ChanThienNhan

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    30
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About ChanThienNhan

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. Giới thiệu mọi người bài này tham khảo, cá nhân tôi thấy cơ hội mọi người biết đến thì có thể có nhiều còn đắc được thì còn phải tùy vào duyên phận mỗi người. Cảm ơn! Phủi sạch phong trần: Tìm duyên Thánh hoa Bản để in Bản để in Tác giả: Tiểu Liên Hoa trên tượng Phật: Hoa Ưu Đàm được trông thấy nở trên tượng Phật ở Hàn Quốc. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên) [Chanhkien] Ở đây, tôi đặc biệt dùng chữ “duyên”, chứ không phải chữ “nguyên” trong từ “uyên nguyên”. Bởi vì trong bài này, tôi muốn nói năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni đã đề cập đến hoa Ưu Đàm Bà La trong tình huống nào, cũng là hồi ức lại một đoạn lịch sử để thuyết minh nhân duyên trong đó. Chứ tôi không muốn nói về căn nguyên sản sinh loài hoa này trên thiên thượng. Trong dạ hội Thần Vận năm 2009, người dẫn chương trình đã dùng ngữ điệu vừa kiên định vừa từ bi vô hạn. Khi giới thiệu màn vũ đạo “Bà La hoa khai”, cô nói: Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng, khi Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân. Loại hoa Ưu Đàm mà Phật Thích Ca Mâu Ni từng nhắc tới này hiện đang liên tục khai nở tại các nơi trên thế giới, chứng tỏ Chuyển Luân Thánh Vương cuối cùng đã hạ thế độ nhân. Bà La hoa đã khai nở rồi, Thần Phật đã trở lại rồi, quý vị có nhìn thấy không? ….. Mỗi khi nghe đến đây, nội tâm tôi lại xúc động đến phát khóc; rất nhiều bạn bè không hiểu, hình như đã coi tôi thành “Lâm muội muội” (nhân vật nữ đa sầu trong Hồng Lâu Mộng) rồi. Đúng là người ta thường nói: Nam nhi rơi lệ đâu đơn giản, Chỉ bởi chưa đến chỗ thương tâm. Tôi phải nói rằng, những giọt nước mắt của tôi là do cảm động mà rơi xuống! Như vậy hôm nay chúng ta sẽ quay ngược thời gian trở lại 2.500 năm trước, để xem Phật Thích Ca Mâu Ni khi ấy đã nói câu này trong hoàn cảnh nào. Kỳ thực trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, thì tại Ấn Độ cổ đã lưu truyền câu nói rằng Chuyển Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian truyền Pháp trong tương lai. Vào 2.500 năm trước, sau khi tu luyện khai ngộ, Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu hồng truyền Phật Pháp. Sau đó Phật Pháp mà Ngài truyền dần dần đạt tới thời kỳ cực thịnh, còn các tôn giáo khác dần dần suy bại, đặc biệt Bà La Môn giáo đã hoàn toàn biến thành tà giáo. Từ khi Phật Tổ bắt đầu truyền Pháp, những người của Bà La Môn giáo đã bắt đầu quấy rối và phá hoại. Lịch sử về phương diện này đều có ghi chép. Hôm nay tôi chỉ nói về những điều mà lịch sử ghi lại không đầy đủ. Sau đó, khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp tại tinh xá Chi Viên, người của Bà La Môn giáo một lần nữa làm loạn. Họ giả trang thành tín đồ đến nghe Pháp; trong khi đang nghe, họ ngất xỉu hoặc xuất hiện các hiện tượng kỳ quái khác, làm dao động chính tín của các tín đồ. Có một lần, Phật Thích Ca Mâu Ni đang trực tiếp giảng Pháp cho rất nhiều đệ tử, Ngài nói khi Ngài tại thế thì tín đồ các tôn giáo khác và ma quỷ không thể làm gì Pháp này, nhưng tương lai thì khó nói lắm. Rồi Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Các con đều biết ở đây có một truyền thuyết lưu truyền đã lâu, đó chính là Pháp Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian độ nhân trong tương lai, Pháp Luân Thánh Vương này năng lực vô cùng vĩ đại, … Đến lúc ấy, rất nhiều người trong các con sẽ đắc được Đại Pháp vạn pháp quy nhất ấy! Đến lúc ấy, các con sẽ biết mình may mắn như thế nào. Đến lúc ấy, rất nhiều chư Thần từ thiên thượng sẽ xuống nghe Pháp, và chúng Thần đều trông ngóng ngày đó sẽ tới.” Sau đó trong một lần Pháp hội (lần Pháp hội này được mở tại một nơi rất rộng rãi ở trên núi), khi ấy mười đại đệ tử của Phật Tổ đều có mặt, còn có rất nhiều đệ tử khác, chỉ nghe thấy Liên Hoa Sắc hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni: “Thế tôn, Ngài nói tương lai sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp, người ở các nơi khác không biết thì làm thế nào đây?” Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Đến khi có một loại hoa gọi là Ưu Đàm Bà La nở rộ khắp nơi, thì là báo hiệu Thánh Vương đã tới; sau khi đắc Pháp, các con nhất định phải trân quý!” Hoa Ưu Đàm nở tại thành phố Đại Liên, Trung Quốc năm 2011 (Ảnh: Chánh Kiến Net). “Loài hoa này không phải là hoa ở nhân gian, mà mang cùng một điềm lành như Chuyển Luân Thánh Vương. Các vị Phật khác nhau đều có biểu tượng khác nhau, biểu tượng này là một loại điềm lành, báo trước vị tôn Phật này sẽ tới truyền Pháp, giáo hóa chúng sinh. Loài hoa này tại nhân gian 3.000 năm mới nở một lần, nhưng ở không gian khác, phải cần thời gian lâu hơn mới có thể khai nở. Cho dù ở đâu, gặp được Chuyển Luân Thánh Vương đều là sự tình phi thường thù thắng!” “Với những người khéo tích lũy thiện căn trong các con, ta sẽ đi theo bảo hộ các con, tới khi các con gặp được Thánh Vương mới thôi”. “Kiếp này chúng con muốn trở thành Phật!”, một vị đệ tử nói. “Đúng là thành Phật được”. (Từ Pháp lý của Pháp Luân Đại Pháp, chúng ta biết rằng từ xưa đến nay các Đại Giác Giả độ nhân đều gần như là độ phó nguyên thần, chứ không phải độ chủ nguyên thần. Nhưng đối với một cá nhân, chủ nguyên thần mới là tự kỷ chân chính! Còn phó nguyên thần được an bài khởi tác dụng phụ trợ để chủ nguyên thần không làm nhiều việc xấu. Đây là chỗ mê từ thiên cổ. Ý Phật Thích Ca Mâu Ni nói là độ phó nguyên thần, chứ không thể nói rõ ra, còn chủ nguyên thần vẫn tiến nhập vào lục đạo luân hồi.) Lúc này từ không trung mưa rơi lất phất, Phật Thích Ca Mâu Ni nói loài hoa này thân nhỏ như mưa bụi, hoa nở rất bé. Tuy nhìn rất mỏng manh, nhưng không đâu là không thể khai nở. Mục Kiền Liên nói: “Thế tôn có thể mở lòng từ bi, để chúng con nhìn trước một chút Bà La hoa này được không?” “Được thôi! Ta dùng Phật lực để xem có thể mang đến loài hoa này không”. Nói xong Phật Thích Ca Mâu Ni chìa tay ra, chỉ thấy trong tay xuất hiện một đám hoa màu trắng, hoa rất nhỏ nhưng thân rất dài. “Đây là Bà La hoa, tại không gian khác, chúng Thần trên thiên thượng đều muốn sớm thấy loài hoa này, đều muốn sớm đắc được giáo hóa của Chuyển Luân Thánh Vương. Đến khi các con đắc được, ta sẽ mừng thay cho các con!” Lúc ấy trên thiên không xuất hiện rất nhiều thiên nữ mặc y phục bảy màu trong suốt, họ bắt đầu rải hoa, mưa phùn ngừng lại, trên bầu trời xuất hiện một cầu vồng rực rỡ, còn có rất nhiều đám mây bảy màu trôi theo làn gió. Còn xuất hiện rồng và phượng, đúng như câu nói “rồng phượng hiện điềm lành” vậy. Lúc ấy có một người nói: “Đây là một điềm lành tuyệt diệu!” Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni còn nhiều lần giảng về Chuyển Luân Thánh Vương và Ưu Đàm Bà La hoa, nhưng do giới hạn độ dài của bài viết, tôi sẽ không kể thêm nữa. Hiện tại, trong số các đại đệ tử trực tiếp nghe Phật Tổ, Chúa Jesus, Lão Tử và các Thánh giả khác năm xưa giảng Pháp truyền Đạo, rất nhiều người đều đã được Chuyển Luân Thánh Vương tự thân truyền độ. Còn hoa Ưu Đàm Bà La mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói đến năm xưa đã khai nở trên toàn thế giới, điều mà chúng sinh chờ đợi và trông mong đã tới rồi. Đối diện tất cả những điều này, chúng ta lựa chọn như thế nào đây? Xin hãy thức tỉnh, hỡi con dân của Thần!!! Ấy chính là: Bà La hoa nở Thánh Vương tới, Xoay chuyển Pháp Luân chính tam tài. Từ bi cứu độ khuyên tam thoái, Minh bạch chân tướng thoát khổ hải. Hy vọng các bạn đều có thể liễu giải chân tướng Đại Pháp, bởi vì liễu giải chân tướng là hy vọng đắc cứu của các bạn, hơn nữa còn là hy vọng duy nhất!!! Theo chanhkien
  2. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói về Hoa Ưu Đàm và đức Chuyển Luân Thánh Vương Theo Tin Đa Chiều Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng, khi Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân. Loại hoa Ưu Đàm mà Phật Thích Ca Mâu Ni từng nhắc tới này hiện đang liên tục khai nở tại các nơi trên thế giới, chứng tỏ Chuyển Luân Thánh Vương cuối cùng đã hạ thế độ nhân. Bà La hoa đã khai nở rồi, Thần Phật đã trở lại rồi, quý vị có nhìn thấy không? ….. hôm nay chúng ta sẽ quay ngược thời gian trở lại 2.500 năm trước, để xem Phật Thích Ca Mâu Ni khi ấy đã nói câu này trong hoàn cảnh nào. Kỳ thực trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, thì tại Ấn Độ cổ đã lưu truyền câu nói rằng Chuyển Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian truyền Pháp trong tương lai. Vào 2.500 năm trước, sau khi tu luyện khai ngộ, Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu hồng truyền Phật Pháp. Sau đó Phật Pháp mà Ngài truyền dần dần đạt tới thời kỳ cực thịnh, còn các tôn giáo khác dần dần suy bại, đặc biệt Bà La Môn giáo đã hoàn toàn biến thành tà giáo. Từ khi Phật Tổ bắt đầu truyền Pháp, những người của Bà La Môn giáo đã bắt đầu quấy rối và phá hoại. Lịch sử về phương diện này đều có ghi chép. Hôm nay tôi chỉ nói về những điều mà lịch sử ghi lại không đầy đủ. Sau đó, khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp tại tinh xá Chi Viên, người của Bà La Môn giáo một lần nữa làm loạn. Họ giả trang thành tín đồ đến nghe Pháp; trong khi đang nghe, họ ngất xỉu hoặc xuất hiện các hiện tượng kỳ quái khác, làm dao động chính tín của các tín đồ. Có một lần, Phật Thích Ca Mâu Ni đang trực tiếp giảng Pháp cho rất nhiều đệ tử, Ngài nói khi Ngài tại thế thì tín đồ các tôn giáo khác và ma quỷ không thể làm gì Pháp này, nhưng tương lai thì khó nói lắm. Rồi Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Các con đều biết ở đây có một truyền thuyết lưu truyền đã lâu, đó chính là Pháp Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian độ nhân trong tương lai, Pháp Luân Thánh Vương này năng lực vô cùng vĩ đại, … Đến lúc ấy, rất nhiều người trong các con sẽ đắc được Đại Pháp vạn pháp quy nhất ấy! Đến lúc ấy, các con sẽ biết mình may mắn như thế nào. Đến lúc ấy, rất nhiều chư Thần từ thiên thượng sẽ xuống nghe Pháp, và chúng Thần đều trông ngóng ngày đó sẽ tới.” Sau đó trong một lần Pháp hội (lần Pháp hội này được mở tại một nơi rất rộng rãi ở trên núi), khi ấy mười đại đệ tử của Phật Tổ đều có mặt, còn có rất nhiều đệ tử khác, chỉ nghe thấy Liên Hoa Sắc hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni: “Thế tôn, Ngài nói tương lai sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp, người ở các nơi khác không biết thì làm thế nào đây?” Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Đến khi có một loại hoa gọi là Ưu Đàm Bà La nở rộ khắp nơi, thì là báo hiệu Thánh Vương đã tới; sau khi đắc Pháp, các con nhất định phải trân quý!” Hoa Ưu Đàm nở tại thành phố Đại Liên, Trung Quốc năm 2011 “Loài hoa này không phải là hoa ở nhân gian, mà mang cùng một điềm lành như Chuyển Luân Thánh Vương. Các vị Phật khác nhau đều có biểu tượng khác nhau, biểu tượng này là một loại điềm lành, báo trước vị tôn Phật này sẽ tới truyền Pháp, giáo hóa chúng sinh. Loài hoa này tại nhân gian 3.000 năm mới nở một lần, nhưng ở không gian khác, phải cần thời gian lâu hơn mới có thể khai nở. Cho dù ở đâu, gặp được Chuyển Luân Thánh Vương đều là sự tình phi thường thù thắng!” “Với những người khéo tích lũy thiện căn trong các con, ta sẽ đi theo bảo hộ các con, tới khi các con gặp được Thánh Vương mới thôi”. Lúc này từ không trung mưa rơi lất phất, Phật Thích Ca Mâu Ni nói loài hoa này thân nhỏ như mưa bụi, hoa nở rất bé. Tuy nhìn rất mỏng manh, nhưng không đâu là không thể khai nở. Mục Kiền Liên nói: “Thế tôn có thể mở lòng từ bi, để chúng con nhìn trước một chút Bà La hoa này được không?” “Được thôi! Ta dùng Phật lực để xem có thể mang đến loài hoa này không”. Nói xong Phật Thích Ca Mâu Ni chìa tay ra, chỉ thấy trong tay xuất hiện một đám hoa màu trắng, hoa rất nhỏ nhưng thân rất dài. “Đây là Bà La hoa, tại không gian khác, chúng Thần trên thiên thượng đều muốn sớm thấy loài hoa này, đều muốn sớm đắc được giáo hóa của Chuyển Luân Thánh Vương. Đến khi các con đắc được, ta sẽ mừng thay cho các con!” Lúc ấy trên thiên không xuất hiện rất nhiều thiên nữ mặc y phục bảy màu trong suốt, họ bắt đầu rải hoa, mưa phùn ngừng lại, trên bầu trời xuất hiện một cầu vồng rực rỡ, còn có rất nhiều đám mây bảy màu trôi theo làn gió. Còn xuất hiện rồng và phượng, đúng như câu nói “rồng phượng hiện điềm lành” vậy. Lúc ấy có một người nói: “Đây là một điềm lành tuyệt diệu!” Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni còn nhiều lần giảng về Chuyển Luân Thánh Vương và Ưu Đàm Bà La hoa, Còn hoa Ưu Đàm Bà La mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói đến năm xưa đã khai nở trên toàn thế giới, điều mà chúng sinh chờ đợi và trông mong đã tới rồi. Sau đây là một đoạn tư liệu từ các kênh truyền thông: Chùa Chính Giác tọa lạc tại Gyeongju (Khánh Châu), Hàn Quốc, một trong 10 cố đô cổ kính nhất trên thế giới; trong chùa có một hòa thượng 38 tuổi tu hành đã được 16 năm, gọi là Kim Hải Nhật hòa thượng. Năm 2006, Kim Hải Nhật trả lời phỏng vấn báo giới như sau: “Chùa Chính Giác của chúng tôi có lịch sử khoảng 1.000 năm rồi. Bởi vì chùa này là nơi Hoàng đế đời thứ 56 thời Tân La mạt đại, Kính Thuận Vương, hướng về Phật Dược Sư ở núi Nam Sơn mà cầu nguyện an định và phồn vinh cho quốc gia.” Tháng 5 năm 2005, một vị tín đồ thường tới chùa bái lạy, phát hiện thấy bên trái tượng Phật Di Lặc bằng gỗ trong tự nội có một bó hoa trắng khá bất thường. Kim Hải Nhật hòa thượng cho rằng, đây chính là “Ưu Đàm Bà La hoa” mà kinh Phật ghi lại. Ông nói: “Vị tín đồ này tới bao giờ cũng quét dọn, khi quét dọn phát hiện thấy [hoa này], lúc đầu không biết là Ưu Đàm Bà La hoa, dùng khăn chùi cũng không đi, quan sát tường tận thì thấy giống hoa, nên mới nói với tôi. Tôi xem thử thì thấy đúng là có lá, có thân, có rễ của cây”. Clip hoa Ưu Đàm (Udumbara) nở trên tượng Phật trong chùa Chính Giác ở Gyeongju (Khánh Châu), Hàn Quốc tháng 5 năm 2005: Theo giới thiệu của Kim Hải Nhật hòa thượng, «Kim Cương Kinh» ghi lại rằng “Ưu Đàm Bà La hoa” ba nghìn năm mới nở một lần. Khi Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, có ý là Chuyển Luân Thánh Vương đã tới nhân gian truyền Pháp độ nhân. Theo ký lục của Phật gia, năm 2005 chính là năm 3032. Hiện tượng hoa Ưu Đàm Bà La khai nở tại chùa Chính Giác, Hàn Quốc không phải là lần đầu. Tháng 7 năm 1997, trong phòng phương trượng một ngôi chùa tại quận Quảng Châu, người ta phát hiện thấy trên ngực tượng Phật Như Lai bằng đồng vàng xuất hiện 24 đóa hoa Ưu Đàm Bà La, có mấy trăm người tới xem. Trung tuần tháng 2 năm 2005, trên tượng Phật trong thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc, người ta phát hiện thấy 10 đóa hoa Ưu Đàm Bà La khai nở. Pháp Trường hòa thượng của thiền viện này nói: “Tôi phát hiện thấy có thứ gì đó màu trắng. Đạo Nguyệt hòa thượng tu hành cùng tôi ngày hôm sau xem kỹ lại, cho rằng là Ưu Đàm Bà La hoa”. Hoa trên tượng Phật: Hoa Ưu Đàm được trông thấy nở trên tượng Phật trong thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc vào tháng 2 năm 2005. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên) Kim Hải Nhật hòa thượng tin rằng, khi hiện tượng thần kỳ này xuất hiện, những gì ghi lại trong kinh Phật đúng là đang phát sinh tại nhân gian. Sau đó, Ưu Đàm Bà Ba hoa liên tục được phát hiện thấy tại nhiều tỉnh ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, Mỹ, Việt Nam v.v. Những hiện tượng này đã gợi ý cho người đời rằng: Chuyển Luân Thánh Vương đã tới nhân gian Chính Pháp độ nhân. Tổng hợp từ chanhkien Hình ảnh Hoa Ưu Đàm (Udumbara) xuất hiện trên thế giới http://youtu.be/BFZG5o4JqyU
