dieutam333

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    5
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

2 Neutral

About dieutam333

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday 01/02/1991
  1. Làm thế nào để loại bỏ được nguyên nhân gây ra khổ đau? Khi chúng ta nói về khổ đau, đa phần người ta rất dễ đồng ý, nhưng khi nói đến nguyên nhân của đau khổ, ngay cả người Phật tử đôi khi cũng khó có được sự nhất quán cái gì là nguyên nhân của đau khổ. Đức Phật nói cuộc đời là bể khổ theo cái vòng lẫn quẫn của nhân quả thiện ác, tốt xấu đan xen chằng chịt, cho nên nước mắt chúng sinh do khổ đau đem tích chứa lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển. Cái khổ là một sự thực hiển nhiên, đã làm người thì ai cũng phải chịu đau khổ ít hay nhiều. Dầu giàu nghèo sang hèn ai cũng có cái khổ riêng của mình nhưng người đời ít ai dám nhìn nhận vào bản chất thật của nó. Trong Tứ diệu đế, Tập đế theo nghĩa dịch tiếng Anh có nghĩa là «nguồn gốc về sự phụ thuộc lẫn nhau», hay «nguyên nhân, cội nguồn của mọi sự tướng, hiện tượng». Theo tiếng Hán Việt, “Tập” là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên, “Đế” là sự thật vững chắc, đúng đắn hơn cả. Tập đế là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời, lâu kiếp trong mỗi chúng sinh. Đó là sự thật về cội gốc của sinh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian. Chân lý về nguồn gốc bao trùm vạn pháp chỉ ra rằng nguyên nhân gốc rễ của khổ đau chính là nghiệp và xúc tình phiền não (trong tiếng Phạn là kleshas). “Nghiệp” trong tiếng Phạn là Karma, có nghĩa là “hành động” và “klesha” trong tiếng Phạn có nghĩa là “sự nhiễm ô trong tâm” hay “thuốc độc trong tâm”. Nếu chúng ta không hiểu giáo pháp của Đức Phật, chúng ta sẽ quy kết rằng hạnh phúc và khổ đau đều do các nguyên nhân bên ngoài gây ra. Chúng ta cũng có thể cho rằng hạnh phúc và khổ đau đến từ môi trường, từ chúa Trời hay từ những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Nếu tin như vậy, thì thật khó, thậm chí là sẽ không thể đoạn diệt được khổ đau và nhân của khổ đau. Làm thế nào để loại bỏ được nguyên nhân gây ra khổ đau? Mặt khác, khi nhận ra rằng những trải nghiệm khổ đau là sản phẩm của những gì chúng ta đã tạo tác, hay chính là kết của của hành động chúng ta đã làm, thì chúng ta mới có thể đoạn diệt được khổ đau. Khi nhận biết được về cách thức khổ đau đang diễn ra, dần dần chúng ta có thể loại bỏ những nguyên nhân gây ra đau khổ. Trước tiên, chúng ta cần nhận ra rằng những gì mình đang trải nghiệm không phụ thuộc vào các thế lực bên ngoài, mà vào chính những gì mình đã làm từ trước. Đó chính là hiểu biết về Nghiệp. Nghiệp tạo ra đau khổ và bị dẫn dắt bởi các xúc tình phiền não. Thuật ngữ “nhiễm ô” đề cập chủ yếu đến những động cơ và suy nghĩ tiêu cực, từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực. 3 phiền não căn bản Phiền não nhiễm ô có rất nhiều, nói rộng thì đến tám mươi bốn ngàn (84.000), nói hẹp lại thì có ba phiền não căn bản hay còn gọi là tam độc: 1. Tham Tham là sự ham muốn hướng tới một đối tượng. Đối tượng này Đạo Phật gọi là 5 loại dục lạc gồm tiền tài, sắc đẹp, công danh, hưởng thụ, ăn uống, ngủ nghỉ. Mọi người đều cho rằng hưởng thụ 5 loại dục lạc này là nhu cầu của đời sống và điều kiện mang lại hạnh phúc. Tùy nhân duyên phúc báo mà mỗi cá nhân sẽ hưởng thụ các loại dục lạc này ở các điều kiện mức độ khác nhau, như nghèo nàn hay sung túc. Tham được ví như người khát uống nước biển càng uống càng không thỏa mãn cơn khát của mình. Niềm vui và hạnh phúc do các dục lạc mang lại không bền vững lâu dài, nó ngắn ngủi, tạm bợ, nhưng tác hại to lớn là khiến cho con người say mê đắm đuối, chìm đắm trong nó, quay cuồng trong nó dẫn đến nhiều hệ lụy và phiền não khổ đau. 2. Sân [ tham khảo văn hóa phẩm Phật giáo phật linh tại ''Phật Linh'' ; Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại nguyện, thì sân giận nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Sân giận liên quan đến bám chấp, là phản ứng của bám chấp khi không có được điều nó muốn. Vì sân giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì sân giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì sân giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai", nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. 3. Si Si không phải là thiếu kiến thức học vấn bằng cấp mà là sự mê muội, mê lầm thiếu trí tuệ không nhận ra tự tính thanh tịnh,không hiểu biết về chân lý tuyệt đối của cuộc sống và hiểu lầm về đối tượng hạnh phúc nằm ở các dục lạc bên ngoài.. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã kìm hãm được một phần nào tính tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì", nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nhân quả báo ứng theo ta như bóng với hình, nổi khổ niềm đau sẽ theo ta từ đời này cho đến kiếp khác không có ngày thôi dứt, chính vì sự sống của mình mà chúng ta phải giết hại các loài vật. Cho nên có cuộc sống là có khổ đau, thái tử khi còn nhỏ đã thấy rõ ràng tất cả các loài có tình thức đều phải chịu như thế. [ tham khảo văn hóa phẩm Phật giáo phật linh tại https://phatlinh.vn/ Chúc các bạn luôn an lạc.
