TheTrung

Hội viên
  • Số nội dung

    221
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by TheTrung

  1. In June 1954, Vietnamese scholars began to assess criticallythe findings of colonial scholars in the new journal Tập san Nghiên cứu Văn Sử Ðịa(The Journal of Literary, Historical and Geographical Research), hereafter VSĐ,published by the Committee for Research in History, Geography and Literature. The journal appeared every month or every other month until 1959, when the Committee wasreorganised to form the Institute of History, which published Tập san Nghiên cứuLịch sử (The Journal of Historical Research), hereafterNCLS, superseding the earlier title.6 Historical and archaeological research was published in these journals;from 1960, one of the principal concerns of DRV scholars was the study of the HùngKings and their country of Văn Lang, by now considered the “origins of thenation”. Vào tháng 6 năm 1954, các học giả Việt Nam bắt đầu đánh giá phê bình nhữngphát hiện của các học giả thực dân trong tạp chí mới Tập san Nghiên VănSử Địa (Tạp chí củavăn học, Lịch sử và Nghiên cứu địa lý), sau đây gọi là VSĐ, xuất bản bởi Uỷ ban Nghiên cứu Địa lý, Lịch sử và Văn học. Các tạp chí xuất bản hàng tháng hoặc mỗi 2 tháng cho đến năm 1959, khi Uỷ ban được tổ chức lại để thành lập Viện Lịch sử, nơi xuất bản Tập san Nghiên cứu lịch sử (Tạp chí Lịch sử nghiên cứu), sau đây gọi là NCLS, thay thế các tiêu đề trước đó.6 Những nghiên cứu về lịch sử và khảo cổ học đã được xuất bản trong các tạpchí này từ năm 1960, một trong những mối quan tâm chủ yếu của các học giả CHDCVNlà nghiên cứu về các vua Hùng và đất nước của họ Văn Lang, bây giờ được coi là"nguồn gốc của dân tộc". In December 1967, the editors of NCLS explicitly linked thebronze remains in Việt Nam, first unearthed by the French at Ðông Sơn, to accountsof the Hùng Kings and the country of Văn Lang in pre-colonial Vietnamese texts inan exhortation to historians to study the period of the Hùng Kings.7 In 1968, the Institute of Archaeology was formed. The first issues of the Institute’s journal, Tạp chí Khảo cổ học (The Journal of Archaeology), hereafter KCH, were givenover almost completely to discussions of the relationship between the Hùng Kings,Văn Lang and the bronze artefacts found in Việt Nam. From 1968 to 1970, the Institute of Archaeology, the Institute of History, the Museum of History, and theUniversity of Hà Nội organized four conferences on the Hùng Kings. The results of these conferences werepublished in the journal of the Institute of History and in the fourvolumes of Hùng Vương Dựng Nước (The Hùng Kings Built the Country).8 Vào tháng 12 năm 1967, các biên tập viên của NCLS đãliên kết mộtcách rõ ràng di vật bằng đồng ở Việt Nam, lần đầu tiên được khai quật bởingười Pháp ở Đông Sơn, với báo cáo về các vua Hùngvà đất nước Văn Langtrong các văn bản tiền thuộc địa của Việt Nam trong sựthúc đẩy đối với các nhà sử học để nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng.7 Năm 1968, Viện Khảo cổ học đã được hình thành. Vấn đềđầu tiên của tạp chí của Viện, Tạp chí Khảo cổ học, sau đây gọi là KCH, đã gầnnhư hoàn toàn được đưa ra để thảo luận về mối quan hệ giữa các vua Hùng, Văn Lang và đồ tạo tác đồng tìmthấy ở Việt Nam. Từ 1968 đến 1970, Viện Khảo cổ học, các ViệnLịch sử, Bảo tàng Lịch sử, Đại học Hà Nội tổ chức bốn hội nghị về các vị vuaHùng. Kết quả của các hội nghị này đã được công bố trên tạp chí của Viện Lịch sử và trong bốn tập của “Hùng Vương dựng nước”.8 6 Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, “Kỷ niệm năm thứ20 quyết định của Trung ương Ðảng thành lập Ban Nghiên cứu Lịchsử, Ðịa lý, Văn học”, NCLS 152 (October 1973), pp. 1-4. 7 Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, “Nênnghiên cứu vấn đề thời đại Hồng Bàng”, NCLS 97 (April 1967), pp. 5-6. 8 Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam ed., HùngVương Dựng Nước (henceforth HVDN), 4 vols. (HàNội: NhàXuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1970-74). That research had an important influence on the canonicalLịch Sử Việt Nam (The History of Việt Nam), which was published by the Instituteof History in 1971. According to Chapter One, the history of the Vietnamesenation began with “The Country of Văn Lang”; the text states that “with thedevelopment of the Bronze Age, we enter the period of the country of Văn-lang and theperiod of the Hùng Kings in the history of Vietnam”. It concludes, “So, the period of Văn Lang, the period of the Hùng Kings, is an absolutely essential stage in the historyof Vietnam. Precisely in this period, the foundation of the Vietnamese nation, thefoundation of Vietnamese culture and the spiritual tradition of Vietnam were built”. 9 For scholars in theDRV,the Vietnamese nation, first described in pre-colonial historical texts andsupported by archaeological evidence, was one of very great antiquity. Nghiên cứu nàyđã có một ảnhhưởng quan trọng đến bộ sách kinh điển Lịchsử Việt Nam, đượcxuất bản bởi Viện Lịch sử năm 1971. Theo Chương Một, lịch sử của dân tộc Việt Nam đã bắt đầu với "Nước VănLang ", văn bản chỉ ra rằng" với sự phát triển của thời đại đồ đồng,chúngta bước vào thời kỳ nước Văn-lang và thời đại của các Vua Hùng trong lịch sửViệt Nam ". Sách kết luận, "Vì vậy, thời kỳ của Văn Lang, thời kỳ củacác vua Hùng, là một giai đoạn hoàn toàn cần thiết trong lịch sử của Việt Nam.Chính trong giai đoạn này, nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng của ngườiViệt Nam văn hóa và truyền thống tâm linh của Việt Nam được xây dựng ".9 Đối với các học giả ở CHDCVN, dân tộc Việt Nam, lần đầu tiên đượcmô tả trong văn bản lịch sử tiền thuộc địa và được hỗ trợ bởi bằng chứng khảocổ, là một trong những thời cổ đại rất lớn. 9 Ủy Ban Khoa Học XãHội Việt Nam ed., Lich Sử Việt Nam, pp. 45 (“with the development of the BronzeAge”) and 66 (“absolutely essential”). 9 Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam ed., Lich SửViệt Nam, pp. 45 (“cùng với sự phát triển của thời kỳ đồ đồng”) and 66 (“hoàn toàn thuộc về bản chất”).
  2. Xin cám ơn Thu Hiền và các anh chị em đã tham gia ủng hộ, Đáng nhẽ ra, Dung ở VP HN phải post lên đây danh sách những người đã ủng hộ tại Hội Thảo ( tổng số là 18tr) nhưng chắc do Dung bận nên chưa thấy đưa danh sách, mong Dung sớm làm việc này. Cũng thay mặt Dung và VP HN xin thông báo rằng còn rất nhiều sách của bác Xuyền đang để tại VP HN, những ai có lòng ủng hộ bác Xuyền và công trình nghiên cứu chữ Việt Cổ xin liên hệ để ủng hộ, hiện có 02 tài liêu: a. Loại 1: dày khoảng 300 trang in màu tài liệu của bác Xuyền và các tài liệu liên quan: cuốn này tặng cho những người ủng hộ từ 1tr-5tr - còn khoảng 10 cuốn b. Loại 2: dày khoảng 100 trang in đen trắng tài liệu của bác Xuyền: cuốn này tặng cho những người ủng hộ 200n. - còn khoảng 30 cuốn Toàn bộ tiền thu được sẽ được gửi tới bác Xuyền, các hoạt động trên đây đã được sự cho phép của bác Xuyền và chú Thiên Sứ. Trân trọng Thế Trung
  3. Đây là phần một của bài viết: (xin thông cảm do chụp từ sách nên hình bị cong). Sẽ tiếp tục post phần tiếp theo sớm ....
  4. INTRODUCTION On 19 September 1954, following the defeat of the French atĐiện Biên Phủ, Hồ Chí Minh addressed the People’s Army who were preparing toliberate Hà Nội at the temple dedicated to the Hùng Kings on the ridge of MountNghĩa. He said, “The Hùng Kings had the merit of building the country, now youand I must protect the country together.”1 The Hùng Kings were the rulers of Văn Lang,the earliest Vietnamese polity to appear in pre-colonial Vietnamesehistorical texts. According to at least one of those texts, that polity came to an endafter the reign of eighteen Hùng Kings in the third century BCE. In 1964, at the height of the conflictbetween the Democratic Republic of Việt Nam (DRV) and the United States,children in Hà Nội were shown an animated film, which attempted to depict lifein the country of Văn Lang. The filmtold the story of the child Thánh Gióng who drove back a powerful invading army. In thecountry of Văn Lang even a child could defeat a powerful invader.2 GIỚI THIỆU Ngày 19 tháng 9 năm 1954, sau thất bạicủa Pháp tạiĐiện Biên Phủ, HồChí Minh đã nói chuyệnvới Quânđội nhân dân,những người đang chuẩn bị để giải phóng Hà Nộitại đền thờ các vua Hùng trên dải đất núiNghĩa. Ông nói,"Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùngnhau giữ lấy nước "1 Các vua Hùng làngười cai trị của Văn Lang, chính thể Việt xuấthiện sớm nhất trong văn bản lịch sử ViệtNam tiền thuộc địa. Theo ítnhất một trong những văn bản, rằng chính thể đã kếtthúc sau triều đại 18 vua Hùng trong thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Năm 1964, ở đỉnh cao củacuộc xung đột giữa Cộng hòa Dânchủ Việt Nam(DRV) và Hoa Kỳ,trẻ em ở Hà Nội được chiếu một bộ phim hoạt hình, mô tả cuộc sống ởnước Văn Lang.Bộ phim kể câu chuyện của Thánh Gióng,người cưỡi ngựa chống lại đội quân xâmlược hùng mạnh. Trong nước Văn Lang, ngay cả một đứa trẻ có thểđánh bại kẻ xâm lược hùng mạnh. Eight years earlier, in 1956, Trần Huy Liệu (1901-1969),director of the Institute of History of the DRV, wrote an article in which he declaredthat the Hùng Kings were the “origins of the nation” (nguồn gốc của dân tộc), andthat they “built the country” (xây dựng ra đất nước).3 He wrote that “ifthere had been no Hùng Kings, then there would be no Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê or Nguyễn[dynasties], and also no Democratic Republic of Vietnam”. Trần Huy Liệu’sarticle began more than a decade of research in the DRV into the Hùng Kings andthe “origins of the nation” in which archaeology came to play a major role. In an assessment of the social sciences in Việt Nam, David Marr wrote that “More than any othersocial science, archaeology fires the imagination of millions of ordinary Vietnamese andprovides a critical link between the mythic past and socialist future”.5 This thesis seeks tounderstand the historical relationship between archaeology and the nationin the DRV. Tám năm trước đó, vào năm 1956, TrầnHuy Liệu (1901-1969), giám đốc của Viện Lịch sử CHDCVN , đã viết mộtbài báo trong đó ông tuyên bố rằng các vị vua Hùng là "nguồn gốc của dân tộc" , và rằng họ "xây dựng nênđất nước"3 Ông đã viết rằng "nếu không có các vị vua Hùng, sau đó sẽ không có Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn [cáctriều đại], và cũng không có Cộng hòa Dân chủ Việt Nam ". Bài viết của Trần Huy Liệu đã bắt đầu hơn một thập kỷ của nghiêncứu ở CHDCVN về các vị vua Hùng và các "nguồn gốc của dân tộc", trongđó khảo cổ học đã đóng một vai trò quan trọng. Trong một đánh giá của các ngànhkhoa học xã hội ở Việt Nam, David Marr đã viết rằng: "Hơn bất kỳ khoa học xã hội khác,khảo cổ học khuyến khích trí tưởng tượng của hàng triệu con người Việt Nam và cung cấp một liên kết quantrọng giữa quá khứ huyền thoại và xã hội chủ nghĩa tương lai "5 Luận án này tìm hiểu mối quan hệlịch sử giữa khảo cổ học và dân tộc ở CHDCVN. 1 Ủy Ban Khoa Học XãHội Việt Nam, Lịch Sử Việt Nam, vol. 1 (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1971), p. 9. 2 Tổ Hoài, “ChuyệnÔng Gióng: Kịch Phím Hoạt Họa”, Văn Nghệ (October 30, 1964), p. 10. 3 Trần Huy Liệu,“Giỗ tổ Hùng Vương”, Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa (henceforth VSÐ) 17 (May1956), p. 1 4 Ibid., p. 3. 5 David Marr, "Nhà nước của cácmôn khoa học xã hội tại Việt Nam",Bản tin của các họcgiả châu Á liên quan 10,4 (1978), p.73. Archaeology and the Making of the Vietnamese Nation: A Sketch The formal study of archaeology in French Indochina began inDecember 1898, when the Governor-General, Paul Doumer (1857-1932), established the Mission Archéologique d’Indo-Chine in Sài Gòn, which later becamethe École Française d’Extrême-Orient (henceforth EFEO). Chief among the tasks of scholars at the EFEO was the collection, compilation and critical assessment ofindigenous Vietnamese historical texts. Scholars affiliated with the EFEO were also involved in the excavation of three major prehistoric sites in historicallyViệt-speaking territories: Henri Mansuy (1867-1937) and Madeleine Colani (1866-1943)recovered stone remains at the site of Bắc Sơn in the 1920s; MadeleineColani unearthed stone remains in the province of Hòa Bình in the 1920s; and LouisPajot and others unearthed bronze remains at Đông Sơn, in the province of ThanhHóa. However, no relationship was ever drawn between the remains found duringthese excavations and the earliest recorded history of the Vietnamese people. Khảo cổ học và sự hình thành của dân tộc Việt Nam: Một bức phác thảo Các nghiên cứu chínhthức của khảo cổhọc ở Đông Dương thuộc Phápbắt đầu vào tháng 12 năm 1898, khi Tổng Thống đốc, Paul Doumer (1857-1932),thành lập Sứ mệnh Archéologique d'Indo-Chine ởSài Gòn, sau này trở thành the École Française d’Extrême-Orient (EFEO). Đứng đầu trong số các nhiệm vụcủa các học giả tại EFEO là đánh giá thuthập, biên soạn và sự đánh giá quan trọng của các văn bản lịch sử của người Việt Nam bản địa. Các học giả liên kếtvới EFEO cũngtham gia vào việc khai quật của 3 địa điểm cổ sử chính trong lịch sử các vùng lãnhthổ nói tiếng Việt: Henri Mansuy (1867-1937) và Madeleine Colani(1866-1943) thu hồi đá còn lại tại vị trí Bắc Sơn trong những năm 1920, Madeleine Colani khai quật đá còn lại trên địa bàn tỉnh Hòa Bình trong những năm 1920 và LouisPajot và nhữngngười khác khaiquật hài cốt đồng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, không có một mối quan hệ nào được hình thành giữanhững di vật được tìm thấy trong nhữngcuộc khai quật và lịch sử sớm nhấtcủa người Việt Nam đã được ghi chép lại.