  3. Phật Di Lặc và Messiah: Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp (Phần 1) Tác giả: Trương Kiệt Liên Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc là một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. [Chanhkien] Trong Kinh Thánh có lời tiên tri rằng, vào thời khắc tối hậu của nhân loại, sau khi người Israel phục quốc, Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới nhân gian. Còn Kinh Phật ở phương Đông nói rằng khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, Phật Di Lặc tương lai sẽ hạ thế phổ độ chúng sinh. Hiện tại, những sự việc được tiên tri đã lần lượt xuất hiện, Cứu Thế Chủ của cả Đông và Tây phương phải chăng đã tới ngay bên cạnh chúng ta? Cả Kinh Phật và Kinh Thánh đều đề cập tới nhân loại thời mạt kiếp ắt sẽ có Cứu Thế Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh. Kinh Phật cho rằng thời mạt pháp sẽ có vị Phật tương lai là Di Lặc hạ thế cứu độ chúng sinh, còn Kinh Thánh tin rằng khi thời mạt kiếp tới, tất sẽ có Cứu Thế Chủ Messiah giáng thế cứu vãn chúng sinh. Nếu như Kinh Phật và Kinh Thánh là đáng tin cậy, thì như vậy nhân loại nhất định sẽ xuất hiện hai Cứu Thế Chủ, ngoại trừ trường hợp Di Lặc trong Kinh Phật chính là Messiah trong Kinh Thánh. Phật Di Lặc và Messiah là cùng một người? Cố học giả của nền giáo dục Trung Quốc, nhà Phật học, nhà phiên dịch Quý Tiện Lâm và các đồ đệ của ông đã có một cống hiến quan trọng, đó là phát hiện mối liên hệ giữa Phật gia và Cơ Đốc giáo, ấy chính là “Vị lai Phật Di Lặc của Phật gia và Cứu Thế Chủ Messiah của Cơ Đốc giáo là cùng một người”. Theo nghiên cứu của Đại học Phục Đán Thượng Hải, vào khoảng năm 1.000 TCN, trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập, có một thứ tín ngưỡng thịnh hành về Cứu Thế Chủ của tương lai, và Messiah trong Đạo của Chúa Jesus chính là một loại tín ngưỡng có tính đại biểu nhất. Thực ra loại tín ngưỡng này đã có mặt ngay trong kinh Cựu Ước. Tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ, theo xác nhận của giới học thuật, là có tương quan mật thiết với tín ngưỡng Cứu Thế Chủ trên phạm vi toàn thế giới; do vậy xét về ảnh hưởng, tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ chính là một bộ phận hợp thành của tín ngưỡng Cứu Thế Chủ. Nếu dùng ngôn ngữ đơn giản nhất mà diễn đạt, thì Di Lặc chính là Vị lai Phật, là Cứu Thế Chủ tương lai. Nguồn gốc ở Ấn Độ và phạm vi lưu truyền rộng lớn thời cổ đại của tín ngưỡng này chính là một bộ phận của tín ngưỡng vào Messiah. Hai chữ “Di Lặc” (弥勒) trong tiếng Hán từ đâu mà đến? Thực ra, điều này liên quan đến một trong những bí mật lớn nhất của văn minh nhân loại lần này. Theo khảo cứu từ «Quý Tiện Lâm văn tập», quyển thứ 12 “Mai Lợi Da và Di Lặc”, thì đa số nguyên bản Kinh Phật thời kỳ đầu đều là “Hồ bản”, tức dùng văn tự của ngôn ngữ Trung Á và Tân Cương cổ đại để viết, chứ không phải là chữ Phạn quy phạm của Ấn Độ. Do đó, hai chữ “Di Lặc” rất có thể đến từ thứ tiếng Tocharian của Tân Cương, là dịch âm trực tiếp từ chữ “Metrak” hoặc “Maitrak”; chữ này rất có quan hệ với chữ “maitri” (từ bi, từ ái) trong tiếng Phạn, do đó “Di Lặc” dịch ý thì chính là “Từ Thị” (người có lòng từ). Vì vậy, ngay từ thời hậu Hán và Tam Quốc ở Trung Quốc, trong một lượng lớn tư liệu Phật điển dịch tiếng Hán đều xuất hiện đồng thời “Di Lặc” và “Từ Thị” (Bồ Tát). Nếu quả thực như vậy, khái niệm Di Lặc xét về thời gian và bề rộng thì vượt khỏi phạm trù Phật giáo. Tại Trung Quốc, tín ngưỡng sớm nhất của dân chúng không phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng không phải là A Di Đà Phật, mà là Di Lặc Bồ Tát. Người ta phát hiện rằng, tín ngưỡng Di Lặc ngay từ đầu đã là đúc kết tinh hoa văn hóa của toàn bộ nền văn minh thế giới, chứ không chỉ hạn cuộc trong Phật giáo, ngoại trừ khái niệm về Bồ Tát ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa nhân loại. Di Lặc, trong tiếng Sanskrit gọi là “Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”, và gần như không có quan hệ gì về phát âm với hai chữ “Di Lặc” trong tiếng Hoa. Pháp sư Huyền Trang của Đại Đường trong khi phiên dịch đã phát hiện thấy điểm này, bởi vậy Huyền Trang mới nói là dịch sai, và lẽ ra nên phiên dịch thành “Mai Lợi Da”. Tuy nhiên người ta không tiếp thụ ý kiến của vị cao tăng đáng kính Huyền Trang, lại còn cố định gọi thành “Di Lặc”, và “Mai Lợi Da” đã trở thành phát minh cá nhân của pháp sư Huyền Trang. Vị Thần mà người Tây phương chờ đợi gọi là “Messiah” trong tiếng Anh, tiếng Hán phiên thành “Di Trại Á”, và bắt nguồn từ chữ “Masiah” trong tiếng Hebrew (có lúc viết thành “Mashiach”). Tiếng Hy Lạp phiên dịch thành “Christos”, bởi vậy mới có chữ “Christ” (Cơ Đốc). “Messiah” và “Christ” về cơ bản là có nghĩa tương đương, và Tân Ước coi Chúa Cứu Thế tương đồng với Messiah của Do Thái giáo. Hai chữ “Maitreya” và “Masiah” có âm rất gần. Trên thực tế, “Di Lặc” nguyên từ tiếng Tocharian của Tân Cương và “Messiah” nguyên từ tiếng Hebrew của Israel là một từ đồng nhất, chẳng qua ở Tây phương đọc là “Messiah”, ở Ấn Độ đọc là “Maitreya”, còn ở Trung Quốc đọc là “Di Lặc”. Tình huống ngôn ngữ này cũng rất hay gặp trong lịch sử văn minh nhân loại. Chùa Labrang ở Cam Túc là một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. Tạo hình tượng Phật trong chùa Labrang ở Cam Túc ẩn chứa huyền cơ Theo Kinh Phật ghi lại, Di Lặc là Phật hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống từ tầng tối cao vào thời mạt thế, còn Pháp Luân Thánh Vương là Pháp hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống Pháp giới (nhân gian gọi là Chuyển Luân Thánh Vương), do đó Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói với các đệ tử của Ngài rằng: Pháp Luân Thánh Vương cũng được gọi là Di Lặc. Từ bi, chói sáng, hy vọng là nội hàm tinh thần của Phật Di Lặc tương lai. Trong chùa Labrang (Lạp Bặc Lăng) thuộc huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc, Trung Quốc có một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Di Lặc hạ thế độ nhân. Chùa Labrang được xây vào những năm Khang Hy của triều Thanh (năm 1709), là một trong lục đại tông chủ của Cách Lỗ phái (Hoàng giáo) trong Phật giáo Tây Tạng. Nguyên tên của chùa Lạp Bặc Lăng rất dài, gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ, ý tiếng Hán là “chùa Cát Tường”. Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng của chùa Labrang cũng ẩn chứa huyền cơ, đặc biệt tạo tượng lưỡng tôn Di Lặc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy. Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lặc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Theo lời giải đáp của vị Lạt-ma hướng dẫn khách du lịch khi được hỏi về tư thế tay của Phật thì: “Đây là Di Lặc Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ Di Lặc Phật sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Nghe nói nguyên danh Trát Tây Kỳ của chùa Labrang (ý Cát Tường) chính là có hàm nghĩa Pháp Luân chuyển động hiện Cát Tường. Ở chính giữa Đại Kim Ngõa Điện thờ cúng Đại Phật Di Lặc là một tượng đồng mạ vàng từ hơn 200 năm trước, do hai đời chủ chùa này đặc biệt mời thợ thủ công từ Nepal đúc thành, tượng Phật cao 10 mét. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Di Lặc là một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng một tế đàn này quả thực là hiếm thấy. Theo giải thích của vị Lạt-ma hướng dẫn khách tham quan thì: “Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lặc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân. Ngài là vị Như Lai có thần thông tối quảng đại, với năng lực lớn nhất trong vũ trụ; Ngài mang Pháp Luân tới cứu độ chúng sinh trong vũ trụ, tức Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng sinh toàn vũ trụ”. Không khó để phát hiện, cách tạo tượng đột nhiên hiện rõ Phật Di Lặc (Chuyển Luân Thánh Vương) với tầng thứ cực cao, Pháp lực cực lớn, mang theo từ bi hồng đại tới cứu độ toàn nhân loại. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong ngôi chùa này, điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu Kim Ngõa Điện, còn Di Lặc Phật Điện được gọi là Đại Kim Ngõa Điện. (còn tiếp) Theo Chanhkien
  4. Tìm kiếm miệt mài: Nguyện vọng tăng nhân Hàn Quốc cuối cùng đã toại nguyện [Vi phạm nội quy] Vào giữa tháng Năm, đoàn nghệ thuật Thần vận Mỹ quốc kết thúc 81 xuất trình diễn luân lưu thế giới của năm 2007. Ở cuối tháng Tư, đoàn nghệ thuật Thần vận cũng từng trình diễn 3 xuất tại Hàn Quốc, đã cảm động dân tộc Hàn Quốc vốn có nguồn gốc văn hóa Trung Hoa nồng hậu. Rất đặc biệt ở chỗ có rất nhiều tăng nhân, tăng ni, tu nữ đến xem diễn xuất, tại sao người tu luyện lại có hứng thú đối với nghệ thuật diễn xuất? Trong đó có một vị đến xem diễn xuất tên là Ngô Vĩnh Khuê, ông ta là một vị tăng nhân 85 tuổi. Ông nói: “Tôi vốn không có hứng thú đối với bất cứ mọi việc trên đời, từ nhỏ thì đã chưa từng xem diễn xuất gì, xem diễn xuất nghệ thuật gì cũng không cảm thấy hứng thú. Nhưng diễn xuất của Thần vận không giống như vậy. Sự diễn xuất như vậy không thể hoàn toàn đem nó xem là biểu diễn nghệ thuật, nội dung trong ấy rất thâm sâu, bao gồm rất nhiều đạo lý tu luyện, mĩ miều không thể miêu tả bằng ngôn ngữ. ”Ngô vĩnh Khuê nói rằng trong quá trình xem diễn xuất, ông không ngừng rơi lệ, tại sao có những cảm xúc đặc biệt như thế đối với diễn xuất như vậy, thì phải bắt dầu nói từ cuộc đời của Ngô vĩnh Khuê. Mộng của bà mẹ mang thai Nhà sư Ngô Vĩnh Khuê đang tập thiền Pháp Luân Công. Trước khi Ngô vĩnh Khuê chào đời, mẹ của ông đã sinh bốn đứa con gái, vì mãi sanh con gái, đối với gia đình Hàn Quốc trong Nho giáo mà nói đây đương nhiên là một bất hạnh lớn. Thậm chí trong nhà có người lên tiếng đuổi bà ra khỏi nhà cho nên bà thường đến miếu lạy Phật, sau này thì đã mang thai. Trưóc khi sinh Ngô vĩnh Khuê, bà đã nằm mộng, trong mộng thấy Phật từ trên trời xuống cho bà một cuốn sách, lại mộng thấy một đứa bé nhảy qua nhảy lại, nhưng nhảy đến trong nước cũng không bị ngộp, nhảy đến trong lửa cũng không bị phỏng. Bà liền nghĩ nguyên nhân có thể là vì bà ta thường xuyên lạy Phật, sau này đợi đứa bé trưởng thành phải cho nó đến Miếu học hỏi. Mong đợi của tuổi thơ ấu Tại quê của Ngô vĩnh Khuê có một người già, là người hầu của Hoàng đế Cao Tông của thời đại Triều Tiên Hàn Quốc. Ngô vĩnh Khuê bái ông ta làm Sư lúc tám tuổi, theo ông ta học chữ Hán, lúc đó vị thầy này đã ngoài 70 tuổi, ông ta rất quen thuộc với cuốn sách “Cách Am Di Lục”. ( “Cách Am Di Lục” là một cuốn sách tiên tri rất nổi tiếng tại Hàn Quốc, nghe nói vào thời trung kỳ Triều Tiên một học giả chuyên về Thiên văn tên là Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, thời thiếu niên gặp một Thần nhân được bí cấp khi lên núi Kim Cương nhưng Nam Sư Cổ thông suốt thiên văn địa lý vẫn chưa lãnh hội ý sâu sắc trong đó, cho nên chỉ là dựa theo sự dặn dò của Thần nhân mà đem ghi chép xuống. Nam Sư Cổ bút hiệu Cách Am cho nên đặt tên cuốn sách là “Cách Am Di Lục”. ) Ông thầy không những truyền dạy chữ Hán, đồng thời cũng thường xuyên giảng dạy học sinh đạo lý làm người và đạo lý nhân sinh, Ông ta từng nói với Ngô vĩnh Khuê rằng: “Nếu con có thể sống đến trên 70 tuổi, thì có thể thấy được Phật Di Lặc đến trần thế truyền Chính Pháp, lúc đó thế giới này sẽ trở thành tốt. Sẽ xảy ra sự biến hóa giống như khai thiên lập địa vậy. Ta thì không đợi được đến ngày ấy lại không có con cháu rất là đáng tiếc. Nhưng con muốn sống được đến lúc ấy, thì nhất định phải làm được là mọi việc đều nghĩ đến người khác; phải hiếu thảo cha mẹ, khi xảy ra sự biến hóa khai thiên lập địa, chỉ có con có hiếu mới có thể sống sót; còn không được làm việc trái với Pháp; phải kính trọng bất cứ ai, sự thật một người thiết tha nghĩ đến người khác thì cũng là vì bản thân. ” Những lời dặn của thầy, Ngô vĩnh Khuê mãi nhớ trong lòng, vì tuân theo lời của thầy mà ông ta đã cố gắng rất nhiều, luôn thiết nghĩ đến người khác, giúp đỡ người, như giúp ngưòi khiêng đồ đạc…đã trở thành thói quen, sự việc như vậy xảy ra rất nhiều. Ngô vĩnh Khuê nói rằng, có một năm vào Tết. Chị của ông đã may một bộ áo mới cho ông, lúc ấy mẹ ông đã qua đời, gia đình cũng không khá giả. Ngô vĩnh Khuê mặc bộ áo mới ấy vào vui vẻ đi tìm bạn nhỏ, nhưng sau khi đến nhà bạn, nhìn thấy bạn đang khóc, bởi vì cha của người bạn ưa cờ bạc, sinh kế trong nhà đều dựa vào bà mẹ may quần áo cho người ta mà duy trì, rất là khó khăn. Trong mùa Tết, tuổi trẻ đều có áo mới mà bạn ông ta không có. Ngô vĩnh Khuê hay được thì trong lòng rất là khó chịu, nên ông đã đem bộ quần áo mới của mình cho người bạn nhỏ ấy, chính mình mặc lại quần áo cũ, đã bị chị của ông ta mắng một trận bởi sự việc này. Lúc ấy, trong đầu óc của Ngô vĩnh Khuê chỉ có một cách nghĩ, thì là nhất định phải đợi đến ngày Chính Pháp khai truyền. Tìm kiếm mãi mấy mươi năm Sau này Ngô vĩnh Khuê từng đến chùa, nhưng tăng nhân trong chùa lại theo đuổi tiền bạc, trong chùa không xong, lại bắt đầu đến hang núi tu luyện, đã từng sống một thời gian với một người tu Đạo. Nhưng lại phát hiện Đạo sĩ này đã tu 30 năm rồi, vẫn còn vì chút việc nhỏ nhặt mà thường xuyên bực tức, nóng giận, nên Ngô vĩnh Khuê cho rằng ở nơi như vậy tu thêm 100 năm cũng vô ích. Thời gian thấm thoát trong sự tìm kiếm thì Ngô vĩnh Khuê đã là người gần 60 tuổi. Ngô vĩnh Khuê cảm thấy phải đọc kỹ lưỡng tám vạn Đại Tạng kinh một cách có hệ thống nên đã xuất gia đi tu. Sau này thì đã vào Đại học Phật Giáo. Khi đi học Đại học Phật Giáo, lúc ấy giảng Niết Bàn Kinh (những năm cuối của Phật Thích Ca tức là kinh đã giảng trong thời sắp niết bàn). Những năm cuối của Phật Thích Ca giảng: “Tôi truyền Pháp 48 năm, những gì đã giảng đều là giả nghĩa sĩ, là vì xây nền tảng cho chân nghĩa sĩ xuất hiện trong tương lai. Từ nay bắt đầu giảng những tình huống chân chính. ” Nội dung sau đó chính là đã ghi chép trong “Kinh Niết Bàn”, đã giảng là vào thời kỳ mạt Pháp sẽ xuất hiện