  2. Với ba hệ thống ngôn ngữ lớn của Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Tạng truyền có những đặc sắc dưới đây: 1, Truyền thừa Phật pháp hoàn bị: Phật giáo Tạng truyền lấy Phật giáo Đại thừa làm chủ, nhưng đồng thời cũng dung nạp Phật giáo, Tiểu thừa. Kinh luận Đại thừa chủ yếu như A Tỳ Đạt Ma câu xá luận được lưu truyền rộng rãi ở Tây Tạng và được tôn là một trong bộ đại luận tất yếu phải học. Mật tục Kim Cương thừa trong Phật giáo Tạng truyền cũng được phát triển mạnh mẽ, 4 bộ Mật tục, đặc biệt là Vô thượng Mật tục rất được coi trọng trong Phật giáo Tạng truyền, nhưng trước tác có liên quan đến chú thích cho Mật tục của các cao tăng Ấn Độ cực kỳ phong phú. Giáo pháp của Tiểu thừa, Đại thừa, Hiển giáo và Kim Cương thừa tưởng như mâu thuẫn, xung khắc như nước với lửa, trong Phật giáo Tây Tạng lại cấu thành cục diện hỗ trợ lẫn nhau, dung hòa vào nhau, đây là kết quả của việc Phật giáo Tạng truyền nắm bắt được đầu mối chính của Phật giáo, nhận thức toàn cục một cách cao độ. Không những thế, Phật giáo Tạng truyền thậm chí còn tuyển thừa các loại học vấn thế gian, ví dụ như nhân minh logic học, y dược học, từ tảo thi học (thơ ca có ngôn ngữ trau chuốt), kiến trúc, hội họa... 2. Hệ thống lý luận hoàn bị: Phật giáo tuy giáo phái đông đảo nhưng hệ thống lý luận căn cứ chủ yếu chỉ có 4 nhà: Hữu bộ, Kinh bộ, Duy thức và Trung quán. Lý luận của 4 nhà này trong Phật giáo Tạng truyển đều thuộc lý luận tất yếu phải học, trong lịch sử cũng có rất nhiều cao tăng có trước tác về phương diện này, ví dụ như Tông nghĩa bảo man luận của đại Da Mộc Dạng (Jamyang). Lý luận Kim Cương thừa tới thời đại Tông Khách Ba phát triển đến đỉnh cao. Các bộ Mật tục đặc biệt là lý luận của Vô thượng Mật tục đều đạt đến sự hoàn thiện. 3. Tính thực tiễn mạnh mẽ: Chính pháp của Phật Đà chủ yếu phân thành hai phần, tức là Phật pháp của hệ thống lý luận và chứng pháp thực tiễn. Đạo thứ đệ của Phật giáo Tạng truyền đem 13 bộ Tam tạng quy nạp vào một pháp môn tu trì chúng sinh thành Phật và sắp xếp theo thứ tự tu trì từ thấp lên cao, khiến cho bất kỳ người nào muốn tu trì cũng có thể dựa theo đạo thứ đệ từng bước tu trì, từ đó có thể vững vàng tu thành Phật quả. tranh Mandala là gì
  3. Phật giáo Tạng Truyền và Tạng Mật có phải là một hay không? Phật giáo Tạng truyền và Tạng mật hoàn toàn không phải là một. Phật giáo Tạng truyền là chỉ một tông phái Phật giáo lưu truyền ở các vùng đất Tây Tạng, Thanh Hải, nội Mông Cổ, Tứ Xuyên, Cam Túc, Vân Nam Trung Quốc, Mông Cổ, Nepan và Butan. Nội dung của nó bao hàm các loại giáo pháp Tiểu thừa, Đại thừa, Hiển giáo và Kim Cương thừa. Từ nội dung giáo nghĩa, Phật giáo Tạng truyền là toàn diện nhất trong Phật giáo với ba hệ thống ngôn ngữ lớn (hệ tống tiếng Bali, hệ thống tiếng Hán và hệ thống tiếng Tạng), hai hệ thống sau đều thuộc Phật giáo Đại thừa. Từ quan điểm trên để nói, Phật giáo Tạng truyền có triết học của Hữu bộ, Kinh bộ trong Tiểu thừa, có triết học của Duy thức, Trung quán trong Đại thừa. Từ trên phương pháp tu hành để nói, Phật giáo Tạng truyền có phương pháp tu trì của Hiển giáo, cũng có phương pháp tu trì của Mật giáo. Còn Tạng mật là chỉ riêng Mật tông của Phật giáo Tạng truyền, không thể coi Phật giáo Tạng truyền và Mật tông là một. --------------------------------------------------------- Pháp khí Mật Tông