  5. The DRV state succeeded the French colonial state in supporting the studyof archaeology. The cultural policyof the DRV state was explicitly nationalist, populist, scientific and Marxist. Thisinformed the study of archaeology in a number of institutional contexts. Owing tothe fact that prehistoric archaeology under colonial rule was of amateur provenance, there were no trained Vietnamesearchaeologists at the time of independence. Archaeology in the DRV came under the influence of Soviet archaeology. In the mid1950s, DRV scholars identified the country of Văn Lang, the earliest recorded Vietnamese polity, and the Hùng Kings as the“origins of the nation”. As DRVarchaeologists began the first excavations in the post-independence period, they mounted a wide-ranging critique of archaeologyconducted during the colonial period. Nhà nước Cộng hòa dân chủ Việt nam (CHDCVN) đã tiếpnối nhà nước thực dân Pháp trong việc hỗ trợ nghiên cứu của khảo cổ học. Chính sáchvăn hoá của nhà nước CHDCVN rõ ràng mang chủnghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, khoa học và chủ nghĩa Mác. Điều nàycho thấy việc nghiên cứu khảocổ học trong mộtsố phạm vi tổ chức. Do thực tế khảo cổ họccổ sử dưới sự thốngtrị thuộc địa có nguồn gốc nghiệp dư, không có nhàkhảo cổ học được đào tạo tạiViệt Namtrong thời gian độc lập. Khảo cổ học thời nhà nướcCHDCVN chịu ảnhhưởng của khảo cổ học Liên Xô. Vào giữa những năm 1950, cáchọc giả CHDCVN xác định quốc giacủa Văn Lang, chính thể Việt đầu tiênđược ghi lại, và cácvua Hùng như là nguồn gốc "của quốc gia ". Khi các nhà khảo cổ CHDCVN bắt đầu các cuộc khai quật đầu tiên trong thời kỳ độc lập, họ đã viết một bài phê bình trên phạm vi rộng của khảo cổ họcđược tiến hành trong thời kỳ thuộc địa. New excavations in northern Việt Nam from the late1950s led to a new understanding of the Bronze Age there overturning many of the conclusionsfrom the colonial period. Archaeologists inthe DRV contended that remains from the Bronze Age were evidence for the existence of the earliest Vietnamesenation. Chapter Four argues that archaeology contributed to the making of the earliestVietnamese nation, the country of Văn Lang, in a number of ways. First, the newly excavated Bronze Age remains were used to provide proof of its existence; it was therefore notlegendary, as colonial scholars had claimed. Second, those remains served to confirm that the territory ascribed to Văn Lang in pre-colonial texts had in fact beenoccupied in the first millennia BCE, as had its alleged capital. Third, the archaeological remains confirmed the very great antiquity ascribed to the Vietnamese people inthose texts.Finally, the artefacts unearthed provided evidence of some of theactivities of the inhabitants of Văn Lang. Những khai quật mới ở miền bắc Việt Nam từ cuối những năm 1950 đã dẫnđến sự hiểu biết mới về thời kỳ đồ đồng, làm đảo lộn nhiều kết luận từ giai đoạn thuộc địa. Các nhà khảo cổ củaCHDCVN cho rằng các di vật từ thời đồ đồng là bằng chứngcho sự tồn tại của đất nước Việt Nam sơ khai. Chương Bốn phản biện rằng khảo cổ học góp phầnvào sựhình thành của đất nước Việt Nam sơ khai, nước Văn Lang, trongmột số cách. Đầu tiên,những di vật đồ đồng mới được khai quật đã được sử dụng để cung cấp bằng chứngvề sự tồn tại của nó, do đó nó không phải làhuyền thoại, như các học giả thuộc địa đã tuyên bố. Thứ hai,các di vật còn được phục vụ để xác nhận rằng lãnh thổ được cho là của Văn Langtrong các văn bảnthời tiền thuộc địa, thực tế bị chiếm đóng trong thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên, cũng như nơi được cho là thủ đô. Thứ ba,di vật khảo cổhọc xác nhận những di tích cổ rất lớn được cho là của người Việt Nam trong nhữngvăn bản. Cuối cùng, cácđồ tạo tác khai quật được cung cấp bằng chứng của một số các hoạt động của cư dân Văn Lang. A NOTE ON TRANSCRIPTION AND TRANSLATION For the sake of consistency, all Vietnamese words, including propernames, have been rendered in modern standard Vietnamese in this thesis. Therefore, Vietnam appears as Việt Nam, Ho Chi Minh as Hồ Chí Minh, Hanoi as Hà Nội, and Dien BienPhu as Điện Biên Phủ, etc. Where theseforms were not employed in the original texts quoted, they have been changed, except in citing titles. All Chinese words have been rendered using the pinyin system oftransliteration. All titles, words and phrases in Vietnamese have been italicised, exceptfor proper names. They are translated thefirst time that they appear. Unless otherwise noted, all translations are my own. Chú thích về phiên mã và dịch Vì lợi ích của tính nhất quán, tất cả các từ Việt Nam, bao gồm cả tên riêng, đãđược thực hiện tại tiêu chuẩn hiện đại của Việt Nam trong luận án này. Vì vậy, Việt Nam xuất hiện như Việt Nam, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Hà Nội như Hà Nội, và Điện Biên Phủnhư Điện Biên Phủ, vv Trong trường hợp các hình thức này không được sử dụng trong các văn bản tríchdẫn ban đầu, chúng đã được thay đổi, ngoại trừ trích dẫn tiêu đề. Tất cả các từ Trung Quốc đã được đưa ra bằng cách sử dụng hệ thống của phiên âm Hán Việt. Tất cả các danh hiệu, từ ngữ và cụm từ trong tiếng Việt đã được innghiêng, ngoại trừ tênriêng. Chúng được dịch khi lần đầu tiên xuất hiện. Trừ khi có ghi chú khác, tất cả các bản dịch của riêng tôi. ABBREVIATIONS The following abbreviations are used in the body text and the footnotesof this thesis: CM Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục BEFEO Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient BSEI Bulletin de la Société des Études Indochinoises DRV Democratic Republic of Việt Nam ĐVSK Đại Việt Sử Ký ĐVSKTB Đại Việt Sử Ký Tiền Biên EFEO École Française d’Extrême-Orient JSEAS Journal of Southeast Asian Studies KCH Tạp chí Khảo cổ Học LNCQ Lĩnh Nam Chích Quái MAS Modern Asian Studies MSGI Mémoires du Service Géologique de l’Indochine NCLS Tập san Nghiên cứu Lịch sử(nos. 1-12), Nghiên cứu Lịch sử (nos. 13-105; 130-present), or Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (nos. 106-129) TT BK Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư - BảnKỷ TT NK Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư -Ngoại Kỷ VĐULT Việt Điện U Linh Tập VSÐ Tập san Nghiên cứu Sử Ðịa Văn (nos. 1-2) or Tập san Nghiên cứu Văn Sử Ðịa (nos. 3-48) VSL Việt Sử Lược Các chữ viết tắt Các chữ viết tắt sau đây được sử dụng trong văn bản và chú thích của luận án này: CM Khâm Định ViệtSử Thông Giám Cương mục BEFEO Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient BSEI Bulletin de laSociété des EtudesIndochinoises DRV Cộng hòa dân chủ Việt Nam ĐVSK Đại Việt SửKý ĐVSKTB Đại Việt SửKý Tiền Biên EFEO École Française d’Extrême-Orient JSEAS Tạp chí Đông Nam Á học KCH Tạp chí khảo cổ học LNCQ Lĩnh Nam Chích Quái MAS Nghiên cứu châu Á hiện đại MSGI Mémoires du Service Géologique de l’Indochine NCLS Tập san Nghiên cứu Lịch sử(nos. 1-12), Nghiên cứu Lịch sử (nos. 13-105; 130-present), or Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (nos. 106-129) TT BK Đại Việt Sử Ký ToànThư - Bản Kỷ TT NK Đại Việt SửKý Toàn Thư - Ngoại Kỷ VĐULT Việt Điện ULinh Tập VSÐ Tập san Nghiên cứu Sử Ðịa Văn (nos. 1-2) or Tập san Nghiên cứu Văn Sử Ðịa (nos. 3-48) VSL Việt Sử Lược
  6. Tìm Kiếm VIỆT NAM: Khảo cổ học và sự ra đời của 1 quốc gia. Haydon LESLIE CHERRY (B.A.(Hons), NUS) LUẬN ÁN TRÌNH CHO BẰNG THẠC SĨ NGHỆ THUẬT Khoa Lịch sử ĐẠI HỌC QUỐC GIA CỦA SINGAPORE 2004 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu cho luận án này được thực hiện thông qua sự hỗ trợ của Học bổng nghiên cứu sau đại học của đại học quốc gia Singapore (NUS) từ tháng 7 năm 2002 đến tháng bảy Năm 2004 và giải thưởng trợ cấp thêm cho nghiêncứu tại Hà Nội, Việt Nam trongTháng tám và tháng chín năm 2003. Tôi muốn cảm ơn Giáo sư Phan Huy Lê, Giám đốc Trung tâm Việt Nam và Nghiên cứu liên văn hóa tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu của tôi tại Hà Nội sẽ không thể thực hiện được mà không có sự hỗ trợ của Trung tâm mà ông chỉ đạo. Tôi cũng muốn ghi lòng biết ơn của tôi với các giám đốc và nhân viên của một số tổ chức khác cho phép tô itruy cập vào thư viện của họ: đầu tiên, ông Phạm Thế Khang, Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam Hà Nội và ông Lê Thùy Dương của Bộ phận quan hệ quốc tế, thứ hai, Tiến sĩ Andrew Hardy, giám đốc của Française Écoled ’Extrême -Orient (EFEO) - Viện Viễn Đông Bác Cổ và sau đó các thư viện của EFEO, và cuối cùng, ông Kesavapany, giám đốc của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), và nhân viên của thư viện ISEAS Số người mà tôi đã được hưởng lợi về mặt trí tuệ là quá lớn để liệt kê đầy đủ, và không có nghi ngờ có nhiều khoản nợ mà tôi không nhận thức đúng. Tôi đã học được rất nhiều từ cuộc hội thoại hoặc thư từ với cô Claudine Ang, Tiến sĩ Susan Bayly, Tiến sĩ Gregory Clancey, Tiến sĩ Nola Cooke, ông Bradley Davis, Tiến sĩ Mark Frost, Tiến sĩ Andrew Hardy, ôngErik Holmberg, cô Wen Hu, phó Giáo sư Huang Jianli, Tiến sĩ Stephen Keck,ông Didi Kwartanada, Tiến sĩ Li Tana, Tiến sĩ Helmut Loofs-Wissowa, Giáo sư David Marr, Phó Giáo sưJohn Miksic,Giáo sư Anthony Milner, Tiến sĩ Michael Montesano, phó giáo sưMaurizio Peleggi, Phó Giáo sư Patricia Pelley, cô Qian Bo, Giáo sư Anthony Reid, Giáo sư Momoki Shiro, Giáo sư Huệ-Tâm Hồ Tài, Ông Trần Kỳ Phương, Giáo sư Trần Quốc Vượng, ông Kunakorn Vanichviroon và những người khác. Khoa Lịch sử tại NUS đã đồng ý và cung cấp sự hỗ trợ về môi trường để nghiên cứu. Cả hai Phó Giáo sư BrianFarrell và bà Kelly Lau đã làm tất cả mọi thứ có thể để giúp tôi thông qua sự phức tạp và rắc rối quan liêu của NUS. Tôi đặc biệt biết ơn đối với lòng tốt và tình bạn mở rộng đối với tôi củaTiến sĩ Quek Ser Hwee và Tiến sĩ Timothy Barnard. Tôi muốn cảm ơn ông Erik Holmberg và cô Vernie Oliveiro đã đọc dự thảo nghiên cứu này và nhận xét ​​về các tư liệu trong nó. Cuối cùng, lời cảm ơn sâu sắc nhất được dành riêng cho hai giám sát viên của tôi. Thông qua sự giảng dạy của mình và học bổng, Giáo sư Reynaldo Ileto đã cung cấp một ví dụ nổi bật của một người tri thức sáng tạo và phê phán. Thông qua khả năng ngôn ngữ của mình sâu sắc, uyên bác, và trên tất cả, lòng từ bi và sự hiểu biết dành cho Người Việt Nam và sinh viên của mình, Tiến sĩ Bruce Lockhart đã cung cấp một mô hình mà tôi chỉ có thể mong muốn theo đuổi. Ý kiến và phê bình của ông đã cứu thoát các luận án này khỏi vô số lỗi và hướng dẫn và chăm sóc của mình đã cứu tôi khỏi tuyệt vọng nhiều hơn một lần. Tôi nợ ông nhiều nhất trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, trách nhiệm cho những gì được khẳng định trong tài liệu này là của một mình tôi Mục lục Lời cảm ơn Mục lục Sơ lược Lưu ý về phiên dịch Các từ viết tắt Giới thiệu Chương Một Thời của các vị vua Hùng trước thuộc địa....................................... .......... 22 Chương Hai Văn bản và nghiên cứu củacổ sử dưới thời thuộc địa..................... 42 Chương Ba Chính sách văn hoá Nhà nước, tổ chức nghiên cứu và khảo cổ học tại DRV (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) ............... 77 Chương Bốn Thời đại đồ đồng Việt và các vị vua Hùng .................................................... 100 Phụ lục A Bản dịch của Đại Toàn Thư Việt Sử Ký, Ký Ngoại, Quyền I, 1a-5b........................ 145 Phụ lục B tự truyện TÓM TẮT Luận án này là một nghiên cứu khảo cổ học và việc hình thành các dân tộc Việt Nam. Tiền đề cơ bản của nó là các quốc gia hiện đại thường được hình thành trên cơ sở tồn tại từ trước của cộng đồng và thường trong thời gian dài, sử dụng chất liệu văn hoá tìm thấy trong những cộng đồng trước đó. Các nước Văn lang, chính thể đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam và cácnhà lãnh đạo của mình, vua Hùng, phục vụ chức năng chính trị cụ thể, các văn bản thế kỷ 14 và15 trong đó họ lần đầu tiên xuất hiện. sau đó các văn bản lịchsử khẳng định tính hợp pháp chính trị cho cáctriều đại cầm quyền bằng cách truy tìm quy tắc của họ từ các vị vua Hùng. Những văn bản đó cũng thể hiện sự hoài nghi đáng chú ý về những yếu tố kỳ lạ liên quan đến thời gian của các vị vua Hùng trong truyện kể trước đó Dưới sự cai trị thuộc địa, văn bản lịch sử Việt Nam trước thời thuộc địa đã trở thành đối tượng của câu hỏi cho các học giả Pháp tại EFEO, nơi họ đã được phân loại và được tổ chức và xác nhận của họ đôi khi mâu thuẫn. Tiếp tục truyền thống bản xứ hoài nghi đối với cả các vị vua Hùng và đất nước Văn Lang, các học giả Pháp đã đi đến phủ nhận sự tồn tại của nước này và các nhà lãnh đạo của nó. Quan điểm của Pháp về quá khứ ban đầu Việt Nam đã bị ảnh hưởngsâu sắc bởi quan điểm cuối thời tiền thuộc địa của quá khứ đó. Ngoài ra nghiên cứu của quá khứ thông qua văn bản, người Pháp cũng tiến hành đầu tiên khai quật khảo cổ học thời cổ sử ở Việt Nam.Tuy nhiên, Khảo cổ học thời cổ sử, không giống như khảo cổ học các tượng đài, là những lợi ích gần gũi với thuộc địa. Vì thế nhiều người nghiệp dư chịu trách nhiệm thực hiện một vài trong số khai quật thời tiền sử quan trọng nhất ở miền bắc Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa, như thời kỳ đồ đồng tại Đồng Sơn. Do đó, họ đã tạo ra rất nhiều những kết luận không rõ ràng.