sự việc Chuyển Luân Thánh Vương (cũng gọi là Pháp Luân Thánh Vương). Ngô vĩnh Khuê nói, lúc ông nghe đến câu truyện này lập tức tỉnh táo. Sau này Ngô vĩnh Khuê đã đến một chùa ở Giang Nguyên Đạo (địa danh Hàn Quốc), học tập kinh sách tại nơi ấy, rồi bị giữ lại tại nơi ấy giảng kinh. Nhưng đọc kinh trong chùa chỉ học những gì ở bề ngoài, Phật kinh phải mất 20 năm mới có thể học xong thì trong vòng một năm đã giảng hết rồi, giảng bài chỉ cần nhanh chóng lật trang là được rồi. Ngô vĩnh Khuê nói: “Tâm đố kỵ và lòng tham vẫn còn rất nghiêm trọng ở trong chùa, có một tăng nhân còn ép chúng tôi ăn thịt, sau đó tôi rời khỏi nơi ấy đến nhà một người bạn. Người bạn này ở gần tại quê quán của Giang Tăng Sơn (người sáng lập Tăng Sơn Đạo tại Hàn Quốc). Làng này đại khái có 2.000 hộ, người già trong làng đều là đệ tử Giang tăng Sơn. Có một lần, Ngô vĩnh Khuê nhìn thấy một số người già đang chỉ vào một cánh đồng lúa, vỗ tay kêu lên Phật Di Lặc đã đến thế gian, tại sao chúng ta còn không hay biết? Ngô vĩnh Khuê nghe được câu nói này rất là kinh ngạc, hỏi rằng: “Ý của các vị là như thế nào? Phật Di Lặc ở đâu?” họ đã trả lời, Thời xưa ông Giang đã tiên đoán rằng khi cánh đồng cây tùng trước thôn làng trở thành vườn dâu, sau đó lại trở thành cánh đồng ruộng, thì Di Lặc Phật sẽ đến. Thời ấy ở đó vì mở đuờng sá, thật sự đã đem vườn dâu xưa ấy trở thành cánh đồng ruộng. Thời ấy là năm 1982, tôi thấy được dự ngôn này thật sự hiện ra, thì nói với bạn tôi rằng: “Hiện giờ tôi đã không cần thiết có nhà cửa, tôi phải đi tìm Di Lặc Phật”. Thì như vậy, Ngô vĩnh Khuê đã rời khỏi nhà bạn, vân du khắp nơi cả nước Đại Hàn, nhưng lại không tìm được. Sau này đột nhiên Ngô vĩnh Khuê nhớ lại một câu nói của Giang Tăng Sơn: “Đi tìm Di Lặc Phật chỉ tốn công, nếu ngồi mà tu Đức, Di Lặc Phật sẽ đến tìm các vị”, cho nên Ngô vĩnh Khuê bắt đầu định tâm lại, khắc khổ tu hành tại một chùa, giờ phút nào cũng đểu suy nghĩ làm như thế nào mới có thể làm tốt. Pháp Luân Thánh Vương đã thuật trong kinh sách Phật Giáo Bắt đầu từ năm 1988, Ngô vĩnh Khuê tập trung học tập “ Niết Bàn Kinh” vì kinh này giải thích rất khó, nhưng Ngô vĩnh Khuê có thể lý giải, nên đã giảng kinh này cho học giả và tăng nhân, nhưng người có thể hiểu rõ thì không bao nhiêu. Trong kinh này giảng “Ý trong kinh rằng không đến thời điểm ấy thì nghe không hiểu”. Trong quyển 17 giảng: “Chưa đến lúc thì đừng nên mở sách ra”, có lẽ giảng là ý như vậy. Nội dung trong kinh đều giảng: “Khi Pháp Luân Thánh Vuơng xuất hiện mới là chính Pháp. Trước đó thì không có chính Pháp”. Trong kinh sách nói: “Kinh sách của Phật Pháp Tiểu Thừa đều là vì nghênh đón Chuyển Luân Thánh Vương ra đời mà xuất hiện, ngoại trừ việc này ra thì không có một ý nghĩa khác”. Đây chính là nội dung chủ yếu nhất của “Niết Bàn Kinh”. “Niết Bàn Kinh” nói: “Từ cổ chí kim Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có một vị, Chuyển Luân Thánh Vương không xuất hiện thì không xuất hiện chính Pháp, Chuyển Luân Thánh Vương một khi xuất hiện thì đạo tặc trên thế giới sẽ huớng về Thiện”. “Niết Bàn Kinh” còn nói: “Pháp Luân Thánh Vương đang đào tạo Bồ Tát, Đại Bồ Tát, một ngày nào đó đột nhiên xuất hiện, khiến người đời chấn động kinh hoàng, đến lúc ấy tất cả đều sẽ thay đổi. ” “Bí mật Tạng” trong Phật Giáo cũng nói về câu chuyện của Chuyển Luân Thánh Vương. Cơ duyên đã đến, Ngô vĩnh Khuê nói sinh mạng của ông chính là vì chờ đợi chính Pháp, trong “Cách Am Di Lục” nói đến chính Pháp truyền ra vào năm 1993, năm 2005 truyền khắp thế giới, đừng nên mất đi cơ duyên tu Đạo này, trong thời gian phát sinh biến hóa khai thiên tịch địa, phải vượt qua được mà sống sót. Sách dự ngôn này còn nói, tương lai có thể không nhất định giống y như sách đã giảng. Phật Chủ (Di Lặc Phật) đến thế gian là Phật Chủ làm Chủ tất cả, đến lúc ấy tuyệt đối không giống như trong sách dự ngôn đã giảng. Tại vì phương pháp tu luyện hiện nay đều không thể tu thành. Vậy thì Ngô vĩnh Khuê bắt đầu vừa giảng sự lý giải của “Niết Bàn Kinh” cho người khác nghe lẫn đem soạn thành cuốn sách, vừa chờ đợi cơ duyên thuộc về chính mình. Ngô Vĩnh Khuê và Xa Pháp Liên đọc kinh sách Pháp Luân Công. Năm vừa rồi trong một đêm, Tăng ni mà cùng nhau tu hành tên Xa Pháp Liên hỏi Ngô vĩnh Khuê, đã quyết định hai ngày trước đi Hán Thành (Seoul) chưa? Tại vì nếu Ngô vĩnh khuê đi Hán Thành thì bà ta phải dậy sớm chuẩn bị cơm nước cho Ngô vĩnh Khuê, ông nói không, không cần thiết phải đi Hán Thành, rồi ông về phòng. Ông tiếp tục kể, nhưng sau khi về phòng không biết tại sao lại muốn đi Hán Thành, mãi cảm thấy hình như có điềm tốt đang chờ đợi mình. Không thể yên ổn chờ đợi tại nhà, nhưng đã bảo Tăng ni là không đi, kế hoạch đi đã hai lần thay đổi, mới vừa nói là không đi, bây giờ lại đổi ý mà nói với bà ta thì hình như ái ngại quá! Ngô vĩnh Khuê nghĩ thầm, dứt khoát sáng mai tự mình nấu mì ăn là được rồi. Đến sáng, Ngô vĩnh Khuê đến nhà bếp, nhìn thấy lão Tăng ni đã chuẩn bị xong cơm nước thì ngạc nhiên mà hỏi: “Tại sao bà chuẩn bị cơm nước?”Lão tăng ni trả lời, khi bà đang ngủ mê thì đột nhiên có một thanh niên hình dạng như học sinh trung học, một bàn tay bỏ vào trong túi quần, đứng ở ngoài gỏ cửa, mà còn rất lạ là màng cửa tại sao trở thành trong suốt vậy, có thể nhìn thấy rất là rõ rệt cảnh ở bên ngoài, bà vừa muốn đứng dậy đi mở cửa, chàng thanh niên ấy lại không thấy nửa. Xa Pháp Liên đang giấc ngủ mê man nên cũng không nghĩ quá nhiều, nằm xuống tiếp tục ngủ, nhưng sau một hồi, thanh niên ấy lại đến gõ cửa, gõ vài cái cũng như lần trước. Lão tăng ni còn chưa kịp đi mở cửa, anh ta lại không gõ nữa. Lúc này Xa Pháp Liên đã tỉnh dậy và suy nghĩ: “Có phải Ngô vĩnh Khuê phải đi Hán thành, cần mình chuẩn bị cơm nước cho ông chăng? Thôi thì đi nấu cơm”. Nguyện vọng đã tròn Ngồi trên xe lửa đến Hán Thành, Ngô vĩnh Khuê nhìn thấy một người đàn bà ngồi đối diện, trong tay cầm một cuốn sách màu vàng viền kim tuyến, trong tâm nghĩ thầm thông thường chỉ có kinh sách mới có thể làm thành như vậy, nhưng nhìn cuốn sách này lại không giống những kinh sách từ trước đã thấy, cho nên ông cong lưng xuống xem thử tên cuốn sách là gì. Khi nhìn thấy ba chữ “Chuyển Pháp Luân”, Ngô vĩnh Khuê giật mình lập tức nghĩ đến sự việc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế mà trong “Niết Bàn Kinh” đã giảng, trên thế giới này ngoại trừ Pháp Luân Thánh Vương, còn ai dám nói là đang Chuyển Pháp Luân? Rồi nói với người đàn bà ấy: “đây là một cuốn sách rất là trân quý”, Bà ấy trả lời rằng: “Lão sư phụ, ông cần xem hả?” Ngô vĩnh Khuê nói: “Đúng vậy, nhưng cuốn sách trân quý như vậy, tôi không thể nhận không, nếu như bà có thể để lại số điện thoại cho tôi gửi tiền lại cho bà”. Ngô vĩnh Khuê vội vã mở cuốn sách ra, trước tiên đọc được bài văn ngắn “Luận Ngữ” ở phần trước của “Chuyển Pháp Luân”, Ngô vĩnh Khuê nói rằng: “Sau khi đọc qua, lúc ấy kinh ngạc đến nổi đầu óc trống rỗng, Pháp lý giảng trong sách tinh thâm huyền bí như vậy, cảm giác chính mình dường như đã đuợc nguyên lý vũ trụ”. Vừa đọc xong “Luận Ngữ”, Ngô vĩnh Khuê liền gọi điên thoại cho lão tăng ni Xa Pháp Liên: “Từ nay bắt đầu không cần phải đọc “Niết Bàn Kinh” nữa, tôi tặng bà một cuốn sách vô cùng trân quý, từ nay trở đi đọc cuốn sách này là được rồi. Vừa về đến trong chùa, Ngô vĩnh Khuê liền đem cuốn sách cho Xa Pháp Liên đọc, bà vừa mở cuốn sách trang đầu nhìn thấy hình ảnh của Sư Phụ Lý Hồng Chí nói một cách kinh ngạc : “Chính là vị này sáng nay gọi tôi thức dậy”. Từ đó về sau, lão tăng ni Xa Pháp Liên cũng bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, yêu cầu nghiêm khắc chính mình chiểu theo những gì giảng trong “Chuyển Pháp Luân” mà làm theo. Xa Pháp Liên nói mãi đến gần đây, nhìn thấy được hình tượng của Sư Phụ trong lúc tịnh tọa vẫn giống như hình tượng buổi sáng ngày ấy đã nhìn thấy, rất là trẻ, giống như một học sinh trung học, một bàn tay bỏ vào trong túi quần. Ngô vĩnh Khuê thì nói: “Hiện giờ đọc [Hồng Ngâm] của Sư Phụ (một cuốn kinh sách trong Pháp Luân Đại Pháp), nước mắt thì không ngừng rơi, trong đầu óc của tôi hiện giờ nghĩ đến là làm thế nào để Pháp này cho càng nhiều người biết đến, chỉ có duy nhât cách nghĩ này”. Trong lúc xem diễn xuất của đoàn nghệ thuật Thần vận Mỹ Quốc, Ngô vĩnh Khuê nói rằng, ông càng biết được một cách xác thực ý nghĩa sâu xa sự chờ đợi của cả một đời. Nguon: Vi phạm nội quy
  5. Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vương Tác giả: Vương Tĩnh Văn Để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn thứ khổ; để tu luyện hoàn nghiệp, bà đã lưu lại truyền kỳ, nhiều phen thập tử nhất sinh, tựa như tái hiện Phật Milarepa thuở xưa. Hoa Ưu Đàm Bà La ghi lại trong kinh Phật đã khai nở, chính là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân; câu chuyện của Thích Chứng Thông thật đáng để chúng ta suy ngẫm. Câu chuyện này bắt đầu từ một tai nạn xe hơi tại Cao Hùng, Đài Loan vào tháng 6 năm 2002. Hôm ấy trên phố người đi lại đông đúc, một chiếc xe gắn máy màu tím đang chạy trên đường, thì đột nhiên một chiếc xe hơi màu xám từ bên trái cấp tốc quẹo phải, trong chớp mắt đã đụng vào chiếc xe gắn máy, cả chiếc xe hơi đè lên người lái xe gắn máy. Khi ấy hai tiểu thư trên xe sợ quá: đây chẳng phải cán chết người hay sao? Hai người lập tức xuống xe, chỉ thấy một nữ tăng nhân tầm 40, 50 tuổi đang gắng sức ngọ nguậy để đứng dậy. Hai cô gái sợ quá, một cô hỏi: “Thưa bà, bà không sao chứ?” Không thấy đối phương đáp lại. Chỉ thấy tăng nhân hai mắt nhắm chặt, mỗi cử động đều khiến toàn thân run rẩy. Một lúc lâu sau, bà mới mở mắt ra, gắng sức dùng tay ra hiệu một cách điềm tĩnh, có ý bảo đẩy giùm xe gắn máy lại. Sau đó, một cách rất khó khăn, bà lấy ra hai tờ truyền đơn từ ba lô đưa cho hai cô gái, đồng thời ra hiệu cho họ đi. Hai vị cô nương rất mừng vì tự mình đã chứng kiến kỳ tích, gặp được một ni cô câm mà hảo tâm. Đợi hai cô đi rồi, người ta mới thấy nữ tăng nhân cật lực bò lên xe gắn máy, chầm chậm lái đi. Vị nữ tăng nhân này chính là pháp sư Thích Chứng Thông, năm nay gần 70 tuổi. Những ai hiểu được bà đều không khỏi cảm thán trước truyền kỳ về trải nghiệm thập tử nhất sinh của bà; để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn vàn thứ khổ; có người đem trải nghiệm của bà ví như tái hiện cố sự Phật Milarepa năm xưa. Vâng mệnh cha kết hôn, sinh con vẫn không giảm nguyện vong xuất gia Thích Chứng Thông sinh ra tại một thôn làng nhỏ nghèo khó tại xã Lý Cảng, huyện Bình Đông, thuộc miền Nam Đài Loan. Bà từ nhỏ đã không thích chốn náo nhiệt, sau khi tan học thường đến một ngôi chùa ở gần đó, lặng lẽ ngồi tọa dưới gốc cây. Các nhà sư trong chùa hỏi bà có muốn xuất gia không, bà thành thực gật đầu. Năm hơn bốn tuổi, một hộ trong thôn làm đám cưới con, người cả thôn đều đi uống rượu cưới, bà hỏi nhỏ phụ thân: “Vì sao phải kết hôn vậy cha? Con lớn lên sẽ không như người này đâu”. Vì bà bẩm sinh tính vừa lanh lợi vừa giản dị, nên từ năm 15 tuổi đã bắt đầu có người đến xin kết thông gia không ngớt, nhưng đều bị bà cự tuyệt. Tuy nhiên năm 21 tuổi, anh trai thầy giáo bà và phụ thân bà đi xa buôn bán cùng nhau, khi trở về đã định chuyện cưới xin, do vậy bà xuất giá. Nháy mắt đã hai chục năm trôi qua, bà kinh doanh một công ty gia đình xuất khẩu thương mại. Bất chấp sự nghiệp phát đạt, được chồng quan tâm, hai trai một gái hiếu thuận, tất cả dường như không đem lại hạnh phúc thật sự cho bà. Bà thường khóc một mình, nước mắt đẫm hai má. Sau khi sắp xếp xử lý công việc bận rộn, bà đều ngồi xếp bằng trên ghế dựa, cung kính lấy ra kinh thư cất trong ngăn kéo rồi nghiêm túc đọc. Cảm thấy đời người ngắn ngủi, vạn sự vô thường, nguyện vọng xuất gia của bà càng ngày càng mạnh mẽ. Nhất tâm hướng Phật đợi cơ duyên, cuối cùng cạo đầu đi tu Hồi ấy Thích Chứng Thông mỗi ngày đều đả tọa vào sáng sớm, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng. Thực ra bà từ bé đã khai mở thiên mục, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ dị, chỉ là bà cho rằng ai ai cũng đều nhìn thấy như thế nên không đi nói với ai. Thời thơ ấu bà nhìn thấy vạn sự vạn vật đều đang sống, mỗi lần qua cầu, bà đều nói với cây cầu: “Xin lỗi, phiền cho ta qua nhé”. Nhìn thấy hoa cỏ cây cối, bà đều chào và hỏi thăm. Có một lần vào buổi sớm một hôm nọ, bà ngồi đả tọa tại công ty và nhìn thấy đủ loại cá xếp thành hàng ngũ đang bơi qua, miệng đều ngoảnh về phía bà như đang kể lại điều gì. Bà thấy rất kỳ quái, mới hỏi một đồng nghiệp thích câu cá trong công ty: “Hôm qua anh đi đâu?” Người kia nghe xong đáp ngay: “Á! Chị biết rồi à! Không phải tôi làm đâu, tôi chỉ là chạy xe chở họ đi bắt cá thôi; họ dùng điện, đem bắt tất cả cá lên”. Bà nghe xong hai hàng nước mắt chảy dài. Vừa mới học lái xe, một lần bà đột nhiên nhìn thấy xe huấn luyện viên biến thành rộng rãi phi thường, xuất hiện một cảnh tượng Phật quốc thù thắng trang nghiêm. Nguyên là trên xe huấn luyện viên mới treo một tấm bùa hình Phật khoảng hai tấc. Còn có một lần, bà từ phòng làm việc công ty đi tới nhà xưởng, đột nhiên nghe thấy “bang” một tiếng, chỉ thấy trên không trung nở ra một đóa hoa sen rất lớn. Bà thực sự cảm thấy tồn tại chân thật của thế giới Phật quốc, kinh Phật nói chẳng sai. Sống giữa dòng thế tục thấm đẫm danh lợi tình, bà cảm thấy như bị giày vò ngày qua ngày. Khi ấy bà đã thụ “Bồ Tát giới tại gia”, đây đã là giới luật tối cao của cư sĩ không xuất gia, sau nữa là phải tu xuất gia. Khi ở bên các con, bà thường kể chuyện Phật giáo cho chúng nghe, lại nói với chúng rằng một ngày nào đó mẹ của chúng sẽ ly khai thế tục, xuất gia tu hành. Bà nhất tâm hướng Phật, đến năm hơn 40 tuổi, cơ duyên cuối cùng đã chín muồi, người nhà của bà không nhẫn tâm lại để bà tiếp tục chịu giày vò nữa, đều đồng ý để bà xuất gia. Sau 40 năm chờ đợi đằng đẵng trong khổ sở, bà đã hoàn thành nhân duyên thế tục; bà cạo đầu trở thành một vị ni cô, pháp hiệu Thích Chứng Thông. Làm trụ trì xây tinh xá, hành hương sang Tây Tạng suýt mất mạng Đài Loan bảo lưu truyền thống văn hóa kính Thần của Trung Hoa, bởi vậy người ta đều tôn kính phi thường với người xuất gia, và các cư sĩ cũng cực lực cung dưỡng tăng nhân. Xuất gia không lâu, Thích Chứng Thông đã trở thành trụ trì của ngôi chùa. Sau đó dưới sự khẩn cầu của cư sĩ, bà xây dựng một miếu thờ (tinh xá) trên núi hoang. “Khai phá núi rất khổ cực, làm cỏ san đất, tất cả đều tự mình làm. Một ngày tôi một mình làm đến nửa đêm, đột nhiên một con rắn độc, loại bách bộ xà bò tới, dừng trước mặt tôi. Tôi bảo nó quy y theo Phật, để nó đi thật xa, không được hại người, cũng không bị người làm hại. Nó nghe xong thuận theo gác thang mà bò đi”. Cũng như vậy, để khiến thật nhiều người hữu duyên tiếp xúc Phật Pháp, pháp sư Thích Chứng Thông trước sau đã xây ba tinh xá tại ba chỗ trên ngọn núi hoang. Để tìm kiếm chân lý