
TheTrung
Hội viên-
Số nội dung
221 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Everything posted by TheTrung
-
Outline of the Thesis This thesis takes a long view ofVietnamese history and historiography. In Chapter One it is argued that narratives of thecountry of Văn Lang, the earliest recorded Vietnamese polity, and the Hùng Kings, itsrulers, served specific political functions in the fourteenth and fifteenth-centurytexts in which they first appeared. Later texts claimed political legitimacy for theruling dynasty by tracing their rule from the Hùng Kings. Those texts also demonstrated a marked scepticism toward the miraculous elements relating to the time of the HùngKings in earlier narratives. Nét chính của luận án Luận ánnày có một cái nhìn dài về lịch sử Việt Nam và sử ký. Trong chương một nó cho rằng những câu truyện kể của nước Văn Lang, Chính thể Việt Nam được ghi nhận sớm nhất, và các vua Hùng,cùng sự caitrị củahọ, phục vụ chức năng chính trị cụ thể trong các văn bản thế kỷ 14 và 15, trong đó họ lần đầu tiên xuất hiện.Các văn bảnsau đó khẳng định tính hợp pháp chính trị cho các triều đạicầm quyền bằngcách chỉ ra quy tắc của họ từ các vị Vua Hùng. Những văn bản này cũngthể hiện mộtthái độ hoài nghi đáng chú ý đối với các yếu tố kỳdiệu liên quan đến thời gian của các VuaHùng trong bài tườngthuật trước đó. In Chapter Two it is argued that the textsdiscussed in Chapter One became the objects of enquiry for French scholars atthe EFEO, where they were classified and organised and their claims sometimesdisputed. Continuing an indigenousskeptical tradition toward both the Hùng Kings andthe country of Văn Lang, French scholars came to deny the existence of that countryand its rulers. It is argued in ChapterTwo that French views of the early Vietnamesepast were deeply influenced by late pre-colonial views of that past. In addition to the study of the past throughtexts, the French also conducted the firstprehistoric archaeological excavations in Việt Nam. In Chapter Two it is argued that prehistoric archaeology, unlike monumental archaeology, was of marginal interest tothe colonial state. Amateurs weretherefore responsible for the execution of some ofthe most important prehistoric excavations in northern Việt Nam during the colonialperiod, such as those of bronze remains at Đông Sơn. Consequently, they drew a number of dubious conclusions. Trong chương hai, nó được lập luận rằng các văn bản thảoluận trong Chương Một trở thành đối tượng của cuộc điều tra đốivới các học giả Pháp tại EFEO, nơi họ đã đượcphân loại và tổ chức và khẳng định của họ đôi khi gâytranh cãi. Tiếp tục sự hoài nghi truyềnthống bản địa đối với các vị vua Hùng và nướcVăn Lang, các học giả Pháp đã từ chối sự tồn tại và cácnhà lãnh đạo của nó. Người ta lập luận trong Chương Hai rằngquan điểm của Pháp vềthời gian đầu quá khứ của Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thời gian cuối giai đoạn tiềnthuộc địa của quá khứ đó. Ngoài việc nghiên cứu quákhứ thông qua văn bản, người Pháp cũng tiến hànhnhững khai quật khảo cổ học thời cổ sử đầu tiênở Việt Nam. Trongchương hai, nó được lập luận rằng khảocổ học thời cổ sử, không giống như khảo cổ học cáctượng đài, là lợi ích gần gũi với thuộc địa. Do đó những người nghiệp dư chịu tráchnhiệm thực hiện một số cuộc khai quật quan trọngnhất thời tiền sử ở phía Bắc Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa, chẳng hạn như những cuộc khai quật di chỉ đồng ở Đông Sơn.Do đó, họ đã tạo nên một số kết luận không rõ ràng. The DRV state succeeded the Frenchcolonial state in supporting the study of archaeology. Chapter Three outlines the cultural policy ofthe DRV state and the ways in which this informed the study ofarchaeology. It also describes thepolitical and institutional context in whicharchaeology was pursued. Owing to thefact that prehistoric archaeology under colonialrule was of amateur provenance, there were no trained Vietnamese archaeologists at thetime of independence. Archaeology in the DRV came under the influence of Sovietarchaeology. In the mid 1950s, DRV scholars identified the country of VănLang, the earliest recorded Vietnamese polity, and the Hùng Kings as the “origins of thenation”. Finally, Chapter Threediscusses the critique of colonial archaeology thatDRV scholars mounted as they began the first archaeological excavations in thepost-independence period. Nhà nước CHDCVN đã tiếp nối nhà nước thựcdân Pháp trong việc hỗ trợ nghiên cứu của khảo cổ học. Chương Baphác thảo các chính sách văn hoá của nhà nước Bắc Việt và cách thức mà họ khẳng định các nghiên cứu khảo cổhọc. Nó cũng mô tả các thể chế chính trị và bối cảnh trong đó khảo cổ học đãđược tiếnhàng. Dothực tế khảo cổ học thời cổ sử dưới sự cai trị thuộc địa có nguồn gốc nghiệp dư, không có nhà khảo cổ học Việt Nam qua đào tạo tại thời điểm độc lập. Khảo Cổ CHDCVN chịu ảnh hưởng của khảo cổhọc Liên Xô. Vào giữa những năm 1950,các họcgiả CHDCVN xác định được nước VănLang, chính thể Việtđầu tiên được ghi lại, và các vua Hùnglà "nguồn gốc của quốc gia". Cuối cùng, Chương Ba thảo luận bài phê bình về khảo cổ học thuộc địamà các học giảCHDCVN gắnkết như là họ bắt đầu những khai quật khảo cổ đầu tiên trong thời kỳ hậu độc lập. Chapter Four describes how thoseexcavations led to a new understanding of the Bronze Age in northern Việt Nam in whichmany of the conclusions from the colonial period were overturned. Chapter Four argues that archaeologycontributed to the making of the earliest Vietnamese nation,the country of Văn Lang, in a number of ways. First, the newly excavated Bronze Age remains were used to provide proofof its existence; it was therefore not legendary,as colonial scholars had claimed. Second, those remains served to confirmthat the territory ascribed to Văn Lang in pre-colonial texts had in fact beenoccupied in the first millennia BCE, as had its alleged capital. Third, the archaeological remains confirmedthe very great antiquity ascribed to the Vietnamese people in thosetexts. Finally, the artefacts unearthed provided evidence of some of theactivities of the inhabitants of Văn Lang. This thesis turns first, however, to theaccounts of that country and its rulers in pre-colonial historical texts. Chương Bốn mô tả làm thế nào những cuộc khai quậtnày lại dẫn đến một sự hiểu biết mới về thời kỳ đồ đồng ở miền bắc Việt Nam trong đó rất nhiều kết luận từ gian đoạn thuộc địa bị đảo ngược. Chương Bốn lập luận rằng khảo cổ học góp phầnvào sự tạo lập của quốc gia Việt Nam đầu tiên, nước Văn Lang, theo một số cách. Đầu tiên, những di chỉ thời kỳ đồ đồng mới được khai quật đãđược sử dụng để cung cấp bằng chứng về sự tồn tại của nó, do đó nókhông phải là huyền thoại, như các học giả thuộc địa đã tuyên bố. Thứ hai, những di chỉ còn được sử dụng để xác nhận rằng lãnh thổ của Văn Lang trong các văn bảntiền thuộc địa đã thực sự bịchiếm đóng trong thiên niên kỷđầu tiên trước công nguyên, cũngnhư nơi được cho là thủ đô. Thứ ba, di chỉ khảo cổ học khẳng định thời cổ xưa vĩ đại được cho là của người dân Việt Nam trong các bản văn đó. Cuối cùng, các đồ tạo tác được khai quật cung cấp bằngchứng về một số các hoạt động của cư dân Văn Lang. Luận án này thay đổi đầu tiên, tuy nhiên, các giá trị của nước đó và các nhà lãnh đạo trongcác văn bản lịch sử thời tiền thuộc địa
-
The third issue concerns the public display of archaeological remains. This could be in museums, in textbooks, at archaeological and heritage sites and in various iconographic reproductions. In general, this last issue is well treated in the literature, especially in so far as it has come to relate to the tourism and heritage industries.45 In Việt Nam, archaeological artefacts, especially Bronze Age artefacts, were first displayed in the Musée de l’Ecole Française d’Extrême-Orient, later the Musée Louis Finot and, after independence, in the Vietnamese Historical Museum (Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Images of the tympani of the bronze drums found at Đông Sơn are ubiquitous, on posters, postcards, book covers and many other quotidian objects. A discussion of this third issue is beyond the scope of this thesis. The relationship between archaeology and the nation in South-east Asia is at last beginning to be addressed.46 Vấn đề thứ ba liên quan đến sự trưng bày ra công chúng của các di chỉ khảo cổ học. Điều này có thể là trong các bảo tàng, trong sách giáo khoa, các trang web khảo cổ học và di sản và các dhi chỉ tái tạo minh họa khác. Nói chung, vấn đề cuối cùng này được giải quyết tốt trong văn học,đặc biệt là cho đến nay nó liên quan đến du lịch và ngành di sản.45 Ở Việt Nam, các đồ tạo tác khảo cổ, đặc biệt là đồ tạo tác thời kỳ đồ đồng, lần đầu tiên đượctrưng bày trong de Musée l'Ecole Francaise d’Extrême-Orient, sau này là Louis MuséeFinot, và sau khi độc lập, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Hình ảnh của các mặt trống đồng được tìm thấy ở Đông Sơn có ở khắp mọi nơi, trên áp phích, bưu thiếp, bìa sách và các vật thường ngày khác. Thảo luận về vấn đề thứ ba này là vượt quá phạm vi của luận án này. Mối quan hệ giữa khảo cổ học và quốc gia ở Đông Nam Á cuối cùng bắt đầu được chú ý.46 Việt Nam has already received some, albeit brief, attention. In a short article, Ian Glover discusses some of the work of archaeologists during the colonial period and the post-independence periods, particularly relating to the Bronze Age and the origins of the nation.47 However, Glover does not pay close attention to pre-colonial understandings of the past in Việt Nam or, crucially, its appropriation and combination with colonial and post-independence archaeological scholarship after 1954. In fact, he does not examine any archaeological scholarship in the Vietnamese language. This scholarship is addressed however in Postcolonial Vietnam by Patricia Pelley. In this monograph on state historiography in the DRV between 1954 and 1975, Pelley refers to the Vietnamese concern with the origins of the nation, the Hùng Kings and the Đông Sơn bronze remains as a “cult of antiquity”. Unlike Glover, she does discuss pre-colonial understandings of the past, but her discussions of this and of French archaeology in Việt Nam are based on secondary literature in English, rather than on the relevant primary sources. This leads her to a number of mistaken conclusions, especially about the views of archaeologists during the colonial period on the dating and provenance of the bronze remains found at Đông Sơn.48 Việt Nam đã nhận được một số sự chú ý, mặc dù chưa nhiều. Trong một bài viết ngắn, Ian Glover thảo luận về một số công việc của các nhà khảo cổ học trong thời kỳ thuộc địa và thời kỳ sau độc lập, đặc biệt là liên quan đến thời đại đồ đồng và nguồn gốc của quốc gia.47 Tuy nhiên, Glover không chú ý nhiều tới sự hiểu biết về quá khứ ở Việt Nam thời tiền thuộc địa hoặc, chủ yếu, sự chiếm hữu và kết hợp của nó với học bổng khảo cổ học thuộc địa và sau độc lập sau năm 1954. Trong thực tế, ông không xem xét bất kỳ học bổng khảo cổ học nào bằng ngôn ngữ Việt Nam. Học bổng dành được chú ý tuy nhiên là trong Việt Nam hậu thuộc địa của Patricia Pelley. Trong chuyên khảo về ký sử nhà nước tại CHDCVN từ năm 1954 và 1975, Pelley đề cập đến mối quan tâm của Việt Nam với nguồn gốc của quốc gia, các vị vua Hùng và các di chỉ đồng Đông Sơn như là một "tà giáo thời cổ đại".Không giống như Glover, bà thảo luận về sự hiểu biết của quá khứ thời tiền thuộc địa, nhưng các cuộc thảo luận của bà về vấn đề này và khảo cổ học Pháp tại Việt Nam được dựa trên văn học chuyển hóa ở Anh , hơn là các nguồn căn bản có liên quan. Điều này dẫn bà đến mộtsố kết luận sai lầm, đặc biệt là quan điểm về các nhà khảo cổ học trong xác định thời kỳ thực dân và xuất xứ của di chỉ đồng tìm thấy tại Đông Sơn.48 In an engaging article Han Xiaorong describes the scholarly disagreements between archaeologists in Việt Nam and China over the origins of the bronze drums found at Đông Sơn and elsewhere in Việt Nam, South China and South-east Asia.49 However, Han pays no attention to the French colonial scholarship on this matter, which crucially informs the work of Vietnamese archaeologists in the post-independence periods. Trong một bài viết hấp dẫn, Han Xiaorong mô tả những sự bất đồng học thuậtgiữa các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc về nguồn gốc của trống đồngtìm thấy ở Đông Sơn và các nơi khác ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và Đông Nam Á.49Tuy nhiên, Han không chú ý đến học bổng thực dân Pháp về vấn đề này,mà điều quan trọng là khẳng định công trình của các nhà khảo cổ học Việt trong thời kỳ sauđộc lập This thesis uses sources from the pre-colonial, the colonial and the post-independence periods in Vietnamese histories. The different sources can be divided into three main categories. The first includes scholarly publications on archaeology produced under the auspices of both the French colonial state and the post-independence DRV state, such as the Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient; Tập san Nghiên cứu Văn Sử Điạ; Tập san Nghiên cứu Lịch sử; and Tạp chí Khảo cổ học. These are used to trace the main claims made about archaeology by scholars in the service of the colonial and post-independence states. The second category of sources includes memorial publications, celebratory volumes, short histories and obituaries, which appear in the above publications and elsewhere. These are used to give a more complete picture of the institutional environment and the persons involved in the production of archaeological knowledge in Việt Nam. The third category of sources is comprised of pre-colonial Vietnamese historical texts, from the thirteenth to the nineteenth centuries. These are used to demonstrate the importance of the kingdom of Văn Lang and the Hùng Kings in those texts and to the people in the periods during which they were written. Luận án này sử dụng các nguồn từ các thời kỳ tiền thuộc địa, thuộc địa và sau độc lậptrong lịch sử Việt Nam. Các nguồn khác nhau có thể được chia thành ba loại chính. Nhóm đầu tiên bao gồm các ấn phẩm học thuật về khảo cổ học được tạo ra dưới sự bảo trợ của cả hai nhà nước thực dân Pháp và nhà nước độc lập sau CHDCVN, chẳng hạn như Bulletin de l'Ecole Francaise d’Extrême-Orient, Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa, Tập san Nghiên cứu Lịch sử; và Tạp chí Khảo cổ học. Chúng được sử dụng để theo dõi các tuyên bố chính thực hiện về khảo cổ học của các học giả trong sự giúp đỡ của các nước thuộc địa và quốc gia độc lập. Nhóm thứ hai của các nguồn bao gồm các ấn phẩm tưởng niệm, các tập kỷ niệm, lược sử và cáo phó, xuất hiện trong các ấn phẩm nói trên và các nơi khác. Chúng được sử dụng để cung cấp một hình ảnh hoàn chỉnh hơn về môi trường thể chế và những người tham gia vào việc tạo dựng các kiến thức khảo cổ học Việt Nam. Các nguồn nhóm thứ ba bao gồm các văn bản lịch sử Việt Nam trước thực dân, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19. Chúng được sử dụng để chứng minh tầm quan trọng của vương quốc Văn Lang và các Vua Hùng trong những văn bản và đối với người dân trong các giai đoạn quá trình mà họ đã viết. 45 For examples of work of this sort relating to Việt Nam, see Colin Long, “Feudalism in the Service of the Revolution: Reclaiming Heritage in Hue”, Critical Asian Studies 35,4 (2003), pp. 535-558; Hue-Tam Ho Tai, “Representing the Past in Vietnamese Museums”, Curator 43,3 (September 1998), pp.187-199. 46 For example, see Ian C. Glover, “National and Political Uses of Archaeology in South-east Asia”, Indonesia and the Malay World 31,89 (March 2003), pp. 16-30; Maurizio Peleggi, The Politics of Ruins and the Business of Nostalgia (Bangkok: White Lotus, 2001). 47 Ian C. Glover, “Letting the Past Serve the Present – Some Contemporary Uses of Archaeology in Viet Nam”, Antiquity 73,4 (1999), pp. 594-602. 48 Patricia M. Pelley, Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past (Durham, North Carolina: Duke University Press, 2002), pp. 147-157. 49 Han Xiaorong, “The Present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archaeology in Modern Vietnam and China”, Explorations 2,2 (1998), pp. 27-46. 45 Đối với các ví dụ về các công công trình liên quan đến Việt Nam, xem Colin Long, "Feudalism trong sự giúp đỡ của cách mạng: Đòi lại di sản ở Huế", Các nghiên cứu châu Á quan trọng 35,4 (2003), trang 535-558; Hue-Tam Ho Tai, "Đại diện cho quá khứ trong các bảo tàng Việt Nam", Người phụ trách 43,3 (tháng 9 năm 1998), pp.187-199. 46 Ví dụ, xem Ian C. Glover, "Chức năng chính trị và quốc gia của Khảo cổ học ở Đông Nam Á”, Indonesia và thế giới Mã Lai 31,89 (tháng 3 năm 2003), trang 16-30, Maurizio Peleggi, Sự thận trọng trong thất bại và kinh doanh của Nostalgia (Bangkok: White Lotus, năm 2001). 47 Ian C. Glover, "Để quá khứ Phục vụ Hiện Tại - Một vài giúp đỡ đương đại của Khảo cổ học Việt Nam", thời cổ xưa 73,4 (năm 1999), trang 594-602. 48 Patricia M. Pelley, hậu thuộc địa Việt Nam: lịch sử của quá khứ Quốc gia (Durham, Bắc Carolina: Duke University Press, 2002), trang 147-157.49 Han Xiaorong, "Tiếng vang hiện tại của Trống Đồng cổ đại: Chủ nghĩa dân tộc và khảo cổ học tại Việt Nam và Trung Quốc hiện đại", Khảo sát 2,2 (1998), trang 27-46.
