Thích Đủ Thứ

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    370
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Thích Đủ Thứ

  1. Kkk, tay phóng viên đâu có nhầm! Hắn thòng câu rất chuẩn đấy chứ!
  2. Hị hị hị, cái đó tự bác nói chứ ko phải em! Các bác í chưa phải quan, nhưng các cụ nhà ta có câu từ ngàn đời là: Miệng quan trôn trẻ :P :P :P
  3. Lãi thì chẳng biết thế nào nói, nhưng chuẩn bị lạm phát, bác vay được tiền là được. Có điều, vay đúng lãi suất công bố thì không hề dễ dàng, vì lấy đâu ra nguồn vốn khi mà lãi suất tiền gửi thấp hơn nhiều lần lạm phát thực? Các NH duy trì được nguồn để đảm bảo cơ cấu tài sản đã khó, chưa nói cho vay mới!
  4. Sốc thì ko biết có nên gọi thế không, nhưng đã trải qua cả thời kỳ lạm phát cầu kéo lẫn chi phí đẩy rồi! Sang thời kỳ lạm phát đình đốn cộng với quả bom nổ chậm bội chi NS và bong bóng BDS thì vấn đề chỉ còn là thời gian thôi!
  5. Câu này hình như cháu giải thích cách hiểu của cháu 1 lần rồi ạ! Theo cháu hiểu thì câu này có ý nghĩa rất nhân bản, từ văn hóa thờ cúng tổ tiên của người Việt: Gia đình là nơi sinh ra ta, nuôi ta lớn, dạy ta nên người thì tối thiện là độ cho gia đình. Chợ là nơi nuôi sống ta, nơi ta tạo dựng sự nghiệp nên trung thiện là độ cho bạn bè, đồng nghiệp, khách hàng ... những người xung quanh ta. Vào chùa là kém thiện nhất vì người trong chùa đang siêu độ cho chúng sinh, người ta đang cho và đâu cần nhận mà mình đi cho nên thiện với họ khác gì chở củi về rừng! Ai đó nói "Hạnh phúc ở trên đường đi chứ không phải ở cuối con đường!" Điều này ngẫm ra cũng có ý nghĩa tương tự!
  6. Thứ nhất là tu tại gia Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa!
  7. Thực ra bên đó cũng ko phải là 1 diễn đàn vô tư lắm vì Pakistan và TQ có chung khá nhiều lợi ích, đặc biệt là trong việc cùng kìm hãm Ấn Độ. Việc VN và Ấn Độ tăng cường hợp tác khiến cho Admin của Diễn đàn đó cũng có hơi hướng nghiêng về phe TQ. Cộng với việc rất nhiều thành viên của Diễn đàn đó là học viên các học viện quân sự của TQ, BQT của Diễn đàn đó có một số người từng học tại TQ nên các thành viên VN chịu thiệt thòi không có gì là khó hiểu! Mình cũng phải nói thực, cách tranh luận của VTB với nick Binhminh02 bên đó hơi cực đoan, điều này chỉ có lợi cho bọn Khựa có cơ hội phản pháo thôi! Với bọn Khựa thì cứ gọi nó là Rùa đen thì nó cú lắm, khỉ không khiến chúng cay cú bằng đâu :P :P :P Vụ 4 ngàn năm lịch sử thì có 1 âm mưu từ những năm 1960s. Nhiều người biết được nhưng bất lực bởi điều kiện lịch sử khiến ta phải phụ thuộc quá nhiều! Giờ đây, nếu muốn lật lại thế cờ với khí thế của khởi nghĩa Lam Sơn thì phải có Bình Ngô sách, không thể hành động tùy hứng mà lộ cơ, tự làm yếu mình! Trân trọng!
  8. Bắt đầu những tín hiệu khó khăn kinh tế đầu tiên. Không biết so với Vinashin thì vụ này thế nào! ================================= Tập đoàn Sông Đà: Thua lỗ, khó trả nợ nước ngoài Tác giả: PV Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước Món nợ vay nước ngoài của Tập đoàn Sông Đà có thể sẽ khó trả được đúng hạn khoản vay để đầu tư cho dự án xi măng Hạ Long Nguyên nhân do công ty cổ phần xi măng Hạ Long, thành viên của tập đoàn, bị thua lỗ, khó có khả năng trả nợ đúng hạn. Được biết, Tập đoàn Sông Đà hiện đang gặp khó khăn trong việc cân đối vốn trả nợ các ngân hàng nước ngoài do một khoản nợ lớn từ công ty thành viên - công ty cổ phần xi măng Hạ Long. Trước đây, Bộ Tài chính được Thủ tướng Chính phủ giao đứng ra bảo lãnh cho công ty cổ phần xi măng Hạ Long vay vốn nước ngoài, nhưng thực tế Bộ đã bảo lãnh cho tổng công ty Sông Đà (nay đã sáp nhập, làm nòng cốt trong tập đoàn Sông Đà) vay. Sau đó, tổng công ty này ký hợp đồng cho công ty cổ phần ximăng Hạ Long vay lại trên 3.335 tỉ đồng, bằng lãi suất vay của các ngân hàng nước ngoài. Do đó, việc trả nợ của tổng công ty Sông Đà hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng trả nợ của công ty cổ phần xi măng Hạ Long. Tuy nhiên, dự án nhà máy xi măng Hạ Long sau đó lại bị chậm tiến độ 1 năm và bị thua lỗ (năm 2009 lỗ 78 tỉ đồng, năm 2010 lỗ 500 tỉ đồng) và đến nay đã đến kỳ trả nợ gốc cho ngân hàng nước ngoài (khoảng 400 tỉ đồng/năm), nhưng xi măng Hạ Long khó có khả năng trả nợ đúng hạn. Trước đó, hồi tháng 8/2011, một số công ty thuộc Tập đoàn Sông Đà đã làm đơn xin hỗ trợ trả nợ nước ngoài. Cụ thể, thời điểm đó Bộ Xây dựng đã có công văn gửi Bộ Tài chính về việc một số công ty thuộc Tập đoàn Sông Đà khó khăn không trả được nợ nước ngoài và đề nghị Bộ Tài chính cho vay trả nợ. Cụ thể, CTCP xi măng Đồng Bành làm nhà máy xi măng nhưng do mới hoạt động gặp nhiều khó khăn nên năm 2011 công ty thiếu 141 tỉ đồng để trả nợ gốc và lãi, trong đó có 3,4 triệu USD nợ Ngân hàng ANZ (khoản vay được Bộ Tài chính bảo lãnh). Từ năm 2011-2015, công ty thiếu 607 tỉ đồng để trả nợ các tổ chức tín dụng và bù đắp nguồn tiền mất cân đối. Trước đó, Tập đoàn Sông Đà đã có văn bản gửi Bộ Xây dựng về việc vay vốn trả nợ Ngân hàng ANZ cho một doanh nghiệp khác là Tổng công ty Cơ khí xây dựng, trong đó có nêu về tình hình tài chính của Tập đoàn Sông Đà đang gặp khó khăn nên chưa thể hỗ trợ ngay cho doanh nghiệp này trong việc góp vốn theo cam kết vào CTCP xi măng Đồng Bành.
  9. Oái, VTB với bác Hungnguyen chiến đấu bên đó à? Nick là j vậy? Thi thoảng em cũng hay đá qua đó nghía coi, nhưng cũng ko tham gia! Nếu ko nhầm chắc VTB là cái nick j chiến đấu rất hăng vụ tàu hải giám cắt cáp thì phải! Em chưa và chắc sẽ không có điều kiện tranh luận về học thuật, nhưng với những gì tự trải qua trong cuộc sống, em thấy nó phù hợp với đại đa số bình dân. Nước là ví dụ: nếu ko cuốn phăng đi được, nó sẽ từ từ bào mòn, khiến cho vạn vật dần dần đánh mất chính mình! Đây cũng là chính sách được TQ áp dụng đối với các dân tộc láng giềng và có nguy cơ thành công ở VN. Trong Tam Quốc, có đoạn Gia Cát Lượng tranh biện với nhân sỹ Đông Ngô! Chẳng phải tranh luận với lũ hủ nho, Gia Cát cũng tầm chương trích cú, bẻ gãy lý luận của lũ kinh viện ấy bằng chính lý lẽ của chúng ư? Và ở thời điểm thích hợp, chỉ cần 1 vài lý luận của mình thêm vào là thành cú knock-out hạ gục đối phương! Tất nhiên, thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo thời thế vẫn còn tranh luận. Tạo thanh thế, danh tiếng cũng quan trọng, nhưng để giành chiến thắng chung cuộc mới là cốt yếu. Để đạt được chiến thắng chung cuộc, cần phải hội tụ nhiều yếu tố nhưng yếu tố ứng biến của người cầm chương là yếu tố cực kỳ quan trọng!
  10. Bài 1: Bí ẩn về ngôi đình 'xe tăng kéo không đổ' - Hơn 2 giờ đồng hồ, 4 chiếc xe tăng quần thảo gầm rú kéo nhưng ngôi đình vẫn đứng trơ trơ. Thấy ngôi đình không sập, bọn lính đi càn cứ tưởng ngôi đình quá thiêng nên sì sụp lạy trước khi lên xe kéo quân chạy ra khỏi làng... Huyền thoại về ngôi đình cổ ẩn chứa bao điều bí ẩn cũng như cây rõi hàng trăm năm tuổi sừng sứng giữa trời xanh với bao chuyện hoang đường về cây cổ thụ biết tránh bom đạn để bảo vệ dân làng qua những biến cố đau thương những năm chiến tranh ác liệt vẫn là bí ẩn chưa có lời giải thích...Huyền thoại ngôi đình cổ Ngôi đình làng cổ Thạch Tân (xã Tam Thăng, TP. Tam Kỳ, Quảng Nam) xây dựng từ năm nào chẳng ai nhớ nổi. Trong ký ức của mình, những bậc cao niên nơi vùng cát này chỉ biết một điều rằng đình làng Thạch Tân xây cùng lúc với đình Chiên Đàn nổi tiếng chỉ cách làng Thạch Tân khoảng 1 km đường chim bay. Ông Lê Khắc Phiến chỉ nơi dấu tích dây xích sắt xe tăng Mỹ kéo vẫn còn in dấu trên cột đình cổ Thạch Tân. Ông Lê Khắc Phiến, nguyên Trưởng An ninh Thạch Tân, người bám trụ tại làng Thạch Tân suốt những năm chiến tranh ác liệt nhớ lại cảnh đạn bom cày xới và những trận càn kinh hoàng của lính Mỹ biến vùng đất cát này thành hoang mạc không một bóng cây."Đến mãi bây giờ tui vẫn không thể nào lý giải được vì sao ngôi đình cổ vẫn tồn tại. Tui không nói là mê tín, nhưng có những điều khó mà lý giải được vì sao...?” - ông Phiến kể. Những kỳ tích nơi đình làng này dẫu lịch sử được ghi lại rõ ràng, nhưng vẫn còn đó nhiều bí ẩn mà rất ít người biết. Nơi ngôi đình cổ toạ lạc chỉ cách tỉnh đường Quảng Tín (nay là trụ sở UBND tỉnh Quảng Nam) chưa đầy 1,5 km đường chim bay. Cách quốc lộ 1A và các cứ điểm chốt chặn của lính Mỹ khoảng hơn 800 m. Thế nhưng, ngay dưới đình làng này là kho chứa lương thực cùng trạm xá dã chiến của quân giải phóng và là cửa chính của hệ thống địa đạo dài hơn 38 km kéo dài qua nhiều làng xóm xuống tận sát biển. Mặc dù nằm sát nách các đồn bốt, các cứ điểm chốt chặn và trung tâm đầu não của chế độ cũ, nhưng suốt nhiều năm dài, quân địch không hề hay biết dưới lòng đất đình làng Thạch Tân là cứ điểm quan trọng của lực lượng quân giải phóng và du kích địa phương bám trụ nơi vùng ven biển bị cày trắng này. Sức mạnh kỳ bí từ ngôi đình cổ Lục trong trí nhớ tuổi tác già nua của mình, ông Phiến cùng những cụ già nơi làng Thạch Tân này bắt đầu kể lại buổi chiều kinh hoàng mà mãi mãi ông không thể nào quên. Đó là vào một buổi chiều tháng 2 sau tết Mậu thân 1968, trong số chiến sĩ của Huyện đội Bắc Tam Kỳ bất ngờ có một người tên Cẩm ra hàng giặc và khai báo toàn bộ cơ sở và hệ thống địa đạo dưới lòng đất đình làng Thạch Tân. Đình làng cổ Thạch Tân với bao huyền thoại vẫn trường tồn qua hơn 300 năm Ngay sau đó, một lực lượng lính Mỹ hùng hậu bắt đầu càn quét với mục tiêu san phẳng ngôi đình cổ và đánh bật khu địa đạo dưới lòng cát trắng để tiêu diệt quân giải phóng.Nhiều bậc cao niên nơi làng Thạch Tân vẫn còn nhớ như in trận càn quét kinh hoàng vào làng trong buổi sáng tháng 2 sau tết Mậu thân 1968. Trên trời có máy bay yểm trợ, dưới đất thì chia thành 4 cánh quân, mỗi cánh có 6 xe bọc thép M113 dẫn đầu, hùng hổ tiến vào làng. Trước khi càn quét, pháo từ căn cứ Chu Lai, Tuần Dưỡng cách đó hơn 10 km đường chim bay bắn cấp tập dọn đường. Cả làng Thạch Tân bé nhỏ bị cày xới. Tên Cẩm dẫn lính Mỹ và một số lính Sài Gòn đi theo làm phiên dịch, xông thẳng tới nhà ông Tân nằm cạnh đình làng. Lúc này, ông Tân đã ngoài 68 tuổi, điềm nhiên ngồi chẻ tre đan rổ trước hiên nhà. Toán lính Mỹ xông vào bắt trói ông Tân và cô con gái 12 tuổi lôi ra miệng địa đạo đánh đập dã man và bắt hai cha con ông phải gọi bộ đội dưới địa đạo lên hàng. Bọn lính Mỹ đánh đập tra khảo cha con ông Tân từ sáng đến chiều khiến ông Tân như chết đi sống lại nhiều lần nhưng vẫn không khai thác được thông tin. Cuối cùng, bọn chúng dùng dây dù trói giật cánh khuỷu và dòng dây buộc ông bò xuống địa đạo bảo du kích, bộ đội ra hàng. Trên miệng hầm, chúng giữ dây dù và thả dần xuống; đồng thời cũng lăm lăm súng đe dọa, nếu ông Tân không nghe lời sẽ bắn tan xác cô con gái. Còn ông Phiến nhớ lại: Lúc đó tui cùng ông Nguyễn Đinh ngồi ngoài gần miệng hầm nên nghe rõ bọn Mỹ tra tấn và yêu cầu cha con ông Tân 'kêu gọi Việt Cộng lên đầu hàng'. Lúc đó tui bàn tính với anh Đinh là bằng mọi giá phải giải cứu cha con ông Tân. Nhưng bằng cách nào thì chưa nghĩ ra. "Khi đối mặt với chuyện sinh tử của hai cha con ông Tân trên miệng hầm địa đạo, anh em tụi tui cũng đang cận kề với cái chết thế mà