nhân sinh, khi đảm nhiệm chức trụ trì, Thích Chứng Thông còn nhiều lần thăm viếng danh sơn thắng địa để truy tìm dấu vết của Đại Giác Giả. Bà đã từng qua Tây Tạng, Himalaya, Trường Giang, thượng nguồn Hoàng Hà, núi Côn Lôn, Nepal và Ấn Độ. Hành hương là rất khổ sở. Đường đi đều là nơi hoang dã, hoang mạc hoặc bãi sông, khi ăn cơm chỉ có thể đào một cái hố trên mặt đất để đun nước, sinh hoạt gian khổ phi thường. Khi đến Tây Tạng, do không khí loãng, Thích Chứng Thông bắt đầu xuất hiện phản ứng cao nguyên, cộng thêm gánh nặng chịu thống khổ cho một vị nữ cư sĩ đi cùng, kết quả tâm tạng chịu không nổi, suýt nữa mất mạng. Tâm không thoái thác, cầm bát vân du, khổ tìm đường trở về Tuy nhiên sau khi tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và nỗ lực, Thích Chứng Thông vẫn không thu hoạch được gì mấy sau nhiều chuyến hành hương, “trong tâm không có cảm giác chắc chắn, đối với tu luyện lên tầng thứ cao như thế nào vẫn y nguyên không minh bạch. Đặc biệt là nhiều người bám theo tôi, khiến tôi cảm thấy rất hoảng hốt. Ngay cả tôi cũng không biết viên mãn như thế nào, thì làm sao giúp được họ đây?” Để có trách nhiệm với người ta, Thích Chứng Thông kiên quyết ly khai đạo trường truyền thống, lựa chọn “chân trần cầm bát vân du”, phương thức truy tìm Phật Pháp thuần khiết nhất và cũng là khổ nhất của thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính như bà viết trong một bài thơ: “Một bát cơm nghìn nhà, Cô tăng vạn lý du, Chỉ để thoát sinh tử, Hóa độ khắp xuân thu”. Cầm bát vân du là phi thường gian nan. Ly khai tinh xá, một chút nguồn sinh hoạt cũng không có, quần áo, lương thực, nơi ở, thảy đều không có, hỏi sống làm sao đây? Đặc biệt trong xã hội hiện đại không có tôn trọng đối với tăng nhân như thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, để từ nhà người ta xin một chút cơm ăn, phải chịu các loại nhạo báng, nhục mạ, vũ nhục và bất lý giải, “đến đâu cũng thấy mỗi người một vẻ, có một nụ cười thiện tâm đối với tôi là một niềm cổ vũ lớn lao”. Tuy nhiên hết thảy đều không ngăn được niềm tin hướng về chân lý Phật Pháp của Thích Chứng Thông. Mỗi ngày Thích Chứng Thông đều mang theo một cái ô, hành lý, túi ngủ, v.v. chân trần bước đi, liên tục không ngừng. Hai chân rất nhanh cọ sát đến mọc bóng nước, gan bàn chân tróc da, chảy cả máu, nhưng bà vẫn tiếp tục đi. “Khi bước đi trên đường nhựa rất bỏng, dẫm nhầm hòn đá trên đường, chân đau buốt đến tận tim. Tôi từng ngủ cạnh ngôi mộ, ngủ ngoài trời dưới gốc cây, ma nạn mà thân tâm phải chịu đựng là không cách nào biểu đạt. Tôi chỉ mong tìm được một con đường phản bổn quy chân, tìm được một vị sư phụ chân chính dẫn tôi trở về nhà”. Thích Chứng Thông vô cùng khiêm tốn nội tâm, bà không nguyện ý nói ra nỗi khổ mà mình phải chịu, rất nhiều người ngoài coi là sự việc kinh thiên động địa, nhưng đối với bà đó chỉ là một hai câu ngắn ngủi mà bà kể lại mà thôi. Thân tâm bên bờ tuyệt vọng, may gặp được Đại Pháp Tuy nhiên vân du cũng không thể khiến Thích Chứng Thông đã hơn 50 tuổi tìm thấy chân Pháp chân Đạo, trái lại thân thể với bao bệnh tật thời niên thiếu, lại chịu bao đau khổ dằn vặt khi vân du khắp trong và ngoài nước, kết quả bách bệnh triền thân. “Phàm là những bệnh mà bệnh viện có thể kể tên ra, thì tôi đều có gần hết, đặc biệt là bệnh tim, bệnh dạ dày, bệnh thận, đau nhức kinh lạc, vẹo lệch sống eo, trật khớp cột sống, v.v. có rất nhiều”. Các bệnh trên thân thể, cộng thêm tâm bệnh tìm không thấy chân lý, trong ngoài đều khốn đốn, khiến Thích Chứng Thông gần như tuyệt vọng, đặc biệt là sau năm 1992. “Trước kia tôi xem kinh thư, thấy đằng sau đều có nội hàm. Tôi có thể nhìn thấy chư Phật Bồ Tát, các chủng cảnh tượng thiên đường; tuy nhiên từ sau năm 1992, chúng đều biến mất. Điều này khiến tôi cảm thấy rất kỳ quái, cũng rất tuyệt vọng. Kinh Phật là dùng để độ nhân, nhưng hiện tại Pháp thân của Phật đã ly khai nhân gian rồi, rốt cuộc đã phát sinh sự việc gì?” Mãi tới một ngày đầu năm 1998, một vị bác sĩ y thuật cao minh tặng bà một bản «Chuyển Pháp Luân». “Tuy khi ấy tôi còn chưa biết đây là cuốn sách gì, nhưng trước khi mở, hai tay tôi giương cuốn sách lên quá đỉnh đầu, rồi mới mở ra. Vừa nhìn thấy ảnh Sư phụ, nước mắt tôi bỗng chốc tuôn rơi, không biết là vì sao. Tôi hình như đã sáng tỏ thân phận, lai lịch của Sư phụ; tôi biết tôi cuối cùng đã tìm thấy Sư phụ chân chính rồi. Khi ấy nước mắt tôi cũng như những hột trân châu, nhỏ xuống từng giọt”. “Đoạn thời gian ấy nước mắt tôi tựa hồ không ngừng tuôn rơi. Khi tôi nhìn thấy lần đầu học viên luyện công đả thủ ấn, nước mắt tôi chỉ là không ngừng nhỏ xuống, cảm giác phi thường thân thiết. Lần đầu tiên luyện công, tôi đã nghe thấy huyệt dũng tuyền ở hai chân tách mở ‘păng’ một cái, tôi thực sự thể nghiệm được cảm giác ‘trăm mạch đồng thời vận chuyển’. Toàn bộ cơ thể tôi rất nhanh ở trong trạng thái thoát thai hoán cốt, các loại bệnh đều tiêu mất sạch”. Thích Chứng Thông kể, khi ấy bà mới minh bạch, Sư phụ Lý Hồng Chí là đang chân chính cứu người. Thảo nào hồi năm 1992 xem kinh thư Phật giáo, phát hiện thấy không có nội hàm nào đằng sau, bởi vì Sư phụ đã bắt đầu truyền Đại Pháp rồi, chúng Thần đều rời đi rồi. “Sư phụ dùng toàn ngôn ngữ thiển bạch nhất của nhân loại, mà đem đạo lý cao thâm ra giảng xuất lai. Ví như nói, trong Phật giáo có các chủng giải thích đối với Phật, nhưng Sư phụ giảng: Người tu luyện giác ngộ rồi được gọi là ‘Phật’, chỉ một câu mà đã bao hàm nội dung hàng vạn quyển kinh thư. Lại ví như tu luyện rốt cuộc là gì, Sư phụ giảng, tu luyện chính là quá trình không ngừng tống khứ tâm chấp trước của con người; đây đều là đạo lý mà chúng tôi tu Phật mấy chục năm qua vẫn chưa minh bạch, Sư phụ chỉ một câu đã chỉ rõ ra rồi”. Đại Pháp tựa như chiếc xe tốc hành, khiến con người viên mãn nhanh nhất “Tháng 8 năm 1998, tôi may mắn được gặp Sư phụ sau Pháp hội Singapore, khi ấy tôi hỏi Sư tôn: ‘Con trước đây đã là đệ tử của Phật, hiện nay vẫn là đệ tử của Phật, xin hỏi con có thích hợp tham gia hoạt động Đại Pháp hay không?’ Sư tôn sau khi khai thị một đoạn Pháp lý, nói có thể tu”. Từ đó, Thích Chứng Thông đem toàn thân tâm đặt vào tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, lại nghĩ đem lịch trình muôn vàn khổ sở tìm kiếm chân lý của mình cho nhiều người hơn nữa biết. Bà trước tiên tìm những người xuất gia và cư sĩ mà bà biết trước đây, thế nhưng trong số họ không ít người không thể lý giải. Có người nói bà phản bội sư môn, có người phản đối bà mặc y phục người xuất gia để đi hồng truyền Pháp Luân Công, thậm chí có người nửa đêm gọi điện thoại quấy nhiễu bà. Thích Chứng Thông lúc này mới minh bạch, vì sao lần đầu tiên gặp được Sư phụ, trong tâm bà vang lên câu: “Chư vị đang hô khẩu hiệu, luôn miệng nói phải tu luyện, nhưng thực sự khi đến lúc, chư vị lại không đến đắc chân Pháp”. Tuy nhiên bà cũng không vì vậy mà chán nản, bởi vì có rất nhiều người hữu duyên đang đợi ngoài chùa chiền. Thế là bà đến đâu cũng giới thiệu Pháp Luân Công với người ta, dạy người luyện công học Pháp, giúp thành lập điểm luyện công mới. Một lần tại lớp dạy Pháp Luân Công cho các giáo viên Đài Loan, bà giới thiệu với các giáo viên ở dưới bục: “Tôi nguyên là tu luyện Phật giáo, nhưng tôi đến muộn rồi; tôi không bắt kịp truyền pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ bắt kịp thời kỳ mạt pháp. Nhưng tôi rất có may mắn, lỡ mất dịp này, nhưng lại gắng sức lên được chiếc xe tốc hành; tuy rằng cất bước chậm, nhưng tôi đã đạt mục đích, Pháp Luân Công tựa như chiếc xe tốc hành ấy, có thể khiến con người viên mãn mau lẹ nhất”. Về không ít người trước đây từng học qua pháp môn khác mà nay không dám luyện Pháp Luân Công vì sợ sư phụ cũ không vui, Thích Chứng Thông nói: “Cũng giống như chúng ta đi học, từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, nghiên cứu sinh, đến tiến sĩ, thầy giáo trước đây của chúng ta không chỉ vì chúng ta nhận thầy giáo khác mà không cao hứng, chỉ cần chúng ta đề cao lên, thì sư phụ trước đây của chúng ta càng cao hứng”. Nhẫn chịu trọng thương tông xe, luyện công hồng Pháp giảng chân tướng Trong khi giúp nhiều người hơn nữa liễu giải Pháp Luân Công, Thích Chứng Thông trước sau bị 5 lần xe hơi đâm rất nghiêm trọng, đúng là thập tử nhất sinh. Sáng sớm một ngày năm 1999, trời còn chưa sáng, bà đã lái xe máy tham gia điểm luyện công buổi sáng sớm và bị một kẻ say rượu đâm trúng. Lúc ấy xương cánh tay trái của bà bị đâm gẫy, mạch máu bị vỡ, toàn bộ cánh tay biến thành tím đen, lại sưng phù lên. Khi kẻ say rượu tỉnh lại, anh ta hét lên: “Thật xin lỗi, để tôi đưa bà đi bệnh viện nhé, nếu không chị gái tôi mắng chết tôi”. Nhưng Thích Chứng Thông từ từ bò dậy khỏi mặt đất, nói mình không hề gì và để anh ta đi. Bà leo lên xe gắn máy đến điểm luyện công, nhưng không nói với ai về sự việc tông xe, mà nhẫn nhịu đau đớn do gãy xương và luyện công cùng đám đông. Sau khi đồng tu phát hiện ra, họ vô cùng kính phục lực nhẫn nại của bà. Hơn một tháng sau, trong tình huống không có trị liệu nào, đoạn xương gẫy của bà đã liền lại, so với trị liệu của bệnh viện còn nhanh hơn. Sau đó một người trong giới y học hiểu biết sự việc nói: “Theo phân tích hiện trường, xương sườn của bà khẳng định đã bị đâm gẫy, không tin cứ hỏi bà”. Thích Chứng Thông cười, nói: “Đúng vậy, gẫy rồi, người ta không nhìn thấy, tôi cũng không nói nữa”. Cũng như vậy, bằng nghị lực siêu thường, Thích Chứng Thông đã vượt qua mấy ma nạn nữa, và trong mắt bà, những tai nạn đụng xe này đều là hoàn trả nghiệp lực còn thiếu trong quá khứ, chịu khổ có thể tiêu nghiệp. Có một lần đụng xe, ngón tay ở tay phải của bà bị đâm quẹo ngược ra đằng sau, nhưng bà nhẫn chịu đau đớn, tự mình bẻ ngón tay quặt trở lại. Tuy nhiên do dây chằng bị kéo đứt, tới hiện tại ngón tay bà có lúc vẫn còn đau. Trở lại sự kiện Thích Chứng Thông bị xe hơi chèn lên toàn thân như cối xay. Kỳ thực khi ấy bà bị nội thương nghiêm trọng, phần thân trên, tim và phổi đều đau buốt. “Lúc ấy trong tâm tôi chỉ nghĩ tới một sự việc, tôi phải đuổi kịp tàu hỏa và tham gia hội đọc sách, các ý niệm khác đều không có nữa”. Lúc bấy giờ bà đau đến mức không mở mắt ra được, nói không ra lời, người khác lại cho rằng bà bị câm. Hôm ấy bà nhẫn chịu đau đớn để bắt kịp xe lửa, ngồi trên xe lửa ba tiếng đồng hồ, đến miền Trung tham gia học Pháp tập thể cứ cách một ngày. Tối hôm đó xách hành lý lên lầu, đau đến mức ngủ không nổi, cũng không còn sức lực để mà nằm xuống nữa. Đau đớn dữ dội, mỗi phút mỗi giây đều như vậy, nhưng không để người khác biết. Sáu ngày sau, bà nhẫn chịu đau đớn đi sang Nga là nơi thủ lĩnh Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân viếng thăm, cùng cộng đồng học viên Pháp Luân Công kêu gọi chấm dứt bức hại. Trong bốn ngày bốn đêm, bà liên tục lấy từ bi hồng đại và phát xuất ý niệm cường đại với hy vọng quy chính bầu không khí chính-tà. Sau đó, bà cùng đồng tu tới Iceland và đả tọa phát chính niệm trên một sườn núi nhỏ; mỗi tế bào của Thích Chứng Thông đều vật lộn trong đau đớn, thế nhưng bà vẫn kiên trì giữ vững. Buổi tối trước khi trở về Đài Loan, Thích Chứng Thông cảm thấy bản thân đang ở trong trạng thái hấp hối. Bà tĩnh tĩnh ngồi dậy đả tọa, vừa nhẫn chịu vừa nghe tiếng các bạn cùng phòng thảo luận, cuối cùng rơi vào giấc ngủ. Hôm sau tỉnh dậy, bà cảm thấy mình đã sống lại rồi. Đối với lần khảo nghiệm sinh-tử này, Thích Chứng Thông vẫn đối đãi bình thản như mọi ngày. Ưu Đàm Bà La hoa khai, Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân Theo kinh Phật ghi lại: Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên. Thích Chứng Thông nói: “Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ảnh Sư tôn, bỗng chốc nước mắt tôi tuôn rơi, không hiểu vì sao, trong nội tâm hình như đã sáng tỏ về thân phận và lai lịch của Sư tôn. Mãi tới hai năm sau, khi tôi lần đầu tiên xem băng hình giảng Pháp của Sư tôn tại Bắc Kinh năm 1996, xem đến đoạn giảng Pháp về Phật Di Lặc chuyển thế, mới minh bạch ra: Sư tôn chính là Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế, cũng là Phật Di Lặc tái sinh”. Tới năm 2008, khi Thích Chứng Thông tận mắt nhìn thấy hoa Ưu Đàm Bà La, bà lại càng minh bạch hơn nữa về sự việc này. Về hoa Ưu Đàm Bà La, quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» viết: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Quyển 8 kinh «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn cổ. Đúng Phạn ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là Thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này.” «Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh» cũng nói: “Bấy giờ Chuyển Luân Vương dũng mãnh nói: ‘Kim Luân này đúng là vật báu báo điềm lành của Ta, Ta hiện nay đúng là Chuyển Luân Thánh Vương’”. Trên thực tế, ngay từ đầu năm 2005, người ta đã phát hiện khoảng chục đóa hoa Ưu Đàm Bà La mọc trên tượng Bồ Tát trong thiền viện Tu Di Sơn ở Hàn Quốc. Sau đó, các nơi trên thế giới liên tục xuất hiện loại hoa mang điềm lành này. Thân hoa Ưu Đàm Bà La mỏng như sợi tơ tằm, sắc hoa trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có bông còn phát xuất hương thơm thoang thoảng. Điều đặc biệt nhất là loài hoa này có thể mọc trên bất kỳ vật dẫn nào, cho dù là tượng đồng, sắt thép, thủy tinh, hay là keo dán, trái cây, thực vật, v.v. Bất kể nóng lạnh thế nào, bất kể nơi chốn nào, đều có thể khai nở. Hoa Ưu Đàm Bà La được phát hiện mọc trên kính lớp học ở trường tiểu học Dân Hùng Quốc tại Gia Nghĩa, Đài Loan. (Ảnh: Tô Thái An/Đại Kỷ Nguyên) “Sau này tôi mới minh bạch ra, Phật Tổ nói năm mươi ức năm sau Phật Di Lặc hạ thế, đối ứng với nhân gian chính là ngày hôm nay, bởi vì không gian khác nhau có khái niệm thời gian khác nhau. Trải qua hơn 10 năm tu Đại Pháp, tôi ngày càng kiên tín, Sư tôn là đến phổ độ chúng sinh”. Tại hội trường cuộc thi Piano do Đài truyền hình Tân Đường Nhân tổ chức—ở Đại học Đài Nam, bên ngoài bức tường nhẵn bóng của thính phòng âm nhạc, Thích Chứng Thông đã tận mắt chứng kiến hoa Ưu Đàm Bà La. Điều này khiến bà càng minh bạch rằng Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế truyền Pháp phổ độ chúng sinh, con người có thể không ly khai thế tục mà tu thành Như Lai. Hồi tưởng lại hơn 10 năm tu luyện trong Đại Pháp, Thích Chứng Thông cảm thán nói: “Tôi có dùng hết ngôn ngữ của nhân loại cũng không cách nào biểu đạt được cảm ân và tôn kính của mình đối với Sư tôn. Càng tu càng thấy Đại Pháp vô biên, không lời biểu đạt, càng tu càng thấy bản thân còn thua xa yêu cầu của Sư tôn. Vào ngày sinh nhật của Sư tôn 13 tháng 5, tôi xin dùng bài thơ dưới đây để biểu đạt lòng cảm kích của tôi: ‘Khi Phật tại thế ta đắc Pháp, Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm, Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận, Được thấy chân Phật thân vàng kim’”.