-
Trong cuốn sách mới này có bài viết: "Nhận diện văn hóa lạc việt" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thơ có nhiều thông tin thú vị, nên tôi sẽ chụp ảnh đưa dần lên đây để chúng ta cùng tham khảo. Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới SGTT.VN - Đây là tập sách nghiên cứu thứ ba do viện Harvard Yenching tài trợ (sau Sự biến đổi của tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, 2008 và Nghiên cứu văn học Việt Nam – những khả năng và thách thức, 2009). Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới là tập hợp chín thành quả nghiên cứu đã vận dụng các lý thuyết, phương pháp đang phổ biến trong giới nghiên cứu quốc tế để nghiên cứu những vấn đề thuộc về khảo cổ học, lịch sử Việt Nam. (NXB Thế Giới, 373 trang, 85.000 đồng) N.V
-
Mặc dù mới đọc được một nửa luận văn của anh Thơ ( hơn 200 trang), tôi nghĩ rằng mặc dù có nhiều phát hiện hay trong luận văn nhưng rõ ràng còn nhiều lỗ hổng trong công trình này mà biết đâu qua những trao đổi trên diễn đàn này chúng ta sẽ góp thêm những ý kiến để anh Thơ hoàn thiện. Vì thế Thế Trung rất mong sớm được đọc đầy đủ quan điểm của chú Thiên Sứ để có thể bắt đầu trao đổi với anh Thơ. Trân trọng Thế Trung
-
Archaeology and the Nation: The Important Issues The relationship between archaeology and the nation in different parts of the world has recently attracted the attention of a number of scholars.42 This can be explained by the nationalist resurgence of the late twentieth-century, apparent too in South-east Asia, and also by developments internal to the practice of archaeology, which have stressed the social and political settings in which the discipline is practiced.43 There are several important issues in the study of the historical relationship between archaeology and nationalism.44 Khảo cổ học và Quốc gia: Những vấn đề quan trọngMối quan hệ giữa khảo cổ học và quốc gia ở các nơi khác nhau trên thế giớigần đây đã thu hút sự chú ý của rất nhiều các học giả.42 Điều này có thể được giải thích bởi sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc cuối thế kỷ hai mươi, rõ ràng ở Đông Nam Á, và cũng bởi sự phát triển trong nước về thực hành khảo cổ học, điều này nhấn mạnh các thiết lập chính trị và xã hội trong đó kỷ luật được thực hiện.43Có nhiều vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu mối quan hệ lịch sử giữakhảo cổ học và chủ nghĩa dân tộc.44 The first issue concerns the development of the state and the institutionalisation of archaeology. As indicated in the sketch above, archaeology in Việt Nam was first pursued under the auspices of the EFEO, an institution of the colonial state, and was later taken up by the Institute of History and the Institute of Archaeology, institutions of the DRV state during the post-independence periods. Vấn đề đầu tiên liên quan đến sự phát triển của nhà nước và thể chế của khảo cổ học. Như đã nêu trong các bản phác thảo trên, khảo cổ học tại Việt Nam trước hết được thực hiện dưới sự bảo trợ của EFEO, một tổ chức của nhà nước thuộc địa, và sau đó được đưa lên bởi Viện Lịch sử và Viện Khảo cổ học, các tổ chức của nhà nước CHDCVN trong giai đoạn sau độc lập. The second issue concerns the ways in which archaeology is used to support or provide evidence for existing collective understandings of the past. It is sometimes able to fill gaps in historical texts or accounts that are often incomplete, or to go back in time to prehistory and place the origins of the nation still farther back. The analysis of archaeological remains depends to a great extent on interpretation, which is dependent, at least in part, not only on the social and political context in which the practice of archaeology is situated, but also on the state of the discipline itself in specific places and at particular times. Vấn đề thứ hai liên quan đến cách thức khảo cổ học được sử dụng để hỗ trợ hoặccung cấp bằng chứng cho sự hiểu biết hiện về của quá khứ. Đôi khi có thể lấp đầy những khoảng trống trong văn bản lịch sử hay những giá trị, điều mà thường không hoàn chỉnh, hoặc quay trở lại thời gian cổ sử và đặt nguồn gốc của quốc gia lùi xa hơn. Phân tích di chỉ khảo cổ học vẫn còn dựa trên sự hiểu, điều này rất lệ thuộc, ít nhất là một phần, không chỉ trên các bối cảnh xã hội và chính trị trong đó thực hiện khảo cổ học, mà còn về tình trạng của chính kỷ luật tạiđịa điểm cụ thể và thời điểm cụ thể. This last point has generally received little attention. In the post-independence period, DRV archaeologists combined critically appropriated colonial archaeological scholarship with their own work and with pre-colonial Vietnamese historical texts to identify and elaborate upon the “origin of the nation”. It is these first two issues, the role of the state in supporting archaeology and the role of archaeology in refashioning cultural identities found in pre-colonial historical texts that are the main foci of this thesis. Điểm cuối cùng này thường ít được chú ý. Trong thời kỳ sau độc lập, các nhà khảo cổ học CHDCVN kết hợp một cách phê phán học bổng khảo cổ học thuộc địa với công việc của mình và với các văn bản lịch sử Việt Nam trước thực dân thuộc địa để xác định và xây dựng "nguồn gốc của quốc gia". Đây là hai vấn đề đầu tiên, vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ khảo cổ học và vai trò của khảo cổ học trong xây dựng bản sắc văn hóa trong văn bản lịch sử thời tiền thuộc địa là những tiêu điểm chính của luận án này. 42 Bruce Trigger, “Alternative Archaeologies: Nationalist, Colonialist, Imperialist”, Man 19 (1984), pp.355-370; David Fowler, “Uses of the Past: Archaeology in the Service of the State”, American Antiquity 52,2 (1987), pp. 229-245; Philip Kohl and Clare Fawcett eds., Nationalism, Politics and the Practice of Archaeology (Cambridge: Cambridge University Press, 1995); Margarita Diaz-Andreu and Timothy C. Champion eds., Nationalism and Archaeology in Europe (London: University of London Press, 1996); Paul Graves-Brown, Siân Jones and Clive Gamble eds., Cultural Identity and Archaeology: The Construction of European Identities (London: Routledge, 1996). Philip L. Kohl, “Nationalism and Archaeology: On the Constructions of Nations and the Reconstructions of the Remote Past”, Annual Review of Anthropology 27 (1998), pp. 223-46. 43 On the latter, see especially Bruce Trigger, A History of Archaeological Thought (Cambridge: Cambridge University Press, 1989). 44 These are identified in the introductions to and essays in Kohl and Fawcett eds., Nationalism, Politics; and Diaz-Andreu and Champion eds., Nationalism and Archaeology. 42 Bruce Trigger, "Sự lựa chọn khảo cổ học: Quốc gia, thực dân, đế quốc", Man 19 (1984), pp.355-370, David Fowler, "Tập quán của quá khứ: Khảo cổ học trong sự giúp đỡ của Nhà nước", American Antiquity 52,2(1987), trang 229-245; Philip Kohl và Clare Fawcett eds, chủ nghĩa dân tộc, chính trị và thực hành Khảo cổ học (Cambridge: Cambridge University Press, 1995);. Margarita Diaz-Andreu và Timothy C. Champion eds, dân tộc và Khảo cổ học ở châu Âu (London: Đại học London, 1996); Paul Graves-Brown, Sian Jones và Clive Gamble eds, bản sắc văn hoá và Khảo cổ học: xây dựng bản sắc châu Âu (London: Routledge, 1996). Philip L. Kohl, "Chủ nghĩa dân tộc và Khảo cổ học: Xây dựng các quốc gia và Việc tái hiện lại từ quá khứ xa xưa" Sự phê bình thường niên về Nhân loại học 27 (1998), trang 223-46. 43 Về sau, đặc biệt là Bruce Trigger, Lịch sử tư tưởng khảo cổ học (Cambridge:Cambridge University Press, 1989). 44 Điều này được xác định trong các bài giới thiệu và bài luận về Kohl và Fawcett eds, chủ nghĩa dân tộc, chính trị, và Diaz-Andreu và Champion eds, chủ nghĩa dân tộc và khảo cổ học.
-
Kính thưa quí vị, Trưa hôm nay tôi đã đưa tận tay 6,000,000 VNĐ tới bác Xuyền, bác gửi lời cảm ơn tới từng người đã ủng hộ và cũng hé lộ thông tin là bác đã khỏe hơn và sẽ tiếp tục có những hoạt động tích cực tiếp theo nghiên cứu và công bố về Chữ Việt Cổ. Trân trọng Thế Trung
-
This position has only recently been challenged. Liam Kelley writes with some justification that “so thoroughly did the Western academy adopt the modern Vietnamese nationalist view of the past in the 1960s, 1970s and even 1980s that we have yet to fully disengage from this conceptual framework”. For Kelley, whose arguments are explicitly informed by the modernist position articulated by Anderson and Hobsbawm, nationalist thought in Việt Nam in the early 1900s “constituted a significant break with prior ways of viewing the world”.34 Quan điểm này chỉ không được thừa nhận gần đây. Liam Kelley viết với một sốlý lẽ rằng "các học viện phương Tây hoàn toàn chấp nhận quan điểm chủ nghĩa dân tộc Việt Nam hiện đại về quá khứ trong những năm 1960, 1970 và thậm chí những năm 1980 mà chúng tôi vẫn chưa hoàn toàn thoát ra khỏi khuôn khổ khái niệm này ". Đối với Kelley,lập luận của ông được khẳng định một cách rõ ràng bởi quan điểm hiện đại nhất được khớp lại bởi Anderson Hobsbawm, tư tưởng chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam vào đầu những năm 1900 "tạo nên sự bứt phá đáng kể với những cách thức nhìn nhận thế giới từ trước" 34 Therefore, the Vietnamese “nation” cannot be dated to a period much earlier than 1900. According to him, the literati in pre-colonial Việt Nam did not see themselves as members of a “nation”, but rather, of a “domain of manifest civility” (văn hiến chi bang), as articulated in the Bình Ngô Đại Cao discussed above. Kelley defines a “domain of manifest civility” as a “realm where there prevailed what would now be called a humanist emphasis on the importance of texts, the written word and morality”.35 Only after transformations in thought in the early twentieth-century, which have been documented by David Marr and Hue-Tam Ho Tai, did the Vietnamese self-consciously consider themselves members of a “nation”.36 Vì vậy, "quốc gia" của Việt Nam không thể có trước một khoảng thời gian sớm hơn nhiều so với năm 1900. Theo ông, giới văn nhân Việt Nam thời tiền thuộc địa đã không thấy chính mình là những thành viên của một "quốc gia", mà hơn thế, là một “phạm vi văn hóa rõ ràng” (Văn hiến chi bảng), như đã được ghép lại trong Bình Ngô Đại Cáo thảo luận ở trên. Kelley định nghĩa một "phạm vi văn hóa rõ ràng" là một “vương quốc nơi có những điều phổ biến rộng khắp mà bây giờ được gọi là sự nhấn mạnh nhân văn về tầm quan trọng của văn bản, chữ viết và đạo đức "35 Chỉ sau khi có những thay đổi trong suy nghĩ vào thế kỷ XX, đã được ghi lại bởi David Marr và Huệ-Tâm Hồ Tài, đã làm người Việt Nam tự ý thức coi mình là những thành viên của một "quốc gia"36 It is the position of this thesis that such a transformation took place in Vietnamese understandings of political obligation. In the nineteenth-century in Việt Nam, political obligation was denoted by the term trung quân (loyalty to the monarch). It was directed toward the monarch, rather than toward any abstract idea of “the people” or “the nation”.37 Chính quan điểm của luận án này như là một sự biến đổi diễn ra trong quan niệm về nghĩa vụ chính trị của người Việt Nam. Trong thế kỷ thứ mười chín ở Việt Nam,nghĩa vụ chính trị được biểu hiện bằng các thuật ngữ trung quân (trung thành với quốc vương). Nó được hướng về vương triều, hơn là đối với bất kỳ ý tưởng trừu tượng nào như "nhân dân"hay "quốc gia" 37 After ceding control of its territory to the French, the Vietnamese monarchy progressively surrendered its foreign policy, control over the army, the collection of taxes and the right to issue autonomous decrees. By 1925, the monarch was confined to the celebration of the rites, the granting of pardons and the bestowal of titles. Nguyễn Thế Anh writes that, by the 1920s, “Patriotism ceased to be identical with loyalty to the monarchy”.38 Only then did the “nation” (quốc gia) become an object of political obligation.39 Sau khi nhượng lại quyền kiểm soát lãnh thổ của mình cho Pháp, chế độ quân chủ của Việt Nam từng bước từ bỏ chính sách đối ngoại, kiểm soát quân đội,thu thuế và quyền phát hành tự trị nghị định của mình. Đến năm 1925, vuađược giới hạn trong việc cử hành các nghi thức, cấp giấy ân xá và sự bandanh hiệu. Trước những năm 1920, Nguyễn Thế Anh viết rằng "Lòng yêu nước và lòng trung thành với chế độ quân chủ không còn là một"38. Chỉ từ sau đó các" quốc gia " trở thành một mục tiêu của giao ước chính trị.39 However, the scholar-revolutionary Phan Bội Châu (1867-1940) and others critically relied on the historical and cultural legacy of the Vietnamese “kingdom” even as they constituted the new concept of the “nation”.40 The historical accounts of the kingdom, which in the nineteenth century had been crucial to the legitimacy of the Nguyễn dynasty (r.1802-1945), became historical accounts of the Vietnamese “nation”.41 In the post-independence period those historical accounts were supplemented with archaeological evidence, while what had been narratives of the earliest Vietnamese polity were refashioned to become narratives of the origins of the Vietnamese nation. Tuy nhiên, học giả cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940) và những người khác dựa trên các di sản lịch sử và văn hóa của "vương quốc" Việt Nam một cách phê phán thậm chí như việc họ xây dựng các khái niệm mới về "quốc gia"40 . Các giá trị lịch sử của vương quốc , điều mà trong thế kỷ XIX là quan trọng đối với tính hợp pháp của triều đại nhà Nguyễn (r.1802-1945), đã trở thành giá trị lịch sử của "quốc gia" Việt Nam41 Trong thời kỳ sau độc lập những giá trị lịch sử đó đã được bổ sung với bằng chứng khảo cổ, trong khi những gì đã được kể lại về chính thể Việt đầu tiên đã được xây dựng lại để trở thành câu chuyện kể về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. 34 Liam Kelley, “Vietnam as a ‘Domain of Manifest Civility,’ (Văn Hiến chi Bang)”, JSEAS 34,1 (February 2003), pp. 63 (“Western academy”) and 65 (“significant break”). 35 Ibid., p. 67. 36 David Marr, Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945 (Berkeley: University of California Press, 1982); Hue-Tam Ho Tai, Radicalism and the Origins of the Vietnamese Revolution (Cambridge, Mass.:Harvard University Press, 1991). 37 Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism, p. 29. 38 Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamese Monarchy Under French Colonial Rule 1884-1945”, Modern Asian Studies (henceforth MAS) 19,1 (1985), pp. 147 (confined to) and 156 (“patriotism ceased”). 39 In the DRV, quốc gia continued to be used to mean “nation” and chủ nghĩa quốc gia to mean “nationalism” until the 1950s when dân tộc and chủ nghĩa dân tộc replaced them as the most acceptable terms. 40 Greg Lockhart, Nation in Arms: The Origins of the People’s Army of Vietnam (Sydney: Allen and Unwin, 1989), pp. 42-46. 41 On nineteenth-century Nguyễn historiography, see Philippe Langlet, L’ancienne historiographie d’état au Vietnam, vol.1 (Paris: École Française d’Extrême-Orient, 1990). 34 Liam Kelley, "Việt Nam như một “phạm vi văn hóa rõ ràng” (Văn Hiến chi bảng)", JSEAS 34,1 (tháng 2 năm 2003), trang 63 ("Học viện phương Tây") và 65 ("sự bứt phá đáng kể"). 35 Như trên, p. 67. 36 David Marr, truyền thống người Việt Nam trong nỗi gian nan 1920-1945 (Berkeley: University of California Press, 1982), Huệ-Tâm Hồ Tài, nghĩa cấp tiến và nguồn gốc của Cách mạng Việt Nam (Cambridge, Mass:Harvard University Press, 1991). 37 Huỳnh Kim Khánh, Cộng sản Việt, p. 29. 38 Nguyễn Thế Anh, "chế độ quân chủ Việt dưới sự cai trị thuộc địa của Pháp 1884-1945", Nghiên cứu Châu Á hiện đại (từ nay trở đi MAS) 19,1 (1985), trang 147 (giới hạn) và 156 ("lòng yêu nước không còn"). 39 Ở CHDCVN, quốc gia tiếp tục được sử dụng để có nghĩa là "Nation" và chủ nghĩa quốc gia có nghĩa là "Nationalism" cho đến những năm 1950 khi dân tộc và chủ nghĩa dân tộc thay thế chúng như là những thuật ngữ được đa số chấp nhận. 40 Greg Lockhart, Nation in Arms: Nguồn gốc của Quân đội nhân dân Việt Nam (Sydney: Allen và Unwin, 1989), trang 42-46.41 Sử học Nguyễn thế kỷ thứ mười chín, Philippe Langlet, L'ancienne historiographie d’état au Vietnam, vol.1 (Paris: École Française d'cực-Orient, 1990).
-
William Duiker holds a similar view, stating that “the roots of modernnationalism are clearly discernible, well before the beginning of the present century, in Vietnam’shistorically strong sense of ethnic awareness”. According to Duiker, “Western colonialism, then, did not “create” a sense of separate national or ethnic identity in Vietnam as itdid in other societies in Asia; it merely channelled Vietnam’s traditional selfawareness along more modern lines”. Further,Duiker asserts that by the beginning of World War II, “a relatively mature consciousness of nationalism existed in Vietnam”.32 The views of Duiker, Woodside and Huỳnh Kim Khánh on the reliance ofmodern Vietnamese nationalism on older forms of patriotism, collective belongingand myths and memories are not far removed from the position articulated by Smithand Hutchinsonoutlined above. William Duiker có một cáinhìn tương tự, ông nói rằng"gốc rễ của chủ nghĩa dân tộc hiện đại có thể nhận thức một cách rõ ràng, trước khi thế kỷ này bắt đầu, trong nhận thức ý thức dân tộc lịch sử mạnh mẽ của Việt Nam". Theo Duiker, "chủ nghĩathực dân phương Tây, sau đó, không "tạo ra" một ý thức về bản sắc dân tộc hoặc dân tộc riêng biệttại Việt Nam như nó đã làm trong các xã hội khác ở châu Á, nó chỉ hướng tự nhận thức truyền thống của Việt Nam theo hướng hiện đại hơn ". Hơn nữa, Duiker khẳng định rằng bởi Chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, một ý thức tương đối trưởng thành của chủ nghĩa dân tộc tồn tại ở ViệtNam "32 Quan điểm của Duiker, Woodside và Huỳnh Kim Khánh về sự phụ thuộc của Chủ nghĩa dân tộc hiệnđại của Việt Nam vào các hình thức cũcủa lòng yêu nước, sởhữu tập thể và các huyền thoại và những kỷ niệm không khác nhiều so với quan điểm được ghép bởi Smith và Hutchinson đãnêu ở trên. In a wide-ranging synthesis ofthe existing English language scholarship, Craig A. Lockard attempts to explain the “unexplained miracle” of “Vietnamesenational identity and survival”. He arguesthat “proto-nationalism, indeed a long-entrenched national consciousness with many parallels to nationalism, lies deeplyembedded in Vietnamese history”. He believes that he thereby challenges “the notion that ‘nationalism’ should be seen as a strictly Western phenomenon”. Trong một tổnghợp trên phạm vi rộng của các học bổng ngônngữ tiếng Anh hiện có, Craig A. Lockard cố gắng giải thích "phéplạ không giải thích được" của"bản sắc và sự tồn tạicủa quốc gia Việt Nam". Ông lập luận rằng "chủ nghĩa dân tộc nguyên thủy,thực sự là ý thức quốc gia vữngchắc với nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa dân tộc, nằm sâutrong Lịch sử Việt ". Ông tin rằng điềuđó đã thách thức "các quan điểm cho rằng 'chủ nghĩa dân tộc' nên thực sựđược xem như là một hiện tượng phương Tây ". On the basis of his reading of Hodgkin and Taylor, he speculates that“the first Vietnamese ‘nation’ may predate Chinese conquest”, dating from thefirst millennium BCE. Lockard writes about the Vietnamese response to Chinese suzerainty, the responses of theVietnamese court and people to external threats, internal peasant rebellion andclaims to the throne, and the impact of French colonisation. He concludes by repeating the perennial position in English language scholarship on Việt Nam: “The“miracle” of Vietnam’schronic survival might best be explained by the hypothesis that the Vietnamese have for many centuries, and perhaps even uniquely,constituted a “nation” in a reasonable conception of the term; much historical evidencelends credence to this argument”.33 Trên cơ sởông đã đọc củaHodgkin và Taylor,ông phỏng đoán rằng "quốc gia Việt Nam đầu tiên có thể tồn tại trước cuộc xâm chiếm của Trung Quốc ", có niên đại từ thiên niên kỷ trước Công nguyên. Lockard viết về phản ứng của Việt Nam với quyền bá chủ của TrungQuốc, phản ứng của triều đình và nhândân Việt Nam đối với các mối đe dọa bên ngoài, cuộcnổi loạn trong nước của nông dân và tuyên bố chiếm ngôi, và tácđộng của thực dânPháp. Ông kết luận bằng cách lặplại quan điểm lâu đời trong học bổng ngôn ngữtiếng Anh về Việt Nam: "" phép lạ " của sự tồn tại lâu dài của Việt Nam có thể được giảithích tốt nhất bằng giả thuyết người Việt Nam trong nhiều thế kỷ, và có lẽ thậm chí duy nhất, đãtạo thành một "Quốc gia" trong một thuật ngữ quan niệm hợp lý, nhiềubằng chứng lịch sử cung cấp sự đáng tin cho lập luận này "33 32 William J. Duiker, The Rise ofNationalism in Vietnam,1900-1941 (Ithaca: Cornell University Press, 1976), p. 287. 33 Craig A. Lockard, “The Unexplained Miracle: Reflections on VietnameseNational Identity and Survival”, Journal of Asian and African Studies 29,1-2 (1994), p. 11 (“proto-nationalism” and “Western phenomenon”). The long quote is from p. 31. 32 WilliamJ. Duiker, Sự nổi lên của Chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, 1900-1941 (Ithaca:Cornell University Press, 1976), p. 287. 33 Craig A. Lockard, Miracle không giải thích được: Những phản ánh vềbản sắc và sự tồn tại của dân tộc Việt Nam ", Tạp chíNghiên cứu châu Á và châu Phi 29,1-2 (1994), p. 11 ("proto-dân tộc"và "hiện tượng Phương Tây"). Các trích dẫn nội dung bài viếtnày là từ p. 31.