  7. Một sốsách tham khảo: 1. Phát hiện một hệ thống chữ viết có niên đại ĐôngSơn, Hà Văn Tấn (Trường đại họcTổng Hợp Hà Nội), Những Phát Hiện Mới về Khảo Cổ Học năm 1981, Viện Khảo Cổ Học, trang 173. 2. Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ Lê Trọng Khánh, Cục xuất bản Báo chí, Bộ Văn Hóa, 1986, 63pages 3. PHÁT HIỆN HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ THUỘC LOẠI HÌNH KHOA ĐẨU Lần đầu tiên khẳng định chữ viết Việt cổ đã đượcsáng tạo và sử dụng từ thời các Vua Hùng. Vấn đề này đã được các cứ liệu khoa họclàm sáng tỏ, đầy sức thuyết phục. Lần đầu tiên những bí ẩn của chữ khắc trênbãi đá cổ Sa Pa được giải mã.Công trình của giáo sư Lê Trọng Khánh góp thêm những cứ liệu khoa học chắc chắnđể khẳng định nền văn minh Việt cổ đã từng phát triển rực rỡ; là tiền đề chocác công trình nghiên cứu tiếp theo về văn hoá và chữ viết do tổ tiên ta tạo dựng. Đặc biệt, cuốn sách “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình Khoa đẩu” được xuất bản đúng vào dịp cả nướcđang gấp rút chuẩn bị kỷ niệm long trọng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội,nên càng có ý nghĩa to lớn và sâu sắc. MỤC LỤC: Lời nói đầu Phần I: Sự hình thành và phát triển chữ viết cổ thuộc hệ thống chữ Khoa đẩu . I- Chữ viết gắn liền với nền văn minh của con người. II. Những yếu tố tiền văn tự xuất hiện rất phong phú, chuẩn bị tạo sự ra đời mộthệ thống chữ Việt phát triển ổn định và biện chứng. ... Phần II: Mở rộng I- Những tín hiệu thu nhận từ lược đồ địa danh ngôn ngữ II- Những vấn đề lịch sử cổ đại Việt Nam phức tạp được phát sáng bằng địa danh. ... Tài liệu tham khảo 4. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương 27/01/2010 Thái, Văn Chải. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương / Thái Văn Chải . - H. : KHXH, 2009. - 355 tr. * Số định danh: 495.9 TH-C 2009 * Kí hiệu: V-D0/20937, V-D4/01514, V-D5/19984,VV-D2/10959,VV-D2/10960,VV-M4/15136 Tiếng Nam Phạn và Bắc Phạn (Pali và Sanskrit) là hai cổ ngữ có bề dày lịch sử rất lâu đời ở Ấn Độ. (Ngày nay, kinh điển Phật giáo được dịch thành nhiều ngôn ngữ trên thế giới cũng xuất phát từ hai cổ ngữ này). Quyển sách nhấn mạnh về cổ ngữ Pali và Sanskrit đã được khắc trên bia ký cách đây hàng ngàn năm, nằm rải rác hầu hết trên các lãnh thổ thuộc các nước châu Á. Đặc biệt, bia ký của vua Asoka ở Ấn Độ đã nói lên được hầu hết các chữ viết của các nước Đông Dương đều có nguồn gốc từ chữ viết cổ đại của vương quốc Magadha bằng mẫu tự Brahmi. Quyển sách còn cung cấp đầy đủ các nguyên âm và phụ âm của mẫu tự Brahmi, đồng thời còn giới thiệu các loại mẫu tự cổ thoát thai từ mẫu tự cổ Brahmi. Quyển sách sẽ là nguồn tư liệu quý cho những người quan tâm, nghiên cứu chữ viết cổ. Cuốn sách gồm: Chương I: Lời của tác giả và việc giới thiệu nội dung Chương II: Nét chữ cổ trong bia ký ở Campuchia Chương III: Chữ viết cổ Ấn Độ của các bia ký ở Champa Chương IV: Chữ viết cổ từ các bia ký của Việt Nam Chương V: Chữ viết cổ trên các bia ký của Lào Chương VI: Số đếm Brahmi Ho ChiMinh chan dung mot con nguoi (Clip 2) ( giây 1:19-1:21) http-~~-//www.youtube.com/watch?v=-PWVHZu1eT4&feature=player_embedded
  8. Lê Trọng Khánh Nguồn: Trích "Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ" MỘT SỐ THƯ TỊCH VỀ CHỮ VIỆT CỔ I. Thư tịch của Trung Quốc a/ Sử sách Trung Quốc từ thời Chu và các triều đại sau đó tuy ít, nhưng đã nói đến người Âu Việt và Lạc Việt là cư dân bản địa trên đất nước ta ngày nay. Họ cũng mấy lần nói đến chữ Việt cổ, như: Chính sự dùng lối thắt gút (1) hoặc sự kiện người Việt qua nhiều lần phiên dịch đã cống hiến cho vua Chu con rùa lớn, trên mu rùa có chữ Khoa đẩu (chữ viết hình con nòng nọc). b/ Sách Giao Châu ngoại vực ký (2) cho rằng, các Lạc tướng thời Hùng Vương có ấn đồng tua xanh. (Đã có ấn tức phải có chữ trên ấn). c/ Nhà nghiên cứu Trung Quốc, Trần Tu Hòa, trong tác phẩm Nghiên cứu về lịch sử cổ đại văn hóa dân tộc Việt Nam (Thiên III chương I) cũng đã viết về ấn đồng tua xanh ấy: “Chính sự thời Lạc Vương còn theo lối thắt gút, như vậy dường như chưa có văn tự. Nhưng đã có ấn đồng tua xanh thì nhất định đã bắt đầu sử dụng văn tự. Chữ dùng đương thời là chữ và phù hiệu do Lạc Vương tự sáng tạo ra. Nhưng chỉ hạn chế trong giai cấp thống trị chưa phổ cập đến dân thường”. II. Thư tịch các nước khác. a/ Trước năm 1945 nhà khoa học Tiệp Khắc, Cesmir Louklca trong tác phẩm Lịch sự chữ viết thế giới đã viết: “Phía Nam đế quốc Trung Hoa, trong vùng Đông Dương hiện nay, có nhà nước An Nam ngay từ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đã bị người Hán thống trị. Chữ Trung Quốc do viên Thái thú Sĩ Nhiếp du nhập vào đây trước công nguyên. Trước đó hình như người An-nam đã đọc bằng chữ ghi âm riêng, chữ đó không còn lại đến ngày nay” . b/ Nhà nghiên cứu Terrien de la Couperie viết trong tạp chí Hàn lâm của Hoàng gia Anh, xuất bản năm 1887, đã cho rằng: Sĩ Nhiếp bắt buộc người Việt học chữ Hán và cấm dùng chữ tượng thanh của mình (3). Đó là một số tư liệu qua báo chí Trung Quốc và nước ngoài nói về chữ Việt cổ. III. Thư tịch Việt Nam nói về chữ Việt cổ. a/ Sách Việt sử tân ước (4) của Hoàng Đạo Thành và sách Việt sử lược (5) theo bản dịch của Viện sử học, đều cho rằng, chữ Thổ vốn là chữ Việt cổ của nước ta. (Thổ tức là dân tộc Tày hiện nay ở Việt Bắc). b/ Trương Vĩnh Ký cũng khẳng định (6) dân tộc ta vốn có chữ riêng trước khi dùng chữ Hán rồi chữ Hán Nôm. c/ Bài Mông Ký trong sách Thánh Tông di khảo có chép lại việc vua Lê Thánh Tông một đêm mưa gió nghĩ lại bên hồ Trúc Bạch đã nằm mộng thấy người con gái dâng một bức thư có 71 chữ viết ngoằn ngoèo không thể đọc được. Ba năm trong song một giấc mơ khác, Lê Thành Tông lại gặp một người Thiên thổi sáo, Vua hỏi về chữ lạ trong giấc mơ mà mình thấy năm xưa. Người Tiên trả lời rằng: “Những chứ ấy là lối chữ cổ của nước Nam. Nay ở miền núi có người còn đọc được, Nhà vua với họ đến thì tự khắc biết”. Câu chuyện về giấc mơ ấy phải chăng phản ánh ý đồ, nhà vua uyên bác này muốn tìm lại chữ Việt Cổ đã ra đời trước khi nước ta bị người Hán xâm lược và hủy diệt văn tự của ta? Phải chăng đây là biểu hiện ý thực độc lập tự cường về phương diện văn hóa của nhà vua trong giai đoạn cực thích của chế độ Phong Kiến (6) d/ Điều đáng chú ý nhất là cuốn Thanh Hòa quan phong (7) của Vương Duy Trinh viết năm Thành Thái thứ 15 (1903). Ông đã sưu tầm được một hệ thống chữ cái và một bài viết ca bằng thứ chữ ấy ở huyện Quan Hóa, Thanh Hóa (xem ảnh 1 & 2). Ông cho rằng: “Vùng núi ngày nay còn có chữ thì xưa kia người hạ bản thất có chữ”. Theo số liệu thống kê năm 1920, ở huyện Quan Hóa có 13.230 người Mường và 17.190 người Thái. Hệ thống chứ viết trong Thanh Hóa quan phong về cơ bản giống chữ viết của người Thái ở Tây Bắc và chữ bùa của người Mường ở Thanh Hóa. Đây là hệ thống chữ viết ghi âm có xen một số chữ “biểu ý”. Ngôn ngữ được ghi trong sách là tiếng Thái cổ lẫn tiếng Mường. Điều đáng chú ý là Vương Duy Trinh có chứa chữ Hán Nôm nên không ghi âm được chính xác. Ví dụ “Kin bò dậy” (ăn không được) viết thành “kiên bãi dãi” (ảnh số 1 &2) Qua một số tư liệu thư tịch trên, có thể giải thiết rằng tổ tiên chúng ta xưa kia đã có chữ viết – chữ khoa đẩu, chữ viết này thuộc loại văn tự ghi âm chăng? Sau đây là cách đọc âm chữ Khoa đẩu: 1/ Âm: “Du xu dưỡng hừa ảo đè ba cỏ hương cúc tẩy khu mu đơn tây hương tiều hồng ba hoàng thiên nào du xu mông nồng hiên tối bào kham nó hy châu rỏ khoan hiềm bông uần hử. Cứ nam báo kiều đốc liễu hiên sơ chưa giáo niêu huấn bộ mi phương ứng chi khu tục ôi khoan hy. Chư nhi âm rõ lôn nương ẩn xương mông ma bông dấp … 2/ Nghĩa “… (hoa vàng ở trên cao, làm sao lấy được, anh cũng lấy hương vàng thắp đủ ngày khấn hương đăng, khấn trời ở trên cao, trời ở trên cao trông xuống cũng giúp hay không biết có anh cùng em, cùng mến lòng nhau không? Mến lòng làm bạn với nàng mà không theo đến, anh thì lòng muốn bẻ lấy cội cây hoa, muốn lấy cây hoa, mà người khác tranh lấy tức lắm hỡi? Bao giờ ơn nàng còn có lòng thương. Qua một số thư tịch bước đầu tìm ra trên đây, ta có thể giả thiết một cách có cơ sở rằng người Việt cổ cũng như nhiều cư dân cổ đại trên thế giới, đã tìm ra chữ viết cho dân tộc mình. Chúng ta cần làm cho giả thiết khoa học ấy thành hiện thực. Chúng ta sẽ chứng minh bằng tư liệu cụ thể, làm cho sự khẳng định ấy có cơ sở vững chắc về quá trình hình thành và phát triển chữ viết của người Việt cổ đại. (1): Theo tài liệu lưu trữ ở Viện Văn Hóa. (2): Theo tài liệu cung cấp của G.S Nguyễn Tài Cẩn. Tác phẩm này xuất bản Praha năm 1946, sau đó được dịch ra tiếng Nga và xuất bản ở Mascova năm 1950. (3) : Theo Kim Dính, Nguồn góc Văn hóa Việt Nam, Sài Gòn 1973. (4)Theo tài liệu Việt sử học. (5) Như trên) (6) Ecriture annamite (Extrait de l’Annam politique et sociale cours d’histore annamite) Societe Etudes Indochinoises. (7) Triều Tiên là một nước chịu ảnh hưởng chữ viết Trung Quốc rất sớm. Năm 1448, vua Triều Tiên là Sephong đã để lại cho văn hóa Triều Tiên một sáng tạo chữ viết của ông: “Mẫu tự phiên âm Hàn Quốc” (hounmin jongeun) gốm 28 chữ cái. ĐÓ là một cống hiến cực kỳ quan trọng vào việc nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân Hàn Quốc, tực Triều Tiên sau này. Suy nghĩ của Lê Thánh Tông bao hàm một tư tưởng lớn về chữ viết, muốn thoát ly ảnh hưởng văn hóa Hán, tạo cho dân tộc mình một chữ viết riêng chăng? Giấc mộng trong mộng kỳ nhằm nói lên ý nghĩa đó. (8) Bộ văn hóa, Giáo dục và Thanh niên xuất bản, Sài gòn 1974 (Tủ sách cổ văn). Lê Trọng Khánh Nguồn: Trích "Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ"