  6. Cảm ơn bác TrieuVan! Chúc bác mọi điều tốt lành!
  7. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 6) Nước chảy và nước tĩnh Tác giả: Ngọc Mính [Chanhkien.org] Đặc tính của nước phụ thuộc vào nguồn nước. Người ta biết rất rõ về nước vào thời Trung Quốc cổ đại. Một thành ngữ thường được sử dụng là “Kính Vị phân minh” (nước sông Kính và sông Vị là hoàn toàn khác nhau). Người ta cũng nói rằng rất dễ để xác định nguồn nước tại ngã ba sông Kính và sông Vị. Nước từ sông Kính thì nhiều bùn, trong khi nước từ sông Vị thì rất trong. Mặc dù nước của hai con sông bị trộn lẫn vào nhau, ranh giới giữa chúng lại thật rõ ràng. Những người lữ hành trên sông Dương Tử (Trường Giang) sẽ thấy sự phân biệt trong màu nước tại một số nơi mà nước hồ hòa vào nước sông Dương Tử. Nước khác nhau không dễ trộn lẫn với nhau. Cuốn sách Cảnh Thế Thông Ngôn có kể lại cố sự về hai nhà văn nổi tiếng, Vương An Thạch [1] và Tô Đông Pha [2]. Vương An Thạch bị chứng sổ mũi, và uống trà được pha với nước sông Trường Giang tại vùng Trung Hiệp sẽ rất tốt cho sức khỏe của ông. Khi Vương An Thạch nghe nói rằng Tô Đông Pha sẽ trở về Tứ Xuyên để thăm gia đình, ông đã nhờ Tô Đông Pha mang về một ít nước ở đó. Khi Tô Đông Pha trở lại, ông đã mang về cho Vương An Thạch một chút nước. Vương An Thạch ngay lập tức đun sôi nước này và đem pha trà. Mất một lúc trà mới ngấm vào nước. Vương An Thạch hỏi Tô Đông Pha: “Đây có phải nước từ Trung Hiệp hay không?” Tô Đông Pha trả lời: “Sao thế, à. Tất nhiên là như vậy rồi.” Vương An Thạch cười nói: “Ông nói dối. Rõ ràng nó là nước từ Hạ Hiệp.” Tô Đông Pha sững sờ và phải thú nhận ngay. “Tôi đã tận hưởng phong cảnh tại Tam Hiệp nhiều đến mức quên mất lời nhờ vả của ông. Đến khi tới Hạ Hiệp thì tôi mới nhớ ra.” Ông đã quyết định lấy một ít nước ở đó và nghĩ rằng sẽ không có sự khác biệt nào. Vương An Thạch nói: “Trong cuốn Sơn Thủy Kinh Chú có ghi chép những quan sát kỹ lưỡng về đặc điểm của nước sông Trường Giang. Nước tại Thượng Hiệp chảy quá nhanh, còn nước tại Hạ Hiệp lại chảy quá chậm. Nước tại Trung Hiệp chảy vừa phải. Bệnh của tôi là do ‘trung tiêu’, và do đó cần nước sông tại Trung Hiệp để mở kinh mạch. Nước sông Dương Tử mà pha trà thì nước ở Thượng Hiệp làm trà bị nồng, nước ở Hạ Hiệp làm trà bị nhạt, nước ở Trung Hiệp là vừa phải. Hôm nay trà ngấm vào nước rất chậm, cho nên tôi biết đây là nước từ Hạ Hiệp.” Tô Đông Pha bèn tạ tội. Nói về cách pha trà, người xưa hiểu rõ về sự khác nhau giữa nước chảy và nước tĩnh. Trong cuốn sách Trà Kinh, tác giả cho rằng nước pha trà phải lấy từ “sơn thủy thượng, giang thủy trung, tỉnh thủy hạ” (trên núi cao, khúc giữa sông và dưới đáy giếng). Ngoài ra, cuốn sách cũng nói rằng nước lấy từ trên núi phải chảy chậm, và nước chảy xiết không thể sử dụng được. Nói cách khác, nước chảy chậm sẽ cho thứ trà ngon. Lại nói về nước chảy và nước tĩnh, Tôn Tư Mạc [3] trong cuốn sách Thiên Kim Phương cho rằng nước chảy nên được dùng để hấp nhân sâm, trong khi nước tĩnh không thể được dùng với mục đích này. Dùng đúng thuốc là một vấn đề then chốt vì nó liên quan đến tính mệnh; và đôi khi, những thứ tưởng chừng vặt vãnh như chất lượng nước lại có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Nước chảy và nước tĩnh do vậy nên được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Trong cuốn sách Mộng Khê Bút Đàm, tác giả cho rằng một số loài cá chỉ có thể sống trong nước tĩnh và chúng sẽ chết nếu bị thả ra sông. Sách này cũng nói rằng một loại cá chép có thể sống cả trong nước chảy và nước tĩnh, nhưng những con sống nơi nước chảy mang dấu trắng trên lưng và có mùi vị thơm ngon; còn những con sống nơi nước tĩnh mang dấu đen trên lưng và mùi vị rất chán. Ghi chú của người dịch: [1] Vương An Thạch (王安石; 18/12/1021 – 21/5/1086), tự Giới Phủ (介甫), hiệu Bán Sơn Lão Nhân (半山老人), người ở Phủ Châu – Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc. [2] Tô Thức (苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống. [3] Tôn Tư Mạc: (孙思邈, 581-682) Một danh y đời nhà Đường, là người tu Đạo nên thường được gọi là Tôn chân nhân. Người đời sau tôn ông là Dược Vương.
  8. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 5) Ấn tượng từ nước suối Tác giả: Lạc Già [Chanhkien.org] Ngày càng có nhiều người đã từng nghe nói đến thí nghiệm về sự kết tinh của nước được tiến hành tại Nhật Bản. Trong cuốn sách Thông điệp của nước, bộ sưu tập hai phần về các bức ảnh từ cuộc thí nghiệm, một số bức ảnh về [tinh thể] nước suối đã thu hút sự chú ý của tôi. Hình 1: Tinh thể nước được lấy từ suối Tam Phân. Bức ảnh trên cho thấy một tinh thể nước suối Tam Phân (Hình 1). Suối Tam Phân nằm tại quận Kita Mikoma, tỉnh Yamanashi ở Nhật Bản. Suối này phân thành ba nhánh tại một điểm, và do đó được gọi là suối ‘Tam Phân’. Cũng có ba nhánh tại mỗi cánh của tinh thể nước. Hình 2: Tinh thể nước suối Dingdong tại một cái hang ở thôn Tenkawa, quận Yoshino, tỉnh Nara. Hình 2 minh họa tinh thể nước của suối Dingdong tại một cái hang ở thôn Tenkawa, quận Yoshino, tỉnh Nara. Con suối nổi tiếng này chảy ra từ miệng của một cái hang trên núi và tạo thành tiếng “Ding Dong Ding Dong” nghe giống như âm thanh của một chiếc chuông. Từ hình dạng tinh thể nước, chúng ta có thể hình dung được hang động bí ẩn và âm thanh trong trẻo của chiếc chuông. Hình 3: Tinh thể nước được lấy từ một con suối nằm trên núi ở độ cao 500-700 mét tại Hiroshima. Bức hình trên mô tả nước của một con suối nằm trên núi ở độ cao 500-700 mét tại Hiroshima. Chúng ta có thể thấy được nguồn nước và môi trường hình thành nên tinh thể mà không cần phải biết con suối thực sự nằm tại đâu. Hình 4 Hình 5 Hình 4: Tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Kanagawa. Hình 5: Tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Hiroshima. Ở trên là hình ảnh tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Kanagawa và suối Hoằng Pháp tại Hiroshima theo thứ tự. Mặc dù hai thành phố này cách nhau khá xa, tinh thể nước từ hai con suối này lại giống nhau một cách đáng kinh ngạc. Liệu chúng có sự tương thông với nhau bằng cách nào đó? Truyền thuyết kể rằng vào 1.200 năm trước đây, một hòa thượng Phật giáo, Hoằng Pháp đại sư tại Nhật Bản đã đi vân du khắp nơi để dạy cách tu luyện. Tại một nơi, nhiều người phải chịu một căn bệnh lạ. Hoằng Pháp đại sư đã phá vỡ một hòn đá và một con suối đã chảy ra từ đó. Nước con suối này có khả năng trị bệnh. Sau đó, cùng với chuyến hành trình đi khắp nơi của ông, nhiều con suối đã được đả khai. Chúng đều được đặt theo tên của ông. Từ những hình ảnh này, chúng ta có thể thấy rằng tinh thể của một giọt nước phản ánh toàn bộ hình thể của con suối, nguồn nước và hoàn cảnh xung quanh nó. Nước cũng giống như một hình chiếu ba chiều. Những người có hiểu biết về hình ảnh laser biết rằng bất cứ phần nhỏ nào của hình chiếu ba chiều cũng đều phản ánh chỉnh thể của hình ảnh ấy. Điều này dường như cũng đúng với những tinh thể nước ở trên. Những thông điệp như vậy có thể được lưu giữ trong bao lâu? Liệu nó có thay đổi theo thời gian hay sự biến đổi của môi trường? Những câu hỏi này đáng để chúng ta tìm hiểu thêm trong tương lai.