-
However, O’Harrow’s discussion ofthe “nation” and “national identity” in the Bình Ngô Đại Cáo is based oninadequate translations of some important terms. He translates the first lines of theproclamation as: “Now think upon this ĐạiViệt land of ours / Truly it is a cultured nation”.27 Tuy nhiên, cuộc thảo luận của O'Harrowvề các "quốcgia" và "bản sắc dân tộc" trong Bình Ngô Đại Cáo được dựa trên bản dịch không đầy đủ của một số thuật ngữ quan trọng.Ông dịch dòng đầu tiên của việc công bố như: " Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu ".27 “Cultured nation” is O’Harrow’stranslation of the Chinese wenxian zhi bang (Vietnamese: văn hiến chi bảng). However, a wenxian zhi bang was an ideal formof social and cultural organisation quite different from that of a “nation”, aconcept that the Vietnamese in the fifteenth century did not yet possess. Elsewhere in the same article O’Harrowmisleadingly translates the Chinese guo (Vietnamese: quốc) as “nation”.28 For the fourteenth century, “kingdom” is probably a better translationof this term. It is through the use ofanachronistic translations that O’Harrow is able to attribute great antiquityto the Vietnamese nation. The Bình Ngô ĐạiCao does stress the importance of cultural and political difference between ViệtNam and China, but it is far from clear that this was necessarily a nationaldifference. "Quốc gia văn hóa" là bản dịch văn hiến chi bảng của Trung Quốc của O'Harrow (Việt Nam: Văn Hiến chi bảng). Tuy nhiên, một văn hiến chi bảng là một hình thức lý tưởng của tổ chức văn hóa và xã hội khá làkhác sovới hình thức tổ chức văn hóa xã hội của một "quốc gia", một khái niệm mà Việt Nam trong thế kỷ mười lăm không có. Những điểm khác trong cùng mà O'Harrow dịch sai Trung Quốc guo(Việt Nam: quốc) là "Quốc gia".28 Trong thế kỷ mười bốn, "vương quốc" có lẽ là một bản dịch tốt hơn thuật ngữ này. Nó thông qua việc sử dụng các bản dịch lỗi thời rằng O'Harrow cho rằng thời cổ xưa vĩ đại là quốc gia Việt Nam. Bình Ngô Đại Cáo không nhấn mạnh tầm quan trọng của sự khác biệt trong văn hóa vàchính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng nó còn chưa rõ ràng rằng đây là một sự khác biệt cần thiết của quốc gia. TheVietnamese scholars Trương Bửu Lâm and Huỳnh Kim Khánh left Việt Nam during theconflict with the United States and made important contributions to the studyof Việt Nam in the Western academy. Theyboth argued that Việt Nam was a nation in the nineteenth century, even beforethe arrival of the French. Trương Bửu Lâmwrites that “unlike other countries in Southeast Asia, Vietnam during the 19th century,and earlier, was already a nation. TheVietnamese people possessed a definite territory, spoke one language, sharedcommon traditions, and were born of a single historical experience”. Furthermore, he argues that, “the Vietnameseresponse to French intervention during the latter half of the 19th century was of a nationalistic nature”.29 Huỳnh Kim Khánh wrote that “by the time of the French invasion Việt Namhad developed the social and cultural attributes of a nation – a unifiedtradition, culture and language, and an effective political and economicsystem”.30 Các học giả Việt Nam Trương Bửu Lâm và Huỳnh Kim Khánh rời Việt Nam trong cuộc xung đột vớiHoa Kỳ và tạo nên những đóng góp quan trọngcho nghiên cứu của Việt Nam trong các học viện phương Tây. Cả hai đều lập luận rằng Việt Nam là một quốc gia trong thế kỷ XIX, ngay cả trước sự xuất hiện của người Pháp. Trương Bửu Lâm viết rằng "không giống nhưcác nước khác trong khu vực Đông NamÁ, Việt Namtrong thế kỷ thứ 19, và trước đó, đã là một quốc gia. Nhữngngười Việt Nam sở hữu một lãnh thổ xác định, cùng nói một ngôn ngữ, chia sẻ truyềnthống phổ biến, và được sinh ra trong một kinh nghiệm lịch sử duy nhất". Hơn nữa, ông lập luận rằng, "phản ứngcủa Việt Nam với sự can thiệp của Pháp trong nửa sau của thế kỷ 19 là lẽ tự nhiên của mộtquốc gia".29 Huỳnh Kim Khánh đã viết rằng "trước thời gian Pháp xâm lược, Việt Nam đãphát triển các thuộc tính xã hội và văn hóacủa một quốc gia - một truyền thống thống nhất, văn hóavà ngôn ngữ, và một hệ thống chính trị và kinh tế hiệu quả ".30 It should benoted that not every scholar who considers Vietnamese cultural and political consciousness before the twentieth-century considers it “national”.Alexander Woodsidewrites that instead of an “intuition, reaching through all social classes rightdown to the seemingly crustacean politics of the bamboo-walled villages, thatthere was a special Vietnamese collective identity of some sort”.31 Cần lưu ý rằng không phải tất cả các học giả người quan tâm tới văn hoá Việt Nam và ý thức chính trị coi nó là "quốc gia" trước thế kỷ 20. Alexander Woodside viết rằng thay vì “trực giác, thông qua tất cả các tầng lớp xã hội dường như chạm ngay tới lớp vỏ chính trị của các ngôi làng vách tre, theo một cách nào đó là một bản sắc đặc biệt của Việt Nam".31 27 O’Harrow,“Nguyen Trai”, p. 168. 28 O’Harrow, “Nguyen Trai”, p. 163. 29 Trương Bửu Lâm, Patterns of Vietnamese Response to ForeignIntervention, 1858-1900 (New Haven: Yale University, Southeast Asia MonographSeries No. 11, 1967), pp. 31 (“unlike other countries”) and 34 (“Vietnameseresponse”). 30 Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism1925-1945 (Ithaca: Cornell University Press, 1982), p.32. 31 Alexander B. Woodside, “Vietnamese History:Confucianism, Colonialism and the Struggle for Independence”, in Vietnam:Essays on History, Culture and Society, ed. David W.P. Elliott et al. (New York:Asia Society, 1985), p. 5. 29 Trương BửuLâm, những hình mẫu phản ứng của Việt Nam trước sựcan thiệp của nước ngoài, 1858-1900 (New Haven: YaleUniversity, Đông Nam Á chuyên đề Dòng số 11,1967), trang 31 ("không giống nhưcác nước khác") và 34 ("NgườiViệt Nam phản ứng"). 30 Huỳnh KimKhánh, Cộng sản Việt Nam 1925-1945 (Ithaca: Cornell University Press, 1982), p.32. 31 Alexander B. Woodside, "Lịchsử Việt Nam: Nho giáo, chủ nghĩa thựcdân và cuộc đấu tranh cho độc lập" tại Việt Nam: Các tiểu luậnvề Lịch sử, Vănhóa và Xã hội, ed. David W.P. Elliott et al. (New York: AsiaSociety, 1985), p.5.
-
Tìm kiếm thêm trên Internet, tôi thấy có toàn bộ luận văn tiến sĩ của ông Nguyễn Ngọc Thơ: http://www.vnulib.edu.vn:8000/dspace/bitstream/123456789/4273/1/thvnu0073.pdf Một luận văn được đánh giá cao, nay xin đưa lên đây để chúng ta cùng tham khảo Trân trọng Thế Trung <br class="Apple-interchange-newline"> Ngày 06/02/2012, vào lúc 14g00 tại phòng D201, Trường ĐHKHXH-NV – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức buổi bảo vệ Luận án Tiến sĩ Văn hóa học cho NCS. Nguyễn Ngọc Thơ với đề tài “Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam”. NCS. Nguyễn Ngọc Thơ hiện đang là giảng viên, Phó Trưởng Khoa Văn hóa học, là người đầu tiên của khóa đào tạo Cao học khóa 1 đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Văn hóa học vào năm 2003. Năm 2007, Nguyễn Ngọc Thơ thi đậu Nghiên cứu sinh ngành Văn hóa học tại Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia TP.HCM. Sau 4 năm nỗ lực học tập và nghiên cứu, NCS Nguyễn Ngọc Thơ đã hoàn thành Luận án theo đúng qui chế đào tạo Sau Đại học của Đại học Quốc gia TP.HCM. NCS Nguyễn Ngọc Thơ đã được Nhà trường đồng ý cho bảo vệ Luận án của mình trước Hội đồng Trường. Hội đồng đánh giá Luận án gồm: 1. GS.TS. Ngô Văn Lệ - Chủ tịch Hội đồng 2. GS.TS. Ngô Đức Thịnh – Phản biện 1 3. PGS.TS.Nguyễn Hải Kế – Phản biện 2 4. PGS.TS Phan Thu Hiền – Phản biện 3 5. PGS.TS. Phan An - Ủy viên 6. TS.Trần Văn Ánh - Ủy viên 7. TS. Nguyễn Văn Hiệu - Ủy viên Thư ký Tập thể hướng dẫn khoa học gồm: GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm (Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG Tp. HCM) và GS.TS. Trần Ích Nguyên (Trường Đại học Thành Công, Đài Loan). Tới dự buổi bảo vệ có GS.TSKH. V.Kolotov (ĐHQG Sainkt-Peterburg, Nga), ThS. Wang Jia (Trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh), PGS.TS. Hoàng Văn Việt, PGS.TS. Trần Thị Mai, PGS.TS. Trần Thị Thu Lương (Trường Đại học KHXH & NV), các giảng viên khoa văn hoá học, nhiều anh chị NCS, HVCH, SV ngành văn hoá học và các ngành liên quan… Sau hơn 3 giờ làm việc nghiêm túc với những nhận xét và 6 câu hỏi chất vấn của Hội đồng, NCS. Nguyễn Ngọc Thơ đã trả lời thuyết phục từng vấn đề và đã hoàn thành xuất sắc buổi bảo vệ Luận án của mình. Theo đánh giá của Hội đồng: đây là một Luận án được thực hiện công phu, là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp nghiên cứu văn hóa Bách Việt nói riêng và Việt Nam nói chung, thể hiện nhiều tâm huyết và khả năng của người nghiên cứu. Hội đồng đồng ý bỏ phiếu thông qua Luận án với kết quả đạt được là 7/7 phiếu xuất sắc. Khoa Văn hóa học xin chúc mừng Tân Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thơ, chúc mừng Khoa Văn hóa học đã có thêm một cán bộ khoa học đầy năng lực, chúc mừng ngành Văn hoá học ĐHQG-HCM đã đào tạo được Tiến sĩ Văn hoá học đầu tiên. Chúc Tân Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thơ thật nhiều sức khỏe và với năng lực, nhiệt huyết của mình sẽ có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của ngành Văn hóa học. Một số hình ảnh của buổi bảo vệ: Khoa Văn hóa học
-
Kính gửi quí vị, Như vậy tôi đã đưa lên đây toàn bộ bài viết của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thơ, Phó trưởng khoa Văn Hóa Học, ĐHQG HCM, người có tiểu sử như ở dưới. Tôi nghĩ rằng đây là một công trình có những ý nghĩa học thuật quan trọng đương đại về một chủ đề chúng ta rất quan tâm, vì vậy rất mong quí vị cùng trao đổi ở đây nhằm dần tạo ra một không khí trao đổi qua lại giữa giới học thuật chính thức với chúng ta - những người nghiên cứu bằng đam mê. Trân trọng Thế Trung (http://www.vanhoahoc....html?task=view) Phó Trưởng Khoa Văn hóa học: ThS. NGUYỄN NGỌC THƠ Thông tin cá nhân Ngày sinh: 1-7-1978 Nơi sinh: Tiền Giang Điện thoại CQ: 9104078 Cellphone: 0903.781875 E-mail: poettho@gmail.com Quá trình đào tạo và công tác *1983-1992: Học sinh Cấp 1,2 Trường PTCS Hội Cư - Cái Bè - Tiền Giang *1992-1995: Học sinh Cấp 3 Trường PTTH Cái Bè - Tiền Giang *1995-1999: Sinh viên ngành Trung Quốc học - Khoa Đông Phương học - Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM. Cử nhân Đông phương học. * 1996-2000: Sinh viên Khoa Ngữ văn Anh - Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM. Cử nhân Ngữ văn Anh. * 1999-2000: Chuyên viên Quan hệ Quốc tế - Nhà Văn hóa Thanh niên Tp. Hồ Chí Minh * 2000-2002: Trợ giảng Khoa Đông phương học - Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM. * 1/2001-2/2001: Thực tập sinh tại Đại học Quốc gia Singapore (Asia-Europe Foundation tài trợ). * 2000-2003: Học viên Cao học ngành Văn hóa học - Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM. Ngày bảo vệ: 3/12/2003 * 2002- 2010: Giảng viên Bộ môn Văn hóa học - Trường ĐH KHXH&NV Cùng các giảng viên Khoa Nhân loại học Đại học Sun Yat-sen, Trung Quốc* 4/2002: Thành viên đồng sáng lập ASEFUAN (Asia-Europe Foundation University Alumni Network) tại Bali, Indonesia * 9/2005- 2/2006: Thực tập sinh tại Khoa Nhân loại học Đại học Sun Yatsen - Trung Quốc * 9/2007- 2/2008: Nghiên cứu sinh thực tập tại Viện Harvard-Yenching, Đại học Harvard, Hoa Kỳ (p.1) * 2/2008- 9/2008: Học giả trao đổi tại Khoa Lịch sử, Đại học Sun Yatsen - Trung Quốc (lần 2) * 8/2008-12/2008: Học viên Lớp Đào tạo nghiên cứu cao cấp Văn hóa – Nhân loại học lịch sử do ĐH. Manchester (Anh), ĐH Hồng Kông, ĐH Sun Yatsen, ĐH Hạ Môn, ĐH SP Bắc Kinh (TQ) tổ chức tại Quảng Đông và Phúc Kiến, Trung Quốc * 9/2008- 8/2009: Nghiên cứu sinh thực tập tại Viện Harvard-Yenching, Đại học Harvard, Hoa Kỳ (p.2) * 17/7/2009: Thành viên đồng sáng lập Tổ chức học giả châu Á (Association of Asian Scholars - AAS) tai Bangkok, Thailand. * 9/2010 - nay: Giảng viên thỉnh giảng của Đại học Griggs, Maryland, Hoa Kỳ tại Tp. Hồ Chí Minh. * 1/4/2010 - nay: Phó Trưởng Khoa Văn hóa học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
-
Adopting a basically perennial view of the Vietnamese nation, Keith Taylor has also attributeda great antiquity to it in what continues to be the most important work of Western scholarship on Vietnamese history beforethe tenth century.23 Like Hodgkin, Taylor argues on the basis ofarchaeological scholarship in the DRV that the “birth” of the Vietnamese nationtook place in the first millennium BCE, before the period of Chineserule. Taylor too accepts the equation by Vietnamese scholars of the Hùng Kings and Văn Lang with the archaeological remains found at Đông Sơn. Thông qua cái nhìn lâu đời về cơ bản của dân tộc Việt Nam, đóng góp của Keith Taylor khẳng định tính lâu đời của thời cổ xưa và đây vẫn là công trình quan trọng nhất của sự uyênbác của phươngTây về lịch sử Việt Nam trước thế kỷ thứ mười.23 Giống như Hodgkin, trên cơ sở sự uyên thâm về khảo cổ ở CHDCVN, Taylor lập luận rằng sự "ra đời" của dân tộc Việt Nam đã diễn ra trong thiên niên kỷđầu tiên trước Công nguyên, trước giai đoạn Trung Quốc thống trị. Taylor cũng chấp nhận các phương trình của các học giả Việt Nam về các vua Hùng và Văn Lang với các di chỉ khảo cổ tìm thấy ởĐông Sơn. He considers what he calls “the Đông Sơn or Lạc-Việt period” to be the first period in Vietnamese history and appears to agree with DRV archaeologists whoregard the period of bronze working as formative in establishing the Vietnamese“national tradition”. The subsequent periodof Chinese suzerainty was thus “a temporary intrusion into an already established national life”, so that “Vietnamese independence in the tenth century [CE]” was actually the “reappearance of apreexisting tradition”. Ông cho rằng những gì ông gọi là "thời kỳ Đông Sơn, Lạc-Việt" là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử Việt và dường như ông đồng ý với CHDCVN và các nhà khảo cổ học người coi thời kỳ đồ đồng như tác động hình thành trong việc thiết lập “truyền thống quốc gia Việt Nam". Giai đoạn tiếp theo của quyền bá chủ của Trung Quốc do đó chỉ là tạm thời xâm nhập vào đời sống một quốc gia đã được thành lập ", vì thế " sự độc lập của Việt Nam trong thế kỷ thứ mười [CE]" thực sự là "sự tái xuất hiện của một truyền thống từ trước ". Taylor writes that Lạc society was at first one of primitive communalismbut that it became increasingly stratified. Based on wet-rice agriculture, “the skills of the farmers were sufficient to support a clearly defined ruling class”. “The Hung Kings maintained their prestige with a prosperous court life that facilitatedpeaceful relations with neighbouring mountain peoples”. The people faced both natural hazards and also threats from neighbouring peoples and were armed accordingly withdaggers, swords, halberds and arrows. According to Taylor, “Lạc society was relatively advanced and apparently self-contained”.24 Taylor viết rằng xã hội Lạc là một trong những xã hội đầu tiên của công xã nguyên thủy, nhưng nó trở nên ngày càng phân tầng. Dựa vào nền nông nghiệp lúa nước, "các kỹ năng của nông dân đã đủ để hỗ trợ một giai cấp cầm quyền được xác định rõ ràng". "Các Vua Hùng duy trì uy tín của họ với một cuộc sống triều đình thịnh vượng điều mà đã tạo điều kiện quan hệ hòa bình với dân tộc miền núi láng giềng". Những người phải đối mặt vớicả hai mối nguy hiểm tự nhiên và cả mối đe dọa từ nước láng giềng và được trang bị phù hợp với dao găm, kiếm, kích và tên. Theo Taylor,"Lạc xã hội là tương đối tiên tiến và dường như khép kín "24 Stephen O’Harrow dates the existence of the Vietnamese nation to a later period than either Taylor or Hodgkin, although still as early as the early fifteenth century; he too sees the Vietnamese nation as perennial. In 1428, the scholar Nguyễn Trãi (1380-1442) wrote the Bình Ngô Đại Cao (Great Proclamation upon Pacifying theNgô) on the expulsion of the Ming occupiers (1407-1427) by Lê Lợi.25 According to O’Harrow the Bình Ngô Đại Cáo “addresses the question of a separate national identity for Vietnam”. He goes onto argue that Vietnam’s “national identity” was not derivative of China, but that both Việt Nam and China shared a commonidiom in which their political and cultural distinctiveness was articulated.26 Stephen O'Harrow xác định thời đại sự tồn tại của quốc gia Việt Nam muộn hơn một thời gian so với Taylor hay Hodgkin, mặc dù sớm nhất vẫn là đầu thế kỷ thứ mười lăm, ông cũng thấy quốc gia Việt Nam là lâu đời. Năm 1428, học giả Nguyễn Trãi (1380 - 1442) đã viết Bình Ngô Đại Cáo về việc Lê Lợi đánh đuổi những kẻ chiếm đóng nhà Minh (1407-1427).25 Theo O'Harrow, Bình Ngô Đại Cáo "diễn thuyết về các vấn đề của sự nhận biết một quốc gia riêng biệt đối với Việt Nam ". Ông lập luận rằng"bản sắc dân tộc" của Việt Nam là không bắt nguồn từ Trung Quốc, nhưng cả Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ một thành ngữ phổ biến mà trong đó phân biệt chính trị và văn hóa đã được nói rõ.26 23 Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University ofCalifornia Press, 1983). See especially,pp. 1-13. 24 Taylor, Birth, pp. 4 (“Vietnamese independence…pre-existing tradition”),7 (increasingly stratified),12 (“skills of the farmers”), and 13 (“Hung Kingsmaintained” and “relatively advanced”). 25 Lê Lợi was to become the first emperor of the Lê dynasty, Lê Thái Tổ(r. 1428-1433). 26 Stephen O’Harrow, “NguyenTrai’s Binh Ngo Dai Cao of 1428: The Development of a Vietnamese NationalIdentity”, Journal of Southeast Asian Studies (henceforth JSEAS) 10,1 (March1979), p. 159. 23 Keith WellerTaylor, The Birth of Việt Nam (Berkeley: University of California Press, 1983).chú ý xem, trang 1-13. 24 Taylor, Sự ra đời, trang 4 (Việt Nam độc lập ... cótruyền thống từ trước "), 7 (ngày càng phân tầng),12 ("kỹ năng củanông dân"), và 13 (Vua Hùng duy trì "và" tương đối tiên tiến"). 25 Lê Lợi trở thành hoàng đế đầu tiên của triều đại Lê, Lê Thái Tổ (r.1428-1433). 26 Stephen O'Harrow, "Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi năm 1428: Sự phát triểncủa Bản sắc dân tộc Việt Nam ", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á(JSEAS) 10,1 (tháng 3 năm 1979), p. 159.