bình tĩnh đến lạ lùng. Đúng là trong cái khó ló cái khôn anh ạ...” - ông Phiến bồi hồi nhớ lại. “Lúc đó tui và anh Đinh nhanh chóng hội ý phương án: Khi ông Tân xuống hầm, hai anh em sẽ đón ông Tân và bảo ông Tân quay lại lên, giả vờ khóc nói với bọn chúng là ở dưới hầm tối quá, mắt mờ không nhìn thấy nên cần có con gái bò trước dẫn đường để kêu gọi 'Việt cộng ra đầu hàng'... - ông Phiến kể. Khi cha con ông Tân xuống địa đạo, ông giữ chặt dây trói ông Tân mà lần tới như thể ông Tân đang bò để giặc khỏi nghi ngờ, còn ông Đinh nhanh chóng dùng dao cắt dây trói cho ông Tân. Sau đó ông Đinh đưa cha con ông Tân sang ngách hầm khác, dùng bao đất lấp lại. “Khi miệng ngách thông chỉ còn vừa lọt người qua, tui cột dây dù vào rễ cây dưới địa đạo, rồi tuồn qua lỗ ngách lấy bao đất lấp kín lại kiên cố hơn. Sau đó, mọi người di chuyển trong địa đạo đi chỗ khác". Một góc đình làng cổ Thạch Tân Ở bên trên, giật dây một hồi không thấy cha con ông Tân quay lên, bọn giặc tập trung súng phun lửa bắn xuống, ném theo hàng trăm quả lựu đạn. Rồi đổ xuống mấy thùng chất độc hòng giết chết người dưới địa đạo.Nhưng, ngách thông đã lấp kín nên hàng nghìn người dưới địa đạo không hề ảnh hưởng. Tức tối vì để thoát cha con ông Tân, cũng chẳng bắt được tên Việt cộng nào, bọn lính Mỹ đi càn bắt đầu dùng mìn dây và dây xích cột vào hai hàng cột gian giữa đình làng Thạch Tân rồi cho 4 xe bọc thép đồng loạt nổ máy kéo đánh sập đình làng. Nhưng hơn 2 giờ đồng hồ 4 chiếc xe tăng quần thảo gầm rú kéo nhưng ngôi đình vẫn đứng trơ trơ giữa cát trắng. Thấy ngôi đình không sập, bọn lính đi càn cứ tưởng ngôi đình quá thiêng nên sì sụp lạy trước khi lên xe kéo quân chạy ra khỏi làng... Vũ Trung (Còn tiếp)
  11. Cháu từng rất tâm đắc với câu của cụ Nguyễn Công Hoan: "chó cứ sủa, đoàn người cứ đi". Tuy nhiên, các cụ có câu: đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy! Nếu ta cứ nói theo cách của ta, họ hiểu theo cách của họ thì sẽ chẳng đạt được kết quả tốt đẹp nào cả! Vậy mục đích của tri thức là gì? Tri thức vị trí thức hay tri thức vị nhân sinh? Ngày xưa, chuyện Bá Di, Thúc Tề không ăn lúa nhà Chu cuối cùng cũng chỉ để lại cho đời 1 sự tích, 1 câu chuyện đa nghĩa. Tất nhiên, so với bài ca dao Thằng Bờm thì còn thua xa, nhưng thiên hạ xưa nay mấy ai hiểu và muốn được như Bờm cười trước sự xôn xao của đời!
  12. Hôm nay cũng là kỷ niệm sự kiện Trường Sa năm 1988 nên sự kiện này được đẩy lên mức cực điểm trên mạng. Dạo qua các Diễn đàn mới thấy giáo sư Thayer người Úc dùng từ rất chuẩn: Người VN có thể thờ ơ với rất nhiều thứ, kể cả chính trị nhưng cứ nghe đánh nhau với Tàu là "vằn máu mắt lên" quyết ăn thua! Nhiều chỗ, không biết ấu trĩ hay bị điều khiển vẫn có những phản ứng đáng lên án, kể cả Vietnamnet nhưng đa số mọi người đều cực lực phản đối việc bắt buộc đưa vào hoặc dùng từ ngữ lập lờ. Rất nhiều người trong đó có tôi bị treo nick ở 1 số Diễn đàn do phản ứng với thái độ của BQT và 1 số thành viên đáng ngờ nên đã sử dụng câu từ nhạy cảm. Tuy nhiên, điều đó không sao, trong dịp kỷ niệm này, dù bị như vậy nhưng mình cũng tự hào góp phần nhỏ bé vào việc đính chính được đưa ra khoảng 16h30 chiều nay. Sự kiện này, nếu không được quan tâm đúng mức chắc cũng trở thành "sự đã rồi" như sự kiện cờ 6 sao vừa qua, cuối cùng chỉ lỗi của anh thợ in. Như chú Thiên Sứ đã phân tích, nó trở thành miếng "kê lặc" không dễ nuốt và sẽ trở thành tiền lệ tích cực cho phản biện xã hội! Hy vọng sự kiện này sẽ trở thành điểm uốn trong biểu đồ hiển thị công cuộc phục hưng nền văn hiến Việt của nòi giống Lạc Hồng!
  13. Nếu so trong cộng đồng các dân tộc VN như luận điệu trong bài báo, tiếng Hoa phải xếp sau tiếng Tày và tiếng Thái! Nếu xét về ý nghĩa lịch sử, phải học Hán Nôm chứ không phải tiếng Hoa Nếu xét về hàm lượng tri thức, nên học tiếng Anh (kinh tế), tiếng Pháp (văn hóa), tiếng Nga, Latin (khoa học) ... Học tiếng Hoa để hàng hóa Tàu đưa sang đỡ phải in bao bì tiếng Việt chăng??? Hay những người soạn ra chương trình này nghĩ rằng đang khai hóa cho dân ta, được học tiếng "quan thoại" chứ không phải "dân thoại" Vẫn câu hỏi: Ai, ở đâu và khi nào?
  14. Tôi thấy đạo Phật có một câu rất hay là buông dao xuống là thành Phật! Phật không chê ai ngu muội, không chê ai hung ác mà chỉ nói chưa hướng thiện. Người ta chưa có điều kiện, chưa biết thì đó là thiệt thòi của người ta, mình không chỉ giáo để người ta tỉnh bến mê mà lại buông lời mạt sát là sao? Trong khí phách có hai phần: khí tiên thiên và khí hàm dưỡng. Khí tiên thiên cũng như hình thức của con người, là của trời cho, khó mà so bì được nhưng khí hàm dưỡng và tri thức của con người giống nhau ở chỗ có thể so sánh, đo đếm được, rèn luyện được. Hãy chứng tỏ bản lĩnh ở khí hàm dưỡng, chứ đừng buông lời tuyệt tình như vậy! Tờ báo mạng này chỉ là 1 trong hàng ngàn tờ báo mạng hiện nay, nằm trong hệ thống thông tin đại chúng chứ chưa phải cơ quan ngôn luận chính thức. Việc một phóng viên nào đó nói người nào đó là "một trong những nhà phong thủy hàng đầu" thiết nghĩ cũng chẳng mấy giá trị! Trân trọng!
  15. Trong ví dụ của chú về quả cà chua và con dao, cháu hiểu là xét theo đại lượng đồng đẳng là màu sắc thì hỏa khắc kim, đặt quả cà chua cạnh con dao thì thị giác con người sẽ nhìn thấy quả cà chua trước, đúng không ạ! Còn xét theo đại lượng đồng đẳng là vật chất thì quả cà chua là sản phẩm thuộc mộc, con dao bằng kim loại, vậy con dao bổ quả cà chua là kim khắc mộc là hợp lý ạ!!!
  16. Toàn cảnh vụ vỡ nợ của Hy Lạp Thỏa thuận hoán đổi nợ kỷ lục cùng với gói cứu trợ 130 tỷ euro của châu Âu vẫn chưa thể đẩy lùi nguy cơ vỡ nợ của Hy Lạp. Thâm hụt ngân sách đến năm 2020 của quốc gia này được dự báo vẫn ở mức 120% GDP. > Hy Lạp - Người khổng lồ ngủ quên trên nợ > Moody's tuyên bố Hy Lạp vỡ nợ Cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm đều cho rằng Hy Lạp đã vỡ nợ. Ảnh minh họa. Từ những ngày đầu gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 1/2001 sau khi gây áp lực nhằm vượt qua tiêu chuẩn nợ công 3% GDP của eurozone, Hy Lạp có một thời kỳ dài thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP đạt 4,3% (2001 - 2007), cao hơn so với mức trung bình của eurozone là 3,1% nhưng chi tiêu chính phủ Hy Lạp tăng tới 87% trong khi mức thu chỉ tăng 37%. Sau công cuộc đầu tư "khủng" cho Thế vận hội Athens năm 2004, Hy Lạp còn lại một ngân sách rỗng với tỷ lệ bội chi khoảng 8%, cao gấp gần 3 lần tiêu chuẩn của eurozone. Năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành công nghiệp chủ đạo của Hy Lạp đều bị ảnh hưởng mạnh. Ngành du lịch và vận tải biển đều có mức sụt giảm doanh thu tới 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế, Chính phủ lại buộc phải tăng chi tiêu công nhằm kích thích tăng trưởng. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của Hy Lạp ước đạt 216 tỷ euro, nợ lũy kế bằng 130% GDP. Hy Lạp đứng trước nguy cơ vỡ nợ Trong gần một thập kỷ, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD và đầu tư dàn trải vào cơ sở hạ tầng trong khi không hề có kế hoạch trả nợ. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài khiến Hy Lạp dễ chịu tổn thương khi niềm tin nhà đầu tư thay đổi. "Giọt nước tràn ly" trong trường hợp của Hy Lạp là việc bị phanh phui những dối trá trong số liệu báo cáo của chính phủ tiền nhiệm. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải ở mức 12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Viễn cảnh xám xịt của nền kinh tế thế giới Nhiều dự báo ngay lập tức được đưa ra cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121-125% GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trường tài chính. Ngày 7/12/2009, S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch đánh tụt điểm số của nền kinh tế này từ A- xuống còn BBB+. Không còn bức tranh kinh tế đầy màu hồng và những lời hứa hẹn về chính sách khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để có tiền cho ngân sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 1/2010, lên 9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào tháng 7/2011. Lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm. Ảnh: ECB Những ngày cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách với dự báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín nhiệm quốc gia này tiếp tục bị đánh tụt về mức BBB- của S&P. Một lần nữa, Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách về 8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài bất ổn xã hội do làn sóng biểu tình phản đối của người dân. Nội lực không đủ vực dậy nền kinh tế lớn thứ 27 thế giới, Hy Lạp trở thành mắt xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino. Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010, IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ euro (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà IMF dành để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ euro (tương đương 13,98 tỷ USD). Từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã mua khoảng 45 tỷ euro trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh khoản mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ euro vào tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ euro vào tháng 5/2011. Đáp lại, ngày 21/10, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm tăng thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162% GDP. Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối cùng của châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần 121% GDP vào năm 2020. Bạo loạn tại Hy Lạp khi chính phủ thông qua chính sách cắt giảm chi tiêu mới. Ảnh: AFP Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng bị một hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần. Châu Âu có thể cứu được Hy Lạp với thỏa thuận hoán đổi nợ kỷ lục, với những gói cứu trợ lên tới hàng trăm tỷ EUR, nhưng Hy Lạp không còn là vấn đề duy nhất của khu vực này. Cơn hỗn loạn tài chính đã lan đến Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo sẽ là Italy. Theo thống kê của Financial Times, giá trị thị trường trái phiếu của Italy hiện nay là khoảng 1.900 tỷ euro, quá lớn so với mức 440 tỷ của Quỹ ổn định tài chính châu Âu (EFSF)> Điều này cũng có nghĩa là EFSF chỉ đủ tiền để mua lại khoảng 20% số trái phiếu của Italy. Italy là nền kinh tế lớn thứ ba khu vực đồng ruro, lớn hơn rất nhiều Hy Lạp, Ireland hay Bồ Đào Nha, chính vì thế các nhà phân tích cho rằng, không thể có gói giải cứu nào đủ lớn cho Italy. Những hệ lụy khủng khiếp nếu Hy Lạp vỡ nợ Quỳnh Anh
  17. Nếu không có tình tiết mới, 3 thanh niên này sẽ phải chấp hành hết hạn tù vì huyệt Dương Minh mà bà Hồng đề cập đến chưa được đề cập đến trong bất kỳ sách nào và giáo trình nào! Muốn được công nhận để minh oan, bà Hồng sẽ phải chứng minh cơ sở khoa học của huyệt này cho 1 Hội đồng, để người khác cũng có thể nhìn vào huyệt Dương Minh mà kết luận chính xác chứ không thể chỉ 1 mình bà biết nhìn vào đó mà kết luận. Như vậy sẽ tránh được việc phụ thuộc vào cá nhân bà Hồng và rủi ro cảm tính cá nhân!