  9. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 4) Những hình ảnh mỹ lệ và bí ẩn Tác giả: Lâm Hiểu Húc [Chanhkien.org] Khi tình cờ xem qua cuốn sách Thông điệp của nước, tôi đã bị chấn động bởi những bức ảnh tuyệt đẹp của các tinh thể hình lục giác. Một số tinh thể rất sáng sủa và một số thì mờ mờ, một số thì phức tạp và một số lại rất đơn giản. Các bức ảnh hầu như xuất hiện dưới dạng ba chiều, mới và khác biệt, và rất thỏa con mắt. Khi nhìn qua lần đầu tiên, các bức ảnh trông như các tác phẩm kiệt tác của một nhiếp ảnh gia xuất chúng. Tuy nhiên, khi nhìn kỹ hơn những chú thích cho hình ảnh, người ta sẽ thấy rằng những bức ảnh này là kết quả của một thí nghiệm khoa học. Chúng là những bức hình chụp nhanh của sự kết tinh nước, được chụp bởi một kính hiển vi của tác giả và tiến sĩ Masaru Emoto, Viện trưởng Học viện Hado (công ty IHM) tại Tokyo cùng nhóm nghiên cứu của ông. Theo lời mô tả của trưởng nhóm nghiên cứu thí nghiệm, sau đây là quy trình đã được sử dụng: Khi ở trong một phòng thí nghiệm C, một nhà thí nghiệm lấy ra một bình chứa thủy tinh từ một tủ lạnh ở nhiệt độ -5 độ C và nhanh chóng đặt nó dưới một kính hiển vi được gắn một camera. Một giọt nước được phơi sáng (tiếp xúc) với một ý niệm, ngôn ngữ, âm nhạc, chữ viết hay một nhân tố vật chất được đặt vào trong bình chứa, khi ấy đã trở nên đông cứng và hình thành một mảnh băng nhỏ. Khi ánh sáng từ kính hiển vi chiếu vào nó, nó sẽ làm băng tan ra. Ở trên đỉnh của mảnh băng, một tinh thể nước nhanh chóng được hình thành và có thể tồn tại trong một vài giây. Thách thức lớn nhất đối với các nhà thí nghiệm là tập trung máy ảnh thật nhanh để bắt được hình ảnh tuyệt đẹp đó. Như chúng ta có thể thấy, cách tiếp cận được sử dụng là khá minh bạch. Đối với môi trường làm thí nghiệm, các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành những thí nghiệm tương tự cho khoảng 10-100 mẫu nước khác nhau và rồi thực hiện phân tích thống kê với chúng. Các bức ảnh về tinh thể nước trong cuốn sách là tiêu biểu nhất cho kết quả thu được. Trong các thí nghiệm, câu trả lời của nước khi biểu thị các ý niệm, ngôn ngữ, âm nhạc, chữ viết, nhân tố vật lý (chẳng hạn như độ rung, sóng siêu âm, sóng điện từ,…) và nhiều nhân tố khác mà đã được quan sát có hệ thống. Chúng thật đa dạng và rực rỡ. Kết quả thật đáng kinh ngạc và kỳ lạ. Lấy thí dụ, các mẫu nước được lấy từ một hồ nước sau khi trận động đất xảy ra hoàn toàn không thể hình thành các tinh thể. Tuy nhiên, sau khi một vài người cầu nguyện, các mẫu nước lại có thể tạo thành các tinh thể. Trong một thí nghiệm khác, khi cùng một chữ viết, chẳng hạn “Trí tuệ” được viết bằng các thứ tiếng khác nhau rồi được dán nhãn lên các bình chứa mẫu nước khác nhau, tinh thể nước hình thành các hình thù và cấu trúc giống nhau. Nước được lấy từ các bình chứa mà có dán những chữ mang nghĩa tốt, chẳng hạn như “Yêu thương” và “Cám ơn” hình thành nên những tinh thể lấp lánh vô cùng mỹ diệu, trong khi nước được lấy từ những bình chứa có dán chữ mang nghĩa xấu, chẳng hạn “Thù hận” và “Ma quỷ” thì chúng tạo nên những tinh thể nước cực kỳ xấu xí và ghê sợ. Một khám phá đáng ngạc nhiên khác, đó là khi một mẩu băng đang chuẩn bị tan chảy, tinh thể được hình thành trông giống như ký tự Trung Quốc, chữ “Thủy”. Các thí nghiệm đã là đủ để khiến chúng ta cảm thấy băn khoăn và tự hỏi rằng chúng ta đã biết quá ít về nước. Bằng cách nào nước có thể đáp lại các cảm xúc và tình cảm khác nhau của con người? Liệu nước có các chức năng cảm giác và khả năng thay đổi tùy theo môi trường? Liệu nước có thể phân biệt thiện và ác, đẹp và xấu? Nếu nó có thể, nó làm điều đó bằng cách nào? Nguồn gốc thực sự của nước là gì? Liệu có những thông điệp vũ trụ mà vượt khỏi ngôn ngữ của con người? Sự sống không thể tồn tại mà không có nước. Nếu nước có thể cảm nhận mọi thứ, liệu chúng ta có cần xem xét lại hiểu biết của chúng ta về sự sống hay không? Chúng ta nên vận dụng kiến thức này để cải thiện chất lượng cuộc sống của chúng ta ra sao? Những câu hỏi này dường như vượt ra khỏi cái gọi là ‘khoa học chủ lưu đương đại’ để có thể tìm câu trả lời. Với quan niệm hiện tại về khoa học, rất khó để giải thích cách mà cảm xúc, từ ngữ, lời cầu nguyện…có thể ảnh hưởng đến sự kết tinh nước. Dường như có những cách để cải thiện thí nghiệm. Quá trình kết tinh là ở mức vi quan và biến mất chỉ trong nháy mắt. Nếu toàn bộ quá trình kết tinh được chụp lại bằng một máy quay phim thay vì chỉ một vài bức hình được chụp bởi một máy ảnh, kết quả có thể còn thuyết phục hơn. Ngoài ra, các nhà khoa học có thể bắt đầu đưa ra những câu hỏi khác. Một câu hỏi là hình thức chuyển hóa nào đang diễn ra ở góc độ vật lý và hóa học mà tình cảm, từ ngữ, ý niệm,…có thể tác động đến sự kết tinh của nước. Có lẽ nghiên cứu thêm về các lĩnh vực này sẽ cho phép chúng ta hiểu rõ hơn các thí nghiệm về tinh thể nước. Đến lượt nó, nó có thể đột phá một số cách nghĩ cứng nhắc và lỗi thời của các nhà khoa học hiện nay. Tuy nhiên, tiến sĩ Masaru Emoto không có hứng thú để cố gắng giành thêm sự chấp nhận từ giới khoa học chủ lưu khi mà điều ông tìm ra từ các thí nghiệm đã mở rộng tầm nhìn của chính ông. Ông viết trên trang bìa của cuốn sách Thông điệp của nước: “ Hado (sóng) sáng tạo ra ngôn ngữ chữ viết Ngôn ngữ chữ viết là sự rung động của tự nhiên Ngôn ngữ đẹp sáng tạo ra tự nhiên đẹp Ngôn ngữ xấu sáng tạo ra tự nhiên xấu Đây chính là pháp tắc của vũ trụ” Rõ ràng là ông đã nâng tầm quan trọng của chuỗi thí nghiệm lên một mức độ rất cao. Khi tôi gặp tiến sĩ Masaru Emoto tại Boston vào năm ngoái, ông đã tuyên bố rõ ràng rằng ông không có ý định bước vào một cuộc tranh luận với giới khoa học chủ lưu. Thay vào đó, ông muốn đưa những kiến thức này vào phổ cập giáo dục trong xã hội để công chúng và các thế hệ trẻ nhận ra rằng thiện niệm, chẳng hạn tình thương yêu và lời cám ơn có thể tạo nên sự thay đổi của nước và môi trường xung quanh chúng ta. Tiến sĩ Masaru Emoto đã được mời tới nhiều nước để trình bày khám phá và ý nghĩa triết học trong các nghiên cứu của ông. Ông đóng vai trò một sứ giả, người sử dụng cái nhìn độc nhất của ông để mang đến tình yêu thương cho loài người. Ông đã phát động một hoạt động toàn cầu mang tên “Bày tỏ tình thương và lòng biết ơn của chúng ta với nước”. Ông hy vọng sẽ thay đổi chất lượng của nước và tịnh hóa nguồn nước trên trái đất bằng thiện niệm của con người. Sau khi tham khảo bộ lịch và những lời tiên tri huyền bí của người Mayan, ông đã công bố ngày 25 tháng 7 năm 2003 là ngày kỷ niệm toàn cầu cho hoạt động này. Thực ra, khi con người có thể đối xử với nước, nguồn gốc của sự sống, bằng tình thương và sự biết ơn, chẳng phải là cả nước và con người đều thăng hoa hay sao? Ý nghĩa của thí nghiệm về tinh thể nước là siêu việt khỏi sự tưởng tượng của bất cứ ai.
  10. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể nước phản ánh tư tưởng Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến (Xin lưu ý: Những bức ảnh sau đây được lấy từ các cuốn sách của tiến sĩ Masuru Emotos, Thông điệp của nước và còn hơn thông điệp của nước, được xuất bản bởi nhà xuất bản Hado.) [Chanhkien.org] Thí nghiệm về sự kết tinh của nước được tiến hành bởi tiến sĩ Masaru Emoto tại Nhật Bản đã nhận được những phản ứng nhiệt tình từ độc giả. Sau đó, chúng tôi đã tiếp tục phỏng vấn một vài người trong giới khoa học và mời họ nói về ý nghĩa của các thí nghiệm. Dưới đây là cuộc phỏng vấn với bác sĩ Lý Xuân Băng. Chúng tôi hoan nghênh tất cả mọi người tham gia cùng chúng tôi để khám phá thí nghiệm thú vị này. PV: Phóng viên Chánh Kiến BS: Bác sĩ Lý Xuân Băng PV: Thưa bác sĩ Lý, điều gì mà ông nghĩ là thông điệp quan trọng nhất từ thí nghiệm “thông điệp của nước”? BS: Phần ngoạn mục nhất là một tinh thể nước có thể phản ánh “tư tưởng” qua hình thù của nó. Đó là, một cụm từ, một hình ảnh hay một đoạn âm nhạc có thể dẫn tới việc hình thành những hình thù đặc định của tinh thể nước. Nói cách khác, nước đáp lại những từ ngữ, hình ảnh hay âm thanh bằng các hình dạng khác nhau của tinh thể nước. Từ những hình ảnh về sự kết tinh của nước, chúng ta có thể dễ dàng thấy được vật chất và tinh thần là có tương thông với nhau. Mỗi một chủng tư tưởng đối ứng với một chủng vật chất. Lấy thí dụ, một từ ngữ mang theo một tư tưởng, và tự biểu hiện trong hình dạng tinh thể nước trong thí nghiệm về kết tinh nước. Điều này chứng minh rằng mỗi vật chất đều có sinh mệnh và tư tưởng riêng, và mỗi tư tưởng đều có hình thái vật chất tương ứng. Vật chất và tinh thần là nhất thể, với hai loại biểu hiện của cùng một sự vật. Hình 1: Trái: Tinh thể nước khi được cho xem chữ “thiên thần” Phải: Tinh thể nước khi được cho xem chữ “ác quỷ” Hình 2: Trái: Tinh thể nước khi được nghe bản nhạc “Đêm bình yên” Phải: Tinh thể nước khi được nghe nhạc [Rock] Heavy Metal Trong mỗi thí nghiệm, nước đều bày tỏ những loại thông điệp khác nhau. Mặc dù mỗi tinh thể nước vẫn có cùng kết cấu hóa học, chúng thực sự khác nhau về tư tưởng và linh hồn. Những thí nghiệm này đã chứng minh rằng nước là một loại hình sự sống, và nó cũng áp dụng với mọi từ ngữ, mọi hình thù của vật thể và mọi thanh âm, đồng thời mỗi thứ trong số chúng đều có tư tưởng. Có lẽ một ngày nào đó thậm chí chúng ta sẽ có thể “chào” chúng khi chúng ta có khả năng quan sát tiến bộ hơn.PV: Rất nhiều bức ảnh chụp hình tinh thể nước đã được công bố. Ông thích bức nào nhất ạ? Hình 3: Trái: Bức hình chụp hoa cam cúc (Chamomile) Phải: Tinh thể nước sau khi được xem hình hoa cam cúc Hình 4: Trái: Bức hình chụp hoa cây thì là (Fennel) Phải: Tinh thể nước sau khi được xem hình hoa cây thì là BS: Những bức hình chụp hoa thật là lý thú. Bạn có thể thấy rằng sau khi được xem hình hoa cam cúc (Chamomile) và hoa cây thì là (Fennel), hình dạng tinh thể nước hoàn toàn tương đồng với hình dạng của hai loại hoa. Đó là tinh thể nước mô phỏng theo hình dạng mà nó được xem. Điều này là một bằng chứng vững chắc rằng mỗi vi lạp đều mang theo một chỉnh thể hình tượng và tín tức.Hình ảnh ba chiều này có thể được trông thấy ở mức vi quan. Chúng ta không thể nhìn thấy “tư tưởng” bằng cặp mắt thịt của chúng ta, bởi vì “tư tưởng” hiển hiện ở các không gian vi quan mà mắt thường không nhìn thấy được. Nếu chúng ta có cách nhìn thấy các thứ ở vi quan thì chúng ta sẽ có thể thấy được “tư tưởng”. PV: Thí nghiệm này khác với các thí nghiệm khoa học phức tạp khác ở chỗ rất ít chuyên gia tham dự nhưng lại được đại đa số công chúng chú ý tới. Ông nghĩ rằng kết quả thí nghiệm sẽ mang lại những ảnh hưởng gì trong công chúng ạ? BS: Chúng ta có thể thấy rõ ràng từ thí nghiệm về tinh thể nước rằng thiện niệm làm mọi thứ đẹp lên và ác niệm làm mọi thứ xấu đi. Hầu hết cơ thể người và mọi thứ khác trên thế giới này đều được cấu thành từ nước. Chính vì vậy thiện niệm của chúng ta sẽ cải biến ngoại cảnh và chính bản thân chúng ta. Nếu chúng ta bảo trì được thiện niệm, chúng ta sẽ tịnh hóa cơ thể chính mình, trở nên mỹ lệ và kiện khang. Nếu chúng ta bảo trì được thiện niệm, chúng ta sẽ tịnh hóa môi trường và những người xung quanh chúng ta. Thiện niệm của chúng ta có thể cải biến cả thế giới này. Thật sửng sốt khi triết lý ấy thể hiện rất rõ ràng trong thí nghiệm về tinh thể nước này. Cách trực tiếp nhất để tịnh hóa thế giới này là bảo trì thiện niệm của chính chúng ta. Nếu công chúng có thể nhận thức được điểm này thì nó sẽ tạo ra một tác động rất lớn. PV: Tiến sĩ Masaru Emoto đã thực hiện một thí nghiệm, trong đó một nhóm người phát ra thiện niệm, chẳng hạn như “Cám ơn” và “Tình thương” vào một cái chai đựng đầy thứ nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước này đã được tịnh hóa nhanh chóng. Ngoài ra, tiến sĩ Emoto mới đây cũng đã thỉnh nguyện cả thế giới thường xuyên đồng phát thiện niệm cho nước trên trái đất vào các thời điểm xác định. Ông có cảm tưởng gì về những thí nghiệm này ạ? BS: Thực ra, tiến sĩ Emoto cũng đã từng tiến hành nhiều hoạt động phát thiện niệm tập thể. Hình 5: Trái: Nước máy tại Tokyo Phải: Nước máy tại Tokyo sau khi được một nhóm phát thiện niệm Vào lúc 2 giờ ngày 02 tháng 02 năm 1997, 500 người từ khắp Nhật Bản đã hưởng ứng lời kêu gọi của tiến sĩ Emoto và phát thiện niệm vào một chai đựng nước máy được đặt trên bàn làm việc của tiến sĩ Emoto tại Tokyo. Mỗi người được yêu cầu nghĩ như sau: “Nước hãy biến thành kiền tịnh. Cám ơn.” Thông điệp trìu mến này đã được phát ra cùng lúc bởi 500 người trên khắp Nhật Bản. Bức ảnh bên tay phải được chụp ngay sau đó. Không có quá trình xử lý nhân tạo nào đối với bức ảnh trên. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã kỳ vọng kết quả này, tất cả họ đều đã òa khóc khi trông thấy bức ảnh trên. Hình 6: Trái: Tinh thể nước tại Kobe, Nhật Bản sau trận động đất Phải: Tinh thể nước sau khi được phát thiện niệm Bức ảnh bên tay trái được chụp ba ngày sau khi một trận động đất xảy ra tại Kobe, Nhật Bản. Nó là tinh thể nước bị biến dạng của nước máy tại Kobe. Nước dường như biểu lộ cảm giác hoang mang, đau buồn và sợ hãi mà người dân địa phương đã phải trải qua trong trận động đất. Tất cả mọi người đều bị sốc sau khi xem bức ảnh thể hiện cảm xúc của nước. Nhưng sau đó người dân Kobe đã nhận được sự quan tâm và viện trợ từ nhân dân khắp thế giới. Ba tháng sau trận động đất, nhóm nghiên cứu đã chụp một bức ảnh khác với cùng chai nước đó (hình bên tay phải), trong đó biểu lộ vẻ đẹp của sự quan tâm và chúc nguyện mà nhân dân thế giới dành người dân Kobe, Nhật Bản.Tiến sĩ Emota thường kể một câu chuyện về một nhóm người phát thiện niệm cùng nhau. Khi con tàu Apollo 13 đáp xuống mặt trăng, phi hành đoàn đã gặp phải một số sự cố kỹ thuật gây ra sự phá hủy bình dưỡng khí. Họ không còn hy vọng sống sót và trở về trái đất dưới tình trạng như vậy. Tuy nhiên, toàn thế giới đã theo dõi cuộc thám hiểm và cầu nguyện cho họ. Cuối cùng, phi hành đoàn đã trở về trái đất an toàn. Tiến sĩ Emoto tin rằng đây là [hiệu quả của] sự đồng phát thiện niệm. Tiến sĩ Emoto coi đây là một hoạt động toàn cầu mà cả thế giới, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng và quốc tịch, phát thiện niệm tập thể cùng nhau. Nó cho thấy rằng sức mạnh thiện niệm của tập thể là rất vĩ đại. Nếu chúng ta sử dụng thiện niệm tập thể để chống chọi với một tai nạn, thì tai nạn đó sẽ bị hóa giải. Đặc biệt, khi sự hủy diệt, bạo lực và tàn sát lan tràn trên thế giới này, chúng ta có thể ngăn chặn chúng nếu chúng ta đồng phát thiện niệm để tiêu hủy chúng. PV: Ông thấy còn phương diện tiềm năng nào chưa được khai thác không ạ? BS: Mặc dù không có cái nhìn của một người trong cuộc trong những thí nghiệm này, tôi nghĩ rằng các hoạt động tinh thần của nhóm nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến kết quả của mỗi thí nghiệm. Vì nước được khám phá là nhạy cảm với các tư tưởng, nó đương nhiên cũng nhạy cảm với tư tưởng của các nhà nghiên cứu. Tôi tin rằng các nhà nghiên cứu cần giữ một tư tưởng tĩnh lặng để tránh ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm theo mong muốn của họ. Mặt khác, nếu chúng ta giữ được tâm trí tĩnh lặng, tôi tin rằng nước xung quanh chúng ta sẽ trở nên rất thuần tịnh. Tôi nghĩ rằng sự thuần tịnh của nước phản ánh sự thuần tịnh của tâm linh chúng ta. Nếu chúng ta thiền định và đạt đến được trạng thái “nhập tĩnh”, chúng ta sẽ có sức mạnh tịnh hóa nước mạnh mẽ hơn nữa. Ở đây tôi muốn giải thích qua về sự khác biệt trong các cảnh giới của “tĩnh”. Quá trình loại trừ tạp niệm và đạt một cảnh giới “tĩnh” cao về cơ bản chính là quá trình tu luyện. Tôi dám đánh cược rằng kết quả thí nghiệm sẽ thật đáng kinh ngạc nếu một người tu luyện chân chính ngồi đả tọa bên cạnh một dòng suối. Tôi cũng muốn nói thêm một chút về hoạt động phát thiện niệm tập thể. Những hoạt động như vậy có tính chất ngắn hạn và chỉ mang lại kết quả tạm thời. Điều quan trọng hơn là chúng ta phải bảo trì thiện niệm vào mọi lúc bởi vì mỗi niệm đều ảnh hưởng đến cơ thể và mọi thứ xung quanh chúng ta. Chỉ khi chúng ta không ngừng loại trừ những tư tưởng bất lương, nghiêm khắc yêu cầu chính mình, sống thiện lương thì chúng ta mới có thể tịnh hóa cơ thể và môi trường, cũng như bảo trì một thế giới hòa bình. Đây chính là đạo làm người được giáo hóa bởi các bậc thánh nhân. Có một câu ngạn ngữ Trung Quốc rằng: “Thủy vi tâm chi kính” (Nước chính là tấm kính phản chiếu tâm chúng ta). Từ các thí nghiệm của tiến sĩ Emoto, giờ chúng ta đã có một hiểu biết rõ ràng rằng nước thuần tịnh là một sản phẩm của tâm thuần tịnh. Nếu như nhân tâm không cải biến thì không có cách nào cải biến nước được. Cũng như vậy, hoạt động phát thiện niệm tập thể chỉ có thể cải biến môi trường trên diện hẹp – một cách tạm thời. Muốn cải biến toàn bộ cục diện hoàn cảnh thì chỉ có cách làm cho nhân tâm hướng thiện, đạo đức thăng hoa. Giờ chúng ta đã thấy một thiện niệm có khả năng tịnh hóa nước như thế nào. Chủ đề thảo luận tiếp theo của chúng ta sẽ là cách thức tịnh hóa tâm trí.