-
SUNDAY, OCTOBER 23, 2011 http://diakhoi.blogs...23_archive.html Lịch sử Việt tộc được viết lại bằng Mực DNA hay Mực Di Truyền Việt Tử Mọi con người trên trái đất đều muốn biết nguồn gốc của mình. Những câu hỏi căn bản về vấn đề đó được trả lời bằng những giả thuyết hay thần thoại khác nhau ở khắp địa cầu tùy theo quan niệm duy tâm,duy vật hay vô duy. Nước Babylone (Iraque) phát minh ra chữ viết sớm nhất trên thế giới khoảng 4000 năm TC (Thời Củ = Thời gian trước Công Nguyên) đã ghi chép lại sự tạo thiên lập địa và nguồn gốc loài người. Chúng tôi gọi truyền thuyết hay thần thoại (Mythology) là chuyện truyền khẩu vì chưa có chữ viết để ghi chép lại một cách chính xác. Lịch sử là chuyện đang xãy ra và được ghi chép lại bằng chữ viết hiện hành một cách chính xác hơn. Các miếng đất sét của xứ Babylone được khai quật sau khi bị chôn vùi dưới đất 2000 năm kể lại chuyện khai thiên lập địa tiền sử, nghĩa là chuyện thần thoại : Theo đó loài người do Chúa Mẹ (Mère des Dieux) sinh ra các Chúa với một đời sống vĩnh viễn. Chúa Trưởng họp Hội Đồng Các Chúa lại bàn cải về công tác tạo dựng ra con người để phục vụ và thờ phụng các Chúa hằng ngày. Hội Đồng Các Chúa ủy quyền cho Nữ Chúa Enki/Éa lấy đất sét nặng ra con người rồi chuyền máu của Bà cho con người đất sét. Con người đất sét trở thành người thật có một đời sống khoảng 200 năm (Jean Bottéro). Thánh Kinh vào khoảng 1500 TC kể rằng Chúa Trời lấy cát bụi nặng ra con người rồi thở hơi thở của Ngài vào con người cát bụi. Con người cát bụi trở thành con người thật. Đó là Ông Adam. Rồi Chúa lấy xương sườn của Ông Adam tạo ra Bà Eva. Thần thoại Iran cho là loài người do Ba Anh Em Huyền Bí sinh ra. Thần thoại Trung Hoa cho rằng ông Bàn Cố chết rồi dòi từ thân thể ông cho ra loài người (Jonathan Fenby). Các nhà khoa học cho rằng các sinh vật đơn bào ở dưới nước hợp lại thành đa bào rồi lên đất liền thành con dã nhân và biến thành con người. Chúng tôi không đủ thẩm quyền thảo luận nguồn gốc của loài người. Nhưng nguồn gốc của một dân tộc đã và đang sống trên trái đất có thể định được dựa vào cổ sử và khảo cổ hoc mà ta có thể tìm lại được Lịch sử dân Việt Nam có thể tìm lại được phần nào qua cổ sử Trung quốc không phải vì chúng ta không có sử viết nhưng vì vua Tần Thủy Hoàng đã tận diệt chữ viết Việt và đốt phá sử sách Việt trong mưu đồ đồng hóa dân ta. Nhưng cổ sử Trung quốc dẫy đầy sai lạc về nhân danh, địa danh và thời gian sự việc đã xảy ra trong lịch sử Việt tộc. Tiền Hi Tộ một sử gia Trung Quốc vào thời Đại Hán (206 TC - 220 TM) [TM= Thời Mới= Thời sau Công Nguyên] đã thay đổi nội dung quyển Đại Việt Sử Lược rồi đổi tên là Việt Sử Lược và cho vào Tứ Khố Toàn Thư triều Thanh. Họ kéo lùi lại niên đại thành lập nước Văn Lang vào thế kỷ 7 TC, tức là 700 năm TC. Truyền thuyết cho rằng nước Văn Lang có từ năm 2879 TC. Ngoài ra người Tàu còn dùng chữ viết của họ trong chính sách thâm hiểm kín đáo “Chia Để Trị” dân Bách Việt sau khi họ hoàn toàn yểm nhẹm chữ viết Việt vào đời Tần Thủy Hoàng năm 221 TC. Ngày nay khoa học tiến triển vượt bực giúp cho các nhà nhân chủng học thế giới một vũ khí sắc bén và chính xác để tìm lại nguồn gốc của vài dân tộc trên 10.000 năm tiền sử : Đó là Mitochondrial DNA mà chúng tôi gọi là Mực DNA hay Mực Di Truyền II- Nguồn gốc Việt tộcCó ba giã thuyết về nguồn gốc Việt tộc : 1- Giả thuyết 1 : Người từ Hi Mã Lạp Sơn theo sông Dương tử xuống lập quốc ở vùng Bắc ViệtNam hiện tại. Nếu ta hỏi họ là ai và từ đâu đến? Không ai thực sự biết cả. Ta đi vào siêu hình học (metaphysique) về nguồn gốc loài người như đã thảo luận ở trên. 2- Giả thuyết 2 : Bình Nguyên Lộc đưa ra giã thuyết rằng thủy tổ của Việt tộc là dân Mã Lai. Ông viết : "Cách đây 5000 năm, chủng Anh-đô-nê-diêng, tức là cổ Mã Lai, từ đâu không biết và không biết vì lẽ gì, di cư đến Triều Tiên, đến Nhật Bản, đến Đài Loan, đến Cổ Việt và đến đảo Célèbes ở Nam Dương". Thuyết này do các nhân chủng học và khảo cổ hoc người Pháp đào xới ở Việt nam đã đề nghị dựa vào các chứng liệu tìm được. Ông Bình Nguyên Lộc căn cứ vào chỉ số sọ của người tiền sử tìm thấy ở Việt Nam mà ông nghĩ rằng nó rất chính xác như toán học. Lý luận này không vững lắm vì không có môn xã hội học nào chính xác như toán học cả. 3- Giả thuyết 3 : Nhà tiến sĩ sử học Nguyễn Phương thì dựa vào cổ sử Trung quốc cho rằng Việt tộc từ Tàu mà ra và không có tiếng nói riêng. Tiếng Việt là do nói trại ra từ tiếng Tàu. Nhưng các nhà ngôn ngữ học cho thấy tiếng Việt có 15.000 âm điệu trong lúc tiếng Tàu chỉ có 1.300 âm điêu thôi (Đổ Thông Minh 2003). Ông Vũ Thế Ngọc trong sách Nghiên Cứu Chữ Hán và Tiếng Hán-Việt viết rằng Hán tự rất nghèo và yếu những danh từ biểu thanh không thể phiên âm hết tất cả tiếng Việt. Do đó chử Tàu phiên âm tiếng Việt một cách lệch lạc. Những nhận xét đó chứng minh rằng dân tộc Việt có tiếng nói riêng của nó và tiếng nói đó rất giàu âm điệu hơn tiếng Tàu rất nhiều. Chính người Tàu đã mượn tiếng Việt và đọc theo giọng Tàu lơ lớ tiếng Việt. Vậy Tàu và Việt là hai dân tộc hoàn toàn khác nhau. Cổ sử cho thấy dân Tàu gốc dân Turk lai Mông cổ từ Tây Bắc ở Tiểu Á sang giao tranh với Việt tộc ở Trác Bộc sông Hoàng Hà trước nhà Hạ trong một cuộc tranh hùng đẩm máu quyết liệt. Theo các nhà khảo cổ (gồm cả Website : Đi tìm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam) cho rằng Hiên Viên (Hoàng Đế = Huang Di) đã diệt Ly Vưu (Xi Vưu = Xi Bưu = Đế Lai = Chiyou) ở Trác Lộc (Zhoulu) trong tỉnh Hebei ngày nay bên Tàu. Việt tộc có tên là Bách Việt có nghĩa là nhiều nhóm Việt có thể đến một trăm nhóm khác nhau. Ta có Lạc Việt, Âu Việt, Tây Việt, Mân Việt v...v.. sống rải rác từ phía Bắc sông Hoàng Hà đến miền Bắc Việt nam hiện nay. Nhiều nhà sử gia Trung Quốc như Chu Cốc Thành trong "Trung Quốc Thông Sử" viết : "Viêm tộc (Việt tộc) có mặt khắp Trung Hoa cổ đại trước các dòng tộc khác tràn vào nên Viêm tộc coi như là chủ đầu tiên..." Vậy cái gọi là Trung quốc hiện tại là lảnh thổ của dân Bách Việt thời tiền sử. Nhà nước Văn Lang thành lập năm 2879 TC (TC = BC). Cổ sử Tàu chép rằng nhà Hạ có từ 2202 – 1860 TC, tức là 677 năm sau nước Văn Lang. Tuy nhiên khảo cổ chưa bao giờ chứng minh được sự hiện hửu của nhà Hạ do vua Vũ lập ra sau khi vua Nghiêu Thuấn nhường ngôi cho ông. Họ Hồng Bàng cũng chưa được khảo cổ chứng minh. Tuy nhiên khảo cổ khám phá dân Hòa Bình (Bách Việt) đã sinh sống trong khu vực đó từ 10.000 TC đến 12.000 TC biện minh cho sự hiện diện của Họ Hồng Bàng. Nhà Hạ không có chữ viết. Cuối nhà Thương (1100 TC) Tàu mới có chữ viết thực dụng (Jonathan Fenby). Khổng Tử và Mạnh Tử cho ông Nghiêu là người Đông Di, tức là Việt. Chữ khoa đẩu của Việt tộc được biết trể nhất là vào năm 2353 TC, tức là trước nhà Hạ ít nhất 151 năm. Nếu nhà Hạ không có chữ viết thì làm sao Đế Nghiêu có chữ viết để chép lại Lịch Rùa của Việt tộc được nếu không phải là giữ nguyên chữ khoa đẩu? Vì thế ta có thể suy luận không mấy sai là lịch sử Họ Hồng Bàng có thể được ghi lại bằng chữ khoa đẩu. Nhưng sau khi chữ viết Việt tộc bị tiêu diệt,các sử gia Tàu viết lại lịch sử Việt tộc và thêm cái huyền thoại giả tưởng nhà Hạ, Đế Nghiêu và Đế Thuấn vào lịch sử thật của Họ Hồng Bàng. Quả thật vậy trong sách Việt Triết Nhập Môn trang 36, Kim Định quả quyết rằng ngày nay tất cả phương pháp khoa học minh chứng Hoàng Đế, Đế Nghiêu và Đế Thuấn mới được tạo dựng lên từ cuối đời Chu (1122-255 TC). Vậy trước nhà Thương (1600 TC) không có dân Tàu nào cả ở lưu vực sông Hoàng Hà mà chỉ có dân Bách Việt và các dân tộc bản địa khác thôi. Chúng tôi cố công đào xới cổ sử học, khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học và những khám phá mới nhất của khoa học hiện đại do các nhà khảo cổ thế giới và trong nước để tìm lại nguồn gốc Việt tôc. II- Nguồn gốc Việt tộc qua Cổ Sử Trung Quốc Như đã nhận định cổ sử Trung quốc không viết trung thực lịch sử Việt tộc, nhưng chính nó là chứng nhân của lịch sử Việt. Về tổ tiên của Việt tộc, cổ sử Tàu chép rằng Đế Minh, Đế Nghi và Âu Cơ là Tàu thuần chủng. Lộc Tục và Lạc Long Quân là Tàu lai. Vậy Họ Hồng Bàng không còn là chuyện hoang đường nữa mà là huyền sử của Việt tộc và Tàu đã bóp méo sự thật. Nếu Đế Minh, Đế Nghi và Âu Cơ là Tàu thuần chủng thì làm sao họ có thể quên được lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa Trung quốc như ông Vũ Hữu Táo viết trong Báo Người Dân số 215. Rồi làm sao vào năm 110 TC các quan cai trị Tàu nhận xét rằng phong tục và tập quán Việt và Trung quốc không có gì tương tự. Họ quyết định cần phải giáo huấn dân Việt. Hai sử gia Trung quốc đời Tống là Chu Hi trong sách Thông Giám Cương Mục và Trịnh Tiếu trong sách Thông Chí viết rằng chữ Việt cổ xuất hiện ít nhất vào năm 2353 TC mà cổ sử Trung quốc gọi là chữ khoa đẩu (chữ con nòng nọc ) khi nước Việt Thường ở phương Nam dâng cho vua Đường Nghiêu một con rùa sống ngàn năm trên mu có chữ khoa đẩu ghi lại sự việc từ ngày khai thiên lập địa về sau.Vua Đường Nghiêu cho chép lại gọi là Lich Rùa (Qui lịch). Chữ viết Việt tộc đã được ghi lại vào một thời điểm nhất định và hoàng cảnh rõ ràng. Dân Bách Viêt đã dùng chữ khoa đẩu để viết sách như Kinh Dịch, Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh mà người Tàu gọi một cách cung kính là Thiên Thư (sách trời). Vậy khó ai có thể nghi vấn sự hiện diện của chữ viết cổ của Việt tộc được. Trần Trong Kim trong Việt Nam Sử Lược chép rằng “giống Tam Miêu sinh sống vùng đất Hoàng Hà. Người Tàu từ Tây Bắc vùng Trung Á sang đánh đuổi người Tam Miêu đi rồi chiếm giữ lưu vực sông Hoàng Hà mà lập nước Tàu”. Người Tam Miêu chính là dân Bách Việt theo nhà dân tộc học Trung Quốc Vương Đồng Linh ghi lại trong sách Trung Quốc Dân Tộc Học của ông. Từ đó danh từ Bách Việt xuất hiện trong cổ sử Tàu lần đầu tiên do nhà sử gia Trung quốc Tư Mã Thiên trong quyển Sử Ký của ông. Rồi dần dần người Tàu tràn xuống phía Nam. Dân Bách Việt phải trốn vào rừng hoặc di dân xuống vùng Bắc Việt Nam ngày nay. Một nhóm khá lớn ở lại quê hương đất tổ bị đồng hóa thành Tàu gọi là Tàu Hoa Nam hoặc Man Di (Man Di là man rợ mà Tàu Hoa Bắc gọi một cách khinh bỉ dân bị Hoa hóa phía Nam). Một nhóm di thiên lên miền Bắc, vào Hàn quốc và Nhật Bản rồi vượt cầu đất Bering sang lục địa mới goi là Mỹ châu ngày nay. Một nhóm khác di Nam và thành lập các quốc gia như Lào, Cao Miên, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam.Một số trong nhóm di Nam vượt biển chiếm cư các hoang đảo mà ngày nay mang tên Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân, Đài Loan, Đa Đảo, Hawai, Đa Đảo thuộc Pháp, Úc châu và New Zealand. Sau đó họ tiếp tuc vượt Thái bình dương chiếm cư California, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hai đường di dân này của Việt tộc được các nhà nhân chủng học Hertzberg và đồng nghiệp (1989) cùng Schurr và đồng nghiệp (1990) chứng minh bằng Mitochondrial DNA. Người Tàu viết chữ Miêu bằng cách ghép bộ “thảo” nằm trên bộ “điền” . Hai bộ “thảo” và “điền” trong chữ Miêu ám chỉ dân Miêu là dân làm nghề nông. Dân Bách Việt là dân phát minh nghề trồng lúa nước trước nhất trên thế giới và đã sinh sống bằng nghề nông. Người Tàu cố ý dùng chữ “Miêu” viết khác với chữ “Việt” trong thâm ý “Chia Để Trị” và từ chối cái sự hiện diện của người dân Bách Việt cư trú ở lưu vực sông Hoàng Hà trước khi người Tàu đến vùng này. Tàu gọi Việt tộc bằng hai tên khác nhau về âm hưởng nhưng cùng một tư tưởng dân tộc theo dạng chữ viết (“Mễ” cho dân Việt, “Điền” và “Thảo” cho dân Miêu). Dân Tàu chưa biết lúa là gì. Chính dân Việt dạy cho dân Tàu trồng lúa nước và ăn cơm. Trước khi đến lưu vực sông Hoàng Hà họ ăn bánh bao làm bằng lúa mì (mạch kê). Người Tàu khéo léo đưa các nhà trí thức Việt vào các sách như Xuân Thu Chiến Quốc hay Hán Sở Tranh Hùng, vân..vân.. để cố tạo ra bối cảnh nội chiến trong nước Tàu mà quên hẳn đó là đất của Việt tộc trong đó dân Việt đang cố gắng chống trả công khai hoặc bí mật kết hợp với lân bang để giành lại chủ quyền. Trước năm 221 TC, không có cái gì gọi là nước Tàu cả mà chỉ có một hình ảnh đẩm máu “Vạn Quốc” đánh giết nhau liên miên. Nước Tàu chỉ thành hình sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước cuối cùng vào năm 221 TC (Kim Định).. Các sử gia Tàu sau này cố tình bỏ quên cái thời Vạn quốc (một ngàn quốc gia bé tí hon bằng một tỉnh hiện nay) mà chỉ giữ lại cái hình ảnh vĩ đại sau năm 221 TC. Theo ôn g Jonathan Fenby thì vào năm 1100 TC nhà Thương mới có chữ viết thông dụng. Họ viết chữ “Việt”theo lối chữ tượng hình cái rìu mà người dân Việt ở Chiết Giang phát minh rất sớm. Khi tổ tiên của người Tàu, vốn gốc du mục, coi cái rìu vừa là dụng cụ vừa là vũ khí như là đặc trưng của người phương Nam nên gọi người phương Nam là “bọn rìu”. Trong ngôn ngữ cổ đại Nam Á, rìu có cái tên gọi với âm thanh tương tự như “Yịt”. Truyện thần thoại người Mường gọi vua Việt là “Bua Yịt” (Dịt) hay “Yịt Dàng” (Dịt Dàng). “Yịt” được phiên âm sang tiếng Hán cổ rồi từ tiếng Hán cổ phiên âm qua tiếng Hán-Việt thành “Việt” . Ở thời Khổng Tử chữ Việt viết bằng chữ tượng hình cái rìu bổ sung thêm bộ Mễ gợi ý dân trồng lúa (Kim Định). Nhà Chu thay đổi cách viết chữ Việt hai lần nữa với bộ “Kim” và bộ “Thích”. Chữ Tàu hiện đại viết chữ Việt với bộ “Tẩu” là chạy Chữ Việt bộ Mễ : Chữ Việt bộ Tẩu : Cũng trong chính sách chia để trị đó, người Tàu viết chữ “Lạc” bằng hơn 5 cách khác nhau : Lạc bộ “Điểu” chỉ dân Việt (thờ chim do đó bà Âu Cơ là chim hãi âu). Lạc bộ “Chuy” chỉ dân Khuyển Nhung hay Cao Miên. Lạc bộ “Trãi” chỉ dân Nhật Bản. Lạc bộ “Mã” chỉ dân Nam Dương. Lạc bộ “Mã hay Trãi” chỉ dân Thái Lan. Lạc bộ “Thủy” chỉ dân ở bắc Hồ Nam. Người Tàu vô tình công nhận cái mà chúng tôi sẽ trình bày sau này là tất cả các dân Lạc này có cùng một thủy tổ chung bằng mực DNA. Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Tuấn trong lời giới thiệu cho sách “Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt” có chép rằng “Nhà dân tộc học Trung Quốc Vương Đồng Linh trong cuốn Trung Quốc Dân Tộc Học của ông có ghi “Dân Tam Miêu-Bách Việt xưa gồm Âu Việt có Miên, Thái, Lào; Miêu Việt có Mèo, Mán; Lạc Việt có Việt, Mường. Tất cả dân Miêu này là Bách Việt, còn gọi là Viêm Việt (vì họ biết chế tác nhiều thứ từ lửa nên gọi là “Viêm”). Tất cả họ, nhất là ngành Việt đã cùng Hoa tộc làm nên Nho giáo” Sau đây là bằng chứng người Tàu cố ý làm cho con cháu Việt khó khăn tìm lại nguồn cội mình : Sách Tàu chép dân Việt là Lạc bộ Trãi. Hậu Hán Thư chép dân Việt là Lạc bộ Trãi hay bộ Mã. Thủy Kinh Chú chép dân Việt là Lạc bộ Chuy. Vậy tất cả dân Lạc đều là dân Bách Việt. Bình Nguyên Lộc chép rằng Tàu biết Việt tại sông Bộc ở Hoa Bắc trước đời Hạ. Nhưng trước đời Hạ thì không có sử viết, còn truyền thuyết thì quá lâu đời thất truyền. Đến đời Chu Thành Vương khi Hùng Dich được phong thì dân Việt được Trung Hoa biết rõ hơn. II- Nguồn gốc Việt tôc qua Văn Hóa Mổi một dân tộc có một nền văn hóa đặc trưng riêng biệt. Dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa triết lý cao siêu ngay từ khi chưa có chữ viết : Hà đồ mà người Trung Hoa cho là vua Phục Hi đi chơi sông Hà (sông Hoàng Hà), thấy con long mã (con vật tưởng tượng mình ngựa đầu rồng) nổi lên, trên lưng có bức đồ. Phục Hi theo đó mà làm ra Hà Đồ. Thực ra Hà Đồ là một hệ thống gồm các nhóm chấm đen và chấm trắng sắp xếp theo một hình thức nhất định liên hệ với bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm. Những nhóm chấm-vạch ấy là những ký hiệu biểu thị số 1 đến số 10 ở thời kỳ chưa có chữ viết . Những chấm đen đi với số chẳn và đại diện cho cực Âm. Chấm trắng đi với số lẽ và đại diện cho cực Dương. Cực Âm và cực Dương thuộc về lý thuyết Âm Dương của Việt tộc. Hà đồ xuất hiện trước năm 2353 TC, năm mà cổ sử Tàu ghi lại chữ khoa đẩu của dân tộc Việt lần đầu tiên. Chính Khổng An Quốc, cháu 12 đời của Khổng Tử đã ghi lại trong bài tựa cuốn Thượng Thư (Kinh Thư) như sau : “…thời Lổ Công Vương, thích sửa sang cung thất, Vương cho phá nhà củ của Khổng Tử để mở rộng thêm. Trong tường nhà tìm thấy Thư, phần Ngu, Hạ, Thương, Chu cùng Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ khoa đẩu cổ văn do ông cha chúng ta cất giấu. Vương lại lên nhà thờ đức Khổng Tử nghe được tiếng vàng, đá, tơ, trúc bèn không cho phá nhà nữa, đem toàn bộ sách trả lại cho họ Khổng. Lối chữ khoa đẩu bỏ từ lâu, người đương thời không ai đọc được nữa, phải lấy sách nghe được ở Phục Sinh khảo luận văn nghĩa, định những chổ đọc được, dùng lối chữ lệ cổ viết sang thẻ tre, nhiều hơn sách của Phục Sinh hai mươi lăm thiên…” (Khổng Tử: Kinh Thư- Bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam- tr. 228-229). Lời ghi chú của Khổng An Quốc chứng minh : 1- Khổng Tử là thừa kế cái văn hóa của dân Bách Việt 2- chữ Việt cổ (chữ khoa đẩu) đã được dùng biên soạn trong các sách còn gọi là “Thiên Thư” (sách Trời). Chính các nhà trí thức Tàu gọi sách viết bằng chữ khoa đẩu một cách kính cẩn là “thiên thư”vì các sách đó không do dân tộc Tàu làm ra và là nguồn gốc của văn hóa thời đó. Người Tàu nhận lich sử của họ bắt đầu từ nhà Thương (1600-1122 TC). Hà đồ xuất hiện ít nhất trước năm 2353 TC tức là 753 năm trước khi người Tàu đánh chiếm lưu vực sông Hoàng Hà.. Vậy Hà đồ không thuộc văn hóa Tàu. Hơn nữa, các nhà khảo cổ quốc tế và sử gia Trung quốc khám phá rằng Phục Hi là nhân vật thần thoại được đưa vào sử Tàu vào đời nhà Hán mãi sau này (206 TC - 220 TM). Triết lý Âm Dương của Việt tộc đã có trước khi họ có chữ viết cho nên nó được tóm tắt trong ba câu ngắn gọn : Âm Dương (2) sinh Tam Tài (3), Tam Tài sinh Ngũ Hành (5), Ngũ Hành vận chuyển vô lường (2-3-5). Hà Đồ liên hệ chặc chẻ với Ngũ hành vì Ngũ hành gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm nơi con người đứng. Nó khác với thuyết Âm Dương (Yin Yang) của Tàu là “Lưởng Nghi (2) sinh Tứ Tượng (4), Tứ Tượng sinh Bát Quái (8), Bác Quái vận chuyển vô lường (2-4-8)”. Danh từ “Yin Yang” không phải ngôn ngữ của Tàu. Nó được vay mượn của dân bản địa vùng Nam Á. Trước khi mượn danh từ, lẽ dĩ nhiên họ đã "mượn" tư tưởng của thuyết Âm Dương rồi. “Yang” là “dương” nghĩa là “Trời, Thần”. “Yang” là chữ “giành” trong tiếng Mường và là danh từ thông dụng trong hàng loạt ngôn ngữ Tây Nguyên (ví dụ như “yang Sri” là thần lúa, “yang Dak” là thần nước). Chữ “Yin” (âm) chỉ “Mẹ” của các ngôn ngữ Đông Nam Á (Yana là Mẹ trong tiếng Chàm cổ; ở Huế có đền thờ Thiên lana là Mẹ Trời; Ina là Mẹ trong tiếng Giarai; và Inang là Mẹ trong tiếng Indonesia). Bát quái không có liên hệ gì với Hà đồ và Ngũ hành cả vì Bát quài không có trung tâm cho con người. Người Tàu cũng cho là Phục Hi làm ra Bát Quái. Như ta đã biết Phục Hi là nhân vật thần thoại. Không ai biết Bác Quái Tiên Thiên xuất hiện lúc nào cả. Nhưng ta biết Bác Quái Hậu Thiên do Chu Văn Vương sửa đổi Bác Quái Tiên Thiên vào năm 1144 TC khi bị vua Trụ nhà Ân cầm tù ở ngục Dữa Lý. Lý thuyết Âm Dương phát sinh từ nhóm dân sinh sống bằng nông nghiệp. Người nông dân có một mơ ước căn bản là tồn tại và phát triển. Vậy tồn tại và phát triển cần sự sinh sãn của con người vàhoa màu. Yếu tố chính của sự sinh sãn của con người là Cha và Mẹ hay Nam và Nữ. Cha hay Nam là Dương. Mẹ hay Nữ là Âm. Sự sinh sãn của hoa màu là do Trời và Đất. Người Việt thường nói “Trời sinh Đất dưởng” là vậy. Trời là Dương, Đất là Âm. Con người là một thành phần trong Tam Tài. Người là âm so với Trời, nhưng dương so với Đất. Sự hợp nhất của hai cặp “Cha Mẹ” và “Trời Đất” chính là quan niệm căn bản đưa đến triết lý Âm Dương. Triết lý âm dương thể hiện cái quân bình năng động giửa hai thái cực khác nhau như nam nữ, sáng tối, nóng lạnh, chẳn lẽ, phải trái, vân…vân… Vậy ta thấy rõ triết lý âm dương phản ảnh sự hòa hợp trong nền văn hóa tư duy tổng hợp và biên chứng trọng tỉnh của nền văn hóa nông nghiệp. Theo một nhà trí thức chưa bị ô nhiểm bởi văn hóa ngoại bang thì thuyết Âm Dương phát xuất từ quan niệm cổ xưa của tổ tiên Việt tộc. Truyền khẩu cho rằng vào thuở nguyên sơ chỉ có một khối mênh mông thủy khí vô hình vô dạng, vô màu vô sắc trong đó hai thành tố Âm và Dương vận chuyển biến khối thủy khí thành nước, lửa, kim loại, gổ và đất. Năm thành tố này không phải là những thành tố bất động như Tây Phương lầm tưởng mà chúng luôn vận chuyển trực tiếp hay gián tiếp cho nhau sinh ra Tam tài (Trời-Người-Đất) và vũ trụ. Đó là quan niệm cấu trúc vũ trụ của dân Bách Việt. Ta nhận thấy quan niệm này không đề cập đến Thần quyền như các xã hội khác trên thế giới. Cái quan niệm này có vẽ thích hợp với những khám phá mới nhất của khoa học hiện đại. Các hành tinh, dảy ngân hà và mặt trời được cấu tạo bởi các khối khủng lồ hydrogen và cát bụi. Ta có thể đưa ra giả thuyết rằng các thiên thể đó trong vũ trụ là kết quả của hai thành tố âm dương tác dụng trên khối thủy khí nhưng chưa đạt tới giai đoạn cuối cùng của sự cấu tạo vũ trụ. Có nhiều người đặt nghi vấn về cái triết lý Âm Dương trong khi đó họ chấp nhận một cách dễ dàng quan niệm Big Bang sinh ra trời đất. Chính tác giả của Big Bang nói về thuyết của ông "Tôi nghĩ nó kỳ cục quá". Chúng tôi xin đề cử vài ví dụ cụ thể để chứng minh thuyết âm dương phản ảnh khoa học thực nghiệm như sau: Tổ tiên nói “Tham thiên lưởng địa nhi ỷ số, nghĩa là 3 trời 2 đất là hai con số căn bản”. Hai nhà bác học Mỹ gốc Trung quốc là Dương Chấn Ninh (Đại học Princeton) và Lý Chính Đạo (Đại học Colombia) đã được giải thưởng Nobel về vật lý năm 1957 chứng minh rằng hạt nguyên tử khi nổ bắn ra những tia dương và âm có độ dài theo tỷ lệ 3-2. Khi đem một nguyên tử khác chặn đầu chúng thì tia dương lóe ra 3 tia nhỏ, còn tia âm chỉ lóe ra 2 tia nhỏ thôi (Báo Time ngày 28-1-1957). Tổ tiên ta đã thấy cái mà họ không thấy hơn 5000 năm rồi, nghĩa là 3 đi với dương còn 2 đi với âm. Hydrogene là một nguyên tử đơn giản nhất và hiện diện trong tất cả mọi tế bào sinh vật. Nó có một electron mang điện âm quay quanh một proton mang điện dương ở trung tâm nguyên tử Proton không cho électron rời khởi quỷ đạo vòng tròn cố định do sức hút điện năng tỉnh lực (attraction électrostatique). Nguyên tử Hydrogene đại diện cho quy luật I của thuyết âm dương : “Không có gì hoàn toàn âm hay hoàn toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm”. Nước ta uống (H2O) là hổn hợp giữa một nguyên tử dưởng khí (Oxygen) và hai nguyên tử Hydrogene trong một thăng bằng tỉnh điện bền vững (equilibre électrostatique). Nếu một năng lượng ngoại lai xâm nhập vào phân tử nước, cái thăng bằng tỉnh điện bền vững giữa Oxygene và Hydrogene có thể bị đảo lộn. Thay vì nước ta uống, phân tử nước có thể phân tán thành nguyên tử Hydrogene và Oxygene bay lên trời xanh. Mọi sinh vật cần nước để sinh trưởng do các phản ứng vi thể giữa Hydrogene, Oxygene và các nguyên tử khác trong các tế bào. Ta có thể nói chính các vi thể âm và dương vận động và chuyển hóa cho nhau giúp cho tế bào tăng trưởng để con người tồn tại và phát triển. Báo Science của American Association for the Advancement of Science (AAAS), 16-10-2009, số 326, tr.326 viết rằng ông Boal và đồng nghiệp cho rằng electron vận chuyễn sửa chửa thể di truyền DNA hư hại. Những ví dụ cụ thể trên cho thấy thuyết âm dương biểu hiện khoa học thực nghiệm hiện tại chứ không phải những lý thuyết trừu tượng không liên hệ với thực tế. Một ví dụ nữa là một thanh nam châm có cực âm và cực dương ở hai đầu. Nếu ta cắt nó ra thành hai đoạn, ta cũng thấy lại cực âm và dương ở hai đầu của hai đoạn nam châm mới. Nếu ta tiếp tục cắt thanh nam châm thành nhiều đoạn nhỏ hơn nữa, ta vẫn thấy hai cực âm và dương trở lại ở hai đầu của mổi đoạn nam châm mới. Vậy cực âm và dương luôn luôn ở bên nhau, vận chuyển cho nhau. nhưng sẵn sàng tách rời nhau và vẫn ở bên nhau trở lại. Chúng ta sẽ chứng kiến rằng ở mọi môi trường gồm cả môi trường xã hội con người, nếu có một thăng bằng năng động bền vững như hiện tượng nam chăm thì môi trường ấy sẽ phát triển thuận lợi. Nếu là xã hội con người thì thịnh vượng và hòa bình sẽ trường tồn. Vì dân Tàu không quan niệm như thế nên họ đi xăm lăng các nước láng giềng. Dân Bách Việt yếu về quân sự nên bị mất nước. Dân Mông cổ vốn dân du mục như dân Tàu với sức mạnh quân sự nên cai tri dân Tàu qua nhiều thế kỷ. Ta cũng có thể tiên đoán rồi dân Tàu sẽ chịu một số phận như dân Mông Cổ vì dân Tàu là một hợp chủng tạo ra do bạo lực. Không ai rõ khi nào dân Bách Việt bắt đầu có chử viết. Nhưng cổ sử Trung quốc chép lại ít nhất vào năm 2353 TC dân Bách Việt có chữ viết thông dụng mà cổ sử Trung quốc gọi là chử khoa đẩu (chữ con nòng nọc) khi nước Việt Thường dâng cho Đế Nghiêu con rùa sống ngàn năm trên lưng có chữ khoa đẩu ghi lai sự việc từ khi khai thiên lập đia trở về sau. Ông Jonathan Fenby, tác giả sách “China’s Emperial Dynasties 1600 BC – AD 1912”, viết rằng nhà Thương có chữ viết thực dụng vào năm 1100 TC (1253 năm sau chữ Việt cổ) và nguồn gốc chữ viết Tàu là từ một con rùa thần bò ra khỏi sông trên mai có khắc một thứ chữ huyền bí. Không ai biết nguồn gốc của thứ chữ viết đó cả. Hiện tượng chữ viết trên mai rùa nhắc lại câu chuyện người Việt Thường dâng cho Đế Nghiêu con rùa sống ngàn năm trên mai có khắc chữ khoa đẩu. Vậy chữ khoa đẩu (chữ huyền bí) là nguồn gốc của chữ Hán? Sách “Writing. The Story of Alphabets and Scripts” kể rằng Hoàng Đế (Huang Che) khóc suốt đêm khi ông tìm ra được chữ viết bằng cách quan sát cơ thể trên thiên đường và vật thể ở thế gian nhất là vết chân chim và thú vật chạy nhảy. Ai cũng biết chữ viết của một dân tôc không phải một cá nhân qua một đêm hay vài tháng mà tạo ra. Lương Kim Định viết : "Trước nhà Tần có rất nhiều kiểu chữ viết, nhưng nổi hơn cả là chữ con quăng mà người Tàu gọi là chữ khoa đẩu. Trước nữa là chữ chân chim (điểu tich tự). Hai thứ chữ này là của Việt tộc có từ đời Hồng Bàng và liên hệ với hai vật biểu Tiên Rồng". Những chi tiết của Lương Kim Định, Jonathan Fenby và sách Writing The Story of Alphabets and Scripts cho thấy : 1-Việt tộc có chữ viết 1253 năm trước dân Tàu. 2- Chữ viết Tàu có nguồn gốc từ chữ Việt cổ với một số sửa đổi và hổn hợp của chữ khoa đẩu. Chữ Việt cổ tìm thấy ở bửu kiếm của Việt Vương Câu Tiển : Đó là chữ khoa đẩu, viết theo kiểu "Điểu Trùng Văn". Ông Vũ Thế Ngọc trong sách Nghiên Cứu Chữ Hán và Tiếng Hán-Việt có đưa ra chữ Hán đời Thương : Nó tương tự như chữ khoa đẩu khắc trên bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiển. Trong lịch sử thế giới cũng có trường hợp tương tự : Dân La Mã (Latin) cưởng đoạt vần A, B, C ... của dân Etruscan để phiên âm tiếng nói của họ. Vua Etruscan cai trị La Mã vào thế kỷ 4 TC. Cái khác là dân Việt tồn tại trong khi dân Etruscan bị tiêu diệt vỉnh viển (Writing : The Story of Alphabets and Scripts). Dấu vết văn hóa Việt được tỏ rõ trong phép tả nhậm : vạt áo bên tả biểu lộ lể thói trọng tả của ta tức là trọng Văn, còn Tàu trọng Hữu tức trọng Võ. Số 5 là của Việt, Tàu ưa số 6, về sau Tàu mới đổi sang số 5. Nhà mái cong cũng của Việt ngay từ thời Đông Sơn, còn Tàu mãi đến đời Đường mái mới cong, tức cong sau ít nhất mười thế kỷ. Nét cong nói lên sự hoà hợp giữa tròn và vuông ( trời tròn đất vuông). Rồng là của Việt, Tàu trước nhận Bạch hổ. Đời Thương còn mang cờ hổ trong khi các chi tộc Việt đã mang cờ rồng. Kinh Thi nói long kỳ dương dương (cờ rồng bay phơi phới). Tàu mới nhận rồng vào lối nhà Hán (206 TC - 220 TM ). Từ đời Hùng Vương, Việt tôc đã có phép Công Điền Công Thổ, tức là khi người dân đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) thì nhà vua phát cho một số ruộng đất bằng nhau để làm ăn nuôi gia đình. Bên Tàu đời nhà Chu cũng có phép tương tự gọi là phép "tỉnh điền". Khi dân Tàu đến tuổi 50 thì phải trả thửa đất ấy lại cho nhà vua (Trần Trọng Kim). Đó là điều khác biệt quan trọng giữa Tàu và Việt. Người dân Việt không phải trả ruộng đất lại cho nhà vua Việt khi họ tới tuổi 50. Ruộng đất đó sẽ được chia cho con cháu của ông vỉnh viễn. Nhà dân tộc học Trung quốc là Vương Đồng Linh cho rằng Việt tôc cùng Hoa tộc làm ra Nho giáo. Căn bản văn hóa của Trung quốc được thiết lập do ông tổ Nho giáo Khổng Tử. Ông luôn luôn xưng mình là hiếu cổ, học với cổ, ông xưng rõ ông không phải là người sáng tạo mà chỉ thuật lại lời các tiền hiền đã truyền ra. Vậy Khổng Tử chỉ làm cho văn hóa Di Việt rõ ràng hơn mà người ta gọi là văn minh Tàu. Sự thật này chứng minh một cách hùng hồn là Tàu đã cưởng chiếm văn hóa Việt rồi bổ túc thêm và xưng là văn hóa Tàu. Các nhà khảo cổ Mỹ như các ông Solheim và Gordon đại học Hawaii và Nga như ông Karl Jettmar đang hướng mạnh về trục Nam-Bắc tức là văn hóa phát xuất từ miền Nam (văn hóa Hòa Bình, Non-nok-Tha... Ban chiang) tiến lên miền Bắc là Ngưỡng Thiều tỉnh Thiểm Tây và Lang sơn tỉnh Sơn Đông. Vậy các ông Solheim, Gordon và Karl Jettmar nhìn nhận sự thật nêu trên. Các khoa tân nhân văn như triết, khảo cổ, cổ tục, v...v...đều chứng minh là Việt có văn hóa trước. Tàu mới đến sau và chỉ làm cho văn hóa kia trở nên xác định rõ ràng, người ta gọi là văn minh Tàu (Kim Định). III- Nguồn gốc Việt tộc qua Khoa Khảo Cổ Học Nền khảo cổ cho thấy văn hóa tiền sử của Việt Nam qua nhiều giai đoạn như sau : 1- Thời kỳ đồ đá củ (Paleolithic Age) Văn hóa Sơn Vi (20000–12000 TC) 2- Thời kỳ đồ đá trung (Mesolithic Age) Văn hóa Hòa Bình(12000-10000 TC) 3- Thời kỳ đồ đá mới (Neolithic Age) Văn hóa Bắc Sơn (10000–8000 TC) Văn hóa Quỳnh Văn (8000-6000 TC) Văn hóa Đa Bút (6000–5000 TC) 4- Thời kỳ đồ đồng (Bronze Age):Văn hóa Phùng Nguyên (5000-4000 TC) Văn hóa Đồng Đậu (4000–2500 TC) Văn hóa Gò Mun (2500–2000 TC). 5- Thời kỳ đồ sắt (Iron Age) : Văn hóa Đông Sơn (2000 TC – 200 TM) Văn hóa Sa Huỳnh (1000 TC – 200 TM) Văn hóa Óc Eo (1-630 TM) Khảo cổ cho thấy có một sự chuyển tiếp liên tục giữa nền văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình và Đông Sơn. Năm 1920, bà Madelaine Colani (Pháp) đào nhiều hang động ở Hòa Bình bắc Việt Nam. Thành quả khiến Bà đề nghị một nền Văn hóa Hòa Bình. Cuộc đào quật năm 1973 ở Hemedu (Zhezang) bên Tàu tìm thấy một nền văn minh trồng lúa xưa nhất thế giới và một căn nhà sàn. Đó là nền văn hóa thời đồ đá mới (neolithic) Yang-Shao ở tỉnh Henan (5000 TC) và Longshan tỉnh Shandong (2600 TC). Giáo sư Wilhem G. Solheim II tại Đại học Hawaii quả quyết rằng Văn hóa Hòa Bình là nguồn gốc của nền văn hóa Yang-Shao và Longhan ở Bắc Trung quốc. Thật vậy, niên đại 5000 TC và 2600 TC là thời gian dân Tàu chưa có mặt ở vùng của hai nền văn hóa này trong lúc dân Hòa bình (Bách Việt) đã sinh sống tại đó hơn 10.000 TC. Trống đồng Đông Sơn (Hình 5) đại diện cho một nền văn hóa đồ đồng ở Đông Sơn Bắc Việt Nam với kỷ thuật luyện đồng tinh vi. Người Tàu cho là họ dạy cho dân Việt đúc trống đồng này. Các nhà khảo cổ quốc tế bác bỏ luận điệu nói trên vì kỷ thuật trống đồng và dân Tàu không có hiện diện ở lảnh thổ của Bách Việt vào thời đó. Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật (Museum of Fine Arts) ở thành phố Boston tiểu ban Massachusett Mỹ quốc có một trống đồng của người Tàu đời Đông Chu, thế kỷ II TM (AD). Trống đồng này quá đơn sơ với hình sáu con cóc nổi trên mặt trống không có gì đáng so sánh với trống đồng của Việt tộc cả. Điều này cho thấy Tàu làm trống đồng 2000 năm sau Việt tộc mà kỷ thuật còn quá yếu kém để có thể so sánh với kỷ thuật của trống đồng Việt tộc. Vậy rõ ràng là Tàu không thể nào dạy Việt tộc làm trống đồng được. Điều chắc là Mã Viện đem về Tàu rất nhiều trống đồng Việt tộc. IV- Nguồn gốc Việt tộc viết lại bằng Mực Mitochondrial DNA hay Mực Di TruyềnỞ mọi quốc gia trên thế giới, sử viết đều có ít nhiều sai lạc. Trong cùng một quốc gia chính sử và ngoại sử cũng không thống nhất. Đặc biệt cổ sử Trung quốc viết về Việt tộc nhiều ngàn năm về trước thì quá nhiều sai lạc có chủ tâm vì nhiều lý do. Lý do chính yếu nhất là người Tàu cưởng đoạt cái văn hóa của Việt tộc rồi bổ túc thêm và tự xưng là nền văn minh của chính mình. Để thực hiện ý đồ trên, người Tàu đã dùng hết mọi thủ đoạn gồm việc thêm bớt chữ khoa đẩu đặt ra chữ Đại triện dưới thời Chu Tuyên Vương (827 TC-782 TC) trong mưu đồ đồng hóa dân Việt. Mọi thủ đoạn đồng hóa dân Việt thất bại. Toàn dân Việt đã một lòng tự giải phóng khỏi ách nô lệ người Tàu sau hơn một ngàn năm bị trị. Lương Kim Định cho rằng người Tàu không đồng hóa được dân ta là vì văn hóa Việt biến đổi dân Tàu chứ không phải văn minh Tàu thay đổi dân Việt . Ngày nay khoa học đã cung cấp cho các nhà nhân chủng học một vũ khí sắc bén và lợi hại để giúp việc định thủy tổ loài người hơn 10.000 năm tiền sử : Đó là Mitochondrial DNA mà chúng tôi gọi là Mực DNA hay Mực Di Truyền. Nguồn gốc của các dân tộc Đông Nam Á, Đa Đảo (Polynesians) và Thổ Dân Mỹ Châu (Native American) được các nhà nhân chủng học Âu châu và Mỹ châu nghiên cứu rất kỷ càng. Giáo sư nhân chủng học Mỹ quốc Douglas C. Wallace ở Đại học Emory ở Atlanta tiểu bang Georgia đã nghiên cứu thủy tổ của thổ dân Mỹ châu và khám phá ra rằng chính dân tộc Đông Nam Á đã chiếm cư Mỹ châu bằng đường biển khoảng 6.000 – 12.000 TC. Giả thuyết của ông khác với giả thuyết từng được chấp nhận là dân Mông cổ vượt cầu đất Bering sang định cư ở Mỹ châu 12.000-20.000 TC. Sau đây là kết quả Mitochondrial DNA : 1- Việt tộc có 4 haplotypes chính là : a- Haplotypes A, B, C và D b- Thất thoát căp căn bản số 9 giữa hai thể di truyền COII / tRNALYS (9bp deletion between COII / tRNALYS genes) (R. Ivanova và đồng nghiệp) 2- Hoa tộc có haplotypes chính là : a- Haplotypes A, C, D, G, M8a, Y và Z (không có B) b- Không có Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII / tRNALYS (Bo Wen và đồng nghiệp, Shanghai, Hàng Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia Trung Quốc) Chú ý : Tàu Hoa Bắc có 55 % Haplotypes này. Tàu Hoa Nam chỉ có 36 % (Tàu Hoa Nam là dân Bách Việt bị đồng hóa nên tỷ lệ haplotypes đó thấp). 3- Thái lan có : a- Haplotypes B, F, M7, R b- Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII / tRNALYS . Sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền này còn gọi là Đột biến đăc biệt Á châu hay Á châu đặc điểm. (Fucharoen và đồng nghiệp, Đại học Khon Kaen, Thailand) 4- Thổ dân Nam Á (Miến Điện, Tibet, Daic, Hmong-Miên) có : a- Haplotypes B, F, M7 và R b- Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII / tRNALYS (Hui Li và đồng nghiệp) Các nhà nghiên cứu về mtDNA nhất là Douglas C. Wallace và Theodore Schurr đồng ý là dân tộc ở Đông Nam Á có sự liên hệ di truyền (Haplotype B và Đột biến đặc biệt Á châu) và đưa ra giả thuyết là họ có chung một thủy tổ . Nhận xét này trùng hợp với cổ sử do nhà dân tộc học Trung quốc Vương Đồng Linh trong sách Trung Quốc Dân Tộc Học của ông. 5- Dân Đa Đảo (Polynesians) Jean Trejaut và đồng nghiệp nghiên cứu nguồn gốc của dân Đa Đảo mà giả thuyết cho là thủy tổ của họ từ Trung quốc lục địa và Đông Nam Á chiếm cứ Đài Loan rồi lan ra khắp các đảo ở Thái bình dương. Kết quả cuộc nghiên cứu cho thấy dân Đa Đảo không có liên hệ gì với Tàu luc địa cả mà thủy tổ của họ là dân Đông Nam Á. Họ có liên hệ trực tiếp với thổ dân ở Đài Loan. a- Haplotypes B (93 %) b- Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII / tRNALYS . Kết quả Mitochondrial DNA và lịch sử di dân của Bách Việt hổ trợ giả thuyết dân Bách Việt là thủy tổ của dân Đa Đảo. 6- Đường di dân của Bách Việt qua Mitochondrial DNA Hiện nay sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS (Đột biến đăc biệt Á Châu) được tìm thấy nhiều hơn ở dân tộc ven biển Thái bình dương hay Đa đảo do các nhà nhân chủng học Horai và Matsunaga năm 1986, Cann, Stoneking và Wilson năm 1987, Hertzberg và đồng nghiệp năm 1989 và ở thổ dân Mỹ châu do ông Torrini và đồng nghiệp năm 1992. Họ kết luận là sự phân phối của Đột Biến Đặc Biệt Á Châu chúng tỏ có ít nhất hai cuộc di dân quan trọng : Một cuộc di dân về hướng Nam theo ven biển Á châu rồi hướng về Đông vào Indonesia và trãi ra các đảo Thái bình dương (Hertzberg và đồng nghiệp 1989). Một cuộc di dân khác về hướng Bắc vào Siberia rồi vượt cầu đất Bering vào Mỹ châu trở thành thổ dân Mỹ châu (Schurr và đồng nghiệp 1990). 7- Bách Việt là thủy tổ của dân vùng Thái bình dương Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ đăng bài nghiên cứu về nguồn gốc dân vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo do hai nhà nhân chủng học Anh quốc ở Đại học Durham và Đại học Oxford dẫn đầu nhóm khoa học gia quốc tế gồm Việt Nam, Trung quốc, Nhật Bản, Hàn quốc, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hawaii, Mỹ quốc, Ý Đại Lợi, Úc châu, Tân Tây Lan, vân...vân... vào tháng Ba năm 2007. Họ dùng Mitochondrial DNA của heo hiện tại cùng heo cổ và dạng răng heo. Kết quả được đăng trên nhiều báo như Daily Science News, Orlando Sentinel và Los Angeles Times, v...v.... Báo Orlando Sentinel viết : DNA của Heo soi sáng con đường di dân : Cuộc nghiên cứu mới về DNA của heo viết lại lịch sử di dân của con người khắp Thái bình dương. Nó cho thấy hầu hết dân cư trong vùng có thủy tổ ở Việt Nam. 8- Bách Việt là thủy tổ dân Việt Nam và toàn thể dân cư vùng Thái bình dương. Bách Việt là chủ thể của chủng Mongoloids phương Nam. S.W.Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu Mitochondrial DNA của 7 quốc gia Đông Nam Á cho thấy dân Việt Nam hiện tại và dân Đông Nam Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Dân Việt Nam có sự biến đổi cao nhất về di truyền trong dân tộc (the Vietnamese have the greatest intrapopulational genetic divergence [0.236 %] ) được coi là dân tộc lâu đời nhất trong vùng. Ông Ballinger viết vì dân Việt Nam bi người Tàu đô hộ nên chủng Nam Mongoloid đó có gốc Hoa tộc khoảng 59.000 đến 118.000 TC. Ông quên rằng người Tàu xăm lăng khu vực sông Hoàng Hà vào đời nhà Thương (1600-1322 TC) trong khi dân Hòa Bình (Bách Việt) đã sống từ lưu vực sông Hoàng Hà đến Việt Nam hiện tại hơn 10.000 TC, tức là trước khi Tàu xăm lăng ít nhất là 7.795 năm. Do đó Bách Việt là chủ thể của chủng Mongoloid phương Nam chứ không phải Tàu. 9- Việt Nam là Trung Tâm Mitochondrial DNA Á Châu Dân Việt Nam có tỷ lệ lớn nhất về HincII / Hpal morph I Haplotype (32.1 %) được coi là Trung Tâm từ đó Mitochondrial DNA Á châu (Asian Mitochondrial DNA) lan tỏa ra chung quanh vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đến tận Hawaii, New Guinea và French Polynesia. Haplotytypes A, B, C, D và sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII / tRNALYS hay Đột biến đặc biệt Á châu.. Sau cùng nó lan sang Mỹ châu. Thật vậy, người thổ dân Mỹ châu (native Americans) cũng có Haplotypes A, B, C and D với sư thất thoát cặp căn bản số 9 giữa hai thể di truyền COII/tRNALYS hay Đột biến đặc biệt Á Châu. V- Kết Luận Mực DNA hay Mực Di Truyền đã bổ túc cổ sử và khảo cổ học trong việc viết lại lịch sử thật của Việt tôc đã bị thất truyền một cách có kế hoạch hơn 5000 năm qua. Ta có thể xác định những điều sau đây một cách khoa học và không thiên lệch : 1- Bách Việt là thủy tổ của dân Việt Nam hiện tại, toàn thể dân cư vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo cùng vùng Thái Bình Dương. 2- Việt tộc là chủ thể của chủng Mongoloid phương Nam tạo ra nền văn minh Hòa bình và Đông Sơn, v...v... Tàu không có ảnh hưởng nào trên chủng Nam Mongoloid cả vì Việt tộc sinh sống từ vùng Hoàng Hà đến Bắc Việt Nam hơn 10.000 TC trước khi dân Tàu đến. 3- Việt tộc là một dân tộc thuần chủng. Tàu là một hợp chủng tạo ra do bạo lực mà ông Bo Wen nhìn nhận trong khảo cứu về sự phát triển văn hóa Hán tộc cũa ông và đồng nghiệp. 4- Việt tộc có một nền văn hóa cao siêu với Hà đồ, Lạc thư, Thuyết Âm Dương và Kinh Dịch, vân...vân.... Những sách này được viết bằng chữ khoa đẩu mà chính người Tàu gọi một cách cung kính là Thiên Thư (sách trời). 5- Chữ Tàu có nguồn gốc từ chữ khoa đẩu với một số thay đổi. 6- Tàu đã cưởng đoạt nền văn hóa Việt để xây dựng văn minh Tàu bằng cách biến chữ viết của Việt tộc thành chữ Hán từ đời Chu Tuyên Vương (827 TC-782 TC), thay đổi lịch sử Họ Hồng Bàng và thêm truyền thuyết giả tưởng nhà Hạ và Nghiêu Thuấn. 7- Việt tộc có kỷ thuật luyện đồng tinh vi và rất sớm trước 2000 TC. 8- Việt Nam là dân tộc lâu đời nhất ở Á châu. 9- Việt nam là trung tâm từ đó Mitochondrial DNA Á châu (Asian Mitochondrial DNA) lan tỏa ra chung quanh vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đến tận Hawaii, New Guinea, French Polynesia rồi sang lục địa Mỹ châu. 10- Bách Việt là thủy tổ của thổ dân Mỹ châu (Native Americans). Đã đến lúc hảy trả lại cho Cesar những gì của Cesar. Phương pháp cả vú lấp miệng em nên chấm dứt như Bắc Kinh đã công bố ông Thái Luân bên Trung quốc là người đầu tiên phát minh ra giấy viết vào năm 107 TM (sau Công Nguyên) . Ông Thái Luân là người Tàu gốc Việt. Nói cho đúng hơn là thổ dân Mỹ châu (Maya) đã phát minh ra giấy viết trước nhất thế giới từ lá cây vả vào thế kỷ thứ nặm TC.(khoảng 600 năm trước ông Thái Luân). TÀI LIỆU THAM KHẢO :1-Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, nhà xuất bản Sống Mới, PO Box 2744, Forth Smith, AR.72913..2- Hưng Việt, Triết lý An Vi, Lương Kim Định, An Việt Houston, PO Box 55304, Houston, Texas 77255-53043- Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc, Xuân Thu xuất bản, PO Box 97, Los Alamitos, California 90720.4- Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, Nguyễn Vũ Anh Tuấn, nhà xuất bản tổng hơp, TPHCM, 62 Nguyễn Thị Minh Khai – Q-1.5- Tìm về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, nhà xuất bản TPHCM, 62 Nguyễn Thị Minh Khai –Q-1.6- Mystery of the Maya, Canadian Museum of Civilization Corporation, Internet.7- China’s Imperial Dynasties 1600 BC – AD 1912, Jonathan Fenby, Metrobooks, 122 Fifth Avenue, New York, N.Y. 10011.8- Phyllogeny and ancient DNA of Sus provides insights into Neolithic expansion in Island Southeast Asia and Oceonia, 4834-4839, PNAS, March 20, 2007, vol.194, no.129- Pig DNA sheds light on paths of Migration, Thomas H. Maugh II, Orlando Sentinel, March 18, 2007.10- Pig study forces rethink of Pacific colonization, Daily Science News, Internet.11- Genetic evidence supports demic diffusion of Han culture, Bo Wen, Hui Li, Daru Lu, Xiufeng Song, Feng Zhang, Yungang Ho, Feng Li, Yang Gao, Xianyun Mao, Liang Zhang, Ji Qian , Jingse Tan, Jianzhong Jin, Wei Huang, Ranjan Deka, Bing Su, Ranajit chakraborty & Li Jin, State Key Laboratory of Genetic Engineering and Center for Anthropological Studies School for Life Sciences and Morgan-Tan International Center for Life Sciences, Fudan University, Shanghai 200433, China, Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University Cincinati, Cincinati, Ohio 45276, Key Laboratory of Cellular and Molecular Evolution, Kunning Institute of Zoology, the Chinese Academy of Sciences, Kunning 650232, China.12- Southeast Asians Mitochondrial DNA Analysis Revealed Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migrations, S.W. Ballinger, T.G. Schurr, Antonio Torrini, Y.Y. Gan, J.A. Hodge, K. Hassan, K.H. Chen, and Douglas C. Wallace, Emory University School of Medicine, Atlanta, Georgia 30322, Department of Biotechnology, University Pertanian Malaysia, Serdang 434000 Selangor, Malaysia, Institute of Medical Research, Kuala Lumpur, Selangor, Malaysia and Department of Mathematics, University of California, Long Beach, California.13- Mitochondrial DNA diversity in southeastasian population, SCHURR Theodore G., WALLACE Douglas C., Catnit (Internet).14- Mitochondrial DNA of Polynesians, Melton T. ; Redd A.J. ;Stoneking M., University Parks, PA., American Journal of Human Genetics, Vol.57, issue 2, PBD August 1995.15- Mitochondrial DNA provides a link between Polynesians and indigenous Taiwanese, Jean Trejaut et al, PloS Biol. 2005 3(8) : e281.Phụ lục :DNA do chữ Deoxyribonucleic acid. Nó thường được gọi là thể di truyền (genes). Nó phụ trách truyền lại cho thế hệ sau cái tốt cũng như cái xấu của sinh vật. Nó có nhiều cặp căn bản (bases pairs) trong những chuổi tiếp diển DNA (sequence DNA). Trên lý thuyết mỗi con người đều có một mẩu DNA như thủy tổ. Nhưng trên thực tế có những sai lầm bất ngờ trong tiến hành tái tạo các cặp căn bản của chuổi tiếp diễn DNA gọi là Đột Biến xảy ra và những sai lầm ấy được truyền sang thế hệ sau. Nếu các đột biến đó nặng thì cá nhân đó chết (sẩy thai hoặc chết yểu bởi bệnh di truyền). Nếu nhẹ các đột biến đó giúp các nhà nhân chủng học truy tầm lại được thủy tổ của cá nhân đó sau nhiều ngàn năm đã trôi qua. Ví dụ đột biến nhẹ là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thề di truyền COII / tRNALYS ( 9 bp deletion between Cytochrome c Oxidase subunit II / tRNALYS genes).Có hai loại DNA, một ở trong hạt nhân tế bào, một ở trong một cơ quan nhỏ trong tế bào chất gọi là Mitochondrion. DNA của cơ quan này lấy tên là Mitochondrial DNA. Các khoa học gia chọn nó vì số lượng thể di truyền rất ít hơn so với DNA của nhân tế bào. Nó được truyền lại do người mẹ.Haplotype là một nhóm thể di truyền trong các chuổi tiếp diển DNA. Mỗi lục địa có riêng một số haplotypes : ví dụ như Á châu có 4 haplotypes chính A, B, C và D. Người thổ dân Mỹ châu có cùng loại haplotypes với dân Á châu vì thổ dân Mỹ châu do thủy tổ từ Á châu di dân sang Mỹ châu khoảng 6.000 – 20.000 năm tiền sử. Phi châu có haplotypes L, L1, L2 và L3. Âu châu có các haplotypes khác từ H, I, J, K, M, T, U, W, X.Phương pháp định DNA và các Đột biến cần những phòng bào chế trang bị rất tối tân không thuộc lảnh vực bài này. Các nhà khoa học cần máu, tế bào và xương để định DNA
