nó có thể tương tác với nhau tạo nên những cấu trúc vật chất nếu không phải là một cơ cấu nội tại ? Khoa vật lý hạt đã rơi vào một hố thẳm không đáy, có người đã cho rằng hạ nguyên tử cũng là một thế giới vô tận Nếu có một hạt cơ bản thực sự thì nó phải không bị một sự áp đặt nào lên kích thước của nó – nó sẽ vô hạn và đồng nhất. Không có thế giới nào được tạo ra từ những hạt. Thế giới của chúng ta chỉ là hình ảnh của những dao động nội tại của ‘hạt cơ bản’ đó. Có bao giờ bạn tự hỏi : ta là gì ? tại sao ta được hình thành ? Ta không thể là sản phẩm ngẫu nhiên của vũ trụ bởi ta đang bị câu thúc bởi một xu hướng nội tại đang bắt ta phải ăn phải lớn phải sinh sản, biết phân biệt, biết đau khổ và hạnh phúc. Xu hướng đó nhất định đang tồn tại và tiềm ẩn từ nơi sâu thẳm nhất, từ nơi yếu tố cơ bản nhất đã tạo nên thế giới này, đó chính là xu hướng hấp thu và tích lũy năng lượng, xu hướng đó đã tạo nên cái cơ chế tăng trưởng, sinh sản và những bản năng sinh tồn khác của muôn loài. Không có xu hướng đó, những nguyên tử vô tri kia không thể tạo nên những cơ thể sống vô cùng phức tạp mà cũng vô cùng hoàn hảo từ trong một cá thể cho đến sự tương hợp của chúng trong một quần thể. Cái gì đã hình thành nên xu hướng đó nếu không phải là hệ quả của quá trình vận hành của vũ trụ ? Và lý thuyết biến dịch đã lý giải những điều đó như vậy. Sở dĩ tôi nêu ra sự tương đồng với dịch lý là bởi tôi thực sự thấy được chỗ tương đồng của nó, thứ nữa là để khảo nghiệm xem nó có thực sự tương đồng hay không để biết rằng một là lý thuyết này sai hai là bản thân dịch lý cần xem xét lại cho phù hợp, mặt khác cũng góp phần thêm vào những đối tượng cho định nghĩa về âm dương cho thêm phần sôi nổi trong khi vẫn biết rằng lúc này là hoàn toàn chưa phù hợp, bởi tôi không phải là một kể hoang tưởng tệ hại!
  17. Xin được sửa chửa lại như vầy : Bản thể vô hạn và vĩnh hằng của vũ trụ, chứa đựng hai đại lượng : -dương : thể hiện tính cứng rắn ( sự thể hiện của thực thể ) -âm : thể hiện cái rỗng không (sự thể hiện của năng lượng) Hai yếu tố âm dương biến dịch tuần hoàn tạo nên sự sinh hóa của của vạn vật Cái dương chủ động biến dịch trước, cái âm theo đó mà tăng giảm, tuy đồng thời nhưng lệ thuộc - "Dương trước Âm sau - Âm thuận tùng Dương". Một vũ trụ như vậy liệu có tương đồng với lý học đông phương không vậy? Xin quý vị minh xét.
  18. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA LÝ THUYẾT BIẾN DỊCH VỚI THUYẾT ADNH (Ở cấp độ vĩ mô) Thái cực- Bản thể vô hạn và vĩnh hằng của vũ trụ, chứa đựng hai yếu tố : -dương : thể hiện tính cứng rắn -âm (năng lượng) : thể hiện cái rỗng không Hai yếu tố âm dương biến dịch tuần hoàn tạo nên những biến đổi của vạn vật qua các thời kỳ: Thái dương -Tại độ cứng cực đại, năng lượng tiềm ẩn hoàn toàn - quái Càn Khi độ cứng giảm, những tia sáng bé nhỏ được sinh ra với độ rỗng ngày càng tăng.-quái Đoài Thiếu dương- Độ cứng tiếp tục giảm cho đến khi các tia sáng trở nên đồng đều bởi giới hạn rỗng.-quái Ly Khi độ rỗng các tia sáng đủ lớn và chậm hơn, chúng tương tác với nhau và cuộn xoắn lại thành những cấu trúc ‘vật chất’ .-quái Chấn Thái âm -Tại độ cứng cực tiểu, toàn bộ năng lượng đều ngưng đọng thành ‘vật chất’ với một độ rỗng cực đại -quái Khôn Khi độ cứng tăng, độ rỗng của tia cấu tạo giảm, lực liên kết hạt nhân giảm -quái Cấn Thiếu âm- Lực liên kết hạt nhân yếu dần cho đến khi xảy ra phản ứng phân hạch, .-quái Khảm Khi độ rỗng của tia cấu tạo quá nhỏ, tất cả chúng vượt thoát khỏi ràng buộc của cấu trúc và bức xạ thành ánh sáng- quái Tốn Cho đến khi độ cứng của vũ trụ đạt cực đại và tiếp nối một chu kỳ tuần hoàn khác.