  11. (Tiếp theo) Một phát biểu khác trong quyển Chuyển Pháp Luân sẽ giúp chúng ta hiểu nguyên tắc chung đằng sau những dạng vật chất khác nhau này. “Vậy thì Phật Pháp là gì? Một đặc tính căn bản nhất của vũ trụ này, Chân-Thiện-Nhẫn là sự biểu thị cao nhất của Phật Pháp. Nó là Phật Pháp căn bản nhất. Phật Pháp biểu thị các dạng khác nhau ở các tầng khác nhau và đảm đương các vai trò hướng dẫn khác nhau ở các tầng khác nhau. Tầng càng thấp thì nó càng phức tạp. Đặc tính này, Chân-Thiện-Nhẫn có trong các hạt vi quan của không khí, đá, gỗ, đất, sắt và thép, cơ thể con người, cũng như trong tất cả các vật chất.” “Đặc tính này, Chân-Thiện-Nhẫn là tiêu chuẩn để đánh giá tốt xấu trong vũ trụ.” “Bất kể tiêu chuẩn đạo đức của con người thay đổi như thế nào, đặc tính này của vũ trụ vẫn không thay đổi, và nó là tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt người tốt với người xấu.” Các thí nghiệm trên đã chứng tỏ cho chúng ta một cách sống động rằng tất cả các vật chất bao gồm cả tinh thể nước đều có thể phân biệt tốt xấu và đều là các thực thể sống. IHM cũng đã tiến hành một loạt các thí nghiệm cho thấy rằng nước có khả năng phản ánh ý thức của con người và có thể bị thay đổi bởi ý thức của con người. Tiến sĩ Emoto viết trong báo cáo thí nghiệm của mình rằng, “Cho đến nay, chúng ta đã có những kinh nghiệm rất thú vị về việc cho nước nghe nhạc, xem chữ và tên. Và việc chúng tôi thử cho nước xem chữ cho kết quả hơn cả chúng tôi mong đợi. Với kết quả của những thí nghiệm này, chúng tôi có thể đi đến một giả thuyết rằng các thông điệp có thể được truyền qua “hình dạng” như chữ viết và hình ảnh. Tuy nhiên chúng tôi đã không dám mong đợi rằng tinh thể sẽ cho thấy những thay đổi rõ ràng sâu sắc như vậy. Chúng tôi đã nhận ra rằng nước lưu giữ và truyền thông điệp. Vì vậy chúng tôi đã không thể cưỡng lại việc bước vào lĩnh vực ý thức của con người. Chúng tôi muốn tìm ra những thay đổi mà suy nghĩ có thể gây ra.” Bây giờ hãy để tôi giới thiệu kết quả của những thí nghiệm về ý thức của nước. C-1: Đây là nước máy được láy từ Kobe ngay sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra C-2: Đây là nước được lấy cùng một chỗ ba tháng sau Trong báo cáo của mình Tiến sĩ Emoto mô tả: “Vào ngày 17/01/1995, ba ngày sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra ở khu vực Kobe, chúng tôi chụp ảnh của tinh thể nước máy lấy ở Kobe (có thể được tìm thấy lúc đó). Cứ như là nước đã nắm bắt được sự sợ hãi, hoảng hốt và đau buồn sâu sắc của con người ngay sau khi trận động đất xảy ra. Các tinh thể bị phá hủy hoàn toàn. Nó là hình ảnh làm mọi người rùng mình. Chúng tôi thậm chí còn cảm thấy rằng chúng tôi không thể công bố hình ảnh này vì sự đau khổ tột bực của nó. Tuy nhiên, ba tháng sau đó…Sự giúp đỡ và thông cảm từ trên khắp thế giới được gửi đến nhân dân Kobe. Tinh thể này dường như đã bày tỏ những cảm giác của quan tâm và mong ước.”Một thí nghiệm về ý thức khác được thực hiện với nước máy lấy từ Shinagawa, Tokyo. C-3: Nước máy nguyên mẫu lấy trước ngày thí nghiệm “Khí, Tâm hồn và Tinh thần của Tình yêu” C-4: Cùng mẫu nước sau khi nhận được ý thức “Khí, Tâm hồn và Tinh thần của Tình yêu” từ 500 người. Trong thí nghiệm này, người làm thí nghiệm gửi thư đến 500 giảng viên HADO trên toàn nước Nhật (những người tốt nghiệp nghiên cứu HADO) để đề nghị họ hợp tác. Anh ta yêu cầu những người này “Vào 2:00 ngày 2 tháng Hai năm 1997, tôi sẽ để một cốc chứa nước máy lấy từ Shinagawa-ku trên bàn làm việc của tôi. Hãy truyền cảm giác của mình đến mẫu nước đó cùng một lúc từ khắp nước Nhật. Tất nhiên, để nước này trở thành nước sạch, hãy gửi “Khí, Tâm hồn và Tinh thần của Tình yêu” và điều mong ước rằng nước sẽ trở nên sạch. Xin cảm ơn rất nhiều.”Tiến sĩ Emoto báo cáo, “Tất nhiên, không có sự thay đổi vật lý nào. Chúng tôi đã không chờ đợi nhưng đã có thể đạt được một sự thay đổi rõ ràng về điều kiện của nước. Tất cả nhân viên đều xúc động đến nỗi họ gần như trực khóc. Chúng tôi cảm ơn sâu sắc tất cả những người đã hợp tác với chúng tôi trên toàn bộ nước Nhật. Chúng tôi đã bắt đầu cảm thấy rằng ý nghĩ của mọi người có thể được tập hợp lại bất kể họ ở bao xa.” Bằng cách này, tinh thể nước đã chứng tỏ với chúng tôi rõ ràng là ý thức của con người thực sự là một vật chất có tồn tại, và vật chất này thậm chí có thể làm thay đổi môi trường của chúng ta. Mặc dù thí nghiệm ý thức này rất mới và mang tính cách mạng, tuy nhiên kết luận thu được thì tuyệt đối không phải như vậy. Trong quyển sách Chuyển Pháp Luân của mình, Ông Lý Hồng Chí đã mô tả bản chất của ý thức như sau: “Ngày nay, những người nghiên cứu cơ thể con người đã khám phá ra rằng các hoạt động trí óc của con người chúng ta hay là những suy nghĩ của con người có thể sinh ra vật chất. Ở tầng rất cao, chúng tôi đã nhận thấy rằng nó thực sự là một chất, nhưng chất này không ở trong dạng sóng não như ngày nay chúng ta đã khám phá ra trong nghiên cứu. Thay vì đó, nó ở trong dạng của một bộ não người hoàn chỉnh.” Chúng tôi không thể đi lạc đề về một phát biểu khác của Ông Lý, rằng “…Là một con người, chư vị là một người tốt chỉ khi chư vị có thể tuân theo đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn này của vũ trụ. Một người lệch khỏi đặc tính này thực sự là một người xấu.” Phương châm đạo lý này nghe đơn giản nhưng rõ ràng và không nên bị coi nhẹ như những ảnh tinh thể nước ở đây nữa. Chữ Thiện có thể sinh ra tình yêu, cái đẹp, sự biết ơn, sự thông cảm, sự rộng lượng, sự giúp đỡ, sự đồng cảm, và những điều tương tự. Chẳng phải những tinh thể cho chúng ta thấy rằng nếu chúng ta đồng hóa với nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ, chúng ta sẽ có sự hòa hợp và hạnh phúc cao nhất, nếu không chúng ta sẽ có những biểu hiện tiêu cực như sự khổ cực và xấu xa. Trong vài phút còn lại, hãy để chúng ta đi vào thế giới kỳ diệu mà tinh thể có thể đưa chúng ta đến bằng cách nhìn qua những thí nghiệm này. Trong những thí nghiệm này, nước được cho xem những từ “Thông thái”, “Vũ trụ” và “Tình yêu/Cảm ơn” bằng các thứ tiếng: Nhật, Anh và Đức. Nước ban đầu được sử dụng là nước lọc cùng tiêu chuẩn. Kết quả là các tinh thể được hình thành có hình dạng tương tụ bất chấp sự khác biệt về ngôn ngữ. Thông thái (Nhật/Anh/Đức): D-1: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Nhật D-2: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Anh D-3: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Đức Trông chúng khá giống nhau. Khoảng trống tối ở giữa giống hệt nhau.(Tiếp theo) Vũ trụ (Nhật/Anh/Hy lạp): D-4: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Nhật D-5: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Anh D-6: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Hy lạp Tình yêu/Cảm ơn (Anh/Nhật/Đức): D-7: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Anh D-8: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Nhật D-9: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Đức Lý Sư phụ phát biểu trong quyển Chuyển Pháp Luân, “Một suy nghĩ sinh ra bởi bộ não con người là một chất.” Ông chỉ ra rõ ràng rằng “Những thông điệp thực sự từ bộ não con người không phải là chức năng của chính bộ não người – nó không được sinh ra bởi bộ não mà bởi Nguyên Thần của con người…… Nếu một cơ thể người không có Nguyên Thần và các thứ như tính khí, cá tính và nhân cách, nó chỉ là một miếng thịt chứ không phải là một con người hoàn chỉnh có tính chất cá nhân. Vậy bộ não người có những chức năng nào? Như Tôi thấy, trong dạng của không gian vật lý này, não người chỉ là một nhà máy xử lý. Thông điệp thực sự được phát ra bởi Nguyên Thần. Tuy nhiên, cái được phát ra không phải là ngôn ngữ mà là một thông điệp của vũ trụ mang theo một ý nghĩa nào đó. Khi nhận được lệnh đó, bộ não của chúng ta sẽ chế biến thông điệp này thành ngôn ngữ hiện thờI của chúng ta hoặc các dạng diễn đạt khác; chúng ta diễn đạt nó thông qua động tác tay, sự giao tiếp bằng mắt, và sự vận động đầy đủ. Bộ não chỉ có mỗi tác dụng này. Những ý nghĩ và mênh lệnh thực sự đi đến từ Nguyên Thần của chúng ta.” Tinh thể nước cho chúng ta thấy rõ ràng là mặc dù một từ có cùng nghĩa được viết một cách khác nhau bằng các ngôn ngữ khác nhau, cái mà nước nhìn thấy chính xác là bản chất của từ đó mà cũng là một thực thể sống và do đó có thể phản ánh một cách tự nhiên từ đó trong các hình dạng tương tự.Tiến sĩ Emoto viết trong đoạn kết luận của báo cáo của mình, “Đánh giá nước bằng cách chụp ảnh tinh thể nước là một cách tiếp cận mới xuất phát từ một quan điểm hoàn toàn khác so với các phương pháp đánh giá và phân tích khoa học truyền thống bình thường. Cái mà chúng tôi học được từ những thí nghiệm này là chúng ta không biết gì về nước cả. Các câu hỏi và vấn đề mới chồng chất lên nhau.” Do đó, ông đặt câu hỏi một cách sắc sảo, “Có phải nước đến từ vũ trụ?” Sau đó ông tự trả lời mình một cách quả quyết, “Hãy bắt đầu với những câu hỏi về nước tồn tại trên mặt đất. Tại sao nước lại tồn tại? Nguồn gốc của nước trước kia được bao bọc trong sự bí ẩn. Khi các cuộc thăm dò vũ trụ tiến bộ, nó đã được xác nhận rằng nước cũng tồn tại trên Sao Hỏa. Chúng ta bắt đầu hiểu rằng nước không chỉ có trên trái đất mà trong tất cả các nơi trong vũ trụ.” “Tất cả chúng ta đều biết rằng không có nước thì sự sống không thể được sinh ra. Nếu như nguồn gốc của sự sống, có nghĩa là nước bắt nguồn từ vũ trụ, thì chúng ta có thể giả sử là loài người có thể có nguồn gốc ngoài trái đất.” “ Nếu thực tế này được công nhận, thì nguồn gốc của loài người, thuyết tiến hóa của Darwin, và các giả thuyết khác về lịch sử của trái đất và sự sống sẽ bị thay đổi hoàn toàn.” “Vũ trụ quá rộng lớn đối với con người và nó là một thực thể không thể tưởng tượng được. Sự thực của vấn đề là bằng cách nghiên cứu nước sâu hơn nữa, chúng ta có thể hiểu biết hơn về vũ trụ. Chỉ ý nghĩ đó thôi đã quá là hứng thú.” Trong một bài giảng của Ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Ông Lý đã trả lời một trong những câu hỏi của một học trò của mình về nguồn gốc của sự sống như sau: “Tôi có thể nói với chư vị nguồn gốc của vật chất và sự sống tồn tại ở các khu vực khác nhau ở trong thiên thể này của chúng ta là gì. Trên thực tế, nguồn gốc của vật chất là nước. Nhưng nước mà là nguồn gốc của vũ trụ không phải là nước trần tục trên mặt đất của người thường.” “Ở các tầng khác nhau tồn tại các nguồn gốc khác nhau của vật chất, hay là các loại nước khác nhau là các nguồn gốc khác nhau của vật chất. Tầng càng cao thì mật độ của nước đó càng lớn. Nó tạo thành các hạt khác nhau, các nước khác nhau, và các sinh mệnh khác nhau trong các không gian khác nhau.” “Vũ trụ mà chúng ta có thể hiểu là được cấu thành từ nước.” (Các bài giảng ở Hợp chủng quốc Hoa kỳ) Nước, sự sống, vũ trụ và đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn: quan hệ thực sự giữa chúng là gì? Để tìm một câu trả lời tốt hơn cho chính mình, tôi chân thành mời quý vị đọc bộ sưu tập các bài viết của Pháp Luân Đại Pháp
  12. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống Bản để in Pháp môn tu luyện cổ Pháp Luân Đại Pháp làm sáng tỏ những bí ẩn của khoa học hiện đạiTác giả: Zhao Yihong [Chanhkien.org] Tôi tên là Zhao Yihong ở Tokyo, Nhật bản. Tôi sẽ chia sẻ với tất cả mọi người ở đây một số hình ảnh cho thấy vẻ đẹp và sự bí ẩn của các tinh thể nước và nói với mọi người rằng “Pháp Luân Đại Pháp thực sự là khoa học”. Những hình ảnh và giải thích được trích dẫn từ các quyển sách [The Messages from Water 1, 2- Những thông điệp từ nước 1, 2] và [Water Knows the Answer- Nước biết câu trả lời] với sự giúp đỡ của Tác giả/Biên tập viên Tiến sĩ Masaru Emoto, Chủ tịch của Hội Hado Quốc tế – International Hado Membership gọi tắt là IHM. A1 A2 A3 A4 A5A6 Liên quan đến tinh thể nước, IHM đã làm một vài thí nghiệm thú vị. Tiến trình thí nghiệm (Ảnh A-3 và A-4) như sau. Nước dùng để thí nghiệm được nhỏ vào 100 chiếc đĩa và để vào một máy ướp lạnh (Ảnh A-1) trong 2 giờ đồng hồ. Sau đó các tinh thể nước đóng băng được đặt dưới một kính hiển vi để chụp ảnh chóp của nước đá với độ phóng đại từ 200 đến 500 lần (Ảnh A-5 và A-6). Từ đây về sau tinh thể nước đóng băng được gọi tắt là tinh thể. A-7: Từ “thuỷ” trong tiếng Hán Trong báo cáo bên cạnh hình ảnh này Tiến sĩ Emoto giải thích rằng trong khi chụp ảnh tinh thể nước bất kỳ cục nước đá nào tan thành nước cũng phải trải qua trạng thái như trong hình này. Khi nước đóng băng nó trở thành tinh thể. Vào lúc ngay trước khi nó tan trở lại thành nước (do tăng nhiệt độ giữa -5°C và 0°C) nó tạo thành một hình y hệt như chữ “Nước” trong tiếng Hán. Có thể là con người thời cổ đại đã biết điều này và tạo ra chữ “Nước” trong tiếng Hán dựa trên thông tin này? Điều này rất đáng để cho chúng ta nghiên cứu lại nguyên từ học của chữ Hán. A-8: Thí nghiệm cho nước nghe nhạc A-9 A-10 Tinh thể đóng băng sau khi được nghe bản Pastorale – khúc nhạc đồng quê, một trong những bản nhạc giao hưởng nổi tiếng nhất của Beethoven (hình A-9). Trông nó sáng chói, mới mẻ và vui tươi. Tinh thể tuyệt đẹp này chứng tỏ rằng bản nhạc hay có ảnh hưởng tích cực đến nước. Tinh thể đóng băng sau khi nghe bản “Farewell Song” – “Bài hát chia tay” của Chopin (hình A-10). Tiến sĩ Emoto bình luận trong bản báo cáo của ông: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy kinh ngạc như vậy khi tôi nhìn thấy tinh thể này”. Chẳng nhẽ nó có hình như vậy bởi vì nó bị ảnh hưởng của “Farewell Song” – “Bài hát chia tay”? Hình dạng tinh thể cơ bản của nó gần như được chia đều thành các phần nhỏ tách rời nhau ra. Độ phóng đại của kính hiển vi trong các ảnh là như nhau.Có rất nhiều hình ảnh tinh thể nước đa dạng sau khi nước được nghe nhạc nhưng chúng ta hãy dừng lại ở những thí dụ này. Tôi chắc rằng bất kỳ ai lần đầu tiên nhìn thấy những hình ảnh này đều kinh sợ trước những hiển thị kỳ lạ của nước. Làm sao chúng ta có thể hiểu được việc các bản nhạc khác nhau tạo nên tinh thể có hình dạng khác nhau? Câu trả lời rõ ràng có thể được tìm thấy trong quyển sách Chuyển Pháp Luân. “Trải suốt quá trình lịch sử, vấn đề vật chất quyết định tinh thần hay ngược lại đã luôn luôn được tranh luận trong lĩnh vực triết học. Trên thực tế, tôi nói với mọi người rằng vật chất và tinh thần là một.” (Chuyển Pháp Luân, Tác giả Lý Hồng Chí). Những hình ảnh tinh thể ở trên đã gợi cho chúng ta ý nghĩ rằng vật chất và tinh thần là một. B-1: Một người nghiệp dư thực hiện một thí nghiệm thú vị là nói “Cảm ơn” và “Đồ ngu” với cơm hàng ngày. Trong thí nghiệm này cơm được để trong hai lọ thủy tinh giống hệt nhau. Hai học sinh cấp một nói với cơm trong lọ hàng ngày trong một tháng liền ngay sau khi trở về nhà từ trường học. Kết quả là cơm trong lọ được trẻ em nói “Cảm ơn” gần như được lên men và có mùi thơm của lúa mạch nha chín. Còn lọ cơm bị trẻ em bảo là “Đồ ngu” chuyển sang màu đen và bị thiu thối. Họ nói rằng mùi thối của nó rất ghê tởm không thể tả được. Báo cáo nói, “Đây không phải là thí nghiệm của viện nghiên cứu làm, nên kết quả có thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên nhiều người đã cùng làm thí nghiệm đó và thấy kết quả giống hệt nhau. Thí nghiệm này không chỉ liên quan đến nước mà còn các vi khuẩn. Vi khuẩn cũng như chúng ta làm việc chăm chỉ khi được khen và trở nên lười nhác khi bị lợi dụng. Dường như là bằng việc nói “Cảm ơn” và “Đồ ngu” vi khuẩn đã kết hợp nhau lại để trở thành có ích hoặc có hại.Tiếp theo đây chúng ta sẽ xem một số hình ảnh chụp được sau khi cho nước xem chữ. B-2: Thí nghiệm cho nước xem chữ B-3 Ảnh này được chụp sau khi cho nước xem chữ “Tình yêu/Biết ơn”. Tác giả nói trong bản báo cáo của mình rằng “chúng tôi chụp ảnh của rất nhiều tinh thể từ mẫu nước này nhưng đây là tinh thể tuyệt đẹp đầu tiên mà chúng tôi nhìn thấy. Thực sự là không có gì quan trọng hơn tình yêu và lòng biết ơn trên thế giới này. Bằng cách biểu lộ tình yêu và lòng biết ơn nước ở quanh chúng ta và trong cơ thể chúng ta thay đổi rất đẹp. Chúng ta muốn áp dụng điều này trong cuộc sống hàng ngày, có phải vậy không?” B-4 Những chữ được dùng để cho nước xem là: “Mày làm tao phát ốm. Tao sẽ giết mày.” Báo cáo có đoạn “đây là những từ mà thanh niên ngày nay hay dùng. Kết quả là hình dạng của [tinh thể] nước trở nên xấu như chúng tôi đã dự đoán sau khi chúng tôi cho mẫu nước xem những từ này. Tinh thể bị méo mó và phân tán. Nó thực sự là hình ảnh của những chữ “Mày làm tao phát ốm” và “Tao sẽ giết mày.” Thật là đáng sợ khi chúng ta sống trong một thế giới mà những từ như thế này được sử dụng tràn lan. Đã đến lúc chúng ta phải làm một cái gì đó” B-5: Nước nhận sóng điện từ của TV (trong vòng 4 giờ) B-6: Nước cất được dán chữ “Tình yêu/ Sự biết ơn” dưới tác dụng của sóng điện từ B-7: Nước cất không dán chữ dưới tác dụng của sóng điện từ. B-8 B-9 Nước cất được cho xem phim “Cuộc sống” của NHK (như trên ảnh B-9). Tác giả nói trong báo cáo, “Chúng tôi đã thử làm một thí nghiệm dựa trên một ý tưởng là thậm chí với cùng một chiếc TV, các chương trình khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Khi làm như vậy thậm chí nước cất không dán chữ “Tình yêu/Sự biết ơn” cũng cho ra tinh thể đẹp như thế này. Sau khi xem những bức ảnh này, chúng ta dễ có một ấn tượng là: dù được cho xem chữ, nghe nhạc hay xem TV, nước cho chúng ta thấy một khả năng kỳ lạ là có thể nắm bắt được thông điệp chung ẩn dấu dưới hình dạng bên ngoài và thậm chí có thể phân biệt được mức độ đạo đức của nó.” Làm sao chúng ta có thể hiểu được nhiệm vụ tinh thần bí ẩn mà nước thực hiện ở đây? Một lần nữa, một phát biểu trong quyển sách Chuyển Pháp Luân cho chúng ta một đầu mối, “Tất cả các vật chất trong vũ trụ, bao gồm tất cả các chất liệu tỏa khắp vũ trụ là những thực thể sống biết suy nghĩ, và tất cả chúng là những dạng tồn tại của Pháp của vũ trụ tại các tầng khác nhau.” Chẳng phải kết quả của các thí nghiệm ở đây cho chúng ta thấy rõ ràng rằng nước có sinh mệnh và có thể phân biệt tốt xấu? Sự duy linh này không chỉ giới hạn ở nước mà còn có thể được tìm thấy ở các vật chất khác nữa.