  9. Hà Văn Tấn: ( từ: http://www.gocnhin.n...iewitem.pl?1163 ) HÀ VĂN TẤN Hà Văn Tấn phát hiện một số ký hiệu lạ trên một lưỡi cày đồng và một chiếc qua đồng tìm thấy ở Thanh Hóa. So sánh với những ký hiệu tương tự trên những chiếc qua Hồ Nam (Trung Quốc), ông lập luận rất thuyết phục rằng đây chính là một thứ chữ viết. Ông còn cho rằng đây là chữ của người Lạc Việt chứ không phải là chữ Sở. Về điểm này chúng tôi cảm thấy ngần ngại, vì lý do: Ở bên ta chỉ mới tìm được một chiếc qua có khắc chữ, trong khi ở bên Tàu đã tìm được nhiều chiếc. Qua lại là vũ khí cổ của chủng Hoa Hạ. Như vậy e rằng qua có khắc chữ đã “chảy” từ bên Tàu sang bên ta chứ không phải từ bên ta sang bên Tàu. (Ðây chính là lý luận của học giả Hà khi ông bảo con dao găm có cán hình người tìm thấy ở Hồ Nam là văn vật Ðông Sơn bắc tiến.) Nhưng ai đã khắc chữ phi-Hoa lên một món vũ khí gốc Hoa? Thiết nghĩ là người Việt tộc sống trên đất Sở. Sở vốn là đất Việt tộc bị người Hoa xâm chiếm. Vào đời Xuân Thu, một bộ phận người Sở còn nói tiếng bản ngữ (1) và rất có thể đã phát minh ra một thứ chữ viết. Họ khắc chữ của mình lên thứ vũ khí mượn của người Hoa, rồi khi bại trận chạy xuống phương nam họ đã mang theo. Mang đây là mang sáng kiến thôi, chứ chiếc qua đồng ở Thanh Hóa có lẽ đã được đúc ở Thanh Hóa. Chữ khắc lên qua, rồi chữ khắc cả lên lưỡi cày... “Hệ thống chữ Việt cổ” mà Hà Văn Tấn khám phá, phải chăng thực ra là của người Việt tộc đất Sở chứ không phải của người Lạc Việt? Thu Tứ)(1) Xem Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971, tr. 153. Có chữ Việt cổ... (Bài này tên đầy đủ là “Có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng”. Vì lý do kỹ thuật, ở đây và trong mục lục, chúng tôi không in được trọn tên. Xin tác giả và bạn đọc thứ lỗi.) Cách đây mười hai năm, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng. Năm 1979, khi khảo sát những di vật thuộc văn hóa Ðông Sơn do nhà khảo cổ học Thụy Ðiển O. Janse khai quật được ở Thanh Hóa, hiện để ở bảo tàng Guimet, Paris, tôi thấy một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai ký hiệu ở hai bên họng tra cán (xem hình 1). Hai ký hiệu này do không đối xứng với nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Hình 1: Tiếp đó, trong số đồ đồng ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội) tôi đã gặp một chiếc qua, một thứ vũ khí cổ, trên thân có khắc năm ký hiệu (xem hình 1). Chiếc qua này cũng tìm được ở vùng sông Mã, Thanh Hóa. Năm ký hiệu trên qua khác nhau, không thể là hoa văn trang trí, mà là chữ viết. Mới xem qua, ta tưởng là chữ triện của người Hán. Thực ra, chỉ có ký hiệu thứ tư là giống với chữ “lâm” (nghĩa là rừng) trong văn tự Hán, còn các ký hiệu khác đều không có trong chữ Hán. Chữ thứ tư chỉ giống chữ Hán một cách ngẫu nhiên chứ không phải là chữ Hán. Ðó là vì ký hiệu này có cùng một cách cấu tạo như các chữ khác bên cạnh nó.Hình 2: Chúng tôi đã ghi vào bảng so sánh tất cả những ký hiệu đã thấy trên chiếc qua Thanh Hóa và những chiếc qua Hồ Nam (hình 2).(i) Do chỗ có ký hiệu trên qua Thanh Hóa được gặp lại trên qua Hồ Nam, mà lại đứng ở vị trí khác nhau trong dòng, chúng tôi càng tin chắc rằng các ký hiệu trên là chữ viết. Trong bảng so sánh trên, bên phải cột ghi chữ cổ, chúng tôi để cột ghi tần số xuất hiện các ký hiệu đã biết. Chữ viết cổ nói trên có tính hệ thống, được cấu tạo có quy tắc, gồm hai bộ phận: bộ phận hình tuyến (từ chữ thứ 1 đến chữ thứ 11), và bộ phận tượng hình (từ chữ thứ 12 đến chữ thứ 20). Trong loại chữ viết hình tuyến, tùy theo số lượng các vạch, các đoạn cong, và vị trí sấp, ngửa của các đoạn cong mà chúng tạo thành các ký hiệu khác nhau, tức các chữ khác nhau. Ðoạn cong ngửa bên trong có hai nhánh nhỏ trên các chữ 6, 7, 8, 9, 10, 11 cũng trở thành đặc trưng của chữ viết này. Những chữ tượng hình vẽ lại một cách sơ đồ những hình ảnh thực tế. Trong số ký hiệu đã biết, nhiều nhất là hình mặt trời. Chữ thứ 12 gợi ta nghĩ đến hình mặt trời trên trống Ðông Sơn (Ngọc Lũ, Hoàng Hạ v.v.). Nhưng một số chữ tượng hình hẳn đã biểu hiện những khái niệm trừu tượng hơn những vật cụ thể. Ví dụ, chữ 15 vẽ một chiếc nồi bốc hơi, hẳn nói lên một khái niệm nào đó như sôi, chín...; chữ 14 vẽ hai nửa mặt trời chồng lên nhau, nửa mặt trời trên có vạch thẳng ngang ở dưới chắc là mặt trời mọc, nửa mặt trời dưới có đường cong ở dưới chắc là mặt trời lặn. Hai nửa mặt trời chồng lên nhau hẳn biểu thị một kiểu hội ý nào đó. Quy tắc cấu tạo chữ của hệ thống này đã gạt bỏ mọi khả năng đồng nhất nó với văn tự Hán. Loại chữ này có từng ký hiệu riêng rẽ, phần lớn không phải chép lại các hình ảnh hiện thực, nghĩa là không phải các ký hiệu hình vẽ (signe-dessin) mà là các ký hiệu quy ước. Mỗi ký hiệu có khả năng tương ứng với một từ. Như vậy, đây đã là một loại chữ rất tiến bộ trong lịch sử chữ viết. Nó đã trải qua giai đoạn chữ viết hình vẽ (pictogramme) mà ý tứ trong cả văn bản được thể hiện bằng một bức vẽ. Có thể hệ thống chữ viết này đã ở giai đoạn chữ viết biểu ý (idéogramme).Theo cách phân loại của các nhà nghiên cứu chữ viết hiện nay, thì chữ viết hình vẽ được gọi là chữ viết ghi câu (phrasogramme) vì hình vẽ truyền đạt ý cả câu. Còn loại chữ viết mà trong đó mỗi ký hiệu tương ứng với mỗi từ thì gọi là chữ viết ghi từ (logogramme) Hệ thống chữ cổ mà chúng tôi vừa phát hiện có thể làlogogramme. Chữ viết trên lưỡi cày văn hóa Ðông Sơn thì hẳn là chữ của người Việt cổ. Nhưng đối với loại chữ trên các qua đồng vừa tìm thấy ở vùng sông Mã Việt Nam, lại vừa tìm thấy ở phía nam sông Dương Tử, thì là chữ Việt hay chữ Sở? Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng nước Sở thời Chiến Quốc đã bị Hán hóa mạnh, không còn ngôn ngữ riêng, và do đó, không có văn tự riêng. “Sở từ” cùng các văn bản tìm thấy trong các mộ Sở thời Chiến Quốc đều viết bằng chữ Hán. Vì vậy, những chữ trên qua Hồ Nam, theo chúng tôi, không phải là chữ Sở. Các quốc gia của những dân tộc khác Hán ở vùng Dương Tử cũng không có loại chữ này. Người Ba Thục ở Tứ Xuyên cũng có một loại chữ viết khác Hán, nhưng không giống hệ thống này. Văn hóa Tấn Ninh (ở Vân Nam) có nhiều nét gần gũi với văn hóa Ðông Sơn, chỉ mới tiến đến trình độ chữ viết hình vẽ, di tích chữ viết hình vẽ tìm được ở Tấn Ninh thấp hơn và khác xa loại chữ trên qua đồng nói trên. Theo chúng tôi, loại chữ viết trên qua chỉ có thể là của người Lạc Việt, chủ nhân văn hóa Ðông Sơn. Gần đây, ở Trường Sa (Hồ Nam) trong một ngôi mộ Sở, người ta đã tìm thấy một con dao găm có cán hình người. Ðó là một sản phẩm của văn hóa Ðông Sơn không nghi ngờ gì nữa. Như vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ðông Sơn lên phía bắc, theo lưu vực sông Nguyên, sông Tương, đến đất Sở là đã rõ ràng. Phải chăng chữ viết của người Lạc Việt cũng đã lan truyền theo con đường đó? Người Lạc Việt đã viết chữ lên lưỡi cày thì sao không thể viết lên vũ khí? Trong một hội nghị khoa học do Khoa Sử trường Ðại học Tổng hợp Hà Nội tổ chức, tôi đã trình bày những kết quả nghiên cứu đầu tiên về chữ Việt cổ thời văn hóa Ðông Sơn, tức thời các vua Hùng dựng nước. Và nhiều nhà nghiên cứu tham dự hội nghị cũng đã cho biết thêm nhiều ký hiệu có khả năng là chữ viết trên các đồ đồng cổ Việt Nam của thời kỳ ấy. Như vậy có nhiều triển vọng trong việc phát hiện thêm các di tích chữ viết thời các vua Hùng; ngay giờ đây, đã có thể nói rằng: có một hệ thống chữ viết Việt cổ thời kỳ văn minh Ðông Sơn phát triển rực rỡ ở khoảng thế kỷ IV trước công nguyên, trước khi người Hán vào xâm lược, đô hộ đất nước của người Việt cổ hơn một nghìn năm, và đến năm 938 đã bị đánh đuổi về phương bắc. (Hà Văn Tấn, “Có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng”, Báo ảnh Việt Nam, số 291, 3-1983, in lại trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, nxb. TPHCM, VN, 2001) _______________ (i) Còn ký hiệu thứ 5 trên qua Thanh Hóa? (TT)
  10. 1. Tài liệu nước ngoài a. Insight Guide Vietnam [Paperback] ( http://www.amazon.com/Insight-Guide-Vietnam/dp/9812349847/ref=sr_1_2?ie=UTF8&qid=1336437493&sr=8-2 ) của Discovery Channel, có viết như sau: Although the lowland Vietnamese, the Kinh, lost their original written script after 1,000 years of Chinese domination, the Muong have nonetheless retained theirs. Known as khoa dau van, it is similar to Thai and Lao, which have Sanskrit origins ( Mặc dù ở đồng bằng Việt Nam , người Kinh bị mất kịch chữ viết gốc của mính sau 1.000 năm của sự thống trị của Trung Quốc, người Mường lại giữ lại được chữ của họ. Được biết đến như khoa dau van, chữ viết này tương tự như Thái Lan và Lào có nguồn gốc từ tiếng Phạn.) Xem ở đây:Google books b.
  11. CHỮ THÁI THỔ TỰ Trích từ Phạm Thận Duật toàn tập. Đây là tài liệu quan trọng bậc nhất trong hệ thống lý luận giải mã của ông Đỗ Văn Xuyền. https://lh4.googleusercontent.com/-BnElFt7z7ys/T6k-DD1moqI/AAAAAAAAEr8/ltjwpHN7RaM/s720/IMG_4618.JPG https://lh6.googleusercontent.com/-iUTnnoHjJ40/T6k-E96ZjfI/AAAAAAAAEsE/ig1ovlvVE2M/s720/IMG_4619.JPG https://lh6.googleusercontent.com/--BkWzoI0Dqg/T6k-GAtgwlI/AAAAAAAAEsM/0FY6sR44tLA/s720/IMG_4620.JPG https://lh5.googleusercontent.com/-wyrDipqBTKo/T6k-HYGGYQI/AAAAAAAAEsU/T7wMbzaoPSY/s720/IMG_4621.JPG https://lh4.googleusercontent.com/-r0pyrtWpP3Y/T6k-JH0i-SI/AAAAAAAAEsc/K6uFAdf_frw/s720/IMG_4622.JPG https://lh5.googleusercontent.com/-3y1doU89wuI/T6k-KiVRpEI/AAAAAAAAEsk/6YZdmmjvZeQ/s720/IMG_4623.JPG https://lh3.googleusercontent.com/-6w6yF2liknA/T6k-MZyg1iI/AAAAAAAAEss/8uhWLIzxjFU/s720/IMG_4624.JPG https://lh4.googleusercontent.com/-XmS9WXY42oo/T6k-NiOckPI/AAAAAAAAEs0/O2SXkY_i3Co/s720/IMG_4625.JPG https://lh5.googleusercontent.com/-fvQE9Bt8K8A/T6k-O4fI6kI/AAAAAAAAEs8/vKHOnIvixMU/s720/IMG_4626.JPG https://lh6.googleusercontent.com/-iRORp9WqBSE/T6k-Qfi7LyI/AAAAAAAAEtE/Za4PBHXxyGo/s720/IMG_4627.JPG https://lh5.googleusercontent.com/-3ITu1U8PNAk/T6k-RskhFDI/AAAAAAAAEtM/wZXEp9rqZVk/s720/IMG_4628.JPG https://lh3.googleusercontent.com/-OMZS5HP8I8k/T6k-TL59ycI/AAAAAAAAEtU/QAkreFzcmtY/s720/IMG_4629.JPG https://lh5.googleusercontent.com/-S1kVmvvse38/T6k-UvOdBZI/AAAAAAAAEtc/W4-k0aYfj0Y/s720/IMG_4630.JPG https://lh3.googleusercontent.com/-SQ8hl4MZgh4/T6k-WPmdfcI/AAAAAAAAEtk/PyRkcTUsTGw/s720/IMG_4631.JPG
  12. Tôi mở chủ đề này để chúng ta cùng thảo luận các vấn đề xung quanh phương pháp và kết quả của công trình nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền. Trước hết xin ghi lại đây những ý kiến của nhà sử học Phan Huy Lê tại hội thảo ( ghi lại theo trí nhớ - bản đầy đủ hiện đang được ghi xuống). "Về phương pháp nghiên cứu chữ Việt cổ có 3 phương pháp chính: 1. Phương pháp dựa trên các di vật khảo cổ - do GS Hà Văn Tấn (xem ở đây) khởi xướng và đã tìm ra được một số hình như là ký tự trên các di vật khảo cổ có niên đại xác định khác nhau, tuy chưa giải mã được hoàn toàn 2. Phương pháp dựa vào các hình khắc cổ trên đá - do một nhà nghiên cứu người Pháp đã và đang dựa trên hàng ngìn bản in từ đá cổ Sapa và các bãi đá cổ khác - sau khi tổng hợp và phân loại ông đã xác định được một số motif lặp lại trong nhiều hình vẽ có thể là một dạng ký tự - tuy nhiên chưa công bố kết quả cụ thể nào 3. Phương pháp phỏng đoán chữ Việt cổ còn lại ở Tây Bắc và đi sưu tầm và hệ thống hóa - phương pháp này do GS Lê Trọng Khánh (xem ở đây) khởi xướng và ông Đỗ Văn Xuyền đi theo hướng này, trong đó ông Xuyền dựa vào ( giải mã được) tài liệu quan trọng của Tham tri Bộ Lại Phạm Thận Duật ( tài liệu Thái Cổ Tự - sẽ câp nhật trong phần tư liệu ) Và ông Lê kết luận (trích từ báo Thanh Niên) GS Lê cho rằng ông Xuyền tiếp nối, có sự bổ sung theo hướng đi của GS Lê Trọng Khánh, nghiên cứu từ chữ Thái cổ nhằm xác định chữ Việt cổ và nhấn mạnh: “Nhưng việc tìm ra và giải mã được chữ Việt cổ là quá trình không chỉ gian khổ mà còn khắc khổ. Phải có cứ liệu khoa học và sẵn sàng nhận lấy sự thẩm định, phản biện, thậm chí phê phán của những người khác”. Trao đổi với Thanh Niên sáng 5.5, GS Phan Huy Lê nói: “Chữ của người Việt cổ là đề tài được một vài nhà nghiên cứu theo đuổi. Một đề tài nghiên cứu chuyên môn sâu cần nhà nghiên cứu chuyên môn sâu”. Ông từ chối đưa ra đánh giá cụ thể về chất lượng nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền. ------------------- Vậy ý kiến của quí vị về vấn đề này thế nào? Liệu phương pháp mà ông Xuyền sử dụng và kết quả ông tìm được có chặt chẽ chưa, còn cần thêm gì ... mong được nghe thảo luận của quí vị tại đây.