  18. Hôm nay lang thang vào xem lại hình ảnh xưa về VN, đọc bài này thấy cũng hay! Rất mong bác Lãn Miên vào góp sức vì bài viết của tác giả cũng vận dụng những kiến thức về ngôn ngữ học và biến âm Hán - Việt, những kiến thức chuyên môn của ngôn ngữ học! Tảnmạn về bức vẽ ‘Hiếu-Ức-Quốc’ (phần1) (Họa phẩm cổ nhất liên hệ đến ViệtNam/Đại Việt) Họa phẩm bên dưới cho thấy hình ảnh các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc - dịch âm HánViệt/HV trực tiếp từ chữ Trung Hoa/TH bên góc phải - rất đáng chú ý từ nhiềuphương diện. Phần này tóm tắt cách nhìn từ quá trình phục hồi âm cổ để đưa ramột giải thích, hi vọng sẽ thấy được nghĩa chính xác hơn của cụm từ‘Hiếu-Ức-Quốc’ này. 1. Bức tranh này được đăng trên mạng ‘Việt Nam hìnhảnh xưa’ của Nguyễn Tấn Lộc1, trích lại từ cuốn “Đất Việt Trời Nam”của tác giả Việt Điểu Thái Văn Kiểm - xuất bản ngày 22-08-1960 tại Sàigòn. Theolời trích thì ‘…Một họa phẩm danh tiếng của Lý-Công-Lân hay Lý-Long-Miên, ngườiđất Chu, đại thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩalà nước của những người có lòng hiếu thảo, tức là nước Đại Việt…’. Đọc xong lờigiải thích, người viết rất thắc mắc vì có thể Hiếu-Ức-Quốc chỉ là dạng phiên âm(của một tiếng ngoại quốc dùng các âm Hán Trung Cổ) chứ không mang nghĩa đặc biệtgì cả, như những ghi nhận sau đây. 2. Hiếu2 HV đọc là xiào (theo pinyin/phiên âm Bắc Kinh/BK) bây giờ. Ức HV đọc là yì BK bây giờ, nghĩa là trước ngực -ngực với phụ âm đầu ng- và phụ âm cuối –c cho thấy một dạng âm cổ hơn. Quốc HVđọc là guó BK bây giờ, dạng HV vẫncòn duy trì âm cuối –c3. Hiếu/xiào có dạng âm Hán Cổ ra sao ? Thật ra hiếu HV đã là một dạng âm cổ còn duytrì trong tiếng Việt. Ta có thể tìm thêm vài manh mối trong các từ có chữ hiếulàm thành phần hài thanh/HT sẽ thấy rõ hơn. Hao HV viết bằng bộ khẩu hợp vớichữ hiếu HT là la hét, mà tiếng Việt còn có từ gào (thét), cũng như các từ HVkhác như khiếu (kêu to) . Thêm vào đó là liên hệ rất gần4 giữa haiphụ âm h và k để ta có thể khôi phục âm cổ của hiếu/xiào là *khjô/kjô – so vớidạng âm Hán Trung Cổ thường thấy là *kheo (phiên âm theo tiếng Việt). Còn ức/yìcó dạng âm Hán Cổ ra sao? Ta để ý yì cònlà giọng BK cho dịch/*diệt hay cũng là âm Hán Trung Cổ với phụ âm cuối –t :thành ra hai âm hiếu ức, ngược dòng thời gian hơn 1000 năm, có thể đọc như là *kjô *diệt. Hai âm này rất gầnvới hai âm CồViệt (đọc theo giọng Nam), tên của nước Việt Nam thời ĐinhBộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (968) – tên này được dùng nhiều năm sau đó – phù hợpvới khoảng thời gian bức họa của Lý-Công-Lân ra đời (thời Tống 960-1279 SCN).Đại trong Đại Cồ Việt chỉ là tiếng thêm vào cho oai vệ như các cách dùng (nước)Đại Hán, Đại Thanh, Đại Nam, Đại Việt, Đại Pháp, Đại nhân … Ngay cả trong tiếngAnh thuộc họ Ấn-Âu ta còn thấy nước Anh gọi là ‘Great Britain’ (nước Đại Anh). 3. Trong cách phiên âm của tiếng nước ngoài vào tiếngTH, ta nhận thấy những trường hợp như sau : nước Mĩ/Mỹ là Mỹ Quốc HV hay MĕiguóBK, mĕi là mỹ (đẹp); Nước Pháp là Pháp Quốc HV hay Făguó BK, fă là pháp(luật) …v.v… Các âm Mỹ hay Pháp đều là âm tương đương của me- (trong chữ America, dấunhấn vần thứ hai a-me’-ri-ca) và âm rút gọn của Pha-Lăng-sa (France, âmđầu). Nếu dựa trên các chữ mỹ để giải thích nước Mĩ/Mỹ có nhiều người đẹp, haynước Pháp có nhiều luật lệ thì e không được ổn cho lắm : ta đã lầm phiên âmthành ra phiên nghĩa…v.v… Đây có thể là trường hợp của “Hiếu-Ức-Quốc” ghi trongphần 1 ở trên. 4. Một lầm lẫn rất thường gặp là dùng hệ thống âmthanh hiện tại để gán ghép vào hệ thống âm thanh trong quá khứ, nhất là khikhoảng cách thời gian rất lớn (như cả ngàn năm đã qua chẳng hạn). Ngôn ngữ conngười luôn luôn thay đổi, theo thời gian để cho các tiếng cổ và theo không gianđể cho các tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ…). Sự thay đổi này còn đượcghi trên giấy tờ rõ ràng như tên thành phố Bắc Kinh, Nam Kinh : thế hệ bây giờthường đọc là Bây-Ching (theo giọng Phổ Thông BK, bĕijīng) hay Nan-Ching(Nánjīng BK), nhưng các báo chí sách vở từ trăm năm qua vẫn thường ghi làPeking, Nanking … và ta vẫn cứ gọi là Bắc Kinh, Nam Kinh khi nói chuyện hàngngày. Bắc HV còn duy trì âm cổ cuối –k (cũng như một số giọng miền Nam TH nhưQuảng Đông, Hẹ) và phụ âm cổ đầu k- của Kinh (thay vì ngạc hoá thành một dạngch-). 5. Cách dùng hiếu ức có vẻ gượng ép, so với những cáchdùng HV khác như hiếu tâm (lòng hiếu thảo5), hiếu tính (tính hiếuthảo của con đối với cha mẹ), hiếu đạo (đạo phụng dưỡng cha mẹ), hiếu thuận(hiếu thảo và phục tùng cha mẹ), hiếu nữ (người con gái có hiếu), hiếu tử (concó hiếu, con đang có tang cha mẹ) …v.v… 6. Cồ7 hay cù HV viết bằng bộ mục, giọng BKbây giờ là jù, qú, qū, jí, jī so với giọng Quảng Đông keoi4, geoi3, geoi6,geoi2 và âm Hẹ là ki1, gi5 … và âm Hán Trung Cổ phục hồi là *kuH (hay *gjuH),rất gần âm cù. Việt HV hay yuè BK có âm Hán Trung Cổ là *hjwot và âm Hán ThượngCổ6 phục hồi là *wjat (rất gần âm Việt, giọng Bắc môi hoá cao độ chora âm v-). Tiếng TH hiện tại không có phụ âm môi xát v- như tiếng Việt. Tómlại, ‘Hiếu-Ức-Quốc’ có thể là phiên âm của Cồ-Việt-Quốc (nước Cồ Việt), phù hợpvới tên nước Việt Namvào khoảng thời gian đó cũng như phù hợp với các cách đọc âm Hán Trung Cổ phụchồi. Phụ chú và phê bình thêm (1) địa chỉ mạng http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm : có nhiều hình ảnh xưa và nay cùng các tàiliệu ít gặp (cập nhật tháng 3 năm 2007 từ lúc lên mạng năm 2000). Bức tranh nàyđược lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris. (2) chữ hiếu viết bằng bộ tử (con), các hình khắc cổtrên giáp cốt văn, kim văn, tiểu truyện … cho thấy một đứa bé (ở dưới) dắt một ông già (râu dài) – nói lên sự tônkính/giúp đỡ người già hay cha mẹ nói riêng. Đây là một chữ mà trong tiếng Anhthuộc họ Ấn Âu không có một chữ hay nhóm chữ nào tương đương (‘filial piety’chỉ là một nhóm chữ dịch gần đúng, cũng như áo dài dịch là ‘long dress’ vậy).Chữ này tóm tắt truyền thống Á Đông chúng ta và có thể viết cả mấy bộ sách vềđề tài này mà vẫn chưa hết ý! Có tác giả (như G. D. Wilder và J. H. Ingramtrong “Analysis of Chinese Characters” 1974) cho rằng chữ hiếu viết bằng bộ tửhợp với chữ lão HT, nhưng bây giờ chữ viết đã thay đổi mà ta chỉ còn một nửachữ lão trong chữ hiếu. Điều này cũng có lý nếu ta để ý các liên hệ ngữ âmlão/khảo, cố, cổ, cũ, cụ, cựu, hủ … cho thấy phụ âm cuối lưỡi và thanh hầu chothấy dạng âm cổ của hiếu có thể là *cổ/cồ (3) các phụ âm cuối vô thanh (voiceless) và tắc (stop)-p/t/k thườnghiện diện trong các tiếng phía Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến,Tiều Châu … và âm Hán Trung Cổ khi phục hồi cũng có các dạng âm cuối này. GiọngBK thường có khuynh hướng mất đi các âm cuối này như các âm yì (ức) và guó(quốc) trên. (4) xem thêm liên hệ h-k trong bài “Nguồn gốc Việt Namcủa tên 12 con giáp - Hợi/cúi – heo (phần 5)” cùng tác giả. Chiều biến âm g/k> h có thể thấy rõ khi so sánh tiếng Phạn (Sanskrit) agama (kinh A-Hàm),ganga (sông Hằng Hà) …Các bài này đăng trên mạng khoahoc.net (các số lưu trữnăm 2006/2007) hay dunglac.net, anviettoancau.net (5) các định nghĩa trích từ cuốn “Hán Việt Tự Điển” –SàiGòn (1960), bản cập nhật (revised edition) – NXB DAINAM (1987), California(USA). (6) theo William Baxter trong cuốn “A Handbook of OldChinese Phonology” – NXB Mouton de Gruyter (1992). Theo Edwin Pulleyblank trongcuốn “Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, lateMiddle Chinese, and early Mandarin” – NXB University of British Columbia(1991), thì âm Hán Trung Cổ phục hồi có dạng wuat. Theo người viết, dạng*diệt/*juat (giọng Nam,môi hoá w- không nhiều) thành ra gần với âm Hán Trung Cổ của ức là *ik/*jiathơn, phản ánh qua cách đọc yì BK bây giờ. (7) Cồ là to lớn : chữ Nôm có những cách viết như cùHV (nghĩa là sợ, một họ người TH), cù HV hợp với chữ cổ, cù HV hợp với chữ đại… Ta có các cách dùng như gà cồ, vịt cồ … Trong “Cư Trần Lạc Đạo” (thế kỷ XIII)có câu ‘…mến đức cồ kiêng bùi ngọt…’. Tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi nhận (tênNôm) Đại-Cồ-Việt trong giai đoạn hình thành chữ Nôm, so với các tên gọi Bố CáiĐại Vương (Phùng Hưng, thế kỷ VIII) trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm” NXBNgày Nay (2002). Chữ cù HV còn được dùng làm thành phần HT trong quá trình cấutạo chữ Hán, hay để phiên âm Gautama (Cù Đàm, Cồ Đàm … một tên gọi của họThích/Sakya - họ của đức Phật Tổ). Link: http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm
  19. Đây là bức vẽ với tên tranh trên đó:
  20. Học giả Mỹ bàn về ngoại giao nước lớn tại biển Đông Tuần Việt Nam tiếp tục giới thiệu độc giả báo cáo mới nhất của các chuyên gia cố vấn Mỹ về biển Đông. Sau đây là nhận định của Ian Storey về chính sách ngoại giao của Trung Quốc tại khu vực này trong thời gian tới. Các hành động ngày càng xác quyết của Trung Quốc tại biển Đông đang làm dấy lên mối lo ngại tại Đông Nam Á và xa hơn thế, vì chúng có thể đe dọa sự tiếp cận tới các hải trình quan trọng, làm tăng nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang hoặc khủng hoảng trên biển và có thể làm xấu đi các quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhưng bất chấp những căng thẳng này, Trung Quốc ít có lẽ không cố tìm cách giải quyết các tranh chấp tại biển Đông bằng vũ lực, vì chi phí cho việc này sẽ lớn hơn nhiều những lợi ích nó có thể đem lại. Thực vậy, giới chức Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục chính sách mà họ đang áp dụng từ hơn hai thập kỷ qua: đó là nhấn mạnh cam kết hướng tới hòa bình, ổn định và hợp tác đồng thời khẳng định các đòi hỏi tài phán và mở rộng sự hiện diện vật chất của Trung Quốc tại biển Đông. Tài liệu này sẽ phân tích các lợi ích của Trung Quốc tại biển Đông, các nỗ lực ngoại giao của nước này nhằm vừa trấn an các nước láng giềng, vừa củng cố các yêu sách của mình tại các khu vực tranh chấp. Sau đó, tác giả sẽ thử giải thích tại sao Trung Quốc thích ngoại giao song phương hơn là đa phương, nhưng tại sao trong hai thập kỷ qua, nước này lại tiến hành đàm phán hai thỏa thuận với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Kết luận cuối cùng của bài phân tích sẽ là các động lực cơ bản định hình chính sách của Trung Quốc ít khả năng thay đổi và vì vậy, sự nguyên trạng sẽ có thể kéo dài. Lợi ích của Trung Quốc tại biển Đông Trung Quốc có ba lợi ích chủ chốt tại biển Đông, và các lợi ích này có liên quan đến nhau. Đầu tiên, họ muốn khẳng định chủ quyền đối với cái mà họ coi là các quyền lịch sử của mình, bao gồm chủ quyền đối với tất cả các hình thái địa chất và có thể toàn bộ vùng trời phía trên vùng biển này. Thứ hai, họ muốn đảm bảo sự tiếp cận, dựa trên nền tảng các quyền lịch sử kể trên, với các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là cá, dầu mỏ, khí thiên nhiên và các khoáng sản dưới lòng biển. Thứ ba, họ muốn đảm bảo rằng các tuyến thông thương trên biển (SLOCs) được an toàn vì các tuyến thương mại huyết mạch này có vai trò sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế và các khát vọng quyền lực của Trung Quốc. Đòi hỏi chủ quyền. Trung Quốc đòi "chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo tại biển Đông và các vùng nước liền kề". Họ lập luận cho các yêu sách của mình dựa trên sự phát hiện, thời gian sử dụng lịch sử và sự kiểm soát về hành chính của các chính phủ liên tiếp của Trung Quốc từ triều đại nhà Hán thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Trung Quốc hỗ trợ cho các yêu sách của mình bằng các bản đồ đối chiếu, các phát minh khảo cổ và các kỷ lục lịch sử. Tuy nhiên, không một bằng chứng nào kể trên phù hợp với luật pháp quốc tế hiện đại, vốn ủng hộ các yêu sách chủ quyền của những quốc gia có thể chứng minh sự quản lý một cách liên tục và hiệu quả. Trung Quốc không thể chứng minh điều này vì chính quyền trung ương của họ yếu kém trong thời loạn lạc trong nước và các cuộc xâm lược của nước ngoài thế kỷ 19 và 20, vì vậy không thể quản lý hiệu quả các đảo trên. Điều này một phần giải thích tại sao Trung Quốc không muốn trình các yêu sách của mình lên trọng tài pháp lý quốc tế. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng các yêu sách lịch sử của các bên khác cũng thiếu thuyết phục. Một trong các tài liệu lịch sử quan trọng nhất mà Trung Quốc viện dẫn cho các đòi hỏi của mình là một tấm bản đồ có từ thời Chính phủ Quốc dân đảng ở Trung Quốc năm 1947, trong đó vẽ một đường đứt đoạn đi qua bờ biển phía Tây của Philippines, tới bờ biển Borneo và sau đó tiếp tục đi lên phía Bắc dọc bờ biển phía Đông của Việt Nam. Sau khi lập nước năm 1949, Trung Quốc đã coi tấm bản đồ này như một trong các căn cứ cho các yêu sách của mình tại biển Đông. Ngày nay, các bản đồ chính thức của Trung Quốc tại Đông Nam Á vẽ 10 nét đứt, nhưng các bản đồ tại Trung Quốc chỉ có 9 nét, chính vì vậy họ thường quy chiếu tới đường 9 đoạn này. Trung Quốc đã chính thức trình bản đồ này lên một tổ chức quốc tế lần đầu tiên vào ngày 7/5/2009, khi nó được kèm với một biên bản kiện lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLSC) của LHQ về một bản phúc trình chung của Malaysia và Việt Nam. Bất chấp thực tế là tấm bản đồ này đã tồn tại 6 thập kỷ, Trung Quốc vẫn phải giải thích ý nghĩa của đường 9 đoạn và chứng minh nó phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển của LHQ (UNCLOS) năm 1982, mà nước này đã phê chuẩn năm 1996. Bản đồ trên có thể được hiểu theo hai cách. Trước tiên là 9 nét đứt đánh dấu các khu vực chung chung xung quanh các hình thái địa chất chính mà Trung Quốc đòi hỏi. Ít nhất một trong các hình thái địa chất này là một đảo, tức là kèm theo nó là một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý theo luật pháp quốc tế. Các hình thái địa chất lớn khác là các bãi đá ngầm, loại được phép kèm theo vùng nước dài 12 hải lý nhưng không tạo ra một EEZ riêng. Cách hiểu này có lẽ phù hợp hơn với luật pháp quốc tế ghi trong UNCLOS. Nó cũng phù hợp với các quy định pháp luật quốc gia của Trung Quốc năm 1992, trong đó đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Đông Sa, Trung Sa, Scarborough Shoal, Điếu Ngư/Senkaku, Penghu và Dongsha. Dù các yêu sách chính xác của Trung Quốc vẫn còn rất mập mờ, nhưng cách tiếp cận này nhìn chung phù hợp với luật pháp quốc tế. Cách hiểu thứ hai là đường 9 đoạn giới hạn các "vùng biển lịch sử" của Trung Quốc tại biển Đông - tức là Trung Quốc đòi toàn bộ vùng biển nằm trong lòng đường đứt đoạn này. Theo quan sát của Đại sứ Lưu động của Singapore, và cựu Chủ tịch Hội thảo của LHQ về Luật Biển lần thứ 3 Tommy Koh, đòi hỏi như vậy của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, hành vi ngày càng xác quyết của Trung Quốc đối với các nước có tranh chấp - như gây sức ép để các tập đoàn năng lượng nước ngoài không tham gia thăm dò ngoài khơi, áp đặt lệnh cấm đánh bắt và quấy nhiễu các hoạt động thăm dò dầu khí của các công ty dầu mỏ Đông Nam Á - cho thấy Bắc Kinh đang áp dụng các hiểu thứ hai. Các quan chức Đông Nam Á coi đây là một diễn biến đáng lo ngại. Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã mô tả tấm bản đồ này "thực sự trao cho Trung Quốc chủ quyền đối với biển Đông", và cựu Thứ trưởng của Singapore và chuyên gia về luật S. Jayakumar cho rằng tấm bản đồ này "gây hoang mang và khuấy động" vì nó không có căn cứ nào dựa trên UNCLOS và có thể "được hiểu là một yêu sách đối với toàn bộ các khu vực biển nằm trong đường 9 đoạn". Cách hiểu này hủy hoại một số tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế và gây nguy hại đến quyền tự do hàng hải. Sự mở rộng các yêu sách của Trung Quốc, các hành vi xác quyết định kỳ của họ và việc họ từ chối giải thích tấm bản đồ trên đã gây lo ngại trên toàn Đông Nam Á. Việt Nam bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc, Indonesia và Philippines đã chính thức khởi kiện đường 9 đoạn lên LHQ, và Singapore đã gọi điện tới Bắc Kinh yêu cầu làm rõ các yêu sách của mình. Nhưng Chính phủ Trung Quốc khước từ. Tài nguyên biển. Biển Đông là một trong những vựa cá lớn nhất thế giới, chiếm tới 1/10 sản lượng đánh bắt cá toàn thế giới. Kho cá này, dù đang nhanh chóng suy giảm, không chỉ đóng vai trò tối quan trọng đối với an ninh lương thực của các nước châu Á mà còn là một nguồn thu nhập của ngư dân trong khu vực. Tuy nhiên quan trọng hơn, biển Đông còn chứa trong lòng nó những mỏ dầu khí lớn. Và một kết quả của các căng thẳng hiện nay trong khu vực là các công ty năng lượng quốc tế đã không thể hoàn tất các thăm dò chi tiết tại biển Đông, khiến các đánh giá về trữ lượng tiềm năng không giống nhau. Trung Quốc ước tính khoảng từ 100-200 tỷ thùng dầu đang nằm dưới lòng biển này, trong khi Nga và Mỹ đưa ra con số 1,6 - 1,8 tỷ thùng. Trung Quốc ngày càng quan tâm tới nguồn tài nguyên dầu mỏ tiềm năng kể từ đầu những năm 1990, khi giá năng lượng và nhu cầu năng lượng toàn cầu đều tăng. Các hành động của Trung Quốc một phần xuất phát từ suy nghĩ rằng biển Đông là "một vùng Vịnh mới". Sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu mỏ nhập khẩu ngày càng tăng - dầu nhập từ nước ngoài chiếm 52% tổng lượng dầu tiêu thụ tại Trung Quốc vào năm 2009, con số này đã tăng lên 55% vào năm 2010 - an ninh năng lượng đã trở thành một khía cạnh quan trọng hơn trong tranh chấp tại biển Đông. Điều này giúp giải thích tại sao hành vi quấy nhiễu của Trung Quốc gần đây đối với các tàu thăm dò dầu khí được chính phủ các nước Đông Nam Á cho phép. Thông qua các bình luận trên báo chí nhà nước, Trung Quốc đã cáo buộc một số nước Đông Nam Á có yêu sách trên biển Đông đang "chiếm đoạt" tài nguyên biển tại biển Đông, nguồn tài nguyên mà Trung Quốc cho là của mình dựa theo các "quyền lịch sử" quốc gia. Bắc Kinh liên tiếp khẳng định rằng các hành động của các công ty năng lượng nước ngoài tại biển Đông vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Họ kêu gọi các nước khác đòi chủ quyền phải ngừng thăm dò tài nguyên tại các khu vực mà Trung Quốc đòi chủ quyền, nhưng cả Việt Nam và Philippines đều bác bỏ yêu cầu này vì các đòi hỏi mở rộng của Trung Quốc không thuyết phục. An ninh của các hải trình. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc vào an ninh của các tuyến SLOCs, con đường xuất khẩu hàng hóa của nước này tới các thị trường quốc tế, đồng thời đưa hàng hóa, nguyên liệu đầu vào và tài nguyên năng lượng nhập khẩu vào Trung Quốc. Theo một số ước tính, 80% năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đi qua các chốt chiến lược tại Đông Nam Á - eo biển Malacca, Singapore, các eo biển Lombok, Makkassar và Sunda - và biển Đông. Tính dễ bị tổn thương về mặt chiến lược này được mọi người gọi là "tiến thoái lưỡng nan Malacca". Các năng lực của Hải quân của PLA đã được cải thiện trong thập kỷ qua, nhưng lực lượng này vẫn chưa có khả năng kiểm soát thực sự đối với các SLOCs ở xa, như các hải trình đi qua Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc đã ngày càng thể hiện sự ảnh hưởng lớn hơn đối với các tuyến SLOCs gần, đặc biệt là tại biển Đông. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm hai bên của các tuyến này, và đây là lý do quan trọng giải thích tại sao Trung Quốc tìm cách kiểm soát các quần đảo này. Chính sách nước đôi của Trung Quốc ở Biển Đông Tác giả: CHÂU GIANG DỊCH TỪ CNAS Bài đã được xuất bản.: 10/03/2012 05:00 GMT+7 Chính sách của Trung Quốc liên quan đến các tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển tại biển Đông tương đối nhất quán từ cuối những năm 1970. Kỳ 1: Học giả Mỹ bàn về ngoại giao nước lớn tại biển Đông Trung Quốc đã tìm cách trấn an những nước có yêu sách khác bằng cách liên tiếp nhấn mạnh các ý định hòa bình của mình trong khu vực và thiện chí tham gia hợp tác quản lý các nguồn tài nguyên biển, trong khi tìm cách kéo dài các cuộc thảo luận về vấn đề này để có thời gian củng cố các yêu sách của mình tại biển Đông. Với việc củng cố các năng lực quân sự và tăng sự tự tin về chính trị, Trung Quốc đã hành xử xác quyết hơn tại biển Đông. Họ đáp lại những chỉ trích về cách hành xử của mình bằng việc hòa giải mang tính chiến thuật, nhưng các nền tảng của chính sách vẫn không thay đổi. Một số quan chức Đông Nam Á đã gọi chính sách nước đôi này là "miệng nói tay làm". Trấn an các nước láng giềng trong khu vực. Cuối những năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra một công thức để "giải quyết" tranh chấp: các bên nên gạt sang một bên vấn đề chủ quyền và cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên biển. Tuy nhiên, không rõ liệu ông Đặng hay người kế nhiệm ông đã bao giờ coi đây là một đề xuất thực tế hay chưa. Trung Quốc chưa bao giờ thể hiện thiện chí gạt sang một bên các yêu sách lãnh thổ hay đề xuất một khuôn khổ cho sự hợp tác khai thác như thế. Tuy nhiên, ý tưởng này vẫn là câu thần trú trong chính sách của Trung Quốc, và đến nay vẫn vậy. Nhiều năm qua, Trung Quốc nhấn mạnh rằng tranh chấp tại biển Đông là một vấn đề song phương. Tuy nhiên, cuối những năm 1990, họ đã đưa ra một quyết định chiến lược là kéo ASEAN tham gia vấn đề này ở khía cạnh ngoại giao, và kết quả là ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC) năm 2002. Thỏa thuận này nhằm giảm căng thẳng và xây dựng niềm tin bằng việc thực thi các biện pháp xây dựng lòng tin hợp tác (CBMs). Nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục đóng vai trò kẻ phá quấy, cả trong việc thương lượng thỏa thuận và các nỗ lực thực thi sau đó. Mỗi khi Trung Quốc có vẻ đưa ra một nhượng bộ, như ký kết thỏa thuận hay nhất trí các hướng dẫn thực thi vào năm 2011, thì ngay sau đó họ lại chặn đứng việc thực thi các hướng dẫn hay bất kỳ CBMs nào. Trung Quốc đã tìm cách củng cố các đòi hỏi chủ quyền của mình tại biển Đông trong một số năm qua. Sau khi họ gửi phản đối lên Ủy ban CLCS năm 2009, thì đầu năm 2010 các quan chức cấp cao Trung Quốc liên tục nói với các đồng cấp Mỹ rằng biển Đông là một "lợi ích cốt lõi". Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cho biết Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc - vị cố vấn có tầm ảnh hưởng lớn nhất về chính sách đối ngoại của Trung Quốc cho giới lãnh đạo cấp cao - đã nhắc lại thái độ xác quyết này tại cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung tại Bắc Kinh tháng 5/2010. Một số quan sát viên cho đây là một cách để đẩy vấn đề biển Đông lên ngang tầm với các vấn đề cực kỳ nhạy cảm như Đài Loan và Tây Tạng. Điều này có nghĩa là tranh chấp tại biển Đông là không thể thương lượng và Trung Quốc đã chuẩn bị để sử dụng vũ lực để bảo vệ các yêu sách của mình. Việc Trung Quốc coi biển Đông là một "lợi ích cốt lõi" cũng gây lo ngại trong toàn khu vực. Tại cuộc họp của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tháng 7/2010, 12 quốc gia - trong đó có tất cả các nước thành viên ASEAN có yêu sách biển Đông - đã thể hiện những lo ngại về các diễn biến tại biển Đông, khiến Trung Quốc cũng phải ngạc nhiên. Sau đó, các quan chức chính phủ và các học giả Trung Quốc đã ngừng coi biển Đông là lợi ích cốt lõi. Đáng chú ý là Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào không sử dụng cụm từ này trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Mỹ tháng 1/2011. Tuy nhiên, vấn đề này lại nổi lên vào tháng 8/2011, khi một bài xã luận được Tân Hoa Xã đưa một lần nữa nhấn mạnh "chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các vùng biển, quần đảo và các vùng nước xung quanh", và cho rằng các khu vực này là một phần "lợi ích cốt lõi của Trung Quốc". Gần như ngay sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã công bố Sách Trắng mang tên "Sự phát triển hòa bình của Trung Quốc", trong đó liệt kê chủ quyền là một trong các "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc, bên cạnh an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất dân tộc. Sách Trắng cũng khẳng định quyền của Trung Quốc "cương quyết bảo vệ" bốn điểm chìa khóa này. Dù tài liệu trên không nêu đích danh biển Đông, nhưng nó cũng cho thấy Bắc Kinh coi khu vực này là một trong các lợi ích cốt lõi của mình. Trung Quốc khẳng định rằng họ sẵn sàng tham gia đàm phán song phương với các nước đòi chủ quyền khác, nhưng các cuộc đàm phán này không hấp dẫn các nước liên quan. Tuy nhiên, Trung Quốc tiếp tục nhấn mạnh cách giải quyết song phương, hơn là đa phương, và kịch liệt bác bỏ cái mà họ gọi là "quốc tế hóa" tranh chấp. Vì vậy, Trung Quốc phản đối thảo luận vấn đề tại các cuộc họp an ninh của khu vực như ARF và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Trên thực tế, Trung Quốc đã gạt được vấn đề này ra khỏi chương trình nghị sự của ARF cho đến năm 2010, đến khi 12 nước bày tỏ lo ngại về các hành động ngày càng xác quyết của Trung Quốc tại biển Đông. Trung Quốc chắc chắn sẽ cố để tranh chấp biển Đông không được đem ra giải quyết tại nhóm làm việc về an ninh biển do Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+ thành lập tháng 10/2010. Bắc Kinh hoàn toàn bác bỏ vai trò của các bên thứ ba trong tranh chấp, đặc biệt là Mỹ, nước mà họ cáo buộc là can thiệp, hay "xía vào việc của người khác". Trung Quốc cho rằng lợi ích ngày càng lớn của Mỹ tại biển Đông xuất phát từ các lợi ích mà họ không nói ra như sử dụng tranh chấp làm cái cớ để mở rộng sự hiện diện quân sự tại châu Á, và cảnh báo các nước Đông Nam Á - đặc biệt là Việt Nam - không nên khuyến khích sự can dự của Mỹ. Khi Ngoại trưởng Clinton gợi ý rằng Mỹ sẽ tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán về thực thi DOC, Trung Quốc đã kiên quyết phản đối. Trung Quốc cũng phản đối sử dụng trọng tài pháp lý quốc tế, một phần vì cách này sẽ cho phép sự can dự của một thể chế đa phương, trong khi họ không có cơ sở đủ mạnh. Trung Quốc đã từ chối đề xuất của Philippines năm 2011 trình các yêu sách lãnh thổ chồng lấn và yêu sách biên giới lên Tòa án Luật biển Quốc tế (ITLOS), cơ quan được thành lập theo UNCLOS để giải quyết các tranh chấp biển giữa các quốc gia đã phê chuẩn công ước này. Đề xuất này nhằm có được sự ủng hộ của khu vực đối với các nỗ lực quốc tế hóa trong giải quyết tranh chấp biển Đông. Nhưng Trung Quốc đã loại bỏ điều khoản về ITLOS khi phê chuẩn UNCLOS, tức là nước này sẽ hầu như chắc chắn tiếp tục phản đối đề xuất trên. Dù một số quốc gia Đông Nam Á đã trình các tranh chấp lãnh thổ của mình lên Tòa án Công lý Quốc tế xét xử, Trung Quốc gần như chắc chắn cũng sẽ phản đối một việc đưa vấn đề biển Đông lên tòa án này. Sự hiện diện của Trung Quốc tại biển Đông. Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã ngày càng mở rộng sự hiện diện vật chất tại biển Đông. Việc này diễn ra một cách chậm chạp nhưng vững chắc, một phần là kết quả của sức ép tài nguyên, nhưng cũng là một nỗ lực nhằm tránh gây hoang mang thái quá đối với các nước láng giềng. Trung Quốc đã mở rộng sự hiện diện của mình ban đầu bằng cách tăng các chuyến tuần tra của các tàu lớn của Hải quân và các cơ quan thực thi pháp luật về biển, như Cơ quan Quản lý nghề cá khu vực biển Đông và cơ quan Giám sát biển Trung Quốc (CMS). Nước này thường xuyên sử dụng các cơ quan dân sự thực thi pháp luật biển, thay vì sử dụng Hải quân, để củng cố các yêu sách về tài phán của mình tại biển Đông, vì việc sử dụng tàu chiến sẽ chỉ làm leo thang căng thẳng. Tuy nhiên, các báo cáo định kỳ cho thấy tàu chiến của Hải quân Trung Quốc bắn súng vào các tàu đánh cá và đối đầu với các lực lượng hải quân các quốc gia Đông Nam Á tại biển Đông. Năm 2010, báo chí Nhật Bản đã nói về một cuộc chạm trán giữa các lực lượng Hải quân Trung Quốc và Malaysia, và tháng 2/2011, một tàu khu trục của Hải quân Trung Quốc được đưa tin là đã bắn cảnh cáo các tàu cá Philippines gần cồn san hô Jackson. Cơ quan Quản lý nghề cá khu vực biển Đông là cơ quan đầu tiên thực thi lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương mà Trung Quốc đưa ra hàng năm. Các tàu của CMS thì đe dọa một số tàu thăm dò của Philippines và Việt Nam năm 2011. Tháng 3/2011, hai tàu CMS đã quấy nhiễu tàu MV Veritas Voyager của Philippines gần bãi Cỏ Rong (phía Tây đảo Palawan), và buộc tàu này phải rút lui. Hai tháng sau đó, ngày 26/10, các tàu của CMS đã công khai cắt cáp thăm dò địa chất của tàu Bình Minh 02 của Việt Nam, khi tàu này đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam. Sau đó vào ngày 9/6, tàu cá Trung Quốc được trang bị đặc biệt đã cắt cáp của một tàu thăm dò khác của Việt Nam, tàu Viking 2. Các sự cố trên cho thấy Trung Quốc đang sử dụng các năng lực hải quân không chỉ để thực thi các yêu sách tài phán của mình, mà còn để gửi đi một thông điệp tới các nước tại Đông Nam Á có đòi hỏi chủ quyền về cái giá phải trả nếu thách thức Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc đã tuyên bố rằng nước này sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. DOC và Hiệp ước Bằng hữu và Hợp tác của ASEAN năm 1976, mà Trung Quốc gia nhập năm 2003, đều cấm sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp giữa các nước. Trên thực tế, Hải quân Trung Quốc đã không tham gia vào một cuộc đụng độ quân sự nghiêm trọng tại biển Đông kể từ sau khi tấn công các lực lượng của Việt Nam tại cồn san hô Jackson năm 1988, làm hơn 70 người Việt Nam thiệt mạng. Trung Quốc hiểu rằng hành động quân sự công khai sẽ phản tác dụng vì nó sẽ hoàn toàn hủy hoại lập luận "phát triển/nổi lên hòa bình" của họ, khiến một số nước ASEAN củng cố quan hệ chiến lược với Mỹ. Tuy nhiên, việc hiện đại hóa lực lượng Hải quân đã tạo cho Trung Quốc các năng lực gây sức ép đối với các nước đòi chủ quyền khác, và nếu cần, sử dụng vũ lực một cách dứt khoát. Một số nhân vật cứng rắn trong quân đội được báo chí đưa là đã muốn sử dụng vũ lực để "dạy một bài học" cho các nước Đông Nam Á, nhưng hiện tại, không có bằng chứng nào cho thấy đấy là một sự chuyển hướng gì đó mà chỉ là một cái nhìn thiểu số trong lực lượng vũ trang. Vì vậy, khi Hải quân và các cơ quan thực thi luật pháp biển trở nên năng động hơn và xác quyết hơn tại biển Đông, nguy cơ ngày càng lớn là một sự cố vô tình trên biển có thể leo thang thành một cuộc khủng hoảng ngoại giao và quân sự nghiêm trọng hơn. Sự thiếu vắng các cơ chế đề phòng xung đột giữa các nước có đòi hỏi chủ quyền khiến kịch bản này càng đáng lo ngại hơn. Hành xử của Trung Quốc trong sáu tháng đầu năm 2011 rõ ràng cho thấy chính sách nước đôi của họ, vừa trấn an nước khác vừa củng cố yêu sách của mình. Nhằm sửa chữa một số hỏng hóc về ngoại giao mà các hành động của Trung Quốc gây ra năm 2010, các quan chức cấp cao nước này - gồm Thủ tướng Ôn Gia Bảo, Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì và Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt - đã công du Đông Nam Á để trấn an các nước trong khu vực, rằng sự nổi lên của Trung Quốc là hòa bình và có lợi về kinh tế, và nước này không tìm cách bá chủ. Về tranh chấp biển Đông, các vị lãnh đạo cấp cao này nhấn mạnh sự ủng hộ đối với DOC, tôn trọng tự do hàng hải và mong muốn hợp tác khai thác nguồn tài nguyên biển. Tại cuộc Đối thoại Shangri-La tháng 6 tại Singapore, Tướng Lương đã giảm căng thẳng bằng cách nhận định rằng tình hình tại biển Đông đã "ổn định" và nói rằng Trung Quốc muốn "hòa bình và ổn định". Nhưng như đã nói ở trên, các căng thẳng từ tháng Ba đã bùng lên sau các hành động xác quyết của các tàu tuần tra Trung Quốc ở ngoài khơi bờ biển Philippines và Việt Nam, làm rộng thêm khoảng cách giữa lời nói và hành động của Trung Quốc. Dù Trung Quốc không chiếm một đảo nào kể từ năm 1995 sau khi chiếm đảo Vành Khăn mà Philippines cũng đòi chủ quyền, nhưng thông tin về việc các tàu Trung Quốc tháo dỡ vật liệu xây dựng, dựng một số trụ cột và thả phao ở gần Iroquois Reef-Amy Douglas Bank (phía Tây Nam bãi Cỏ Rong) hồi tháng 5/2011 có thể cho thấy một sự thay đổi trong chính sách. Nếu thông tin này là có thực - trên thực tế chính quyền Philippines không đưa ra bằng chứng thuyết phục - thì đó sẽ là sự vi phạm nghiêm trọng nhất kể từ khi DOC được ký kết, vì một trong các điều khoản quan trọng của văn bản này cấm chiếm đóng các đảo chưa có người ở. Dù Trung Quốc không chiếm thêm một hình thái địa chất nào tại quần đảo Trường Sa từ năm 1995, nhưng họ tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự tại Hoàng Sa và trên 9 đảo mà họ chiếm đóng tại Trường Sa. Ý đồ "chia để trị" của Trung Quốc tại biển Đông Các nước Đông Nam Á đòi chủ quyền tỏ ra không hài lòng với kiểu khăng khăng với cách tiếp cận song phương của Trung Quốc. Vì Trung Quốc là bên liên quan mạnh nhất, các nước khác e là nước này đang cố ý "chia để trị" và sẽ mạnh hơn trong các cuộc thương lượng song phương. Hơn nữa, Trung Quốc chỉ ủng hộ các cuộc đối thoại song phương khi họ là một bên liên quan. Chính sách song phương của Trung Quốc với các nước đòi chủ quyền khác. Trung Quốc nhấn mạnh rằng tranh chấp biển Đông chỉ có thể được giải quyết thông qua các đối thoại song phương, dù vấn đề mang bản chất đa phương. Mặc dù vậy, trong hai thập kỷ qua không hề diễn ra một cuộc đối thoại thực sự nào giữa Trung Quốc với bất kỳ quốc gia đòi chủ quyền nào tại Đông Nam Á, có thể vì sự bất cân bằng về quyền lực, sự thiếu chân thành từ phía Trung Quốc, sự thiếu vắng các cơ chế hiệu quả, và gần đây nhất là việc các bên chính có quan điểm ngày càng cứng rắn hơn. Các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc thảo luận về tranh chấp với các đồng cấp Đông Nam Á tại các cuộc họp cấp cao, nhưng các tuyên bố cuối cùng của hội nghị thường không cụ thể và không đi xa hơn những tuyên bố chung chung về sự cần thiết của việc duy trì hòa bình và ổn định tại biển Đông. Các nước Đông Nam Á đòi chủ quyền tỏ ra không hài lòng với kiểu khăng khăng với cách tiếp cận song phương của Trung Quốc. Vì Trung Quốc là bên liên quan mạnh nhất, các nước khác e là nước này đang cố ý "chia để trị" và sẽ mạnh hơn trong các cuộc thương lượng song phương. Hơn nữa, Trung Quốc chỉ ủng hộ các cuộc đối thoại song phương khi họ là một bên liên quan. Không có chuyện Chính phủ Trung Quốc sẽ thừa nhận hiệu lực hay tính pháp lý của một thỏa thuận qua thương lượng giữa hai hay nhiều nước Đông Nam Á liên quan đến các yêu sách lãnh thổ chồng lấn của họ tại biển Đông. Trung Quốc đã thể hiện điều này hồi tháng 5/2009, khi kịch liệt phản đối phúc trình chung của Malaysia và Việt Nam lên CLCS liên quan đến một khu vực đáy biển ở phía Nam biển Đông. Trong một giác thư của mình, Trung Quốc nhắc lại "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với các quần đảo tại biển Đông và các vùng nước liền kề" và cho rằng phúc trình của Malaysia và Việt Nam đã "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại biển Đông" và kêu gọi ủy ban trên không xem xét phúc trình đó. Trước mọi cuộc đàm phán song phương nghiêm túc, Trung Quốc đều muốn nhấn mạnh hai điều kiện: rằng chủ quyền của họ đối với các đảo trên biển Đông là không thể tranh cãi, và rằng các nước có yêu sách phải gạt sang một bên yêu sách chủ quyền của mình và cùng tham gia khai thác tài nguyên với Trung Quốc theo công thức của Đặng Tiểu Bình. Trung Quốc đã tuyên bố như vậy về quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam cũng đòi chủ quyền đối với quần đảo này nhưng Bắc Kinh từ chối thảo luận vấn đề này với Hà Nội với lý do việc họ chiếm đóng quần đảo này năm 1974 đã khép lại vấn đề này. Tranh chấp Hoàng Sa vì vậy trở nên thực