  13. Giới thiệu với các bạn loạt bài "Thế giới khác trong một giọt nước...", tôi có cảm nhận những bài viết này mang tính khoa học và có nhiều điều liên quan đến tâm linh...các bạn tham khảo nhé! Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emoto Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến [Chanhkien.org] Vào tháng 5 năm 2002, một phóng viên của Zhengjian.net (Chánh Kiến Net) đã phỏng vấn tiến sĩ Masaru Emoto, chủ tịch Học viện Hội Hado Quốc tế (IHM) và là tác giả cuốn sách “Thông điệp của nước”. Con trai của tiến sĩ Emoto là người đã hiệp trợ phiên dịch. PV: Phóng viên Chánh Kiến TS: Tiến sĩ Masaru Emoto PV: Tiến sĩ Emoto, tôi đã đọc cuốn sách “Thông điệp của nước”. Tôi cảm thấy nó thật độc đáo. Ông đã nêu ra một số chủ đề thật ý nghĩa. Cuối cuối sách, ông viết: “Nếu sự tồn tại nguyên thủy của nước không ở tại Trái đất mà đến từ không gian bên ngoài, nó có nghĩa rằng sự tồn tại của chúng ta cũng bắt nguồn từ không gian vũ trụ.” Ông có thể giải thích rõ hơn được không ạ? TS: Năm năm trước, một tiểu hành tinh mang theo băng đã rơi xuống Trái đất. Các nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Hawaii đã đo đạc và khám phá ra rằng nó nặng 100 tons (101,6 tấn). Mỗi năm có hàng chục triệu mảnh băng lớn rơi xuống Trái đất từ ngoài không gian. Nếu chúng ta tính toán khối lượng nước mà chúng mang theo, người ta sẽ thấy rằng rất có thể nước nguyên thủy trên Trái đất có nguồn gốc từ không gian. Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại Học Hawaii cho rằng có thể ban đầu không có nước trên Trái đất và nước ở Trái đất đến từ ngoài không gian. Nhiều nhà khoa học và nhà nghiên cứu không đồng ý với lý thuyết này, nhưng tôi tin rằng nó là đúng. PV: Vì nước đến từ ngoài không gian, nên sinh mệnh cũng đến từ ngoài không gian. Đây là điều ông nghĩ tới phải không ạ? TS: Vâng, tất nhiên rồi. PV: Cuối cuốn sách, ông viết: “Đích đến cuối cùng của thế giới hỗn loạn này là nơi đâu? Con người đã xuất sinh như thế nào? Lịch sử nhân loại là gì? Tương lai rồi sẽ ra sao?” TS: Tôi nghĩ rằng con người cũng chính là nước. Cơ thể người là chiếc áo mà chúng ta khoác lên khi ở tại hành tinh này, và ở hành tinh khác, chiếc áo có thể là hoàn toàn khác. Nước rải rác khắp mọi nơi trong toàn vũ trụ. Tôi tin rằng Trái đất giống như quả thận của vũ trụ. Rất nhiều nước của vũ trụ đã đến hành tinh này. Nó phải được tịnh hóa và trở lại những hành tinh khác để tịnh hóa những nơi đó. Những hành tinh này cần nước đã được tịnh hóa. Nước chính là chúng ta. Chúng ta, con người cần phải tự mình tịnh hóa. Lý do chúng ta tới đây từ không gian vũ trụ là để được tịnh hóa. Rồi chúng ta phải trở về với vũ trụ. Những hành tinh khác đang chờ đợi chúng ta. Họ đang nói: “Hãy trở về! Hãy trở về! Nhanh lên và hãy trở về! Nhanh lên!” Nhưng chúng ta vẫn còn ở trên Trái đất này và bị luân hồi. Chúng ta không thể tiếp tục bị luân hồi như thế này được. Chúng ta phải tốt nghiệp và phải trở về. Chúng ta, con người cũng giống như nước. Chúng ta cần trở về những hành tinh khác. PV: Nhưng thực tế là thế giới này đang ngày càng dơ bẩn hơn. TS: Nếu chúng ta tiếp tục sống như thế này, hành tinh Trái đất có thể phải đối mặt với những thảm họa và có thể đi đến kết thúc. Nếu chúng ta không thay đối cách sống của chúng ta, chúng ta có thể sẽ bị nạn hồng thủy, như những gì đã xảy ra với con thuyền Noah. PV: Vậy chúng ta có thể tránh những thảm họa như vậy bằng cách nào ạ? TS: Nó rất dễ. Sự yêu thương và lòng biết ơn, với mọi người và với mọi vật. Nếu 10% những người trong chúng ta có thể làm được điều đó thì thảm họa sẽ không thể xảy ra. PV: Tại sao lại là 10% ạ? TS: Các thí nghiệm đã cho thấy nếu 10% ổ vi khuẩn chứa các vi khuẩn tốt, 10% chứa các vi khuẩn xấu, 80% là trung tính thì cả ổ vi khuẩn sẽ trở thành tốt, và vi khuẩn tốt sẽ chiến thắng. Con trai của tiến sĩ Emoto nói thêm: “Tiến sĩ Emoto đã làm thí nghiệm với nước bằng cách đặt hai mẩu giấy lên một chai nước. Một ghi: “Cám ơn!” còn cái kia ghi: “Ngớ ngẩn!” Nước đã hình thành nên các tinh thể tuyệt đẹp, cho thấy rằng “Cám ơn” đã chiến thắng “Ngớ ngẩn”. Đó là tại sao tiến sĩ Emoto đang cố gắng tìm ra 10% số người trên Trái đất còn chính niệm (ý niệm chân chính). Sẽ có hòa bình trên Trái đất chừng nào còn có 10% những người đó.” TS: Người Trung Quốc là rất quan trọng. Có rất nhiều người Trung Quốc. Tôi không hiểu tại sao chính phủ Trung Quốc lại cải biến ký tự Trung văn [thành giản thể] (Ông nhìn vào tờ báo Hoa ngữ mà phóng viên Chánh Kiến đang cầm trong tay). Chữ này còn được. Nó là ký tự phồn thể. PV: Tại sao ông nghĩ có sự khác biệt giữa chữ giản thể và chữ phồn thể ạ? TS: Dựa trên cách mà nước kết tinh, chữ phồn thể là tốt. Tôi đã sử dụng chữ phồn thể để làm thí nghiệm của mình. Các tinh thể được hình thành trông rất đẹp. PV: Tại sao ông lại so sánh chữ phồn thể và chữ giản thể trong thí nghiệm của mình ạ? TS: Chưa đâu. Tôi chỉ mới thử chút thôi. Văn tự cũng là sinh mệnh, và một sinh mệnh có nghĩa là nó đang sống. Đây chính là đặc tính tối quan trọng của nhân loại. Tôi là người Nhật, và tôi thực sự yêu thích văn tự Nhật Bản. Nếu ai đó buộc tôi thôi sử dụng văn tự Nhật Bản, tôi sẽ không thể sống được. Tôi thực sự không hiểu nổi chính phủ Trung Quốc. PV: Sau khi thực hiện các thí nghiệm với nước, ông đã có suy nghĩ gì khác về nhân loại ạ? TS: Chúng ta đến từ đâu, tại sao chúng ta lại ở đây, và chúng ta đang đi tới đâu là bí ẩn quan trọng, bí ẩn nên được hé lộ. Các thí nghiệm với nước có thể cho phép chúng ta vén lên bức màn bí mật này.
  14. Cảm ơn bác Thiên Sứ về những góp ý chân thành của bác! Tôi sẽ không post thêm những bài với nội dung tương tự như bác nêu trên nữa. Cảm ơn bác về việc sửa nội dung tên một topic, có điều mấy hôm sau số liệu máy chủ có vấn đề nên topic đó lại quay lại tên cũ, với thiện tâm của mình mong bác Thiên Sứ sửa lại giúp một lần nữa. Cảm ơn!
  15. Bài chia sẻ của cô Phan Thị Tám Tôi tên là Phan Thị Tám, sinh năm 1943, hiện cư ngụ tại Phường 9, quận 3, Tp.HCM. Cách đây vài chục năm tôi làm việc trong một nhà máy hóa chất độc hại, nên càng nhiều tuổi sức khỏe càng giảm. Ảnh hưởng lớn nhất là căn bệnh về phổi, đường hô hấp và viêm xoang mũi trầm trọng. Mỗi khi thời tiết thay đổi thì cái mũi, cái phổi cảm nhận trước tiên. Tôi đã đi điều trị nhiều nơi, nhiều bệnh viện mà bệnh vẫn không khỏi. Bệnh hen suyễn càng ngày càng trầm trọng, bị sốt cao, cấp cứu bệnh viện nhiều lần. Lần cấp cứu vào bệnh viện gần đây nhất là những ngày cận tết Bính Tuất. Đến 28 Tết, Bác sĩ cho tôi xuất viện để về nhà ăn Tết, rồi sau đó sẽ về điều trị tiếp, với mội toa thuốc nhiều thứ đếm trên đầu ngón tay đếm không hết! Tôi lay hoay bối rối chưa kịp mua thì Tết đã đến rồi! Như là cơ Duyên trời định, nghe tin tôi vừa đi bệnh viện về, chiều mồng Ba Tết, chị Thời Thị Tại, một đệ tử đã tu luyện Pháp Luân Đại Pháp nhiều năm qua, đến thăm và mang cho tôi quyển sách “Chuyển Pháp Luân” của Thầy Lý Hồng Chí và hai cái đĩa VCD về 5 bài luyện công cũng do Thầy Lý Hồng Chí trực tiếp hướng dẫn. “Công lực” của Thầy mà chị truyền cho tôi là thế với những chỉ dẫn sơ lược về Phát Chính Niệm. Tối hôm ấy, tuy còn hơi mệt do vừa ra viện, tôi bắt đầu đọc bộ tài liệu này từ 17h ngày 23.2.2007 đến 5h sáng ngày 24.3.2007, suốt 10 tiếng đồng hồ liền mà tôi không thấy mệt và buồn ngủ. Ngược lại tôi rất sảng khoái mà không hiểu vì sao trí óc vô cùng minh mẫn, đọc suốt không nghỉ những bài giảng của Thầy Lý Hồng Chí trong quyển “Chuyển Pháp Luân”. Tôi đã lớn tuổi lại mắc rất nhiều bệnh, tôi rất phấn khởi và quyết tâm luyện 5 bài tập của Sư Phụ. Ngày Mồng 4 Tết tôi bắt đầu tập theo đĩa hướng dẫn của Thầy, ngày tập 2 lần vào buổi sang và chiều sau khi Phát Chính Niệm. Tập vài ngày đầu, bệnh suyễn của tôi giảm rõ rệt, vì trước đây mỗi ngày tôi phải xịt thuốc 3 lần vào sáng trưa và tối. Vậy mà chỉ mới tập ngày đầu mà tôi bỏ xịt thuốc với mỗi ngày 2 xịt dự phòng, 2 xịt cắt cơn hen. Đến hôm nay qua tu luyện 6 tháng, kỳ diệu sao, bệnh suyễn của tôi không còn nữa, hàng ngày không còn xịt một giọt thuốc hen suyễn nào. Một căn bệnh nữa, phổi của tôi rất xấu, một căn bệnh nghề nghiệp lâu năm – “Đậm rốn phổi” – theo kết luận qua chụp X quang của nhiều bệnh viện. Một năm mấy lần bị sưng phổi, thường hay phát sốt về chiều, ho quanh năm, rất sợ gió, sợ lạnh, không giám vào những nơi có điều hòa nhiệt độ, uống nước lạnh hay những nơi gió, quạt tưng bừng. Qua tập luyện 6 tháng, vừa rồi tối có đến bệnh viện An Sinh, số 10 Trần Huy Liệu, Quận Phú Nhuận để kiểm tra sức khỏe. Qua siêu âm 4 chiều tim và bụng dưới, X quang phổi và thử tổng hợp máu, kết quả thật đáng mừng: Tim, phổi bình thường, nhất là phổi không còn bị nám ( đậm rốn phổi) nữa, các kết quả xét nghiệm máu đều nằm trong ngưỡng chỉ số cho phép. Các bệnh lý như gai cột sống lưng, thoái hóa cột sống cổ, thoái hóa xương chân, lưng đau nhức, tay chân chuột rút, huyết áp thấp v.v… có nhiều chuyển biến khả quan. Từ ngày tu luyện Pháp Luân Công, chỉ mới qua 6 tháng, các hiện tượng đau nhức giảm rõ rệt, các bệnh về dị ứng đường hô hấp hết hẳn, xoang mũi khô ráo, không còn nhức buốt, ăn ngon ngủ yên mà vẫn không tăng cân, da dẻ hồng hào, tươi sáng, không còn sắc diện như người mới ốm dậy. Bản thân tôi vô cùng biết ơn Sư phụ Lý Hồng Chí đã giảng cặn kẽ trong quyển sách “Chuyển Pháp Luân”. Tôi quyết tâm tu luyện Pháp Luân Công của Sư phụ và rèn luyện tâm tính của mình để ngày một tinh tấn. Việt Nam, ngày 22.8.2007 Phan Thị Tám