  13. b. http://kanjigraphy.com/mainpages/info/history.html - lịch sử chữ Kanji There are several theories as to how Kanji were developed, and no established theory exists. One of such theories tells us, some 5,000 to 6,000 years back, a Chinese historiographer Ts'ang Chieh came across an idea of the Kanji as a symbol of expressing things in writing, getting hint from foot prints of birds on a snow field. Another theory says it started when Fu Hsi, one of the three emperors of those days, changed official recording from "rope knots" method to "letter" method.<br style="font-family: Geneva, Arial, Helvetica, san-serif; font-size: small; ">Both of these theories are, more or less, rather legendary opinions than trustworthy historical facts. <br style="font-family: Geneva, Arial, Helvetica, san-serif; font-size: small; ">However, the reliable fact is that the oldest kanji letter is the inscriptions on animal bones and tortoise carapaces that were introduced during the days of 22nd emperor of Shang (Yin) Dynasty( about 1700BC-about 1100BC) Có một số lý thuyết về Kanji được phát triển như thế nào, và không có lý thuyết nào được công nhận hoàn toàn. Một trong những lý thuyết như vậy cho chúng ta biết, khoảng 5.000 đến 6.000 năm trở lại, một người chép sử Ts'ang Chieh Trung Quốc có một ý tưởng của chữ Hán như một biểu tượng thể hiện bằng văn bản, nhận được gợi ý từ bản in chân chim trên cánh đồng tuyết. Một giả thuyết khác nói rằng nó bắt đầu khi Fu Hsi, một trong ba vị hoàng đế của những ngày đó, thay đổi ghi âm chính thức từ phương pháp "thắt nút dây thừng" sang phương pháp "lá bối". Cả hai lý thuyết đều là ý ​​kiến ​​mang tính huyền thoại hơn là các sự kiện lịch sử đáng tin cậy. Tuy nhiên, thực tế đáng tin cậy là chữ kanji lâu đời nhất là những chữ khắc trên xương động vật và carapaces rùa đã được giới thiệu trong những ngày hoàng đế thứ 22 của triều đại nhà Thương (Yin) (1700BC về 1100BC)
  14. 6. Dấu tích của một bộ chữ như vậy còn được tìm thấy qua các công trình khảo cổ a. Lam Gan (Hòa Bình) ( ví dụ hình này được coi là do Madeleine Colani tìm thấy và hình này - http://vanhac.org/06...trong-khanh.html) , b. trên đồ đồng Đông Sơn ( Ví dụ hình này ) c. qua các cuộc khai quật ở vùng Lĩnh Nam và vùng cư trú của người Bách Việt ngày xưa. (Ví dụ thông tin này )
  15. 5. Có cả một hệ thống giáo dục còn đầy đủ họ tên thày cô giáo đã sử dụng bộ chữ này cùng vào thời gian đó ( Từ thời vua Hùng thứ 6 đến thời Hai Bà Trưng) ( danh sách thày cô giáo thời Hùng Vương) Qua quá trình nghiên cứu của nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền, các thư tịch cổ ở nhiều nơi trong cả nước đã ghi lại danh sách các thầy giáo và học trò thời Hùng Vương. Bước đầu chúng ta biết từ Hùng Huy Vương – Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường ở kinh đô và địa phương, với số học trò được biết là 23 người. Học trò học ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu tên thầy giáo là 17 trường với số học trò là 35 người. Như vậy có 19 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn trong cả nước và 58 học trò tiêu biểu. Ta khiêm tốn gọi đó là những dấu tích của nền giáo dục thời Hùng Vương. Cũng trong quá trình nghiên cứu đó, ông Xuyền còn tìm thấy thời Bắc thuộc lần thứ I từ năm 111TRCN đến năm 39 –thời Bà Trưng có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương. <br style="color: rgb(68, 68, 68); font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 20px; ">Sau đây là danh sách các thầy giáo và học sinh thời Hùng Vương của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền tìm ra: 1 Thời Hùng Vương thứ 6 – Hùng Huy Vương có thầy Lý Đường Hiên Dạy học ở Yên Vĩ huyện Hoài An phủ ứng Thiên đạo Sơn Nam nay là huyện Ứng Hoà Hà Tây. Thầy có hai học trò là Cao Đường và Lý Đá học giỏi thấu tỏ mọi lẽ kinh sách, người đườngthời ai cũng khen là thần đồng. 2 Lý Đá và Cao Đường Mở trường dạy học tại Xuân La Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng trấn Sơn Nam. Giặc Ân xâm lược, hai ông theo Phù Đổng đánh giặc, giặc tan về đến núi Sóc Sơn ông cùng Phù Đổng bay về trời. Nhân dân Xuân la Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng Trấn Sơn Nam lập đền thờ phụng. 3 Thời Hùng vương thứ 9 - Thầy Lỗ Công Dạy ở kinh thành Văn Lang, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương. Có học trò là Hoàng Trù ở xã Bồng Lai huyện Từ Liêm Hà Nội theo học. 4 Thời Hùng Vương thứ 16 – Thầy Ngô Tiên Dạy học ở Xuân Áng xã Thuỵ Trang huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng lộ Hải Dương có người học trò là Phan Hộ mày hổ, mũi rồng, tiếng như chuông, mới sinh ra đã có răng, học được một năm giỏi giang,văn võ tinh thông, tài trí khác đời. Ông vào chữa bệnh cho Thái Phi vua thấy tài giỏi, phong “Đốc trưởng tiền quên ngự đô lực sĩ, Đông Đại tướng quân thiên hộ hầu. 5 Thời Hùng Vương thứ 18 – thầy Cao Đường Dạy học ở khu Khổng Tước Châu Hoan, học trò là Hùng Duệ Vương. Còn có người học trò là Chu Hoằng theo học được hơn 4 năm mà văn chương thông thái, võ bị tinh thường. Ông theo Tản Viên Sơn Thánh, trở hành vị tướng đánh Thục giỏi được vua phòng: Cai số Đại vương. Ngày 10 tháng 11 ông tự hoá, nhân dân khu Bùi Trang Hạ Bái huyên Diên Hà lập đền thờ phụng. 6 Thầy Nguyễn Thiện Quê ở làng Yên Vỹ, động Hương Tích, huyện Hoài An phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam đến học ở Thượng Khu xã Vĩnh Lai, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông có hai người con trai cùng sinh giờ ngọ ngày 12/8 năm Bính Tý, lại là hai học tròvăn võ toàn tài, thao lược hơn người. Khi cha chết hai anh em đến Sơn Tây vào yết kiến Tản Viên Sơn Thánh và kết nghĩa anh em cùng nhau đánh Thục thắng lơị, được Hùng Duệ Vương phong: Đại tướng công. 7 Thầy Hải Đường Dạy học ở kinh thành Văn Lang có người học trò tên là Nguyễn Mục sinh ngày 12-9 năm GIáp Ngọ, con ông Nguyễn Danh Huyên và bà Đào Thị Túc ở trang Đông Đồ huyện Kim Hoa phủ Từ Sơn xứ Kinh Bắc, đến ở nhà cậu rột là ông Đào Công Hải làm huyện Doãn Châu Phong (Bạch Hạc) để đi học. Mới học được vài năm mà Nguyễn Mục văn chương võ nghệ tinh thông. Hùng Duệ Vương yết bảng chiêu hiền. Nguyễn Mục ứng thi được vua ban chức: Đại Phu tham gia triều đình chính sự. Quân Thục xâm lược, Nguyễn Mục cầm quân đánh thắng giặc trở về được Vua phong: Y Mục đại vương. Ngày 2 tháng chạp năm Kỷ Dậu ông hoá, vua truy phong Thượng đẳng thần tối linh. Nhân dân trang Bối Khê huyện Đông Yên phủ Khoái Châu lập đề thờ phụng. 8 Thầy Lã tiên sinh Dạy ở Hồng Châu Hải Dương có hai người học trò là Cao Sơn và Quý Minh vă võ đã hơn người. Bấy giờ Hùng Duệ Vương hạ chiếu kén nhân tài. Hai ông ứng thi trúng tuyển, vua phong cho hai người chức Chỉ Huy Xứ: Tả Hữu tướng quân. Vâng mệnh vua hai ông đưa quân trấn thủ ở sông Lô, sông Thao, sông Đà đề phòng quân Thục xâm lược. Hai ông lập đồn ở xã Tiên Du huyện Phù Khang phủ Tạm Đái đạo Sơn Tây về sau là xã Tiên Du tổng Hạ Giáp huyện Phù Ninh Phú Thọ… Ngày 10 tháng 11 hai ông đã hoá, nhân dân nơi đây đã tôn thờ làm Thành Hoàng làng. 9 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở xã An Canh huyện Thiên Thi nay là huyện Ân thi, Hưng Yên. Thầy có 3 người học trò là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Chiêu, Nguyễn Minh là con ông Nguyễn Xuân và bà Đoàn Thị Nghi. Ba người cùng sinh một bọc ngày 10-3 năm Bính Thìn, thật là khôi ngô kỳ vỹ. Năm lên 9 tuổi ba anh em đều theo học thầy Lỗ tiên sinh, học được ba năm đã tinh thông văn võ. Năm 15 tuổi tài năng của 3 ông đã nổi bật, nhân dân và hào kiệt trong vùng đều khâm phục. Năm 19 tuổi Hùng Duệ Vương ra bảng kén chọn nhân tài, ba ông đều trúng tuyển. Vua hài lòng phong cho ông Tuấn chức: Tư Tào điển lạc quan, ông Chiêuk chức: Tả Tư tào phán quan, ông Minh chức: Hữu Tư tào phán quan. Quân Thục đến xâm lược, ba ông theo Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc. 10 Thầy Lỗ Đường Tiên sinh Dạy ở xã Đại Đồng thuộc huyện An Đường phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương. Có người học trò là Trương Sơn Nhạc sinh giờ Thân ngày 8 tháng giêng năm giáp Thân, rất kỳ lạ, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, trong bụng có điểm nét chữ “son” trông tựa như chữ thần tiên. Một tuổi đã biết nói, năm lên 7 theo học thầy Lỗ Đường, chẳng bao lâuvăn võ kỳ tài, được Hùng Duệ Vương giao cho chức Bố Chính Quan. Quân Thục đến xâm lược, ông là vị tướng đã đáh thắng giặc rồi tự hoá.. Nhân dân làng Nhiễm Dương tổng Nghĩa Xá, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh lập đền thời phụng. 11 Thầy Niệm Hưng Quê ở Mộ Trạch Hải Dương được nhân dân làng Lỗ Khê phủ Từ Sơn Bắc Ninh đón về dạy hỏi: Năm 23 tuổinhà vua hạ chiếu kén anh tài. Niệm Hưng ứng tuyển được Hùng Duệ Vương phong chức: Chỉ Huy xứ. Quân Thục xâm lược, ông lĩnh chức Tiền Đạo đại tướng quân, đánh thắng quân Thục ông trở về Lỗ Khê tự hoá, nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng Làng. 12 Thầy Nguyễn Minh Quê ở huyện Lôi Dương Châu Ái đến xã Màn Xuyên tổng Đông kết huyện Đông An mở trường dạy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoá thi, vào thi Đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoá, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ ba, ông cùng với Tản Viên Sơ Thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi được vua phong: Trấn Chiêm Thành cửa ải đại tướng quân. 13 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở Động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá, có ba người học trò là Cao Hiển công, Cao Minh công, Cao Tùng công quê gốc ở Châu ái đến ngụ cư ở Lăng Xương. Ba học trò này thật là dị tướng, hai gồ má cao vọi, tay dài chấm gối, bàn chân có 7 cái lông dài. Học mới 3 năm mà đã am hiểu nghĩa lý, kinh sử lầu thông. Vì có công đánh giăc Thục khi hoá được vua phong Thượng đẳng phúc thần. 14 Thầy Phạm Công Tuyển Quê ở trang Hội Triều huyện Hoàng Hoá phủ Hà Chung Châu ái làm quan ở châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Ông là Người văn chương nổi tiếng. Sau khi vợ chết ông tư quan về dạy học ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, sau lại chuyển về khu Đăng Xuyên xã Đăng Định huyện Thiên Thi… Sau khi chết nhân dân xã Đăng Xuyên huyện Ân Thi tôn thờ Thành Hoàng làng. 15 Thầy Vũ công Ở Mộ Trạch Hải Dương dòng dõi thi thư lên cung thành kinh đô Văn Lang, ở thôn Hương Lan, ngày nay thuộc xã Trưng Vương – Việt Trì dạy học. Hai ông bà sinh được người con đặt tên là Vũ Thê Lang, khi trưởng thành Vũ Thê Lang đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Nhân dân đã lập đền thờ vợ chồng Vũ Thê Lang, đền này có tênlà “Thiên Cổ Miếu”. 16 Thầy Lý Đường tiên sinh Dạy học ở động Lăng Xứơng huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng, đao Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Nguyễn Chiêu học thầy 3 năm liền. Sau này Nguyễn Chiêu gọi là Tả Viên Sơn Thánh phò mã của Hùng Duệ Vương. 17 Thầy Ngô tiên sinh Dạy học ở thôn Trì La Huyện Thiên Thi Xứ Sơn Nam. Có hai người học trò tên là Phạm Đá, Phạm Dũng cùng sinh một bọc ngày 9/3 năm kỷ Mùi, con ông PHạm Đạt và bà Đinh THị Duyên, quê nội ở sách Biện Sơn huyện Lôi Dương phủ Thuận Thiên Châu ái. Hai học trò này hình dáng kỳ dị, mày ngài hàm én, tay dài chấm gói, bàn tay có 7 chiến lông mọc dài, năm lên tám tuổi hai anh em đến học thầy Ngô tiên sinh, mới học được vài năm đã thông kinh sử. Thời An Dương Vương có giặc Đại Man đến cướp phá Cao Bằng, Hưng Hoá. Nhà vua truyền hịch tuyển lựa chọn nhân tài. Hai ông ứng tuyển được nhà vua phong cho ông Phạm Đá là Bình Man Đô nguyên soái, ông Phạm Dũng là Thiên Quan đại tướng công. Hia ông dẹp yên giặc lại trở về Trì La, khi hoá nhân dân tôn Thành Hoàng làng. 18 Thầy Dương Như Tồn tiên sinh Dạy học ở Lỗi Giang, Tề Giang xưa, nay thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá là thầy dạy tể tướng Lữ Gia thời nhà Triệu. 