sự không thể thương lượng. Hơn nữa, Trung Quốc chưa bao giờ nói rõ công thức của ông Đặng sẽ được thực thi như thế nào. Các câu hỏi lớn vẫn không có lời đáp, như Các hoạt động hợp tác thăm dò sẽ diễn ra ở đâu? Nước nào sẽ tham gia? Đài Loan có được phép tham gia hay không? Và chi phí và lợi nhuận sẽ được chia sẻ như thế nào? Vào năm 2005, Trung Quốc, Philippines và Việt Nam đã nhất trí hợp tác thăm dò địa chấn trong ba năm về biển Đông, mang tên Thỏa ước hợp tác thăm dò địa chấn biển (JMSU). Tuy nhiên, trước khi nghiên cứu này được thực thi, JMSU đã trở thành chủ đề của một cuộc tranh cãi chính trị tại Philippines khi họ phát hiện rằng một số hoạt động thăm dò được tiến hành ở ngoài khơi Philippines, vi phạm hiến pháp nước này. Thỏa thuận này đã hết hiệu lực vào tháng 6/2008 và không được gia hạn thêm. Triển vọng hợp tác khai thác càng ít khả thi sau khi Trung Quốc trình bản đồ có vẽ đường 9 đoạn lên CLCS năm 2009. Cả Việt Nam và Philippines đều nhận thấy rằng bản đồ của Trung Quốc không có cơ sở luật pháp quốc tế và không thể trở thành căn cứ cho một thỏa thuận hợp tác khai thác tài nguyên vì nó bao chùm trên 80% diện tích biển Đông - bao gồm các khu vực chồng lấn với EEZ của họ. Hai nước này cho rằng hợp tác khai thác chỉ có thể diễn ra tại các khu vực được tất cả các bên thừa nhận là đang có tranh chấp. Nhưng lại rất khó phân định giữa các khu vực có tranh chấp và không thể tranh cãi, chừng nào Trung Quốc chưa nói rõ các yêu sách của mình. Bất chấp các chướng ngại lớn này, Philippines gần đây đã đề nghị một nỗ lực hợp tác khai thác mới gọi là Vùng Hòa bình, Tự do, Bằng hữu và Hợp tác (ZoPFF/C). Đó là một tiến trình gồm hai bước. Đầu tiên là tách biệt các khu vực đang tranh chấp như quần đảo Trường Sa khỏi các khu vực mà Philippines không coi là có tranh chấp, như các vùng bờ biển và thềm lục địa. Như đã nói ở trên, Manila cho rằng các yêu sách của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ khu vực biển Đông là không có hiệu lực và họ định khởi kiện bản đồ đường 9 đoạn của Bắc Kinh tại ITLOS. Thứ hai, các nước có yêu sách sẽ rút các lực lượng quân sự của mình khỏi các đảo đang chiếm đóng và thiết lập một khu vực hợp tác chung để quản lý tài nguyên biển. Các ngoại trưởng ASEAN đã nhất trí xem xét kế hoạch này của Philippines vào tháng 7/2011, và đến tháng Chín, một cuộc họp của đại diện pháp lý từ các nước thành viên đã kết luận rằng đề xuất của Philippines có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, Trung Quốc phản đối ZoPFF/C. Báo chí đưa tin họ đã thể hiện sự phản đối tại hội nghị của các chuyên gia tư pháp ASEAN, và các bài xã luận trên báo chí nhà nước đã nhạo đề xuất này là một "trò lừa đảo" và cáo buộc Philippines không chân thành. Thiếu sự ủng hộ của Trung Quốc, đề xuất trên có ít cơ hội trở thành hiện thực. Trong số 6 nước có đòi hỏi chủ quyền, chỉ Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập một cơ chế chính thức đề giải quyết tranh chấp. Năm 1994, hai nước này đã thành lập một nhóm làm việc chung để thảo luận về các tranh chấp tại biển Đông. Các cuộc thương lượng song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam đã giải quyết thành công các tranh chấp, trong đó có các vấn đề liên quan biên giới trên bộ và tại vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, quá trình giải quyết tranh chấp tại biển Đông đã bị đóng băng, chủ yếu vì Trung Quốc từ chối thảo luận về quần đảo Hoàng Sa, và vì cả hai bên đều không muốn thỏa hiệp các yêu sách chủ quyền của mình. Tuy nhiên, quá trình này đã được nối lại. Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 5/2011, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn cho biết hai bên đã tiến hành 5 vòng đàm phán nhằm thiết lập "các nguyên tắc hướng dẫn" về một giải pháp cho tranh chấp này. Hai vòng đàm phán đã diễn ra sau đó vào tháng 6 và tháng 8/2011, bất chấp căng thẳng gia tăng trong quan hệ Việt - Trung. Truyền thông Việt Nam đưa tin một "thỏa thuận sơ bộ" đã đạt được trong vòng đàm phán thứ 7 vào tháng 8/2011. Nhưng chi tiết của "thỏa thuận" này vẫn mập mờ và chỉ nhắc lại cam kết của hai bên đối với DOC, tầm quan trọng của việc tránh các hành động có thể "làm phức tạp thêm" tranh chấp, và cam kết không sử dụng vũ lực. Tuy nhiên cuối tháng đó, các quan chức quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí tiếp tục "các cuộc tham vấn và thương lượng". Trung Quốc chưa thiết lập một cơ chế ngoại giao chính thức để thảo luận về biển Đông với Philippines, Malaysia hay Brunei. Philippines đang tiến hành các cuộc đối thoại an ninh và quốc phòng thường niên với Trung Quốc, nhưng không rõ liệu tranh chấp tại biển Đông có được nói tới trong các cuộc họp này hay không. Tổng thống Philippines Benigno Aquino gần đây đã bác bỏ các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc về tranh chấp này, thay vào đó muốn đưa các yêu sách của Philippines lên ITLOS. Malaysia dường như thuận hơn trong các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy các cuộc thảo luận thực sự đã được diễn ra giữa hai nước này. Giữa Trung Quốc với Brunei cũng vậy. (Còn tiếp) Hậu quả của việc không thực thi DOC tại biển Đông Châu Giang dịch từ CNASTrung Quốc đã định hình được các nội dụng của thỏa thuận nhằm phản ánh các chính sách và lợi ích của họ. Đặc biệt, Trung Quốc đã thành công trong việc xóa bỏ sự ám chỉ tới phạm vi địa lý của thỏa thuận (Việt Nam muốn nêu rõ tên Hoàng Sa) và xóa bỏ một điều khoản cấm nâng cấp các cơ sở hạ tầng vốn có tại các đảo chiếm đóng.>> Kỳ 1: Chính sách ngoại giao đa phương của Trung Quốc với ASEAN về biển Đông. Dù ưu tiên đối thoại song phương, nhưng cũng đã tham gia vào ngoại giao đa phương với ASEAN từ đầu những năm 2000 nhằm đánh bóng hình ảnh của mình trong khu vực và cải thiện quan hệ với Đông Nam Á sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 -1998. Cam kết ngoại giao giữa Trung Quốc và ASEAN đã dẫn tới DOC năm 2002, nhưng 9 năm kể từ khi tuyên bố này được ký kết, các bên đã không thể thực thi các điều khoản ghi trong đó. Trung Quốc rất giỏi gây trở ngại cho tiến trình này, họ không bao giờ thực sự nghiêm túc trong việc thực thi thỏa thuận. Một bước đột phá đã xảy ra tháng 7/2011, khi hai bên cuối cùng ký các Nguyên tắc hướng dẫn thực thi DOC. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, bản hướng dẫn này ít có khả năng giảm căng thẳng, ít nhất trong ngắn hạn. DOC kêu gọi các bên phát triển một bộ quy tắc chính thức về cách ứng xử của các bên tại biển Đông (COC), nhưng khả năng đạt một bộ quy tắc như vậy rất ít vì sự phản đối của Trung Quốc và các vấn đề liên quan đến các nước giữ cương vị Chủ tịch ASEAN trong 4 năm tới. Nguồn gốc của DOC có thể xuất phát từ các va chạm gia tăng tại biển Đông giữa những năm 1990 sau khi Trung Quốc chiếm đóng đảo Vành Khăn. Nhằm giảm căng thẳng, ASEAN đã nhất trí soạn thảo một bộ quy tắc ứng xử. Vì tính phức tạp của tranh chấp chủ quyền, bộ quy tắc này không được xem là một cơ chế giải quyết xung đột mà chỉ là một cách quản lý xung đột nhằm tạo ra một môi trường mang tính xây dựng cho một giải pháp chính trị hoặc pháp lý sau này cho vấn đề. ASEAN đã thăm dò ý kiến Trung Quốc vào năm 1999 về việc tham gia các cuộc thảo luận, nhưng Bắc Kinh phản ứng lạnh nhạt, cho rằng Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc năm 1997 đã đại diện cho bộ quy tắc ứng xử chính trị cấp cao nhất. Tuy nhiên, đầu năm 2000, Trung Quốc đã thay đổi quan điểm và nhất trí thảo luận một bộ quy tắc ứng xử với ASEAN. Đây là một sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc cuối những năm 1990, theo đó thừa nhận giá trị của các khuôn khổ đa phương trong việc truyền tải thông điệp rằng sức mạnh đang lên của Trung Quốc không đặt ra một mối đe dọa nào đối với sự ổn định của khu vực. Trong hai năm thảo luận sau đó, Trung Quốc đã định hình được các nội dụng của thỏa thuận nhằm phản ánh các chính sách và lợi ích của họ. Đặc biệt, Trung Quốc đã thành công trong việc xóa bỏ sự ám chỉ tới phạm vi địa lý của thỏa thuận (Việt Nam muốn nêu rõ tên Hoàng Sa) và xóa bỏ một điều khoản cấm nâng cấp các cơ sở hạ tầng vốn có tại các đảo chiếm đóng. Trung Quốc, được Malaysia hỗ trợ, cũng thành công trong việc đặt tên thỏa thuận này là "Tuyên bố" chứ không phải là "Bộ quy tắc" như Việt Nam và Philippines mong muốn. Đây không đơn thuần là vấn đề từ vựng: một tuyên bố sẽ là một tuyên bố chính trị về ý định của các bên chứ không phải là một công cụ pháp lý với các biện pháp chế tài hoặc trừng phạt. Tuy nhiên, để làm hài lòng Hà Nội, dự thảo cuối cùng đã khẳng định rằng mục đích cuối cùng của các bên là lập ra một bộ quy tắc chính thức về biển Đông. DOC được ký kết tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN ngày 4/10/2002 tại Phnom Penh (Campuchia). Các bên tham gia ký kết nhất trí tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế về cách hành xử, như giải quyết hòa bình các tranh chấp và nhất trí không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; tôn trọng tự do hàng hải; thực hiện "kiềm chế" để không "làm phức tạp thêm hoặc leo thang" tranh chấp (quan trọng hơn, không "đưa người đến sống" tại các hình thái địa chất đang hoang hóa); cùng nhau thực hiện các CBMs ; tiến hành đối thoại và tham vấn; và nỗ lực hướng tới một bộ quy tắc về ứng xử. Căng thẳng đã giảm trong nửa đầu những năm 2000, và DOC thường xuyên được viện dẫn như một lý do giải thích việc này. Tất cả các bên tranh chấp tôn trọng điều khoản không đưa người đến sống tại các hình thái địa chất đang hoang hóa, nên dù các cuộc đấu khẩu vẫn tiếp diễn nhưng không leo thang đáng kể, và JMSU năm 2005 đã được hợp lý hóa theo Khoản 6 của DOC, trong đó kêu gọi hợp tác nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên trên thực tế, DOC ít liên quan đến những các động lực của tranh chấp. Ngoại trừ JMSU, không biện pháp xây dựng lòng tin nào được nhắc tới trong DOC tồn tại trên thực tế, chủ yếu vì ASEAN và Trung Quốc không đạt tiến bộ về một khuôn khổ thực thi thỏa thuận này. Phải đến năm 2004 các quan chức cấp cao mới nhất trí thiết lập một Nhóm Làm việc Hỗn hợp để soạn thảo các hướng dẫn thi hành. Trong vòng 4 năm sau đó, nhóm này chỉ họp 3 lần - vào năm 2005, 2006 và họp không chính thức vào năm 2008 - và không đạt thỏa thuận nào. Trở ngại chính không phải là bản chất hay địa điểm diễn ra các hoạt động hợp tác, mà là một điểm rất nhỏ về thủ tục: Trung Quốc phản đối đưa vào bản hướng dẫn thực thi này một điều khoản (Khoản 2) nói rằng các thành viên ASEAN sẽ tham vấn lẫn nhau trước các cuộc họp với các quan chức Trung Quốc. ASEAN thấy rất khó chấp nhận quan điểm của Trung Quốc, vì Hiến chương của Hiệp hội năm 2007 quy định các thành viên "hợp tác và bày tỏ các quan điểm chung" trong quan hệ với bên ngoài. Tuy nhiên, các quan chức ASEAN đã phải chịu nhượng bộ sau khi đã cố gắng làm dịu những lo ngại của Trung Quốc và nhắc lại điều khoản này 21 lần mà vẫn không được. Vì Trung Quốc không thể ngăn cản các thành viên ASEAN bàn bạc tham vấn, nên họ tìm cách cản trở việc thực thi. Căng thẳng leo thang trong những năm 2009 - 2010 đã cho thấy hậu quả của việc không thực thi DOC. Các căng thẳng này cũng đã thách thức độ đáng tin cậy của ASEAN và tuyên bố được nhắc đi nhắc lại thường xuyên của Hiệp hội này, tự coi mình là "trung tâm" của kiến trúc an ninh châu Á. Ở cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã đặt ưu tiên cho vấn đề này và đã đạt thành công nho nhỏ: Nhóm Làm việc Hỗn hợp đã gặp nhau hai lần trong năm 2010 - tại Hà Nội vào tháng Tư và tại Côn Minh (Trung Quốc) và tháng 12 - nhưng cũng không đạt thỏa thuận nào. Indonesia cũng thúc đẩy vấn đề này khi đảm nhiệm cương vị Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2011: Nhóm Làm việc Hỗn hợp đã họp tháng Tư tại Medan, vào đúng thời điểm các căng thẳng leo thang rất nhanh tại biển Đông. Trung Quốc đã áp dụng các chiến thuật cương quyết hơn trong thời gian từ tháng 3 - 4/2011, trong đó có việc quấy nhiễu các tàu thăm dò của Việt Nam và Philippines. Giữa năm đó, căng thẳng tại biển Đông đã leo thang đến cực điểm kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, cuối tháng 7/2011, bế tắc cuối cùng đã được khai thông khi ASEAN, vì sự cần thiết phải thúc đẩy tiến trình DOC và cũng là để thử các cam kết nhiều lần của Trung Quốc về việc thực thi tiến trình này, đã nhất trí thông qua tuyên bố chính thức rằng các thành viên Hiệp hội sẽ tham vấn trước khi gặp Trung Quốc. Thực vậy, phiên bản cuối cùng của Khoản 2 nói rằng các bên có ý định "thúc đẩy đối thoại và tham vấn". Tuy nhiên, theo một báo cáo, biên bản sơ lược của cuộc họp giữa các quan chức ASEAN và Trung Quốc cho thấy ASEAN định tiếp tục các cuộc tham vấn trước như vậy. Trung Quốc có vẻ đã chấp nhận điều khoản này vì một thỏa thuận với ASEAN giúp đánh lạc hướng sự chỉ trích về hành vi hiếu chiến gần đây của họ, và vì bản hướng dẫn cũng là một thành công ngoại giao của Bắc Kinh. Bản hướng dẫn thi thành cực kỳ mập mờ và sẽ không ảnh hưởng tới các lợi ích của Trung Quốc hay ngăn cản nước này theo đuổi chính sách của mình tại biển Đông. Văn bản này nói rằng DOC sẽ được thực thi "từng bước", sự tham gia các dự án hợp tác sẽ là tự nguyện và các CBMs sẽ được quyết định qua đồng thuận. Nói tóm lại, bản hướng dẫn không đi xa hơn những điều khoản tương tự trong DOC. Trung Quốc hài lòng ra mặt với kết quả này, vì họ chẳng phải nhượng bộ gì mà lại được tiếng là có thái độ xây dựng. Ngoại trưởng Dương Khiết Trì nói rằng việc ký kết bản hướng dẫn thi hành DOC "có ý nghĩa to lớn". Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario lại đưa ra nhận định thực tế hơn khi nói đây là một bước tiến về phía trước, đồng thời cảnh báo "các yếu tố cần thiết để bản hướng dẫn thi hành là một thành công vẫn còn chưa đầy đủ" và DOC vẫn "chưa có chân". Tuy nhiên, thỏa thuận giữa Trung Quốc - ASEAN không mở đường cho các cuộc đối thoại về việc vạch ra và tiến hành các CBMs như thế nào. Quá trình này sẽ là phép thử xem liệu Trung Quốc có chân thành đối với việc thực thi CBMs, hay họ sẽ cố kéo dài quá trình này. ASEAN đã nhượng bộ với Trung Quốc, coi đây như một bước tiến hướng tới một bộ quy tắc ứng xử chính thức. Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa nhấn mạnh điều này khi ông phát biểu với báo giới tại ARF rằng sự nguyên trạng tại biển Đông "không phải là một lựa chọn" và "đạt được bản hướng dẫn thực thi DOC rồi, chúng ta phải tiến về phía trước để đạt một bộ quy tắc ứng xử". Ông nhấn mạnh rằng hiện giờ việc hình thành bộ quy tắc là "cuộc chơi chính" tại biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc không ủng hộ quan điểm này. Ngoại trưởng Dương nói nước ông để ngỏ cửa cho một thỏa thuận như vậy "vào một thời điểm thích hợp", câu mà các quan chức Trung Quốc thường dùng để nói đến một mục đích xa vời. Trung Quốc thích thực thi DOC đầu tiên, trước khi chuyển sang một bộ quy tắc chính thức. Nhận thấy sự miễn cưỡng của Trung Quốc trong việc thúc đẩy bộ quy tắc, ASEAN đã quyết định đưa ra sáng kiến. Theo tuyên bố cuối hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tháng 7/2011, các nước thành viên đã bắt đầu thảo luận về một bộ quy tắc ứng xử, và các quan chức cấp cao đã đề nghị trình một báo cáo về tiến bộ đạt được lên Hội nghị Cấp cao ASEAN tháng 11/2011. Tuy nhiên, báo cáo của Chủ tịch cho thấy có ít tiến bộ cụ thể. Nó chỉ khẳng định tầm quan trọng của DOC, nhấn mạnh sự cần thiết "phải tăng cường nỗ lực" để hoàn thành một bộ quy tắc ứng xử khu vực, hoan nghênh việc thông qua bản hướng dẫn thực thi DOC đạt được tháng 7/2011, hoan nghênh một cuộc thảo luận giữa ASEAN nhằm xác định "các yếu tố có thể là quan trọng cho một bộ quy tắc ứng xử khu vực", và nhấn mạnh "tầm quan trọng của một cách tiếp cận dựa trên quy tắc trong việc quản lý và giải quyết tranh chấp". Nhưng quan điểm của ASEAN về vai trò của Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng. Nếu Trung Quốc được mời tham gia các cuộc thảo luận về khung sườn của bộ quy tắc, họ có thể sẽ tìm cách kéo dài các cuộc thảo luận và làm phai nhạt các đề xuất, như đã làm với DOC. Nếu ASEAN lập được một sườn quy tắc cho chính mình và đề nghị các nước khác gia nhập, Trung Quốc hầu như chắc chắn sẽ từ chối vì họ không hề tham gia các cuộc thảo luận. Triển vọng không mấy lạc quan này về bộ quy tắc ứng xử càng trở nên mờ mịt hơn khi chiếc ghế Chủ tịch ASEAN lại đổi chủ. Tiến bộ hạn chế vừa đạt được trong hai năm qua là kết quả của việc Việt Nam và Indonesia tích cực thúc đẩy các nỗ lực khi đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2010 và 2011. Nhưng động lực ngoại giao này ít khả năng tồn tại trong bốn năm tới. Campuchia đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN trong năm 2012. Chính phủ của ông Hun Sen có quan hệ mật thiết về kinh tế và chính trị với Trung Quốc và sẽ không muốn làm tổn hại đến các quan hệ này chỉ vì Trường Sa. Phnom Penh cũng có quan hệ mật thiết với Hà Nội, nhưng ít khả năng ho sẽ tích cực thúc đẩy bộ quy tắc ứng xử trong thời gian giữ chức Chủ tịch. Đến năm 2013, Brunei đảm nhận cương vị luân phiên này. Dù Brunei cũng là một nước có đòi hỏi chủ quyền, họ lại chưa bao giờ có sáng kiến lớn nào về biển Đông. Myanmar và Lào sẽ đảm nhận chức Chủ tịch vào năm 2014 và 2015. Cũng như Campuchia, cả hai nước này đều rất thân với Trung Quốc và sẽ không coi biển Đông là một ưu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Kết luận Các lợi ích của Trung Quốc tại biển Đông sẽ mở rộng trong các thập kỷ tới khi chủ nghĩa dân tộc gia tăng, cơn khát tài nguyên của nước này ngày càng lớn và an ninh tại các hải trình trở nên ngày càng quan trọng. Chính sách của Trung Quốc sẽ vẫn nhất quán, cả về nội dung và cách thức tiến hành. Trung Quốc sẽ không nhượng bộ các yêu sách chủ quyền của mình. Họ sẽ tiếp tục nhấn mạnh chủ nghĩa song phương, dù các cuộc đàm phán nghiêm trúc ít khả năng xảy ra. Họ sẽ bác bỏ một bên thứ ba hay trọng tài pháp lý, và sẽ ngày càng sử dụng các tài sản trên biển của mình để khẳng định các đòi hỏi lãnh thổ và tài phán của mình, đồng thời gửi tới các nước Đông Nam Á thông điệp về mối nguy hiểm nếu dám thách thức. Nhưng Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp vì làm như vậy sẽ gây tổn hại lớn đến hình ảnh quốc tế cũng như ngoại giao khu vực của họ, và những cái giá này sẽ là quá lớn so với những gì thu được. Các nỗ lực của Trung Quốc nhằm mở rộng kiểm soát trên thực tế tại biển Đông vì vậy sẽ tăng mạnh. Sự nguyên trạng nhiều khả năng sẽ vẫn được bảo toàn trong tương lai gần, và vì vậy, căng thẳng sẽ tiếp tục lúc lên lúc xuống như thủy triều./. Châu Giang dịch từ CNAS
  21. Kinh tế Mỹ sẽ ra sao nếu châu Âu suy thoái? (Dân trí) - Với việc kinh tế khu vực EU giảm phát 0,3% trong quý 4/2011, nguy cơ về một cuộc suy thoái đang ngày một hiển hiện. Nếu điều này xảy ra kinh tế Mỹ sẽ khó tránh khỏi những tác động bất lợi. Thông thường, kinh tế một quốc gia sẽ bị coi là suy thoái nếu GDP sụt giảm từ 2 quý liên tiếp trở lên. Và những ngày đầu năm 2012 này, khu vực châu Âu đã “tụt một chân” xuống khu vực này khi số liệu GDP quý 4/2011 cho thấy đã có sự sụt giảm 0,3%. Ủy ban châu Âu cũng nhận định kinh tế 17 quốc gia khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ phải hứng chịu một đợt “suy thoái nhẹ” do tác động của các biện pháp thắt lưng buộc bụng, khủng hoảng nợ công, thị trường tài chính u ám và tình hình kinh tế toàn cầu chưa khởi sắc. Kim ngạch thương mại của Mỹ với các nước Kinh tế châu Âu gặp khó, nước Mỹ chắc chắn có lí do để lo lắng. Kể từ năm 2010 đến nay thị trường chứng khoán Mỹ luôn gặp bất lợi mỗi khi có tin xấu về khủng nợ châu Âu đơn giản bởi các ngân hàng Mỹ đều có sự gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính khu vực này. Một khi EU rơi vào suy thoái các nhà đầu tư trái phiếu sẽ lo lắng về khả năng trả nợ của các chính phủ châu Âu. Sự lo lắng này có thể khiến các nhà đầu tư bán tháo trái phiếu các chính phủ châu Âu và khiến cho cuộc khủng hoảng hiện tại thêm trầm trọng. Theo số liệu của EU, trong năm 2010, khu vực này tiêu thụ đến 22% sản lượng xuất khẩu và đóng góp khoảng 2,7% GDP của Mỹ. Đồng thời EU và Mỹ cũng là những nhà đầu tư lớn của nhau. Trong năm 2007, FDI của Mỹ vào lục địa già này đã lên tới 1400 tỷ USD. Ở chiều ngược lại Mỹ tiếp nhận tới 1300 tỷ USD FDI từ châu Âu. Năm 2008, theo số liệu của Bộ thương mại Mỹ, các công ty nước này với cổ đông chính là các nhà đầu tư châu Âu có doanh thu lên tới 1700 tỷ USD và tạo ra khoảng 3,5 triệu việc làm. Và trong nền kinh tế toàn cầu có sự gắn kết chặt chẽ như hiện nay, tác động của suy thoái khu vực châu Âu không chỉ dừng lại ở mối quan hệ 2 bờ Đại Tây Dương. Theo CIA World Factbook, EU hiện là nền kinh tế lớn nhất thế giới, nhà xuất khẩu lớn thứ hai và cũng là nhà nhập khẩu lớn thứ hai. Còn theo số liệu của Ủy ban châu Âu (EC), các quốc gia khu vực này là những nhà đầu tư lớn nhất và là địa điểm thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất toàn cầu. Kim ngạch thương mại của EU với Mỹ Trong một cuộc phỏng vấn với trang tin tài chính Caixin Online, tỷ phúGeorge Soros từng chỉ ra rằng trong quý 1/2011, các ngân hàng châu Âu đã cho các quốc gia đang phát triển vay khoảng 3700 tỷ USD, vượt xa mức giải ngân của các ngân hàng Mỹ (1500 tỷ USD) và Nhật Bản (700 tỷ USD). Bởi vậy nếu các ngân hàng châu Âu bị tác động bởi suy thoái, nguồn vốn dành cho các nước đang phát triển, vốn luôn có ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng kinh tế toàn cầu những năm gần đây, sẽ bị cắt giảm. Để đương đầu với viễn cảnh suy thoái và cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay, NHTW châu Âu (ECB) có thể đưa ra thêm nhiều chính sách kích thích tài khóa. Nếu điều này xảy ra, giá trị đồng euro so với USD sẽ sụt giảm, khiến hàng hóa xuất khẩu của châu Âu sẽ rẻ hơn hàng hóa của Mỹ. Lợi thế này cộng với chi phí vốn rẻ mới đây đã giúp các doanh nghiệp của Đức hưởng lợi. Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của quốc gia này đã vượt Mỹ. Và nếu EU còn tiếp tục sử dụng chính sách đồng euro yếu để vượt qua khủng hoảng, chắc chắn kinh tế Mỹ sẽ chịu thiệt hại, nhất là hoạt động xuất khẩu. Thanh Tùng Theo IBT
  22. Tôi chưa được đọc các công trình nghiên cứu của bác Lãn Miên về ngôn ngữ học nên chưa dám bàn. Tuy nhiên, các điển cố kinh điển xưa nay, thiết nghĩ nên sử dụng theo nghĩa thông thường. Với những kiến thức tôi được đọc trong cuốn "Điển cố văn học", xuất bản cách đây cỡ 50 năm (hiện ở nhà vẫn còn, tôi không nhớ rõ nhóm tác giả, nhà xuất bản, năm xuất bản) thì tôi được biết: - Quỷ Cốc tử Vương Hủ tương truyền có rất nhiều học trò, nhưng trong đó có 2 cặp nổi tiếng là Tô Tần - Trương Nghi và Bàng Quyên - Tôn Tẫn; - Thành ngữ "ba tấc lưỡi" gắn với Tô Tần chứ không phải Trương Nghi. Tô Tần ngoài tích này còn tích nữa gắn với thành ngữ "chị dâu Tô Tần". Tương truyền, thuở hàn vi thuyết khách cơ cực, Tô Tần bị chị dâu rất coi thường và nói lời xúc phạm. Khi du thuyết thành công, làm thừa tướng 6 nước, về nhà thì chị dâu mang nước lên mời. Tô Tần đổ bát nước ra nhà rồi nói nếu gom lại đầy thì có thể bỏ qua chuyện xưa được. Nếu bàn về các nhân vật này, có thể thấy trong mỗi cặp, Tô Tần và Bàng Quyên là những người xây, Trương Nghi và Tôn Tẫn là những người phá. Thói đời phá bao giờ cũng dễ hơn xây nên bàn chuyện hơn thua cũng khó. Với lại, mối liên kết bằng ba tấc lưỡi mà tồn tại được 25 năm thì thiết nghĩ cũng nên sụp đổ để dựng nên một cục diện mới cho vui!