  19. Khi chúng ta phát hiện ra một hạt thì nghĩa là hạt đó phải có đặc tính đặc trưng riêng của nó, vậy thì cái gì đã làm nên đặc trưng riêng đó nếu không phải là một cấu trúc nội tại
  20. Xin bạn hãy đọc kỹ lại:chúng ta cũng luôn đồng ý với Geoffrey Chew rằng : “ Một hạt cơ bản đích thực – tức là không hề còn có cơ cấu nội tại nào cả __ thì không thể là đối tượng của một lực nào, lực đó cho phép chúng ta phát hiện sự hiện hữu của nó. Chỉ duy việc biết đến sự hiện hữu của một hạt là đã nói được rằng hạt đó phải có một cơ cấu nội tại.” Nguyên văn: “A truly elementary particle – completely devoid of internal structure – could not be subject to any forces that would allow us to detect its existence. The mere knowledge of a particle’s existence, that is to say, implies that the particle possesses internal structure!”(1) Và nó phải là hoàn toàn đồng nhất, mỗi mảnh vỡ của nó phải là chính nó nguyên vẹn không khác, nó không phụ thuộc vào không gian và thời gian. Với đặc tính đó, hạt cơ bản đã không thể tồn tại trong thế giới của chúng ta, dù là trong thế giới hạ nguyên tử. Vậy tại sao chúng ta luôn cho rằng nó phải là một hạt có kích thước nhỏ nhất ? Tại sao nó không thể là một hạt có kích thước vô hạn, bao hàm và quy định tất cả các quy luật vận hành của vũ trụ ? Và chỉ có cái vô hạn mới hàm chứa đầy đủ đặc tính của một hạt cơ bản. Geoffrey Chew là một nhà vật lý hạt, và đó cũng là một định nghĩa đích thực về hạt cơ bản của vật lý hiện đại
  21. Theo đinh nghĩa thì nó là một thực thể vô hạn, do đó chỉ tạm gọi là 'một', bởi nó không còn là đối tượng của đo đếm.
  22. Chào anh Xin được trích đoạn từ http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%B7t_Tr%C4%83ng Nhiều cơ cấu đã được đưa ra nhằm giải thích sự hình thành của Mặt Trăng. Mọi người tin rằng Mặt Trăng đã được hình thành từ 4,527 ± 0,010 tỷ năm trước, khoảng 30-50 triệu năm sau sự hình thành của Hệ Mặt Trời[32]. Giả thuyết phân đôi Nghiên cứu ban đầu cho rằng Mặt Trăng đã vỡ ra từ vỏ Trái Đất bởi các lực ly tâm, để lại một vùng trũng – được cho là Thái Bình Dương – [33]. Tuy nhiên, ý tưởng này đòi hỏi Trái Đất phải có một tốc độ quay ban đầu rất lớn, thậm chí nếu điều này có thể xảy ra, quá trình đó sẽ khiến Mặt Trăng phải quay theo mặt phẳng xích đạo của Trái Đất, nhưng thực tế lại không phải như vậy. Giả thuyết bắt giữ Nghiên cứu khác lại cho rằng Mặt Trăng đã được hình thành ở đâu đó và cuối cùng bị lực hấp dẫn của Trái Đất bắt giữ[34]. Tuy nhiên, các điều kiện được cho là cần thiết để một cơ cấu như vậy hoạt động, như một khí quyển mở rộng của Trái Đất nhằm tiêu diệt năng lượng của Mặt Trăng đi ngang qua, là không thể xảy ra. Giả thuyết cùng hình thành Giả thuyết cùng hình thành cho rằng Trái Đất và Mặt Trăng cùng hình thành ở một thời điểm và vị trí từ đĩa bồi đắp nguyên thuỷ. Mặt Trăng đã được hình thành từ vật chất bao quanh Tiền Trái Đất, tương tự sự hình thành của các hành tinh xung quanh Mặt Trời. Một số người cho rằng giả thuyết này không giải thích thỏa đáng sự suy kiệt của sắt kim loại trên Mặt Trăng. Một sự thiếu hụt lớn trong mọi giả thuyết trên là chúng không thể giải thích được