  4. THẦN CHÚ GIẢI THOÁT QUA SỰ NHÌN NGẮM Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, Chư Phật và Bồ Tát đã tạo ra những phương tiện thật thiện xảo để cứu vớt chúng sinh. Xin giới thiệu một phương pháp thanh tịnh nghiệp chướng thông qua sự thấy cho những người hữu duyên. Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ (Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ. Xin giới thiệu “Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy” (Liberation Upon Seeing). Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một terma (kho tàng giáo pháp do đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Dakas) và Không Hành Nữ (Dakinis). Terma này được phát hiện bởi Terton Mingyur Dorje ở thế kỷ 17. Terton Mingyur Dorje (1645-1667) được xem là vị guru thứ 27, dòng Giác Ngộ Hoàn Hảo (Perfect Enlightenment Sect) của trường phái Nyingma. Những người may mắn được thấy hình này sẽ không kinh nghiệm qua ba cõi thấp và sẽ được giải phóng khỏi nỗi sợ rơi vào các cõi thấp; sẽ được thanh lọc năm độc (tham, sân, si, kiêu mạn và đố kị) và giải thoát khỏi nghiệp chướng; được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của phần còn lại trong luân hồi. ( "Those who see this script will not experience the three lower realms and will be liberated from the fear of falling into the lower realms; will be purified of the five poisons and will be freed from the results of one's karma; will be freed from the fear of remaining in samsara.") Trích từ Terma của TERTON Migyur Dorje.
  5. Thầy cho con hỏi. Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy? (câu hỏi của người học đạo Pháp sư, nhưng lấy ví dụ từ điển tích đạo Phật cho dễ hiểu) ~Cũng tùy, lấy không có nghĩa là xấu mà không lấy chưa chắc là tốt, ở Tây Tạng, khi đến cầu pháp 1 vị Đạo sư, người học trò phải mang một chút lễ vật tùy theo khả năng nhưng phải thành thật hết lòng để cầu, không có sẽ không đúng quy tắc, có khi còn không được dạy nữa đó. Vì Pháp truyền phải đúng người, nhưng cũng không thể tùy tiện trao truyền, nếu không người cầu pháp sẽ không thành tâm, không thành tâm thì dù có nhận pháp tu hành cũng không dc hộ pháp gia hộ và thành tựu. Bằng chứng là tổ Milarepa cầu pháp ngài Marpa, mẹ ngài đã phải bán mảnh đất khô cằn duy nhất của gia đình đổi lấy 1 con ngựa, 1 miếng Ngọc và ít đồng vàng cho ngài mang đi, tổ Milarepa đã dâng cúng toàn bộ cho tổ Marpa mong được học đạo. Về quy tắc thì người học trò phải tự giác điều này, người thầy chỉ nhận và xem đệ tử có thành tâm để dc mình truyền dạy hay không. Thầy xưa học phải tốn mấy cây vàng và vài bao gạo để xin học, Thầy nay giản tiện 1 mâm trái cây và một bao lì xì có con số 36. Dù xưa hay nay, hoặc trải qua nghìn đời sau, quy củ này vẫn luôn tồn tại không thay đổi. Huyền Tráng Pháp Sư (tôi đọc đúng tên Huyền Tráng chứ không phải Trang) thỉnh kinh, còn phải lấy Kim Bát ra đổi, đó không phải là hối lộ, mà là quy tắc cái Tâm phải đi chung cái Lễ, bằng không pháp truyền ra một cách bừa bãi thiên hạ sẽ không quý trọng. Thêm một minh chứng nữa là Tăng Huệ Khả cầu pháp với Đạt Ma Tổ Sư quỳ dưới tuyết 3 ngày 3 đêm, sau Tổ hỏi ông lấy cái gì chứng minh tấm lòng của mình, Huệ Khả liền chặt đứt cánh tay dâng Tổ, Tổ liền bằng lòng truyền Y Bát. Cho nên người học Đạo chưa từng trải qua đau khổ, nước mắt và máu rơi thì không thể nào quý trọng Đạo Pháp. Pháp Thiện