2. Danh sách 23 học trò 1. Thời Hùng Vương thứ 6 - ông Tạ Quang và bà Trần Thị Ở xã An Phú huyện Từ Sơn Bắc Ninh có 5 con học ở xã Điềm Xá huyện Tiên Lữ phủ Khoái Châu Hưng Yên. Năm người con này khi trưởng thành đã cùng với Hùng Đức huyện quan Tiên Lữ đánh giặc ở Châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang…. được vua phong: Ngũ vị đại vương. 2 Người con giai là Vũ Nghị Con ông Vũ Huy Hiển, bà Hoàng Thị Việt. Năm 12 tuổi ha mẹ cho đi học ở thôn Trung xã Vĩnh Lại tên nôm là làng Giải Thượng huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Thời Hùng Hy Vương có giặc Cao Man giặc Ân ông đã cùng với người cậu là Hoàng Công Độ, lạc tướng ở kinh thành Văn Lang đi đánh giặc lập nhiều chiến công. Ông Vũ Nghị đã hoá theo Thánh Gióng ở núi Sóc Sơn. 3 Đời Hùng Vương thứ 6 có Vũ Lang Lữu Sinh giờ Dần ngày 20 tháng giêng năm ất sửu là con ông Vũ Sùng và bà lê Thị Ngọc, học ở sách Lam Sơn, Ái Châu, Thanh Hoá. Sau lại chuyển đến học ở huyện Nam Xang phủ lý Nhân đạo Sơn Nam. ông thông thạovăn chương, thượng thiên văn, hạ địa lý, không một vật gì không biết, không một việc gì không hay, đời bấy giờ khen là: ông thánh trẻ. Giặc Ân xâm lược nước ta Vũ Lang Lữu cùng Thánh Gióng đánh tan giặc. Ông được vua phong: Võ Gia Hỗu giám sát đại tướng quân. Khi ông mất làng Vũ Xá tổng ngu Nhuế phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam lập đền thờ phụng. 4 Hoàng tử Hùng Bảo, Hùng Chân Con Hùng Huy Vương và con Hoàng hậu Phương Dung. Hoàng tử Bảo sinh ngày 12/02 năm Giáp Tí. Hoàng Tử Chân sinh ngày 10 tháng giêng năm đinh mão. Hai hoàng tử này học ở kinh thành Văn Lang, với tư chất thông minh, chăm học, ngay từ thuở thiếu niên đã tỏ ra người có tài văn võ. Lúc bấy giờ có giặc xâm lược vua cử hai hoàng tử làm tướng, phong cho hoàng tử Bảo là Bảo quốc lạc hầu, Hoàng tử Chân là Chân Võ đại tướng quân. 5 Nguyệt tinh công chúa Cháu của Hùng Tạo Vương – Hùng Vương thứ 16 học ở kinh thành Văn Lang, 19 tuổi văn võ kỳ tài, đi 7 bước làm xong bài thơ. 6 Hoàng tử Mang Công Con của Hùng Nghị Vương – Hùng vương thứ 17 học ở kinh thành Văn Lang, là người thiên tư mẫn tuệ. Năm 17 tuổi Mang công lầu thông thiên kinh vạn quyển, hiểu rõ ngọn ngành của mọi nghĩa lý. 7 Thời Hùng Duệ Vương có Lương Cội công Con ông Lương Nhạc và bà Trần Thị Ái, cha mẹ cho Cội công đi học ở động Chung Sơn quận Cửu Chân, Hoan Châu. Cội công rất thông minh, văn tài võ lược đều giỏi, được vua trọng dụng phong làm tướng cử đi đánh giặc, thắng lợi trở về vua lại truy phong; Đài vàng Cội Công Uy linh đại vương. Ông mất, Trang Minh Lương (tức Mỹ Lương) huyện Diên Hà phủ Tân Hưng làm đền thờ phụng. 8 Bốn người con: Liêm , Vĩnh, Dũng, Bùi Vợ chồng ông Đinh Công Bách và Tô Thị Công Nghị quê ở Châu Ái, Thanh Hoá có 4 con theo học ở làng Pó Hoa trấn Sơn Nam Thượng phủ Thường Tín huyện Thượng phúc đạo Sơn Nam. Bốn người con đều đi học chăm chỉ, đều tài giỏi cả văn lẫn võ, tài trí thông minh lẫy lừng thiên hạ, danh tiếng đến tai vua. Hùng Duệ Vương mời 4 chàng trai vào triều để giúp vua trị nước. 9 Chàng Ngọ Ông Nguyễn Trường vợ là Đinh Thị Khương ngày 8 tháng giêng năm Bính Ngọ sinh được người con trai phong tư đẹp đẽ, khí vu hiên ngang đặt tên là Ngọ. Cha mẹ cho Ngọ đi học ở khu Tập Ninh xã Vân Lung động Hoa Lư phủ Trường Yên Châu Ái. Chàng thông hiểu văn chương, tinh thông võ nghệ được Hùng Duệ Vương phong: Trung Thư Lệnh, Quân Thục đến xâm lược, ông là võ Tướng chỉ huy đánh thắng giặc rồi ông tự hoá, làng Tập Ninh xã Vân Lung huyện Hoa Lư – Ninh Bình lập đền thờ phụng. 10 Tam Quan học Hùng Thiện Công và Nguyễn Thị Phương có người con trai tên là Tam Quan học ở trang Cao Xá thuộc tổng Lai Cách phủ Bình Giang nay là xã Ca An huyện Cẩm Giàng Hải Dương: Tam Quan học rất giỏi võ nghệ tinh thông, pháp thuật cao cường được Hùng Duệ Vương tuyển dụng phong: Tam Quan địa vương. 11 3 người con giai: Tuấn, Chiêu, Minh Ông Nguyễn Xuân và vợ là Đoàn Thị Nghị ngày 10/3 sinh một bọc được 3 người con giai thật là kỳ vỹ. Con thứ nhất đặt tên là Tuấn, con thứ 2 đặt là Chiêu, con thứ 3 đặt là Minh. Năm lên 9 tuổi cả 3 anh em đều đi học ở làng cổ Lễ xã An Canh huyện Thiên Thi nay là Ân Thi Hưng Yên. Ba ông có công đánh quân Thục xâm chiếm, khi hoá nhân dân Cỗ Lễ thờ; “Tam vị Thành Hoàng” 12 2 con giai: Minh Đức, Chiêu Chung Đặng Cẩn vợ là Phùng Thị Thuần ngày 10 tháng 4 năm Nhâm Thân sinh được 2 con giai , dung mạo khôi ngô kỳ lạ. năm lên 7 tuổi cha mẹ cho 2 anh em đi học ở Châu Quỳnh Nhai. Năm 16 tuổi lực học hai cậu tinh thông, tài năng võ nghệ khiến vạn phu không địch nổi. Năm 20 tuổi, giữa lúc Hùng Duệ Vương dựng lầu kén rể ở thành Văn Lang để mộ người thông minh tài trí, đức độ hơn người, kén chọn bậc vương lấy công cháu Ngọc Hoa rồi vua trao ngôi báu. Hai ông vào ứng thi tài văn võ ứng đối lưu loát nhưng toàn tài chưa có. Vì thế vua chỉ phong cho 2 ông chức: chỉ huy xứ tả hữu tướng quân. Quân Thục đến xâm lược, hai ông cầm quân đánh thắng giặc trở về và tự hoá ngày 3 tháng 12 nhân dân Nghĩa trang Lưu Thượng, Lưu hạ đạo Hải Dương lập đền thờ phụng. 13 Thời Hùng Duệ Vương - Vũ Uy Ông Vũ Phục vợ là Quế Hoa ngày 18 tháng 3 giờ Tý năm Nhâm Dần sinh được người con trai đặt tên là Vũ Uy, năm 14 tổi cha mẹ cho Vũ uy học ở xã Đan Tràng tổng Đan Tràng huyện Cẩm Giàng phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, võ nghệ tinh thông, học một biết mười, quân Thục đến xâm lược, ông xin nhà vua cầm quân đánh giặc, chiến thắng ông trở về bản quán xã Đan Tràng và tự hoá được vua phong: “Thượng đẳng phúc thần” 14 Con trai tên Hoằng Ông Nguyễn Lương vợ là Đinh Thị Tố ngày 10-8 năm Giáp thân sinh người con trai đặt tên là Hoằng, có nước da trắng ngần, mắt sáng như sao, sau lưng có 28 nốt ruồi, dười đùi có 7 cái lông. năm 12 tuổi ông kết bạn với Sơn Thánh và đến bái yết Hùng Duệ Vương được vua pong “Dũng lược tướng quân” hộ giá nhà vua. Ông có công đánh thắng quân Thục được vua gia phong: Hoằng tướng quân đại vương. Khi ôg hoá làng Cổ Viễn, Bình Lục, Hà Nam lập đền thờ phụng. 15 2 con trai: Mang công, Mỹ công. Ông bà Cao công ngày 2 tháng 2 năm Giáp thân sinh một bọc được 2 con trai đặt tên làMang công, Mỹ công. năm 11 tuổi cha mẹ cho hai anh em đi ọc ở Vũ Ninh, học được 5 năm văn võ rất giỏi. Quân Thục xâm lược Hùng Duệ Vương triệu hai ông về triều, cử đi đánh giặc. Thắng giặc trở về hai ông tự hoá ngày 10-6 được vua truy phong: “Thượng đẳng phúc thần”. Làng Mão Cầu Phủ Lý Nhân Hà Nam lập đền thờ phụng. 16 Đời vua Hùng Vương thứ 18 - Cao Sơn, Cao Minh Ông Nguyễn Tùng vợ là Lê Thị Diêu ngày 14 tháng giêng năm Nhâm Dần sinh được hai con trai mặt mũi khác thường đặt tên là Cao Sơn và Quý Minh – Năm lên 6 tuổi cha mẹ cho đi học ở Hồng Châu Hải Dương. Năm 16 tuổi cả hai anh em đều tinh thông võ nghệ. Vua hạ chiếu tìm người tài giỏi. Hai anh em đến bái yết nhà vua được vua phong cho hai người làm: Đô chỉ huy xứ tướng quân Cao sơn và Quý Minh là hai nhân vật từng được thờ rất nhiều với những lai lịch sự tích mỗi nơi một khác. Có nơi cho Cao Sơn và Quý Minh là Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng anh em con chú con bác với ản Viên. Cao Sơn và Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên. Có người lại cho rằng Cao Sơn và Quý Minh là tước hiệu tránh viết tên huý.. 17 Chung công ý Công Hiển vợ là Đinh Thị Huyền ngày 10-2 năm Mậu Thân sinh được người con trai tay dài quá gối, chân có 7 cái lông dài, cha mẹ đặt tên là Chung công. Một tối Chung công đã biết nói, 7 tuổi đi học ở động Lăng Xương huyện Thanh Châu phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Mới học được mấy năm đã thông hiểu cả văn võ. Lớn lên cùng với Sơn Thánh cầm quân đánh Thục. 18 Đời Hùng Vương thứ 18 - Nam Định Ở làng Lưu Xá huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam có ông Trương Tùng vợ là Phùng Thị ích đến ngụ cư ở trang Trịnh Xá khu Nguyên Xá huyên Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc. Ngày 10/3 năm Quý Tỵ sinh được cậu con trai đặt tên là Nam Định. Lên 3 tuổi đọc thông sử sách, lại giỏi võ nghệ, đám học trò thời ấy thán phục và khen là thần đồng. Năm 21 tuổi, lúc này Hùng Duệ Vương xuống chiếu cầu hiền Nam Định ứng tuyển, trả lời các câu hỏi của vua đều lưu loát, vua khen và ban danh là Trung Định Công và giao cho chức chỉ huy xứ ở huyện Thượng Hiền đạo Sơn Nam.Hùng Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa nhưng đều nối gót lên tiên cả, chỉ còn lại 2 công chúa. Con gái lớn là Tiên Dung đã gả cho Chử Đồng Tử còn công chúa Ngọc Hoa duyên đẹp thời lành chưa định. Vì vậy mà giao cho Trung Định công dựng lầu ở cửa Việt Trì gọi là “Tuyển tế đại hiền lau” – Lễ đón người hiền, chọn rể, đề biển là: “Ngoan nguyệt cầu hiền” nghĩa là ngắm trăng cầu hiền - để nhà vua gả công chúa và truyền ngôi báu cho. Lúc bấy giờ chỉ có Sơn Thánh họ Nguyễn tên Tùng người Đạo Sơn Nam có nhiều phép lạ, vua cho rằng đó là người kỳ tài bậc nhất thiên hạ, vua đã gả công chúa và nhường ngôi báu. Quân Thục đến xâm lược Trung Định công được vua phong: Tiền đạo đương lộ tướng quân, đi giết giặc. Thắng giặc trở về ông tự hoá ngày 15/7 nhân dân khu Nguyên xá tôn thờ làm thành hoàng. 19, 20, 21, 22 4 con trai của Hùng Vương thứ 18 Hùng Vương thứ 18 ở Châu Quỳnh Nhai có ông Cao Bảo và Cao Hình lấy vợ ở Thanh Ba làng Vũ Lao. Năm Đinh Sử tháng 3 ngày 10 vợ ông anh sinh 2 con trai và một con gái. Ngày 10-8 năm ấy vợ ông em sinh một bọc 2 con giai. Thế là hai anh em sinh được 4 giai một gái. Bốn con giai thân thể lẫm liệt, cao to, môi rồng, mặt phượng, hàm én, mày hùm. Con gái thì phương phi, mặt như gương sáng, nhan sắc như tiên nữ. lên 3 tuổi người anh đặt tên cho con làMinh Công, Tín Công và con gái Dung nương. ông em đặt tên cho con là Cao công, Bạch công. năm lên 7 tuổi hết thảy đều thông minh, trí tuê, khí độ hơn người. Nam anh hùng, nữ tuấn tú. Lúc bấy giờ ở châu Quỳnh Nhai có người họ Đinh là nhà cự tộc gia thế, tìm cách giết chết 2 anh em giai và người vợ ông em. Bà vợ ông Cao Bảo đưa 3 con và 2 cháu đi chốn ở làng Thượng Nông huyện Tam Nông phủ Lâm Thao, ở nhà bà Ma Thị Chính và cho các con, các cháu học ông thầy ở làng Đào Xá Thanh Thuỷ. Học được 4 năm, tài chí của con trai và con gái khác thường. Bốn con trai giúp nhà vua đánh Thục còn Dung nương thì lấy vua làm thập tứ cung phi (cung phi thứ 14) Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này" Văn bản chữ Việt cổ còn lại những gì? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ đã từng có một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm sau cách mạng Tháng Tám đã bị mất. Dù giặc ngoại xâm đã tước đoạt, đã thiêu huỷ những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta như Mã Viện đã tịch thu tất cả những trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ. Năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta. Nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều: Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tai vùng biên viễn Thập Châu. Thư viện Sơn La đã sưu tầm được gần 1500 cuốn sách, Bảo Tàng Sơn La cũng sưu tầm được gần 1000 cuốn sách trong đó là chữ Thái hay chữ Việt Cổ mà chưa nghiên cứu vấn đề này. Nhất định chúng ta tìm thấy và giải mã được chữ Việt Cổ, chữ của tổ tiên để lại. Ông Xuyền đã giải mã hình dạng chữ Việt cổ như thế nào? Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật - Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này. www.chungta.com Một số đền miếu và cả mồ mả của họ còn được nhân dân bảo vệ cho đến này ( ví dụ: Đền Thiên Cổ ) Các hình ảnh tư liệu cụ thể: 1. Đền Thiên Cổ: 2. ...