động lượng góc cao của hệ Trái Đất-Mặt Trăng[35]. Giả thuyết vụ va chạm lớn Giả thuyết ưu thế nhất hiện tại là hệ Trái Đất-Mặt Trăng đã được hình thành như kết quả của một vụ va chạm lớn. Một vật thể cỡ sao Hỏa (được gọi là "Theia") được cho là đã đâm vào Tiền Trái Đất, đẩy bắn ra lượng vật chất đủ vào trong quỹ đạo Tiền Trái Đất để hình thành nên Mặt Trăng qua quá trình bồi tụ[1]. Bởi bồi tụ là quá trình mà mọi hành tinh được cho là đều phải trải qua để hình thành, các vụ va chạm lớn được cho là đã ảnh hưởng tới hầu hết, nếu không phải toàn bộ quá trình hình thành hành tinh. Các mô hình giả lập máy tính về một vụ va chạm lớn phù hợp với các đô đạc về động lượng góc của hệ Trái Đất-Mặt Trăng, cũng như kích thước nhỏ của lõi Mặt Trăng[36]. Các câu hỏi vẫn chưa được giải đáp của giả thuyết này liên quan tới việc xác định tương quan kích thước của Tiền Trái Đất và Theia và bao nhiêu vật liệu từ hai thiên thể trên đã góp phần hình thành nên Mặt Trăng. http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%B7t_Tr%C4%83ng
  23. Giả thuyết mới về nguồn gốc mặt trăng Mặt trăng hình thành sau một vụ nổ hạt nhân trên trái đất, hai nhà khoa học quốc tế khẳng định. Nguồn gốc của mặt trăng và nguyên nhân khiến nó bay xung quanh trái đất là một trong những bí ẩn lớn nhất đối với giới khoa học trong nhiều thế kỷ. Giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là: Khi hệ Mặt Trời ra đời, một thiên thể đã va chạm với địa cầu và khiến một lượng đất, đá văng ra. Khối vật chất ấy xoay quanh trái đất và trở thành mặt trăng. Tuy nhiên, có hai nhà khoa học không nghĩ thế. Theo Daily Mail, đó là Rob de Meijer - một chuyên gia của Đại học Western Cape, Nam Phi - và Wim van Westrenen thuộc Đại học Tự do, Hà Lan. Họ cho rằng thiên thể lao trúng địa cầu không phải sự kiện khiến mặt trăng tách khỏi trái đất. Thay vào đó một vụ nổ hạt nhân trên trái đất mới là nguyên nhân chính. Meijer và van Westrenen đưa ra lập luận trên dựa theo thuyết "sinh sản phân đôi" từng được khởi xướng từ thế kỷ 19. Theo thuyết này, trái đất và mặt trăng cùng được tạo ra bởi nham thạch nóng chảy trong vũ trụ. Sau đó một phần trái đất tách ra và trở thành mặt trăng. Nhưng các nhà khoa học ủng hộ thuyết "sinh sản phân đôi" không thể giải thích tại sao một phần trái đất có thể tách ra. Trong nghiên cứu mới đây, Meijer và van Westrenen cho rằng, nếu mặt trăng tách ra khỏi trái đất bởi một vụ va chạm với thiên thể thì chắc chắn nó phải chứa những vật chất từ trái đất và từ thiên thể kia. Tuy nhiên, các mẫu đất đá trên mặt trăng cho thấy cấu tạo hóa học của "chị Hằng" gần giống địa cầu. Điều này có nghĩa là mặt trăng không được tạo ra bởi sự va chạm giữa trái đất và một thiên thể. Theo hai nhà nghiên cứu, một cách giải thích hợp lý nhất là: Mặt trăng tách khỏi trái đất nhờ năng lượng bên trong. Họ tin rằng lực đẩy mặt trăng được tạo nên bởi một vụ nổ hạt nhân khủng khiếp. Vụ nổ này là kết quả của quá trình phân rã hạt nhân cực mạnh ở giữa vỏ và lõi của hành tinh xanh. Clay Dillow, một chuyên gia của tạp chí Popular Science, ủng hộ quan điểm trên. "Chúng ta chưa thể kiểm chứng giả thuyết của Meijer và van