-
-
-
The final position in the literature on nations and nationalism is foundin the writing of scholars such as Smith himself, as well as John Hutchinson.21 They accept the claim that, likethe ideology and movement of nationalism and the international system of national states, most nations are modern in the sense that theyare historically recent, although for both this is a strictly empiricalquestion. However, they do not accept the claim that nations are wholly novel. They argue instead that nations are usually formed on the basis of pre-existing communities andgenerally over long periods, using the cultural materials found in thosecommunities. Rather than the “invention of tradition”, the formation of nations involves thereconstruction and reinterpretation of the traditions, customs and institutions ofpre-existing communities. The advantage of thisapproach is that it accepts the role of the social, political and cultural processes that have evidently reshaped worldaffairs since the eighteenth century, while also accounting for the apparent longevity ofparticular social and cultural communities through their continuing use ofparticular cultural material. It accepts that thenation is, in most instances, a modern form of political identification, but not that its cultural form is necessarily moderntoo. It is this last approach that informs the arguments in this thesis. Quan điểm cuối cùng trong các tài liệu về các quốc gia và chủnghĩa dân tộc được tìm thấy bằng văn bản của các học giả như chính Smith, cũng như John Hutchinson.21 Họ chấp nhận với nhận định rằng,giống như hệ tưtưởng và phong trào của chủ nghĩa dân tộc và hệ thống quốctế các quốc gia tiểu bang, hầu hết các quốc gia là hiện đại trong ý thức rằng họ gần với lịch sử, mặc dù với cả hai điều này là vấnđề hoàn toàn mang tính kinh nghiệm. Tuy nhiên, họ không chấp nhận nhận định rằng các quốcgia hoàn toàn là mới tinh. Họ lập luận rằng thay vì điều đó các quốc gia thường được hình thành trên cơ sở cộng đồng tồn tại từ trước và nói chung trong thời gian dài, sử dụng các tài liệu văn hóa được tìm thấy từ các cộng đồng. Hơn cả "sự hư cấu của truyền thống", sự hình thành của các quốc gia liên quan đến việc xây dựng lại và tái diễn giải của truyền thống, phong tục và các tổ chức từ trước cộng đồng. Ưu điểm của phương pháp này là nó chấp nhận vai trò của xã hội, quá trình chính trị và văn hóa, điều mà đã định hình lại rõ ràng vấn đề thế giới kể từ thế kỷ 18, trong khi cũng giải thích cho sự lâu dài hiển nhiên của xã hội đặc thù và cộng đồng văn hóa thông qua việc họcliên tục sử dụngchất liệu văn hóa riêng biệt. Họ chấp nhận rằng, đất nước, trong hầu hết các trường hợp,là một hình thức hiện đại của chính trị xác định, nhưng không phải là hình thức văn hóa của nócũng nhất thiết phải hiện đại.Chính phương pháp tiếp cận cuối cùng này cho thấy các tranh luận trong luận án này. The Antiquity of the Vietnamese Nation in WesternScholarship The different perspectives outlined above are evident inWestern scholarship on the history of Việt Nam. Claims about the antiquity of the Vietnamese nation by historians andarchaeologists in the DRV, whose position is essentially perennial, have had an important impact on Western scholarship on earlyVietnamese history. Based largely on the position presented in Lịch Sử Việt Nam,for example, Thomas Hodgkin has argued that the Vietnamese nation has its rootsin the first millennium BCE, before the period of Chinese suzerainty in the kingdomof Văn Lang with its Hùng King rulers. Hewrites that, “it seems sensible to regard the Đông Sơn period as particularly connected with that of the Hùng Kings”. Following DRV scholars, he writes that these rulers and the kingdom of Văn Lang, “helpedin an important way to form the Vietnamese nation”. Furthermore, Dân tộc Việt Nam xưatrong sự uyên bác của phương Tây Các quan điểm khác nhau nêu trên là hiển nhiên trong học thuật phương Tây về lịch sử của Việt Nam. Khẳng định về thời cổ xưa của dân tộc Việt Nam bởi các sử gia và các nhà khảo cổ học ở CHDCVN, người mà bản chất quan điểm là lâu đời, đã có một tác độngquan trọng lên sự uyên bác của phương Tây về lịch sử ban đầu của Việt Nam. Chủ yếu dựa trên quan điểm được trình bày trong Lịch sử Việt Nam, ví dụ, Thomas Hodgkin đã lập luậnrằng dân tộc Việt Nam có nguồn gốc trong thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên, trước giai đoạn của quyền bá chủ của Trung Quốc trong các vương quốc Văn Lang với sự cai trị của các vua Hùng. Ông viết rằng, "có vẻ hợp lý để coi thời kỳ Đông Sơn như kết nối đặc biệt với các vua Hùng ".Theo họcgiả CHDCVN, ông viết rằng những người cai trị vương quốc Văn Lang,"theo một cách quan trọng đã giúp hình thành nênquốc gia Việt Nam ". Hơn nữa, This was due partly, no doubt, to the fact that for some centuries thecountry was able to enjoy relative social and political stability under a dynastyand ruling class which, though necessarily exploitative, was essentiallynational … The hardness of external conditions, the need to master the waters, todeal with floods, typhoons and droughts, to take part in collective labour,stimulated qualities of ‘perseverance, patience, creativeness, intelligence,’ whichare still part of the national character.22 Điều này một phần, không thể nghi ngờ, là do thực tế,trong vài thế kỷ,các nước đã có thể có một xã hội tương đối và sự ổn định về chính trị dưới triều đại và lớp cầm quyền cái là bản chất của quốc gia, mặc dù nhất thiết phải bóc lột ... Sự khó khăn của điều kiện bên ngoài, cần phải nắm vững các vùng biển, để đối phó với lũ lụt, bão và hạn hán, để tham gia lao động tập thể, kích thích phẩm chất của 'sự kiên trì, kiên nhẫn, sáng tạo, trí thông minh, điều vẫn còn là một phần của đặc trưng quốc gia.22 21 Anthony D. Smith, The Ethnic Origins ofNations (Oxford: Blackwell, 1986); John Hutchinson, ModernNationalism (London: Blackwell, 1994). 22 Thomas Hodgkin, Vietnam: TheRevolutionary Path (New York: Macmillan, 1981), pp. 10 (“it seems sensible”)and 14 (“helped in an important way”); the long quotation is from p. 14. 21 Anthony D. Smith, Nguồn gốc dân tộc của các quốcgia (Oxford: Blackwell, 1986), John Hutchinson, Chủ nghĩa dân tộc hiện đại (London: Blackwell, 1994). 22 ThomasHodgkin, Việt Nam: Con đường Cách mạng (New York: Macmillan, 1981), trang 10("có vẻ hợp lý ")và 14 (" giúp theo một cách quantrọng "), đoạn trích dài từ p.14.
-
The third position, found in the writings of Ernest Gellner, Benedict Anderson, Eric Hobsbawm and John Breuilly, is opposed to the perennial position and is founded upon several common claims.14 The first claim is that nationalism is an explicitly modern ideology and movement that is both chronologically recent and qualitatively novel, beginning roughly in the late eighteenth century. The second claim is that the nation as a form of social and cultural group is similarly recent and novel. The third claim is that the international order of national states is both recent and novel. The final and most important claim is that nationalism, the nation, and the international order of national states are all the products of specifically modern conditions and processes, such as capitalism, industrialisation, urbanisation, bureaucratisation, secularisation and so on. Vị trí thứ ba, được tìm thấy trong các bài viết của Ernest Gellner, Đức Thánh Cha Benedict Anderson, Eric Hobsbawm và John Breuilly, trái ngược với quan điểm vĩnh viễn và được hình thành dựa trên một số khẳng định thông thường14 Khẳng định đầu tiên là chủ nghĩa dân tộc rõ ràng là 1 hệ tư tưởng hiện đại và tiến triển, cái mà đồng thời theo thứ tự thời gian gần đây và tiểu thuyết, bắt đầu từ khoảng cuối thế kỷ 18. Khẳng định thứ hai là quốc gia như là một hình thức của nhóm xã hội và văn hóa tương tự tân thời và tiểu thuyết. Khẳng định thứ ba là trật tự quốc tế của các quốc gia tiểu bang là cả tân thời và tiểu thuyết. Khẳng định cuối cùng và quan trọng nhất là chủ nghĩa dân tộc, quốc gia và trật tự quốc tế của các quốc gia tiểu bang là tất cả các sản phẩm của điều kiện hiện đại cụ thể và cácquy trình, chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản, công nghiệp hóa, đô thị hóa, sự quan liêu hóa,sự thế tục..v..v.. In an extensively theorised discussion of nations and nationalism, Prasenjit Duara has rejected this view and persuasively argued that “the empirical record does not furnish the basis for such a strong statement about the polarity between the modern and the premodern. Individuals and groups in both modern and agrarian societies identify simultaneously with several communities, all of which are imagined”. Duara attributes beliefs about the novelty of the nation to “a deep confusion between the novelty and, indeed, revolutionary character of institutional arrangements in the modern world and the radical novelty of consciousness, specifically of a cohesive and self-aware collective subject”.15 Trong một cuộc thảo luận rộng rãi giả thuyết của các quốc gia và chủ nghĩa dân tộc, Prasenjit Duara bác bỏ quan điểm này và lập luận thuyết phục rằng "các hồ sơ thực nghiệm không cung cấp cơ sở cho một khẳng định chắc chắn về phân cực giữa hiện đại và tiền hiện đại. Cá nhân và các nhóm trong cả xã hội hiện đại và nông nghiệp xác định đồng thời với một số cộng đồng, tất cả đều được tưởng tượng ra ". Duara cho niềm tin về sự mới lạ của quốc gia là do "một sự nhầm lẫn sâu sắc giữa sự mới lạ và, thực sự, tính chất cách mạng của tổ chức thể chế trong thế giới hiện đại và sự mới lạ căn bản của ý thức, đặc trưng của một chủ đề tập thể cố kết và tự ý thức”.15 A consequence of the view that nations, nationalism and the world system of national states are solely the products of modernisation is that pre-modern forms of community or cultural features are considered to be of little importance in the formation of nations. Eric Hobsbawm writes that pre-modern communities have “no necessary relation with the unit of territorial political organization which is a crucial criterion of what we understand as a ‘nation’ today”.16 Similarly, Gellner contends that “the cultural shreds and patches used by nationalism [in the formation of nations] are often arbitrary historical inventions. Any old shred or patch would have served as well”.17 Một hệ quả của quan điểm rằng các quốc gia, dân tộc và hệ thống thế giới của các quốc giatiểu bang là các sản phẩm duy nhất của hiện đại hóa, là hình thức hiện đại của cộng đồnghoặc các tính năng văn hóa được coi là ít quan trọng trong sự hình thành củaquốc gia. Eric Hobsbawm viết cộng đồng tiền hiện đại có " mối quan hệ không cần thiết với các đơn vị tổ chức chính trị lãnh thổ, đây là một tiêu chí quan trọng củacái mà ngày nay chúng ta hiểu như là một “quốc gia”.16 Tương tự như vậy, Gellner cho rằng "những mảng và các mảnh nhỏ văn hóa được sử dụng bởi chủ nghĩa dân tộc [trong sự hình thành của các quốc gia] thường là các hư cấu thay đổi lịch sử. Bất kỳ mảng hay mảnh nhỏ nào đều sẽ đáp ứng tốt”17 In an attempt to avoid imposing “retrospective nationalism” on pre-modern communities, scholars such as Gellner and Hobsbawm insist that accounts of the past are determined by the needs and preoccupations of modern nationalists. Hobsbawm and Terrence Ranger have described both nations and their pasts as “invented traditions”.18 However, it is clear that the needs and preoccupations of nationalists can shape particular accounts of the past only in part. The past itself has the power to shape the needs and preoccupations of nationalists in its provision of the cultural material that informs and is used to construct particular accounts of the past.19 Karl Marx wrote, “Men make their own history, but they do not make it as they please; they do not make it under self-selected circumstances, but under circumstances existing already, given and transmitted from the past”.20 Trong nỗ lực để tránh việc áp đặt “chủ nghĩa dân tộc quá khứ" lên các cộng đồng tiền hiện đại, các học giả như Gellner và Hobsbawm nhấn mạnh rằng những lợi ích của quá khứđược xác định bởi nhu cầu và mối bận tâm của chủ nghĩa dân tộc hiện đại. Hobsbawmvà Terrence Ranger đã mô tả cả hai quốc gia và quá khứ của họ như "những truyền thống mang tính hư cấu"18 Tuy nhiên, rõ ràng là nhu cầu và mối bận tâm của chủ nghĩa dân tộc có thểđịnh hình chỉ một phần những lợi ích đặc biệt của quá khứ. Quá khứ tự nó có sức mạnh đểhình thành các nhu cầu và mối bận tâm của chủ nghĩa dân tộc trong việc cung cấp tài liệu văn hóa,cái cung cấp tin tức và được sử dụng để xây dựng những lợi ích đặc biệt của quá khứ.19 Karl Marx đã viết: "Đàn ông làm nên lịch sử riêng của họ, nhưng họ không làm như là họ muốn, họ không làm trong các hoàn cảnh được chọn lựa, mà trong những hoàn cảnh sẵn có, đã được đưa ra và được truyền từ quá khứ "20 14 Ernest Gellner, Nations and Nationalism (Ithaca: Cornell University Press, 1983); Benedict Anderson, Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, 2nd ed. (London: Verso, 1991); Eric Hobsbawm, Nations and Nationalism Since 1780 (Cambridge: Cambridge University Press, 1990); John Breuilly, Nationalism and the State (Manchester: Manchester University Press, 1993). 15 Prasenjit Duara, Rescuing History from the Nation: Questioning Narratives of Modern China (Chicago: University of Chicago Press 1995), p. 54. Both quotes. 16 Hobsbawm, Nations and Nationalism, p. 47. 17 Gellner, Nations and Nationalism, p. 56. 18 Eric Hobsbawm and Terrence Ranger eds., The Invention of Tradition (Cambridge: Cambridge University Press, 1983). 19 Anthony D. Smith, The Nation in History: Historiographical Debates about Ethnicity and Nationalism (Cambridge: Polity Press, 2000), pp. 52-62. 20 Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Napoleon (Moscow: Foreign Languages Publishing House, 1948), p. 1. 14Ernest Gellner, quốc gia và dân tộc (Ithaca: Cornell University Press, 1983); BenedictAnderson, cộng đồng tưởng tượng: Những phản ánh về nguồn gốc và lan truyền của dân tộc, 2 ed.(London: Verso, 1991), Eric Hobsbawm, quốc gia và dân tộc Kể từ năm 1780 (Cambridge: Cambridge University Press, 1990); John Breuilly, dân tộc và Nhà nước (Manchester: Manchester University Press, 1993).15 Prasenjit Duara, Cứu Lịch sử từ quốc gia: Đặt câu hỏi tự thuật của Trung Quốc hiện đại(Chicago: University of Chicago Press năm 1995), p. 5416 Hobsbawm, quốc và dân tộc, p. 47. 17 Gellner, các quốc gia và dân tộc, p. 56.18Eric Hobsbawm và Terrence Ranger biên soạn, sự hư cấu của truyền thống (Cambridge: Cambridge.University Press, 1983). 19Anthony D. Smith, Quốc gia trong lịch sử: viết sử cuộc tranh luận về Dân tộc vàChủ nghĩa dân tộc (Cambridge: chính thể Press, 2000), trang 52-62.20 Karl Marx, Brumaire XVIII Louis Napoleon (Moscow: Nhà xuất bản Ngoại ngữ, 1948), p. 1.