  16. a. Nguyên âm khi thì xếp trước; khi thì xếp sau, khi thì xếp dưới phụ âm. b. Lối sắp xếp theo kiểu tôn ti trật tự đó chỉ phù hợp với nền văn hóa truyền thống của tổ tiên người Việt ( cần làm rõ ... )
  17. 3. So với các bộ ký tự có hình dáng tương đồng, bộ ký tự này có những đặc điểm riêng biệt hoàn toàn phù hợp với cách nói của người Việt lúc ấy. Cách nói đó còn tồn tại cho đến hôm nay. ( cần làm rõ ... )
  18. a. Theo Haudricourt: "Trước CN người Việt nói không có dấu" ( trích dẫn từ Viet Wikipedia: Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu.) b. Một số bộ tộc Việt cổ sống chui lủi trong rừng như người khả lá vàng (tham khảo tài liệu: Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt Ngữ), người Tà Mun đều nói chữ việt không dấu c. Do không dấu, chữ Việt cổ phải có 2 loại phụ âm khác nhau. Đặc điểm này còn lưu dấu trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay : ( cần làm rõ ... ) d. Nhưng ngay cả ở vùng sát cạnh Hà Nội thì câu “con bo vang ăn co đông Ba Vi” có mỗi một thanh điệu, mà người ta vẫn hiểu là “con bò vàng ăn cỏ đồng Ba Vì” : cần dữ liệu video e. Con tâu tắng nằm cạnh gôc te tụi giữa tưa hè - Về Thái Bình nhé, nhiều chỗ ở Tb nói thế này lắm ( câu này chứng minh có thể trước kia không dùng chữ TR chỉ có CH hoặc T): cần dữ liệu video
  19. Video về hành trình chữ việt cổ (do bác Xuyền cung cấp) http-~~-//www.youtube.com/watch?v=Yps3u3NW588&feature=player_embedded
  20. Làm rõ các chi tiết quan trọng trong tài liệu: Do chất lượng ảnh in không được tốt, tôi xin được lần lượt ghi ra đây các điểm chính trong tài liệu 2 trang mà bác Xuyền cung cấp cho hội thảo, đồng thời tôi cũng chèn vào các thông tin tham khảo chữ nghiêng để dễ tra cứu) ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- PHẦN I. BẢY ĐẶC ĐIỂM CHỨNG MINH BỘ KÝ TỰ TỔ TIÊN TA DẤU TRÊN TÂY BẮC LÀ CHỮ VIỆT CỔ: (Đây là những cơ sở quan trọng nhất trong lập luận của bác Xuyền, mong mọi người cùng thảo luận theo tinh thần khoa học để giúp mọi người cùng làm rõ các vấn đề liên quan) 1. Bộ chữ này không có dấu: a. Theo Haudricourt: "Trước CN người Việt nói không có dấu" ( trích dẫn từ Viet Wikipedia: Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu.)<br class="Apple-interchange-newline"> b. Một số bộ tộc Việt cổ sống chui lủi trong rừng như người khả lá vàng (tham khảo tài liệu: Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt Ngữ), người Tà Mun đều nói chữ việt không dấu c. Do không dấu, chữ Việt cổ phải có 2 loại phụ âm khác nhau. Đặc điểm này còn lưu dấu trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay ( cần làm rõ ... ) 2. Bộ chữ này ghi hết được tiếng nói của người Việt ( nhưng là người Việt cổ) vì: a. Có đủ nguyên âm và phụ âm cơ bản như chữ Quốc ngữ. ( xem bảng so sánh) b. Chữ quốc ngữ ghi hết được tiếng nói của người Việt hiện đại thì chữ Việt cổ cũng ghi hết tiếng nói của người Việt cổ ( ví dụ xem một văn bản ở đây) 3. So với các bộ ký tự có hình dáng tương đồng, bộ ký tự này có những đặc điểm riêng biệt hoàn toàn phù hợp với cách nói của người Việt lúc ấy ( cần làm rõ ... ). Cách nói đó còn tồn tại cho đến hôm nay. 4. Cấu trúc của bộ ký tự này rất độc đáo: a. Nguyên âm khi thì xếp trước; khi thì xếp sau, khi thì xếp dưới phụ âm. (xem bảng này) b. Lối sắp xếp theo kiểu tôn ti trật tự đó chỉ phù hợp với nền văn hóa truyền thống của tổ tiên người Việt ( cần làm rõ ... ) 5. Có cả một hệ thống giáo dục còn đầy đủ họ tên thày cô giáo đã sử dụng bộ chữ này cùng vào thời gian đó ( Từ thời vua Hùng thứ 6 đến thời Hai Bà Trưng) ( danh sách thày cô giáo thời Hùng Vương) Một số đền miếu và cả mồ mả của họ còn được nhân dân bảo vệ cho đến này ( ví dụ: Đền Thiên Cổ ) 6. Dấu tích của một bộ chữ như vậy còn được tìm thấy qua các công trình khảo cổ ở: a. Lam Gan (Hòa Bình) ( ví dụ hình này được coi là do Madeleine Colani tìm thấy và hình này - http://vanhac.org/06/vai-net-ve-cong-trinh-chu-viet-co-cua-giao-su-le-trong-khanh.html) , b. trên đồ đồng Đông Sơn ( Ví dụ hình này ) c. qua các cuộc khai quật ở vùng Lĩnh Nam và vùng cư trú của người Bách Việt ngày xưa. (Ví dụ thông tin này ) 7. Các nhà nghiên cứu Trung Hoa, Úc đã nhắc đến bộ chữ khoa đẩu của người Việt từ trên 4000 năm trước. a. Các nhà nghiên cứu Anh, Tiệp gần đây còn nói rõ: đó là chữ trọng thanh ( cần làm rõ ... ) b. Ngọc phả của một số đền miếu ở Vĩnh Phúc, Hà Tây cũng ghi đầy đủ sự kiện này cần làm rõ ... ) ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Với tinh thần minh bạch thông tin, rất mong các quí vị cùng chung tay bổ sung tư liệu và trao đổi làm rõ. Trân trọng Thế Trung
  21. Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa Trung Quốc Dương Chấn Ninh Dương Chấn Ninh hiện là Giao sư ĐH Thanh Hoa Bắc Kinh và ĐH Hồng Công. Trong bài phát biểu ngày 3/9/2004 tại Diễn đàn đỉnh cao văn hóa 2004 tại Bắc Kinh, GS Dương Chấn Ninh (Nobel Vật lý năm 1957), cho rằng Kinh Dịch ảnh hưởng sâu sắc đến cách tư duy trong văn hóa Trung Quốc và đây là một trong các nguyên nhân quan trọng làm cho khoa học cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc. Đề tài bài nói của tôi là Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa truyền thống Trung Quốc; trong mấy chục phút sau đây tôi sẽ bàn về nhiều quan niệm: tinh giản, tỉ loại [1], thiên nhân hợp nhất, liên tưởng, thủ tượng, sự hình thành Hán ngữ và Hán tự, quy nạp. Trong một thời gian ngắn không thể nói rõ nhiều quan niệm như vậy, nên xin chỉ tập trung bàn 3 vấn đề sau: [Hình 1] Tinh thần của Kinh Dịch là gì: cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu [phù hiệu] hóa ... là tinh thần của Kinh Dịch. Tôi cho rằng tinh thần ấy xuyên suốt đến từng xó xỉnh trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc mấy nghìn năm.1) Kinh Dịch ảnh hưởng tới phương thức tư duy của văn hóa truyền thống Trung Quốc; ảnh hưởng đó là một trong các nguyên nhân quan trọng khiến cho khoa học cận đại không thể nảy sinh tại Trung Quốc. 2) Kinh Dịch là một trong các nguyên nhân làm cho Hán ngữ trở thành ngôn ngữ đơn âm. 3) Kinh Dịch ảnh hưởng tới quan niệm thẩm mỹ của văn hóa Trung Quốc. Hình 1. Chữ ở chính tâm vòng tròn: “Dịch” Các chữ ở trên vòng tròn, theo chiều kim đồng hồ, từ vị trí chính giữa trên: “Tinh giản”, “Thiên nhân hợp nhất”, “Liên tưởng”, “Hán ngữ”, “Hán tự”, “Quy nạp”, “Thủ tượng”, “Tỉ loại” Tôi làm công tác nghiên cứu vật lý, chưa từng nghiên cứu sử học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, mỹ học, triết học; nhưng gần đây tôi bắt đầu quan tâm tới nguồn gốc hình thành văn hóa Trung Quốc. Bởi vậy, nhân dịp này tôi xin mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ của mình. Mọi người đều biết Kinh Dịch là một văn bản rất cổ của Trung Quốc, nghe nói từ triều đại nhà Hạ đã có bản Kinh Dịch sớm nhất, gọi là Liên Sơn. Đời nhà Thương có sưu tập bảo quản nhưng đều thất truyền. Kinh Dịch mà chúng ta hiện nay được thấy là Chu Dịch thời Tây Chu. Cho nên thời gian thai nghén Kinh Dịch ít nhất trải qua hơn 1000 năm. Tôi nghĩ mọi người có thể đồng ý với kết luận đó. 64 quẻ của Kinh Dịch bắt đầu bằng quẻ Càn và quẻ Khôn. Nếu hỏi Kinh Dịch hình thành như thế nào, tôi cho rằng mọi người có thể chấp nhận cách nói như sau: Trung Quốc phát triển bói toán sớm nhất, vì muốn hiểu bói toàn một cách có hệ thống nên đã phát triển quái phù [ký hiệu của quẻ]. Tất cả 64 quẻ đều có quái phù. Càn là 6 vạch nét liền. Khôn là 6 vạch nét đứt. Sau khi có quái phù còn phải có tên gọi [quái danh] và chữ [tự] cho mỗi quẻ. Tên quẻ có âm [âm thanh]; có âm vẫn chưa đủ, bèn có một chữ [tự]. Có lẽ thứ tự trước sau quá trình phát triển này là như vậy. Vì tôi không nghiên cứu khảo cổ học nên tôi nghĩ rằng rất có thể cái thứ tự ấy ít nhiều có phần đúng. Chúng ta biết rằng niên đại thai nghén Kinh Dịch cũng là niên đại Hán ngữ, Hán tự bắt đầu hình thành, là niên đại thai nghén nền văn hóa Trung Hoa. Những quẻ này là “Tượng”; trong Chu Dịch có nói như thế. “Tượng” là quan niệm đã cô đọng, là cái “Tượng” dùng quái phù, tên quẻ để phân loại sự biến thiên của trời, đất, người. Có thể nói đoạn trình bày ở trên dùng ngôn ngữ ngày nay để thuật lại chuyện rốt cuộc tinh thần của Kinh Dịch là gì: cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu [phù hiệu] hóa ... là tinh thần của Kinh Dịch. Tôi cho rằng tinh thần ấy xuyên suốt đến từng xó xỉnh trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc mấy nghìn năm. Chẳng hạn có cực nhiều thí dụ về tinh giản phân loại. Ngày nay ta đều biết trong lý luận Trung Y có một điểm quan trọng là chia bệnh tật và y dược thành các loại âm dương, nóng lạnh, trong ngoài; dùng quan niệm phân loại này làm tiền đề lớn để phát triển lý luận Trung Y. Đó là thứ truyền lại từ truyền thống của Kinh Dịch. Ta có thể nêu ra rất nhiều thí dụ như vậy. Nguyên nhân làm cho khoa học cận đại không nảy sinh ở Trung Quốc Vì sao khoa học cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc ? Vấn đề này đã có rất nhiều người bàn thảo. Quy nạp lại, đại để có 5 lẽ sau. Thứ nhất, truyền thống của Trung Quốc là nhập thế chứ không phải xuất thế. Nói cách khác là tương đối chú trọng thực tế, không chú trọng lý luận trừu tượng. Thứ hai, [Trung Quốc áp dụng] chế độ khoa cử. Thứ ba, [văn hóa truyền thống Trung Quốc] có quan niệm cho rằng kỹ thuật không quan trọng, cho rằng đó chỉ là “Kỳ kỹ dâm sảo” [sản phẩm kỳ dị mà tinh xảo]. Thứ tư, [văn hóa] truyền thống Trung Quốc không có phương pháp tư duy kiểu suy diễn. Thứ năm, có quan niệm Thiên nhân hợp nhất. Tôi cho rằng điểm thứ 4 và 5 có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch. Trước hết nói về điểm thứ tư. Nội hàm của Thiên nhân hợp nhất quyết không phải chỉ là “nội ngoại nhất lý” mà còn có “Thiên nhân hài hòa” quan trọng hơn. Thiên nhân hài hòa có ảnh hưởng cực lớn tới truyền thống Trung Quốc.Phương pháp tư duy của khoa học cận đại có đồ thị như sau về hai loại phương pháp tư duy kiểu suy diễn và kiểu quy nạp. [Hình 2] Quy nạp và suy diễn [tiếng Anh là Inductive method và Deductive method] đều là phương pháp tư duy không thể thiếu trong khoa học cận đại. Để trình bày rõ điểm này, ta hãy xem xét lịch sử xây dựng phương trình Maxwell do Maxwell (1831-1879) sáng lập. Hình 2. Hình bên trái, từ trên xuống: “Quy luật tự nhiên”; chữ trong khung: “Quy nạp” Hình bên phải, từ trên xuống: “Quy luật tự nhiên”; chữ trong khung: “Suy diễn” Dòng chữ ở dưới: Hai phương pháp tìm kiếm quy luật tự nhiên của khoa học cận đại. Phương pháp quy nạp được biểu diễn bằng đường nét đứt thể hiện sự khó khăn của phương pháp này. Phương pháp suy diễn được biểu diễn bằng nét liền, thể hiện sự dễ dàng của phương pháp này. Maxwell là nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỷ XIX. Vào giữa thế kỷ ấy, ông viết ba bài báo đặt nền móng kết cấu chính xác cho sóng điện từ, qua đó làm thay đổi lịch sử nhân loại. Các phát minh sau này được phát triển trong thế kỷ XX như vô tuyến điện, truyền hình, thông tin mạng v.v... tất cả đều dựa trên cơ sở phương trình Maxwell. Vậy ông làm như thế nào để có được kết quả có tính chất đánh dấu thời đại như thế? Trong bài báo thứ nhất, Maxwell đã sử dụng phép quy nạp; trong đó có một đoạn như sau : “Chúng ta cần nhận thức được việc các nhánh của vật lý học rất giống nhau; tức là nói trong vật lý học có các nhánh khác nhau nhưng kết cấu của chúng lại có thể chứng minh lẫn cho nhau.” Ông dùng quan niệm đó để nghiên cứu ra cách viết phương trình điện từ học, lấy một số phương trình cơ học chất lỏng làm bản gốc. Phương pháp nghiên cứu này tuân theo tinh thần của phép quy nạp. Mấy năm sau, trong bài báo thứ ba, ông vận dụng phương pháp suy diễn vào phương trình điện từ (được lập nên bằng phương pháp quy nạp), đi tới kết luận : các phương trình đó thể hiện điện từ có thể truyền đi dưới hình thức sóng với tốc độ sóng phù hợp tốc độ ánh sáng lúc ấy đã biết, cho nên “ánh sáng tức là sóng điện từ”. Đây là một suy luận đánh dấu thời đại, nó đã thúc đẩy sự phát triển KHKT thế kỷ XX và phương thức sinh hoạt của loài người ngày nay. Câu chuyện trên thể hiện rõ phương pháp quy nạp và suy diễn đồng thời là phương pháp tư duy cơ bản của khoa học cận đại. Một đặc sắc lớn của văn hóa truyền thống Trung Hoa là có phương pháp quy nạp nhưng không có phương pháp suy diễn. Trong đó đâu là nguồn gốc của phương pháp quy nạp ? “Dịch giả tượng dã”, “Thánh nhân lập tượng dĩ tận ý”, “Thủ tượng bỉ loại”, “Quan vật thủ tượng”. Những câu này đều quán xuyến tinh thần của Kinh Dịch, đều là phép quy nạp, là phương pháp hướng lên trên tìm cái “Tượng” toàn bộ. Thế nhưng văn hóa Trung Hoa không phát triển ra phép suy diễn. Làm sao ta có thể chứng minh khiếm khuyết ấy ? Mời quý vị xem một số câu nói của Từ Quang Khải (1562-1633), một vị đại thần cuối thời nhà Minh, cũng là một đại học giả. Mọi người đều biết ông là người đầu tiên hợp tác với Matteo Ricci [2] phiên dịch bản gốc tác phẩm hình học của Euclide; hai người đã dịch được 6 chương đầu tiên. Hiện nay trong nước còn giữ được mấy bản dịch gốc của họ. Tôi có lần đến Thư viện Bắc Kinh mượn đọc bản gốc đó. Hình học Euclide là một cống hiến lớn trong lịch sử loài người, đầu tiên quy luật hóa phép suy diễn, có ảnh hưởng rất lớn, không thể tính toán được. Sau này Newton viết Principia Mathematica [Nguyên lý toán học của khoa học tự nhiên]. Nếu đọc cuốn sách ấy thì bạn sẽ thấy phương pháp viết của Newton hoàn toàn theo phương pháp trong bản gốc Hình học Euclide, tức là từ các tiên đề, định