batuchau

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    2
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by batuchau

  1. Mặc dù sự ra đời và phát triển của Y học hiện đại, điển hình là phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Tây là một thành tựu to lớn và có ý nghĩa của loài người, tuy nhiên YHCT vẫn có vị thế quan trọng được các nước trên thế giới công nhận. Không chỉ châu Á, nhiều nước Âu, Mỹ đã bắt đầu xu hướng “trở về với tự nhiên” qua việc sử dụng ngày càng nhiều các loại thuốc có nguồn gốc cây cỏ hay các phương pháp điều trị của y học cổ truyền để dự phòng, chữa trị và nâng cao sức khỏe. 1. Mô hình bệnh tật thay đổi: – Theo Tổ chức Y tế Thế giới: Tại các nước phát triển, tỷ lệ bệnh tim mạch, đột quỵ não có xu hướng giảm rõ rệt. Trong khi các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tỉ lệ bệnh không lây nhiễm ngày càng gia tăng đến mức báo động. – Yếu tố góp phần tăng tỉ lệ bệnh không lây do: chế độ ăn uống và sinh hoạt không điều độ, ý thức phòng bệnh kém. Theo thông kê 45% dân số nam giới hút thuốc lá, 77% dân số uống rượu, chế độ dinh dưỡng không phù hợp, số người thừa cân béo phì không ngừng tăng. – Bên cạnh đó, người dân Việt Nam sử dụng muối cao gấp đôi so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (9,4gram/ngày). Tỷ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, nguy cơ tim mạch, ung thư, tâm thần được phát hiện sớm và quản lý điều trị còn thấp. 2.Thế mạnh của YHCT: – An toàn: Nhưng phương pháp và nguyên liệu được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân trong Y học cổ truyền có tính an toàn rất cao. Các loại thuốc được sử dụng chủ yếu là những nguyên liệu lấy từ thiên nhiên như thân cây, rễ cây, lá cây, quả, hoa…Do đó thường không có độc tính và tác dụng phụ đối với cơ thể người bệnh. Không những thế, quá trình chế biến thuốc cũng rất truyền thống và thủ công, dựa chủ yếu vào tự nhiên. Theo Viện Dược liệu ghi nhận trên 5.000 loài thực vật và nấm, 408 loài động vật và 75 loại khoáng vật dùng làm thuốc. Có nhiều loài được xếp vào loại quý hiếm trên thế giới như: sâm Ngọc Linh, Tam thất, Bách hợp, Thông đỏ… – YHCT là liệu pháp chăm sóc sức khỏe “êm dịu”, không can thiệp, điều biến (modification) hệ miễn dịch, củng cố sức đề kháng. 3. Nhu cầu của cộng đồng: – Theo WHO, đến 80% dân số ở các nước đang phát triển dựa vào thảo dược để chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Ở các nước phát triển, 1/4 số thuốc thống kê trong các toa thuốc đều có chứa hoạt chất thảo mộc. – Hiện trên 63 tỉnh – thành đã có 58 bệnh viện YHCT (có 8 tỉnh chưa có bệnh viện YHCT, một số tỉnh thành có 2 bệnh viện). – Thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu rất lớn. Nhu cầu sử dụng dược liệu ước tính khoảng 60-80 nghìn tấn/năm, trong đó phần lớn sử dụng cho sản xuất thuốc đông dược, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm (nguồn Thông Tấn Xã VN). 4. Xu thế sử dụng liệu pháp tự nhiên là tất yếu: – Trên thế mạnh về nguồn tài nguyên dược liệu, người dân Việt Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm lâu đời khi sử dụng các loại cây, con làm thuốc, góp phần hình thành nên một kho tàng tri thức to lớn mang bản sắc riêng của từng dân tộc, từng vùng miền. – Người nước ngoài du lịch hoặc làm việc tại Việt Nam rất ưa chuộng chăm sóc sức khỏe bằng liệu pháp tự nhiên. – Hiện có nhiều doanh nghiệp tham gia, kết hợp các nhà khoa học, và người nuôi trồng để luôn luôn có nguồn nguyên – dược liệu sử dụng làm thuốc chất lượng. Đặc biệt có nhiều cây thuốc – bài thuốc gia truyền có giá trị của đồng bào dân tộc ít người. 5. Lời kết: Xu hướng mới “phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh” và “chữa bệnh khi bệnh mới phát” luôn luôn đúng. Sử dụng liệu pháp chăm sóc sức khỏe từ tự nhiên được xem là xu hướng tiến bộ và được sự đồng thuận cao của nhiều chuyên gia y tế. Hãy cùng nhau hướng đến mục tiêu bảo tồn và phát triển nguồn cây – con làm thuốc chất lượng và tạo ra các dòng chế phẩm an toàn – hiệu quả, tiến đến tăng tuổi thọ, cải thiện tốt chất lượng cuộc sống. Theo BS. Trần Văn Năm / Nguyên Phó Viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh
  2. Bản chất của bệnh là có thể xảy ra ở bất kỳ tĩnh mạch trên cơ thể người. Bệnh xảy ra trên cả hai giới tính nam và nữ. Thường thì bệnh xảy ra ở đối tượng trên 25 tuổi.Tuy nhiên trong lâm sàng và thức tế thì bệnh có tỷ lệ lớn xảy ra nhất là ở các tĩnh mạch chi, cụ thể là chi dưới (chân) do hệ thống tĩnh mạch chân dài, cấu tạo phức tạp thường phải chịu áp lực lớn từ trọng lượng cơ thể người. Mặt khác chi dưới thuộc hệ vận động lên thường xuyên phải làm việc và có nhiều nguy cơ bị tổn thương từ môi trường ngoài. Ngoài ra bộ phận có tỷ lệ cao bị suy giãn tĩnh mạch thuộc hệ tiêu hoá, đó là trĩ. Bệnh lý của suy giãn tĩnh mạch hệ vần động (chân và tay) Mô phỏng chứng suy giãn tĩnh mạch ở chân Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO), bệnh suy giãn tĩnh mạch chân ( thuộc hệ vận động) chiếm một tỉ lệ lớn trong các trường hợp suy giãn tĩnh mạch. Theo số liệu thống kê trên toàn cầu thì có tới 70% là nứ giới mắc phải. Khi so sánh trên hai giới tính thì giới tính nữ thường có tỷ lệ mắc cao hơn nam giới do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Đối với nữ giới các yếu tố nội tiết tố, thai nghén, bệnh nghề nghiệp.. như bán hàng, thợ dệt, may,, giáo viên… do khối lượng cơ thấp so với nam giới hoặc dùng giày không thích hợp. Nguyên nhân của bệnh suy giãn tĩnh mạch hiện nay chưa được xác định rõ ràng và cụ thể . Tuy nhiên theo lâm sàng , bệnh được xác định liên quan đến một số yếu tố nguy cơ do tổn thương chức năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch ngoại biên. Các van này bị tổn thương là do: Tư thế sinh hoạt hay làm việc phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, ít vận động, phải mang vác nặng… tạo điều kiện cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân. Khám phá Các biến chứng thường gặp của bệnh suy giãn tĩnh mạch Biểu hiện bệnh suy giãn tĩnh mạch của hệ vận động Trên thăm khám lâm sàng thì các bệnh nhân bị bệnh thường có các biểu hiện như sau: Ở giai đoạn đầu tiên của bệnh suy giãn tĩnh mạch thường có các triệu chứng biểu hiện đau chân, nặng chân. Đôi khi người bệnh chỉ có cảm giác mang giày dép chật hơn bình thường; Mỏi chân, chân bị phù nhẹ khi đứng lâu ngồi nhiều. Phần lớn người bệnh bị chuột rút vào buổi tối, cảm giác bị châm kim, bứt rứt khó chịu. Nhiều mạch máu nhỏ li ti (giai đoạn đầu chỉ thấy tĩnh mạch nổi li ti, nhất là ở cổ chân và bàn chân) lổi lên ở mặt sau của chân. Những triệu chứng này thường không rõ ràng chỉ xảy ra từ 1 phút tới 3 phút ,hoặc mất đi khi nghỉ ngơi, các tĩnh mạch ở chi chưa giãn nhiều, lúc giãn, lúc không Lên khó phát hiện xuất hiện thay đổi màu sắc da do máu ứ ở tĩnh mạch lâu ngày sẽ có biểu hiện loạn dưỡng. Các tĩnh mạch tại chân có thay đổi hình dạng và kích thước . Thông thường là bệnh nhân bị trương phồng tĩnh mạch. Lên bệnh nhân thường thấy cảm giác nặng, đau nhức bắp chân, bàn chân. Khi thăm khám bằng thủ thuật y khoa sẽ thấy máu thoát ra ngoài mạch gây phù chân (bàn chân, bắp chân). Hiện tượng này không mất đi khi nghỉ ngơi, nặng hơn có thể thấy các búi tĩnh mạch trương phồng nổi rõ trên da một cách thường xuyên, các mảng tím bầm máu trên da… Giai đoạn biến chứng, gây viêm tĩnh mạch nông huyết khối (biến chứng của viêm tĩnh mạch nông huyết khối là thuyên tắc tĩnh mạch sâu đoạn gần, đoạn xa và thuyên tắc phổi), chảy máu nặng do giãn vỡ tĩnh mạch, nhiễm khuẩn vết loét của suy tĩnh mạch mạn tính. Phương pháp điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch chi – Suy giãn tĩnh mạch chi dưới Đối với các bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch thì có các phương pháp điều trị như sau – Điều trị bặng phương pháp nội khoa : mang vớ tĩnh mạch nhắm làm giảm áp lực cho tĩnh mạch và bảo về tĩnh mạch trước ngoại lực từ môi trường. Và can thiệp bằng các thuốc hỗ trợ chức năng tĩnh mạch như daflon, venocap… các thuốc có nguồn gốc là thực vật dược liệu – Điều trị băng phương pháp phẫu thuật: Stripping cắt bỏ tĩnh mạch bị thương tổn. – Điều trị bằng phương pháp can thiệp nôi mạch: là phương pháp tương đối mới như tiêm xơ bọt, phương pháp huỷ nội mạch bằng sóng cao tầng (RF) hay bằng Laser. Những phương pháp này mang tính thẩm mỹ cao, rút ngắn thời gian nằm viện.