  23. Em tưởng thành ngữ "3 tấc lưỡi Tô Tần" gắn với việc Tô Tần du thuyết 6 nước chư hầu liên kết theo thuyết "hợp tung" chống Tần và được làm tướng quốc của cả 6 nước chứ nhỉ? Người này còn có 1 tích nữa là "chị dâu Tô Tần" với việc đổ bát nước ra bắt chị dâu gom lại cho đầy! Tích hỏi còn lưỡi không chính là của Trương Nghi chứ không phải Tô Tần. Sau này, chính Trương Nghi dùng thuyết "hợp tung" phá thuyết "liên hoành", khiến nước Tần chinh phục được cả 6 nước.
  24. 5 tiên đoán của Alan Phan về kinh tế Việt Nếu sống thực trong một xã hội đụng chạm với thực tế hàng ngày, như các doanh nghiệp tư nhân nhỏ vừa hay các nhân viên sống nhờ đồng lương, họ sẽ nhận ra vài điều đáng buồn. Như thông lệ mỗi đầu năm, chúng ta đã được đọc rất nhiều bài viết về những dự đoán cho nền kinh tế Việt Nam trong 2012. Từ các chuyên gia có giấy phép và ăn lương chính phủ (trực tiếp hay gián tiếp) đến những định chế tài chính nước ngoài có họat động tại Việt Nam, tất cả đều đưa ra những chỉ số hay bối cảnh tương đối giống nhau. Hai lý do chính: một là mọi người đều dựa vào các số liệu thống kê cung cấp bởi chính phủ và vì tương lai làm ăn của họ cũng tùy thuộc vào chính phủ. Kết quả của các tiên đoán trong quá khứ Hôm nọ, có chút thì giờ rảnh rỗi, tôi hỏi anh sinh viên trợ lý, lục soát lại các dự đoán kinh tế về Việt Nam trong 5 năm vừa qua, nhất là vào thời điểm Quý 1. Tôi nhờ anh chia ra 3 kết quả: các dự đoán đúng trên dưới 10%, trên dưới 50% và sai bét. Tỷ lệ cho thấy số sai bét chiếm 46% và số sai trên dưới 50% là 39%. Con số đúng chỉ được 15%. Tuy nhiên, thầy bói vẫn là một nghề đông khách dù có nói trúng hay trật. Và ít người biết được một xảo thuật kiếm tiền của nghề thầy bói là phải "coi mặt mà bắt hình dong". Tiên đoán một tương lai sáng ngời cho mọi ông bà chi tiền sộp là có kỹ năng tiếp thị cao. Tôi thường không tham dự vào các cuộc tiên đoán hàng năm. Dựa trên thống kê (phải trừ bớt những thổi phồng) hay các trải nghiệm quá khứ (con người luôn luôn tái diễn lịch sử qua các hành động ngu xuẩn về lâu dài) và dựa trên trực giác (rất giống các bà có chồng ngoại tình), tôi hay đưa ra những khuynh hướng (trend) của nền kinh tế vĩ mô hơn là những dự đoán ngắn hạn và không ổn định. Tuy nhiên, hôm nay, nghe lời khích bác của vài anh bạn, tôi thử dùng 3 nguyên tắc nói trên coi các tiên đoán của mình có chính xác hơn không. Nó cũng sẽ định hướng tương lai nghề làm thầy bói của tôi. Trong các dự đoán thịnh hành, tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt 6% trong 2012, lạm phát xuống còn 9%, tỷ giá đứng yên, cán cân mậu dịch cải thiện 23%, dự trữ ngoại hối tăng 18% v.v... Tóm lại, một nền kinh tế vĩ mô khá ổn định và ấn tượng so với sự suy thoái chậm chạp của toàn cầu. Những thực tế Tuy nhiên, nếu các vị quan và các chuyên gia này sống thực trong một xã hội đụng chạm với thực tế hàng ngày, như các doanh nghiệp tư nhân nhỏ vừa hay các nhân viên sống nhờ đồng lương, họ sẽ nhận ra vài điều đáng buồn. Chẳng hạn, nhập siêu giảm mạnh không phải vì xuất khầu tăng vượt tốc, mà vì nhu cầu tiêu dùng cũng như các hoạt động sản xuất đã ngừng trệ. Đây cũng là lý do tỷ giá USD đã không tăng như dự đoán vì người dân đã hết tiền để trữ đô la hay xài hàng nhập khẩu. Khi nền kinh tế suy thoái trầm trọng, lượng cầu tiêu dùng giảm mạnh và lạm phát cũng như lãi suất sẽ giảm theo. Đây không phải là những dấu hiệu tích cực để lạc quan. Từ góc nhìn này, tôi sẽ đánh liều và tiên đoán các sự kiện nổi bật sau đây của 2012 và vài năm tới: 1. Nhà nước sẽ can thiệp mạnh hơn vào vận hành kinh tế: Thay vì tiến về nền kinh tế thị trường và để mặc cho mọi thành phần tự điều chỉnh theo khả năng, chính phủ sẽ sử dụng mọi biện pháp hành chính để lèo lái con tàu kinh tế như việc ra quyết nghị cứu thị trường chứng khoán bằng "tái cấu trúc" toàn diện cơ chế. Việc đổ tiền để vực dậy giá trị bất động sản đang được nghiên cứu, cũng như phương thức thu góp hết vàng trong dân để chuyền thành ngoại hối hay tiền đồng. Để tránh những bất ổn xã hội, khuynh hướng kiểm soát giá cả sẽ gia tăng và xăng dầu cũng như điện nước sẽ được tiếp tục hỗ trợ (subsidy). Ngân sách nhà nước sẽ tăng thay vì giảm, nợ công tiếp tục tăng vì đầu tư công vào các dự án khủng hay cơ sở hạ tầng cần được duy trì để tạo bộ mặt bền vững. Đây cũng là tin khá tốt cho nền kinh tế dựa vào chi tiêu công và quan hệ thân hữu. Doanh nghiệp nhà nước sẽ dồi dào nguồn vốn và tha hồ lợi dụng lợi thế của mình. Doanh nhiệp tư nhân làm ăn nhiều với chính phủ có thể hưởng tăng trưởng tốt trong những năm suy thoái tới. 2. Vàng và dầu sẽ gây lao đao cho tỷ giá và lạm phát Tuy nhiên, các động thái can thiệp nói trên sẽ không có ảnh hưởng lâu dài vì hai yếu tố toàn cầu: giá vàng và dầu hỏa. Việc in tiền của Ngân hàng Trung ương Âu châu (ECB) để cứu các ngân hàng lớn trong khối Euro và gói kích cầu số 3 (QE 3) của Cơ quan Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục đẩy giá vàng và dầu hỏa lên và giá trị các bản vị USD hay Euro sẽ từ từ hạ giá, dù suy thoái toàn cầu sẽ làm quá trình này chậm lại. Một biến cố lớn ở Trung Đông hay Trung Quốc sẽ thay đổi hoàn toàn mọi dự đoán. Tương tự, nền kinh tế suy thoái của Việt Nam sẽ giúp lạm phát và tỷ giá không gia tăng nhiều. Tuy nhiên, khi dòng tiền nhàn rỗi chạy theo cơn sốt vàng và dầu hỏa, các biến động và ảnh hưởng trên mọi hoạt động kinh tế tài chính sẽ khó cân bằng. Những chính sách nghị quyết sẽ bay theo mộng tưởng. Tất cả mọi chỉ tiêu về vĩ mô cũng như cán cân thương mại và các gói kích cầu hỗ trợ ngân hàng, chứng khoán và bất động sản sẽ trở nên bất khả thi và tương lai tùy thuộc vào "may rủi" nhiều hơn là hoạch định. 3.Các phi vụ M&A sẽ gia tăng mạnh Một điều chắc chắn là trong tình trạng bất ổn, lĩnh vực thu tóm và sát nhập công ty sẽ tăng trưởng tốt. Thị trường tài chính thế giới luôn luôn có những dòng tiền mặt khá lớn để mua tài sản bán tháo. Phần lớn các nhà đầu tư nội địa, từng đổ tiền vào chứng khoán và bất động sản các năm trước, sẽ tham gia hăng hái vào cuộc săn đuổi này. Do đó mà tại sao tôi nói là trong 10 năm tới, rất nhiều tài sản sẽ đổi chủ và sẽ có những đại gia mới của Việt Nam lợi dụng cơ hội để kiếm tiền siêu tốc. Và ngược lại, nhiều siêu sao đang cháy sáng lúc này sẽ đi vào quên lãng. Dù họ rất sẵn tiền, nhưng tôi nghĩ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham dự các phi vụ M&A một cách giới hạn. Các rào cản về thủ tục pháp lý, về lối thoát (exit), về quản trị địa phương và về bất ổn vĩ mô vẫn còn nhiều và sự thiếu minh bạch của các đối tác điều hành vẫn gây nhiều lo ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. 4. Hàng Trung Quốc sẽ tràn ngập gây khó khăn cho hàng nội địa Trung Quốc hy vọng sẽ chỉ giảm tăng trưởng GDP xuống 7.5% so với 9.2% năm 2011. Sản xuất công nghiệp sẽ chịu nhiều tác động nhất vì sự đầu tư vào các nhà máy gần đây luôn vượt quá nhu cầu của thế giới, nhất là các hàng tiêu dùng và điện tử. Trong khi đó, với suy thoái tại Âu Châu và Nhật Bản và "dậm chân tại chỗ" của kinh tế Mỹ, những nơi còn lại để Trung Quốc bán tháo hàng rẻ tiền là các quốc gia mới nổi, nhất là các láng giềng. Ba lợi thế cạnh tranh đáng kể của hàng Trung Quốc: (a) tỷ giá RMB dưới giá trị thực khoảng 26% (trong khi VND trên giá trị thực gần 14%) tạo một khác biệt chừng 40% trên giá thành; ( B) hệ thống tiếp liệu các linh kiện và hiệu năng sản xuất cùng công nghệ hiện đại tạo một thành phẩm có giá trị cao; (c ) thị trường nội địa Tàu rộng lớn tạo lợi điểm chuyển giá theo nhu cầu và đặc điểm của thị trường xuất khẩu. Mặc cho khẩu hiệu "người Việt dùng hàng Việt", khách hàng trong thời buổi kiệm ước sẽ lựa chọn túi tiền và các nhà sản xuất Việt có sản phẩm tương tự như Trung Quốc sẽ gặp khốn khó. 5. Thị trường bất động sản có thể thoát hiểm với luật đất đai mới Việc không áp đặt luật về hộ khẩu và những cải tổ sâu rộng về luật bất động sản bên Trung Quốc khiến nhiều đại gia Việt hưng phấn chờ đợi. Tôi nghĩ đây là một cú hích quan trọng có thể gây một cơn sốt mới cho giá trị bất động sản ở Việt Nam vì lý do đơn giản là người có tiền ở Việt Nam không có nhiều lựa chọn về đầu tư. Hai yếu tố quan trọng khác là sự thu hút đầu tư mới của Việt kiều và các quỹ nước ngoài. Thêm vào đó, hiện các nhóm lợi ích trong ngân hàng, quỹ đầu tư, tập đoàn kinh tế, tổng công ty... đang nắm giữ một số lượng tài sản rất lớn liên quan đến địa ốc. Việc tăng giá trị bất động sản xuyên qua việc thay đổi luật nhà đất là một việc mọi người mọi nhóm đều nhất trí đoàn kết để đạt mục tiêu. Chuyện oái oăm là nếu không nhờ cái luật nhà đất bất công ngày xưa, các nhóm này đã không giàu và quyền lực như ngày nay. Dù sao, qua sông rồi thì phải đắm đò, Tôn Tử dạy thế. Tuy nhiên theo nhận xét cá nhân về quy trình để thay đổi luật lệ tại Việt Nam, tôi thấy thủ tục cũng nhiêu khê và đòi hỏi rất nhiều quyết đoán từ các cấp lãnh đạo. Tôi không lạc quan như các đại gia bất động sản, nhưng dù là cơ hội thay đổi có ít hơn 50%, đây cũng có thể là một cú ngoặt đáng kể trong sự phát triển kinh tế. Tóm lại, đó là 5 sự kiện tôi cho là sẽ đánh dấu ấn trên nền kinh tế tài chính của Việt nam trong 2012. T/S Alan Phan Thùy link: http://vietnamnet.vn...nh-te-viet.html
  25. Tôi là dân amateur, chỉ hiểu nôm na phong thủy là gió - nước. Một ngôi nhà có phong thủy tốt nghĩa là có 2 yếu tố này tốt. Tôi cũng có nghe láng máng nước ngầm là 1 yếu tố rất quan trọng trong phong thủy. Vì là dân amateur, tôi xin hỏi 2 câu về nước ngầm: - Khi xem phong thủy, làm cách nào nhận biết được nước ngầm và ảnh hưởng của nó? - Hệ thống nước sinh hoạt trong nhà, bồn tắm, chậu cảnh có được coi là nước ngầm không? Bể nước, bồn inox trên sân thượng, có phải là nước ngầm không và nó ảnh hưởng như thế nào đến phong thủy?