lý đi tới chứng minh v.v...Cuốn sách ấy sao chép hình thức phép suy diễn của Euclide. Điều không may là Từ Quang Khải dịch sách hình học Euclide tuy sớm (hồi đó Newton chưa ra đời) nhưng trong gần 300 năm sau khi dịch, sách này chưa gây được ảnh hưởng nên có tại Trung Quốc. Sau khi dịch sách nói trên, Từ Quang Khải hiểu được một đặc điểm của phép suy diễn là “Dục tiền hậu cánh trí bất khả đắc [Không được thay đổi thứ tự trước sau].” Tức là không được đảo lộn thứ tự các suy luận. Điều này khác với truyền thống của Trung Quốc. Truyền thống Trung Quốc không chú ý logic, không chú ý thứ tự thuyết lý, đòi hỏi người đọc tự mình hiểu ra kết luận cuối cùng. Từ Quang Khải còn có mấy câu rất nổi tiếng như sau: Tự chí hối, thực chí minh [có vẻ tối tăm, thực ra là sáng sủa], Tự chí phồn, thực chí giản [có vẻ phức tạp, thực ra đơn giản], Tự chí nan, thực chí dịch [có vẻ khó, thực ra dễ]. Đây cũng là đặc điểm của phương pháp suy diễn. Sau khi hiểu được tinh thần của phương pháp suy diễn thì sẽ hiểu được suy diễn thực ra dễ hơn quy nạp. Xin xem hình vẽ 2. Dưới đây xin nói về điểm thứ 5, tức quan niệm “Thiên nhân hợp nhất” “Thiên nhân nhất vật”, “Lý nhất phân thù”, “Nội ngoại nhất lý” bắt nguồn từ chỗ mỗi một quẻ trong Kinh Dịch đều bao hàm đạo trời, đạo đất, và đạo người (nhân đạo), quy luật của trời và quy luật của người là một. Chúng ta đều biết Vương Dương Minh khi tìm hiểu cây tre [nguyên văn : cách trúc tử ?] muốn dùng cái “Lý” [lý lẽ] trong đời người để tìm kiếm cái “Lý” trong giới tự nhiên. Dĩ nhiên làm như thế không thể nào sáng tạo được khoa học cận đại. Một đặc điểm của khoa học cận đại là phải thoát ra khỏi quan niệmThiên nhân hợp nhất, phải thừa nhận đời người có quy luật của đời người, có các hiện tượng phức tạp của đời người; thiên nhiên có quy luật của thiên nhiên, có các hiện tượng phức tạp của thiên nhiên. Trời và người là hai chuyện khác nhau, không thể hợp làm một. Tất nhiên tôi nói như thế sẽ làm cho rất nhiều người, nhất là những người nghiên cứu triết học Trung Quốc, cảm thấy tôi công kích triết học truyền thống Trung Quốc ghê gớm quá. Tôi hoàn toàn không có ý công kích. Nội hàm của Thiên nhân hợp nhất quyết không phải chỉ là “nội ngoại nhất lý” mà còn có “Thiên nhân hài hòa” quan trọng hơn. Thiên nhân hài hòa có ảnh hưởng cực lớn tới truyền thống Trung Quốc. Vả lại khi nói về hiện trạng thế giới ngày nay, chúng ta có thể hỏi, vứt bỏ Thiên nhân hợp nhất mà hoàn toàn dùng các biện pháp của phương Tây để phát triển thế giới phải chăng sẽ có hiện tượng Thiên nhân đối lập? Đây là một đề tài vô cùng quan trọng, nhưng nó không nằm trong phạm vi tôi có thể thảo luận hôm nay. Nguồn gốc của Hán ngữ, Hán tự Các ngôn ngữ nguyên thủy và ngôn ngữ chín muồi trên thế giới đều là ngôn ngữ đa âm [nguyên văn: phức âm]; rất hiếm có ngôn ngữ đơn âm. Tôi không nắm được bất kỳ một ngôn ngữ chín muồi nào khác là ngôn ngữ đơn âm như Hán ngữ. Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện 16 nghìn năm trước, người dân Giang Tây đã thu thập lúa dại để làm lương thực chính. Cho nên hơn 10 nghìn năm trước đã hình thành văn hóa Trung Hoa. Ta có thể tin rằng hồi ấy họ đã có ngôn ngữ. Ta cũng có lý do có thể giả thiết những ngôn ngữ mà tổ tiên ta sử dụng hồi ấy là ngôn ngữ đa âm. Thế thì vì sao sau này lại biến ra thành Hán ngữ đơn âm? Từ Hán ngữ đa âm biến thành Hán ngữ đơn âm nhất định phải trải qua một quá trình rất dài, hơn nữa nhất định phải có lý lẽ của nó, vì đây là một chuyện rất độc đáo. Tôi cho rằng thời đại hình thành văn hóa Trung Hoa, thời đại hình thành Hán ngữ đã chịu ảnh hưởng từ tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch, từ Kinh Dịch phát triển ra quan niệm ở tầng sâu cho rằng tinh giản là đẹp, cô đọng là đẹpTôi có một giả thiết mạnh dạn như sau : sự biến đổi đó chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch. Tên quẻ [quái danh] là đơn âm. Càn, Khôn, .... đều đơn âm cả. Đó là những từ tầng lớp thống trị sử dụng, có tính chất thần bí, có ảnh hưởng lớn, đọc lên có sức mạnh. Lâu ngày nó sẽ hình thành một giá trị quan coi trọng ký hiệu [phù hiệu] đơn âm, về sau ảnh hưởng tới toàn bộ sự phát triển Hán ngữ. Hôm nay tại đây có sự hiện diện của các chuyên gia ngôn ngữ; ý kiến của tôi là rất mạnh dạn, hy vọng sẽ không bị các nhà ngôn ngữ học đập cho tơi bời. Chúng ta xem : Nguyên, Hưởng, Lợi, Trinh, Cát, Hung, Âm, Dương, Nhật, Nguyệt, Thiên, Địa - những chữ đơn âm này có thanh có sắc, có sức nặng, nói ra có tác động, dĩ nhiên có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ ngôn ngữ văn tự. Cho nên vừa rồi tôi nói tôi đoán là Hán ngữ, Hán tự sở dĩ biến thành ngôn ngữ văn tự đơn âm là có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch. Quan niệm thẩm mỹ của văn hóa Trung Hoa Tinh thần cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu hóa của Kinh Dịch có ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng đối với văn hóa Trung Hoa. Dưới đây tôi xin bàn qua về ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với Hán ngữ, văn phạm Hán ngữ, văn học, nghệ thuật, thư pháp. Từ Word trong tiếng Anh thường được dịch là “chữ” (tự). Dịch như thế không thỏa đáng. Nên dịch là “từ”, cấu tạo bởi một hoặc vài chữ. Thí dụ “hiện đại”, “sở dĩ” đều là từ có 2 chữ. Từ có thể cấu tạo bởi một, hai hoặc nhiều chữ, nhưng tuyệt đại đa số là 1 hoặc 2 chữ, ít từ có 3 chữ trở lên. Phần lớn từ có 3 chữ hoặc trên 3 chữ là phức từ, hoặc là từ dịch âm. Thí dụ “ngoại tổ phụ [ông ngoại]”, “Động Đình hồ” là phức từ; “Thành Cát Tư Hãn” là từ dịch âm. Thế kỷ XIX Trung Quốc bắt đầu phiên dịch tên các nguyên tố, khi ấy cũng chỉ dùng một chữ, như “Dưỡng [oxygen]”, “Lưu [sulphur]”, “Lôi [radium]”; những từ này trong tiếng Anh đều là từ đa âm, khi người Trung Quốc dịch đều biến thành một từ đơn âm. Vì sao lại hà tiện [từ ngữ] thế? Tôi cho rằng thời đại hình thành văn hóa Trung Hoa, thời đại hình thành Hán ngữ đã chịu ảnh hưởng từ tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch, từ Kinh Dịch phát triển ra quan niệm ở tầng sâu cho rằng tinh giản là đẹp, cô đọng là đẹp. Quan niệm thẩm mỹ đó đã ảnh hưởng tới sự hình thành từ. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều có văn phạm [văn pháp] tầng sâu như nhau, sau đấy các ngữ hệ khác nhau tự phát triển trên cơ sở văn phạm tầng sâu đó. Đây là một phát hiện lớn của Chomsky. So sánh các ngôn ngữ khác nhau sẽ thấy mỗi loại ngôn ngữ đều có danh từ, động từ, tính từ [adjjective], giới từ [adverb] v.v...Nhưng Hán ngữ có một đặc điểm lớn là rất ít dùng giới từ. Thí dụ không nói “Bố của tôi” mà nói “Bố tôi”; không nói “chạy một cách chầm chậm” mà nói “chạy chậm”, bỏ bớt giới từ. Cho nên người phương Tây nói Trung văn là văn tự kiểu điện báo telex, nhất là cổ văn. Những áng cổ văn hay đúng là văn học cực đẹp. Một trong các nguyên nhân đẹp là cổ văn không tuân theo phương thức phát triển văn phạm thông thường và cố gắng dùng ít từ nhất để diễn đạt nhiều ý nhất. Quan niệm thẩm mỹ này là sự tiếp nối của tinh thần cô đọng hóa, tinh giản hóa trong Kinh Dịch. Hình 3. Chữ trong vòng trên : « Phong »’ chữ trong vòng dưới: bên trái là “Phong”, bên phải là “Vân” Trong bất cứ nền văn học nào trên thế giới, liên tưởng đều có vai trò quan trọng, mà trong văn học Hán văn thì nó có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ các từ trong Hán văn thường thường cấu tạo bởi một số chữ đơn âm, thường hay được hình thành căn cứ theo liên tưởng. Thí dụ từ “phong khí”, “phong vân”, “phong lưu”, “phong cảnh”, “phong quan”, “phong vũ” đều là các từ hình thành từ sự liên tưởng. Có thể dùng hình vẽ sau để biểu thị từ “phong vân” (Hình 3) Kết cấu của từ này càng tiến một bước thúc đẩy văn học Hán văn diễn biến trở thành văn học liên tưởng, “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” [3], “Tần thời minh nguyệt Hán thời quan” [4] đều là sự liên tưởng đã thăng hoa. Ý cảnh được hội họa truyền thống Trung Hoa theo đuổi thì hoàn toàn khác với hội họa truyền thống phương Tây, là hình vẽ “quan vật thủ tượng [xem vật lấy hình]” chứ không phải hình vẽ chụp hình; là hình vẽ tinh thần chứ không phải hình vẽ giống nhau; là hình vẽ thiên nhân hợp nhất chứ không phải hình vẽ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên. Tôi cho rằng tinh thần tư duy ấy bắt nguồn từ Kinh Dịch. Còn nói về ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với thư pháp [thư họa] thì càng rõ hơn. Thư pháp có vai trò cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Hoa truyền thống, các nền văn hóa khác không có thư pháp. Nhưng rõ ràng thư pháp có mối quan hệ trực tiếp với tinh thần cô đọng hóa, ký hiệu hóa, trừu tượng hóa của Kinh Dịch. Ông Hùng Bỉnh Minh bạn tôi, một nhà thư pháp, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà bình luận văn học có viết trong sách “Hệ thống lý luận thư pháp Trung Quốc” rằng cốt lõi của văn hóa Trung Quốc là triết học, cốt lõi của cốt lõi văn hóa Trung Quốc là thư pháp. Sở dĩ tôi hoàn toàn đồng ý câu ấy của ông là do thư pháp đã cụ thể hóa, hiện thực hóa tinh thần của Kinh Dịch. Nguyễn Hải Hoành lược dịch Ghi chú của người dịch: [1] Gọi đầy đủ là “Thủ tượng tỉ loại”: một phương pháp tư duy vận dụng các khái niệm trực quan có cảm tính, hình tượng và ký hiệu để diễn tả ý nghĩa trừu tượng của thế giới được nghiên cứu, thông qua phương thức loại suy, tượng trưng. Còn gọi là phương pháp tư duy “ý tượng”. Có lẽ chỉ có ở TQ. [2] Matteo Ricci (1552-1610), người Ý, nhà truyền đạo Thiên Chúa; 1582 đến TQ, quen nhiều học giả TQ; có công giới thiệu khoa học tự nhiên phương Tây cho TQ. [3] Là câu đầu tiên trong bài thơ 4 câu Thanh Bình Điệu của Lý Bạch, nhằm tả vẻ đẹp của Dương Quý Phi, ý nói: Nhìn mây mà nghĩ tới xiêm y của Dương; nhìn hoa mà nghĩ tới dung mạo của Dương. Trần Trọng San dịch là : Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây. [4] Là câu đầu tiên trong 4 câu bài thơ thất ngôn tuyệt cú Xuất Tái (chu sai) của nhà thơ Vương Xương Linh đời Đường, ý nói : Nhìn trăng sáng mà nghĩ tới nơi biên ải (Vẫn là trăng sáng thời nhà Tần, vẫn là biên ải thời nhà Hán, nhưng quan san đã thay đổi, thời Tần Hán đã qua rồi. Câu tiếp sau là: tướng sĩ viễn chinh tới nay vẫn chưa trở về. Bài thơ nói lên sự tàn khốc của chiến tranh và ước vọng hòa bình). Nguồn: 杨振宁:《易经》对中华文化的影响
  22. Thế Trung đọc được bài này, và thấy có 01 comment rất hay có liên quan đến truyện Tấm Cám, cùng gửi để diễn đàn xem. Chúc mừng Giáng Sinh và Năm Mới Trân trọng======================== Người Khùa: Tộc người thông minh (I) Trên những triền núi phủ đầy lau trắng ngút ngàn là tộc người Khùa sinh sống ở miền tây Minh Hoá, Quảng Bình. Họ như vị thủ lĩnh tinh thần cho người Mày, người Mã Liềng. Tộc người này có trí thông minh mãnh liệt và thế giới quan mơ mộng, sống lãng mạn với tự nhiên nhưng vẫn giữ nhiều tục cũ giữa mênh mông núi rừng bí ẩn.Góc bản người Khùa, tộc người thông minh Người Khùa sinh sống chủ yếu ở xã Trọng Hoá, Dân Hoá với khoảng 3000 người. Tộc người này có trí tuệ lịch lãm trong ứng xử với tự nhiên. Với rừng họ thờ thần rừng, với sông suối họ thờ thần nước, thần đồng nghĩa với ma…Hồ Phòm là người có mức độ am hiểu bản địa tộc người mình nói rằng: “Cái thế giới của ta sống là nơi có nhiều ma. Thế giới quan của người Khùa là thờ ma Nhà ai cũng có bậc cửa vào ra để thờ ma. Ma làm cho người của ta sợ, ma cũng làm cho người của ta cảm hứng kể chuyện, ma làm cho người Khùa biết hát, ma làm cho người Khùa biết uống rượu, ma làm cho người Khùa biết sinh tồn”. Người Khùa có thế giới quan của mình là ma, mọi thứ không lý giải được bằng hiện thực cuộc sống họ gọi đó là ma. Ma thuốc, ma khói, ma lạnh, ma nóng, ma lửa…Để hài hoà các loài ma mà tổ tiên người Khùa định ra, một nhạc cụ có tên khèn Tà riềng được sáng tạo ra để cả tộc người tin vào đó như một vị thần tối thượng điều tiết mọi ngõ ngách tâm hồn con người ứng xử bình tĩnh, tự tin trước ma. Tiếng Tà riềng nỉ non, nắn nót thổi lên từ lồng ngực những người thông thái nhất bản sẽ đưa lại sự bình an cho người dân, cho những món ăn aboong, adoong, abiing ngon hơn từ cá suối, cá khe. Tà riềng làm từ cây lồ ô nhỏ của vùng núi cao nhất bản, thanh âm trong vắt dễ ru ngủ linh hồn ma phiêu bạt về trú ngụ trong từng căn nhà, phù trợ cho mỗi tâm hồn tai qua nạn khỏi. Hoà bình cho mọi tộc người. Thế giới quan thông minh, mộc mạc ấy rất nhân văn, bởi họ nghĩ đến con người, đến hoà bình. Nhưng cách lý giải của họ giữ nguyên tô tem cho thấy người Khùa đầy chất mơ mộng về bản ngã của mình. Có lẽ cũng chính từ đó mà mọi thành quả lao động, chăn nuôi, trồng trọt, người Khùa dùng chủ yếu vào cúng bái lễ tục hơn là mưu sinh. Bởi với người Khùa, phần hồn quan trọng hơn phần xác. Con người chết đi, lý trí được thăng hoa lên cõi trời để định đoạt đường đi của trần gian. Blog -Cu Làng Cát 2 nhận xét: hotrungtu nói...Với thế giới quan này hoàn toàn có thể hiểu được chuyện Tấm Cám ! 11:16 Ngày 23 tháng 12 năm 2011
  23. Xin chào lukhach, Theo tôi, nên mời ông ấy vào đây để xem: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/danh-muc/51-principles-of-ancient-oriental-learning-history-and-culture/ Đồng thời gửi các sách của thày Thiên Sứ đặc biệt cuốn Tìm về cuội nguồn Kinh Dịch và phiền ông ấy dùng Google để dịch xem trước. Trước đây sách này có để trên website, nhưng bây giờ tôi tìm không thấy, nếu ai biết ở đâu thì gửi giúp đường link vì chỉ trên website thì dịch google mới được, file pdf không dịch được Trân trọng Thế Trung