-
PHẦN 4 -phần cuối
-
PHẦN 3:
-
Người Minangkabau và cội nguồn Việt Chúng ta hãy xem hậu duệ của các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ở Indo Trong đó có những cuốn sách nói về các bài thuốc cổ truyền và thuật bói toán của người Minangkabau, một trong những tộc người chiếm đa số tại đảo Sumatra và có nguồn gốc từ người Việt. Cơ quan trên cho biết đã cử người tới nhiều địa phương trong tỉnh Tây Sumatra để thu thập và "cứu" những văn bản cổ quí hiếm khỏi thất lạc hay mục nát theo thời gian, sau đó sẽ "số hóa" các văn bản tìm được để nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra. Theo các nhà sử học, mùa Xuân năm 43, một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng cùng những người không chịu khuất phục giặc phương Bắc, đã chạy về phương Nam và cuối năm đó họ tiếp tục lên thuyền ra biển. Những đợt gió mùa Đông Bắc đã đẩy thuyền của họ dạt vào Eo biển Malacca. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Dân tộc này hiện còn duy trì chế độ mẫu hệ, trong gia đình, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi dòng họ của người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị. Người Minangkabau có tục lệ mời khách ăn trầu và những ngôi nhà truyền thống của họ đều có mái cong như hình chiếc sừng trâu, gợi hình ảnh những mái đình, chùa ở Việt Nam. Người Minangkabau còn nổi tiếng buôn bán giỏi và nấu ăn ngon./ Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân Nhà sừng trâu của người Minangkabau Ở xứ sở vạn đảo Indonesia, mỗi hòn đảo là một câu chuyện, một bộ tộc kỳ thú, hấp dẫn từ đời sống văn hoá, ẩm thực, và đặc biệt trong kiến trúc nhà ở. Người Minangkabau ở phía Tây đảo Sumatra sống trong những ngôi nhà độc đáo, có mái là hình sừng trâu cong nhọn vút lên nền trời xanh. Nhà lớn (Rumah Gadang) của người Minangkabau Là vùng đất nông nghiệp, con trâu đã trở nên quen thuộc, gần gũi với đời sống người Minangkabau từ ngàn đời. Người Minangkabau sống theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ chiếm vai trò quan trọng trong từng gia đình, cộng đồng, và là chủ sở hữu đất đai, nhà ở... Khu vực người Minangkabau sính sống Ngôi nhà lớn của người Minangkabau có lối kiến trúc rất độc đáo, với những mái cong ấn tượng. Thật thú vị, khi tìm hiểu ra xuất xứ của lối kiến trúc ấy lại gắn liền với một tích truyện lịch sử của cộng đồng người Minangkabau. Tên gọi của người Minangkabau bắt nguồn từ một sự tranh chấp về đất đai giữa người Minangkabau ngày xưa và vị lãnh chúa một bộ tộc láng giềng ở Java. Để tránh xảy ra chiến tranh, người địa phương đề nghị mỗi bên chọn ra một con trâu và tổ chức chọi trâu, trâu bên nào thắng thì bộ tộc đó sẽ là người sở hữu vùng đất tranh chấp. Vị lãnh chúa nọ chọn trong bộ tộc mình con trâu lớn nhất, khoẻ nhất, dữ tợn nhất để đưa ra cuộc thi tài. Người Minangkabau đưa ra con nghé con khát sữa, đầu có cặp sừng mới nhú được mài bén ngót như lưỡi dao. Khi cả hai bên thả trâu ra, con trâu đực không thèm chú ý đến nghé con, vì đang lo mải nhìn quanh tìm đối thủ xứng tầm. Nhưng khi nghé con chạy đến thúc đầu mình vào phần bụng dưới của con trâu đực để tìm bầu sữa, cặp sừng bén đã đâm lủng bụng và giết chết con trâu hung hãn. Người bản địa thắng cuộc, và giải quyết được tranh chấp về đất đai. Cũng từ đó, họ đặt tên cho bộ tộc mình là “trâu thắng trận” (Minangkabau). Và như để nhắc nhớ con cháu đời sau về tên gọi của bộ tộc mình, người Minangkabau mượn hình ảnh cặp sừng trâu để đưa vào kiến trúc nhà ở. Mái nhà cong vút đối xứng có chóp nhọn đều hai bên của người Minangkabau chính là hình ảnh của cặp sừng trâu thắng trận ngày xưa. Hình dáng tổng thể kiến trúc của nhà sừng trâu Hình dáng tổng thể kiến trúc của Rumah Gadang ấn tượng ngoài bộ mái sừng trâu, còn một nét độc đáo khác thể hiện giá trị văn hoá đặc sắc trong xây dựng là những chi tiết trang trí được thể hiện tinh xảo bằng lối chạm khắc, phối màu sặc sỡ phủ kín quanh nhà từ chân cột lên đến nóc mái. Với người Minangkabau, ngôi nhà Rumah Gadang vừa là nơi cư trú, gặp gỡ hội họp trong gia đình, và cả những hoạt động mang tính nghi thức cộng đồng. Ngôi nhà của người Minangkabau thể hiện tính cầu kỳ, tỉ mỉ trong xây dựng, mái nhà là những lớp xếp từ hàng ngàn sợi chỉ được lấy từ thân cây sago – một loại cây thuộc họ cọ, dừa, phần vách được lợp phên tre và gỗ. Do sống ở vùng đồng bằng lúa nước, nên ngôi nhà người Minangkabau thiết kế theo kiểu giống nhà sàn, phần sàn nhà cách mặt đất độ gần hai thước. Nội thất trong nhà được chia làm ba phần thông thoáng nhau không có vách ngăn cách, gian chính ngay giữa nhà là gian tiếp khách, còn lại là khu giường ngủ và bếp. Cửa chính nằm giữa trục ngang của ngôi nhà, cái chóp mái được uốn cong đối xứng theo cửa chính. Những cánh cửa sổ cũng được phân bố đều theo trục đối xứng với cửa chính, và được trang trí bằng những nét chạm khắc chi tiết, được phủ những gam màu mạnh như đỏ, đen, vàng, nâu, trắng, lấy từ những loại cây cỏ và đất đá trong tự nhiên. Ngoài lớp mái cong độc đáo, ngôi nhà còn được chạm khắc rất tinh xảo Trong mỗi ngôi làng của người Minangkabau ở đảo Sumatra có nhiều nhà lớn nhưng ngôi nhà nào lớn nhất, điêu khắc đẹp nhất, thường là nhà của trưởng làng – một phụ nữ – ngôi nhà vừa thể hiện quyền lực và sự giàu có, và đó cũng được xem là nơi công cộng của làng. Ngôi nhà này sẽ được truyền đời từ mẹ, sang con gái, và cứ thế nối tiếp đời nọ đến đời kia. Tuy nhiên, những ngôi nhà nhỏ hơn cũng có những nét tương đồng về hình dáng, điêu khắc, đem lại cho cộng đồng người Minangkabau một đặc trưng riêng, dễ nhận dạng trong lối kiến trúc nhà ở. Và với khách phương xa, hình ảnh những ngôi nhà mái cong độc đáo cùng những chi tiết điêu khắc phong phú, sự phối hợp màu sắc tuy sặc sỡ nhưng rất hài hoà trong tổng thể từ những chạm trổ quanh ngôi nhà, tạo nên một kiến trúc nhà ở đầy tính nghệ thuật cao. Đem lại một đặc trưng thú vị, hấp dẫn khách lạ ngay từ cái nhìn đầu tiên khi diện kiến những ngôi nhà của người Minangkabau. Đường cong nếp mái cùng vô vàn chi tiết điêu khắc đem lại một không gian sống thú vị của người Minangkabau / Cửa sổ liền kề tạo không gian thông thoáng cho ngôi nhà Phần cửa chính của ngôi nhà người Minangkabau / Vách nhà kết hợp từ phên tre và gỗ chạm
-
http://www.vietnampl...99/16876.vnplus THỨ HAI, 14/5/2012 17:56 GMT+7 Indonesia gìn giữ văn bản nguồn gốc người Việt cổ 10/09/2009 | 17:49:00Từ khóa : Cơ quan lưu trữ và thư viện của tỉnh Tây Sumatra, Indonesia, đang lưu giữ 40 trong số 150 văn bản cổ đại đã được đăng ký trong cả nước. Trong đó có những cuốn sách nói về các bài thuốc cổ truyền và thuật bói toán của người Minangkabau, một trong những tộc người chiếm đa số tại đảo Sumatra và có nguồn gốc từ người Việt. Cơ quan trên cho biết đã cử người tới nhiều địa phương trong tỉnh Tây Sumatra để thu thập và "cứu" những văn bản cổ quí hiếm khỏi thất lạc hay mục nát theo thời gian, sau đó sẽ "số hóa" các văn bản tìm được để nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra. Theo các nhà sử học, mùa Xuân năm 43, một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng cùng những người không chịu khuất phục giặc phương Bắc, đã chạy về phương Nam và cuối năm đó họ tiếp tục lên thuyền ra biển. Những đợt gió mùa Đông Bắc đã đẩy thuyền của họ dạt vào Eo biển Malacca. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Dân tộc này hiện còn duy trì chế độ mẫu hệ, trong gia đình, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi dòng họ của người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị. Người Minangkabau có tục lệ mời khách ăn trầu và những ngôi nhà truyền thống của họ đều có mái cong như hình chiếc sừng trâu, gợi hình ảnh những mái đình, chùa ở Việt Nam. Người Minangkabau còn nổi tiếng buôn bán giỏi và nấu ăn ngon./. (TTXVN/Vietnam+)
-
PHẦN 2:
-
Perspectives onthe Antiquity of Nations. The antiquity of the nation as asocial and cultural form is a subject of scholarly dispute, as are the definitions ofthe terms “nation” and “nationalism”. Anthony D. Smith has suggested two empirical definitionsof these terms, which will be adopted in this thesis. Smith defines a nation as “a named humancommunity occupying a homeland, and having common mythsand a shared history, a common public culture, a single economy and common rightsand duties for all its members”. Nationalism is therefore “an ideological movementfor attaining and maintaining autonomy, unity and identity for a population whichsome of its members deems to constitute an actual or potential ‘nation’.” The world is divided not only into nations,but also into territorial states. A state is “a set of autonomous institutions,differentiated from other institutions, possessing alegitimate monopoly of coercion and extraction in a given territory”.10 In addition to establishing thesedefinitions, Smith has identified four different positions in thetheoretical literature on the antiquity of nations, which will be outlined here.11 Nhận thức về thời cổ xưa của các quốcgia. Các di tích cổ của 1 quốc gia như xã hội vàvăn hóa là một chủđề học thuật gây tranh luận, cũngnhư là các định nghĩa của thuật ngữ "quốcgia" và "chủ nghĩa dân tộc". Anthony D.Smith đãgợi ý hai định nghĩa thực nghiệm của các thuật ngữ này, điềumà sẽ được sử dụng trong luận án này. Smith định nghĩa một quốc gia là "một cộng đồng người có tên gọi chiếm lĩnh một vùng đất, và chia sẻ những thần thoại và lịch sử chung, một vănhóa cộng đồng phổ biến, một nền kinh tế duy nhất và phổ biến quyền và nghĩa vụ chotất cả các thành viên của nó ". Chủ nghĩadân tộc do đó là "một phong trào tư tưởng để đạt được vàduy trì quyền tự chủ, thống nhất và bản sắc dân tộc mà một số thành viên của mình thấy rằng thực tế hoặc tiềm năng tạo thành một 'quốc gia' .Thế giới được chia không chỉ bằng các dân tộc, mà cũng bằng lãnh thổ quốc gia. Nhà nước là "một tập hợpcủa các tổ chức tự trị, phân biệt với các tổ chức khác, sở hữuđộc quyền hợp phápcưỡng chế và khai thác trong một lãnh thổ nhất định".10 Ngoài ra để thiết lập nhữngđịnh nghĩa này, Smith đã xác địnhđược bốn vị trí khác nhau trong các tài liệulý thuyết cổ xưacủa các quốc gia, mà sẽ được đề cập tại đây.11 For proponents of the firstposition, such as Edward Shils and Clifford Geertz, nations are primordial or based onprimordial attachments.12 Such attachments are natural and are founded on the basis of givencultural features such as shared language, religion, kinship andterritory. These provide the foci forintense individual attachment and collective loyalty. The advantage of this approach is theemphasis it gives to the long-term significance of popular attachments andshared cultural features. Its main problem, however, is that itoverlooks the social and cultural changes to which such attachments are subject, and whichoften transform the character of the communities which form around them. Đối với nhữngngười ủng hộ quan điểm đầu tiên, chẳng hạn như Edward Shils và Clifford Geertz,các quốc gia là sơ khai hoặc dựa trên sự gắn kết ban đầu.12 Sự gắn kết này là tự nhiên và được thành lập trên cơ sở cho các tínhnăng văn hóa như chia sẻ tôn giáo, ngôn ngữ,thân tộc vàlãnh thổ. Điều này tạo nên tiêu điểm chosự gắn kết cá nhânmãnh liệt và tập hợp lại một cách trung thành. Ưu điểm của phương phápnày là sự nhấn mạnh nó mang lại ý nghĩa lâu dài củasự gắn kết cộng đồng và chia sẻ các tính năng văn hóa. Tuy nhiên, vấn đề chính ở đây là xã hội và văn hóa biếnđổi thành cáimà sự gắn kết lànhững vấn đề, và chúngthường biến đổicác nhân vật của cộng đồng hình thành xung quanh chúng. For scholars such as HughSeton-Watson and Adrian Hastings, proponents of the second position, nations areperennial.13 That is, nations, or at least some nations, have existed for a very longperiod of time, often since the medieval period and sometimes since before the CommonEra. The perennial position can take twomajor forms. According to the first, at least some nationshave long continuous histories. According to the second, nationsare a basic form of human association that can appear and disappear in differentplaces and at different times. 10 Anthony D. Smith,Nationalism: Theory, Ideology, History (Cambridge: Polity Press, 2001), pp. 13(“named human community”), 9 (“ideological movement”) and 12 (“autonomousinstitutions”). 11 Anthony D. Smith, Nationalism and Modernism: ACritical Survey of Recent Theories of Nations and Nationalism (London:Routledge, 1998). 12 Edward Shils, “Primordial, Personal, Sacredand Civil Ties”, British Journal of Sociology 7,1 (1979), pp. 113-45; CliffordGeertz, The Interpretation of Cultures (London: Fontana, 1973). 13 Hugh Seton-Watson, Nations and States (London: Methuen, 1977); Adrian Hastings, The Construction of Nationhood: Ethnicity, Religion and Nationalism(Cambridge: Cambridge University Press, 1997). Đối với các họcgiả như Hugh Seton-Watson và AdrianHastings, những ngườiủng hộ quan điểm thứ 2, các quốc gia làvĩnh viễn.13 Đó là, các quốc gia, hoặc ít nhất là một số quốc gia, đã tồn tại trong một thời gian rất dài,thường kể từ thờikỳ trung cổ và đôi khi kể từ trước kỷ nguyên chung. Cácquan điểm lâu năm có thể gồm hai hình thức chính. Theo hình thức đầu tiên, hoặc ít nhất là một số quốc gia có lịch sử lâu dài liêntục. Theo hình thức thứ 2, các quốc gia là một hình thức nền tảngcủa xã hội loài người có thể xuất hiện hoặc biến mất ở những nơi khác nhau vàvào những thời gian khác nhau. 10 Anthony D. Smith, Chủ nghĩa dân tộc: Lý thuyết, tư tưởng, Lịch sử (Cambridge: chính thể, 2001),trang 13 ("Có tên là cộngđồng nhân loại"), 9 ("ýthức hệ phong trào") và 12 ("tổ chức tự trị"). 11 Anthony D. Smith, dân tộcvà hiện đại: Một khảo sát quan trọng của lý thuyếtgần đây của các quốc gia và dân tộc (London: Routledge, 1998). 12 Edward Shils, "Ban sơ, cá nhân, Thần Thánh và mối quan hệ thông thường", Tạp chí Xãhội học 7,1 Anh (1979), trang 113-45; Clifford Geertz, Giải thíchcủa các nền văn hoá (London: Fontana, 1973). 13 HughSeton-Watson, Quốcvà Hoa (London: Methuen, 1977), AdrianHastings, Xây dựng tính quốc gia: Dân tộc, tôn giáo và dân tộc (Cambridge: Cambridge University Press, 1997).
-
1. Tài liệu mới nhất về chữ Việt Cổ do ông Đỗ Văn Xuyền soạn thảo và cung cấp: 2. Bài phát biểu của Giám đốc trung tâm Lý Học Đông Phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong hội thảo: HỘI THẢO CHỮ VIỆT CỔ BÀI PHÁT BIỂU CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNGNGUYỄN VŨ TUẤN ANH TẠI HỘI THẢO “CHỮ VIỆT CỔ” Trong nỗ lực tìm lại cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc Việt, thì một yếu tố vô cùng quan trọng để xác định giá trị của một nền văn minh phát triển cần phải xácđịnh rằng nền văn minh đó có chữ viết. Bởi vì: những tiên đề khoa học đã xác định rằng một nền văn minh được xác định thì nó phải có chữ viết là phương tiện duy trì sự tồn tại và phát triển của nền văn minh đó. Nhưng trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc – đây không phải là con số đọc trong 1 giây – sau đó 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử chống ngoại xâm. Những giá trị văn hóa trong đó hệ thống chữ viết cổ của dân tộc Việt đã bị chìm đắm trongbức màn thời gian dầy đặc tính bằng thiên niên kỷ đó. Bởi vậy, không chỉ chữ viết của dân tộc Việtmà ngay những giá trị văn hóa tri thức và lịch sử cội nguồn dân tộc cũng hếtsức mơ hồ. Đã có nhiều học giả và những nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới đặt vấn đề hoài nghi lịch sử cội nguồn dân tộc Việt tính đến ngày nay là gần 5000 năm văn hiến. Không ít ý kiến phủ nhận cội nguồn văn hóa truyền thống Việt Sử. Họ cho rằng: Việt Sử chỉ có khả năng tồn tại khoảng 2700 năm tính đếnngày nay. Nhưng ngược lại cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu cố gắng chứng minh Việt Sử trải gần 5000 năm văn hiến, như truyền thống và chính sử đã ghi lại. Tuy nhiên, như tôi đã nói ở trên một yếu tố cần và cực kỳ quan trọng đó là hệ thống chữ viết cổ để xác định một nền văn hiến kỹ vỹ như chính sử đã nói đến: Nước Văn Lang được thành lập vào năm thứ 8 hội Ngọ tức 2879 (TCN). Có biên giới Bắcgiáp Động đình Hồ nam giáp Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải. Với tiên đề này, và danh xưng văn hiến của Việt Sử thì điều kiện bắt buộc phải có một hệ thống chữ viết để lưu truyền và phát triển nền văn minh đó. Do đó, chúng ta thấy sự phát hiện ra hệ thống chữ Việt Cổ của nhà nghiên cứu nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền quan trọng như thế nào trong việc chứng minh Việt Sử 5000 năm văn hiến như một số học giả đặt ra. Trải hơn 2000 năm thăng trầm của Việt Sử những dấu ấn còn lại của hệ thống chữ viết Việt Cổ chỉ còn lại dămchục ký tự mơ hồ. Bởi vậy không ít những nhà nghiên cứu cho rằng nó không đủ cơsở để xác định một hệ thống chữ viết. Và họ đòi hỏi rằng: cần phải có những vănbản cổ có nội dung hoàn chỉnh, hoặc những văn bia cổ được thể hiện bằng chữ khoa đẩu thì mới có thể xác định được một cách mà họ gọi là khoa học, hệ thống chữ viết người Việt là có thật Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt vấn đề ngược lại, thì dăm chục ký tự khoa đẩu đó nói lên điều gì? Và có thể căn cứ vào những ký tự đó để xác định rằng đã có một hệ thống chữ viết cổ tồn tại và đã bị vùi lấp trong thời gian. Tất nhiên, nếu chỉdừng lại ở một hiện tượng duy nhất là chữ viết thì đây có thể là cuộc tranh luận khó có hồi kết – giữa một quan niệm cần phải có những di vật lịch sử trực quan để chứng minh và một quan niệm dựa trên cơ sở hợp lý có tính hệ thống, hoàn chỉnh những luận cứ khoa học. Có lẽ hầu hết chúng ta đều biết rằng chỉ với 6 ký tự cổ của hệ thống chữ viết AiCập cổ đại có liên hệ với chữ Latin trên một miếng gỗ tìm thấy vào đầu thế kỷ19, mà các nhà ngôn ngữ học của nước Pháp đã giải mã được toàn bộ hệ thống chữ viết cổ Ai Cập. Qua đó chúng ta nhận thấy rằng việc nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền dựa trên những tiêu chí khoa học để phục hồi lại toàn bộ hệ thống chữ viết cổcủa dân tộc Việt là hoàn toàn cần phải được công nhận vì những tiền đề khoa họccủa nó đã được chứng minh. Nhưng để xác định lịch sử cội nguồn dân tộc thì chữ viết chỉ là một trong những yếutố cần, nhưng không phải là duy nhất. Cũng như không thể coi di vật khảo cổ làbằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Để chứng minh cho cội nguồn lịch sử dân tộc chúng ta có nhiều mối liên hệ liênquan trực tiếp và gián tiếp, trong đó bao gồm cả những di sản văn hóa phi vậtthể. Điều quan trọng hơn cả trước một sự khiếm khuyết cội nguồn văn hóa sử dântộc Việt trong quá khứ vẫn chính là một giả thuyết được coi là khoa học theo đúng tiêu chí khoa học cho dù giả thuyết đó căn cứ vào những di sản văn hóa vậtthể hoặc phi vật thể. Vậy thì một luận cứ nào thỏa mãn tiêu chí đó thì được coi là khoa học. Cá nhân tôi có thể xác định rằng những sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống, không hề có cơ sở khoa học nếu xét theo tiêu chí khoa học cần phải chính xác những luận cứ đó chỉ là sự hoài nghi vì một hệ thống văn hóa sửđã bị khuất lấp. Do đó, việc nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với những luận cứ thuyết phục xác định toàn bộ hệ thống chữ viết việt cổ đã là nét bút quyết định trong bức tranh về cội nguồn lịch sử vẻ vang dân tộc Việt trải 5000 năm văn hiến. Cho dù có một số nhà nghiên cứu đặt vấn đề rằng hệ thống chữ việt cổ mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Mường.Nhưng với cái nhìn của tôi thì cần xác định rằng đây chính là hệ thống chữ Việt cổ. Bởi vì, như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh, ký tự thuộc hệ thống dân tộc nào thì nó phải thể hiện đúng ngôn ngữ của dân tộc đó. Và nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã làm được điều này. Tất cả chúng ta có mặt trong cuộc hội thảo hôm nay, đã được nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh một cách rõ ràng.Có thể có những điểm tương đồng giữa chữ khoa đẩu của dân tộc Tày và dân tộcViệt hoặc cả hai đều có cùng một nguồn gốc cho nên đều có nét tương đồng. Do đó, cần khẳng định một cách rất khoa học – theo tiêu chí khoa học - rằng: hệthống chữ viết Việt cổ mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh rằng đâychính là hệ thống chữ khoa đẩu của người Việt cổ. Có thể nói rằng tất cả những tiêu chí cần thiết để xác định một hệ thống chữ viết của môt dân tộc đều đã được chứng minh một cách hoàn chỉnh có tính hệ thống,nhất quán, có tính quy luật và hợp lý với tất cả những điều liên quan đến nó. Thậm chí nếu ngay bây giờ chúng ta thay chữ quốc ngữ bằng hệ thống chữ khoa đẩu của người Việt cổ do nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh thì nó đầy đủ khả năng để thực hiện điều này. Và chính từ hệ thống chữ viết được nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã đặt ra một vấn đề mới thuộc về lịch sử. Đó chính là vấn đề nhờ có chữ Việt cổ mà ngôn ngữ Việtcó thể được diễn tả bằng chữ latin. Điều này đã đặt vấn đề và tự nó cũng chứngminh rằng: dân tộc Việt là dân tộc duy nhất ở vùng Đông Nam Á có thể latin hóa chữ viết của mình. Chúng tôi nghĩ rằng với tất cả công lao của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trong hơn 30năm đơn thương độc mã không có tài trợ, không người ủng hộ và tất cả bằng trí tuệ sức lực cá nhân, với số tiền lương còm cõi của một nhà văn nghèo-nhưng ông đã miệt mài cặm cụi đi tìm chữ viết cổ của dân tộc rất xứng đáng được tôn vinh và là đóng góp to lớn trong việc phục hồi những giá trị văn hóa truyền thốngViệt. Tôi nghĩ rằng đây là một thành tựu xứng đáng được tôn vinh cho những cố gắng tìm về cội nguồn dân tộc Việt, đóng góp to lớn cho nước nhà.
-
VIDEO HỘI THẢO. PHẦN 1: http-~~-//www.youtube.com/watch?v=_lz9r3POQZA&feature=player_embedded