Westrenen, nhưng chúng ta đều biết rằng hiện tượng phân rã hạt nhân thực sự diễn ra trong lòng đất. Chúng để lại uranium mà con người đang khai thác", Dillow nói. Theo DailyMail/VNE --------------------------------------------------- Bí mật xung quanh chuẩn tinh chứa sắt Các nhà nghiên cứu Đức mới phát hiện một chuẩn tinh chứa lượng sắt cực lớn. Thiên thể này xuất hiện khoảng 1,5 tỷ năm sau Big Bang, tức là từ thời vũ trụ còn rất non nớt. Phát hiện này mâu thuẫn với quan điểm lâu nay cho rằng, sắt và các kim loại nặng chỉ xuất hiện sau khi vũ trụ đã "cứng cáp". Vì ở rất xa, chuẩn tinh đồng thời cũng là sứ giả của vũ trụ sơ khai. Ánh sáng mà Hasinger thu được đã rời khỏi chuẩn tinh APM 08279+5255 từ cách nay 13,5 tỷ năm, tức là sau Big Bang 1,5 tỷ năm. (Hệ mặt trời của chúng ta mới ra đời cách nay khoảng 4,5 tỷ năm). Theo lý thuyết được đa số mọi người chấp nhận thì các nguyên tố nặng như sắt, chì, vàng... chỉ xuất hiện sau các vụ nổ siêu tân tinh, và quá trình này kéo dài nhiều tỷ năm. Vì vậy, việc phát hiện sắt ở một chuẩn tinh 1,5 tỷ năm sau Big Bang là điều rất khó hiểu. Theo Hasinger, chỉ có hai cách giải thích cho phát hiện này: hoặc là các nguyên tố hóa học nặng như sắt phải được hình thành theo một cách nào đó mà người ta chưa biết, hoặc là vũ trụ thực ra phải già hơn nhiều chứ không phải 15 tỷ năm như ta tưởng Minh Hy (theo SPIEGEL - 6/6/2002) -------------------------------------- Ngôi sao đầu tiên xuất hiện rất sớm Kính thiên văn Hubble mới chụp được ánh sáng của những ngôi sao cách đây trên 10 tỷ năm. Phân tích những bức ảnh này, các nhà khoa học Mỹ đưa ra kết luận, ngôi sao đầu tiên có lẽ đã hình thành chỉ sau Big Bang khoảng 100 triệu năm - sớm hơn mọi phỏng đoán trước đó Lý thuyết cũ cho rằng, ngôi sao đầu tiên xuất hiện khoảng 1 tỷ năm sau Big Bang, và số lượng các ngôi sao được sinh ra cứ tăng dần sau đó, rồi đạt mức cực đại vào thời điểm khoảng 8 -10 tỷ năm Tuy nhiên, theo các quan sát mới đây, thì càng gần Big Bang, số lượng ngôi sao sinh ra càng nhiều, và giảm dần cho đến ngày nay Theo mô hình của Lanzetta, Big Bang xuất hiện cách đây khoảng 14 tỷ năm. Thế hệ sao đầu tiên hình thành khoảng 100 triệu năm sau đó, và sau 1 tỷ năm, thiên hà đầu tiên đã xuất hiện Nhóm khoa học của Ken Lanzetta, Đại học Quốc gia New York ở Stony Brook (Mỹ) đã chụp được ánh sáng của các ngôi sao hình thành sau Big Bang khoảng 4-5 tỷ năm. Nghiên cứu các bức ảnh này, Lanzetta thấy rằng, càng sát gần Big Bang, càng có nhiều vệt sáng xanh - trắng trong các bức ảnh. Những vệt sáng này chính là dấu vết của những ngôi sao mới. Điều đó cho thấy, càng gần Big Bang, số lượng sao sinh ra càng nhiều Theo mô hình của Lanzetta, Big Bang xuất hiện cách đây khoảng 14 tỷ năm. Thế hệ sao đầu tiên hình thành khoảng 100 triệu năm sau đó, và sau 1 tỷ năm, thiên hà đầu tiên đã xuất hiện. Theo mô hình mới, càng gần Big Bang, các ngôi sao xuất hiện càng nhiều Minh Hy (theo CNN 9/1/2002) ----------------------------------------------------------------- Những phát hiện trên của khoa học là rất phù hợp với lý thuyết này về quá trình hình thành các thiên hà (với bản chất là phản ứng phân hạch)